Khóa luận Thân phận trẻ thơ trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời của Ma Văn Kháng
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thân phận trẻ thơ trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời của Ma Văn Kháng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_than_phan_tre_tho_trong_tieu_thuyet_coi_cut_giua_c.pdf
Nội dung text: Khóa luận Thân phận trẻ thơ trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời của Ma Văn Kháng
- TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN XÌN THỊ XUYÊN THÂN PHẬN TRẺ THƠ TRONG TIỂU THUYẾT CÔI CÚT GIỮA CẢNH ĐỜI CỦA MA VĂN KHÁNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH HÀ NỘI, 2017
- LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh - giảng viên khoa Ngữ văn, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm khóa luận tốt nghiệp. Tôi xin cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc biệt là các thầy, cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam đã cung cấp kiến thức về văn học và tạo điều kiện tốt nhất để tôi có thể thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Những kiến thức đó sẽ tạo tiền đề cho tôi trong suốt quá trình học tập và công tác sau này. Để hoàn thành khóa luận này tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của gia đình, bạn bè, những ngƣời thân là điểm tựa vững chắc để tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập và nghiên cứu. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 4 năm 2017 Sinh viên Xìn Thị Xuyên
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự hƣớng dẫn của TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào. Những tài liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá đƣợc chính tác giả thu thập từ những nguồn khác nhau có ghi trong phần tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất kì sự sai lệch nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm! Hà Nội, tháng 4 năm 2017 Sinh viên Xìn Thị Xuyên
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 2 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 5 5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5 6. Đóng góp của khóa luận 6 NỘI DUNG 7 Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT CHUNG 7 1.1. Thể loại tiểu thuyết trong đời sống văn xuôi Việt Nam đƣơng đại 7 1.2. Ma Văn Kháng và hành trình sáng tác tiểu thuyết 9 1.2.1. Tiểu sử Ma Văn Kháng 9 1.2.2. Hành trình sáng tác tiểu thuyết của Ma Văn Kháng 11 1.3. Đề tài trẻ thơ trong sáng tác của Ma Văn Kháng và tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời 13 Chƣơng 2. SỰ THỂ HIỆN THÂN PHÂN TRẺ THƠ TRONG TIỂU THUYẾT CÔI CÚT GIỮA CẢNH ĐỜI CỦA MA VĂN KHÁNG 17 2.1. Thân phận trẻ thơ côi cút trong đời sống gia đình 17 2.2. Thân phận trẻ thơ trong nhà trƣờng 22 2.3. Thân phận trẻ thơ trƣớc những nghịch cảnh ngang trái của xã hội 27 Chƣơng 3. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN THÂN PHẬN TRẺ THƠ TRONG TIỂU THUYẾT CÔI CÚT GIỮA CẢNH ĐỜI CỦA MA VĂN KHÁNG 33 3.1. Nghệ thuật kể chuyện 33 3.2. Ngôn ngữ 36 3.3. Giọng điệu 38 KẾT LUẬN 45 TÀI LIỆU THAM KHẢO
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ma Văn Kháng là cây bút tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ông là một trong số ít các nhà văn viết khỏe, viết đều trong bất cứ hoàn cảnh nào. Cho đến nay, Ma Văn Kháng đã có gần 200 truyện ngắn, 13 cuốn tiểu thuyết và 4 truyện viết cho thiếu nhi. Từ đó, ông đã tạo cho mình một phong cách riêng, chỗ đứng riêng trong nền văn học nƣớc nhà. Đặc biệt, Ma Văn Kháng là cây bút có nhiều đóng góp trong sự nghiệp đổi mới văn xuôi sau 1986, với những tác phẩm mở đầu nhƣ Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng trong vườn (1985). Ông không tìm cách đƣa ra những tuyên ngôn nghệ thuật mang tính chất “gây chấn động” nhƣ những nhà văn khác (Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải), mà chọn cho mình cách chiến đấu thầm lặng bằng những bƣớc đi vững chắc với những tác phẩm từ đó góp sức, góp thành tựu cho sự nghiệp đổi mới văn xuôi sau 1986 nói riêng và cho nền văn học dân tộc nói chung. Ma Văn Kháng là nhà văn chuyên viết cho ngƣời lớn, nhƣng ông cũng gặt hái đƣợc nhiều thành công khi thử sức với những tiểu thuyết dành cho thiếu nhi. Trong đó, phải kể đến Côi cút giữa cảnh đời, tiểu thuyết đƣợc xuất bản vào năm 1989 và vinh dự nhận giải thƣởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2012. Âm hƣởng của toàn câu chuyện nhƣ một tiếng thở dài não ruột, cuộc sống ngổn ngang, còn nhiều thân phận xứng đáng đƣợc hƣởng hạnh phúc lại bị đọa đầy vùi dập. Nhƣng họ vẫn tồn tại bởi“sự sống chẳng bao giờ chán nản”. Văn học thiếu nhi là một bộ phận của nền văn học dân tộc. Mặc dù ra đời sau và phát triển muộn hơn các bộ phận văn học khác nhƣng văn học thiếu nhi đã có những đóng góp quan trọng trong đời sống văn học cả về mặt nội dung lẫn hình thức biểu hiện. Tuy nhiên, việc mô tả - nhận diện - cắt 1
- nghĩa - định giá bộ phận văn học này vẫn chƣa đƣợc nhiều. Để có một sự tổng kết chính xác, đầy đủ, khách quan, khoa học và công bằng đối với một hiện tƣợng, một trào lƣu, một bộ phận hay một giai đoạn văn học các nhà nghiên cứu nhận thấy vừa phải có những tiếp cận đa chiều vừa phải có một độ lùi thời gian cần thiết. Trong hành trình lâu dài của việc đánh giá văn học thiếu nhi, những nhận xét, đánh giá đều là những sự chuẩn bị quan trọng và thiết yếu. Do vậy, bản thân chúng tôi từ lâu đã rất quan tâm đến văn học thiếu nhi cũng mong muốn đƣợc đóng góp một phần khiêm tốn của mình vào công việc chung đó. Từ những lí do trên chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu: Thân phận trẻ thơ trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời của Ma Văn Kháng. Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sẽ góp phần bổ sung một cái nhìn mới về thân phận của những đứa trẻ trong tiểu thuyết viết về thiếu nhi của Ma Văn Kháng. 2. Lịch sử vấn đề Năm 2012, cuốn tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời xuất bản vào năm 1989 nhận giải thƣởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật. Sau khi ra đời, tiểu thuyết này đã thu hút sự quan tâm chú ý của giới nghiên cứu, phê bình trong đó phải kể đến: Nhà nghiên cứu Phong Lê trong cuốn Vẫn chuyện Văn và Người đã nhận xét:“Côi cút giữa cảnh đời viết cho lứa tuổi thiếu nhi. Cuốn sách chất đầy những đau khổ, oan khiên lên thân phận ba bà cháu còm cõi, bơ vơ. Nếu chỉ là đau khổ và oan khiên thì chỉ làm nảy ở người đọc sự oan ức, phẫn nộ, người ta mím môi, nghiến răng. Nhưng để làm rơi được giọt nước mắt thì phải có một cái gì đó khác, hoặc cao hơn sự căm giận, sự phẫn nộ. Có đó chỉ có thể khơi gợi được ở cái thiện, cái đẹp và tình người. Chưa thể nói ở đây cái thiện, tình người đã thắng, đã vượt lên được cái ác, đã đè bẹp được những 2
- tâm địa tối tăm. Nhưng nó đã có thể tồn tại mà không bị vùi dập. Và tôi nghĩ đó là chiến thắng của tác giả Cuốn sách của Ma Văn Kháng đã vục sâu vào sự tối tăm oan khổ đó như nhiều cuốn sách khác. Nhưng thật lạ ông lại đưa con người vào quỹ đạo những tình cảm nhân hậu, tốt lành. Có thể nói, đó là một hiệu quả thanh lọc, tẩy rửa. Cái hiệu quả thanh lọc này vốn dành cho nghệ thuật; và dường như cũng chỉ có một nghệ thuật đích thực Cuốn sách mạnh mẽ đẩy ta vào giữa dòng sống hôm nay với cảm hứng lớn là cảm hứng sự thật, và khát vọng bao trùm là khát vọng dân chủ; cũng đồng thời cho ta một sự gắn nối với mạch truyền thống là chủ nghĩa nhân văn và tình thương yêu con người”. Về nhân vật thiếu nhi trong tiểu thuyết, nhà nghiên cứu Phong Lê cũng nhận định:“Nhân vật bé Duy cho ta hình ảnh là một sự chống chọi để vượt lên bao đau khổ, đau khổ mà không quá tầm thường với lứa tuổi lên mười, mà không cường điệu, giả tạo” [10, tr.193 - 198]. Văn Hồng trong bài viết Chuyện văn, chuyện người đánh giá cao tƣ tƣởng nghệ thuật sâu sắc của tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời:“Đồng tiền, quyền lực cũng như các tài sản vật chất khác chung quy chỉ là phương tiện. Người nào coi đồng tiền, quyền lực là mục đích, người đó sẽ trở thành kẻ ác, giẫm đạp lên người khác và tự phá hoại cuộc sống của chính mình! Mục đích của chúng ta cao đẹp biết bao nhiêu, một cuộc sống có nghĩa, có tình, giàu về vật chất và tinh thần, giàu cho tất cả mọi người, hòa bình và hữu nghị cho tất cả các dân tộc!” [3, tr.9]. Nhà nghiên cứu Vân Thanh, tác giả cuốn sách Phác thảo văn học thiếu nhi Việt Nam cho rằng: Cuốn sách thu hút ngƣời đọc ở việc thể hiện cuộc sống thực đầy cay đắng và cũng không thiếu chất thơ diễn ra quanh ta. Cuốn sách nêu nhận xét của một số nhà phê bình nhƣ sau: “Cuốn sách thể hiện cuộc sống như một sự toàn vẹn. Không một cuộc phiêu lưu, không một pha đuổi bắt . Ở đây cái hấp dẫn là do tính cách và số phận những con người” 3
- (Văn Hồng). “Đọc Côi cút giữa cảnh đời có trang rơi nước mắt, có đoạn muốn gào lên” (Quần Phƣơng) [15, tr.388]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thiện trong bài viết Phong cách văn và đời cho rằng:“Trong văn học thiếu nhi, Ma Văn Kháng đã góp bốn truyện hay. Tác phẩm tâm huyết về chủ đề này của ông là tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời, được tái hiện trên cơ sở thu hút nhiều yếu tố tự truyện, đã được tổ chức SIDA (Thụy Điển) trao giải thưởng, bởi tác phẩm là tiếng nói xác tín và truyền cảm bảo hộ quyền sống và nhân cách con người ngay từ khi nó vẫn là một đứa trẻ non nớt và vụng dại” [17, tr.231]. Chính Ma Văn Kháng, tác giả của cuốn tiểu thuyết đã tự bộc lộ cảm xúc của mình và đƣa ra những lời nhận xét nhƣ sau:“Tác phẩm mà tôi yêu thích nhất là cuốn Côi cút giữa cảnh đời . Vì “Cuốn sách đặt con người vào dòng đời đương đại trong một hiện thực gay gắt và không ít buồn phiền đau đớn Côi cút giữa cảnh đời triển khai một cấu trúc gồm một loạt những gian truân cùng cực của ba bà cháu trong một cuộc vật lộn với thiếu thốn vật chất, mất mát tình cảm và những ức chế tinh thần. Tôi nghĩ văn học ta đã xây dựng khá sắc sảo hình tượng người vợ, người mẹ đại diện cho phụ nữ Việt Nam trong những cơn thăng trầm của lịch sử. Bây giờ tôi muốn có hình ảnh một người bà rộng lượng, khoan dung thương yêu hết mực, hi sinh hết thảy vì con, cháu và bền bỉ, ngoan cường, dũng cảm đối mặt với cái xấu, cái ác, là hiện thân cho lẽ phải, lòng tin và sự can đảm. Trong Côi cút giữa cảnh đời có hình bóng người mẹ kính yêu của tôi, người bà nội, người bà ngoại của các con cháu tôi ” [8, tr.247 - 248]. Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên mới dừng lại ở những nhận định chung nhất mà chƣa đi sâu vào tìm hiểu thân phận trẻ thơ. Tiếp thu gợi ý của những nhà nghiên cứu đi trƣớc, khóa luận của chúng tôi đi sâu nghiên cứu: Thân phận trẻ thơ trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời của Ma Văn Kháng. 4
- 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là tiểu thuyết Côi cút giữa ảnh đời của Ma Văn Kháng, do NXB, Hội Nhà văn ấn hành năm 2012. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Xuất phát từ nội dung cụ thể của đề tài và “tính vừa sức” của một khóa luận tốt nghiệp Đại học, chúng tôi không tìm hiểu toàn bộ những vấn đề trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời mà chỉ tập trung vào bình diện cơ bản: Thân phận trẻ thơ trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong khóa luận chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau: - Phƣơng pháp hệ thống - Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp - Phƣơng pháp so sánh đối chiếu - Phƣơng pháp liên ngành 5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu - Đặt tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời trong bối cảnh chung của đổi mới tiểu thuyết sau 1986. - Làm rõ thân phận trẻ thơ trong mối quan hệ với gia đình, nhà trƣờng và các mối quan hệ khác. - Chỉ ra và phân tích kĩ lƣỡng về tác dụng của một số yếu tố về hình thức nghệ thuật trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời. 5.2. Mục đích nghiên cứu - Thấy đƣợc thân phận trẻ thơ trong mối qua hệ gia đình, nhà trƣờng và các mối quan hệ khác. 5
- - Khảo sát tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời để thấy đƣợc điểm độc đáo của Ma Văn Kháng khi viết về đề tài trẻ thơ. 6. Đóng góp của khóa luận Khóa luận tập trung nghiên cứu về thân phận trẻ thơ trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời của Ma Văn Kháng. Qua đó, khẳng định tài năng nghệ thuật và vị trí của Ma Văn Kháng trong nền văn học đƣơng đại Việt Nam. 7. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa luận đƣợc triển khai theo ba chƣơng: Chƣơng 1. Giới thuyết chung Chƣơng 2. Sự thể hiện thân phận trẻ thơ trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời của Ma Văn Kháng Chƣơng 3. Một số phƣơng diện nghệ thuật thể hiện thân phận trẻ thơ trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời của Ma Văn Kháng 6
- NỘI DUNG Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT CHUNG 1.1. Thể loại tiểu thuyết trong đời sống văn xuôi Việt Nam đƣơng đại Văn học là tấm gƣơng phản chiếu hiện thực chân thực nhất. Mỗi nhà văn là những “tên mật thám” của tâm hồn sẵn sàng băng qua các đƣờng biên để tìm cái mới. Điều đó dẫn tới một chân lí“Thời đại nào, văn học đó”. Qủa vậy, sau 1986 đất nƣớc bƣớc vào công cuộc đổi mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định:“Đổi mới đất nước ta, đổi mới có ý nghĩa sống còn”. Đời sống sau hòa bình với những khó khăn, bộn bề đòi hỏi các nhà văn phải sáng tác đƣợc những tác phẩm giá trị, phản ánh đƣợc hơi thở của thời đại. Với tinh thần“cởi trói”,“dân chủ” mà Đảng ta đã khuyến khích, các nhà văn không còn bị gò bó theo những quy phạm, những khuôn khổ của giai đoạn trƣớc mà đƣợc thỏa sức sáng tạo, trải nghiệm. Họ luôn trăn trở, chủ động tìm cho mình một hƣớng đi mới thích hợp với sự vận động của xã hội - thời đại và xu hƣớng vận động của bản thân văn học. Dƣới ánh sáng của Đại hội Đảng lần VI, các nhà văn đã thực sự tìm ra đƣợc con đƣờng đi cho sáng tác của mình. Điều đó góp phần làm cho văn học có sự chuyển mình sâu sắc và đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Đời sống văn học đổi mới một cách toàn diện: nhà văn có sự thay đổi sâu sắc về quan niệm nghệ thuật, hiện thực về con ngƣời. Điều này khiến cho tác phẩm của họ có sự thay đổi về chủ đề, cảm hứng sáng tác và các thủ pháp nghệ thuật góp phần thay đổi thị hiếu thẩm mĩ của ngƣời đọc. Cùng với sự thay đổi toàn diện của văn chƣơng, tiểu thuyết cũng nỗ lực đổi mới để đáp ứng yêu cầu của thời đại. Trƣớc yêu cầu đổi mới, nhiều cây bút tiểu thuyết đã có ý thức cách tân trong cách nhìn, lối viết và đã cho ra đời “những đứa con tinh thần” thành công, có giá trị trên cả hai phƣơng diện nội dung và hình thức nghệ thuật. 7
- Điều đáng nói là thành phần sáng tác văn học lúc này có sự thay đổi mạnh mẽ, bên cạnh các nhà văn lão thành, các nhà văn trƣởng thành qua hai cuộc kháng chiến đã xuất hiện thế hệ của những nhà văn hậu chiến, nhà văn thời kì đổi mới và thậm chí bao gồm cả những cây bút hải ngoại. Tất cả đã tạo nên những động lực mới giúp tiểu thuyết Việt Nam vững bƣớc đi lên sánh ngang tầm thế giới. Đời sống văn học ngày càng dân chủ, cho phép các nghệ sĩ thỏa sức bộc lộ sự sáng tạo, đổi mới tƣ duy mà đặc biệt là về mặt tƣ duy thể loại. Nếu nhƣ tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn trƣớc 1975 thƣờng“cựa quậy” trong cái khung của thể loại truyền thống là kể lại một câu chuyện sao cho giống với thực chất, các nhà văn thƣờng khám phá nội dung hiện thực thông qua số phận nhân vật, qua mối quan hệ giữa nhân vật với hoàn cảnh thì nay tiểu thuyết sau 1975 đã xuất hiện những sinh thể đầy sức sống, dám chối từ lối mòn xƣa để vƣơn tới sự thể hện mới mẻ. Sau 1986, không khí đổi mới tiểu thuyết thực sự tràn vào đời sống xã hội và đời sống văn học, tiểu thuyết có điều kiện cân bằng lại trạng thái tâm lý con ngƣời. Dòng tiểu thuyết hƣớng nội tập trung khám phá những bí ẩn, những gì tinh tế nhất trong con ngƣời đã xuất hiện. Nhà văn Nguyên Ngọc ghi nhận“Văn học chăm chú quan tâm hơn đến con người với tư cách là một thế giới cá nhân phong phú, phức tạp, đa dạng, đa chiều, đa tầng trong nhiều mối quan hệ cũng hết sức phức tạp và đa dạng với toàn xã hội và với chính mình” [13]. Không loại bỏ xu hƣớng “hướng ngoại” và quan tâm hơn đến xu hƣớng“hướng nội”, tiểu thuyết giai đoạn này đã đi vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội, đối thoại với đời sống, đối thoại với cuộc đời để nắm bắt đƣợc“Cái hôm nay bề bộn, ngổn ngang bóng tối và ánh sáng” (Nguyễn Khải), đồng thời lặn sâu vào tâm hồn con ngƣời để lắng nghe tất cả những âm vang của tiếng lòng bí ẩn trong con ngƣời: có tiếng yêu thƣơng, có lời giận hờn, có cả những quanh co, những tính toán ngấm ngầm 8
- Có thể nói, chƣa bao giờ những vấn đề về đời sống xã hội mà văn học quan tâm hiện lên chân thực, sống động mà xót xa nhức nhối đến nhƣ thế ở trong tiểu thuyết. Các nhà văn đã khai thác đến tầng vỉa của hiện thực đời sống qua số phận con ngƣời, có khi qua những mảnh vỡ từ bi kịch làm ngƣời. Vì vậy, ta gặp trong tiểu thuyết hôm nay cái chật hẹp của“cõi nhân gian” và cái rộng lớn mênh mông sâu thẳm của cõi lòng nhỏ bé, qua số phận của những con ngƣời. Ngòi bút của các nhà văn đã lột ra mọi sự thật của đời sống dù cho điều đó làm họ cay đắng đến đâu chăng nữa. Đồng thời thấm vào từng dòng chữ lại là một tình yêu thƣơng, một niềm tin và sự đòi hỏi rất cao đối với con ngƣời, một con mắt thấu suốt làm những cái bình thƣờng hằng ngày hiện lên trong một ánh sáng mới lạ khiến ta không thể nào quên. Nhƣ vậy, tiểu thuyết sau năm 1986 đã có những bƣớc phát triển vƣợt bậc và mạnh mẽ, chứng tỏ sức sống mãnh liệt và sức cách tân không ngừng để tạo nên sự phù hợp với thời đại mới. Và một trong những nhà văn giữ vai trò chủ đạo trong sự nghiệp ấy là Ma Văn Kháng với những cách tân không ngừng trong sáng tác của mình. 1.2. Ma Văn Kháng và hành trình sáng tác tiểu thuyết 1.2.1. Tiểu sử Ma Văn Kháng Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh ngày 1 tháng 12 năm 1936, tại làng Kim Liên thuộc Kẻ Chợ, nay thuộc phƣờng Phƣơng Liên, quận Đống Đa, Hà Nội. Thuở xƣa vùng này nằm ở cửa ngõ phía Nam kinh thành Thăng Long, một vùng nông thôn lam lũ và nghèo khổ. Mọi ngƣời cần cù và chịu khó làm ăn nhƣng cuộc sống vẫn không thay đổi. Cho đến khi cách mạng về thì ngƣời dân đƣợc học hành, làng quê thay đổi da thịt. Cũng vì vậy, Ma Văn Kháng sớm ý thức đƣợc trách nhiệm của bản thân với đất nƣớc, với cuộc đời. Ông là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1950 Ma Văn Kháng học trƣờng Thiếu sinh quân Việt Nam. Từ 1952 - 1954, ông tiếp tục học tại trƣờng Sƣ phạm Khu học xá Nam Ninh 9
- (Quảng Tây - Trung Quốc). Năm 1960, Ma Văn Kháng vào học tại trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp, ông xung phong lên dạy học ở Lào Cai, là giáo viên dạy Văn, là hiệu trƣởng trƣờng trung học. Về sau ông đƣợc tỉnh ủy điều về làm thƣ kí cho Bí thƣ Tỉnh ủy Trƣờng Minh, rồi làm phóng viên, phó tổng biên tập báo của Đảng bộ Tỉnh. Bí danh Ma Văn Kháng đƣợc dùng làm bút danh để nói lên sự gắn bó sâu sắc và tình yêu của tác giả đối với vùng đất mà ông từng hoạt động hơn 20 năm. Sau khi đất nƣớc thống nhất, từ năm 1976 đến nay ông về công tác tại Hà Nội, từng làm Tổng biên tập, Phó giám đốc Nhà xuất bản Lao động. Từ tháng 3/1995 là Uỷ viên ban chấp hành, Uỷ viên Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam khóa V, Tổng biên tập Tạp chí văn học nƣớc ngoài. Đinh Trọng Đoàn khi mới ngoài hai mƣơi tuổi với lí tƣởng thời đại và lòng say mê văn học đã hăm hở đi lên vùng đất mới lạ và cũng rất vất vả, khó khăn - Lào Cai. Tại đây ông đã dâng hiến tuổi thanh xuân của mình và bạn bè, để xây dựng, thay đổi vùng đất còn nghèo nàn, lạc hậu này. Cũng chính nơi đây đã để lại cho ông nhiều kỉ niệm in sâu vào trong từng tác phẩm. Từ khi chuyển về Hà Nội công tác, Ma Văn Kháng vẫn cống hiến hết sức lực cho văn học qua nhiều tác phẩm. Xã hội đô thành với rất nhiều bộn bề, bon chen và phức tạp trở thành nguồn cảm hứng của ông trong giai đoạn này. Ông đã quan sát cuộc sống rất kĩ, từ dƣới lên trên, từ trên xuống dƣới, từ ngoài vào, từ trong ra, tất cả đều đƣợc phản ánh, nhào nặn qua ngòi bút của ông để tạo thành rất nhiều tác phẩm có giá trị. Cuộc đời Ma Văn Kháng là những chuyến đi, là sự trải nghiệm qua rất nhiều khó khăn và thăng trầm của lịch sử. Ông cống hiến hết mình, làm việc hết mình, không biết mệt mỏi để chi chút, chắt lọc từng mẩu nhỏ cuộc đời, tạo nên những nhân vật độc đáo, giàu cá tính. Có thể nói, Ma Văn Kháng đã toàn tâm, toàn lực để tạo ra những dòng văn giàu cảm xúc cho những trang tiểu thuyết của mình. 10
- 1.2.2. Hành trình sáng tác tiểu thuyết của Ma Văn Kháng Năm 1986 đƣợc coi là một dấu mốc đổi mới văn học Việt Nam. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã cởi trói cho văn nghệ sĩ, tạo tiền đề cho văn học Việt Nam bƣớc hẳn sang một thời kì mới, đem lại sự khởi sắc cho các thể loại. Hàng loạt tiểu thuyết viết theo khuynh hƣớng nhận thức lại ra đời, đƣa ngƣời đọc ra khỏi những lối mòn cũ của tƣ duy: Thời xa vắng (Lê Lự), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Bến không chồng (Dƣơng Hƣớng) Hành trình sáng tác của Ma Văn Kháng cũng có những bƣớc cách tân theo nhịp vận động và phát triển của văn học. Không phải là ngƣời “mở đường tinh anh và tài năng” nhƣ Nguyễn Minh Châu, nhƣng là nhà văn có cảm quan nghệ thuật và ý thức trách nhiệm với đời, Ma Văn Kháng đã góp phần tạo ra một lực ban đầu để chuyển động đời sống văn học theo hƣớng mới. Bút danh Ma Văn Kháng xuất hiện đầu tiên với truyện ngắn và những cuốn tiểu thuyết dày dặn về đề tài miền núi nhƣ Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Trăng non Trong những trang viết này, nhà văn miêu tả bức tranh lịch sử khá toàn diện về đời sống, tập tục sinh hoạt và cuộc đấu tranh nội tâm giằng xé của đồng bào dân tộc trong cuộc tiểu phỉ, bài trừ thổ ty phong kiến để đi theo con đƣờng chủ nghĩa xã hội. Bƣớc sang giai đoạn đổi mới, Ma Văn Kháng chuyển sang đề tài thành thị, tiếp tục chứng tỏ bản lĩnh của một ngòi bút đã định hình phong cách. Tiểu thuyết Mưa mùa hạ (1982) đƣợc xem là mốc lịch sử đánh dấu bƣớc chuyển mình có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình sáng tác của nhà văn. Cuốn tiểu thuyết ra đời vào những năm tiền đổi mới, nó đƣợc xem nhƣ hồi còi thông báo cho sự nghiệp đổi mới văn học của nƣớc ta, những năm đầu của thập kỉ 80. Chia tay cảm hứng sử thi, ngòi bút của Ma Văn Kháng hƣớng vào những đề tài thế sự, đời tƣ. Cuốn tiểu thuyết tái hiện cuộc đấu tranh giữa con ngƣời và thiên tai. Thể hiện cuộc đụng độ giữa cái xấu và cái tốt. 11
- Năm 1985, tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn ra đời gây chấn động dƣ luận. Tác phẩm đi vào khám phá cuộc sống gia đình thành thị những năm 80, giai đoạn xã hội giao thời đang có những biến động. Một gia đình Hà Nội vốn coi trọng đạo lí, gia giáo nay bị tác động của xã hội đang biến đổi, có nguy cơ tan rã. Năm 1989, tiểu thuyết luận đề Đám cưới không có giấy giá thú trình làng tạo ra một cuộc tranh luận sôi nổi trên báo chí và ở bàn hội nghị. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là Tự, một thầy giáo luôn khắc khoải, dằn vặt bởi sự sa sút của nhân cách con ngƣời, đầy lo lắng buồn tủi về thế cuộc nhƣng luôn gắng giữ cho trọn tấm lòng một ngƣời thầy, dành hết tâm lực cho học trò. Mặc dù là tiểu thuyết luận đề, tác phẩm này vẫn chứa đầy sự sống. Năm 1999, tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ xuất hiện, lại một lần nữa tạo nên làn sóng tranh luận sôi nổi của giới nghiên cứu và độc giả yêu văn chƣơng. Đây là tác phẩm xuất sắc, hội tụ sở trƣờng, thế mạnh của Ma Văn Kháng, mở ra tiềm năng tự sự mới của tiểu thuyết Việt Nam. Một trong những mạch chính của truyện là mối tình ghềnh thác, trắc trở của Khiêm và Hoan. Xoay quanh cuộc đời của hai nhân vật chính là vấn đề của đạo đức nhân sinh. Năm 2009, tiểu thuyết Một mình một ngựa đã ra đời. Cuốn tiểu thuyết tái hiện quãng thời gian nhà văn làm thƣ kí cho Bí thƣ Tỉnh ủy Lào Cai.“Nó có dáng dấp một tự truyện của tác giả”. Một mình một ngựa, hình tƣợng đầy cảm hứng kiêu hùng đồng thời hàm chứa mặc cảm cô đơn của mỗi đời ngƣời trong cuộc sống. Gần đây nhất (2011), Ma Văn Kháng cho in hai cuốn tiểu thuyết viết về đề tài hình sự, về ngƣời chiến sĩ công an nhân dân hiến dâng sinh mệnh mình cho sự nghiệp cao cả diệt trừ cái ác: Bóng đêm và Bến bờ. Có thể nói , sự nghiệp sáng tác của Ma Văn Kháng đều bắt nguồn từ cái nhìn nghệ thuật, tƣ duy nghệ thuật. Nếu nhƣ những trang viết của Ma Văn 12
- Kháng trƣớc thập kỉ 80 thể hiện cái nhìn mang tính sử thi thì ở giai đoạn sau nhà văn chuyển cái nhìn sang thế sự đời tƣ. Cuộc sống trong tác phẩm của ông hiện lên không chỉ đơn tuyến mà đa tuyến, nhiều chiều, cái xấu xen lẫn cái tốt, ma quỷ chen lẫn với thánh thần. Ông quan tâm phản ánh số phận con ngƣời trong nhiều mối qua hệ, nhiều hoàn cảnh khác nhau và cố gắng nắm bắt mọi khía cạnh của cuộc sống để lột tả nó một cách đầy đủ nhất, toàn vẹn nhất. Ông đƣợc trao nhiều giải thƣởng, trong đó có giải thƣởng loại B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1986 cho tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn. Giải thƣởng của Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam 1995 cho tập truyện ngắn Trăng soi sân nhỏ. Giải thƣởng văn học ASEAN. Giải thƣởng Nhà nƣớc về Văn học - Nghệ thuật năm 2001. Giải thƣởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2012 cho tác phẩm Truyện ngắn chọn lọc, Mưa mùa hạ, Côi cút giữa cảnh đời, Gặp gỡ La Pan Tẩn. Ma Văn Kháng từng bộc bạch:“Thôi thúc tôi viết là cái đẹp thật xúc động, thật cao cả, thật khiêm nhường và lớn lao trong những hoàn cảnh đau buốt nhất. Tôi gửi gắm niềm tin yêu của tôi vào tất cả những cay đắng, xót xa của thân phận. Bằng cách đó tôi biểu lộ tình yêu với cái đẹp của cuộc sống” đó cũng chính là quan niệm sáng tác của tác giả. Ma Văn Kháng là nhà văn lão làng của Văn học Việt Nam đƣơng đại, đã cống hiến cho nền văn học một khối lƣợng tác phẩm khá lớn, góp phần quan trọng vào dòng chảy văn chƣơng nƣớc nhà cả về nội dung và nghệ thuật làm cho văn học trở nên phong phú và đa dạng. 1.3. Đề tài trẻ thơ trong sáng tác của Ma Văn Kháng và tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời Xã hội Việt Nam từ sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhất là từ thời kì đổi mới của đất nƣớc đã bƣớc vào một giai đoạn mới với những biến đổi to lớn và sâu sắc. Văn học phản ánh xã hội thông qua các cá nhân nhà văn, vì thế 13
- sự phát triển của văn học tuy có tính độc lập nhƣng cũng có mối quan hệ mật thiết với sự phát triển của xã hội. Truyện viết cho thiếu nhi sau 1975 tuy có dòng chảy riêng nhƣng cũng không nằm ngoài bức tranh chung của văn học Việt Nam, nhất là văn xuôi giai đoạn này. Quan sát sự vận động của những sáng tác truyện cho các em sau 1975, chúng ta có thể chia thành các giai đoạn: Giai đoạn 1975 - 1985 những tìm kiếm và sự chuẩn bị cho đổi mới và giai đoạn từ 1986 đến nay. Đây là giai đoạn mở rộng đề tài, đổi mới cách tiếp cận đời sống và tăng cƣờng khả năng khám phá con ngƣời. Sự vận động của truyện thiếu nhi sau 1975, phần nào cũng có thể thấy quy luật chung của mảng văn học này: Truyện viết cho các em sau 1975 vẫn tiếp tục kế thừa những truyền thống của truyện thiếu nhi trong giai đoạn trƣớc, khai thác trẻ em trong đời sống lịch sử - cách mạng và trong quan hệ với nhà trƣờng. Bên cạnh những kế thừa, không hoàn toàn cắt đứt với truyền thống của truyện thiếu nhi trong giai đoạn trƣớc, truyện thiếu nhi sau 1975 đã vƣợt lên chiếm lĩnh hiện thực đời sống trẻ em, mở rộng phƣơng tiện khai thác, khám phá đa dạng, đa chiều. Ma Văn Kháng là một nhà văn sáng tác chủ yếu cho ngƣời lớn. Nhƣng ông cũng thành công khi thử sức với những tiểu thuyết dành cho thiếu nhi. Ma Văn Kháng có một tập truyện với nội dung gần gũi với tuổi thơ, đƣợc chọn lọc từ hơn hai trăm truyện ngắn của ông. Những trang văn có nhân vật là trẻ em hoặc những sự việc xoay quanh thế giới tuổi thơ đều đƣợc viết từ nguồn cảm hứng, niềm yêu mến cuộc sống và lòng yêu thƣơng dành cho con trẻ của nhà văn. Từ Ông Pồn và chú hổ con, Giấc mơ của bà nội, Hoa gạo đỏ cho tới Khu vườn tuổi thơ, Đồng cỏ nở hoa, Kiếm - Chú bé - Con người Tất cả những truyện này đều mang âm hƣởng của những số phận lo toan, vất vả, nhọc nhằn, có hoàn cảnh éo le và chịu nhiều thiệt thòi, nhƣng đó cũng là những con ngƣời có phẩm chất tốt đẹp và nổi bật hơn cả là lòng nhân hậu, nết can đảm và ý chí kiên cƣờng. 14
- Bỏ lại phía sau giọng điệu gai góc, ƣu tƣ, phiền muộn, truyện ngắn viết cho trẻ em và viết về trẻ thơ của Ma Văn Kháng vẫn vang lên giọng điệu lạc quan ƣớc mơ và tình đời cao thƣợng. Bên cạnh đó mĩ cảm của các tác phẩm mang đậm chất triết lí. Cái đẹp mang tính chất nhân văn là một đặc điểm nổi bật trong văn viết cho thiếu nhi nói riêng và văn xuôi nghệ thuật của nhà văn nói chung, bởi vì Ma Văn Kháng “muốn qua nhân vật của mình tạo điều kiện cho các em được tiếp xúc, trải nghiệm với hiện thực trước mắt khá bề bộn, ngổn ngang, thậm chí là khắc nghiệt để từ đó các em có được những bài học về cuộc sống và bước vào cuộc đời một cách vững vàng”. Tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời đƣợc sáng tác năm 1989, tới nay đã đƣợc xuất bản tới năm lần. Tiểu thuyết vinh dự nhận giải thƣởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật 2012. Điều đó là minh chứng chân thực nhất cho giá trị của tác phẩm. Tiểu thuyết kể về câu chuyện của gia đình họ Lã trƣớc bao nhiêu sóng gió của cuộc đời và trong những sóng gió ấy đã làm nên con ngƣời cao cả. Đó là ngƣời bà với tấm lòng bao dung nhân hậu, hy sinh hết mình để bao bọc cho các con, các cháu. Tấm lòng từ bi, yêu thƣơng của bà trải rộng ra để cứu vớt những mảnh đời cơ cực. Bà là chân lý sống sáng ngời, là trái tim cao cả, tỏa ánh nắng ấm áp đến những chân trời giá lạnh của cuộc đời. Côi cút giữa cảnh đời thì ắt hẳn cũng có những mảnh đời côi cút giống cái tên của tiểu thuyết. Những mảnh đời ấy là Duy và Thảm cùng những con ngƣời khác cũng bị xoáy vào cuộc đời khổ cực và mang trong mình những vết thƣơng. Mặt khác, tác giả cũng không quên hƣớng tác phẩm của mình tỏa sáng vào những góc khuất của xã hội bằng việc đƣa những nhân vật phản diện (Luông, Hứng) vào tác phẩm nhƣ một cách để vạch trần sự thối nát, tha hóa của bộ máy chính quyền trong những ngày “tranh tối tranh sáng” của thời kì đổi mới. Đây là cái nhìn vừa bao quát, cụ thể lại vừa mạnh dạn của tác giả về 15
- vấn đề chính trị vốn nhạy cảm. Cách nhìn nhƣ thế sẽ không có sự “che đậy” hay “giấu giếm” để từ đó thay đổi sự thật và làm cho con ngƣời đƣợc bảo đảm quyền hạnh phúc. Đây chính là ý nghĩa sâu sắc mà tác giả muốn phản ánh. Có thể nói, ra sự đời của tiểu thuyết nhƣ“một bước ngoặt lịch sử” trong sự nghiệp đổi mới văn chƣơng nói chung và trong sự nghiệp văn học của Ma Văn Kháng nói riêng mà nhƣ Lƣu Khánh Thơ nhận định: ông là ngƣời “Khuấy động văn đàn Việt Nam hiện đại” 16
- Chƣơng 2. SỰ THỂ HIỆN THÂN PHÂN TRẺ THƠ TRONG TIỂU THUYẾT CÔI CÚT GIỮA CẢNH ĐỜI CỦA MA VĂN KHÁNG 2.1. Thân phận trẻ thơ côi cút trong đời sống gia đình Trong nếp sống của ngƣời Á Đông, gia đình có vai trò rất lớn trong việc giáo dục, bồi dƣỡng nhân cách cho con ngƣời. Khi viết truyện cho thiếu nhi, Ma Văn Kháng đặc biệt quan tâm đến tình cảm gia đình. Gia đình là nơi hạnh phúc nhất và an toàn nhất đối với trẻ em. Trong những tác phẩm của ông, thân phận của những trẻ trong cuộc sống gia đình hiện lên khá rõ nét. Dẫu biết rằng, những nụ cƣời mang lại hạnh phúc lớn nhất là nụ cƣời của những đứa trẻ, nhƣng bản thân chúng lại không thể mang lại cho đời những nụ cƣời trọn vẹn khi mà chúng phải trải qua những chuỗi dài bất hạnh đã hóa thành bi kịch của cuộc đời và bé Duy là một cuộc đời nhƣ thế. Cha nhập ngũ ngay từ khi Duy mới chào đời, mà đi lại bặt tin tức. Duy ở với mẹ và bà, cuộc sống vẫn bình yên cho đến một ngày mẹ Duy bỏ lại hai bà cháu để đi theo ông lái xe tải nọ. Duy vẫn còn là một đứa trẻ, chƣa nhận thức đƣợc cảnh ngộ của mình lúc ấy, và cũng không hiểu đƣợc nỗi đau của mẹ phải gánh chịu trong những năm tháng không biết tin tức gì về cha: “Trông, nghe rõ nhưng tôi thật không hiểu nổi nỗi khổ của mẹ tôi có hình sắc gì, nó là thế nào? Tôi ngẩn ra một lúc rồi lại tiếp tục chơi bi một mình giữa nhà” [7, tr.2]. Những chuỗi dài bi kịch của cuộc đời Duy có lẽ bắt đầu từ đây, Duy còn quá nhỏ mà phải chịu sự thiếu hụt tình cảm của cha và mẹ. Rồi những tháng ngày tiếp theo của em sẽ ra sao? Từ khi sinh ra, Duy chƣa một lần đƣợc cảm nhận hơi ấm của ngƣời cha vào những đêm đông, chí ít những lúc đó em còn có bà và mẹ, nhƣng từ hôm mẹ bỏ đi chỉ còn hai bà cháu: “Sớm nào cũng vậy, đã định dậy rồi, nhưng thấy tôi co ro trong chiếc chăn đơn mỏng, bà lại nằm xuống đưa tay vỗ nhè nhẹ lưng tôi. Khốn khổ, bà thương tôi, đứa cháu vẫn còn mẹ và có thể cha nó chưa chết, thế mà bỗng chốc trở nên côi cút” [7, 17
- tr.12]. Mẹ ra đi, điều đầu tiên Duy cảm nhận là cái lạnh trong mỗi giấc ngủ, Duy nhớ lại ngày còn mẹ: “Mọi đêm tôi nằm giữa, một bên là mẹ, một bên là bà giữa cái ấm áp và vui vẻ quen thân” [7, tr.24]. Một đứa trẻ có cả cha lẫn mẹ nhƣ Duy, bỗng chốc trở thành côi cút. Vì “mồ côi” cha ngay từ ngày mới sinh, “mồ côi” mẹ từ ngày chƣa vào mẫu giáo khiến Duy “mồ côi” thêm cả niềm hạnh phúc của tuổi thơ mà đáng lẽ ra cậu cũng đƣợc hƣởng nhƣ bao đứa trẻ khác. Nếu Duy đã là một bi kịch thì Thảm, em của Duy lại càng thảm thiết hơn. Thảm có một sự khởi đầu không đƣợc vẹn toàn nhƣ bao đứa trẻ khác. Cô Quỳnh sinh ra em trong sự hối hận, đau khổ. Và khi cô nhận ra sai lầm ấy thì đã quá muộn màng. Sinh Thảm ra vẫn còn trứng nƣớc và cũng chƣa kịp đặt tên, cô Quỳnh đã mang đứa bé về quê nhà, gửi lại mẹ già và ra đi trong nƣớc mắt. “Cô tôi đi. Lạ sao, lúc ấy trời nhả mưa, y như hôm mẹ tôi bỏ nhà đi theo ông lái xe tải” [7, tr.104]. Em Thảm sinh ra gần nhƣ một con số không tròn trịa, em không biết cha là ai, em không có ấn tƣợng về cha. Em có mẹ nhƣng những phút giây hạnh phúc ấy chỉ vỏn vẹn mấy ngày. Rồi mẹ lại bỏ em mà ra đi, ngay cái tên em cũng chƣa có. Cái tên Thảm đƣợc đặt ngay giữa tiếng khóc của em, “Cháu có tội tình gì đâu. Tôi lấy họ nhà tôi đặt cho cháu vậy. Còn tên cháu, đặt là Thảm cô ạ. Thảm thiết quá, cô ơi!” [7,tr.109]. Thảm sinh ra chỉ đƣợc bú sữa mẹ ít ngày, còn những ngày về sau em đƣợc nuôi nấng hoàn toàn nhờ vào sữa bú chực của các cô, các chị có con nhỏ trong phƣờng “Nhưng không phải hôm nào cũng gặp may. Có hôm chẳng gặp được bà nào, như hôm nay, trời làm mưa gió, bà đành bế em Thảm về không” [7, tr.118]. Nhà hai bà cháu vốn nghèo lại xuất hiện thêm cái Thảm. Khó khăn lại càng chồng chất lên thêm khi Thảm lại là một đứa trẻ còn trứng nƣớc, nó hoàn toàn không có sức chống đỡ với những khó khăn vì thế những bi kịch xảy đến với nó là điều không thể tránh khỏi. 18
- Một đứa trẻ sinh ra cần nhất là mẹ, ấy vậy mà mẹ nó lại bỏ đi. Thêm một đứa trẻ bị bỏ rơi, thêm một bất hạnh, thêm một bi kịch. Tất cả những gì Thảm làm đƣợc là khóc và có hàng trăm lí do để em khóc. Thảm xa mẹ, thiếu hơi sữa, cô Quyên thƣơng tình nhƣng cũng không thể giúp đƣợc gì. Tôi tin rằng bạn đọc không thể không xúc động khi tác giả miêu tả tiếng khóc của em Thảm khi nó mới ba tháng tuổi“Em Thảm hay tủi thân lắm. Em khóc nhiều hơn những đứa trẻ khác. Em khóc suốt cữ, và tiếng khóc cũng khác những đứa trẻ khác. Có khi đang ngủ, em tự dưng mím môi, rồi nhếch miệng hự hự mấy tiếng rất ảo não Em đang ngủ bỗng dưng bừng thức với tiếng khóc hờn dỗi kéo dài khoảng gần một tiếng đồng hồ” [7, tr.114]. Em khóc vì nhớ hơi sữa. Em khóc vì đói. Em khóc vì tủi thân. Em khóc vì sợ. Thế giới trẻ thơ là cả một vùng trời bí ẩn, Thảm cũng là một điều bí ẩn nhƣ thế. Và kì lạ nhất là Thảm còn thở dài. “Chính em Thảm, cái sinh linh bé nhỏ tội nghiệp, hình như cũng cảm thấy cái hẩm hiu, trớ trêu của số phận mình” [7, tr.113]. Một hôm Duy đã run cả ngƣời khi nghe thấy bà đang bế Thảm bỗng thảng thốt: “-Sao lại thở dài thế, cháu!” [7, tr.113]. Than ôi! Một đứa trẻ lại biết thở dài, lại mang theo một nỗi buồn trầm ngâm nhƣ của ngƣời lớn vậy. Thở dài là những lời than không lời khi ngƣời ta thấy mệt mỏi, chán chƣờng. Vậy mà một đứa trẻ thay vì vui tƣơi, vô lo, vô nghĩ đúng nhƣ lứa tuổi thì nó lại thở dài. Nghe tƣởng chừng mà xót xa quá. Nhƣng rồi khó khăn mới chỉ bắt đầu, những ngày tiếp theo mới thật sự là thử thách cam go, quyết liệt. Tất cả ập đến với em nhƣ một cơn ác mộng kéo dài. Đó là những trận ốm triền miên, chúng nối đuôi nhau lấy dần đi sự sống của Thảm. “Tháng mười em Thảm tôi lại bị sốt viêm họng. Tháng mười một em sốt siêu vi trùng. Liên tiếp trận ông chưa qua, trận bà đã tới” [7, tr.122]. Và đã có rất nhiều trùng nọ, khuẩn kia tìm đến em mà hành hạ, mà làm em đau đớn, kiệt cùng.“Bệnh bại liệt với những di chứng không thể tránh 19
- khỏi. Bệnh bạch hầu gây trụy tim mạch. Lao màng não. Ho gà” [7, tr.122]. Tất cả đều là bệnh của con nhà nghèo. Và rồi còn chƣa kẻ đến hàng tá bệnh mà đứa trẻ nào cũng phải trải qua nhƣ một món nợ đời. Thảm đã có lúc tƣởng chừng nhƣ không qua khỏi “Em Thảm tôi hôn mê bằn bặt, mặt nhợt không còn hạt máu” [7,tr.130]. Thảm, một đứa trẻ sinh ra không cò gì bất hạnh hơn khi thiếu thốn tình yêu thƣơng của cả cha lẫn mẹ, vậy mà em, sinh linh bé nhỏ ấy còn phải chống chọi với biết bao nhiêu bệnh tật. Thảm vƣợt qua giai đoạn khó khăn nhất ở tuổi ấu nhi. Vào tuổi thứ ba của cuộc đời, em mới tập đi và bập bẹ nói những tiếng đầu tiên. Em lớn nhanh, dễ nuôi, khác với những đứa trẻ cùng lứa, em chẳng đòi hỏi gì cả. Thảm nhanh nhẹn, thông minh, hay nói, hay chuyện, rất đáo để. Nhƣng hơn tất cả, dù trong hoàn cảnh nào nó cũng nhớ mẹ. Với mẹ tuy xa cách từ nhỏ nhƣng hình nhƣ vẫn có một sợi dây liên kết vô hình không thể hình dung nổi giữa Thảm và ngƣời mẹ yêu dấu, bất chấp không gian xa cách và thời gian đằng đãng. Trong sâu thẳm tâm hồn nó cũng có lúc nhớ mẹ đến nhƣờng nào. Nếu nhƣ lúc nhỏ nó nhớ hơi sữa, giờ đây khi nhận thức đƣợc mọi thứ xung quanh thì nó nhớ mẹ thực sự, nó nhớ mẹ trong sự vô vọng mà không đƣợc vỗ về, à ơi, thế nên trông nó lại càng đáng thƣơng “Đã có lúc tôi thấy mắt nó ngẩn ngơ theo đuổi một bóng hình mơ màng. Đã có khi tôi thấy nó lặng đi trong đau đáu tơ tưởng” [7, tr.215]. Trong sâu thẳm tâm hồn nó cũng có lúc nhớ mẹ đến nhƣờng nào. Có lần nó ngủ dậy kể với Duy “Đêm qua em mê thấy mẹ em về” [7, tr.215]. Nhƣng đến bao giờ mẹ nó mới về? Những tháng ngày tiếp theo em chỉ biết sống trong hi vọng và chờ đợi. Cũng nhƣ anh Duy, Thảm sống rất tình cảm. Em gắn bó với bà bằng chiều sâu hiếm có, không phải là tình bà cháu ruột thịt thông thƣờng mà còn là mối quan hệ của hai phần một cơ thể. Với bà, nó không chỉ có lòng kính yêu mà bà còn là linh hồn sống động tỏa sáng trong tâm hồn em. Bé Thảm đã 20
- bù đắp những thiếu hụt trong tính cách của Duy, em cùng Duy - hai đứa trẻ tội nghiệp lớn lên trong vòng tay yêu thƣơng của bà, cùng bà vƣợt qua những tháng ngày khó khăn. Cuộc đời của em dƣờng nhƣ chìm vào vực thẳm, bà vừa là bà nội vừa là bà ngoại của hai đứa trẻ “Bà là bà mụ đỡ nâng trong linh hồn chúng cháu. Bà là phật bà. Hay chính bà là cô tiên giáng trần, đã che chở cưu mang chúng cháu bằng tình thương yêu và các phép màu huyền nhiệm, thần kì!” [7, tr.229]. Bà có sức mạnh lớn lao toát ra từ tình thƣơng, trí tuệ nhạy bén từng trải. Nhƣng vƣợt lên tất cả đó là sự cứng cỏi, không cam chịu thất bại và tình yêu thƣơng vô bờ bến của bà dành cho con cháu. Bà đã theo sát, nâng đỡ, đã đền bù cho những thiếu thốn tinh thần của đứa cháu nội. Bà có mặt kịp thời trong những tình huống khó khăn, đau khổ của Duy trƣớc dòng đời Bà chính là tấm gƣơng về nghị lực sống, về lòng bao dung, nhân hậu để Duy nhìn vào đó mà học tập để vững vàng và sống tốt hơn. Bà cũng là điểm tựa tinh thần, là nơi nuôi dƣỡng niềm tin để Duy luôn có một niềm hi vọng, luôn mong chờ sự trở về của bố, sự thức tỉnh của mẹ và ngày tái ngộ của gia đình trong tƣơng lai. Không chỉ có thế, bà còn gắn các cháu với huyết mạch cội nguồn để các các cháu biết thấu hiểu, biết yêu thƣơng và biết tự hào về những ngƣời thân, về gốc rễ của mình. Bà giúp Thảm và Duy ý thức đƣợc rằng ngƣời thân của các em trùng trùng lớp lớp những con ngƣời mạnh mẽ Nhờ có bà, hai em đã biến buồn đau, mất mát trong cuộc sống thành những niềm vui nho nhỏ, những kỉ niệm ấm áp bên ngƣời bà có lòng nhân hậu, bao dung và che chở. Thảm và Duy nhƣ những mầm cây khỏe mạnh vƣơn lên từ mảnh đất khô cằn nhất, khốc liệt nhất với những giông bão cuộc đời. Cùng chung thân phận nhƣ bé Duy, bé Thảm là Lý trong tác phẩm Chuyện của Lý. Lý đứa trẻ sinh ra phải chịu nhiều thiệt thòi cả vật chất lẫn tinh thần. Vì “Lý là con không giá thú. Con không cha. Là con hoang. Là một 21
- thành viên của nhân loại năm tỉ con người. Nhưng không phải là công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đến cái giấy khai sinh cũng không có nữa là” [9, tr.83]. Dù sinh ra không đƣợc nhận bất cứ tiêu chuẩn nào, nhƣng em đã vƣợt qua mọi khó khăn, em rất ngoan và can đảm, chẳng bao giờ khóc và vòi vĩnh mẹ. Chƣa đến sáu tuổi Lý đã tự biết đánh răng rửa mặt, tắm táp. Lý biết giúp đỡ mẹ nấu cơm, rửa bát, quét nhà. Nếu nhƣ Duy bị bạn bè bắt nạt, gây sự thì Lý lại khác, em là đứa trẻ giàu lòng yêu thƣơng, hết lòng giúp đỡ bạn bè. Lý là một cái mầm sống hồn nhiên và tràn đầy sinh lực, là hình ảnh con ngƣời sống trong dòng chảy lịch sử, là hình ảnh của một thiếu nhi Việt Nam lớn lên trƣởng thành trong một cuộc sống vừa phức tạp vừa tƣơi mới của đất nƣớc mình. Lật giở từng trang văn của Ma Văn Kháng, hình ảnh những đứa trẻ hiện lên phải chịu bao nhiêu mất mát, đau thƣơng. Những đứa trẻ có cha có mẹ mà bỗng hóa côi cút. Những đứa trẻ không chỉ thiếu thốn về mặt tinh thần, các em thiếu thốn cả về mặt vật chất. Suy cho cùng căn nguyên của mọi sự khó khăn vẫn là cái ăn. Duy đang tuổi lớn nhƣng thƣơng em, Duy phải dành phần ăn của mình cho em. Thảm là một hài nhi còn trứng nƣớc, thay vì những bình sữa đầy ắp em phải uống nƣớc đƣờng, có khi em phải uống nƣớc cơm gạn pha đƣờng. Hình ảnh ba bà cháu khiến cho bạn đọc không khỏi nghẹn ngào, xúc động. 2.2. Thân phận trẻ thơ trong nhà trƣờng Hai đứa trẻ Duy, Thảm đã chịu nhiều thiếu hụt trong gia đình, hi vọng rằng hai em sẽ đƣợc bù đắp khi đến trƣờng. Thế nhƣng bi kịch vẫn cứ ghé thăm Duy, khi em chập chững bƣớc chân vào cổng trƣờng song đối với em đến trƣờng vẫn là ngày hội. Em thích tới trƣờng, nhƣng sự thích thú đó đâu đƣợc kéo dài vì thực tế không nhƣ em tƣởng tƣợng, và những ngày sau Duy đến trƣờng với những mảng đời tối sẫm, bởi những ngƣời xung quanh Duy không khinh bỉ thì cũng miệt thị. Đầu tiên là sự xuất hiện của cô giáo Thìn với vẻ lạnh lùng: 22
- “- Điếc hả? - Dạ, thưa cô. - Không há miệng ra to được nữa, hở? - Thưa cô, tên em là Duy. - Duy gì? - Dạ, Duy ạ. - Ngu thế, họ gì? - Dạ Lã Văn Duy ạ. - Mẹ? - Mẹ em tên là Đổng Thị Thụy ạ.” [7, 39] Đối với một trƣờng học tập của một đứa trẻ, giáo viên không chỉ là thầy dạy học, mà ở đó giáo viên còn nhƣ là một ngƣời mẹ thứ hai của các em. Ngƣời mẹ ấy nói gì và làm gì, cƣ xử nhƣ thế nào có ảnh hƣởng rất lớn đối với đứa trẻ ấy. Thế nhƣng cô Thìn thay vì sự yêu thƣơng, đùm bọc, lắng nghe thì cô nhƣ đổ những gáo nƣớc lạnh lên cậu bé Duy với vẻ khinh bỉ: “Hí hí Không hiểu sao bỗng dưng cô giáo Thìn lại cất lên tiếng cười” [7, tr.39]. Có lẽ vì họ của mẹ Duy giông giống họ bên Trung Quốc. Cô Thìn đối với Duy từ đầu đến cuối là sự lạnh nhạt, khinh bỉ. Với những đứa trẻ khác cô yêu chiều, âu yếm, khi gặp những đứa trẻ con nhà giàu khác cô lại đổi ngay giọng“Ôi trời! Cháu Văn Giang của cô ngoan quá! Cô Thìn ngồi xuống áp hai bàn tay vào cặp má phính của thằng Văn Giang” [7, tr.40]. Đừng nghĩ rằng đứa trẻ năm tuổi không biết tự trọng. Các em cũng có những cảm xúc của riêng mình, biết vui, buồn, giận, hờn. Và quan trọng hơn chúng biết nhận thức, nhận thức đƣợc sự khác biệt của mình với các bạn. Phải chăng đó là lí do mà Duy không đƣợc cô giáo quan tâm, yêu chiều? “Và tôi nhận ra nhiều đứa mặt mũi xinh xắn, hồng hào, ăn mặc rất đẹp. Áo quần toàn len, dạ, mút, lông thú. Chẳng có đứa nào đeo dép cao su như tôi. Ngoài ra, trừ tôi, còn đứa nào cũng có đồ 23
- chơi mang theo” [7, tr.41]. Cô Thìn không có lấy một câu nói ngọt ngào đối với Duy, khi Duy còn đang lúng túng chƣa hiểu gì cô Thìn đã mắng ngay “Ông thuộc loại ngớ ngẩn, hở? - Xăm xăm bước lại gần cô, răng cô nghiến xin xít - Thế ngộ nhỡ ông tè dầm thì ông cởi truồng à?” [7, tr.42]. Duy đến trƣờng và gặp cô Thìn, có lẽ hình ảnh ngôi trƣờng, cô giáo trong trí tƣởng tƣợng của Duy đều tan biến. Em luôn cảm thấy cô đơn và sợ hãi khi đến lớp phải đối mặt với cô giáo và các bạn, những ngƣời có khoảng cách xa vời vợi đối với Duy. Duy phải đối mặt với sự khinh miệt, kì thị và tiếp đó là sự phân biệt đối xử. Đối với Duy“Niềm vui tan biến trong lạc lõng, lạc lõng vì nghèo, vì là lính mới, vì cái gì cũng chưa biết, vì lớ ngớ” [7, tr.42]. Trƣờng học là nơi mà ai cũng nhƣ ai, ở đó các em đƣợc đối xử công bằng. Chính vì thế mới có những bộ đồng phục với hy vọng sự công bằng ngay cả hình thức để các em không phải tủi hổ. Thế tại sao Duy lại phải chịu những điều nhƣ vậy? Tại sao giáo viên lại đứng về phía của sự thiên lệch, của sự không công bằng? Kí ức ngày đầu tiên đi học của Duy không mấy tốt đẹp nếu không muốn gọi đó là bi kịch. Tất cả đều hằn sâu vào trong tâm khảm của Duy nhƣ một vết sẹo không thể mất. Những ngày tiếp theo là một chuỗi dài oan ức. Bạn bè trêu ghẹo, đổ oan. Cô giáo thì dữ dằn, thiên vị. Trong một lần viết văn với đề bài em hãy kể lại một câu chuyện dũng cảm mà em đƣợc biết. Bằng lòng kính trọng, Duy đã hồ hởi kể lại câu chuyện anh trung úy lái xe và hy vọng cô giáo sẽ cho mình số điểm xứng đáng. Thế nhƣng hôm trả bài sự thật hoàn toàn khác với suy nghĩ của Duy. Cô đứng về những bài văn mẫu, điều mà Duy nhận đƣợc đó là điểm một ê chề và kèm theo một lời phê bình đầy chế nhạo “Hoan hô nhà văn tương lai của nước Việt Nam ta. Em bịa đặt một câu chuyện đến mức nực cười. Nhưng em đã gặp may, vì em làm cô buồn cười quá, nên cô đã không nỡ cho em điểm không” [7, tr.189]. Qua chi tiết này ta có cảm giác đây không phải là một môi trƣờng 24
- giáo dục đầy tích cực nữa, mà nhƣ là một khoảng không đầy sự khinh bỉ của thầy cô và bạn bè. Duy sẽ không đƣợc phép nhƣ một đứa trẻ năm tuổi hậm hực, uất ức, bức bối hay khóc lóc mà giờ đây em phải một mình chịu đựng tất cả nhƣ một ngƣời lớn. Thƣơng cho số phận của những đứa trẻ thay vì đƣợc dạy dỗ, yêu thƣơng thì lại phải chịu sự đối xử tệ bạc của ngƣời cô, ngƣời thầy. Lên lớp 4 Duy vẫn học cùng lũ bạn nanh ác. Nhiều lần Duy bị oan ức, những lần oan ức đầy tổn thƣơng là những lần chúng lôi gia đình Duy và bố ngƣời mà Duy kính trọng. Lợi dụng việc chú Dũng bị bắt, lũ bạn nanh ác lại bày trò bắt Duy, coi Duy nhƣ một tên tội phạm. Một lần nữa những lời lẽ cay nghiệt lại quất vào trái tim bé bỏng của em. “Các đồng chí sĩ quan cấp úy, cấp tá! Các đồng chí hãy bắt tên phạm pháp này lại” [7,tr.190]. Vào cái tuổi này Duy cảm nhận sâu sắc về sự xúc phạm danh dự. Duy đã có ý nghĩ cho thằng Kim Phú một bài học, nhƣng những đứa trẻ con nhà giàu ấy chỉ giỏi la hét chứ va chạm mạnh là bị thƣơng, để rồi cú ngã bất ngờ của Kim Phú, Duy phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Cuối giờ học, Duy đƣợc gọi lên phòng hiệu trƣởng và em đã phải chịu một cực hình khổ nhục, chịu những lời lẽ cay nghiệt không phải từ cô hiệu trƣởng hay từ cô giáo chủ nhiệm mà từ một ngƣời đàn bà mà Duy còn chƣa biết rõ đó là ai. Những đứa trẻ lúc này cần bàn tay che chở từ phía giáo viên, nhƣng điều mà Duy nhận lại chỉ là sự im lặng của cô hiệu trƣởng và cô giáo chủ nhiệm, để Duy bị ngƣời đàn bà ấy lôi xồng xộc vào: “Mày đây hả? Cái thằng mặt sứa gan lim này. Mày ghen ăn tức ở gì với con tao? Mày thù hằn gì với nó, hả? Con tao là lá ngọc cành vàng. Còn mày, mày là con cái đứa đánh đĩ thập phương, là con thằng khố rách áo ôm, cu - li poóc - tê” [7,tr.193]. Một đứa trẻ sao có thể chịu nổi những lời lẽ cay nghiệt ấy. Dẫu biết mình không có lỗi nhƣng em là một đứa trẻ, em nói đƣợc gì? Ai nghe em nói? Giáo viên là ngƣời dạy dỗ cho trẻ những bài học đầu tiên, chỉ cho các em những điều hay lẽ phải nhƣng lúc này cả hai cô giáo của 25
- Duy im lặng, không lắng nghe em và mặc cho Duy chịu sự sỉ nhục vô lý từ một ngƣời đàn bà xa lạ. Duy đã phải cố gắng mạnh mẽ để vƣợt qua tất cả. Những nhục nhã ê chề đó tƣởng chừng Duy sẽ không vƣợt qua, nhƣng cô Hoa đã xuất hiện. Đúng nghĩa nhƣ một cô giáo, cô nhƣ một ngƣời mẹ thứ hai nâng đỡ Duy lúc em khó khăn nhất. Giúp em có chút niềm tin, có chút hy vọng để đến trƣờng. Cô quan tâm hỏi han em, cô chỉ cho em những gì mà em chƣa biết. Ngoài cô giáo Hoa, bên cạnh Duy lúc nào cũng có sự xuất hiện của Việt, một cậu bạn thân đã đi cùng em những tháng ngày khó khăn nhất, luôn bênh vực em những lúc em bị oan, cùng em cố gắng trong học tập. Vì vậy, dù bị đối xử bất công nhƣng chƣa bao giờ em từ bỏ đến trƣờng, những tháng ngày đó em luôn là học sinh đứng tốp đầu lớp mà những bạn khác không thể làm đƣợc. Với một ý chí kiên cƣờng, Duy đã vƣợt qua tất cả. Quãng đời đƣợc coi là vô tƣ, hồn nhiên nhất trong phần đời của mỗi con ngƣời là tuổi thơ, là những tháng ngày đến trƣờng. Nhƣng đối với Duy, những tháng ngày đó lại là sự ê chề, tủi hổ, là sự nhục nhã, bị những đứa trẻ xung quanh, cô giáo Thìn, cô giáo Tuyết khinh bỉ. Phải chăng cuộc sống quá bất công với Duy, vừa mới sinh ra em đã phải chịu trái đắng, những mất mát, đau đớn mà em còn chƣa kịp nhận thức đƣợc nó. Có lẽ Duy là đứa trẻ chịu nhiều cay đắng nhất. Thảm mạnh mẽ hơn anh Duy. Em không dễ dàng bị các bạn khác bắt nạt. Hôm đầu tiên đi học về đƣợc bà hỏi đi học ra sao, nó hồn nhiên trả lời, nó bị cô giáo phạt. Nhƣng nó không buồn bã và sợ hãi vì chắc chắn nó biết nó không làm gì sai, và sẵn sàng cho những buổi học tiếp theo. Giờ đây cô giáo Thìn đã đƣợc vào dạy chính và cũng không còn nhƣ trƣớc nữa. Giống nhƣ Duy và Thảm, Lý cũng bị đối xử bất công, bị tổn thƣơng và gây nên phẫn uất trong tâm hồn em. Buổi đầu tiên đến trƣờng Lý vô cùng phấn chấn và tự tin. Lý sốt sáng, hồi hộp, chờ đợi cô Viêng đọc đến tên mình 26
- nhƣng cuối cùng em chờ đợi trong vô vọng. Lý mạnh dạn hỏi thẳng cô giáo, rồi em bất ngờ trƣớc thái độ hống hách của cô Viêng. Cô hỏi Lý bằng những câu hỏi thô tục, cục cằn: “Mày tên gì? Ở đâu? Biết rồi, không đủ tiêu chuẩn vào học. Rõ chưa?” [9, tr. 145]. Sau đó Lý đƣợc bà Pham cƣu mang, vì “Nể lời bà nên cô Viêng chiếu cố cho Lý vào danh sách dự thính của lớp” [9, tr.145]. Việc đối xử bất công và sự ác cảm của cô Viêng đối với Lý càng ngày càng lộ liễu. Cô thƣờng xuyên hoành họe, bắt bẻ Lý. Nhƣng mọi suy nghĩ , buồn vui Lý đều đem tâm sự với mẹ, vì mẹ Lý từng là giáo viên, nên mẹ em hiểu rất rõ về nghiệp vụ sƣ phạm. Cho nên mọi thắc mắc của Lý đều đƣợc mẹ uốn nắn, dạy bảo. Sau một thời gian, bằng sự cố gắng nỗ lực, Lý đã chứng minh đƣợc năng lực của mình khiến cô giáo Viêng không những có thiện cảm mà còn ân hận về những gì mình đã làm. Có thể thấy, bằng khả năng quan sát hiện thực đời sống, Ma Văn Kháng đã khắc họa thành công thân phận trẻ thơ trong nhà trƣờng phải chịu nhiều cay đắng, thiếu thốn. Đừng nghĩ đứa trẻ năm tuổi nhƣ Duy không biết tự trọng, Duy ý thức đƣợc hoàn cảnh của bản thân, nhận thấy sự khác biệt của mình so với các bạn, em mặc cảm và sợ đến trƣờng. Phải chăng em không có quần áo đẹp, không có đồ chơi mà bị bạn bè coi khinh, bắt nạt, bị cô giáo phân biệt đối xử? Nhƣng với nếp sống can đảm và nghị lực, Duy đã vƣợt qua tất cả, em đã vƣơn lên là học sinh đứng tốp đầu của lớp. 2.3. Thân phận trẻ thơ trƣớc những nghịch cảnh ngang trái của xã hội Tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời không chỉ thể hiện thân phận của những đứa trẻ thiếu thốn trong gia đình, những đứa trẻ chịu nhiều thua thiệt trong nhà trƣờng, mà còn cho thấy thân phận của những đứa trẻ phải chịu nhiều bất công, ngang trái trong xã hội. Trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời, đời sống thiếu nhi hiện lên rõ nhất trong mối quan hệ với lãnh đạo địa phƣơng. Đây là mối quan hệ quyết định ý nghĩa sống còn đối với số phận trẻ 27
- thơ. Bởi vì những ngƣời lãnh đạo là những ngƣời phải luôn quan tâm sát sao đến dân, ý thức vì dân, đặc biệt là những trẻ thơ nghèo khổ, bơ vơ không nơi nƣơng tựa Ở đây, Ma Văn Kháng nhìn rõ chân dung của những ngƣời cầm quyền một thời, họ không vì dân mà còn lợi dụng quyền để bóc lột và chèn ép ngƣời dân vô tội. Mục đích duy nhất của những nhà cầm quyền trong Côi cút giữa cảnh đời là làm sao vơ vét đƣợc càng nhiều tiền của cho bản thân mình càng tốt, cho dù phải dùng thủ đoạn nào đi chăng nữa. Duy và Thảm phải chịu bao nhiêu oan ức, tủi khổ bởi những bất công mà xã hội ấy mang lại. Lão Luông, chủ tịch phƣờng Ngọc Sinh, là kẻ nắm quyền mà lại ấp ủ bao mƣu đồ gây hại cho ngƣời khác và với gia đình Duy thì lão dùng cả Vàng Anh, Vành Khuyên để phục vụ cho mƣu đồ của lão. Lão dùng hai chị em làm gián điệp theo dõi gia đình Duy để khi hai bà cháu có điều gì sơ hở thì lão có thể ập đến ngay, xâu xé việc đó kịp thời. Khi Thảm xuất hiện, lão gây khó dễ đủ đƣờng, nhất là việc cấp giấy khai sinh cho Thảm. Cô Quyên đến xin giấy khai sinh cho Thảm, rồi cả tổ hƣu trí đến can thiệp thì lão Luông xử sự:“Ông ta bữa thì lánh mặt, bữa thì tiếp, hết lí sự cùn thì ậm à hứa sẽ cứu xét. Kết quả không vẫn hoàn không” [7, tr.110]. Những đứa trẻ phải chịu nhiều bất công, đến quyền đƣợc coi là một công dân mà cũng không có. Vì đơn giản em không rõ bố là ai? Trong hoàn cảnh khó khăn ấy, nếu có đƣợc tờ giấy khai sinh, em sẽ đƣợc hƣởng quyền lợi nhƣ bao đứa trẻ khác trong xã hội, và có lẽ cuộc sống của ba bà cháu Duy, Thảm cũng đỡ đƣợc phần nào. Từng trang văn khiến ngƣời đọc nhƣ nghẹn lại khi chứng kiến sự hách dịch của lão Luông. Đặc biệt, Luông và Hứng còn thông đồng với nhau để chiếm phần lớn diện tích căn nhà của gia đình Duy:“Bây giờ hai bà cháu cụ ở rộng rãi quá nhỉ” [7, tr.78]. Sau đó, Luông hăm dọa:“À, nói là nói cái thực trước mắt ấy chứ. Mà về được cũng còn khó. Nhập được hộ khẩu đâu có dễ. Nhà cửa bây giờ giành giật nhau như chiến tranh ấy, cụ ạ”[7, tr.78]. Âm 28
- mƣu của Luông đã quá rõ ràng. Lão muốn cƣớp nhà của hai bà cháu mà chẳng để ý đến gia cảnh côi cút của một đứa trẻ, chẳng để ý đến một ngƣời già không nơi nƣơng tựa giữa cuộc đời khó khăn này, bởi Luông chỉ để ý tới món hời mà lão sẽ đƣợc hƣởng từ tay Hứng. Tham lam đến cực độ và lão cũng nhanh chóng thể hiện bản chất độc ác đến cực cùng của những con thú đội lốt ngƣời. Ngay từ những hôm đầu dọn đến căn nhà mà hắn cƣớp đƣợc, tên Hứng đã có thái độ xúc xiểm, chà đạp một cách trắng trợn vào tinh thần của Duy. Trƣớc thái độ lì lợm, bất khuất phục của Duy, hắn càng tỏ ra bực tức, cố tình hăm dọa, khủng bố tinh thần bằng cách xuyên tạc, bới móc lý lịch của từng ngƣời trong gia đình Duy. Lão hành động không hoàn toàn do bộc phát, vô tình mà thực ra là có chủ ý. Bởi hắn biết rằng, bà Duy là ngƣời rất bản lĩnh, vững vàng, cứng cỏi. Hắn cứ đổ mọi tức tối, mọi mƣu hèn, kế bẩn không thể thực hiện đƣợc với bà để trút hết lên tâm hồn còn non nớt của Duy. Làm đƣợc nhƣ thế thì hắn đã thỏa mãn phần nào lòng lang dạ thú của mình. Sự độc ác của lão còn đƣợc hiện hình một cách đậm đặc hơn khi có sự xuất hiện của bé Thảm trong căn phòng nhỏ hẹp của bà cháu Duy. Thảm bất hạnh rơi vào cảnh côi cút tội nghiệp, em khát sữa khát hơi mẹ nên em khóc ròng. Trông thấy cảnh đó bất cứ ai còn chút tình ngƣời cũng không tránh khỏi cảm giác chạnh lòng, thƣơng cảm, vậy mà lão Hứng hoàn toàn vô cảm. Lão hình nhƣ không có biểu hiện nào là trái tim của một con ngƣời, không có một chút cảm xúc nào trƣớc nỗi đau của con trẻ, hắn liên tục quát nạt, xỉa xói vào nỗi đau của ba bà cháu, vào số bất hạnh mà bé Thảm đang phải gánh chịu. Khi biết không thể làm gì đƣợc chú Dũng, hắn đã giết con mèo mí trƣớc mặt bé Thảm. Và em chỉ kịp kêu thất thanh và khóc mãi không thôi. Thời gian ấy những khó khăn ba bà cháu phải trải qua đâu chỉ đơn giản dừng lại ở miếng cơm manh áo, mà còn phải chịu biết bao nhiêu tủi nhục, quyền đƣợc sống cũng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Từ một đứa trẻ còn 29
- trứng nƣớc, có những lần bé Thảm tƣởng chừng nhƣ không thể qua khỏi, và cần sự giúp đỡ của bác sĩ, nhƣng điều đó quá đỗi khó khăn với ba bà cháu. Thảm hôn mê bằn bặt, mặt tái nhợt không còn hạt máu, nhƣng đối với gã bác sĩ, bé Thảm cũng chẳng khác gì một thể xác sinh vật vô hồn, rồi hắn trƣợt ra khỏi vành môi một thứ tiếng vô hồn “Hai trăm! Hai từ nọ bắn ra từ miệng y với âm lượng to khác thường” [7, tr.131]. Thế mới thấy rằng“Hai trăm đồng một sinh mạng con trẻ. Thật là quá rẻ!” [7, tr.131]. Ngƣời ta thƣờng nói“Lương y như từ mẫu”, nhƣng trong hoàn cảnh này câu nói đó không còn ý nghĩa với gã bác sĩ ấy, xã hội ấy tất cả đều quy thành tiền, sinh mệnh của con ngƣời đƣợc tính bằng tiền, có tiền đồng nghĩa với việc bạn đƣợc cứu sống. Cái nhìn sắc sảo của Ma Văn Kháng đã hƣớng vào từng ngõ ngách của đời sống, để nghiên cứu phân tích hiện thực và con ngƣời, để soi rọi lẽ đời, thói đời với tất cả các cung bậc của tình cảm và các mối quan hệ ở mọi góc cạnh, mọi phƣơng diện. Ma Văn Kháng đã phát hiện ra vẻ đẹp của những giá trị đạo đức truyền thống. Ngoài những con ngƣời vô nhân đạo, gây khó dễ cho ba bà cháu, còn có những tấm lòng nhân ái, những ngƣời tốt, những con ngƣời lƣơng thiện, luôn quan tâm đến mọi ngƣời, sẵn sàng chia sẻ và giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn nhƣ cô Quyên, cô Đại Bàng, cụ Hồn Nhiên và các cụ tổ hƣu trí Cuộc đời của hai đứa trẻ côi cút tƣởng chừng sẽ bị chìm sâu vào sự thất vọng nếu không có những tấm lòng, những bàn tay của những ngƣời dân chân chính phƣờng Ngọc Sinh. Họ đã dang tay ra cứu giúp số phận của Duy và Thảm, trong khi cuộc sống của họ cũng có lúc khó khăn tƣởng chừng nhƣ không qua nổi.“Cô Đại Bàng thi thoảng lại đem sữa Các cụ hưu cũng hay đến hỏi han, giúp đỡ. Cụ cho cái Thảm đôi bít tất. Cụ cho cái chăn bông con, cái mũ len. Ông Vinh cho nó cả cái phiếu đường của ông ” [7, tr.177]. Ma Văn Kháng đã xây dựng thành công một câu chuyện cổ tích giữa đời thƣờng, mà phép màu lại xuất phát từ tấm lòng nhân ái của những con ngƣời 30
- chân chính ấy. Họ nhƣ là những vị tiên giáng trần dang cánh tay cứu giúp những tâm hồn ngây thơ của những đứa trẻ nhƣ bé Duy, bé Thảm. Có thể nói rằng, những nỗ lực vì ngƣời khác xuất phát từ lòng tốt luôn đƣợc mọi ngƣời tôn vinh, kính trọng. Đồng thời đây cũng chính là nơi mà Ma Văn Kháng muốn ấp ủ tiếp nối truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã thấu tỏ nhiều tấm lòng cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa, thủy chung của dân tộc. Cùng viết về đề tài thiếu nhi nhƣng mỗi nhà văn lại có những cách nhìn nhận và khám phá riêng. Nếu Nguyễn Nhật Ánh làm hiện lên thế giới tuổi thơ thật đẹp, ở đó các em đƣợc gia đình yêu thƣơng đùm bọc. Anh em Thiều và Tƣờng đƣợc bố mẹ yêu thƣơng, các em có những ngƣời bạn tốt nhƣ Mận chơi cùng. Mỗi một ngày các em cùng nhau đến trƣờng, cùng giúp đỡ nhau trong học tập, cùng nhau lớn lên tại vùng quê với những trò chơi dân gian. Tuổi thơ gắn với những câu chuyện cổ tích về các chàng hoàng tử và nàng công chúa. Thế giới tuổi thơ trong cách nhìn nhận của của Nguyễn Nhật Ánh, tuổi thơ đƣợc hiện lên đúng nghĩa, các em có quyền đƣợc hƣởng tất cả những điều tốt đẹp nhất. Nhƣng đến với Ma Văn Kháng tuổi thơ của các em không chỉ hiện lên đơn giản xuôi chiều, các em sống trong xã hội vẫn còn đầy dẫy những bất công. Hàng ngày phải đối mặt với những tên “ma cô, lật lọng”, cuộc sống của ba bà cháu bị chính quyền tham lam chèn ép đến cùng cực. Nhƣng vƣợt lên tất cả, trong sáng tác của Ma Văn Kháng các em có nghị lực phi thƣờng, dù trong hoàn cảnh nào vẫn cố gắng vƣơn lên. Không có cha có mẹ bên cạnh nhƣng cả hai anh em Duy, Thảm chƣa bao giờ hỏi bà về cha mẹ, phải chăng hai đứa trẻ hiểu đƣợc nỗi lòng của ngƣời bà. Vì cuộc sống khó khăn, cơ cực, vì thƣơng bà, hai anh em không vòi vĩnh, đua đòi nhƣ những đứa trẻ khác. Duy trong suốt bốn năm học vẫn là học sinh tốp đầu của lớp. Thảm chống chọi với tất cả bệnh tật quái ác, giành lại sự sống trƣớc một xã hội đầy rẫy 31
- những bất công, để giờ đây em khỏe mạnh, rắn chắc. Ma Văn Kháng đã mạnh rạn nhìn vào sự thật, vào hoàn cảnh xã hội để thấy đƣợc những mảng tối trong đời sống thiếu nhi. Lứa tuổi ấy cần đƣợc quan tâm chăm sóc và chuẩn bị một hành trang vững vàng để các em bƣớc vào đời. Ngoài việc đƣa ra những nhân vật phản diện Ma Văn Kháng còn khắc họa hình ảnh những ngƣời dân lƣơng thiện để các em có lòng tin vào cuộc sống. 32
- Chƣơng 3. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN THÂN PHẬN TRẺ THƠ TRONG TIỂU THUYẾT CÔI CÚT GIỮA CẢNH ĐỜI CỦA MA VĂN KHÁNG 3.1. Nghệ thuật kể chuyện Văn học là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan. Mỗi tác phẩm văn học là một mảng hiện thực đời sống muôn màu của con ngƣời, đƣợc thể hiện qua cái nhìn, qua cảm nhận, đánh giá mang tính chất chủ quan của nhà văn. Tác phẩm văn học bao giờ cũng chứa đựng một thái độ tƣ tƣởng, lập trƣờng quan điểm và sự sáng tạo tâm huyết của nhà văn đối với đời sống. Nghệ thuật kể chuyện là việc tác giả chọn ngôi kể và điểm nhìn nghệ thuật cho một tác phẩm. Ngƣời kể chuyện là do nhà văn sáng tạo ra, không chỉ có mối liên hệ gắn bó với tác giả mà còn với bản thân câu chuyện kể và ngƣời tiếp nhận nó. Có nhiều cách để phân loại ngƣời kể chuyện. Căn cứ vào vị trí của ngƣời kể chuyện trong tác phẩm ta có thể phân loại thành: Ngƣời kể chuyện ở ngôi thứ nhất và ngƣời kể chuyện ở ngôi thứ ba, nhƣng cũng có khi ngƣời kể chuyện vừa ở ngôi thứ nhất vừa ở ngôi thứ ba. Ngƣời kể chuyện ở ngôi thứ nhất xuất hiện trực tiếp xƣng “tôi” hoặc “chúng tôi”. Ngƣời kể chuyện đứng ở vị trí bên trong nhƣ một chủ thể, đƣợc tự do quan sát bình luận, có điều kiện đi sâu vào tìm hiểu khám phá thế giới hiện thực trong tác phẩm. Ngƣời kể chuyện ở ngôi này có thể mang quan điểm của tác giả nhƣng không phải lúc nào cũng trùng khít với tác giả. Lời kể bộc lộ tính chủ quan và mang sắc thái cảm xúc cao độ. Còn ngƣời kể chuyện ở ngôi thứ ba làm cho câu chuyện hoàn toàn mang tính khách quan, ngƣời kể chuyện biết hết mọi chuyện. Tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời bắt đầu bằng lời kể của Duy tuổi mƣời lăm, lứa tuổi đủ độ chín để suy ngẫm về hồi ức:“Thật tình tôi không hiểu đời mình sẽ ra sao, nếu cách đây mười năm, khi tôi lên năm tuổi tôi 33
- không có bà nội tôi” [7, tr.3]. Côi cút giữa cảnh đời lựa chọn kể chuyện ở ngôi thứ nhất, nhân vật xƣng “tôi” là cậu bé Duy, là nhân vật chứng kiến từ đầu đến cuối những biến cố trong cuộc sống của các nhân vật khác trong truyện. Từ đó, giúp ngƣời đọc hình dung một cách rõ nét nhất những khó khăn, nhọc nhằn của của ba bà cháu, cũng nhƣ cuộc sống sinh hoạt của phƣờng Ngọc Sinh. Bên cạnh việc lựa chon ngôi kể góp phần đem lại thành công cho tác phẩm, Ma Văn Kháng còn sử dụng linh hoạt điểm nhìn nghệ thuật. Điểm nhìn nghệ thuật có thể là điểm nhìn bên trong, điểm nhìn bên ngoài hoặc luân phiên điểm nhìn. Điểm nhìn bên trong là nhân vật trong tác phẩm trực tiếp chứng kiến diễn biến của câu chuyện mang tính khách quan. Điểm nhìn bên ngoài đƣợc kể lại bởi một nhân vật khác ngoài câu chuyện và mang tính chủ quan. Tìm hiểu về điểm nhìn trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời chúng tôi nhận thấy tác giả đã sử dụng điểm nhìn bên trong là chủ yếu. Côi cút giữa cảnh đời không khai thác những tình huống phiêu lƣu, mạo hiểm kích thích tính hiếu kì, không đề cập đến những lời giáo huấn, không lơ lửng bay trong những giấc mộng cao xa, không quẩn quanh phản ánh những sinh hoạt tẻ nhạt, thuận chiều. Cuốn sách đặt con ngƣời vào dòng đời đƣơng đại trong một hiện thực gay gắt và không ít buồn phiền đau đớn. Duy kể lại những biến cố khiến cho tuổi thơ của em và gia đình rơi vào bế tắc. Mở đầu câu chuyện là một tiếng kêu não lòng: “Thụy ơi, thật không ai như con đâu. Thụy là tên mẹ tôi. Tiếng kêu ấy là khúc mở đầu cho một đoạn đời bi đát khốn khổ của bà nội tôi và tôi. Tôi có thể nói thế là vì cho đến hôm nay, khi tôi đã bước vào tuổi thiếu niên, trí nhớ tuổi thơ đậm đà ấn tượng của tôi đã được rọi chiếu bằng hiểu biết của tuổi mười lăm biết thao thức, nghĩ ngợi. Tuổi mười lăm cố gắng dựng lại thiên hồi ức ở thời đoạn tôi chập chững bước vào cuộc sống trẻ thơ trong bàn tay dắt dìu, cưu mang của bà 34
- tôi” [7, tr.4]. Câu chuyện là một thiên hồi ức của Duy về thế giới tuổi thơ của mình. Biến cố của gia đình Duy bắt đầu từ đây, mẹ đã bỏ lại Duy và bà nội để theo ngƣời tình. Cha thì vào Nam chiến đấu và bặt tin tức. Chú Dũng và cô Quỳnh cũng đi biệt. Cuộc sống ngày càng khó khăn từ lúc mẹ bỏ đi, mọi việc chồng chất lên đôi vai gầy của bà. Việc lựa chọn điểm nhìn từ bên trong nhƣ thế đã tạo đƣợc ấn tƣợng sâu sắc trong lòng ngƣời đọc về tính chân thực. Tất cả bất công của cuộc sống đã in hằn trong đầu óc non nớt của Duy mà nếu không có bà và những ngƣời hàng xóm tốt bụng chắc Duy đã không vƣợt qua đƣợc những tháng ngày khó khăn ấy. Phải chăng sớm phải chịu cảnh khốn khó, cô đơn mà Duy có những cảm nhận, suy nghĩ lớn hơn so với tuổi của mình. Vì thế khi cô Quỳnh mang bé Thảm về, mặc dù chƣa biết đầu đuôi thế nào, Duy đã cảm nhận rõ nỗi đau chồng chất nỗi đau:“Bước vào nhà, tôi nhận ra nét mặt của bà tôi hết sức buồn bã, đang ngồi cạnh một người phụ nữ trẻ trên tay bồng một đứa trẻ mới đẻ còn đỏ hỏn. Người phụ nữ xanh xao, tóc xõa, mắt ậng nước. Thấy tôi vào,cô liền ngẩng lên. Tình ruột thịt là cái gì đó rất tự nhiên. Qua ánh mắt giao hòa, tôi nhận ra ngay mối quan hệ máu mủ giữa người nọ và tôi. Đồng thời, tôi bỗng gai người vì linh cảm thấy đã xảy ra điều gì đó như một hiểm họa bất thường ” [7, tr.101]. Dƣờng nhƣ Duy đã cảm nhận đƣợc những khó khăn mà ba bà cháu sẽ phải trải qua trong những tháng ngày tiếp theo. Duy thƣơng bà, hai thứ tóc trên đầu, bỗng nhiên bà phải gánh vác thay con cái, nuôi nấng hai đứa trẻ có cha có mẹ mà hóa côi cút. Ma Văn Kháng rất thành công khi sử dụng điểm nhìn bên trong để đi sâu khám phá hiện thực đời sống khi đất nƣớc vẫn chƣa tắt lửa chiến tranh ở các vùng biên giới. Chọn số phận của ba bà cháu Duy giữa bao xô đẩy của cảnh đời, tiểu thuyết đã bóc trần bản chất cơ hội, hãnh tiến của một bộ phận ngƣời sau chiến tranh, đồng thời lên tiếng cảnh báo về sự suy đồi về nhân 35
- cách của thế hệ trẻ trƣớc sức mạnh tàn phá của đồng tiền và sự dung dƣỡng của cha mẹ. Bên cạnh cảm hứng phê phán là cái nhìn cảm thƣơng trân trọng những con ngƣời biết vƣợt lên hoàn cảnh để sống một cuộc đời tốt đẹp, có ích và thấm đƣợm tình nhân ái. 3.2. Ngôn ngữ Nói về nghệ thuật trong văn học, Nguyễn Tuân đã có nhận xét nhƣ sau: “Nghề văn là nghề của chữ - Chữ với tất cả mọi nghiã mà mỗi chữ phải có được trong một câu, nhiều câu. Nó là cái nghề dùng chữ nghĩa để sinh sự, để sự sinh”. Nhƣ vậy, ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong loại hình nghệ thuật ngôn từ này. Phƣơng Lựu cũng cho rằng: “Mọi tác phẩm văn học đều được kể hoặc viết bằng lời: Lời thơ, lời văn, lời tác giả, lời nhân vật Gộp chung lại gọi là lời văn. Nếu ngôn từ - tức là lời nói, viết trong tất cả tính chất thẩm mĩ của nó là chất liệu của sáng tác văn học, thì lời văn là hình thức ngôn từ nghệ thuật của tác phẩm văn học” [10, tr.313]. Khảo sát tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời, chúng tôi nhận thấy Ma Văn Kháng sử dụng ngôn từ dung dị đời thƣờng rõ nét hơn cả để tạo nên thành công cho tác phẩm của mình. Lớp ngôn ngữ này là tông màu chủ đạo mang đến cho ngƣời đọc những cảm nhận về cuộc sống đời thƣờng với những con ngƣời bình thƣờng. Đây là ngôn ngữ miêu tả ngôi nhà của gia đình Duy:“Căn buồng chính của gia đình tôi rộng hai mươi tư mét vuông. Từ sân vào, qua nó, đến cái sân nhỏ, bước vào khu phụ, rộng hơn chục mét vuông nữa, gồm bếp, bể nước, nhà tắm, buồng vệ sinh, nhà kho. Trước căn buồng chính có một hành lang nhỏ. Ngoài nữa là cái sân đất, mỗi chiều rộng độ ba mét, chừa một lối đi nhỏ ở giữa, còn lại đất được cuốc lên đánh thành luống, bà tôi hè thì gieo rau dền, rau đay, đông thì trồng su hào, bắp cải, khi giàn mướp, lúc giàn su su mùa nào thức ấy” [7, tr.19]. Đoạn miêu tả ấy là những 36
- cảnh vật quen thuộc, cứ nhƣ ta bắt gặp căn buồng ấy ở một vùng quê nào đó. Tuy nằm ở ngoại vi thành phố, nhƣng ngôi nhà ấy gợi cho ta cảm giác thân quen đến kì lạ, hay sự thân quen ấy gợi ra từ chính lớp ngôn từ mà chúng ta sử dụng trong cuộc sống thƣờng ngày, đó là hành lang, là luống, là rau dền, rau đay, su hào, giàn mướp, su su, bắp cải Những vật dụng trong ngôi nhà khi mẹ Duy rời bỏ khỏi nhà cũng đƣợc miêu tả hết sức đời thƣờng:“cái nón lá mới quang dầu”,“cái đinh treo chiếc chìa khóa xe đạp”, nào là“cái túi lưới”,“cái giá”, nào là“cái gương hình quả tim” Tất cả vật dụng đƣợc Duy thật thà liệt kê để thay cậu thể hiện sự nhớ mẹ. Qua cái nhìn của một đứa trẻ nhƣng những vật dụng đó ngoài sự thô sơ mộc mạc cũng không kém phần xót xa và sâu sắc. Hình ảnh của bà qua quan sát của Duy: bà có“làn da bánh mật bọc các lóng xương”, “hai ống quần bên thấp bên cao” chạm nhau,“hàm răng nhuộm đen đều tăm tắp” [7, tr. 3]. Bà trong những ngày khó khăn cũng đƣợc miêu tả hết sức giản dị: “Bà chục năm nay vẫn đôi dép lốp ô - tô quai to Nấu một bò gạo, được bốn bát cơm, bà chỉ ăn lưng vực”, “có bữa bà chỉ ăn củ khoai, củ sắn” [7, tr.70]. Hàng dài ngôn ngữ nói về sự khổ cực của bà, bà sống tằn tiện vì các cháu, bà hy sinh vì các cháu, giảm phần ăn của mình để các cháu đƣợc no đủ hơn. Qua lớp ngôn từ đời thƣờng, cuộc sống cơ cực đƣợc lột tả một cách chân thực. Đặc biệt làm toát lên phẩm chất cao quý của ngƣời bà đã hết lòng hy sinh vì con cháu. Ngôn ngữ đời thƣờng còn nằm trong lời trách yêu của bà đối với Dũng sau bao nhiêu ngày xa cách:“Thế mà cứ biền biệt. Con giai nhà này đứa nào cũng giống đứa nào. Y như bố chúng mày hồi xưa. Cấm có chịu thư từ tin tức gì. Người ta ở nhà héo hon, lo lắng thế nào, có biết cho người ta đâu” [7, tr.158]. Đó còn là sự cảm động của lòng bà sau bao năm tháng bặt tin con:“Bà cúi xuống rá gạo đang nhặt sạn, chớp chớp mắt. Những xúc động dồn nén từ nãy 37
- đến giờ đã tràn đầy. Mắt bà nhòe mờ. Bà vạch túi lấy khăn tay chấm đuôi mắt rồi trách yêu chú tôi” [7, tr.158]. Đây là những tình cảm hết sức xúc động và chân thành của ngƣời mẹ dành cho ngƣời con. Ngôn ngữ đời thƣờng là ngôn ngữ đƣợc sử dụng nhiều nhất trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời. Thông qua lớp ngôn ngữ đó, đời sống sinh hoạt của bà cháu Duy hiện lên một cách đầy đủ, chân thực, giản dị. 3.3. Giọng điệu Theo Từ điển thuật ngữ văn học:“Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và có tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật” [2, tr.134 - 135]. Thông qua giọng điệu mỗi nhà văn tạo nên phong cách riêng. Với tấm lòng nhân hậu và sự trải đời, Ma Văn Kháng gửi gắm trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời giọng điệu chủ đạo là thƣơng cảm, xót xa và giọng điệu triết lí. Nhiều nhà văn quan niệm rằng: Văn chƣơng xét đến cùng là thân phận con ngƣời. Chính sự yêu thƣơng, đồng cảm và chia sẻ với những nỗi đau của ngƣời khác là nguồn cảm hứng cho tác phẩm ra đời và cũng là yếu tố tạo nên giọng điệu thƣơng cảm, xót xa. Với giọng điệu này, tác giả dễ bày tỏ, trải lòng mình hơn. Và Ma Văn Kháng đã sử dụng loại hình giọng điệu này làm chủ âm trong sáng tác của mình. Trong Côi cút giữa cảnh đời, nhân vật chính là những đứa trẻ côi cút bất hạnh. Ma Văn Kháng là nhà văn của những số phận đời thƣờng. Vì vậy, điều mà ông trăn trở nhất là làm sao mô tả đƣợc những số phận ấy mà không bị trùng lặp với vô vàn những câu chuyện về thân phận của những đứa trẻ côi cút trong văn học trƣớc đó. Vì thế, dù ngƣời kể chuyện có ở ngôi nào đi chăng nữa thì ta vẫn thấy nổi bật ở trong cuốn tiểu thuyết này là giọng điệu thƣơng cảm. Tác phẩm 38
- viết về số phận của ba bà cháu Duy với những tháng ngày khó khăn, tủi nhục. Ma Văn Kháng mƣợn giọng điệu thƣơng cảm để bày tỏ những cung bậc cảm xúc ngậm ngùi, xót xa đồng cảm với cuộc đời và số phận của con ngƣời. Ngƣời đọc thật sự cảm thấy xót xa, thƣơng cảm cho số phận của cậu bé Duy, có cha có mẹ mà hóa thành côi cút. Mẹ bỏ đi khi Duy còn non nớt, thơ ngây:“Tôi ngẩn ngơ trong tiếng khóc than xót đau, ai oán của bà tôi. Chỉ mang máng hiểu rằng, đã có một cái gì đó rất vô lí xảy ra. Tôi chỉ biết đến thế thôi! Những sắc thái tinh tế của tình cảm, những cảnh huống éo le của cõi đời, những khúc mắc rắc rối của các thứ quan hệ, đối với tôi còn quá xa lạ. Tôi không biết giận, cũng chưa biết thương. Tôi chỉ thấy nhớ mẹ!” [7, tr.15]. Không chỉ có Duy, Ma Văn Kháng còn thƣơng cảm cho số phận của bà và bé Thảm, những số phận phải đấu tranh quyết liệt với cái xấu, cái ác để giành sự sống về mình:“Ôi, lúc ấy tôi cũng ứa nước mắt. Nỗi tủi nhục của con người bé bỏng kia sao mà sâu xa và có cách nào chia sẻ giúp em?” [ 7,tr.114]. “Ai đếm được bao nhiêu đêm bà thức trắng? Ai ghi được số lần em Thảm tôi khóc hờn? Em gái tôi còn bé quá, nó chưa biết tỏ bày. Nó đau ở đâu? Nó đói hay khát?” [7, tr.114 - 115]. Trong cuốn tiểu thuyết đã không ít lần nhân vật trần thuật ở ngôi thứ nhất - Cậu bé Duy thốt lên những lời thƣơng cảm xót xa cho chính thân phận bất hạnh của mình, cho đứa em tội nghiệp và cả gánh nặng trên đôi vai của bà. Càng xót xa cho mình bao nhiêu, Duy càng thƣơng em Thảm bấy nhiêu. Duy đã không biết bao nhiêu lần phải kêu những tiếng kêu thảng thốt, xót xa trƣớc tỉnh cảnh của em Thảm:“Em nằm xẹp như một dải khoai héo. Đôi môi ho hó, bợt bạt, không buồn động đậy. Em thở khò khè. Trên vầng trán nhỏ của em, gân xanh nổi chằng chẵng. Tim em đập rất khẽ. Có lúc tôi đặt tay lên tưởng tim nó đã ngừng” [7, tr.124]. Giọng điệu thƣơng cảm còn đƣợc thể hiện ở trong lời nói của bà nội. Thời buổi còn nhiều bất công ngang trái liên tục đổ xuống những thành viên 39
- trong gia đình. Nạn nọ chƣa qua, nạn kia đã xuất hiện, bà thƣơng các con, các cháu trƣớc những khó khăn đè nặng lên ba bà cháu. Bé Thảm ốm triền miên, vẫn còn là một hài nhi, thế nhƣng đến cái quyền đƣợc coi là một công dân, đƣợc hƣởng những thứ mà một đứa trẻ đáng đƣợc hƣởng mà đã bị những tên cầm quyền kia tƣớc đoạt. Bà xót thƣơng cháu:“Cháu sinh ra vào thời buổi khốn khó, lắm nhiễu nhiều nhương này làm gì cho khổ cháu, khổ bà cháu ơi!” [7, tr.120]. Bà bất lực nhiều khi chỉ biết tìm đến nức nở bên ngôi mộ của ngƣời chồng đã xa cách. Rồi cũng có lúc bà thốt lên những tiếng xót xa với cô Quyên:“Thảm thiết quá cô ơi! Rồi đây biết sống thế nào! Bè thì là bè lim, mà sào thì lại sào sậy, cô à .” [7, tr.109]. Dƣờng nhƣ tất cả đã quá sức chịu đựng của con ngƣời, vậy nên tiếng kêu ấy mới thảm thiết đến vậy. Bạn đọc không khỏi xúc động trƣớc tình cảnh của bà khi bị chủ tịch Luông dồn đến chân tƣờng: “Khánh kiệt rồi! Cùng cực lắm rồi, các ông ạ. Chỉ còn cái thân già ngực lép vú mướp tàn tạ nay sống mai chết nữa thôi. Nào, các ông muốn gì nữa thì nói đi!” [7, tr.203]. Bà đã phải chịu đựng nhiều cay đắng, xót xa trƣớc nghịch cảnh ngang trái của của xã hội, trƣớc những tên cầm quyền vô nhân đạo. Lựa chọn giọng điệu thƣơng cảm xót xa góp phần làm nên một bản hợp tấu đa giọng điệu trong tác phẩm của Ma Văn Kháng, đồng thời cũng lí giải vì sao, những tiểu thuyết viết về thiếu nhi của Ma Văn Kháng thời kì đổi mới luôn cuốn hút độc giả. Đây là một trong những sắc thái, giọng điệu giúp ngƣời đọc cảm nhận rõ tâm hồn và trái tim nhân hậu trong sáng của nhà văn. Côi cút giữa cảnh đời là tiểu thuyết viết về thiếu nhi bên cạnh những vấn đề tình bạn, tình anh em, tình bà cháu . Ma Văn Kháng đã đƣa vào đó những chất liệu hiện thực ngồn ngộn để chuẩn bị cho các em một hành trang sống đầy đủ khi bƣớc vào tƣơng lai. Tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời viết về số phận của con ngƣời trong cuộc sống với biết bao biến động, đổi thay. Thế giới nhân vật vô cùng phong 40
- phú với đủ các hạng ngƣời trong xã hội từ những ngƣời dân lƣơng thiện, hiền lành, những thân phận côi cút cho đến cả những kẻ lƣu manh côn đồ Vì vậy ngoài giọng điệu thƣơng cảm, xót xa ngƣời đọc còn nhận ra sắc thái giọng điệu triết lí. Giọng điệu này đƣợc nhà văn sử dụng để đề cập dến những vấn đề phức tạp trong đời sống, khi nhân vật của ông đi tìm những giá trị đích thực của cuộc sống. Giọng điệu triết lí đƣợc nhà văn lồng ghép vào những câu đối đáp của bà nội Duy với lão Hứng, với chủ tịch Luông, qua đó thấy đƣợc tài ứng đối và vốn kiến thức của bà Duy cùng với bản lĩnh của một con ngƣời có học thức và kinh nghiệm sống dày dặn:“Ông nặng lời quá đấy ông chủ tịch ạ. Nhưng thôi, hôm nay tiện thể ông đến thăm, tôi cũng xin có ý kiến thế này. Bé thì con mẹ con cha. Lớn lên thì con chính phủ, con nhân dân. Vậy nên mẹ con cháu đây có điều gì không phải, tôi nhờ nhà nước, chính quyền tìm kiếm, bảo ban hộ” [7, tr.79]. “Trình ông, trẻ thì bé dại thơ ngây, già thì lẫn lộn biết ngày nào khôn! Ông nói vậy giờ tôi mới biết. Tôi cũng không ngờ thằng gián điệp nó biết cái câu tốt lễ dễ van. Và con người thì bé mà cái mắt thì to. Ra quân nó đểu cáng quá” [7, tr.128]. Giọng điệu triết lí cũng tỏ ra vô cùng hữu dụng trong những lần Luông cố tình hãm hại gia đình Duy. Ngày Luông tìm cách cƣớp nhà của hai bà cháu, hắn có tới nhà và dọa nạt bà nhƣ thể “dạm” trƣớc việc xấu xa mình làm. Thế nhƣng bà đã không để cho Luông dọa nạt bà dễ dàng thế. Đầu tiên bà kể cho Luông nghe câu chuyện Trạng Quỳnh cƣớp mèo của vua mà vua không làm sao chối cãi lại đƣợc dù biết đó là mèo của mình. Từ đây bà khẳng định“Chỉ một cái trừng mắt có thể đổi trắng thành đen” [7, tr.80]. Từ câu nói mang hàm ý đó, Luông có thể hiểu rằng bà đang muốn nói tới giới hạn mỏng manh của “trắng” và “đen”, rằng bà biết với quyền lực của Luông thì chỉ bằng một “cái trừng mắt” thì trắng - đen đảo lộn ngay đƣợc. Rồi bà lại nhanh chóng chốt lại 41
- lời của mình bằng một câu nói sâu sắc mang hàm ý sâu xa:“Vu vạ cho ai thì cũng phải có lí, có duyên. Không thì thiên hạ người ta bảo là thói đời giậu đổ bìm leo, ông ơi” [7, tr.80]. Câu nói này đã đánh mạnh vào cái vô duyên vô cớ của Luông khi một tay hãm hại nhà bà và cũng làm hắn phải lảng sang chuyện khác trong sự tức giận, không biết trút đi đâu cho hết. Cái lần Hứng muốn hai bà cháu ra ngoài chợ ở hẳn, bà cũng cho Hứng biết rằng việc làm của Hứng ắt không thể thành đƣợc. Bà rào trƣớc:“Dò sông, dò biển, dò nguồn. Biết sao được bụng lái buôn mà dò” [7, tr.149]. “Bụng lái buôn” ở đây là bụng dạ kẻ tiểu nhân, ma cô, lật lọng, mƣu mẹo. Thế nên ngƣời ta chỉ có thể dò bụng sông, bụng biển, chứ bụng kẻ tiểu nhân chứa đầy âm mƣu thì không thể nào dò trƣớc đƣợc những gì mà hắn định làm. Bụng “ngƣời lái buôn” ở đây ám chỉ Hứng vậy. Nói nhƣ thế không khác gì nói cho Hứng biết bụng dạ của Hứng chẳng tốt đẹp gì. Rồi âm mƣu của hắn chẳng mấy chốc bị bại lộ. Lúc này bà răn thẳng thừng cho Hứng biết:“Hưởng lộc như ôm cọp ngủ? Tôi sợ là có đứa xúi dại ông, rồi có ngày bợm già mắc bẫy cò ke đấy” [7, tr.152]. Nhƣ vậy, bà đã biết đƣợc những gì Luông và Hứng định làm, biết đƣợc Luông chỉ đang lợi dụng Hứng, còn Hứng là kẻ ngốc nghếch, đang đuổi theo cái gọi là “lộc cọp”. Vì thế, ắt sẽ có ngày bản thân bị nó làm hại. Hứng cứ tƣởng mình sâu sắc, thâm cay nhƣng cuối cùng rồi cũng sẽ chết dƣới tay kẻ khác nếu không chịu tỉnh ngộ. Bà là ngƣời cao tuổi nhất trong gia đình, vì thế việc hƣơng khói trong nhà, việc thờ cúng ông bà tổ tiên luôn đƣợc bà quan tâm. Bà bảo:“Trần sao âm vậy, phải báo cho cụ kị tổ tiên biết nơi ăn ở, để các cụ đi lại với con cháu. Thêm nữa, bà cười hóm hém: Đất có thổ công, có chủ đất, mình đến ở nên báo cho người ta biết, ăn ở như thế mới là trọn vẹn lí tình” [7, tr.17]. Đây vừa là hiểu biết vì bà đã sống sang nửa bên kia của cuộc đời vừa là cách sống trọn vẹn nghiã tình mà bà luôn luôn ghi nhớ. 42
- Bà lại giải thích, an ủi cô Quyên khi thấy cô tủi cho phận mình:“Trời chẳng thiên vị ai đâu cô ạ! Mắt tôi chứng kiến nhiều rồi. Rồi lại của thiên trả địa hết thôi” [7, tr.31]. Trong câu nói của bà chất chứa bao nhiêu ẩn ý sâu sắc về lẽ đời. Bà không phủ nhận sự bất công trong cõi đời này nhƣng bà khẳng định trong cuộc đời này “có vay, có trả”. Khi không phải thứ do mình làm ra bằng mồ hôi nƣớc mắt thì cũng nhanh chóng rời bỏ ta mà thôi. Đây là kinh nghiệm, là triết lí sống bấy lâu nay của bà. Và sau này lời bà đã đúng với gia đình cô Đại Bàng theo quy luật “có vay có trả”. Ngày cô Đại Bàng than với bà về những đứa con, bà buột miệng nói ra triết lí: “Trẻ nó mỏ ở trong tay mình. Bé không vin, cả gãy cành” [7, tr.56]. Lời bà nói cũng là chân lí đƣợc đúc kết lâu nay “dạy con từ thuở còn thơ” là vậy. Con trẻ mà không đƣợc giáo dục đến nơi đến chốn là chúng dễ sinh ra thói hƣ, tật xấu mà sau này không thể sửa đƣợc. Về sau hai đứa con của cô thực sự không thể dạy bảo đƣợc và chúng cũng đã tự gây nên họa cho mình. Đọng lại trong lòng độc giả ở mỗi trang viết là triết lí về cuộc sống, về tình yêu thƣơng của con ngƣời. Trong cuộc sống, chuyện đƣợc - mất, sống - chết đã trở thành quy luật của tạo hóa và không ai có thể cƣỡng lại đƣợc, và bà nội Duy đang phải đối mặt với quy luật ấy:“Những ngày vui lớn đã đến. Nhưng, tôi đâu có ngờ, đó là những ngày cuối cùng của đời bà tôi. Cái buổi chiều lên thăm mảnh vườn ngải, mộ con mèo Mí trên khu đồi hoang, hóa ra lại là cuộc chia tay của bà nội tôi với thiên nhiên, cây cỏ và khung cảnh vùng đất bà đã gắn bó. Dường như bà tôi đã hoàn thành hết mọi việc và chỉ còn chờ gặp bố tôi, để làm một cuộc chia tay và bàn giao cuối cùng” [7, tr.223]. Trong Côi cút giữa cảnh đời, bên cạnh giọng điệu triết lí của bà nội Duy về cuộc đời mỗi con ngƣời, ở phần cuối tác phẩm ngƣời đọc còn cảm nhận đƣợc sự ấm áp của lòng bao dung, vị tha khi bố Duy gọi:“Về thôi, Thụy!”. Khi ba tiếng ấy cất lên không chỉ có mẹ Duy thấy hạnh phúc mà ngƣời đọc 43
- cũng cảm nhận đƣợc hƣơng vị hạnh phúc của sự tha thứ. Đây chính là đích cần đạt tới của những tác phẩm văn học có giá trị. Có thể thấy, bằng giọng điệu triết lí, Ma Văn Kháng tạo nên sự sâu sắc trong tác phẩm của mình theo một cách riêng và mang lại hiệu quả thẩm mĩ nhất định. 44
- KẾT LUẬN Bên cạnh những sáng tác cho ngƣời lớn, Ma Văn Kháng còn sáng tác cho thiếu nhi với những tác phẩm nhƣ Chó Bi đời lưu lạc, Chuyện của Lý và tiêu biểu là tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời. Viết cho các em khi nhà văn đã ở lứa tuổi không còn trẻ, có những khoảng cách rất xa về suy nghĩ, về cách nhìn nhận con ngƣời và cuộc sống, nhƣng Ma Văn Kháng đã thực sự xóa bỏ mọi trở ngại do tuổi tác tạo nên. Ông làm cho mình trẻ lại, đứng vào vị trí của con trẻ, tìm lại cách suy nghĩ, bày tỏ và xét đoán con trẻ, rồi mạnh dạn đƣa đến cho trẻ thơ những tình huống phức tạp của cuộc sống để tập dần cho các em cách xử lí tình huống, không bị choáng ngợp trƣớc hiện thực bộn bề. Nhờ vậy, tác phẩm của Ma Văn Kháng đã đạt đƣợc những thành công nhất định. Dù không thuộc lớp nhà văn chuyên viết về thiếu nhi nhƣ Nguyễn Nhật Ánh, Duy Khán, Phùng Quán nhƣng Ma Văn Kháng xứng đáng là một trong những tác giả tiêu biểu cho bộ phận văn học thiếu nhi đƣơng đại. Ông đã để lại cho đời những tác phẩm văn học có giá trị, giàu ý nghĩa nhân văn, trong đó Côi cút giữa cảnh đời nhƣ một đóa hoa ngát hƣơng giữa vƣờn hoa văn học thiếu nhi đa sắc. Côi cút giữa cảnh đời hấp dẫn bạn đọc bởi sự gần gũi, giản dị của một ngòi bút suốt đời trăn trở, nỗ lực mang lại cho đời những tác phẩm nghệ thuật giàu ý nghĩa. Thông qua lớp ngôn ngữ dung dị đời thƣờng, giọng điệu thƣơng cảm xót xa và triết lí sâu sắc, Ma Văn Kháng đã khắc họa thành công một thế giới tuổi thơ không đơn giản xuôi chiều mà thế giới tuổi thơ ấy hiện lên đầy cay đắng xót xa. Đó là Duy, Thảm - những đứa trẻ phải chịu nhiều thiệt thòi trong gia đình cả về vật chất lẫn tinh thần, có cha có mẹ mà bỗng hóa côi cút. Ba bà cháu dựa vào nhau mà sống qua những ngày giông bão. Những tháng ngày đến trƣờng không là ngày hội nhƣ trong tƣởng tƣợng của các em, mà mỗi ngày đến trƣờng các em phải đối mặt với sự khinh bỉ của bạn bè, sự phân biệt đối xử của thầy cô. Các em sống trong một xã hội đầy dẫy những bất công, ngang trái. Trong xã hội ấy đến quyền sống các em cũng phải tự giành lấy. 45
- Là một nhà giáo viết văn nên những sáng tác của Ma Văn Kháng giàu giá trị nhân văn. Ông không khai thác những vấn đề lớn lao trọng đại của lịch sử mà đi sâu tìm hiểu những khía cạnh đời thƣờng. Nhƣng ý nghĩa của mỗi tác phẩm lại vƣợt ra khỏi phạm vi nhỏ hẹp. Côi cút giữa cảnh đời lấy bối cảnh sinh hoạt là phƣờng Ngọc Sinh, chọn số phận của ba bà cháu Duy làm tâm điểm, thông qua đó thấy đƣợc thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm. Cuộc sống hôm nay chắc chắn nhiều em thiếu nhi còn chung thân phận nhƣ bé Duy, bé Thảm, cần chúng ta phải quan tâm. Các em không may mà thiếu hụt đi những tình cảm thiêng liêng của cha mẹ, các em không may mà thiếu thốn hơn so với bạn bè đồng trang lứa, hay nhiều giáo viên chƣa thực sự hiểu suy nghĩ học sinh. Và một xã hội chƣa tạo điều kiện tốt nhất để trẻ em có thể phát triển toàn diện. Chúng ta - những ngƣời lớn phải có trách nhiệm để trẻ thơ đƣợc sống đúng với lứa tuổi của chúng, luôn vui tƣơi và hồn nhiên. 46
- TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội. [2] Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên) (2011), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục. [3] Văn Hồng (2004), Chuyện văn, chuyện người, NXB Giáo dục, Hà Nội. [4] Ma Văn Kháng (1989), Ngẫu hứng tự do và sáng tạo, Tạp chí Văn học, (2). [5] Ma Văn Kháng (2002), Đổi mới tư duy tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn. [6] Ma Văn Kháng (2002), Viết từ trải nghiệm của bản thân, Vietbao.vn. [7] Ma Văn Kháng (2012), Côi cút giữa cảnh đời, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. [8] Ma Văn Kháng (2013), Phút giây huyền diệu, NXB Hội Nhà văn. [9] Ma Văn Kháng (2013), Chuyện của Lý, NXB, Hội Nhà văn. [10] Phong Lê (1999), “Ma Văn Kháng với Côi cút giữa cảnh đời”, in trong cuốn Vẫn chuyện Văn và Người, NXB Văn hóa - Thông tin. [11] Phƣơng Lựu (Chủ biên) (2003), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. [12] Nguyễn Đăng Mạnh (2003), Nhà văn Việt Nam hiện đại chân dung và phong cách, NXB Trẻ. [13] Lã Nguyên (1999), Khi nhà văn đào bới bản thể từ chiều sâu tâm hồn, Tạp chí Văn học, (9). [14] Nguyên Ngọc (1991), Văn xuôi sau 19975, thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển, Tạp chí Văn học. [15] Vân Thanh (1999), Phác thảo văn học thiếu Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. [16] Đỗ Phƣơng Thảo (2005), Quan niệm về văn chương nghệ thuật của Ma Văn Kháng, Tạp chí khoa học, (5). [17] Nguyễn Ngọc Thiện (2005), Phong cách văn đời, (Tiểu luận - phê luận) NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
- [18] Mai Thị Tâm (2014), Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời của Ma Văn Kháng, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2. [19] Trần Đăng Suyền (1979), Đọc Đồng bạc trắng hoa xòe, Báo Văn nghệ, (94).