Khóa luận Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất Linh

pdf 48 trang thiennha21 16/04/2022 5690
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất Linh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_thoi_gian_va_khong_gian_nghe_thuat_trong_tieu_thuy.pdf

Nội dung text: Khóa luận Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất Linh

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ĐỖ THỊ QUỲNH NGA THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT LẠNH LÙNG CỦA NHẤT LINH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI, 2018
  2. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ĐỖ THỊ QUỲNH NGA THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT LẠNH LÙNG CỦA NHẤT LINH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. THÀNH DỨC BẢO THẮNG HÀ NỘI, 2018
  3. LỜI CẢM ƠN Trước hết tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành nhất tới TS. GVC Thành Đức Bảo Thắng. Thầy đã tận tâm chỉ bảo, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất về mọi mặt để tôi hoàn thiện khóa luận này. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các Thầy (Cô) trong tổ Văn học Việt Nam đã tận tâm dạy bảo và tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận. Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn khích lệ, cổ vũ, trợ giúp tôi trong thời gian qua. Hà Nội, ngày 17 tháng 5 năm 2018 Tác giả khóa luận Đỗ Thị Quỳnh Nga
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, có tham khảo tài liệu, trang web, ấn phẩm có liên quan đến nội dung nghiên cứu từ những người đi trước dưới sự hướng dẫn tỉ mỉ, cẩn trọng của TS. GVC Thành Đức Bảo Thắng. Hà Nội, ngày 17 tháng 5 năm 2018 Tác giả khóa luận Đỗ Thị Quỳnh Nga
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 2 3. Mục đích nghiên cứu 6 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 6 5. Phương pháp nghiên cứu 6 6. Đóng góp của khóa luận 6 7. Cấu trúc khóa luận 7 NỘI DUNG 8 Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT CHUNG 8 1.1. Tác giả Nhất Linh 8 1.1.1. Thân thế 8 1.1.2. Cuộc đời 9 1.2. Vị trí của tiểu thuyết Lạnh lùng trong sự nghiệp sáng tác của Nhất Linh11 1.3. Thời gian nghệ thuật 13 1.3.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật 13 1.3.2. Các dạng thức của thời gian nghệ thuật 14 1.4. Không gian nghệ thuật 17 1.4.1. Khái niệm không gian nghệ thuật 17 1.4.2. Các dạng thức của không gian nghệ thuật 18 * Tiểu kết 22 Chƣơng 2. BIỂU HIỆN CỦA THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT LẠNH LÙNG 23 2.1. Biểu hiện thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lạnh lùng 23 2.1.1. Thời gian hiện thực 23 2.1.2. Thời gian tâm lí 29
  6. 2.2. Biểu hiện không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lạnh lùng 31 2.2.1. Không gian thiên nhiên 31 2.1.2. Không gian tâm lí 35 KẾT LUẬN 39 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Những năm ba mươi của thế kỉ XX, bạn đọc Việt Nam biết tới cái tên Tự lực văn đoàn - một nhóm văn chương tiến bộ. Văn chương của họ đã thể hiện tư tưởng mới mẻ, dám nghĩ, dám làm mà không phải thời đại hay nhà văn nào cũng có thể làm được. Điểm mấu chốt trong văn chương của họ là phản đối những định kiến lạc hậu của Nho giáo, đòi quyền lợi cho tự do, khát vọng và hạnh phúc của cái tôi cá nhân Tự lực văn đoàn ra đời đã tìm được những cây bút thực sự tài năng gồm có tám người, được gọi là “bát tú” - tám ngôi sao: Nhất Linh - tinh tế, mực thước; Hoàng Đạo - mưu lược linh hồn; Thạch Lam - tài hoa, gần gũi, bình dân; Khái Hưng - cậu ấm làm văn chương; Thế Lữ “đa sự”; Tú Mỡ - cười nửa miệng; Trần Tiêu - thuần hậu nét quê và Xuân Diệu - sao hôm, sao mai. Trong đó Nhất Linh được coi là cha đẻ sản sinh ra nhóm Tự lực văn đoàn, có công đưa văn xuôi Việt Nam chuyển mình sang giai đoạn mới- văn học hiện đại. Những tác phẩm của Tự lực văn đoàn đã trải qua những biến động mạnh mẽ của thời gian nhưng vẫn “lóng lánh như những hạt ngọc” trên diễn đàn văn học Việt Nam. Trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã có những định hướng đổi mới tiến bộ phù hợp với tư tưởng văn học và văn hóa. Tiểu thuyết ra đời nhằm mục đích truyền bá tư tưởng chống đối nho phong hủ bại mà trực tiếp là chống lại chế độ Nho giáo của Khổng Tử đã thống trị suốt hàng ngàn năm qua. Đặc biệt trong sáng tác của Nhất Linh, cùng với Đoạn tuyệt, Lạnh lùng là tác phẩm hướng tới tố cáo, phủ định quyết liệt, mạnh mẽ, không khoan nhượng vào khuôn phép, gia phong của Nho giáo. Sự thành công của tác phẩm ở cả giá trị nội dung và hình thức nghệ thuật, với ngòi bút điêu luyện nhằm hướng tới cuộc đời, số phận của người phụ nữ trẻ tuổi. Đi nghiên cứu “Thời gian và thời không nghệ thuật trong tiểu thuyết Lạnh lùng” chính là làm sáng tỏ đóng góp về phương diện nghệ thuật và tài năng của ông. 1
  8. Là sinh viên khoa Ngữ văn - một nhà giáo tương lai, thực hiện đề tài “Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất Linh” có ý nghĩa thực tiễn trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu sau này. Với những lí do như trên, chúng tôi chọn đề tài “Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất Linh”. 2. Lịch sử vấn đề Năm 1935-1936, tiểu thuyết Lạnh lùng ra đời như một luồng gió mới thổi vào nền văn chương thời đó. Vì vậy, Lạnh lùng đã được nhiều nhà nghiên cứu phân tích, mổ xẻ từng khía cạnh. Từ Nam trở ra Bắc, các công trình nghiên cứu đã đưa ra được những quan điểm rất xác đáng, chỉ ra những điểm mới, tiến bộ đúng với nội dung của tác phẩm. Song, bên cạnh đó cũng có nhiều nhà nghiên cứu đã đi sâu, phân tích chỉ ra những điểm hạn chế cần khắc phục góp phần làm hoàn thiện cây bút Nhất Linh. Trước đây, khi đề cập đến vai trò cách tân của Tự lực văn đoàn trong địa hạt tiểu thuyết, một số nhà nghiên cứu thường chỉ đi sâu phân tích khai thác những đóng góp của Tự lực văn đoàn vào hiện đại hóa nền tiểu thuyết Việt Nam chủ yếu ở phương diện ngôn ngữ. Với tiểu thuyết Lạnh lùng, các nhà nghiên cứu đi sâu khai thác trên phương diện tác giả, nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật hoặc hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm chứ chưa nghiên cứu cụ thể về thời gian và không gian nghệ thuật. Ở bài nghiên cứu này, chúng tôi đưa ra đưa ra những đánh giá nổi bật về thời gian và không gian nghệ thật trong tiểu thuyết của Nhất Linh. 2.1. Trƣớc năm 1945 Nhất Linh được nhiều nhà nghiên cứu biết đến với cương vị là một nhà cải cách xã hội theo xu hướng dân chủ tư sản, hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, chính trị, văn học. Tiêu biểu như các bài nghiên cứu Dưới mắt tôi (1939) (Trương Chính), Nhà văn hiện đại, tập 2 (1942) (Vũ Ngọc Phan), Việt Nam văn học sử yếu (1942) (Dương Quảng Hàm) 2
  9. Năm 1939, cuốn sách Dưới mắt tôi ra đời, Trương Chính đã dùng ngòi bút của mình chuyên chú nghiên cứu các tác phẩm mới, tiến bộ, thể hiện cách nhìn mới mẻ của các nhà văn về cuộc đời và con người. Khi bàn về tác phẩm Lạnh lùng ông cho rằng đó là “mũi tên độc thứ hai” mà Nhất Linh bắn vào Khổng giáo vì: “Trong Lạnh lùng, nạn nhân của chế độ cũ đáng thương như Loan, Nhung một người đàn bà trẻ tuổi, góa bụa, nhưng không đi lấy chồng, hay không thể, không dám đi lấy chồng vì Luân lí, vì Đạo đức, vì Danh dự” [2; tr,630]. Hơn nữa, ông cũng khẳng định khi đánh giá về nội dung của tiểu thuyết Lạnh lùng: “Đọc Lạnh lùng, ta cũng thấy cần đạp đổ những chế độ nặng nề, eo hẹp, trong đó Nhung mà có lẽ cả ta nữa đương rãy rụa, đang ngấp ngoải Đến trang cuối cùng, ta có một cảm giác rùng rợn, khủng khiếp. Cảm giác ấy là cảm giác của Nhung khi nàng nghĩ đến tương lai hắc ám, ghê sợ” [2; tr,633]. Những công trình nghiên cứu, đánh giá của Chương Trính trong cuốn Dưới mắt tôi, ông đã tìm hiểu kĩ giá trị hiện thực trong sáng tác của nhà văn Nhất Linh: phê phán sự thối nát của chế độ đại gia đình mục ruỗng. Đồng thời ông còn ghi nhận sự tiến bộ trong sáng tác của Nhất Linh khi phơi bày sự áp bức, bóc lột, giả dối đang ẩn sau những luân lí, danh dự, đạo đức. Trong Nhà văn hiện đại, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đưa đánh giá của riêng mình đã xếp Nhất Linh vào Tiểu thuyết luận đề. Đặc biệt ông chủ yếu nghiên cứu những ảnh hưởng của khuôn phép, lễ giáo hà khắc: “Ông là một tiểu thuyết gia muốn trừ bỏ những cái xấu trong gia đình và trong xã hội, mà bất kì ở giai cấp nào chứ không phải hạng thợ thuyền và dân quê, ông là một nhà văn viết về những phong tục xấu của người Việt Nam và có cái tư tưởng khuyến người ta sửa đổi” [21; tr,300]. Thời kì này giới nghiên cứu đề cao sáng tác của Nhất Linh. Các công trình nghiên cứu, chủ yếu đề cập đến nội dung chống hủ tục lạc hậu, đòi quyền tự do cá nhân. Vì vậy tiểu thuyết của ông được coi là sự tiến bộ của tư tưởng mới, về đổi mới ở ngôn từ, lời văn. 3
  10. 2.2. Sau năm 1945 Có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm hơn tới tiểu thuyết của Nhất Linh. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu: Lược thảo lịch sử của văn học Việt Nam tập 3 (từ giữa thế kỉ XX đến năm 1945, 1957) (Lê Quý Đôn), Bình giảng về Tự lực văn đoàn (1958) (Nguyễn Văn Xung), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên tập 3 (1960) (Phạm Thế Ngũ), Những đóng góp của Tự lực văn đoàn cho văn xuôi Việt Nam hiện đại (1997) (Trịnh Hồ Khoa) đã đánh giá một cách khái quát về những đóng góp mới của tiểu thuyết Nhất Linh cho văn xuôi nước nhà. Tiểu thuyết Lạnh lùng chủ yếu được nhiều nhà nghiên cứu phân tích, đánh giá ở nhiều khía cạnh khác nhau. - Ở miền Nam Trong cuốn Bình giảng về Tự lực văn đoàn, chú ý tới nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nhất Linh, Nguyễn Văn Xung cho rằng: “Nhất Linh không phải tả cảnh như Khái Hưng nhưng là để móc vào đấy những biến đổi uyển chuyển trong tình cảm của nhân vật.” [31; tr,65]. Bên cạnh đó, Phạm Thế Ngũ đã rất chính xác và tinh tế khi khẳng định tài năng miêu tả tâm lí qua nhân vật trung tâm của tác phẩm - Nhung: “tâm lý ái tình được ghi nhận và được diễn đạt một cách khá vi diệu ( ) Người ta thấy ảnh hưởng của Prust và Frend nữa trong cái bút pháp của tác giả mô tả ái tình, dục tình, trỗi dậy trong lòng Nhung” [20; tr,463]. Chú ý khám phá và diễn tả đời sống nội tâm phức tạp của con người trở thành đích vươn tới của nhà văn và đây cũng là bước chuyển đánh dấu sự đổi mới tư duy trong cách viết, cách nhìn về nhân vật. - Ở Miền Bắc Lạnh lùng của Nhất Linh cũng được nhiều nhà nghiên cứu chú ý đến, dường như có sự gặp gỡ khi chú ý tới yếu tố tâm lí nhân vật của cây bút này. Phải kể đến nhận xét xác đáng của nhóm Lê Quý Đôn: “Nhất Linh thành công ở cách bố trí truyện và cách sử dụng cảnh vật xung quanh để làm nổi bật tâm 4
  11. lí nhân vật” [5; tr,331]. Càng về sau, yếu tố này được nhấn mạnh và coi đó là thế mạnh, tạo nên sức hấp dẫn trong ngòi bút Nhất Linh. Trên tinh thần ấy, tác giả của giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại đã khẳng định: “Nhất Linh ngó sâu vào mâu thuẫn trong tâm hồn; tấn bi kịch âm ỉ, đôi lúc bùng ra, luôn luôn có sức hấp dẫn” [22; tr,107]. Điều đó không thể phủ nhận khi một lần nữa, Nhất Linh lại thành công trong tiểu thuyết Bướm trắng khi miêu tả thành công thế giới tâm lí dao động, khó nắm bắt qua nhân vật của mình. Bước vào giai đoạn sau Đại hội VI (1986), trong xu thế đổi mới nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội, một số hiện tượng văn học được nhìn nhận một cách khoa học và toàn diện hơn, trong đó có Nhất Linh. Những công trình nghiên cứu về tiểu thuyết Nhất Linh thời kì này có: Phan Cự Đệ (Tự lực văn đoàn - con người và văn chương), Trương Chính (Vấn đề đánh giá Tự lực văn đoàn), Nguyễn Trác - Đái Xuân Ninh (Về Tự lực văn đoàn), Vũ Gia (Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học) đã chỉ ra những đóng góp tiêu biểu của Nhất Linh trong tư tưởng và nghệ thuật - đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Đồng thời cũng khách quan chỉ ra những hạn chế của ông trong từng chặng đường văn học. Tiêu biểu Vũ Thị Khánh Dần cho rằng “Tiểu thuyết của Nhất Linh còn một số hạn chế mang tính lịch sử, một số nhân vật thiếu sức sống lâu bền, do tính cách chưa sắc cạnh, tâm lý nhân vật còn đơn giản” [3; tr,11]. Hay Dương Thị Hương cũng chỉ ra một số điểm hạn chế trong nghệ thuật xây dựng nhân vật “Nhân vật được miêu tả trong thế giới cô lập, khép kín, vì vậy quá trình tâm lí hoặc các trạng thái tâm lí của nó được nhìn nhận bởi cái nhìn chủ quan của tác giả và nhân vật nhiều hơn bởi sự tác động của hoàn cảnh” [10; tr,14]. Hơn nửa thế kỉ qua, việc đánh giá tiểu thuyết Nhất Linh là một quá trình phức tạp, nhưng ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu mới đi dần đến sự xứng đáng hơn với đóng góp của ông. Đó là cái nhìn nhận đúng những thành 5
  12. công về nghệ thuật tiểu thuyết cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Với tác phẩm Lạnh lùng, Nhất Linh đã rất thành công về nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, nhân vật bộc lộ tâm trạng của mình bằng ngôn từ trong sáng, giản dị, giàu chất thơ. Ở những bài phê bình ở thời kì trước, các nhà nghiên cứu phần nào chỉ ra một số đặc điểm thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nhất Linh. Kế thừa thành tựu nghiên cứu từ thời kì trước, chúng tôi tiếp tục bổ sung, tiếp tục đi sâu nghiên cứu cụ thể vào thời gian và không gian nghệ thuật trong Lạnh lùng. 3. Mục đích nghiên cứu Khóa luận hướng tới tìm hiểu và phân tích “Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất Linh”. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu trong đề tài này là “Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất Linh”. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu “Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất Linh”. Để làm rõ các yếu tố nghệ thuật trên, chúng tôi có tham khảo các tác phẩm khác của ông và một số cây bút cùng thời. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi linh hoạt vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp tiếp cận hệ thống; phương pháp so sánh. Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp như phương pháp khảo sát, phương pháp thống kê. Các thao tác giải thích, chứng minh, bác bỏ, bình luận cũng được sử dụng làm thao tác hỗ trợ. 6. Đóng góp của khóa luận Khóa luận nghiên cứu sâu về thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất Linh. Trên cơ sở đó khẳng định thành tựu và tài năng của Nhất Linh trong nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật. 6
  13. Khóa luận có thể làm nguồn tài liệu hỗ trợ đắc lực cho người nghiên cứu khi tìm hiểu về Nhất Linh. 7. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần Mở đầu; Kết luận; Thư mục và Tài liệu tham khảo; khóa luận gồm có 2 chương: Chương 1: Giới thuyết chung Chương 2: Biểu hiện thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lạnh lùng 7
  14. NỘI DUNG Chƣơng 1: GIỚI THUYẾT CHUNG 1.1. Tác giả Nhất Linh 1.1.1. Thân thế Nhất Linh tên khai sinh là Nguyễn Tường Tam, ông cất tiếng khóc chào đời vào ngày 27 tháng 5 năm 1906 tại phố huyện nghèo Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, nơi giao thoa giữa hai vùng văn hóa: quan họ Kinh Bắc và khoa cử xứ Đông. Ông nội Nguyễn Tường Trấp (hay còn gọi là Tiếp), trưởng nam và làm tri huyện tại Cẩm Giàng và được người dân ở đây thường gọi bằng sự kính nể là: Huyện Giám. Ông Huyện Giám Nguyễn Tường Tiếp có ba người vợ và có bốn người con, trong đó có Nguyễn Tường Chiếu, tục gọi là Nhu sinh năm 1881 làm tới chức Thông phán tòa sứ, nên thường được gọi là Thông Nhu hay Phán Nhu. Ông Nhu kết hôn với bà Lê Thị Sâm, con gái cả viên quan võ Lê Quang Thuật. Thành quả của cuộc hôn nhân này là sự ra đời của 7 người con, sáu trai một gái, ai cũng tài giỏi. Nhất Linh là con thứ ba của gia đình ông bà Nhu. Ông Thông Nhu mất bên Lào vào năm 1918, gia đình lâm vào cảnh túng quẫn, nghèo khổ. Đây là thời điểm đánh dấu những ngày tháng thống khổ và có ý nghĩa to lớn trong cuộc đời họ. Bà Nhu khi ấy 37 tuổi, đó là độ tuổi hồi xuân của đời người vậy mà bà phải tần tảo khuya sớm nuôi bảy người con, trong hoàn cảnh các con mới đang ở độ tuổi thơ ấu và niên thiếu. Gia đình ông sống ở phố huyện Cẩm Giàng nghèo đói, chịu sự càn quét của bọn Tây. Để nuôi được các con ăn học bà Nhu đã can đảm vượt qua thử thách, kiếm sống bằng các nghề như: buôn gạo, nấu thuốc phiện Bà Nguyễn Thị Thế kể lại trong hồi ức: “Gia đình mẹ tôi xưa nghèo, và trở thành khốn quẫn sau khi ông (tức ông Nhu - TG chú thích) mất bên Lào. Bà buôn bán tảo tần nuôi bảy người con ở cái phố huyện buồn thiu Các anh em trai đi học, mẹ tôi là con gái độc nhất ở nhà thay mẹ lo việc nội trợ ” [32; tr,261]. Cuộc sống 8
  15. nghèo khổ mà ông đã từng chứng kiến được ăn vào nếp nghĩ, tiềm thức và hằn sâu trong tâm hồn các con (đặc biệt là Nhất Linh và Thạch Lam), để sau này những sự kiện, biến cố được nếm trải ấy lại được kí thác thành những nhân vật văn học trong các sáng tác của họ. 1.1.2. Cuộc đời Lúc nhỏ ông được cha mẹ cho theo học tiểu học ở Cẩm Giàng - Hải Dương, sau đó ông chuyển trường và học trung học tại trường Bưởi - Hà Nội. Năm 1922, nhà văn làm thơ và được đăng trên báo Trung Bắc Tân Văn, hai năm sau (1924) có bài Bình luận văn chương về Truyện Kiều trên Nam Phong Tạp chí, một ấn phẩm vào loại sang thời ấy. Dường như, đây là tác phẩm đầu tiên song chưa thật sự nổi bật, tuy nhiên tác phẩm này cũng dự báo tương lai tươi sáng và đầy hi vọng cho sự nghiệp văn chương của nhà văn, nhà chính trị sau này. Năm 17 tuổi ông đỗ bằng Cao tiểu, nhưng chưa đủ tuổi vào trường Cao đẳng, nên ông xin làm ở Sở Tài chính Hà Nội, nhờ sự quen thân với Tú Mỡ cùng viết cho tờ Nam Phong. Cũng vào năm đó nhà báo quyết định kết hôn với bà Phạm Thị Nguyên. Năm 18 tuổi ông tiếp tục học ngành Y. Năm 19 tuổi trường Cao đẳng Mỹ Thuật được thành lập dưới sự bảo hộ của nhà nước, ông quyết định thi và đỗ đầu bảng. Năm 1924, ông cho ra đời tập truyện Nho phong (1924). Những năm 1925-1926 phong trào đấu tranh diễn ra sôi nổi cộng với bức tranh cuộc sống thôn quê mà ông được thị giác thấy qua những đợt đi trải nghiệm, tập vẽ phong cảnh thực tế với họa sĩ “Tạc” đã cổ vũ lòng nhiệt huyết đối với đất nước. Năm 20 tuổi, ông vào Nam, gặp Trần Huy Liệu và Vũ Đình Di vì hai ông này cùng có chí hướng làm báo. Nhưng vì tham dự đám tang Phan Chu Trinh nên hai người này bị bắt, nhà văn bị liên lụy phải trốn sang Lào, tự kiếm tiền để lo trang trải cuộc sống bằng nghề vẽ thuê phông rạp và tìm đường sang Pháp du học. 9
  16. Năm 21 tuổi, giấc mơ sang Pháp du học của ông đã trở thành hiện thực. Ở đó ông trau dồi kiến thức, nghiên cứu sâu về báo chí xuất bản. Năm 24 tuổi, ông đậu bằng Cử nhân Khoa học và cùng thời gian đó ông trở lại Việt Nam. Năm 1930, ông trở về nước làm giáo sư tại trường tư thục Thăng Long - Hà Nội, kết bạn với Khái Hưng cùng dạy ở đây. Tại mảnh đất Hà Thành ông cùng hai em ruột của mình là Hoàng Đạo và Thạch Lam xin ra tờ báo trào phúng Tiếng cười, nhưng không có đủ để xuất bản thì giấy phép hoạt động hết hạn, bị tước bỏ. Năm 1932, ông cùng với một số người khác mua lại tờ báo Phong Hóa. Nội dung của báo có tư tưởng tân tiến, mới mẻ là “duy tân cấp tiến, đả phá hủ tục”, khích lệ vươn tới cái tươi sáng, văn minh. Ngày 22-9-1932, số báo Phong Hóa đầu tiên ra đời do Nhất Linh làm chủ bút với mục đích là ủng hộ cho phong trào thơ mới: “Thơ ta phải mới, mới văn thể, mới ý tưởng”. Năm 1933, ông đi đầu và làm chủ soái thành lập nhóm Tự lực văn đoàn. Thời kì này bên cạnh việc bao quát tòa soạn, cầm bút sáng tác cho văn đoàn, Nhất Linh cũng đã dành rất nhiều thời gian, nhiệt huyết cho việc sáng tác và thúc đẩy hoạt động của văn đoàn tiến lên một bước mới. Đến năm 1934, ông đã sáng tác được Anh phải sống (viết với Khái Hưng, 1932-1933), Gánh hàng hoa (viết với Khái Hưng, 1934), Đời mưa gió (viết với Khái Hưng, 1934), Nắng thu (1934). Ngày 30-1-1935, ra tờ Ngày Nay số 1 bán giá 10 xu. Vì phải nuôi hai tờ báo cùng một lúc, không có đủ tiền trang trải nên tờ báo Ngày nay ra được 13 số bị phá sản chỉ còn tờ Phong Hóa. Chỉ sau một năm khi có hàng loạt bài báo đích danh chĩa thẳng vào nhà cầm quyền, tờ Phong Hóa chính thức bị đóng cửa sau ba năm hoạt động. Giai đoạn này Nhất Linh cũng đã sáng tác được Lạnh lùng (1935-1936), Đôi bạn (1936-1937), Bướm trắng (1938-1939), Đi Tây (1935), Hai buổi chiều vàng (1934-1937), Thế rồi một buổi chiều (1934-1937). 10
  17. Năm 1939 Nhất Linh từ một nhà văn, nhà báo đã chuyển sang lĩnh vực chính trị. Ông thành lập Đảng Hưng Việt rồi làm Tổng thư kí Đảng Đại việt dân chính. Vì có ý thức chống Pháp nên một số thành viên của Tự lực văn đoàn như Khái Hưng, Hoàng Đạo bị bắt và đi đày ở Sơn La. Nhất Linh sang Hồng Công với ý định dựa vào Nhật để chống Pháp. Ông từng bị bắt giam bốn tháng ở nhà tù Liễu Châu năm 1942. Sau nhờ có Nguyễn Hải Thần, Nghiêm Kế Tổ bảo lãnh, nên ông được tự do, nhưng không trở về nước mà sống cuộc đời lưu vong lần thứ nhất tại Trung Quốc. Cuối năm 1945 đầu năm 1946, ông về Hà Nội và tham gia đại biểu Quốc hội khóa I. Ông được cử trong phái đoàn Việt Nam dự Hội nghị Fontainebleau (Pháp) nhưng không đi, mà bỏ sang Trung Quốc tháng 5 năm 1946. Năm 1950, ông trở về nước, tuyên bố không hoạt động chính trị, kết thúc 11 năm cống hiến cho Đảng. Năm 1951, Nhất Linh cùng người anh cả là Nguyễn Tường Thụy vào Nam. Thời kì này, ông tiếp tục sáng tác, đồng thời cho in ấn lại các tác phẩm cũ. Năm 1955, ông quyết định ở Đà Lạt với niềm yêu thích cây cảnh và khiếu vẽ tranh. Sau đó, ông cho ra đời các tác phẩm: Dòng sông Thanh Thủy (1960-1961), Ba người bộ hành, Chi bộ hai người, Vong quốc, dịch phẩm: Đỉnh gió hú của Emily Bronte (đăng báo 1960, xuất bản 1974), Thương chồng (1961), khảo luận: Viết và đọc tiểu thuyết (1952- 1961). Tháng 7 năm 1963, Nhất Linh quyên sinh để chống lại việc phán sử của Tòa án quân sự khi bị kết tội: “xâm phạm an ninh Quốc gia”. Là người đam mê chính trị, say mê văn học nghệ thuật, trong cuộc đời của mình, Nhất Linh đã nhận thấy thất bại khi làm chính trị và chỉ còn ở ông- một nhà văn với khát vọng đổi mới. 1.2. Vị trí của tiểu thuyết Lạnh lùng trong sự nghiệp sáng tác của Nhất Linh Ngay từ khi ra đời, Tự lực văn đoàn đã có những hướng đi đúng đắn, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới tiểu thuyết ở Việt Nam nửa đầu 11
  18. thế kỉ XX, đó là mở ra cho tiểu thuyết hướng đi sâu vào khai thác tâm lí nhân vật. Những nhân vật từ Nhung (Lạnh lùng), Tuyết (Đời mưa gió), đến Lan, Ngọc (Hồn bướm mơ tiên), Dũng (Đôi bạn), Trương (Bướm trắng) phần lớn là những nhân vật tâm lí. Nhất Linh đã thành công khám phá ra con người tâm lí, nội tâm của nhân vật cũng đã chi phối kết cấu cũng như mạch vận động của truyện. Không gian nghệ thuật thu gọn lại trong những “vòng tròn tâm lý hướng tâm”. Việc từ bỏ lối kết cấu chương hồi, chuyển sang lối kết cấu tâm lí, tiểu thuyết của Nhất Linh đặc biệt là tiểu thuyết Lạnh lùng đã làm đảo lộn toàn bộ thi pháp tiểu thuyết của các nhà văn lớp trước, chi phối trong các khâu sáng tạo nghệ thuật, từ việc lựa chọn tình huống, miêu tả tâm trạng nhân vật đến bố cục tác phẩm cũng như cách tổ chức không gian, thời gian. Để phù hợp với việc miêu tả nội tâm nhân vật không gian và thời gian nghệ thuật thu hẹp dần từ hướng ngoại sang hướng nội. Trong tiểu thuyết Nhất Linh chủ yếu là không - thời gian thiên về những cảm xúc nội tâm, không gian thi vị, diễm lệ phù hợp với cái nhìn chủ quan, duy cảm. Giữa Đoạn tuyệt và Bướm trắng thì Lạnh lùng nằm ở trung gian. Với Đoạn tuyệt ông chủ trương miêu tả tâm lí của Loan, nhưng là tâm lí đơn lập, một chiều, dù trong đau buồn hay vui vẻ Loan cũng hành động một cách tích cực. Bước sang Lạnh lùng, Nhất Linh bắt đầu len lỏi vào diễn biến tâm lí phức tạp, hỗn loạn của con người, cuộc đấu tranh giằng xé trong cuộc sống - đặc biệt là Nhung. Lạnh lùng là dấu mốc quan trọng trong nghệ thuật của Nhất Linh vừa phê phán xã hội vừa thể hiện tâm lí nhân vật. Không phải tâm lí một chiều như Đoạn tuyệt, Lạnh lùng miêu tả trạng thái phức tạp, dao động, tâm lí ấy bị chi phối nhiều hoàn cảnh, có ý thức đi sâu vào khám phá đời sống tâm lí. Những năm 30 của thế kỉ XX, vị chủ súy trong cuốn Viết và đọc tiểu thuyết cho rằng: “Những cuốn tiểu thuyết hay là những cuốn tả đúng sự thực cả bề trong lẫn bề ngoài. Diễn tả được một cách linh động các trạng thái phức tạp của cuộc 12
  19. đời, đi thật sâu vào sự sống với tất cả những chuyển biến mong manh tế nhị của tâm hồn”. Quan niệm tiểu thuyết phải đi sâu vào miêu tả thế giới bên trong tâm hồn con người đã chi phối quan niệm sáng tác của nhà văn. Với tư tưởng mới mẻ, cách lựa chọn thời gian và không gian nghệ thuật hợp lí, ngôn ngữ trong sáng dễ hiểu vì thế đã tạo nên sự say mê, lôi cuốn, sự “say sưa thấm vào tận đáy lòng”, làm cho tất cả những gì mà “cơn bão” Tố Tâm gây ra trước đó đi vào quên lãng. Chính vì vậy mà ở Lạnh lùng tác giả đã rất thành công trong việc nghiên cứu những trạng thái tâm lí phức tạp, khó nắm bắt của người phụ nữ trẻ tuổi, tiêu biểu là Nhung - nhân vật trung tâm của tác phẩm. “Thời gian và không gian nghệ thuật trong Lạnh lùng” được xem là nguyên tố không thể thiếu tạo nên giá trị tác phẩm và khẳng định tài năng sáng tạo của nhà văn. 1.3. Thời gian nghệ thuật 1.3.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật Đ.X. Likhachép trong cuốn Thi pháp văn học Nga cổ cho rằng: “Thời gian là đối tượng, là chủ thể, là công cụ miêu tả - là sự ý thức và cảm giác về sự vận động và đổi thay của thế giới trong các hình thức đa dạng của thời gian xuyên suốt toàn bộ văn học” [15; tr,209- 210]. GS. Trần Đình Sử trong cuốn giáo trình Dẫn luận thi pháp học cho rằng: “Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với các chiều dài thời gian hiện tại, quá khứ hay tương lai. Thời gian nghệ thuật do được sáng tạo ra nên mang tính chủ quan, gắn với thời gian tâm lí. Nó có thể kéo dài hay rút ngắn thời gian thực tế. Nó có thể đảo ngược hay vượt tới tương lai. Nó có thể dừng lại. Thời gian nghệ thuật là hình tượng nghệ thuật, sản phẩm sáng tạo của tác giả bằng các phương tiện nghệ thuật nhằm làm cho người thưởng thức cảm nhận được: hoặc hồi hộp chờ đợi, hoặc thanh thản vô tư, hoặc đắm chìm vào quá khứ” [25; tr,23]. 13
  20. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Thời gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật có tính chỉnh thể của nó. Cũng như không gian nghệ thuật, sự miêu tả trần thuật trong văn học nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thế giới. Và cái được trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian trần thuật. Sự phối hợp hai yếu tố thời gian này tạo thành thời gian nghệ thuật, một hiện tượng ước lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật” [8; tr,322]. Hay trong cuốn giáo trình Một số vấn đề Thi pháp học hiện đại của Gs. Trần Đình Sử viết rằng: “Cũng như không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật, thể hiện phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Nếu thế giới thực tại chỉ tồn tại trong không gian và thời gian, thì cũng như thế, thế giới nghệ thuật chỉ tồn tại trong không gian và thời gian nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật là cái thời gian được cảm nhận bằng tâm lí, qua chuỗi liên tục các biến đổi (biến cố) có ý nghĩa thẩm mỹ xảy ra trong thế giới nghệ thuật. Là thời gian được cảm nhận bằng tâm lí và mang ý nghĩa thẩm mỹ nên thời gian nghệ thuật khác với thời gian khách quan đo bằng lịch và đồng hồ, nó có thể đảo ngược, từ hiện tại hồi tưởng lại quá khứ.” [25; tr,62]. Thời gian nghệ thuật được nghiên cứu dưới góc độ thi pháp học, được coi là phạm trù yếu điểm nhất, bởi vì nó kích thích triệt để được sự say mê, sáng tạo của tác giả. Nhà văn có thể chọn kể ngắn trong vài phút hay kể dài hơi hơn trong một năm, hai năm, có thể tự do lựa chọn độ dài một chi tiết, hình ảnh hay một sự kiện nổi bật. Thời gian thể hiện cái nhìn mới mẻ, tinh tế về quan niệm nghệ thuật của nhà văn. Tìm hiểu thời gian nghệ thuật sẽ giúp người đọc chiếm lĩnh được nội dung và hình thức của tác phẩm. 1.3.2. Các dạng thức của thời gian nghệ thuật Nếu trong ngôn ngữ học, người ta chia ra làm hai dạng: cái biểu đạt và cái được biểu đạt thì trong văn học cũng vậy, người ta phân thời gian ra làm hai loại: thời gian trần thuật và thời gian được trần thuật. 14
  21. 1.3.2.1. Thời gian trần thuật “Thời gian trần thuật là thời gian của người kể, của sự kể Nó có thể sắp xếp lại trật tự thời gian của sự việc vào trật tự trước sau của nó. Nó có thể đem cái xảy ra sau kể trước và ngược lại, đem cái xảy ra trước kể sau” [21; tr,65]. Thời gian trần thuật được xem là thời gian chuyển động đơn tuyến, một chiều, tác giả có thể kể lại một đời người hay miêu tả một gia phả dòng họ của tác phẩm văn học. Có người nói rằng: “văn học là nghệ thuật thời gian bởi vì văn học diễn đạt các sự vật, hiện tượng theo trật tự của thời gian của lời nói liên tục từ câu đầu cho đến câu cuối cùng không thể đảo ngược”. Trong tiểu thuyết Lịch sử Tôm Giôn của Anh PhinĐinh, người con rơi nhắc nhở độc giả: “Nếu trong sách này bạn đọc tìm thấy những chương chỉ viết có một ngày, lại có những chương viết về hàng năm, lại có lúc câu chuyện chúng tôi dừng lại, có lúc lại vượt lên phía trước, thì xin các bạn chớ có lấy làm lạ”. Thời gian thực tại hiếm khi trùng khớp với thời gian nghệ thuật trong văn học, điều này có nghĩa rằng thời gian nghệ thuật được sáng tạo theo cái nhìn chủ quan của tác giả. Thời gian nghệ thuật là sự góp nhặt từ các quan hệ, các sự kiện, các đoạn thời gian của sự kiện mà còn được tạo bởi thời gian miêu tả. “Thời gian trần thuật là một hiện tượng nghệ thuật, chỉ có trong sáng tác nghệ thuật, bởi nó nhằm tạo ra cảm giác thời gian và dòng thời gian trong tâm hồn người đọc”. Đây là vấn đề liên quan đến nghệ thuật kể chuyện của nhà văn, thể hiện thực chất sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ. 1.3.1.2. Thời gian được trần thuật “Thời gian được trần thuật là thời gian của sự kiện được nói tới” [21; tr,66]. Bao gồm: thời gian sự kiện và thời gian nhân vật. Thời gian được trần thuật là thời gian diễn ra các sự kiện được miêu tả trong tác phẩm. Chắc hẳn cũng có những bạn đã và đang là phan cuồng của 15
  22. những tập truyện, những cuốn tiểu thuyết đã biết ít nhiều về thời gian nghệ thuật. Tuy nhiên, lúc đó ta chỉ biết có thời gian đang diễn ra trong truyện, mà tạm quên đi thời gian thực tại (vật lý) như: đang nấu ăn để thức ăn cháy, đang chăn trâu để trâu ăn lúa, quên hẳn thời gian đang diễn ra trong hiện tại, không biết sáng hay tối Người ta cảm nhận được thời gian từ những đổi thay, biến cố trong tự nhiên: theo mùa (xuân, hạ, thu đông), đời người (lọt lòng, thời thơ ấu, niên thiếu, trưởng thành, già và chết), theo buổi (sáng, trưa, tối), trong phong tục xã hội (các ngày lễ hội, các phiên chợ), trong đời sống chính trị (đời vua nào, trước cách mạng, sau giải phóng ). Mọi cảm nhận về biến đổi gợi cảm giác thời gian: “Ôi sáng, xuân nay xuân 41 Trắng rừng biên giới nở hoa mơ Bác về. Im lặng. Con chim hót Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ” (Theo chân Bác - Tố Hữu) Thời gian không chỉ được đo đếm bằng thời gian vật lý mà còn đo được bằng cảm nhận từ cảm xúc của nhân vật, thông qua các sự kiện biến đổi liên tục có ý nghĩa xảy ra trong tác phẩm. Là thời gian được cảm nhận bằng tâm lí và mang ý nghĩa thẩm mỹ nên thời gian nghệ thuật khác với thời gian thực tại đo bằng lịch sử và đồng hồ. Vì nó được cảm nhận bằng tình cảm, cảm xúc của con tim, bằng lăng kính chủ quan của chủ thể, đối tượng tiếp nhận. Có không ít những nhà thơ, nhà văn của chúng ta rất sợ thời gian chảy trôi qua mà chưa được tận hưởng trọn vẹn vị ngọt cuộc đời. Phải kể đến ông hoàng thơ tình Xuân Diệu luôn cuống cuồng, sửng sốt trước cảm giác có hạn của thời gian. Chính vì vậy, trong rất nhiều bài thơ, Xuân Diệu luôn khao khát được yêu, được đắm mình trong tình yêu. Thời gian nghệ thuật trong thơ 16
  23. Xuân Diệu là thời gian đời tư, thời gian tâm trạng, thời gian của quỹ đạo cá nhân. Nó thường được đo bằng những đơn vị nhỏ nhất như một phút, một giây, hay một chớp, một thoáng hoặc một chút: “Không có cánh nhưng vẫn thêm bay bổng; Đi trong sân mà nhớ chuyện trên trời: Trút ngàn năm trong một phút chơi vơi; Ngắm phong cảnh giữa hai bề lá cỏ ” (Cảm xúc - Xuân Diệu) Trong văn học, các nhà nghiên cứu đã tìm ra các hình thức thời gian nghệ thuật khác nhau. Tùy vào mục đích sử dụng và cá tính sáng tạo, mỗi nhà văn chọn lựa một hình thức phù hợp cho riêng mình. 1.4. Không gian nghệ thuật 1.4.1. Khái niệm không gian nghệ thuật Theo Từ điển thuật ngữ văn học, không gian nghệ thuật là “hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong một trường nhìn nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn bộ quảng tính của nó: cái này bên cạnh cái kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao, thấp, xa, gần, rộng, dài, tạo thành viễn cảnh nghệ thuật. Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian, nên mang tính chủ quan. Ngoài không gian vật thể, có không gian tâm tưởng. Do vậy, không gian nghệ thuật có tính độc lập tương đối, không quy được vào không gian địa lí” [8; tr,162]. Không gian nghệ thuật có vai trò quan trọng trong việc hình thành những sợi dây liên kết các yếu tố thời gian, xã hội, đạo đức, tôn ti, trật tự. Không gian nghệ thuật còn cho thấy cảm quan nghệ thuật về thế giới và những khám phá, nhận thức mới mẻ của tác giả hay của một giai đoạn văn 17
  24. học. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cũng cho rằng: “quan trọng nhất là xem xét không gian nghệ thuật như một quan niệm về thế giới và con người như một phương thức chiếm lĩnh thực tại, một hình thức thể hiện cảm xúc và khái quát tư tưởng thẩm mĩ” [21; tr,166]. Và đó cũng chính là một trong những mục đích của chúng tôi khi tìm hiểu vấn đề này. 1.4.2. Các dạng thức của không gian nghệ thuật 1.4.2.1. Không gian bối cảnh Văn bản ngôn từ nào cũng có không gian bối cảnh, tuy nhiên đặt vào mỗi tác phẩm những bối cảnh khác nhau lại sẽ thu được không gian bối cảnh khác nhau. Nó có thể là bối cảnh thiên nhiên hay bối cảnh xã hội, là động hay tĩnh, mở hay khép. GS. Nguyễn Thái Hòa trong cuốn Những vấn đề thi pháp của truyện cho rằng: “Không gian bối cảnh là môi trường hoạt động của nhân vật, một địa điểm có tên riêng hay không có tên riêng, trong đó có đủ cả thiên nhiên, xã hội, con người. Nó là điều kiện cần thiết cho mọi sự kiện, mọi hoạt động, mọi phạm vi thế giới không thể thiếu Bối cảnh xã hội bao gồm cuộc sống của những tầng lớp người và cá nhân này với cá nhân khác. Có khi đó là những tập quán, phong tục, luật lệ ở một địa phương, có khi là những quan hệ có vấn đề giữa cá nhân này với cá nhân khác hoặc được biểu hiện cụ thể, hoặc được che giấu kín đáo” [32; tr,88]. Không gian bối cảnh thiên nhiên là không gian thuần túy của thiên nhiên không bị tác động bởi những quy định ngặt nghèo của văn học cổ. Nó có thể là gió, mây, cây, cỏ, núi, sông thiên nhiên gần gũi bình dị và thuận theo quy luật tự nhiên, nhưng có sự trợ giúp đắc lực từ bàn tay con người tạo ra như cánh đồng, làng xóm Không gian là một yếu tố hội tụ đầy đủ cả giá trị nội dung và giá trị nghệ, qua đó thể hiện dụng ý của tác giả. Chẳng hạn, bối cảnh thiên nhiên trong thơ trữ tình thường rất đẹp, rất 18
  25. nên thơ, rất “thi trung hữu họa”, các thi nhân đã sang tạo ra những hình ảnh thiên nhiên tươi mới: “Trong làn nắng ửng khói mơ tan, Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng” (Mùa xuân chín - Hàn Mặc Tử) Bên cạnh không gian thiên nhiên là không gian tâm trạng, miêu tả thế giới hỗn loạn, khó kiểm soát của con người. Đó có thể là những dòng hồi ức, những niềm vui, nỗi buồn, những ước mơ, những ám ảnh, băn khoăn được miêu tả trong tác phẩm. Trong những câu hát than thân hay những câu hát yêu thương, nghĩa tình, nhất là trong những câu hát giao duyên, không gian xã hội sẽ trở thành “không gian tâm trạng”: “Uớc gì sông rộng một gang Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi” Không gian bối cảnh là sự sáng tạo độc đáo, mới mẻ của nhà văn nhằm khác họa số phận và cuộc đời của nhân vât. khắc họa hình tượng nghệ thuật. 1.4.2.2. Không gian sự kiện Không gian sự kiện là nơi diễn ra các sự kiện trong cuộc sống, tác động đến đời sống con người. Trong văn học, không gian sự kiện là sự sáng tạo của nhà văn để từ đó tái hiện cuộc đời. Không gian sự kiện đóng vai trò như một giả thiết để chờ lời giải cho đến khi nào nhà văn đưa ra kết luận cuối cùng. Không gian sự kiện được tính bằng mốc sự kiện và cũng là mốc của thời gian kể. Nó thực sự làm nên mạch của truyện và môi trường sống của nhân vật. Truyện ngắn Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật, người đọc sẽ thấy một sự kiện khá đặc biệt diễn ra trên nền không gian tuyệt diệu của trời thu khí tiết mát mẻ, dễ chịu: “Trời mới lập thu, khí tiết mát mẻ dễ chịu, không còn cái oi bức “chết trâu của mùa hạ”. Tầng cao xanh ngắt, thoáng điểm những sợi mây trắng như bông, lững thững trôi từ phương này sang phương 19
  26. khác. Nắng vàng rực rỡ chùm lên rừng cây, nhỏng nhảnh sáng ngời như rát ngọc. Từng ngọn gió lướt qua, cả rừng cây lao xao reo lên những tiếng vui tai. Bản đàn tự nhiên ấy mỗi lần rung lên lại trút xuống những chiếc lá sớm già, phấp phới bay như đàn bướm vàng nó rỡn. Cảnh vật vui tươi, hớn hở tựa hồ chào đón đấng chí tôn” [32; tr118]. Tuy cảnh vật vui tươi như vậy nhưng Đức Thái Tông Trần Cảnh vẫn thấy lòng buồn rười rượi và trong không gian của một chiều thu đó khi: “Mặt trời ngả dần về phía Tây. Ánh nắng đã dịu và bóng cây mỗi lúc một thêm dài. Bỗng tiếng hát lanh lảnh len qua cành lá bay ra, ngân dài trong gió chiều. Cả rừng cây như nôn nao, xúc động, như mơ màng, say đắm. Tiếng hát trong trẻo vẫn véo von cất lên.” [32; tr,118]. Và sau đó là cuộc trò chuyện giữa Đức vua và người con gái tên Tần với một vẻ đẹp mộc mạc nhưng không kém phần đoan trang thùy mị khiến Ngài e sợ, rồi ngây ngất, say sưa không thể xa rời: “Hai người lặng lẽ lần theo con đường nhỏ hẹp cong queo như một con trăn trắng trườn mình trên bãi cỏ xanh, đi về phía Bắc. Trong khi ấy, mặt trời đã chìm sau núi Ba Vì lam thẫm. Ánh hồng đã rực như than, cố níu lại phần sáng sắp tàn. Và phía đông bóng đêm đã dâng lên dần dần ” [32; tr,122]. Có thể thấy rằng trên nền không gian nghệ thuật ấy, sự kiện cứ nhẹ nhàng được kể đầy hấp dẫn và hứng thú đối với người đọc qua cách diễn đạt của câu chuyện thật khéo léo của nhà văn. Không gian nghệ thuật là một trong những yếu tố cấu thành thế giới nghệ thuật trong tác phẩm văn học. Không gian sự kiện và không gian bối cảnh không đối lập nhau mà bổ sung, hỗ trợ cho nhau, giúp bộc lộ tính cách của nhân vật, đồng thời thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời và con người. 1.4.2.3. Không gian tâm lí Không gian tâm lí là không gian xuất hiện trong tâm lí của nhân vật mà chủ yếu là những tâm trạng, trạng thái tình cảm vui buồn, hồi ức, mộng mị, ám thị, mơ hồ. Trong tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, không 20
  27. gian tâm lí là sự hồi tưởng của nhân vật Kiên về chiến trường xưa, về cuộc chiến tranh, những mất mát, đau thương mà anh đã chứng kiến. Không gian tâm lí là một hiện tượng ước lệ mang ý nghĩa cảm xúc, tâm tưởng có khi rất gần về không gian địa lý nhưng lại rất xa về tâm hồn. Không gian tâm lí xuất hiện rất nhiều trong Thơ mới bởi thơ là điệu hồn, là cảm xúc của con tim. Trong bài thơ Xa cách: “Đôi mắt của người yêu, ôi vực thẳm! Ôi trời xa, vừng trán của người yêu! Dẫu tin tưởng: chung một nhà, một mộng Em là em, anh vẫn cứ là anh. Có thể nào qua Vạn Lý Trường Thành Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật.” (Xuân Diệu) Có một điều quan trọng mà chúng tôi khi nghiên cứu nhận ra rằng: mỗi thời đại, mỗi giai đoạn văn học có những quan niệm riêng về con người và thế giới. Cũng vì vậy, tri giác về không gian, thời gian nghệ thuật ở mỗi giai đoạn văn học là không giống nhau. Trong tác phẩm văn học, không gian nghệ thuật là một yếu tố quan trọng. Vai trò của nó trong văn bản không giản lược ở việc xác định nơi chốn diễn ra các sự kiện, nơi liên kết đường dây cốt truyện, nơi gặp gỡ các nhân vật. Nó cũng không hạn chế ở việc tái hiện những đặc trưng của miền đất này hay xứ khác. Không gian nghệ thuật không đồng nhất với không gian hiện thực vốn tồn tại khách quan, mà nó trở thành một kí hiệu đặc biệt để diễn đạt những phạm trù ở ngoài thời gian, hoặc để thể hiện tâm trạng của nhân vật hoặc để đánh giá nhân vật đó về mặt đạo đức, thẩm mỹ. 21
  28. * Tiểu kết Trên tiến trình vận động của văn học dân tộc, Tự lực văn đoàn nói chung, Nhất Linh nói riêng đã có những đóng góp đáng ghi nhận. Cuộc đời và tác phẩm của ông là những minh chứng cho ý thức, khát vọng xây dựng nền văn học mới, Nghệ thuật viết văn phương Tây được thể hiện rõ nét trong sáng tác tạo nên giá trị, phẩm chất mới, hiện đại. Con người và các yếu tố nghệ thuật thể hiện con người không ngừng vận động trong sự sáng tạo của nhà văn đã tạo nên nét riêng biệt, hấp dẫn. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật có sự tương quan chặt chẽ trong tác phẩm. Nhà thơ Huy Cận trong Suy nghĩ về nghệ thuật cũng cho rằng: “Không gian và thời gian là hai bề của sự vật, là kích thước của sự sống. Nghệ thuật biểu hiện sự sống làm sao không dựng cái khung không gian và thời gian lên được để chứa đựng sự vật, để cho sự vật có sự sống, sinh sôi, nảy nở” (Văn nghệ, số 48 -1979). Các yếu tố không gian, thời gian không tách rời nhau mà hòa quyện vào nhau trong một sinh thể thống nhất là tác phẩm. 22
  29. Chƣơng 2: BIỂU HIỆN CỦA THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT LẠNH LÙNG 2.1. Biểu hiện thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lạnh lùng 2.1.1. Thời gian hiện thực 2.1.1.1. Thời gian hiện thực tái hiện cuộc đời con người Trước 1945, cuộc đời, số phận của người phụ nữ bị trói buộc bởi những khuôn phép hà khắc của lễ giáo phong kiến. Là trí thức Tây học trẻ tuổi, Nhất Linh đã cùng với các nhà văn tiến bộ phơi bày sự thật tàn nhẫn ấy bằng thái độ phủ định quyết liệt qua các trang viết của mình. Cùng với Đoạn tuyệt, Lạnh lùng tiếp tục xoáy sâu vào cuộc đời, số phận của người phụ nữ với nỗi ám ảnh, sợ hãi. Xoay quanh cuộc đời và số phận của Nhung- một phụ nữ trẻ tuổi, góa bụa và luôn phải đấu tranh giữa một bên là tình yêu với một bên là sự trói buộc nặng nề của lễ giáo lỗi thời. Để tái hiện một cách chân thực cuộc sống của nhân vật, Nhất Linh đã lựa chọn thời gian hiện thực như yếu tố nghệ thuật hữu hiệu. Mở đầu tác phẩm, ông đã chọn đêm tối để nhân vật xuất hiện. “- Không biết đêm nay mình làm sao thế này? Nàng thở dài thật mạnh một lần nữa cho khỏi thấy cái cảm giác nặng nề đè nén trên ngực, rồi nhắm mắt lại cố ngủ. Nhưng nàng không sao ngủ được; thấy đứa con nằm bên cạnh cựa mình, nàng ngồi dậy, phe phẩy quạt cho con.” [17; tr,5]. Ban đêm là quãng thời gian con người cảm thấy vắng lặng, buồn tủi - đặc biệt là những người như Nhung. Đó là khoảng thời gian con người tự suy ngẫm về chính mình. Ở đây, Nhung cũng đang tự nhìn ngắm về chính mình, tự thấy xấu hổ với những suy nghĩ không chính đáng đang âm ỉ chảy trong tâm hồn nàng. Hành động của Nhung như muốn thoát khỏi sự cô đơn nhưng càng cố gắng thoát ra thì sự cô đơn càng bủa vây. Hoàn cảnh đó buộc nàng phải tìm giải pháp xua đi nỗi bực dọc trong người. Băn khoăn, do dự 23
  30. đang đêm nàng phải ra giếng dội nước ào ào, không phải vì trời nóng mà vì trong nàng đang chiếm trọn sự cô đơn, khi đứng trước tuổi xuân phơi phới bị đốt cháy. Xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm thời gian đêm tối xuất hiện dày đặc, phù hợp với diễn biến cuộc đời của nhân vật. Điều đó cho thấy sự dồn dập khát khao hạnh phúc ngày càng tăng tiến. Sau những suy nghĩ bất chính, nàng chăm chú nhìn vào bức ảnh chồng như người đương đi trong đêm tối để định ra bước đi. Trong hoàn cảnh ấy, Giao khóc nàng phải nói nựng “Hôm nay con tôi quấy quá, không được ngoan ngoãn”. Câu nói như sự tình cờ để mắng yêu con, nhưng thực chất là lời tự trách mình bởi trong tâm can nàng đang rạo rực khát khao được yêu. Nàng khao khát là thế, bốn chữ “TIẾT HẠNH KHẢ PHONG” như trói chặt nàng, buộc nàng phải yên vị “đêm nay bắt nàng phải nhìn kĩ và nghĩ ngợi bâng khuâng”. Lại một lần nữa thời gian đêm tối xuất hiện, nàng cảm thấy cuộc đời mình không thể sống một đời giả dối được. Và rồi tình yêu đến, Nhung bất ngờ, nàng bừng tỉnh ý thức cá nhân, cảm thấy sự trống trải của một đời góa phụ. Nhung nhận ra rằng cả đời cô không phải là hi sinh cho một tiếng thơm hão huyền, cô đã có ý thức vượt thoát tâm lí để đi theo tiếng gọi của tình yêu. Nàng đã quay đi với tiếng thơm mà gia đình nàng được nhận từ thời tổ mẫu, nàng bỏ sau lưng bốn chữ “tiết hạnh khả phong”. Dường như, đến đây Nhung đã ý thức được bổn phận cá nhân của mình, hiểu rõ về khát vọng tình yêu đang trỗi dậy trong nàng. Khi đi lễ chùa Nhung và Nghĩa đã gặp nhau tại giậu cúc tần, chàng đưa cho nàng một tờ giấy vàng in như chữ một lá số. Có thể nói, đây là bức thư tình đầu tiên đánh thức tình yêu cháy bỏng trong nàng. Đã lâu rồi kể từ ngày chồng mất, nàng mới cảm thấy mình được yêu khiến cho đôi mắt long lanh ướt đẫm. Nàng nhớ lại nội dung bức thư “Thưa quý nương ” nàng cảm thấy sung sướng, mỉm cười, mong Nghĩa quay trở về ngay lúc này. Rồi nàng lại 24
  31. lấy thư ra đọc, rồi lẩm bẩm “Nửa đêm hôm nay ”, rồi bất chợt Nghĩa về đúng như mong ước của Nhung, hai người nắm lấy tay nhau, mỗi lúc một chặt hơn. Hốt hoảng, Nhung đẩy Nghĩa ra và chàng không quên nhắc lại “Nửa đêm hôm nay ”. Chỉ một đoạn văn ngắn cụm từ “nửa đêm hôm nay” được điệp lại hai lần, như một định mệnh rằng chắc chắn đêm nay hai người sẽ gặp nhau, điều này nhấn mạnh tình yêu mãnh liệt của một anh giáo nghèo dành cho người phụ nữ trẻ tuổi góa bụa. Đúng như đã hẹn trước với Nhung, nửa đêm chàng đến, bên tai nàng luôn văng vẳng “con đàn bà khốn nạn” nhưng chân nàng vẫn luôn tiến lên, để rồi “Đến khi hai bàn tay Nghĩa nắm lấy tay nàng và nhẹ kéo về phía cửa sổ, thì lúc đó nàng biết không có sức gì giữ nàng lại được nữa. Nhung cúi mặt xuống, theo đà tay ngoan ngoãn đặt đầu vào ngực Nghĩa. Bàn tay nàng vẫn nằm trong bàn tay Nghĩa; ngón tay hai người như có linh hồn cử động tìm nhau và quyến luyến giao lại với nhau trong bóng tối. Không ai nói một tiếng, hai người cùng yên lặng như đêm khuya yên lặng, và cùng tưởng thân hình như không có nữa, đã tan đi, hòa lẫn với bóng tối ban đêm.” [17; tr,62 ]. Nhung không còn chịu gò mình trong quy phạm, một khuôn phép cổ hủ, lạc hậu nữa mà luôn muốn tìm đến cái mới, mặc dù nhiều lúc ta không thể xác định được nàng đang mong muốn cái gì. Những bước chân thoăn thoắt tiến về phía Nghĩa như thôi thúc nàng đến với tình yêu mà bấy lâu nay nàng mong đợi. Tình yêu với Nhung không phải là khát khao luyến ái mà thực chất là ước vọng thoát ly. Nàng tìm cách thoát vào tình yêu để chìm đắm vào một thế giới riêng, được làm chính mình. Trong đêm giao thừa “tiếng pháo nổ ran khiến Nhung phải bịt hai tai lại. Lờ mờ trong khói pháo xanh, nàng thấy Nghĩa đang nhìn nàng. Sau tiếng pháo nổ, cảnh ban đêm như yên lặng hẳn; một lúc lâu mới nghe thấy xa xa tiếng pháo liên tiếp nhau ở các nhà trong làng.” [17; tr,81 ]. Khoảnh khắc được gặp Nghĩa ngay chính căn nhà của mình, nàng cảm thấy sung sướng ấm 25
  32. áp trong lòng. Nàng thẫn thờ nói “Đêm giao thừa năm nay trời sáng và êm ả quá”, nàng như đang nói cho chính nàng nghe về tiết trời xuân đẹp đẽ rất hợp với cặp đôi yêu nhau hẹn hò. Theo nền luân lí ngàn năm để lại, đã là phụ nữ, chỉ được phép lấy một chồng. Nhung muốn kết hôn với Nghĩa, để nàng “thoát được hẳn cái đời tốt đẹp, giả dối để sống một đời bình thường nhưng ngay thẳng”. Nàng quyết định về nhà bà Nghè để thổ lộ tâm tư, ước muốn trong lòng. Trước khi thú tội, nàng không dám nói chuyện với mẹ, sợ xảy ra sự gì cản trở, làm nàng mất can đảm. “Đã quá nửa đêm, Nhung biết rằng đêm nay không nói được với mẹ thì là hết, mai chắc nàng không sao còn đủ can đảm nữa Nàng nói luôn để cho bà Nghè biết ngay là câu chuyện gì và nhất là để nàng không thể lùi được nữa. - Mẹ còn nhớ ông Nghĩa. Hôm nay con xin về đây xin phép mẹ ở hẳn ở nhà. Xin mẹ thương con để tâm nghe, con đã khổ sở hơn một năm nay, giờ mới dám thưa với mẹ - Thưa mẹ, bổn phận con, con phải nói. Giấu mẹ mới là có lỗi. Con khổ lắm. Con biết là không thể nào ở vậy suốt đời. Nói với mẹ để mẹ định liệu cho con còn hơn là làm liều, để tiếng xấu lây đến cha mẹ.”[17; tr,110]. Đã nhiều lần Nhung giằng xé, đấu tranh giữa việc bảo toàn tiếng thơm với việc sống đích thực là mình, được tự do đến với tình yêu, công khai thừa nhận mối tình vụng trộm với Nghĩa. Nhưng cuối cùng, phần thắng lại thuộc về danh thơm hão. Thời gian hiện thực trong tác phẩm góp phần tái hiện cuộc đời bất hạnh của nhân vật. Qua yếu tố thời gian, tác giả như đưa người đọc tới những cảm nhận đầy đủ nỗi buồn, sự bế tắc trong cuộc đời nhân vật. Đó cũng là định mệnh của người phụ nữ trẻ góa bụa trong xã hội cũ, ám ảnh với những trạng thái lo lắng, hốt hoảng, sự hãi ngay cả khi thể hiện niềm hạnh phúc chính đáng của mình. 26
  33. 2.1.1.2. Thời gian hiện thực miêu tả cảm xúc Để miêu tả đầy đủ thế giới tâm trạng phức tạp của con người, Nhất Linh đã sáng tạo hình thức thời gian rất riêng, đó là thời gian diễn ra cảm xúc, phù hợp với các trạng thái tâm trạng nhân vật. Thời gian này đã diễn tả đầy đủ cuộc đấu tranh trong tư tưởng của Nhung, Nhất Linh đã lựa chọn các thời điểm khác nhau: mùa xuân, lễ hội, những cuộc du ngoạn, thăm thú. Để khắc họa vẻ đẹp, sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ nhà văn thật khéo léo khi đưa ra giải pháp cho Nhung gặp Nghĩa. Thời gian mỗi ngày trôi qua, Nhung bắt gặp ánh mắt của Nghĩa lại tỏ ra thẹn thùng, e ngại: “Chiều mát, nàng ra đứng tựa cửa hóng gió, mải cúi mặt ngắm mấy chậu lan. Lúc ngẩng lên, Nhung thấy ông giáo đứng ở hiên bên kia đương đăm đăm nhìn mình. Nhung không sao quên được vẻ hai con mắt ông giáo nhìn nàng lúc đó; tuy ở góa đã lâu, chung quanh lúc nào cũng có người săn đón mà không lần nào nàng thấy mình cảm động một cách mãnh liệt như thế.” [17; tr,9]. Con tim yêu bắt đầu trỗi dậy, thổn thức cùng nhịp đập của đối phương. Không gian trữ tình thơ mộng như vậy mà nàng lại mất hết bình tĩnh và nhận ra rằng “đời mình đang sống là một đời thiếu thốn và ngang trái” [17; tr,10]. Nàng khát khao được yêu, được tận hưởng cuộc sống luyến ái nhưng thật trớ trêu, đây không phải là cái cảm giác của người mới bắt đầu yêu luôn dịu dàng, êm ái mà là cảm giác lo sợ. Rõ ràng, giữa Nhung và Nghĩa đã nảy sinh tình cảm, nhưng không ai nói với ai. Chỉ là những lời nói vu vơ để cho đối phương tự ngầm hiểu. Từ lúc bắt đầu gặp nhau, ngày giỗ chồng, đêm giao thừa cho đến ngày cưới của em gái mình Tất cả thời gian đó giống như những đêm tình tự giữa hai người. Sau những đêm hẹn hò vụng trộm ngoài khu vườn, họ đã chính thức hẹn hò công khai trong tưởng tượng ở ngày cưới của em gái mình. Nghĩa bảo Nhung “anh sẽ làm chú rể mà em sẽ làm cô dâu” và Nhung muốn được yêu Nghĩa một cách đường hoàng, vứt bỏ mọi rào cản xã hội. 27
  34. Để gia tăng sức sống mạnh mẽ người phụ nữ trẻ đang yêu, Nhất Linh đã thành công khi dõi theo chuyến du ngoạn của Nhung. Thời gian này không được tác giả miêu tả nhiều, song đó là những thời khắc toát lên khát khao đi tìm hạnh phúc chính đáng của nàng. Đối lập với tâm trạng buồn chán trong những ngày tháng Nghĩa chuyển lên tỉnh sống, là tâm trạng hồi hộp xen lẫn niềm vui rộn ràng của trái tim đang khao khát được yêu. Khi bước vào căn phòng của Nghĩa, nàng tưởng như đêm động phòng hoa chúc: “Nhung tưởng như không còn liên lạc gì với xã hội bên ngoài; nàng mê man quên hết cả, và thật tình nàng thấy sung sướng, một cái sung sướng đầy đủ không mảy may lẫn chút hối hận. Đã trong bao lâu nay, lần đầu tiên, nàng mới thấy vượt ra ngoài cái sống giả dối hàng ngày, và tuy ngồi ở nhà một tình nhân mà nàng không hổ thẹn trong lương tâm, nàng không cảm thấy nhân phẩm của nàng không bị sút kém chút nào” [17; tr,118]. Từ khi lấy chồng cho đến nay, đây là lần đầu tiên nàng được sống là chính mình, không sợ khuôn phép, nàng không nhút nhát như những lần gặp Nghĩa sau vườn nhà. Trong lần gặp gỡ trên tỉnh, Nghĩa hứa sẽ đưa nàng về thăm quê ở Hưng Hóa. Đúng như lời hứa, ngay từ sáng sớm hai người đã bắt xe đi Trung Hà về quê. Tới bến Trung Hà hai người thuê riêng chiếc thuyền để được tự do nói chuyện. Họ kể chuyện quá khứ rồi bàn tới những dự định trong tương lai, chàng dự tính thu xếp chỗ dạy học ở Hưng Hóa rồi sau đó mới đưa nàng về thăm quê. “Phải nghĩ đến cách sống chứ, chẳng lẽ ngồi uống nước lã nhìn nhau”. Câu nói bông đùa nhưng thể hiện sự quyết tâm mãnh liệt của tình yêu. Đáp lại Nhung nói “Uống nước lã cũng được, miễn là có anh bên cạnh”. Nàng mong mỏi được về chung một nhà với Nghĩa, bất chấp hết cả những dư luận ồn ào với hủ tục lạc hậu. Dường như ở hai tâm hồn có sự đồng điệu cùng hướng tới một mục đích cao cả như để minh chứng cho tình yêu mãnh liệt. Có thể nói với cách xây dựng thời gian hiện thực tái hiện cảm xúc, Nhất Linh thật tài tình và khéo léo trong việc kể và dẫn dắt câu chuyện. Đưa 28
  35. độc giả đến với từng khoảnh khắc trong cuộc đời người góa phụ trẻ. Người đọc cũng không khỏi xúc động, cảm thông trước cuộc đời và số phận của nhân vật - một phụ nữ xinh đẹp, sống trong sự giả dối với những nỗi buồn riêng, sâu kín khi phải hi sinh hạnh phúc của mình. 2.1.2. Thời gian tâm lí Trong Lạnh lùng, thời gian tâm lí vừa thể hiện cuộc sống bế tắc, bất lực, vừa thể hiện khao khát về một cuộc sống hạnh phúc, tươi đẹp. Quá khứ, thực tại đan xen góp phần tạo nên thế giới tâm trạng nhiều màu sắc. Nhung trong Lạnh lùng là con người luôn lục lọi, tra vấn con người mình, tự đối thoại với chính mình, ý thức được cuộc sống của mình trong hiện tại, nhìn về quá khứ, hướng tới tương lai. Có những lúc nhớ về quá khứ, nhớ về cuộc hôn nhân đầu tiên với cảm xúc xót xa, nuối tiếc cho cuộc đời nàng: “Ngày ấy đối với nàng đã xa lắc; chồng nàng - người chồng chỉ kính chứ không yêu - mất đi đã gần ba năm, đến nay không còn để lại cho nàng chút nhớ thương gì, mà chỉ để lại cho nàng cái dư vị chua chát của một quãng đời ái ân chưa thỏa mãn” [17; tr,7]. Ngoại cảnh tác động tới tâm cảnh gợi cho nàng nhớ một thời thanh xuân đầy cay đắng. Cuộc hôn nhân đó không phải là tình cảm xuất phát từ hai đối phương mà vì sự quen biết giữa hai gia đình, vì xã hội phong kiến “Nàng lấy ông Tú vì gia đình hai nhà quen thân với nhau, vì đó là một sự rất tự nhiên, phải thế” [17, tr,18]. Không đến với nhau bằng sự yêu thương, phải chăng đó là một trong nguyên nhân khiến nàng sớm cảm mến Nghĩa “Ngay từ khi ông giáo chưa đến ở dạy học, còn thỉnh thoảng đến nhà chơi với em chồng, nàng đã đem lòng thương hại” [17; tr,9]. Song trong kí ức của Nhung, mỗi khi trong tâm hồn nàng, ước muốn về một cuộc hôn nhân tự do lại luôn đi cùng với nỗi sợ cũng như niềm vui giả tạo khi phải đối diện với những quan niệm cổ hủ. Đó là hình ảnh về bà án luôn cảnh báo con dâu mỗi lần có khách đến chơi với niềm tự hào về gia phong khiến cho nàng 29
  36. cảm thấy mình chỉ là “là thứ hoa quý trong nhà, hễ có khách đến đem ra khoe cho khách thưởng ngoạn để lấy tiếng khen” [17; tr,23]. Cái khuôn phép, nề nếp ấy luôn đeo đẳng và gắn với cuộc đời nàng. Nàng mong muốn có một hạnh phúc nho nhỏ với Nghĩa nhưng lại sợ nề nếp của dòng họ, xã hội: “Nếu em thực sự yêu anh thì em cần gì phải nghĩ ngợi. Anh chắc không bao giờ em nghi ngờ cái tình của anh đối với em Nhưng anh nghĩ xem, dẫu yêu anh đến bực nào em cũng không thể bỏ cha mẹ, anh em, làng nước một cách thản nhiên.” [17; tr,79]. Cũng là thời gian tâm lí, Lạnh lùng không chỉ xoay quanh thời gian qua khứ mà còn hướng tới thời gian tương lai qua mơ ước, cảm nhận của nhân vật. Tuy nhiên tương lai trong Lạnh lùng được cảm nhận trên nền hiện tại qua cảm nhận của nhân vật Nhung. Khi thực tại tối tăm, ảm đạm, quá khứ lại gợi thêm đau buồn cho Nhung thì tương lai cũng nhuốm màu xám xịt. Nhung đã từng vẽ ra viễn cảnh tương lai “Nàng sẽ thoát được hẳn cái đời tốt đẹp giả dối để sống một đời bình thường nhưng ngay thẳng”[17; tr,1]. Một ước mơ, bình dị nhưng ấm áp. Nhưng những hành động “lạt mềm buộc chặt” và lối “chửi” đầy bóng gió của bà án đã nhanh chóng làm thui chột ước muốn tươi đẹp đó. Những câu mắng người ở của bà khiến Nhung nghĩ tới thân phận và trách nhiệm của mình trước quan niệm gia phong, cổ hủ ấy: “Thôi biết điều thì về với chồng cho phải đạo vợ chồng. Đừng học cái thói lăng loàng nữa làng nước người ta cười cho ”, “Nó đánh cho là phải lắm còn kêu ca gì nữa. Mày thì còn chết nếu không chừa cái tính đĩ thõa của mày đi. Tao còn lạ gì nữa Rõ thật, bao nhiêu năm ở với chủ mà không học được mảy may tính nết của chủ ” [17; tr,117]. Thời gian tâm lí không chỉ cho thấy những hủ tục nặng nề quái ác ở chốn thôn quê mà thông qua dòng thời gian tâm lí thấy được tâm hồn khao khát tự do, khát khao hạnh phúc. Họ mơ ước về một mái nhà êm ấm, bình dị ở 30
  37. chốn thôn quê Hưng Hóa với những mảnh đất được ông cha để lại. Họ chỉ ước được sống một cuộc đời bình yên, không vướng bận chuyện thanh danh, không chịu bó buộc bởi những định kiến xã hội. Ở đầu tác phẩm cách xưng hô “ông giáo - mợ” rồi chuyển sang “anh - em” đến cuối tác phẩm cách xưng hô thay đổi rõ rệt “vợ - chồng”: “Chúng mình chính thức là vợ chồng, vợ chồng đúng nghĩa Đến tháng sau vợ chồng mình lại họp mặt” [17; tr,160]. Bên cạnh cách xưng hô thân mật là những lời hứa hẹn của Nghĩa để minh chứng tình cảm và xen lẫn chút quan tâm “Tết năm nay anh sẽ về chùa làng em. Anh sẽ hẹn em ở vườn chùa, đúng chỗ năm ngoái, để vợ chồng mình mừng tuổi xuân lẫn nhau” [17; tr,162]. Những viễn cảnh hạnh phúc trên đều chưa thành hiện thực mà chỉ diễn ra trong ý nghĩ của Nhung. Tương lai trong Lạnh lùng không chỉ là một tương lai ảm đạm mà còn là một yếu tố nghệ thuật mang đậm tính nhân văn. Dù chỉ là mơ hồ, thoáng qua nhưng đó là khát vọng sống, là niềm tin, ước mơ chân chính cần có, đáng có ở mỗi người. Thời gian tâm lí trong tiểu thuyết của Nhất Linh đã miêu tả thế giới bên trong nhân vật với nhiều vấp váp, đứt quãng, những “dích dắc, tiến lên, lùi lại”. Chú trọng đến miêu tả nội tâm con người, Nhất Linh đã thành công trong sáng tạo thời gian thời gian tâm lí để khắc họa dòng ý thức với những diễn biến đa chiều trong tâm hồn nhân vật. 2.2. Biểu hiện không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lạnh lùng 2.2.1. Không gian thiên nhiên Nhắc đến thiên nhiên người ta cảm thấy nó quen thuộc, gần gũi, bình dị, trong văn học cổ thiên nhiên gắn liền với tâm trạng con người, bày tỏ nỗi lòng của nhân vật. Còn thiên nhiên trong Lạnh lùng là thiên nhiên mới mẻ, vui tươi đầy cảm hứng. Không gian thiên nhiên trong tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất Linh rất phong phú và đa dạng có thể là hương thơm của hoa huệ lẫn hương thơm hoa 31
  38. lý, hoa nhài tản mạn hoặc một cơn gió thổi qua rào rào rặng tre sau nhà Miêu tả thiên nhiên là một dụng ý nghệ thuật của tác giả, nhờ có không gian thiên nhiên mà không gian tiềm ẩn mới dám giãi bày, thổ lộ để tìm ra cái mới trong tâm hồn mình. Không gian thiên nhiên luôn song hành cùng với tâm trạng của nhân vật. Trong Lạnh lùng Nhung nhìn những đám mây nguyên ở góc trời cũ mà tưởng như đó là “cuộc đời bằng phẳng của nàng”. Lạnh lùng có 28 đoạn miêu tả hình ảnh thiên nhiên thể hiện tâm trạng của nhân vật luôn khát khao lí tưởng, khao khát hạnh phúc. Qua cái nhìn chủ quan của nhà văn, thiên nhiên trở nên thơ mộng, lãng mạn hơn: “Những đường nét xù xì, góc cạnh, những đường nét gân guốc, hùng vĩ của hiện thực đã bị loại ra ngoài quan niệm thẩm mỹ của các nhà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn” [32; tr,93]. Cũng có thể là một vùng nông thôn yên bình, đầy ánh sáng: “Trời nắng to và gió thổi mạnh. Mấy cành táo trĩu quả lúc khuất hẳn sau tường nhà, lúc hiện ra rào rào ánh sáng” (Đôi bạn). Không gian thiên nhiên đẹp đẽ và thơ mộng ấy thường chợt gợi nhớ cảm xúc ùa về, đánh thức những ấn tượng từng trải hay những tâm trạng quá khứ của nhân vật. “Hàng cây cao yên lặng nghiêng mình soi bóng xuống mặt nước xanh rêu không động, làm mây bạc ngập ngừng dừng lại trên ngọn đồi xa diễn tả tâm trạng người thanh niên đang chờ đợi người năm ấy” (Đôi bạn), “mùi hương hoa khế dịu dịu thoảng qua”, đánh thức trong tâm hồn Dũng cảm giác lâng lâng, sung sướng “vì tình yêu trong buổi hẹn hò”. Còn Loan (Đoạn tuyệt) “hình ảnh con đường trắng quanh co dưới chân đồi” gợi cho nàng nhớ về con đường của chàng đương đi và cho cô cảm giác “được sống trong giây lát cái đời của Dũng”. Không gian thiên nhiên thơ mộng, trữ tình phù hợp với tâm trạng nhân vật luôn khao khát lí tưởng, khát khao hạnh phúc. Thiên nhiên trong Lạnh lùng thường được tác giả miêu tả rất ngắn, gắn liền với tâm trạng của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Giữa cảnh sắc 32
  39. thiên nhiên và tâm hồn con người thường có sự đồng điệu. Đi sâu khai thác tác phẩm, chúng tôi nhận ra rằng thiên nhiên được miêu tả một cách chủ quan qua sự cảm nhận của con người. Nó không còn là vẻ đẹp thuần túy của cỏ cây hoa lá như Kiều trong đoạn trích Cảnh ngày xuân (Nguyễn Du): “Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”, mà là vẻ đẹp thiên nhiên rực rỡ đầy màu sắc. Cảnh sắc thiên nhiên trong Lạnh lung rất thoáng đãng với hình ảnh sông nước, núi rừng mênh mông làm cho tâm hồn Nhung mở ra để đón nhận những cái mới mẻ. Thiên nhiên như bị hòa tan trong cảm giác: “Ánh sáng sắp sửa không còn là ánh sáng nữa, mùi hương như mơ hồ không phải là mùi hương nữa, tiếng sáo phải quên đi xuất xứ của nó; không gian phải loang ra, phải tan đi, phải mở dần để không còn là một không gian nữa mà trở thành sự hòa hợp giữa nội tâm và ngoại giới”. Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du từng nói: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, ngoại cảnh tác động tới tâm cảnh. Qua cách cảm nhận thiên nhiên, tâm trạng của nhân vật được bộc lộ. Nhất Linh miêu tả rất tỉ mỉ không gian thiên nhiên trong từng khoảnh khắc, nắm bắt trọn vẹn tâm trạng của nhân vật. Khi pha chè ướp hoa sen cho vị khách của mẹ, quay trở lại bàn trò chuyện với Nghĩa và Lịch nhưng không còn ai ngồi đó, chỉ còn trơ lại cái khăn phủ bàn và mấy cái ghế không. Nàng tỏ ra thất vọng xen lẫn chút buồn “Nắng đã tắt hẳn. Ánh sáng trời chiều êm dịu tỏa mờ mờ trên vườn cây, sân gạch. Nhung đứng dựa cột vào nhà. Nhìn thấy cái ghế không, nàng thấy buồn bã lạ thường, cái buồn vô cớ tự nhiên đến” [17; tr,24]. Không gian thiên nhiên tác động đến nhân vật làm cho nhân vật có tâm trạng buồn thương, tiếc nuối vì bỏ lỡ những điều mong mỏi bấy lâu. Không gian thiên nhiên rộng lớn dẫn đến tâm trạng của nhân vật cũng phức tạp hơn. Hạnh phúc đến thật bất ngờ, nàng cảm thấy run rẩy, choáng váng trong lần đầu tiên nhận được bước thư tình của Nghĩa. Ở đây, Nhung 33
  40. mong mỏi được đọc bức thư, được về nhà thật nhanh, hi vọng bức thư sẽ tỏ rõ những điều nàng nghĩ. Nhung cảm thấy vui tươi, yêu đời, nàng nhìn thấy thiên nhiên hôm nay trở nên đẹp đẽ lạ thường “Nhung nhìn lên, thấy trời cao và rộng hơn mọi ngày. Sau những ngọn tre non, lấm tấm lá xanh, nghiêng ngả trước gió, những đám mây trắng bay lẹ làng và trông như rung động trong ánh sáng rực rỡ” [17; tr,50]. Tiếp đến, nhà văn không quên mượn hương thơm quyến rũ của các loài hoa tỏa hương ban đêm để thể hiện tâm trạng ngây ngất, lãng mạn của Nhung trong những phút giây nhớ về đêm động phòng hoa chúc “Hương thơm hoa huệ lẫn với hương thơm hoa lý, hoa nhài tản mạn trong không khí thanh tịnh ban đêm, phảng phất quanh chỗ Nhung ngồi khiến Nhung tưởng như tóc nàng cũng đượm hương thơm ngát. Nàng ngây ngất nhớ lại đêm động phòng hoa chúc năm năm về trước, hồi nàng mới mười tám tuổi, vì hương thơm mấy thứ hoa đêm nay phảng phất giống mùi nước hoa mà các chị em phù dâu đã vẩy trên chăn, gối cưới của nàng” [17; tr,7]. Không gian ở vùng quê Hưng Hóa được miêu tả thơ mộng, hữu tình rất thích hợp với khát vọng hạnh phúc của họ. Không gian sông nước rộng lớn với một chiếc thuyền nhỏ và họ ngắm nhìn những cảnh vật xung quanh khiến cho tâm hồn Nhung được vượt thoát những lo âu thường ngày. “Khi thuyền ra giữa sông, nhìn dải nước rộng bao la chạy dài đến tận những rặng núi màu lam sẫm màu chắn ngang về mạn Hòa Bình, Nhung ngây ngất lảo đảo như con chim ở lâu trong lồng được thả ra nơi đồng ruộng” [17; tr,127]. Khi người ta được sống là chính mình, không phải đóng vai giả dối thì con người mới nhận ra được chân lý của cuộc sống, được sống thanh thản, tận hưởng. Thời gian diễn tả thiên nhiên chỉ xảy trong một ngày, song tác giả đã gửi gắm vào không gian thiên nhiên đó niềm khao khát về hạnh phúc, mưu cầu luyến ái và đòi quyền tự do cá nhân. Không giống với văn học lãng mạn, trong văn học hiện thực, không gian xã hội được chú ý đến nhiều, vì thế mà ít chú ý miêu tả thiên nhiên. 34
  41. Thiên nhiên trong văn học hiện thực không phải là cảnh sắc thơ mộng, hữu tình của những đêm trăng sáng hay những cánh đồng thơm mùi lúa mới mà là thiên nhiên chân thực, rõ nét như bản thân cuộc sống. Điển hình trong tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố là không gian thiên nhiên của những tháng ngày oi bức, ngột ngạt. Bằng bút pháp tả thực triệt để, thiên nhiên hiện lên như nó vốn có: “Ánh nắng tháng năm rát như lửa chàm vào mặt. Hơi nước đồng bốc lên, nóng như bơi trong chõ xôi. Những con cua chửa và những con rắn nước chịu không nổi sức nóng của nước đồng ruộng, rủ nhau bò lên mặt đường và núp vào các khóm cỏ Trong lúc nắng gắt, người ta coi đoạn đường ấy như con đường thiên lý trong bãi cát già”. Không phải ông ngẫu nhiên chọn bối cảnh thiên nhiên vào tháng năm oi bức để miêu tả. Nó được cộng hưởng với không khí ngột ngạt trong những ngày sưu thuế tạo nên khung cảnh đầy u ám, căng thẳng của Tắt đèn. Trong tác phẩm được thống kê chúng tôi thấy rằng có không ít lần tác giả miêu tả ánh nắng nhưng không phải là nắng sớm mai hay ánh nắng hoàng hôn nhẹ nhàng, hiu hắt mà “nắng tây gay gắt đến nửa thềm”, “nắng quái in ánh vàng trên dãy ngọn tre”, “trời đang nắng gắt, tự nhiên thấy tối sầm lại. Một đám mây đen lù lù tiến từ phía nam lên phía bắc. Chân trời nhấp nhoáng hiện mấy luồng chớp. Tiếng sấm tiếng sét theo cơn going đồng thời kéo đến. Nước mưa đổ xuống ầm ầm một lát sau, gió im dần, mưa tạnh dần, trời cũng quang dần, rồi thì ánh nắng lại ở trên đầu dọi xuống như thiêu như đốt”. Thiên nhiên và con người có sự soi chiếu, đồng hiện vào nhau, bổ sung cho nhau chứ không triệt tiêu nhau, làm giảm không khí nặng nề. 2.1.2. Không gian tâm lí Bên cạnh việc khắc họa không gian thiên nhiên là không gian tâm lí. Nếu không gian thiên nhiên tồn tại bên ngoài nhân vật thì không gian tâm lí là không gian diễn ra trong nội tâm nhân vật. Nó tồn tại trong kí ức, những giấc mơ, hồi tưởng và đã trở thành dấu ấn, thành ám ảnh dài lâu trong cuộc đời nhân vật. 35
  42. Không gian tâm lí là khoảng cách giữa hai trái tim đang gần nhau về không gian tâm tưởng nhưng lại chưa hòa chung một nhịp đập trái tim, chung một hơi thở. Cơn mưa ngâu kéo đến, hai người cùng đứng dưới hiên cổng, nàng sợ rằng người nhà sẽ nhìn thấy. Những hạt mưa nổi bong bóng “Hai người cùng nghĩa ngay đến Ngưu Lang và Chức Nữ. Nhung đoán Nghĩa đang nhìn mình; nàng rút khăn chấm những hạt mưa đọng trên tóc, trên má rồi thong thả quay lại. Hai người lặng lẽ nhìn nhau. Nhung không hiểu sao lúc đó mình bạo dạn đến thế có thể nhìn vào mặt Nghĩa lâu được như vậy” [17; tr,32]. Không gian tâm lí tưởng chừng như vô lý nhưng lại thật có lý, tác giả chủ ý cho hai nhân vật gặp nhau để cho tính cách được bộ lộ. nàng “cắm đầu bước xuống vườn mê man quên cả mưa, đi vội vã như người đi trốn”, cách nàng bỏ trốn như một lời thú tội ngọt ngào “rằng mình yêu Nghĩa”. Nhung cố gắng kìm nén cảm xúc, trói chặt những khát vọng chính đáng, điều đó buộc nàng phải chấp nhận một nỗi khổ âm thầm, đang diễn ra diễn ra âm ỉ trong tâm hồn. Không gian thiên nhiên nơi chùa chiền không chỉ là chỗ linh thiêng thờ cúng mà còn là nơi nhân vật giãi bày nỗi lòng. “Khi đi qua vườn vắng, nhìn bóng mình lướt trên cỏ, Nhung nghĩ đến cái thú của những đôi tình nhân kề vai nhau dưới bóng cây nói chuyện” [17; tr,57]. Đôi lúc Nhung muốn liều cùng đi với Nghĩa sống cuộc đời vợ chồng “Sống một cảnh đời giản dị, bên cạnh người yêu, ở một chốn xa xôi không còn liên lạc gì với cái xã hội nặng nề cũ” [17; tr,129]. Viết về uớc mơ bình dị ấy, tác giả muốn nhấn mạnh lại một lần hạnh phúc có thể sản sinh bất cứ nơi đâu, cho dù là nơi tăm tối nhất. Nhưng với cuộc sống hiện tại Nhung lại vẫn muốn giữ được tiếng thơm, vẫn muốn gọi người kính trọng mình. “Nàng nghĩ đến tiếng thơm của mình, của nhà, để khỏi bị cám dỗ; nhưng tiếng gọi của sự ân ái vẫn có sức mạnh hơn, lúc nào cũng tha thiết vẳng bên tai. Mỗi lần nghĩ đến cái thú lén lút tới nhà Nghĩa, được gặp Nghĩa, nàng thấy hoa cả mắt và trong lòng rung động một cách êm ái” [17; tr,115]. 36
  43. Từ hôm Nghĩa đi, nàng được trở về cuộc sống của một người mẹ, người vợ, người con đức hạnh. Nàng nghĩ về cuộc đời của chính nàng cứ êm ả cho đến khi tóc bạc. Rồi nàng tự hỏi “Như thế để làm gì?”, “Nhìn giậu duối bên đường Nhung nhớ lại một đêm, trời sáng trăng ở tỉnh về gặp Nghĩa. Hai người cùng đi song song một quãng như đi trên con đường mơ mộng. Nàng như còn thấy rõ trước mắt cái cảnh huyền ảo đêm hôm đó; hai hàng giậu duối mới cắt, vì có những lá duối bóng ướt sương đêm, phản chiếu ánh trăng nên trông lấp loáng như nở đầy hoa trắng” [17; tr,105]. Dù ở không gian nào nàng cũng nhớ về một thời tươi đẹp, một thời ngắn ngủi nàng được sống là chính mình. Nhung luôn sống trong sự trái ngược nhau trước sự lựa chọn hiện tại và tương lai: “Ngồi trong xe nhìn ra cảng hàng phố và những người qua lại dưới trời mưa. Nhung rạo rực hối hận, nàng thấy nàng là một người hư hỏng và đời nàng là một đời bỏ đi, tan tác, rã rời như những cây ướt bị mưa gió bên đường. Nàng có ngờ đâu có ngày lại sa xuống thấp như thế này được, nàng rưng rưng khóc. Nhưng cùng với giọt lệ ứa ra ở khóe mắt Nhung thấy một nỗi sung sướng man mác nảy ra trong lòng với những điều ước vọng mơ màng về cuộc đời mới mẻ, đáng sống và tốt hơn cả đời nhơ nhuốc của nàng hiện giờ” [17; tr,125]. Đó chính là sự mâu thuẫn giữa hạnh phúc thật trong tương lai với cái sung sướng hão huyền của thực tại, hai bên không ngừng đấu tranh quyết liệt trong tâm tưởng Nhung. Không gian sẩm tối, trên đường trở về nhà sau một ngày đi chơi ở Hưng Hóa về nàng cảm thấy mệt mỏi. “Nhung vừa đi trên con đường làng vừa nhớ lại những cảnh vui đẹp của cuộc đi chơi vụng trộm mà nàng thấy ngắn ngủi quá. Con đường hai bên trồng xoan tây từ bến Trung Hà vào Hưng Hóa và quả đồi làng Nghĩa bên kia đầm Thượng Nông với những nóc nhà tranh ẩn trong lũy tre làng, Nhung tưởng như những cảnh của một thế giới sáng láng, đẹp đẽ nàng được thoáng trông thấy trong mộng” [17; tr,130]. Trong những giờ phút đầy tâm trạng tiếc nuối, nghĩ suy đó tình cảm đã vượt lên lí trí. Khi 37
  44. bước chân ra khỏi lũy tre làng, Nhung thấy cuộc đời mình tươi sáng hơn, hi vọng vào những điều tốt đẹp. Không phải đến văn học lãng mạn, không gian tâm tưởng mới được tập trung chú ý. Viết về tâm tạng của người con gái trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết về hình ảnh quê hương “dặm ngàn nước thẳm non xa” hình ảnh này được trở đi trở lại trong tác phẩm thể hiện tâm trạng nhớ day dứt, không nguôi khi nghĩ về quê hương trong hành trình 10 năm lưu lạc. Lạnh lùng là cuốn tiêu biểu của Nhất Linh nói riêng và trào lưu văn học lãng mạn nói chung đi sâu vào thế giới bên trong tâm hồn con người. Song bên cạnh đó việc tái hiện không gian bề sâu của nhân vật nhắm khơi gợi cảm xúc, mưu cầu hạnh phúc chính đáng của nhân vật. Do đặc trưng riêng biệt của trào lưu các nhà văn lãng mạn nói chung và Nhất Linh nói riêng thường để cho “cái viết” của mình “phiêu lưu” triền miên trong thế giới bên trong tâm hồn nhân vật. 38
  45. KẾT LUẬN 1. Với vai trò trụ cột của Tự lực văn đoàn, Nhất Linh đã có những đóng góp xứng đáng cho nền văn học nước nhà, đặc biệt là ở lĩnh vực tiểu thuyết. Không chỉ đổi mới về nội dung, tiểu thuyết của ông đã thể hiện những cách tân sâu sắc về nghệ thuật. Chính vì vậy, thế giới nhân vật trong sáng tác của ông xuất hiện trước mắt người đọc luôn sinh động, đa dạng về tính cách, đầy đặn, sâu sắc về tâm lí. Ông đặc biệt thành công khi hướng tới khắc họa tâm lí của con người. Dưới ngòi bút của ông, thế giới tâm hồn con người không chỉ dừng lại ở các trạng thái cảm xúc, cảm giác mà còn là cả dòng ý thức trôi chảy với những trăn trở, khát vọng, niềm vui đan xen với nỗi đau, buồn thương sự ám ảnh. Thể hiện thành công con người là đóng góp đặc biệt của Nhất Linh cho Tự lực văn đoàn nói riêng và tiểu thuyết hiện đại nói chung. 2. Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất Linh là các hình thức nghệ thuật góp phần đắc lực trong nghệ thuật miêu tả nhân vật. Để diễn tả và lí giải những mâu thuẫn trong thế giới tâm lí phức tạp của nhân vật, ông đã tạo ra các tình huống đặc thù mà ở đó nhân vật có khả năng, điều kiện để giãi bày những mơ ước khát vọng thầm kín, để sống thành thực với chính mình. Không dừng lại ở đó, đặt nhân vật trong thời gian và không gian nghệ thuật phù hợp để, Nhất Linh đã thể hiện được ý đồ và chủ đề của tác phẩm, từ đó bộc lộ thái độ và tư tưởng của mình. Toát lên ở Lạnh lùng là ý thức mạnh mẽ chống lại lễ giáo phong kiến cổ hủ, hẹp hòi đang kìm hãm cuộc đời của con người và khát vọng mạnh mẽ hướng tới cuộc sống tư do, hạnh phúc chính đáng của con người cá nhân. 3. Nghiên cứu thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lạnh lùng đã mang đến nhiều khám phá thú vị và độc đáo trong hướng tiếp cận tác phẩm trên phương diện thi pháp học. Không gian và thời gian nghệ 39
  46. thuật đã góp phần thể hiện sự vận động trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nhất Linh. Với ý nghĩa này, Nhất Linh thật sự là nhà văn có đóng góp xứng đáng trong tiến trình vận động của văn học Việt Nam nói chung, thể loại tiểu thuyết nói riêng theo hướng hiện đại. 40
  47. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Xuân Bảo (1972), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB Sài Gòn. 2. Trương Chính (1939), Dưới mắt tôi, NXB khoa học xã hội, Hà Nội. 3. Vũ Thị Khánh Dần (1997), Tạp chí văn học số 3, Nhìn nhận tiểu thuyết Nhất Linh hơn nửa thế kỉ qua 4. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội. 5. Nhóm Lê Quý Đôn (1957), Lược thảo văn học sử Việt Nam, NXB Xây dựng, Hà Nội. 6. Hà Minh Đức (Chủ biên) (1993), Giáo trình Lí luận văn học, NXB Văn hóa, Hà Nội. 7. Vũ Gia (1995), Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học, NXB Văn hóa, Hà Nội. 8. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004) Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 9. Lê Cẩm Hoa (biên soạn) (2000), Nhất Linh - con người và tác phẩm, NXB Văn học, Hà Nội. 10. Dương Thị Hương (2001), Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, Luận án TS, ĐHSP Hà Nội. 11. Đoàn Thị Hương (2015), Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, Hà Nội. 12. Trịnh Hồ Khoa (1997), Những đóng góp của Tự lực văn đoàn cho văn xuôi Việt Nam hiện đại, NXB Văn học, Hà Nội. 13. Nguyễn Hoành Khung (1979), Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945, tập 1, NXB Khoa học - Xã hội, Hà Nội. 14. Mặc Lâm, 2007, Hai nhà văn Nhất Linh và Khái Hưng của nhóm Tự lực văn đoàn.
  48. 15. Đ.X. Likhachép, Thi pháp văn học Nga cổ, Matsxcơva, 1979. 16. Nhất Linh (1961), Viết và đọc tiểu thuyết, NXB Văn hóa Sài Gòn. 17. Nhất Linh (2006), Lạnh lùng, NXB Văn hóa Sài Gòn 18. Khúc Hà Linh (2017), Anh em Nguyễn Tường Tam Nhất Linh ánh sáng và bóng tối, NXB Thanh Niên. 19. Phương Lựu (1997), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 20. Phạm Thế Ngũ (1965), Việt Nam văn học sử giảm ước tân biên, Tập 3, Quốc học tùng thư xuất bản, Sài Gòn. 21. Vũ Ngọc Phan (1994), Nhà văn hiện đại, tập 2, NXB Khoa học - Xã hội, Hà Nội. 22. Trần Đăng Suyền (2012), Văn học Việt Nam hiện đại tập 1, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 23. Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam (1987), Lí luận văn học tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội. 24. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu 25. Trần Đình Sử (1993), Thi pháp học hiện đại, tập 1, NXB Văn học, Hà Nội. 26. Trần Đình Sử, Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Tác phẩm mới, 1987, tái bản NXB Giáo dục, 1995. 27. Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, 1995, tái bản, 1997. 28. Hoài Thanh, Hoài Chân (1942), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội. 29. Lê Ngọc Trà (1990), Lí luận và Văn học, NXB Văn học, Hà Nội. 30. Nguyễn Văn Xung (1958), Bình giảng về Tự lực văn đoàn, NXB Giáo dục, Hà Nội. 31. Website, http:// www.vietmessenger.com 32. Website, http:// www.evan.com