Khóa luận Những quan điểm cơ bản của Trần Nhân Tông về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Những quan điểm cơ bản của Trần Nhân Tông về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_nhung_quan_diem_co_ban_cua_tran_nhan_tong_ve_chinh.pdf
Nội dung text: Khóa luận Những quan điểm cơ bản của Trần Nhân Tông về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục
- TRƯ ỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC ĐÀO VĂN MẠNH Hà N ội, 2019. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRẦN NHÂN TÔNG VỀ CHÍNH TRỊ, QUÂN SỰ, NGOẠI GIAO, VĂN HÓA VÀ GIÁO DỤC KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2016-X HÀ NỘI, 2020
- TRƯ ỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC ĐÀO VĂN MẠNH NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRẦN NHÂN TÔNG VỀ CHÍNH TRỊ, QUÂN SỰ, NGOẠI GIAO, VĂN HÓA VÀ GIÁO DỤC KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2016-X NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS. TS Nguyễn Thanh Bình HÀ NỘI, 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan tất cả nội dung trong khóa luận với đề tài “Những quan điểm cơ bản của Trần Nhân tông về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục” là công trình nghiên cứu cá nhân tôi và dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thanh Bình. Các kết quả nghiên cứu và các kết luận trong khóa luận này là trung thực, không sao chép từ bất kỳ một nguồn nào và dưới bất kỳ hình thức nào. Các nguồn tài liệu tham khảo đã được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu tham khảo đúng quy định, nếu phát hiện ra có sự gian lận tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hội đồng và kết quả của khóa luận. Hà Nôi, ngày 30 tháng 5 năm 2020 Tác giả Đào Văn Mạnh
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục đích và nhiệm cụ nghiên cứu 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2 4. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 2 5. Ý nghĩa khóa luận 3 6. Kết cấu của đề tài 3 NỘI DUNG 4 Chƣơng 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA TRẦN NHÂN TÔNG VỀ CHÍNH TRỊ, QUÂN SỰ, NGOẠI GIAO, VĂN HÓA VÀ GIÁO DỤC .4 1.1 Điều kiện lịch sử, chính trị, xã hội Việt Nam cho sự hình thành những quan điểm của Trần Nhân Tông về chính trị, quân sự, ngoại giao, vắn hóa và giáo dục 4 1.2. Tiền đề lý luận cho sự hình thành những quan điểm của Trần Nhân Tông về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục 10 1.3. Trần Nhân Tông – cuộc đời và sự nghiệp 18 CHƢƠNG 2: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRẦN NHÂN TÔNG VỀ CHÍNH TRỊ, QUÂN SỰ, NGOẠI GIAO, VĂN HÓA VÀ GIÁO DỤC 25 2.1. Quan điểm của Trần Nhân tông về chính trị, quân sự và ngoại giao 2.1.1. Quan điểm của Trần Nhân Tông về chính trị 25 2.1.2. Quan điểm của Trần Nhân Tông về quân sự 35
- 2.1.3. Quan điểm của Trần Nhân Tông về ngoại giao 38 2.2 Quan điểm của Trần Nhân Tông về giáo dục và văn hóa 45 2.2.1. Quan điểm của Trần Nhân Tông về giáo dục 45 2.2.2. Quan điểm của Trần Nhân Tông về văn hóa 47 2.3. Những giá trị nổi bật trong các quan điểm của Trần Nhân Tông về chính trị, quân sự, ngoại giao,văn hóa và giáo dục 52 KẾT LUẬN 59 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 62
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Vương triều Trần rực rỡ để lại những giá trị đặc biệt có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của đất nước: Một triều đại vừa sinh Phật, vừa sinh Thánh. Cả Phật và Thánh nhà Trần cho đến tận ngày hôm nay, sau gần một thiên niên kỷ bão táp, vẫn giữ một vị trí sừng sững trong tâm thức dân tộc. Cùng với thời gian, những tư tưởng của vị Hoàng đế thứ 3 của triều đại nhà Trần - Trần Nhân Tông để lại càng có giá trị với tầm vóc vượt thời gian. Ngay từ thế kỷ XIII, trí tuệ và tư tưởng Trần Nhân Tông đã đạt tới đỉnh cao, đặc biệt là những tư tưởng của ông về chính trị, quân sự, văn hóa, giáo dục. Trần Nhân Tông là ông vua minh triết trong lãnh đạo, dũng cảm, kiên quyết trong đánh giặc và ân tình trong việc trị dân, trị nước, và sâu sắc trong tu hành. Với tình thương và tâm từ bi rộng lớn, tấm lòng yêu nước và thương dân kết hợp với khuynh hướng chính trị nhạy bén của Trần Nhân Tông, Trần Nhân Tông đã tiếp tục biên khảo bộ Hình luật, chú trọng nhiều hơn đến đời sống của thần dân Đại Việt thời ông trị vì. Hội nghị Diên Hồng và hội nghị Bình Than dưới sự dẫn dắt của Trần Thánh tông và Trần Nhân tông đã nói lên điều đó. Đối diện với vận mệnh của đất nước đang lâm nguy trước giặc ngoại xâm, ông đã kêu gọi tiếng nói và sự đồng lòng của vua tôi, quần thần và nhân dân trong việc bảo vệ đất nước. Vua Trần Nhân Tông đã sống một cuộc đời oanh liệt, có những đóng góp vô cùng to lớn và thiết thực do dân tộc Việt Nam và Phật giáo.Vậy thì ,vì sao Trần Nhân Tông lại có những tư tưởng đó, những tư tưởng tiến bộ của ông về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn háo, giáo dục là gì?. Ngày nay, những tác phẩm của Trần Nhân Tông do Thánh đăng ngữ lục ghi lại như Thiền Lâm thiết chủy ngữ lục, Thiền lâm thiết chủy hậu lục, Đại hương ải ấn thi tập, Tăng già toát sự và Thạch thất mị ngữ hoàn toàn đã thất tán. Những gì còn lại chỉ gồm một số bài thơ ,văn và ngữ lục được ghi chép rải rác. Cho 1
- nên, việc nghiên cứu tư tưởng của của Trần Nhân Tông không hề dễ dàng. Tuy nhiên, căn cứ vào những gì hiện hữu về vua Trần Nhân Tông còn lưu lại, tôi xin phép được phác họa sơ qua một số quan điểm cơ bản của Trần Nhân Tông trong vấn đề chính trị, quân sự, ngoại giao văn hóa và giáo dục. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Từ việc phân tích một số quan điểm cơ bản của Trần Nhân Tông về chính trị, quân sự, ngoại giao,văn hóa và giáo dục từ đó, khóa luận chỉ ra những giá trị nổi bật của các quan điểm của Trần Nhân Tông về vấn đề chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục. Nhiệm vụ: Để hoàn thành mục đích trên, khóa luận có nhiệm vụ làm rõ: -Điều kiện và tiền đề cho sự hình thành quan điểm của Trần Nhân Tông về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục. -Những nội dung cơ bản trong các quan điểm cơ bản của Trần Nhân Tông về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục. -Những giá trị nổi bật của các quan điểm của Trần Nhân Tông về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng: Các quan điểm cơ bản của Trần Nhân Tông về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục. Phạm vi: Một số tác phẩm của Trần Nhân Tông và các bộ quốc sử đề cập đến con người và sự nghiệp của Trần Nhân Tông. 4. Cở sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Khóa luận dựa trên sơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về xã hội và con người. 2
- Khóa luận áp dụng phương pháp biện chứng, duy vật lịch sử trong triết học Mác – Lênin. Ngoài ra khóa luận còn vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phân tích ,tổng hợp, so sánh 5. Ý nghĩa khóa luận Khóa luận góp một phần vào việc nghiên cứu về các quan điểm của Trần Nhân Tông về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục, để trên cơ sở đó thấy được những giá trị nổi bật. Khóa luận có thể làm tài liệu để nghiên cứu và học tập lịch sử tư tưởng Việt Nam. 6. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận gồm 2 chương 6 tiết. 3
- NỘI DUNG Chƣơng 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA TRẦN NHÂN TÔNG VỀ CHÍNH TRỊ, QUÂN SỰ, NGOẠI GIAO, VĂN HÓA VÀ GIÁO DỤC. 1.1.Điều kiện lịch sử, chính trị, xã hội Việt Nam cho sự hình thành những quan điểm của Trần Nhân Tông về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục. Để nghiên cứu tư tưởng về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa, giáo dục của Trần Nhân Tông trước tiên chúng ta cần tìm hiểu điều kiện lịch sử xã hội và những tiền đề lý luận hình thành tư tưởng của ông. Giống như C.Mác đã nói “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hình được tập trung lại trong tư tưởng triết học” [1, tr.156]. Từ cuối thế kỷ XII khi nhà Lý ngày càng suy yếu, triều đình lục đục, vua quan ngày đêm chỉ lo ăn chơi sa đọa không màng đến đời sống của người dân cực khổ, khó khăn, sản xuất đình trệ, mất mùa đói kém xảy ra liên miên, nhân dân khắp nơi cùng nhau nổi lên chống lại triều đình, xã hội ngày càng loạn lạc, các thế lực trong nước mất đoàn kết, đánh giết lẫn nhau Không lâu sau đó, tháng 12 năm Ất Dậu (1226) công chúa Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, nhà Lý nhường ngai vàng cho nhà Trần, nhà Trần được thành lập từ đó. Về tổ chức hành chính và bộ máy quan lại, thời Trần tổ chức hành chính và bộ máy quan lại nhìn chung hoàn thiện hơn so với thời Lý. Sau khi giành được chính quyền, nhà Trần đã phân chia lại Đại Việt thành 12 lộ thay vì 24 lộ như ở thời Lý. Bộ máy hành chính được củng cố theo hướng tăng tính tập quyền quan liêu. Các quan được cấp lương bổng theo ngạch, bậc; cứ 10 năm thăng tước một cấp, 15 thăng tước một bậc. 4
- Về quốc phòng an ninh, nhà Trần một mặt, nhanh chóng ổn định tình hình chính trị, xã hội, xây dựng chính quyền mới; mặt khác, tổ chức lại quân đội, củng cố quốc phòng. Quân đội nhà Trần gồm có cấm quân và quân ở các lộ. Cấm quân là đạo quân bảo vệ kinh thành, triều đình, nhà vua. Ở các làng xã, có hương binh. Khi có chiến tranh, còn có quân đội của các vương hầu. Quân đội nhà Trần được tuyển dụng theo chính sách "ngụ binh ư nông" và theo chủ trương : "Quân lính cốt tinh nhuệ, không cốt đông”, xây dựng tinh thần đoàn kết trong quân đội. Quân đội nhà Trần được học tập binh pháp và luyện tập võ nghệ thường xuyên. Nhà Trần còn cử nhiều tướng giỏi cầm quân đóng giữ các vị trí hiểm yếu, nhất là vùng biên giới phía bắc. Vua Trần thường đi tuần tra việc phòng bị ở các nơi này. Về pháp luật, năm 1230, Trần Thái Tông ban hành bộ Quốc triều hình luật. Cơ quan pháp luật nhà Trần được tăng cường hoàn thiện hơn. Trong triều có thẩm hình viện chuyên xét xử việc hình ngục. Cuối thế kỷ XIII, nhà Trần lập ra Viện đăng văn kiểm pháp, lấy các đại thần phụ trách. Việc tuyển chọn các quan làm chức vụ này có tiêu chuẩn thanh liêm, thẳng thắn. Các tầng lớp đại quý tộc như Vua và hoàng gia được pháp luật bảo hộ đặc biệt, xã hội còn chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo, chú trọng đến việc bảo vệ sản xuất nông nghiệp, ban hành các luật về đất đai, chuyển nhượng vật nuôi trong nông nghiệp như trâu bò, coi việc xây dựng, bảo vệ đê điều là việc làm của toàn nhà nước và nhân dân. Về ngoại giao, dưới triều Trần các vua đã tiến hành ngoại giao kiên quyết và cứng rắn để bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc. Sau chiến thắng quân Mông Cổ lần 1 (1258), công việc ngoại giao được tiến hành qua những biện pháp làm sáng tỏ uy lực của mình: Các vua thời Trần đã cử sứ bộ là tướng vừa thắng Mông Cổ sang chầu và lệnh cho sứ bộ khi sang chầu không kê khai số dân, quân dịch, cống nạp và phải chống việc đòi nước ta phải theo nghi lễ Mông Cổ. 5
- Trong hai lần kháng chiến chống quân Nguyên sau đó (1285 và 1288), nhà Trần đã thi hành chính sách ngoại giao vừa kiên quyết vừa mềm dẻo để kiềm chân quân xâm lược Nguyên Mông, nêu cao chính nghĩa của nhân dân ta. Sau chiến thắng, triều Trần tiếp tục đấu tranh ngoại giao làm tan rã ý chí xâm lược của kẻ thù, vừa tố cáo tội ác xâm lược, chỉ trả nhà Nguyên những tù binh ít nguy hiểm đối với đất nước. Triều Trần đã lợi dụng lúc địch gặp khó khăn, lúng túng, vận dụng sách lược ngoại giao uyển chuyển, linh hoạt “khi cương, khi nhu” vì vậy địch phải chấp nhận hòa hoãn, thậm chí cam kết không xâm phạm lãnh thổ và danh dự nước ta. Các vua Trần đã biết dựa vào sức mạnh đoàn kết của dân tộc và chính nghĩa, tìm hiểu kỹ về âm mưu của kẻ địch, linh hoạt trong việc áp dụng các chính sách ngoại giao. Khi thì kìm chân địch bằng ngoại giao, lúc tiến công ngoại giao tiếp theo chiến thắng quân sự để làm lung lay tiến tới làm tan rã ý chí xâm lược của địch như sau lần thắng Nguyên - Mông lần thứ ba. Nền kinh tế đất nước thời nhà Trần, về mặt nông nghiệp: để tránh nạn ngập lụt, vua Trần Thái Tông sai đắp đê hai bên bờ sông và cử quan đặc trách trông coi việc đê gọi là “Hà đê sứ”. Mỗi năm sau vụ mùa, triều đình còn ra lệnh cho quân sĩ đắp đê hay đào lạch, hào, giúp đỡ dân chúng. Triều đình cũng cho phép các vương, hầu có quyền chiêu tập những người nghèo khó, lưu lạc đi khai khẩn đất hoang để mở mang thêm ruộng nương. Về mặt thuế má: Có 2 loại thuế là thuế thân và thuế điền. Thuế thân được đóng bằng tiền và ít nhiều tùy theo số ruộng có. Ai có dưới một mẫu ruộng thì được miễn thuế. Thuế điền thì đóng bằng thóc. Ngoài ra còn có thuế trầu cau, rau quả, tôm cá v.v. Về mặt tiền tệ, để tiện việc tiêu dùng - vàng, bạc được đúc thành phân, lượng và có hiệu của nhà vua. 6
- Nhìn chung, lịch sử phát triển của đất nước ở triều Trần có thể chia ba thời kỳ: thời thứ nhất từ Thái Tông đến Nhân Tông là thời xây dựng và chống Mông - Nguyên, thời thứ hai từ Anh Tông đến Hiến Tông (có Thượng hoàng Minh Tông) là thời kế tục, thời thứ ba từ Dụ Tông (sau khi Thượng hoàng Minh Tông mất) tới khi kết thúc là thời suy tàn. Các vua Trần thời hậu kỳ, kể cả Minh Tông, đều không biết chiêu mộ nhân tài; lực lượng quan lại đều kém tài. Nếu thế hệ trước thắng Mông Nguyên khổng lồ một cách oai hùng bao nhiêu thì đời con cháu phải chạy trốn một Chiêm Thành nhỏ bé, từng núp bóng mình trong chiến tranh chống Mông - Nguyên xưa kia, một cách thảm hại bấy nhiêu. Đến khi bị Chiêm Thành xâm lấn, không hề có một gương mặt nào của dòng họ Trần đứng ra chống được giặc mà phải dựa vào một tướng ngoài hoàng tộc (Trần Khát Chân vốn mang họ Lê). Nếu trong tông thất nhà Trần thời kỳ sau có những nhân tài như giai đoạn đầu thì dù Quý Ly có manh tâm cũng không thể tính chuyện cướp ngôi. Nhà Trần trượt dốc từ Trần Dụ Tông, sau sự kiện Dương Nhật Lễ và cái chết của Duệ Tông đã không gượng dậy được nữa. Đó chính là thời cơ cho Hồ Quý Ly làm việc chuyên quyền và chiếm lấy ngôi nhà Trần. Dù sao, nhà Trần vẫn là một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam. Trang sử về nhà Trần trong sử sách nằm trong số những trang sáng nhất và để lại nhiều bài học cho đời sau. Về văn hóa nghệ thuật, nhà Trần đã đào tạo được khá nhiều học giả nổi tiếng như Lê Văn Hưu soạn bộ Đại Việt sử ký và đây cũng là sách bộ sử đầu tiên của Việt Nam. Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng là một ông trạng rất mực thanh liêm, đức độ và có tài ứng đối đã làm cho vua quan nhà Nguyên phải kính phục. Chu Văn An là một bậc cao hiền nêu gương thanh khiết, một thầy giáo mẫu mực, tiêu biếu cho tính cương trực. Các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông đều là những người giỏi văn chương và 7
- có soạn “Ngự tập” và danh tướng Trần Quốc Tuấn có làm những tác phẩm giá trị như Hịch tướng sĩ. Hàn Thuyên tức Nguyễn Thuyên có công làm thơ bằng chữ Nôm và đặt ra luật thơ Nôm. Vì thế đã có nhiều học giả, văn nhân đã theo gương của Hàn Thuyên mà làm những bài thơ Nôm rất giá trị. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Bấy giờ (năm 1282) có cá sấu đến sông Lô. Vua sai hình bộ thượng thư Nguyễn Thuyên làm bài văn ném xuống sông, cá sấu bỏ đi. Vua cho việc này giống như việc của Hàn Dũ, bèn ban gọi là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc ngữ. Thơ phú nước ta dùng nhiều quốc ngữ, thực bắt đầu từ đấy” [9, tr.301]. Nghệ thuật điêu khắc thời Trần được đánh giá là có bước tiến bộ, tinh xảo hơn so với thời Lý, trong đó có một số phù điêu khắc hình nhạc công biểu diễn mang phong cách Chiêm Thành. Cách trang trí hoa dựa trên nghệ thuật dân dụng. Âm nhạc Đại Việt thời Trần chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, Chiêm Thành và Trung Quốc . Một số nhạc công bị bắt từ Chiêm Thành và Trung Quốc trong các cuộc chiến đã truyền nghề ca hát cho dân Đại Việt, càng ngày càng phổ biến. Về giáo dục, thời nhà Trần, văn học rất được mở mang, Nho học cũng phát triển hơn so với thời Lý. Ngoài Quốc tử giám có tại kinh đô từ đời nhà Lý, nhà Trần cho lập thêm Quốc học viện để giảng Tứ Thư và Ngũ Kinh. Tại các lộ cũng cho mở trường học để dạy cho dân chúng. Trước kia dưới triều nhà Lý, có mở những khoa thi tam trường để lấy cử nhân, nhưng các khoa thi chỉ được mở ra khi nào triều đình cần người tài giỏi ra giúp nước chứ chưa có mở định kỳ. Năm 1232, vua Trần Thái Tông cho mở khoa thi thái học sinh để lấy tiến sĩ theo định kỳ cứ 7 năm thì có một kỳ thi. Năm 1247, nhà vua lại cho đặt ra khảo thi tam khôi để lấy trạng nguyên, bảng nhãn và thám hoa. Lê Văn Hưu là người đầu tiên đậu bảng nhãn. 8
- Trong 175 năm tồn tại, nhà Trần đã tổ chức 14 khoa thi (10 khoa chính thức và 4 khoa phụ), lấy 283 người đỗ . Có 2 khoa thi năm 1256 và 1266 lấy 2 trạng nguyên là Kinh trạng nguyên và Trại trạng nguyên nên tổng số có 12 người đỗ đầu trong các kỳ thi. Về tôn giáo, vào đầu đời nhà Trần Phật giáo còn thịnh. Các nhà vua đều sùng đạo cho xây chùa, đúc chuông, tạc tượng để phụng thờ khắp nơi. Vua Nhân Tông còn sai sứ sang Trung Hoa để thỉnh kinh về truyền bá đạo Phật, và ông chính là ông tổ đầu tiên của thiền phái Trúc Lâm. Nhưng cuối đời Trần, Phật giáo bị pha thêm các hình thức mê tín bùa chú cho nên ngày càng suy vi. Về Lão giáo thì cũng được nhân dân ngưỡng mộ. Do đó, nhà Trần cũng cho mở những khảo thi tam giáo như đời nhà Lý. Năm 1277, Thượng hoàng Trần Thái Tông mất. Mùa đông ngày 22 tháng Mười âm lịch năm sau (tức 8 tháng 11 năm 1278), Trần Thánh Tông nhường ngôi cho con trai là Thái tử Trần Khâm - tức Hoàng đế Trần Nhân Tông - và lên làm Thái thượng hoàng, với tôn hiệu là Quang Nghiêu Từ Hiếu Thái Thượng Hoàng Đế Thể theo phép tắc triều Trần, Thượng hoàng tiếp tục cùng Hoàng đế điều hành chính sự. Trong bối cảnh Nguyên – Mông đang từng bước chuẩn bị tấn công Đại Việt, hai vua Trần đã đề ra các biện pháp khuyến khích phát triển nông nghiệp, thương mại, đồng thời đảm bảo sự ổn định và đoàn kết trong nước. Khi thủ lĩnh người dân tộc Trịnh Giác Mật nổi dậy ở Đà Giang vào đầu năm 1280, hai vua ra lệnh cho Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đi thuyết phục quân nổi dậy quy hàng. Nhật Duật nhờ giỏi ngoại giao và am hiểu phong tục dân bản địa nên đã thu phục được Giác Mật mà "không tốn một mũi tên"[12, tr.222-223]. Từ năm 1278 đến 1281, Nhà Nguyên đã ba lần sai Lễ bộ thượng thư Sài Thung dụ Trần Nhân Tông đến chầu, nhưng vua Trần cự tuyệt [19, tr 202]. Năm 1282, Thượng hoàng cử chú họ là Trần Di Ái thay mặt vua sang Nguyên. Không thỏa mãn, Nhà Nguyên cử một số quan lại sang giám sát các 9
- địa phương của Đại Việt, nhưng đều bị hai vua Trần trục xuất. Khoảng năm 1281–1282, Hốt Tất Liệt lập Trần Di Ái làm An Nam Quốc vương và sai Sài Thung đem 1 nghìn quân hộ tống Di Ái về nước [16, tr.78]. Hai vua Trần đã sai quân chặn ở biên giới, đánh tan đội quân hộ tống của Nhà Nguyên và bắt được Di Ái, nhưng vẫn nghênh đón Sài Thung về Thăng Long. Thất bại trong việc đưa Di Ái về Đại Việt đã khiến Sài Thung giận dữ đến mức khi "vua Trần Nhân Tông sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Xuân [cách gọi khác của Sài Thung] nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp." [10, tr. 188-189] Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn phải giả làm tu sĩ Phật giáo người Hán đến bắt chuyện, Sài Thung mới chịu tiếp. Sau vụ Trần Di Ái, quan hệ hai bên căng thẳng và đến cuối năm 1282, vua Nguyên một mặt cử nguyên soái Toa Đô từ Quảng Châu đánh Chiêm Thành, mặt khác sai Trấn Nam vương Thoát Hoan tập trung 50 vạn quân chuẩn bị “mượn đường đánh Chiêm” (trên thực tế là tiến công Đại Việt). Hai vua Trần lập tức bắt tay vào việc chuẩn bị tổ chức kháng chiến. Tháng 10 âm lịch năm 1282, Thánh Tông và Nhân Tông phong Hưng Đạo vương làm Quốc công Tiết chế – tức tổng chỉ huy toàn bộ quân đội Đại Việt. Hai tháng sau, Thượng hoàng mời các bô lão trong cả nước về điện Diên Hồng (Thăng Long) để bàn kế đánh Nguyên. Đại Việt sử ký toàn thư thuật lại rằng, khi được Thượng hoàng hỏi có nên chống lại người Nguyên hay không, các bô lão đã “cùng nói như từ một miệng: “Đánh!””[10, tr 188-189]. 1.2. Tiền đề lý luận cho sự hình thành những quan điểm của Trần Nhân Tông về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục Tiền đề lý luận tư tưởng của Trần Nhân Tông có sự kế thừa trong việc tiếp thu những truyền thống văn hóa Việt Nam mà tập trung chủ yếu ở trong tư tưởng về ý thức quốc gia, dân tộc, về tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường và tinh thần yêu nước bất diệt - Một trong những yếu tố tinh thần quý báu của dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước.Nhưng chủ 10
- yếu đề hình thành nên tư tưởng của ông về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục là sự kế thừa và phát triển tử tưởng của Trần Nhân Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ. Về tư tưởng triết học của Trần Thái Tông: Trần Thái Tông (1218-1277) tên thật là Trần Cảnh, là vị vua khai nghiệp nhà Trần. Ông lên ngôi năm 1225. Năm 1258, với tài năng quân sự kiệt xuất ông đã dẫn dắt nhân dân Đại Việt chiến thắng vó ngựa xâm lược của quân Mông Cổ, bảo vệ nền hòa bình đất nước, xây dựng nền thái bình thịnh trị. Dưới triều đại của ông, “chính trị, văn hóa, tôn giáo đều cực thịnh”. Ông cũng chuyên tâm nghiên cứu Phật học và sùng mộ đạo Phật nhưng không xem thường cái học của các trường phái khác. Học thuật nước nhà do đó phát triển. Ông là vị vua đỡ đầu việc phát triển Phật giáo Việt Nam, khiến cho Thiền học phát triển rực rỡ, và Thiền học cũng là yếu tố tư tưởng tiểu biểu trong tư tưởng triết học của Trần Thái Tông ảnh hưởng trực tiếp đến những quan điểm của Trần Nhân Tông về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục. Dưới ảnh hưởng của ông, Phật giáo thiền tông không chỉ tạo nên những giá trị tinh thần độc đáo trong sự phát triển đời sống văn hóa - tôn giáo Đại Việt thế kỷ XIII - XIV mà còn góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo vệ đất nước chống quân xâm lược Nguyên Mông và xây dựng nền hòa bình, thịnh vượng của triều đại nhà Trần. Bên cạnh đó, tư tưởng Thiền định của Trần Thái Tông là cơ sở, nền tảng quan trọng cho sự ra đời, phát triển của dòng thiền Trúc Lâm - thành tựu rực rỡ nhất của Phật giáo thời Trần - hình thành và phát triển. Trần Thái Tông đã kế thừa quan niệm bản thể thế giới là không của thiền học thời Lý: “Nguyên lai, tứ đại vốn là không, ngũ uẩn cũng chẳng có. Từ không khởi ra hư vọng, từ hư vọng thành ra sắc tướng mà sắc tướng là từ cái chân không”; “Bốn núi chót vót muôn khóm xanh, Hiểu ra thì tất cả là hư vô, vạn vật là không” dẫn theo[14, tr.34]. Bên cạnh khái niệm về 11
- tính không, Trần Thái Tông còn đưa ra các khái niệm “bản tính”, “chân tâm”, “bản tâm” để chỉ bản thể của thế giới: “Bản tính huyền ngưng, chân tâm trạm tịch, dứt tuyệt ý niệm về tròn khuyết, nếu không phải là người trí thì không truy cứu đến giềng mối của nó. Nó không hợp, không tan, không mất, không còn Vì nó không phải hữu cũng không phải vô, không đạo cũng không tục, nó độc tồn, siêu nhiên, ngoài nó không có gì khác, vì vậy nó là tự tính kim cương” dẫn theo[21, tr.219-220]. Quan niệm chân tâm đồng nhất với tính không như trên của Trần Thái Tông có rất nhiều điểm đồng nhất với quan niệm về “đạo” của Lão Tử. Điều này cũng được thể hiện rõ nét khi ông kế thừa quan điểm thiền học thời nhà Lý, khi ông cho rằng tất cả mọi người đều có Phật tính, bất kỳ ai cũng có thể đạt được thành tự trong quá trình tu tập nếu họ thực sự tập trung và cố gắng: “Nào biết bồ đề giác tính, ai nấy viên thành; hay đâu trí tuệ thiện căn, người người đều đủ. Chẳng cứ đại ẩn tiểu ẩn; đâu nền tại gia xuất gia. Chẳng nề tăng tục, chỉ cốt tỏ lòng; nào kể gái trai, cớ sao nề tướng? Người chưa hiểu chia bừa thành tam giáo; giác ngộ rồi cùng thấu một chữ tâm”dẫn theo[14, tr.50]. Trần Thái Tông đã đưa ra những giải thích từ quan niệm tâm không đồng nhất với Phật tính, đồng nhất với bản thể của vũ trụ, Trần Thái Tông đi tới những kiến giải nhận thức luận về thế giới sự vật, hiện tượng bên ngoài. Ông cho rằng, sự xuất hiện của thế giới giả tượng là do niệm khởi, duyên hội, ngũ uẩn hợp thành. Chân tâm vốn như gương, do vọng niệm mà trở nên mờ tối, từ đó mà có thế giới giả tượng: “Pháp tính như như, không vướng mảy may niệm lự. Chân tâm lặng lặng xưa nay vốn dứt bụi nhơ. Chỉ vì bị che lấp nên vọng duyên mới khởi, ảo thể hiện thành”. Do vậy, theo Trần Thái Tông, cần phải làm cho chân tâm trở lại tĩnh lặng, trong sáng để dập tắt vọng duyên, có vậy mới thấy được chân tính, bản thể. 12
- Trần Thái Tông tuân thủ nguyên lý căn bản của thiền học là “kiến tính thành Phật”. Ông cho rằng, “người học đạo chỉ cốt thấy được bản tính”dẫn theo[14, tr.62]. Theo nguyên tắc thiền học, Trần Thái Tông quan niệm, để kiến tính, thấy được bản tính Phật, thấy được chân tể, phải “cố thủ nội khán” (quay đầu nhìn vào bên trong), hướng vào tu tập nội tâm để thấy tính: “Nếu hay phản chiếu hồi quang, đều được rõ tính thành Phật”dẫn theo [14, tr.48]. Như vậy, Trần Thái Tông tiếp tục xu hướng thiền học Vô Ngôn Thông, chú trọng việc chiêm nghiệm tính không là bản thể vũ trụ, là chân tể của vạn vật. Khi quay đầu nhìn vào bên trong (nguyên tắc thanh lọc nội tâm), tu tập để cho tâm bình lặng, đạt tới trạng thái tâm không (dứt mọi niệm), là khi đó đã đạt tới cảnh giới Phật. Do vậy, Phật tại tâm, không cần tìm kiếm đâu xa. Càng tìm kiếm ở ngoại giới thì càng xa rời “quê hương” - xa rời Phật tính - bởi quá trình tìm kiếm ở ngoại giới đó sẽ bị lục căn, lục tặc (các giác quan) làm cho mê lầm: “Mũi quyện mùi thơm, lưỡi tham vị ngọt, Mắt mờ vì sắc đẹp, tai mê tiếng hát hay. Mãi mãi làm khách phong trần trôi dạt, Ngày càng xa quê hương muôn vạn dặm đường” dẫn theo[14, tr.37]. Điểm qua một số tư tưởng thiền học căn bản của Trần Thái Tông trong Khóa hư lục, chúng ta thấy, những tư tưởng này của ông một mặt là sự tiếp nối tư tưởng thiền học của phái Vô Ngôn Thông dưới thời Lý, mặt khác là sự lý giải cụ thể hơn và sâu sắc hơn các nguyên lý tư tưởng mang tính siêu hình của thiền học. Nhờ đó, người học đạo dễ dàng tiếp cận tới chân lý thiền học hơn là những bài kệ súc tích mang tính yếu chỉ thiền dưới thời Lý. Cũng do vậy, thiền học, qua cách diễn giải của Trần Thái Tông, trở nên gần gũi với nhận thức của người tu thiền và dân chúng. Đó là đặc trưng tư tưởng thiền học của Trần Thái Tông. 13
- Ảnh hưởng của Tuệ Trung Thượng Sĩ đối với tư tưởng của Trần Nhân Tông: Tuệ Trung Thượng Sĩ là một ngôi sao sáng trong nền tư tưởng thiền học. Là thầy của vua Trần Nhân Tông, được vua Trần Thánh Tông đã hết sức kính trọng, tặng danh hiệu Thượng Sĩ, và gửi gắm con mình (Trần Nhân Tông) cho ông dạy dỗ. Vua Trần Nhân Tông từng viết: " Một hôm tôi xin hỏi Ngài về "bổn phận của tông chỉ", Thượng Sĩ đáp: "Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được, (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc), nghe xong, tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo thờ Ngài làm thầy” dẫn theo[22, tr.59]. Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, được Thái Tông phong tước Hưng Ninh Vương, ông giữ trọng trách và vai trò to lớn không chỉ với triều đình mà đối với phật pháp ông cũng có một ví trí quan trọng. Ông từng được triều đình tin tưởng giao phó cho việc giữ quân dân đất Hồng Lô. Ngoài ra, ông từng hai lần tham gia chống giặc phương bắc, đều lập những chiến công hiển hách và được giữ chức tiết độ sứ, giữ cửa biển Thái Bình. Trần Nhân Tông là đệ tử nối giáo của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Tư tưởng và sự giác ngộ phật pháp của Thượng Sĩ đã ảnh hưởng rất lớn tới một phật tử thuần thành, một bậc chân tu cẩn mật tinh tiến, vị tổ của phái Trúc Lâm Yên Tử, và cũng là người gây dựng một nền Phật giáo thống nhất. Trần Nhân Tông đã thực hiện trọn vẹn cả hai trọng trách to lớn giữa đời và đạo. Khi còn làm Vua, ông luôn quan tâm đến đời sống nhân dân, chăm lo tới việc hình thành, xây dựng và gìn giữ nền văn hóa, thuần phong mĩ tục nước nhà. Đương thời khi còn trị vì, bên cạnh việc triều chính, ông còn thể hiện rõ mình là một phật tử, thường đi chu du khắp các đạo, loại bỏ những ngôi đền thờ có dấu hiệu mê tín, không chính đáng, luôn thực hiện bố thí và ban phát lương thực, thuốc men cho dân thường. Khi đất nước rơi vào lửa giáo chiến tranh, ông đã bộc lộ rõ phẩm chất của một vị vua anh hùng 14
- trên chiến trận, giàu lòng yêu nước thương dân, nhưng ẩn sâu trong những hành động của ông vẫn thầm nhuần tinh thần từ bi hỉ sả và trí tuệ của một người Phật tử. Trần Nhân Tông rất tin tưởng vào luật nhân quả và nghiệp báo. Tinh thần này nhà vua tiếp thu được từ Tuệ Trung Thượng Sĩ. Có thể thấy rõ điều này qua câu chuyện được thuật lại trong Thượng Sĩ ngữ lục: Nhân Tông hỏi: "Chúng sinh do nghiệp uống rượu ăn thịt, làm sao thoát khỏi tội báo?". Thượng Sĩ bảo: "Giả sử có người đứng quay lưng lại, chợt có vua đi qua sau lưng, người kia thình lình hoặc cầm vật gì ném trúng vua, người ấy có sợ không? Vua có giận chăng? Như thế nên biết, hai việc này không liên hệ gì nhau", Thượng Sĩ liền đọc kệ để dạy: “Vô thường các pháp hạnh Tâm nghi tội liền sinh Xưa nay không một vật Chẳng giống cũng chẳng mầm Ngày ngày khi đối cảnh Cảnh cảnh từ tâm sinh Tâm cảnh xưa nay không Chốn chốn Ba la mật” Tôi lãnh hội ý chỉ hai bài tụng, giây lâu hỏi: "Tuy nhiên như thế, vấn đề tội phước đâu đã rõ ràng". Thượng Sĩ lại dùng kệ giải rõ: Ăn rau cùng ăn thịt Chúng sinh mỗi sở thuộc Xuân về trăm cỏ sinh Chỗ nào thấy tội phúc 15
- Tôi thưa: "Chỉ như giữ gìn giới hạnh trong sạch, không chút xao lãng lại thế nào?" Thượng Sĩ cười không đáp, tôi lại thỉnh cầu, ngài lại nói hai bài kệ để ấn định: Giữ giới cùng nhẫn nhục Chuốc tội chẳng chuốc phúc Muốn biết không tội phúc Chẳng giữ giới nhẫn nhục Như khi người leo cây Trong an tự cầu nguy Như người không leo cây Trăng gió có làm gì? Ngài lại dặn nhỏ tôi: "Chớ bảo cho người không ra gì biết" dẫn theo [22, tr.59]. Ở đây, người người không ra gì, không phải người tu, hay không hiểu đạo. Chỉ có những người thấm nhuần được tư tưởng, chân lý nhân quả, giác ngộ được tinh thần Phật pháp mới có thể nói ra những lời như vậy. Đứng trước nguy cơ chiến tranh, Trần Nhân Tông tuy đã lĩnh ngộ được tinh thần phật pháp những ông phải đứng trước sự lựa chọn, suy tính làm sao để khi chiến tranh xảy ra sự sát sinh được hạn chế ở mức tối đa nhất. Bởi không chỉ đang là một vị Vua mà ông còn đang là một phật tử tu hành, khó lòng phá vỡ giới đạo. Chiến tranh là điều không ai muốn, bản thân ông cũng vậy, đều mong muốn một thế giới hòa bình, một cuộc sống ấm êm hạnh phúc cho mọi dân lành, chứ không ai mong muốn cảnh đầu rơi máu cháy, chia lìa người thân. Người thấu hiểu được tâm thức là vấn đề quan trọng nhất để tránh khỏi nghiệp báo, có ý thức thì người ta sẽ chủ động được lời nói, hành động, suy nghĩ, ắt tránh được nghiệp báo bắt nguồn từ thân, khẩu và ý nghiệp. Ý chính là tâm vương. Nếu chỉ có khẩu nghiệp và thân nghiệp tạo tác mà không khởi 16
- ý sát sinh, thì tội đó sẽ không đủ duyên để phải trả quả báo. Không phải vô cớ mà ngài đã hai lần lấy ý kiến của toàn quân và dân. Một lần lấy ý kiến các tướng lĩnh tại Bình Than. Và, một lần lấy ý kiến các bô lão đại diện cho toàn dân tại điện Diên Hồng. Sau khi cả quân và dân đều thể hiện ý chí đồng tâm quyết đánh, ngài mới cho bày binh đánh giặc. Như vậy, quân sĩ chỉ nói và hành động thì không phải chịu quả báo, còn ngài chỉ huy đánh cũng là vì dân tộc, vì độc lập tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì sự an lạc cho tất cả chúng sinh, chứ thực chất ngài không hề khởi tâm sát sinh, dù kẻ thù có là ai. Câu chuyện Trần Nhân Tông bất đắc dĩ sai người đưa công chúa An Tư (em gái út của Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan cũng là muốn làm thư giãn nạn nước. Đến sự kiện năm 1306, vua Trần Nhân Tông gả con gái là công chúa Huyền Trân cho quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân cũng có liên quan đến tấm lòng từ bi của ông. Thái thượng hoàng Nhân Tông rất hiểu, nếu Chiêm Thành thuần phục, có quan hệ bang giao gần gũi thì Đại Việt có được chỗ dựa ở phía Nam vô cùng quan trọng. Nếu lại xảy ra một cuộc chiến với phong kiến phương Bắc thì sẽ không phải lo nhiều đến việc phòng thủ phía Nam. Đây là một tính toán lâu dài có tầm chiến lược cho dân tộc, cũng là để giữ hòa hiếu giữa hai nước, tránh không để có sinh mạng phải chết oan uổng. Nó thể hiện tấm lòng của bồ tát, chứ chẳng phải cái tâm của người thường Trần Nhân Tông là người rất chú trọng đào tạo những thế hệ cho tương lai, cho cả đời và đạo. Sự kiện ngài dạy vua Anh Tông có thể coi là một câu chuyện điển hình về sự giáo dục, tu tâm. Sau khi được nhường ngôi, vua Anh Tông có lần do say rượu quên cả thiết triều đúng vào dịp ngài về kinh đô. Ngài đã giáo huấn cho Anh Tông rất nghiêm khắc và may nhờ tài trí của Đoàn Nhữ Hài, vua mới được tha tội. Sau khi Anh Tông đã thuần trở lại, Điều Ngự đã chấp thuận thụ bồ tát giới cho vua vào năm 1304. Đây là giới cao nhất của hàng cư sĩ tại gia. Sự kiện thọ bồ tát giới của vua Anh Tông đã ảnh hưởng rất lớn tới đạo đức của các quan viên trong triều. 17
- Ngoài ra, Trần Nhân Tông là người hết lòng lo cho tiền đồ của Phật giáo. Ngay khi mới gặp Đồng Kiên Cương (sau là đệ nhị tổ Trúc Lâm Pháp Loa tôn giả) đến xin xuất gia, Điều Ngự đã nói: "Đứa bé này có đạo nhãn, sau này hẳn là bậc pháp khí" dẫn theo[22, tr.83], rồi chấp thuận cho làm đệ tử và đặt tên là Thiện Lai. Chỉ trong thời gian từ 1304 đến 1307, Pháp Loa đã được đào tạo từ một thiện nam trở thành một giảng sư. Sau này, ông trở thành người kế đăng của phái Trúc Lâm, đồng thời là cột trụ của giáo hội. 1.3. Trần Nhân Tông – cuộc đời và sự nghiệp Trần Nhân Tông (1258 – 1308) tên khai sinh là Trần Khâm là vị hoàng đế thứ ba của Hoàng triều Trần nước Đại Việt. Ông trị vì từ ngày 8 tháng 11 năm 1278 đến ngày 16 tháng 4 năm 1293, sau đó làm Thái thượng hoàng cho đến khi qua đời. Trần Nhân Tông được sử Việt đánh giá là một vị vua anh minh, đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển bền vững của Đại Việt cuối thế kỷ XIII, cũng như việc bảo vệ nền độc lập và mở rộng cương thổ đất nước. Ngoài ra, ông cũng là một thiền sư lớn của Phật giáo Việt Nam thời trung đại. Là con trai trưởng của Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông đã được truyền ngôi vào tháng 11 năm 1278 lúc ông chưa đầy 20 tuổi. Vị Hoàng đế trẻ sớm phải đương đầu với hiểm họa xâm lược từ đế quốc Mông – Nguyên hùng mạnh ở phương Bắc. Do vậy, ngay sau khi lên ngôi Trần Nhân Tông đã triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao sức mạnh kinh tế và ổn định chính trị– xã hội của Đại Việt, đồng thời xây dựng quan hệ tích cực với nước láng giềng phía nam là Chiêm Thành. Năm 1285, hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt huy động một lực lượng lớn (theo Đại Việt sử ký toàn thư là 50 vạn người) tấn công Đại Việt [10, tr186-188]. Quân dân Đại Việt ban đầu gặp nhiều tổn thất; nhưng dưới sự chỉ huy của vua Nhân Tông, Thượng hoàng Thánh Tông và Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo, người Việt đã dần dần xoay chuyển tình thế và đánh bật quân Nguyên ra khỏi đất 18
- nước. Sau đó, hai vua Trần và Hưng Đạo vương tiếp tục lãnh đạo dân Việt đánh bại một cuộc xâm lược khác của Mông – Nguyên vào năm 1287. Trần Nhân Tông lên ngôi trong lúc nền độc lập Đại Việt bị đe dọa trầm trọng.Ở phương Bắc, Nguyên–Mông đã chinh phục hầu hết Nam Tống và bắt đầu dòm ngó Đại Việt. “Ngay sau khi ông đăng quang, vua Nguyên là Hốt Tất Liệt cử Lễ bộ Thượng thư Sài Thung sang Đại Việt, lấy cớ Nhân Tông "không xin mệnh mà tự lập" (nghĩa là tự xưng làm vua mà không chịu xin phép "thiên triều" Nguyên) để ép vua Trần sang triều kiến” . Trần Nhân Tông đã đối đãi tử tế với Sài Thung, nhưng kiên quyết không sang chầu. Thung đành đi tay không về nước” [10, tr.185-186].Trần Nhân Tông lại sai Trịnh Đình Toản và Đỗ Quốc Kế sang cống nạp nhà Nguyên. Tháng 12 năm 1279, Hốt Tất Liệt giam cầm Đình Toản ở thành Đại Đô, rồi ép Quốc Kế đi cùng một phái bộ mới của Sài Thung sang dụ Đại Việt.Trần Nhân Tông vẫn không nhân nhượng, mặc dù Thung đã dọa nạt rằng nếu không sang chầu, "thì hãy sửa sang thành trì của ngươi, để đợi sự phán xét"[19, tr. 200]. Đứng trước hiểm họa xâm lược từ Mông Cổ, Ông đã có nhiều nỗ lực nhằm phát triển kinh tế, đảm bảo sự ổn định và đoàn kết trong nước. Tháng 1 âm lịch năm 1280, ông ra lệnh hợp nhất hệ thống đo lường để thúc đẩy thương mại trên toàn quốc. Ngoài ra, ông khuyến khích nông dân tăng cường sản xuất, và nhờ vậy, Đại Việt đã "được mùa to, lúa ruộng ở hương Trà Kiều thuộc Khoái Lộ một giò hai bông" (theo Đại Việt sử ký toàn thư) vào tháng 10 âm lịch năm 1280[12, tr. 221-222]. Mùa xuân năm 1284, Hoàng đế lại sai vét sông Tô Lịch nhằm biến sông này thành trục giao thông chính của kinh đô [10, tr. 188-189]. Trên phương diện chính trị – xã hội, tháng 2 âm lịch năm 1280, Trần Nhân Tông cho điều tra và cập nhật dân số, đồng thời giải quyết nhanh các khiếu nại oan sai của người dân. Đại Việt sử ký toàn thư thuật lại, Chi hậu cục thủ Đỗ Khắc Chung có người em tên Đỗ Thiên Hư từng kiện cáo một người; dù Thiên Hư trái về cả tình lẫn lý nhưng viên quan xử án tỏ ra bênh 19
- vực. Người bị kiện thấy vua Trần Nhân Tông đang đi ngoài thành, bèn đón và kêu oan. Nhà vua phán: "Đó là do sợ mà né tránh Khắc Chung đấy", rồi cử ngay Chánh chưởng Nội thư hỏa là Trần Hùng Thao kiêm chức Kiểm pháp quan để điều tra lại, cuối cùng Thiên Hư phải nhận sai. Sử quan nhà Hậu Lê Ngô Sĩ Liên có nhận định về việc làm của vua Trần Nhân Tông: “Người kiện có điều oan uổng mà được dễ dàng kêu bày, hình quan để chậm án, không thấy có lời trách hỏi, hoạn quan nội thần lạm cử làm pháp quan, vua làm việc này có ba lầm lỗi kèm theo, nhưng như vậy thì dân tình được thấu lên trên. Việc cai trị kẻ dưới thà sai để khoan thứ để cho án kiện đọng lại được xử ngay, cũng thấy được lòng trung hậu của vua” [10, tr. 186-186]. Cũng trong năm 1280, thủ lĩnh người Ngưu Hống tại Đà Giang là Trịnh Giác Mật nổi dậy, Trần Nhân Tông sai Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đi thuyết phục phiến quân quy hàng. Trần Nhật Duật nhờ khéo ngoại giao và hiểu biết văn hóa dân bản địa nên đã thu phục được Giác Mật mà không phải giao chiến. Chiêu Văn vương đưa cả nhà Giác Mật vào chầu Trần Nhân Tông.Nhà vua hết mục khen ngợi Nhật Duật, sau này tha Giác Mật và gia đình về Đà Giang [12, tr. 222-223]. Từ đây, Ngưu Hống thần phục Đại Việt cho đến khi nổi dậy vào mùa đông năm 1329 thời Trần Hiến Tông. Về quan chế, vua Trần Nhân Tông đã đặt ra một số chức quan mới: Hàn lâm viện học sĩ phụng chỉ (1282), Tả hữu bộc xạ (1283) [3, tr. 350]. Về giáo dục, năm 1281, Trần Nhân Tông dựng nhà học ở phủ Thiên Trường (đất phát tích của hoàng triều, nay thuộc Nam Định). Tuy nhiên, nhà vua vẫn theo lệ cũ, cấm các chiến sĩ hiệu quân Thiên Thuộc được vào học[10, tr. 187]. Cũng từ đầu đời vua Nhân Tông, chữ Quốc ngữ bắt đầu được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm thơ văn ở Đại Việt. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, dưới trướng Nhân Tông có Hình bộ Thượng thư Nguyễn Thuyên thạo thơ phú Quốc ngữ; năm 1282, khi có cá sấu tới sông Hồng, hoàng đế sai Nguyễn Thuyên làm văn tế cá sấu thả xuống sông. Sau này cá 20
- sấu bỏ đi, nhà vua cho là Nguyễn Thuyên có tài như Hàn Dũ, mới đổi gọi là Hàn Thuyên[10, tr. 188]. Trong việc đối ngoại, Trần Nhân Tông ứng xử vừa khéo léo, vừa cứng rắn với nhà Nguyên. Sau khi tiếp đón Sài Thung lần 3 vào năm 1280, năm 1281 Nhân Tông phái Trần Di Ái cùng Lê Mục, Lê Tuấn thay ông sang chầu vua Nguyên[12, tr. 223-224]. Hốt Tất Liệt vẫn quyết tâm xâm lược phương Nam; nhà Nguyên cử một số quan lại sang giám sát các châu huyện của Đại Việt, nhưng Nhân Tông đã trục xuất những người này về Trung Quốc. Không bỏ cuộc, khoảng năm 1281–1282, vua Nguyên lập Trần Di Ái làm "An Nam Quốc vương", Lê Mục làm "Hàn lâm học sĩ" và Lê Tuân làm "Thượng thư", rồi lại sai Sài Thung đem 1 nghìn quân hộ tống nhóm Di Ái về bản quốc. Vua Nhân Tông đã huy động lực lượng chặn đánh ở ải Nam Quan và bắt giữ nhóm Di Ái, song vẫn nghênh đón Sài Thung về Thăng Long[17, tr. 28-30]. Thất bại của việc lập Di Ái làm vua bù nhìn Đại Việt đã khiến Sài Thung tức giận đến mức khi "vua sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Xuân (cách gọi khác của Sài Thung)nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp". Phải đến khi Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đóng giả làm một tăng sĩ Trung Hoa đi vào sứ quán, Thung mới chịu tiếp [10, tr. 188-189]. Tháng 9 – 11 năm 1282, nhà Nguyên một mặt cử tướng Toa Đô từ Quảng Châu tấn công Chiêm Thành, mặt khác lại sai Trần Nam vương Thoát Hoang tập trung 50 vạn quân chuẩn bị "mượn đường đánh Chiêm" (mà thực chất là xâm lược Đại Việt).Vào tháng 11, Trần Nhân Tông mở Hội nghị Bình Than để thảo luận với bá quan về phương án tổ chức kháng chiến. Viết về hội nghị này, sử sách có đề cập việc phục chức Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư, một tướng có tài, trước đã được Trần Thánh Tông phong làm Thiên tử nghĩa nam, sau bị đoạt hết quan tước, tịch biên tài sản vì tội thông dâm với Công chúa Thiên Thụy. Khi thuyền Nhân Tông đỗ trên bến Bình Than, nhà vua nhìn thấy một chiếc thuyền lớn chở than củi, người lái đội nón lá, 21
- mặc áo ngắn. Ông nhận ra ngay là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư. Nhà vua sai nội thị chèo thuyền đuổi theo, dẫn Trần Khánh Dư đến yết kiến. Vua Nhân Tông xuống chiếu tha tội Khánh Dư, phục chức Phó Đô tướng quân. Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Vua ban cho áo ngự, cho ngồi các hàng dưới các vương, trên các công hầu, cùng bàn việc nước, nhiều điều hợp ý vua" [10, tr.188-189]. Sau, Hưng Đạo vương giao cho Khánh Dư trấn giữ Vân Đồn, lập công lớn đánh bại đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ. Cũng tại hội nghị này, Trần Nhân Tông thấy Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản còn nhỏ, không cho dự việc nước. Quốc Toản phẫn kích, bóp nát quả cam trong tay, rồi lui về huy động hàng nghìn thân quyến và gia nô, sửa sang khí giới, thuyền chiến và dựng lá cờ thêu 6 chữ: "Phá cường địch, báo hoàng ân" (Phá giặc mạnh, báo ơn vua). Trong cuộc chiến chống Nguyên năm 1285, Quốc Toản chiến đấu rất hăng, luôn đi đầu trận tuyến đánh quân Nguyên.Theo An Nam truyện của Nguyên sử, Quốc Toản tử trận ở sông Như Nguyệt trên đường truy kích bại binh Nguyên vào tháng 5 âm lịch năm 1285.Đại Sử Việt Kí toàn thư kể vua Nhân Tông đích thân viết văn tế, lại truy tặng tước vương. [10, tr. 188-189]. Tháng 10 âm lịch năm 1283, Trần Nhân Tông phong Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh chư quân, đồng thời tuyển các quân hiệu có năng lực, chia nhau chỉ huy các đơn vị quân đội.Cùng với Hưng Đạo vương, Nhân Tông đã trực tiếp chỉ đạo các hoạt động huấn luyện, diễn tập của lục quân và thủy quân. Tháng 10 năm 1284, triều đình chia quân trấn giữ các địa bàn quan trọng trong cả nước. Bên cạnh đó, Nhân Tông vẫn cử một số sứ giả mang lễ vật đi xin Thoát Hoan "hoãn binh" trong nửa cuối năm 1284[10, tr. 188-189]. Không những đương đầu với người Mông Cổ, Trần Nhân Tông đã xây dựng mối quan hệ tích cực với nước Chiêm Thành ở phía Nam.Tháng 12 năm 1282, ông đã gửi 2 vạn quân cùng 500 chiến thuyền sang hỗ trợ người Chiêm chặn đánh cánh quân Nguyên của Toa Đô. Nhưng trong các văn thư 22
- gửi cho người Nguyên, Trần Nhân Tông một mực phủ nhận hành động này[18, tr. 125-127]. Sau khi đẩy lùi các cuộc xâm lược của người Mông Cổ, Trần Nhân Tông đã khôi phục được sự hưng thịnh của Đại Việt đồng thời thực thi phương sách ngoại giao vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn với nhà Nguyên. Năm 1293, ông truyền ngôi cho Thái tử Trần Thuyên (tức vua Trần Anh Tông) và lên làm Thái thượng hoàng. Sau đó Nhân Tông xuất gia tu hành theo đạo Phậtvà lấy hiệu Trúc Lâm Đại sĩ ; nhưng ông vẫn tham gia điều hành chính sự, đánh dẹp quân Ai Lao xâm phạm biên giới và mở rộng bờ cõi về phương Nam bằng phương pháp ngoại giao. Trần Nhân Tông cũng chính là vị tổ sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Phật giáo mang bản sắc văn hóa Việt Nam và tinh thần nhập thế. Năm 1299 Trần Nhân Tông chính thức tu thiền tại núi Yên Tử (nay thuộc Quang Ninh), tại đây Trần Nhân Tông đã khai sáng ra dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử mang đậm cốt cách, bản sắc, bản lĩnh trí tuệ Việt Nam; năm 1208 Trần Nhân Tông băng hà tại Am Ngọa Vân thuộc núi Yên Tử .Trần Nhân Tông đã để lại cho hậu thế một hệ tư tưởng hết sức có giá trị và có ý nghĩa về nhiều mặt về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa, giáo dục cho hậu bối. Tiểu kết chƣơng 1 Cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông, cùng với những chuyển biến trong điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam thế kỳ XII - XIV, đặc biệt là sự phân hóa giai cấp, tầng lớp trong xã hội chính là những cơ sở thực tiễn cốt lõi góp phần hình thành nên tư tưởng của Trần Nhân Tông về chính trị, quân sự, văn hóa, giáo dục. Những quan điểm đó của Trần Nhân Tông mang giá trị và ý nghĩa to lớn về mặt tư tưởng, ý thức xã hội, một mặt nó góp phần thống nhất hệ tư tưởng trong trong hội lúc bấy giờ, hình thành nên ý thức hệ xã hội độc lập, thống nhất, đặc trưng của xã hội Việt Nam, nó là yếu tố kết 23
- dính sức mạnh và ý chí độc lập tự cường của toàn dân tộc, không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội từ hoàng tộc cho đến dân thường, nó góp phần to lớn vào việc xây dựng nên một Đại Việt thống nhất, có nền văn hóa độc lập với mục đích chống lại sự đồng hóa của thù trong giặc ngoài, mà trước mắt chính là quân xâm lược Nguyên Mông. Một mặt khác, những quan điểm của Trần Nhân Tông về chính trị , quân sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục còn khơi nguồn cho tinh thần đoàn kết, chấn an lòng dân, đề cao tinh thần độc lập, tự chủ, toàn vẹn lãnh thổ, nó bảo vệ được lợi ích của triều đại nhà Trần, giải quyết được những mâu thuẫn trong nhân dân và các tầng lớp xã hội Việt Nam đương thời. Đó là mâu thuẫn giữa hàng ngũ nho sĩ với tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần, là mâu thuẫn giữa tầng lớp thống trị với tầng lớp nông nô Những quan điểm của Trần Nhân Tông về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục là thành quả của sự tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những tinh hoa trong tư tưởng triết học, tôn giáo, văn hóa của các thế hệ đi trước: đầu tiên, sự kế thừa ấy được thể hiện trong sự tiếp thu truyền thống văn hóa Việt Nam mà tập trung chủ yếu ở trong tư tưởng về ý thức quốc gia, dân tộc, về tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường và tinh thần yêu nước bất diệt - Một trong những yếu tố tinh thần quý báu của dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Những quan điểm đó của Trần Nhân Tông còn là sự chọn lọc, chắt chiu những tư tưởng chính trị, đạo đức vi nhân sinh tiêu biểu nhất của Nho giáo, Phật giáo và Đạo Giáo; là sự tiếp thu kế thừa những triết lý ưu việt, tinh túy về thiền của ba trường phái nổi tiếng ở triều đại nhà Lý là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Thảo Đường, Vô Ngôn Thông. Quan trọng nhất chính là sự tiếp thu trực tiếp tư tưởng triết học của Trần Thái Thông và Tuệ Trung Thượng Sĩ để chắt lọc, kiến tạo nên một sự nghiệp vẻ vang của bản thân Trần Nhân Tông nói riêng và của quân dân Đại Việt nói chung. 24
- Chƣơng 2: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA TRẦN NHÂN TÔNG TRONG VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ, QUÂN SỰ,VĂN HÓA VÀ GIÁO DỤC 2.1. Quan điểm của Trần Nhân Tông về chính trị ,quân sự và ngoại giao Thời Trần Nhân Tông ở ngôi hoàng đế, dân tộc ta phải đương đầu với một kẻ thù hung hãn nhất của thời đại: Giặc Mông - Nguyên. Trong vòng nửa thế kỷ, bộ tộc Mông Thát đã mở rộng chiến tranh xâm lược và làm chủ nhiều vùng đất đai rộng lớn ở hai lục địa Á - Âu, lập nên một đế chế kéo dài từ bờ Hắc Hải đến Thái Bình Dương. Thế nhưng cả ba lần xâm lược Đại Việt, đội quân "bách chiến bách thắng" đó đều bị đánh bại, trong đó có hai lần diễn ra dưới thời Trần Nhân Tông. Được sự chỉ dẫn của Thái Thuợng Hoàng Trần Thánh Tông và sự phò trợ của Trần Hưng Đạo, vua Trần Nhân Tông đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân Mông - Nguyên ra khỏi bờ cõi Đại Việt.Các quan điểm khẳng khái của ông về chính trị ngoại giao đại diện cho toàn thể nhân dân Đại Việt nhỏ bé mà quật cường. Những quan điểm này còn giữ mãi giá trị về sau, là những bài học xương máu cho con cháu về cách yêu dân, dựa vào dân. 2.1.1 Quan điểm của Trần Nhân Tông về chính trị Trần Nhân Tông đăng quang ngôi vị Hoàng đế nhà Trần khi Đại Việt vừa trải qua cuộc chiến tranh tàn khốc với đế chế Mông – Nguyên, nguy cơ bành trướng, xâm lược của tập đoàn phong kiến phương Bắc nhằm rửa hận nỗi nhục thất bại năm xưa là hoàn toàn hiện hữu, cùng với đó là nhiệm vụ ổn định, tái thiết, phục hội và phát triển đất nước sau cuộc chiến đặt ra đối với vị vua trẻ tuổi Trần Khâm. Trước hoàn cảnh lịch sử đó, bằng tài năng, trí tuệ, sức trẻ và sự nhạy cảm chính trị sắc bén với thời cuộc, Trần Nhân Tông chủ trương ổn định tình hình chính trị - xã hội trong nước, đặt vấn đề bảo vệ nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc phải được đặt lên hàng đầu, không nhân nhượng dưới mọi hình thức. 25
- Một là , quan điểm giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc: Minh chứng rõ nhất là trong mối quan hệ bang giao với Thiên Triều phương Bắc lúc này do Hốt Tất Liệt trị vì , Chẳng là, sau thất bại cay đắng và nhục nhã trước quân dân Đại Việt trong cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ nhất năm 1258, nhà Nguyên mang trong mình nỗi uất hận thâm thù với Đại Việt, nhân lúc vua Trần Nhân Tông đăng quang ngôi vị mà không sang thỉnh mệnh “Thiên triều” (tức nhà Nguyên) mà tự lập là phạm tội “bất trung”, “phản loạn”, lợi dụng cơ hội bẩn thỉu này, Nguyên Thế Tổ (tức Hốt tất Liệt) sai một bộ bậu sậu do Thượng thư bộ Lễ là Sài Thung dẫn đầu sang Đại Việt kiếm cớ trách hỏi, nhiễu sự, chúng yêu càu quốc vương của Đại Việt phải đích thân đem theo “người vàng, mắt ngọc” sang chầu cống bằng không hãy đợi sự phán xét của cái gọi là “Thiên triều”. “Nếu quả không thể đến chầu được thì hãy đồn vàng thay cho thân mình, dùng hai ngọc trai thay cho mắt mình cùng với hiền sĩ, phương kỷ tử đệ hai người và hai loại thơ mỗi thứ 2 người để thay cho thổ dân. Nếu không thể, thì hãy sửa sang thành trì của người, để đợi sự phán xét”. Trước những lời lẽ hăm dọa của kẻ thù, với trí tuệ và bản lĩnh chính trị vững vàng của một lãnh tụ quốc gia, Trần Nhân Tông kiên quyết thẳng thừng từ chối, sẵn sàng đương đầu trực tiếp với kẻ thù để bảo vệ sự độc lập, tự chủ và danh dự của quốc gia. Không dừng lại ở đó, với mưu đồ quyết xâm lược Đại Việt để rửa nỗi nhục, nhà Nguyên tiếp tục âm mưu “mượn đường” của Đại Việt để tấn công Chiêm Thành nhưng thực chất là chúng muốn tiến hành thực hiện một âm mưu kép, một mũi tên chúng hai đích là hoàn tất quá trình xâm lược Đại Việt và Chiêm Thành để bành trướng, mở rộng lãnh thổ ra toàn bộ khu vực Đông Á. Trước âm mưa dơ bẩn của kẻ thù, Trần Nhân Tông một lần nữa kiên quyết từ chối, một mặt ông khéo léo viết thư nêu rõ lý do nhằm trấn an nhà Nguyên rằng: “Từ nước tôi đến Chiêm Thành, đường thủy, đường bộ đều không tiện cả”, mặt khác Trần Nhân Tông đã bí mật ra lệnh gửi 2 vạn quân và 500 chiến thuyền chi viện cho Chiêm Thành trong cuộc 26
- chiến đấu chống lại sự xâm lược của nhà Nguyên. Đồng thời, Trần Nhân Tông nhận định cuộc chiến đấu chống lại quân đội Mông – Nguyên là điều kiện không thể tránh khỏi, ông cùng với nhân dân cả nước ra sức chuẩn bị sẵn sàng mọi điều kiện đối phó với vó ngựa xâm lăng của kẻ thù đang đến rất gần. Hai là, Trần Nhân tông chủ trương xây dựng một chính quyền “thân dân” ( nghĩa là gần dân, trọng dân, lắng nghe ý kiến của dân) như lời của Tiết Chế, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã đúc kết “Khoan thư sức dân để làm kế bền gốc, sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước”dẫn theo[13, tr. 183]. Mục đích là nhằm khơi dậy và phát huy tối đa trí tuệ và sức mạnh của quần chúng nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên dưới đồng lòng với hào khí “Đông A” (tức hào khí nhà Trần ngàn năm bất diệt “Mùa hạ, tháng Tư, đại xá thiên hạ. Những nơi bị binh lửa, cướp phá thì miễn toàn phần tô dịch, các nơi khác thì miễn giảm theo mức độ khác nhau” [11, tr.92]. Theo Trần Nhân Tông, sức mạnh tổng hợp của một quốc gia không phụ thuộc vào một dòng họ, một vương triều, một giai cấp, tầng lớp hay một nhóm người mà là sức mạnh của toàn dân tộc cho dù, không có sự phân biệt giàu nghèo, sang hèn hay địa vị chính trị, xã hội “Mỗi khi nhà vua ra chơi đâu, trông thấy gia đồng các vương hầu ở ngoài tất gọi rõ tên và hỏi “Chủ mi làm gì?”. Nhà vua thường răn bảo vệ sĩ không được quát mắng gia đồng, lại bảo với các hầu cận rằng: “Ngày thường thì bao nhiêu người hầu hạ xung quanh, đến khi nước nhà gặp hoạn nạn, thì chỉ thấy có bọn ấy thôi”[12,tr.540]. Điều đó cho thấy cách nhìn người và dùng người của vua Trần Nhân Tông hết sức nhân văn, cao cả, thật đáng khâm phục và tự hào. Thực vậy, dưới triều đại nhà Trần, đặc biệt là triều đại vua Trần Nhân Tông nhân tài Đại Việt “trăm hoa đua nở” với rất nhiều tấm gương anh dũng sáng ngời, làm rạng rỡ non sông Đại Việt, tiêu biểu như Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (thiên tài quân sự của Việt Nam và thế giới) với câu trả lời khẳng khái “Bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng” và tâm nguyện “ Dẫu 27
- cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói tong da ngựa, ta cũng vui lòng ”, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật với quyết tâm “Dốc hết lòng trung để báo đến quân Thượng với lời thề son sắc “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Nguyễn Thuyên (hay Hàn Thuyên) tức những người thuộc tầng lớp quý tộc, cho đến những anh hùng thuộc tâng lớp bình dân như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái và hàng nô tỳ như Yết Kiêu, Dã Tượng cũng một lòng xả thân vì nước, vì dân như lời của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải đã viết trong bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư: “Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù Thái bình nên gắng sức, Non nước ấy ngàn thu”. Để phát huy tinh thần, trí tuệ và sức mạnh tập thể của nhân dân cả nước, vua Trần Nhân Tông cùng với Thượng hoàng Trần Thánh Tông cho mở Hội nghị các bô lão toàn quốc tại điện Diên Hồng để bàn kế sách đánh giặc. Đây được coi như Hội nghị dân chủ đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, thể hiện tầm nhìn và trí tuệ của Đức Vua Trần Nhân Tông trong công cuộc lãnh đạo và quản trị quốc gia. Khi được hỏi thế giặc rất mạnh vậy ta nên hàng hay đánh? Câu trả lời nhận được là tất cả các bô lão đều đồng thanh hô lớn “Đánh!”, “Muôn người cùng nói như một miệng sinh ra” [13,tr.222]. Tư tưởng “thân dân” của vua Trần Nhân Tông và vương triều Trần tiếp tục được các triều đại phòng kiến Việt Nam sau này kế thừa và phát huy như nhà hậu Lê với quan điểm “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” và thời đại Hồ Chí Minh với tuyên ngôn “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong” là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam. 28
- Ba là, chính sách dùng người của Trần Nhân Tông là vô cùng sáng suốt . Việc Trần Nhân Tông giao cho Hưng Đạo vương chỉ huy trực tiếp toàn quân, hoặc trọng dụng các tướng lĩnh tài năng dù họ có lỗi lầm trong quá khứ như Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư được giao làm Phó tướng, phụ trách toàn bộ thủy quân; hoặc như Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật tuổi đời còn rất trẻ vẫn được cử trông coi cả một vùng Tây Bắc rộng lớn. Nhà sử học đời Lê là Ngô Sĩ Liên nhận xét: "Tôi từng thấy các danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo Vương thì học vấn tỏ ra ở bài hịch, Phạm Điện Súy (tức Phạm Ngũ Lão - TG) thì học vấn biểu hiện ở câu thơ, không chỉ có chuyện về nghề võ. Thế mà dùng binh tinh diệu, hễ đánh là thắng, đã tấn công là chiếm được, người xưa cũng không một ai vượt nổi các ông Đủ biết, nhà Trần dùng người, vốn căn cứ vào tài năng của họ để trao trách nhiệm”[10, tr. 189]. Còn Lê Quý Đôn tỏ ra hết sức thán phục: "Nhà Trần đãi ngộ sĩ phu rộng rãi mà không bó buộc, hòa nhã mà có lễ độ, cho nên nhân vật trong một thời có chí khí tự lập, hào hiệp cao siêu, vững vàng vượt qua thói thường, làm rạng rỡ trong sử sách, trên không thẹn hổ với trời, dưới không thẹn với đất. Ôi như thế, người đời sau còn có thể theo kịp thế nào được” [5, tr. 258-259]. Bốn là, Trần Nhân Tông thi hành những ứng xử ngoại giao vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn với triều Nguyên trước, trong và sau chiến tranh. Trong cuộc chiến tranh năm 1285, khi quân Nguyên sắp vào nước ta, Trần Nhân Tông cho sứ đưa thư đến Thoát Hoan, từ chối việc cho mượn đường Đại Việt đánh Champa: "Từ nước tôi đến Champa, đường thủy đường bộ đều không tiện” [5, tr. 258-259];hoặc nhắc tới Tờ chiếu năm 1261 của Hốt Tất Liệt: "Trước đây, được vâng thánh chiếu nói rằng: „Sắc riêng cho quân ta (quân Nguyên - TG) không vào bờ cõi nhà ngươi‟, thế mà nay thấy ở Ung châu doanh trạm cầu đường nối nhau san sát ”[23]. Phương sách ngoại giao của Trần Nhân Tông không cản được chính sách xâm lược của triều Nguyên, nhưng nó có tác dụng giúp triều Trần có thêm thời gian chuẩn bị để ứng phó với chiến tranh mà biết trước sẽ diễn ra; mặt khác, nó góp phần quán 29
- triệt tư tưởng trong nhân dân về bản chất hiếu chiến của kẻ thù để mà dốc lòng cứu nước. Vì vậy, điều không phải ngẫu nhiên khi quân lính, mỗi người đều thích vào cánh tay hai chữ "Sát Thát” trước lúc ra trận. Năm là, Trần Nhân Tông là người trực tiếp chỉ huy sông pha trận mạc. Khi chiến tranh diễn ra, Trần Nhân Tông có mặt hầu như khắp mọi mặt trận để cùng với tướng lãnh có những quyết sách tối ưu trước những tình thế hiểm nghèo, nổi bật nhất là những quyết định lui quân hoặc phản công chiến lược. Trong cuộc kháng chiến năm 1285, khi nghe tin Nội Bàng thất thủ, quân ta phải rút lui trong thế bất lợi, Trần Nhân Tông bỏ ăn sáng, đi thuyền suốt ngày ra Hải Đông để gặp Hưng Đạo Vương để bàn cách giải quyết. Việc quyết định lui quân ở Hải Đông sau khi Nội Bàng thất thủ, rời bỏ Thăng Long, thực hiện "vườn không nhà trống", nói lên sự sáng suốt của Trần Nhân Tông trong việc nắm bắt tình hình và đánh giá tương quan lực lượng; trong trận thủy chiến (14-2-1285) ở Bình Than, các trận Trường Yên, Hàm Tử tiêu diệt đạo quân của Toa Đô, đặc biệt là trận quyết chiến chiến lược Bạch Đằng (1288) chôn vùi ý chí xâm lược của Hốt Tất Liệt, Trần Nhân Tông, người vừa hoạch định kế sách, vừa đốc binh ngoài mặt trận. Sáu là, Trần Nhân Tông đã tài tình thi hành điều tra dân số, để biết đường thi hành những chính sách kịp thời bỉnh ổn cuộc sống cho nhân dân, do hậu quả chiến tranh để lại. Sau cuộc kháng chiến năm 1285 thắng lợi, để nắm được tiềm lực của quốc gia, ngỏ hầu đối phó với nguy cơ của một cuộc chiến tranh xâm lược mới của triều Nguyên, Trần Nhân Tông cho thực hiện ngay việc điều tra dân số. Đại Việt sử ký toàn thư có viết: "Mùa đông, tháng Mười (1285), xuống chiếu định hộ khẩu trong nước. Triều thần can là dân vừa lao khổ, định hộ khẩu thực không phải là việc cần kíp. Vua nói: „Chỉ có thể định hộ khẩu vào lúc này, chẳng nên qua đó mà xem xét (tình trạng) hao hụt, điêu tàn của dân ta hay sao?‟.Quần thần đều khâm phục”[23]. Sau ngày khải hoàn, việc Trần Nhân Tông không phong Đỗ Hành tước cao vì khi bắt được Ô Mã Nhi đã dâng lên Thượng hoàng (mà không dâng 30
- lên Trần Nhân Tông); hoặc không thăng trật cho Hưng Trí vương, vì khi đã có chiếu của Trần Nhân Tông cho người Nguyên về nước, không được cản trở, mà Hưng Trí vương cứ còn đón đánh; trong lúc đó Trần Nhân Tông cho "Man trưởng Lạng Giang Lương Uất làm trại chủ Quy Hóa. Hà Tất Năng làm Quan phục hầu vì đã chỉ huy người Man đánh giặc”[7, tr. 195]. Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, dân tộc ta đã đương đầu với biết bao kẻ thù hung bạo và đã lập nên biết bao chiến công lừng lẫy, song điều cần khẳng định là cuộc kháng chiến chống đế quốc Mông - Nguyên thắng lợi ở thế kỷ XIII là một trong hai chiến công vĩ đại của dân tộc ta mang tầm thời đại, có ý nghĩa quốc tế sâu sắc. "Lịch sử thế giới đánh giá chiến thắng này (chiến thắng chống đế quốc Mông - Nguyên - TG) là thần kỳ, độc nhất vô nhị” . Tổng Bí thư thư Lê Duẩn khẳng định: "Dân tộc ta hơn các dân tộc khác ở chỗ ngay từ buổi đầu giữ nước dân tộc ta có bà Trưng, Bà Triệu; ở chỗ đã hai lần đánh bại những tên sen đầm quốc tế: Mông - Nguyên và Hoa Kỳ” Trong suốt thời kỳ trị vì đất nước, Trần Nhân Tông đã thể hiện những triết lý nhà Phật một cách sâu sắc và ứng dụng chúng linh hoạt vào cuộc sống, vào công cuộc dựng nước và giữ nước. Đời sống nhân dân dưới thời trị vì của ông luôn ấm no, hạnh phúc và xuất hiện nhiều nhân tài kiệt xuất. Chính bởi sự lĩnh hội toàn vẹn tư tưởng của Phật giáo nên Trần Nhân Tông đã nhường ngôi cho con và về nới núi thiêng Yên Tử thành lập Thiền Phái Trúc Lâm, thống nhất Phật giáo Đại Việt với tư cách một quốc giáo độc lập. Từ đây, ông tiếp tục truyền tải những tư tưởng của mình đến với muôn dân, dùng sức ảnh hưởng của mình với triều đình để giáo hóa vua quan sống tốt đời đẹp đạo. Không chỉ dừng lại ở đó, ở vị trí đương thời ông đã có những chiến lược nhằm mở mang bờ cõi đất nước, yên ổn lòng dân, thiên hạ thái bình. 31
- Năm 1301, sự kiện Trần Nhân Tông chu du Chiêm Thành với tư cách là một vị Thiền sư đã đành dấu một bước phát triển mới trong lịch sử ngoại giao Việt Nam, vượt lên trên vai trò của một nhà truyền giáo, Trần Nhân Tông còn với tư cách là một nhà ngoại giao, chính thức thiết lập mối quan hệ giao bang Việt- Chiêm. Tại đây, để giữ tình hữu nghĩ hai nước lâu dài, ông đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm. Mặc dù nhận lại sự chống đối, rèm pha của triều đình rằng đã mang con giao bán cho vua nước bạn nhưng Trần Nhân Tông quyết không thay đổi lời hứa của mình. Sự kiện đó thể hiện tấm lòng hi sinh vì dân vì nước cũng như quan niệm bình đằng về con người của Trần Nhân Tông. Đổi lại, để đáp lại tấm chân tình của ông, vua Chiêm đã đem dâng hai châu Ô và Lý làm sính lễ. Việc sáp nhập hai châu đã mở rộng bờ cõi Việt Nam trên bản đồ thế giới một cách hòa bình, không đổ máu. Điều đó thể tầm nhìn xa trông rộng, chiến lược dài lâu của Trần Nhân Tông. Quan điểm chính trị cũng như những chiến lược, sách lược của ông đã mang lại những thành quả chính trị, ngoại giao, an ninh quốc phòng to lớn trong hòa bình. Dưới con mắt của ông, Phật giáo không chỉ là một học thuyết đơn thuần được sử dụng trong giới, mà nó còn được sử dụng trong ngoại giao, trong quan hệ quốc tế hay trong những lĩnh vực khác, chỉ cần ta biết cách vận dụng nó một cách linh hoạt Vì thế mà dưới bàn tay và khối óc vĩ đại của ông, những tư tưởng của Phật giáo đã được sử dụng một cách linh hoạt trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, mang lại nhiều lợi ích không chỉ trước mắt mà còn lâu dài cho đất nước. Trong tư tưởng của Trần Nhân Tông, việc xuất gia hay tại gia với ông không đóng vai trò quan trọng, mà quan trọng ở đây là biết cách kết hợp giữa lý tưởng của Phật giáo với lý tưởng của đất nước, đem ứng dụng những tư tưởng của Phật giáo vào cuộc sống như thế nào cho hữu ích. Có thể khẳng định, dưới bàn tay và khối óc của Trần Nhân Tông, Phật giáo đã đạt tới đỉnh cao trong việc xây dựng đất nước và giữ gìn nền hòa bình dân tộc. Dưới sự trị vì của ông, Phật giáo đạt đến sự phát triển rực rỡ, đất nước ổn định, lòng 32
- dân vững bền, một lòng phò vua. Tinh thần nhập thế trong tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông không chỉ dừng lại ở “tại thế gian giác”, mà còn là “giúp thế” có hiệu quả và tích cực: “Sống không giúp thế trượng phu buồn” . Ông cho rằng, khi tồn tại trên thế giới này mà bản thân con người không làm gì giúp ích cho cuộc đời thì đó là một điều đang hổ thẹn với chính lương tâm của mình. Vì vậy: “Đừng để tầm thường xuân luống qua” . Tuy trên cương vị là một vị vua nhưng tâm hồn và suy nghĩ của Trần Nhân Tông luôn hướng về Phật giáo; Khi trên cương vị là kẻ tu sĩ những những suy nghĩ của ông lại không thôi đau đáu nghĩ về vận mệnh đất nước dài lâu. Vua và Phật, đạo và đời, tôn giáo với dân tộc đã hòa quện trong con người Trần Nhân Tông. Những quan điểm về chính trị của Trần Nhân Tông được thể hiện một cách sinh động trong tác phẩm: Cư trần lạc đạo (ở đời mà vui đạo). Đó là những tư tưởng, quan điểm của một nhà Vua, cũng là một vị tu sĩ về vấn đề đạo và đời thông qua cái nhìn Phật giáo. Trong tư tưởng và hành động của ông có sự kết hợp hài hòa giữa chính trị - tôn giáo, đặc biệt là khi ông kêu gọi quan lại trong triều đình “phải dùng mười điều thiện để làm “Quốc pháp”, làm “Quốc chính”. “Triều đình Đại Việt đã sống theo tinh thần “cư trần lạc đạo” và mở ra một phong trào phật tử cư sĩ trong triều đình nhà Trần” . Trần Nhân Tông đã dùng Phật giáo để truyền đạt những tư tưởng khơi dậy trách nhiệm của cá nhân với cuộc đời. Ông đề cao Phật giáo trên phương diện chính qua phương châm “cư trần lạc đạo”, chan hòa trên dưới (“hòa quang đồng trần”). Khi đạo hòa với đời, đạo được thực nghiệm trong đời thì nó mới được phát huy hết những tính năng cao cả của nó. Và cũng chính bởi dựa trên nhận thức ấy mà trong đường hướng lãnh đạo muôn dân của ông, “thế quyền” và “thần quyền” đã nhập làm một, đạo và đời không còn ranh giới. Nếu như ở vùng đất Ấn Độ xa xôi có vua Asoka giác ngộ giữa trận chiến đẫm máu Lalinga mà từ bỏ binh đao, dùng đạo đức Phật giáo để giảng cho dân chúng, thì vua Nhân Tông không phải đợi sau khi trải qua hai cuộc 33
- chiến chống Nguyên Mông đầy ác liệt và gian khổ mới đủ để thể nghiệm ý nghĩa sinh tử, vô thường, mộng mị của nhân tình thế thái. Song, “lửa thử vàng, gian nan thử sức”, có qua chiến tranh gian khổ với bao mất mát đau thương mới tràn đầy thiện tâm khoan dung, lòng từ bi trỗi dậy. Trần Nhân T quyết định từ bỏ danh sắc, lợi lộc trần thế, quyết tâm sống cuộc đời đạo hạnh và xây dựng kỷ cương, đạo đức cho xã hội, lấy lời Phật dạy làm lý tưởng. Tuy Trần Nhân Tông rất đề cao Phật giáo, nhưng ông luôn cởi mở, tôn trọng và tiếp thu các tôn giáo và học thuyết khác trên cơ sở Thiền Phật giáo. Bên cạnh Phật giáo được suy tôn làm quốc giáo, thì Nho giáo và Lão giáo cũng rất phát triển. Đây chính là sự gắn bó, hòa hợp của hai thực thể, giữa một bên là phần đời được ràng buộc bởi thể chế chính trị của Nho giáo và một bên là phần đạo với tinh thần từ, bi, hỉ xả của đạo Phật. Trần Nhân Tông đã hài hòa gắn kết khéo léo cả hai thực thể này: “Lo hoán cốt ước phi thăng, đan thần mới phục; Nhắm trường sinh, về thượng giới, thuốc thơ còn đan; Sách dịch xem chơi, yêu tính sáng hơn yêu châu báu; Kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim” . Tuy mục đích cuối cùng có khác nhau về đạt đạo, song hơn ai hết, Trần Nhân Tông hiểu sâu sắc rằng: con đường tu thân sửa mình của bất kỳ học thuyết nào cũng đều phải thực hiện bằng những điều răn giới. Vì vậy, với tư cách là một lãnh tụ chính trị, ông rất khéo léo kết hợp tam giáo trong đường lối, sách lược trị quốc trên cơ sở của Thiền Phật giáo. Sự tổng kết giáo lý “cư trần lạc đạo” của ông là để xây dựng một triều đại bằng Phật giáo, nhưng tiếp thu linh hoạt các học thuyết Nho và Đạo. Sự chi phối của mối quan hệ tam giáo làm tinh thần nhập thế trong tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông càng được nâng cao hơn nữa, từ đó kéo theo tính tự do tự tại trong đời sống trần tục. Tính tự do tự tại ấy đã làm cho hoạt động thực tiễn của ông đạt đến vô vi theo tinh thần Thiền Phật giáo bằng tâm thế sống “tùy duyên” nơi trần tục. Chính sự vận dụng khéo léo, linh hoạt đó đã đem lại cho vua quan nhà Trần (thời Trần Nhân Tông) sức mạnh tinh thần để thu phục lòng người một 34
- cách hiệu quả. Đó là cách sử dụng tiềm năng của Phật giáo để phục vụ chính trị. Sự xuất gia của nhà vua cũng như những năm hành đạo trong dân gian của ông đã khiến cho Thiền phái Trúc Lâm trở nên một lực lượng tôn giáo hùng mạnh yểm trợ cho triều đại. Vua Trần Nhân Tông đã làm cho lòng người trong thiên hạ quy thuận về một mối thống nhất mà không sinh lòng phản trắc; hướng con người tới những giá trị chân, thiện, mỹ của Phật giáo, nhưng luôn kết hợp với trị quốc dựa trên nền tảng của Nho giáo. Nhờ vậy, thời nhà Trần đã hội tụ được những tướng sĩ tài ba thao lược, dân và quân một lòng, đồng tâm hiệp lực. Tinh thần ấy không những đã làm nên một bản lĩnh chiến đấu, mà còn làm nền tảng cho một đường lối chính trị, ngoại giao mềm dẻo, đức độ, cao thượng, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc 2.1.2. Quan điểm của Trần Nhân Tông về quân sự Tiết chế Trần Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn được coi là thiên tài quân sự thì Trần Nhân Tông xứng đáng được công nhận là một nhà lãnh tụ thiên tài khi 2 lần trực tiếp là tổng chỉ huy tối cao lãnh đạo quân dân Đại Việt chiến đấu chống lại quân đội Mông – Nguyên vào các năm 1285 và 1288. Quan điểm về quân sự của Trần Nhân Tông thể hiện qua một số điểm đáng chú ý sau: Điểm đầu tiên là quan điểm dám đánh và quyết đánh thắng kẻ thù đến cùng , dựa vào sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Trước một Trần Nhân Tông đầy bản lĩnh và quyết tâm bảo vệ “ từng tấc đất của tổ tông để lại”; quân đội Mông – Nguyên hết sức căm hờn, uất hận mà tự vấn lòng mình phải bắt cho bằng được Trần Nhân Tông – vị vua anh hung của quân dân Đại Việt, tướng quân nhà Nguyên là Ô Mã Nhi uất hận mà than rằng “ Ngươi chạy lên trời ta theo lên trời; người chạy xuống đất ta theo xuống đất; người trốn lên núi ta theo lên núi; người lặn xuống nước ta theo xuống nước”[13, tr. 222]. Vó ngựa của quân nhà Nguyên đi đến đâu cỏ dại cũng không mọc được, vậy mà khi đến Đại Việt lại ngậm đắng nuốt cay trước một đất nước 35
- nhỏ bé; để khiến cho tướng lĩnh của một đội quân Nguyên hung mạnh nhất thế giới thời bấy giờ phải thốt lên sự uất hận muốn tìm giết cho bằng được vị lãnh tụ Trần Nhân Tông của quân dân Đại Việt. Điều đó, đủ cho ta thấy được sự tài ba thao lược trong việc dụng binh của Trần Nhân Tông, thấy được lòng quyết tâm đánh giặc, không hề nao núng trước quân địch mạnh, quyết gìn giữ từng tấc đất của tổ tiên, gìn giữ hòa bình ấm no cho quân dân Đại Việt. Điểm thứ hai trong quan điểm quân sự của Trần Nhân Tông là ông đã chủ trương phát động một cuốc chiến tranh nhân dân với phương châm lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều, dùng đoản binh (tức sử dụng gươm, giáo, bộ binh, các loại bẫy, phục kích, tập kích, vu hồi, cận chiến) chống trường trận (tức dàn quân rộng, dùng kỵ binh tốc chiến tốc thắng, đánh nhanh thắng nhanh, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh), kháng chiến lâu dài, thực hiện kế sách “thanh giã”( tức vườn không nhà trống rút khỏi kinh thành Thăng Long lui về Thiên Trường xây dựng hậu phương chiến đấu), phát triển lối đánh phục kích nhằm tiêu hao sinh lực địch. Theo Trần Nhân Tông “ Quân giặc đi xa nhiều năm, lương thảo chuyên chở hàng vạn dặm, thế tất mệt mỏi. Lấy nhàn chống mệt, trước hãy làm chúng nhụt chí, thì ắt đánh bại được” [13, tr. 228]. Trần Nhân Tông hết sức đề cao sức mạnh của quần chúng nhân dân, ngay sau khi quân Mông - Nguyên xâm lược Đại Việt lần thứ hai vào năm 1285, Vua Trần Nhân Tông đã triệu tập Hội nghị quân sự tài Bình Than( tức bến Bình Than nay thuộc xã Đại Than, Gia Lương, Bắc Ninh) để chiêu tập các cương hầu, võ tướng tìm kế đánh giặc. Đặc biệt, Trần Nhân Tông đã đánh giá rất cao vị trí và vai trò của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn – Người có công rất lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ nhất năm (1258). Khi nghe tin giặc sắp tràn vào nước ta, để có cơ sở vững chắc phát động cuộc kháng chiến, Trần Nhân Tông trực tiếp trao đổi với Trần Quốc Tuấn về đặc điểm, tình hình của kẻ thù “ Giặc tới, liệu tình hình thế nào?” và nhận được câu trả lời dứt khoát của Hưng Đạo Đại vương 36
- là “ Năm nay đánh giặc nhàn”[13, tr. 232]. Nhờ những chủ trương đúng đắn, Trần Nhân Tông đã lãnh đạo quân dân Đại Việt 2 lần đánh bại đội quân hung mạnh nhất thế giới được mệnh danh là bất khả chiến bại nhưng phải chuốc lấy thất bại cay đắng và nhục nhã đến nỗi hoàng tử Thoát Hoan phải chui vào ông đồng để trốn thoát khỏi Đại Việt. Điểm thứ ba trong quan điểm quân sự Trần Nhân Tông là ông hết sức coi trọng nhiệm vụ đào tạo và nâng cao chất lượng quân đội thông qua các biện pháp như truyển quân, tuyển tướng, huấn luyện binh pháp, kỹ thuật quân sự và rèn luyện tư tưởng, tinh thần chiến đấu cho tướng lĩnh và binh sỹ. Trần Nhân Tông nói “ Nhà ta vốn là ngườn hạ bạn, đời đời ưa chuộng hung dung, thường trổ hình rồng vào đùi, nếp sống theo nghề võ nên trổ rồng vào đùi là tỏ ra không quên gốc” [13, tr. 182]. Để xây dựng quân đội vững mạnh, Trần Nhân Tông đã ra lệnh thực hiện chính sách “ Ngụ binh ư nông” (một kiểu chế độ nghĩa vụ quân sự) nghĩa là vào thời bình lực lượng quân đội sẽ tham gia lao động sản xuất trong nông nghiệp và khi có chiến tranh họ sẽ quay trở lại tham gia vào trong quân đội “Việc lấy quân bấy giờ không có số nhất định, chỉ chọn dân binh khi nào khỏe mạnh thì lấy. Cứ năm người một ngũ, mười người một đô. Khi có việc điều động thì gọi ra; không có việc thì trở về nhà làm ruộng” [13, tr. 181]. Đây là sự kết hợp độc đáo giữa xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân với phát triển kinh tế, một sáng tạo trong tư duy quân sự của Việt Nam và trên thế giới. Với những tư duy về quân sự thiên tài, cộng với sự quân sư nhiệt thành hệ thống quan văn quan võ, Trần Nhân Tông đã lãnh đạo quân dân Đại Việt đánh thắng đội quân Nguyên – Mông hùng mạnh bậc nhất thế giới. Những tư duy quân sự “lấy ít đánh nhiều”, “dùng đoản binh chống trường trận”, “đánh du kích - lấy, ít đánh nhiều”, “đánh trường kỳ - đối phó với đánh nhânh thắng nhanh, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của địch”; là bài học vô cùng quý giá cho hậu bối về tư dùng đánh địch, lợi dụng sức người sức của, địa hình, địa thế để làm lợi thế cho quân ta để đánh thắng kẻ thù. 37
- 2.1.3.Quan điểm của Trần Nhân Tông về ngoại giao Đối với Ai Lao: Cuối thời Nhân Tông, quân Ai Lao thường hay quấy nhiễu biên giới phía tây Đại Việt, bởi vậy năm 1290 nhà vua quyết định thân chinh đánh Ai Lao.Các quan ngăn cản, lập luận rằng: "Giặc Hồ mới lui, vết thương của dân chưa lành, sao lại đã hưng binh". Vua Nhân Tông đáp lại: "Chỉ nên xuất binh vào lúc này; lân bang sẽ bảo ta có bao nhiêu voi ngựa mất hết, sắp có sự khinh rẻ ta, nên phải đại cử để thị oai", đình thần không còn ý kiến [16, tr. 84-85]. Đến tháng 8 âm lịch năm 1294, Quân Ai lao xâm lấn Đại Việt lần thứ hai và Thái Thượng Hoàng lại thân chinh đánh dẹp. Quân Việt do Nhân Tổng chỉ huy đã đánh tan Ai Lao, đồng thời thu được nhiều tù binh và chiến lợi phẩm. Trước đó thì Trần Nhân Tông đã nhường ngôi cho con và xuất gia tại hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình). Đây là một điều hết sức kì lạ từ xưa tới nay chưa bao giờ có. Người xưa quan niệm khi đã xuất gia là lìa xa chuyện thế gian, gia quyến mà nhất là những chuyện liên quan đến chính trị quân sự. Trần Nhân Tông xuất gia nhưng không chấp giữ vào giới(nguyên tắc) mà đặt trách nhiệm, tình thương với dân với nước lên trên tất cả. Về quyết định thân chinh đi đánh giặc Ai Lao của Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông là dựa trên những lý do: Thứ nhất, Trần Nhân Tông đánh giá là chỉ có chính mình đánh trận này mới thắng còn người khác cầm quân không chắc thắng , bởi lẽ đây là lần thứ hai Ai Lao sang xâm chiếm nước ta. Lần đầu tiên năm 1290 Trần Nhân Tông trực tiếp chỉ huy trận đánh và đã giành thắng lợi nên so với người khác Trần Nhân Tông am hiểu về kẻ thù hơn hết . Thứ hai, Trần Nhân Tông tự mình cân nhắc không cho gây thương vong nhiều . Chỉ cần biết thắng vừa đủ chứ không để tình trạng “ đuổi cùng giết tận” hay “giệt cỏ tận gốc” vẫn thường xảy ra trong các cuộc chiến tranh. 38
- Thứ ba, Trần Nhân Tông cân nhắc rất kỹ về tội và phước trong việc sát sinh. Cái phước là bảo vệ cả dân tộc khỏi lầm than, nô lệ lớn hơn tội sát sinh. Vì vậy, để bảo vệ đất nước, Trần Nhân Tông quyết tâm không nhân nhượng với Ai Lao, quyết dẫn quân đi đánh thắng giặc. Chiến thắng vang dội , đuổi sách bóng quân Ai Lao khỏi đất Đại Việt làm cho quốc thái dân an.Trần Nhân Tông tưởng chừng xuất thế nhưng lại nhập thế tích cực để chăm lo cho dân cho nước, sáng lên tinh thần trách nhiệm cao cả. Đối với nhà Nguyên: Trần Nhân Tông thực thiện chính sách đối ngoại mềm dẻo. Sau khi đánh đuổi sạch bóng quân Mông – Nguyên ra khỏi bờ cõi nước Việt tháng 4 đến tháng 11 năm 1288, Trần Nhân Tông đã ba lần cử sứ giả sang Nguyên để triều cống và "tạ tội". Đồng thời, ông gửi vua Nguyên một bức thư biện hộ cho hai cuộc kháng chiến năm 1285 và 1287-1288, trong đó có đoạn: "Năm Chí Nguyên thứ 23 (1286), bình chương A Lý Hải Nha tham công ngoài biên giới, làm trái Thánh chỉ Mùa đông năm Chí Nguyên thứ 24 (1287) lại thấy đại quân thủy bộ đều tiến sang, thiêu đốt chùa chiền khắp nước, đào bới mồ mả tổ tiên, bắt giết người dân già trẻ, đập phá sản nghiệp trăm họ” Đến tháng 12 năm 1288, Hốt Tất Liệt sai Lý Tư Diễn và Vạn Nô đi đòi Nhân Tông sang chầu và thả tù binh Nguyên về nước. Vua Trần đã thiết đãi nồng hậu và biếu vàng bạc cho sứ Nguyên, nhưng dứt khoát không chịu sang chầu. Đầu năm 1289, Nhân Tông truyền lệnh đưa hết tù binh Nguyên về nước. Riêng đối với Ô Mã Nhi, Nhân Tông và Hưng Đạo Đại vương quyết định ám sát để trừ hậu họa. Nhà vua sai Nội thư Hoàng Tá Thốn cấp thuyền cho Ô Mã Nhi về, rồi chọn người lặn giỏi làm phu thuyền và nhân lúc đêm tối dùi thuyền thủng cho đắm. Vua Trần đã giải thích với Hốt Tất Liệt rằng Ô Mã Nhi chết đuối do thuyền bị rỉ nước. Người Nguyên không thể tra cứu việc này nên đành lờ đi, không trách cứ. Trong Đại Việt Sử ký Toàn thư, sử thần đời Lê sơ Ngô Sĩ Liên chỉ trích mạnh mẽ hành động của Nhân Tông là "thất tín": “Chữ tín là vật báu của nước, mà làm cho người 39
- khác phục mình sâu sắc thì đó là gốc của vương chính. Hưng Đạo Vương dùng bá thuật, muốn được thành công trong một thời mà không biết làm như thế là đã thất tín với muôn đời. Đã nói là đưa về nước lại dùng mưu kế để giết đi, thì thực quỷ quyệt quá lắm. Thái Tổ Cao Hoàng Đế nước Đại Việt ta đang khi dẹp loạn, định tha người Minh về nước. Bọn ngụy quan có kẻ viện dẫn cho người Minh nghe câu chuyện dùi thuyền của Hưng Đạo Vương khi trước nhằm ngăn cản ý muốn về nước của họ. Nhưng lòng tín thực của Thái Tổ thấu đến cả muông thú, nên rốt cuộc người Minh tin theo không ngờ vực. Thế mới là làm cho người khác phục mình sâu sắc và là cội gốc của vương chính. Đâu có thể nói [chữ tín] chỉ là chuyện nhỏ nhặt.” [10, tr. 199-200]. Vì lợi ích quốc gia dân tộc, Trần Nhân Tông thi hành những chính sách mềm dẻo, để buộc nhà Nguyên không thể viện cớ để xâm lăng, gìn giữ hòa bình cho nhân dân. Việc Trần Nhân Tông cương quyết không tha mạng cho Ô Mã Nhi thể hiện tính khảng khái,như một lời nhắc nhở dằn mặt Hốt Tất Liệt, thể hiện cái uy của vua nước Đại Việt. Sau thất bại trong cuộc chiến năm 1288, nhà Nguyên vẫn chưa bỏ mộng xâm lược Đại Việt.Mặc dù Nhân Tông đã sai Nghiêm Trọng Duy và Trần Tử Trường sang Nguyên dâng lễ vật và "tạ tội không vào chầu" vào tháng 9 âm lịch năm 1291, Hốt Tất Liệt lại cử Trương Lập Đạo và Thiếp Mộc Nhĩ sang dụ Nhân Tông đến chầu vào cuối năm 1291 – đầu năm 1292. Theo tư liệu Trương Thượng thư hành lục chép trong An Nam chí lược của Lê Tắc, vua Nhân Tông đãi Lập Đạo thịt rượu rất thịnh soạn và còn đề thơ tặng sứ giả, nhưng tiếp tục lấy cớ tang cha, từ chối sang chầu. Sau khi Lập Đạo về nước, Nhân Tông sai Nguyễn Đại Phạp và Hà Duy Nghiêm sang cống nhà Nguyên. Năm 1293, sau khi Nhân Tông truyền ngôi cho con là Trần Anh Tông, Hốt Tất Liệt lại sai sứ sang bắt vua Trần vào chầu. Anh Tông cáo bệnh không đi và sai Đào Tử Kỳ sang cống nạp. Nhà Nguyên giam Tử Kỳ ở Giang Lăng và sửa soạn tấn công Đại Việt.Nhưng việc chuẩn bị 40
- chưa hoàn tất thì Hốt Tất Liệt chết; tân hoàng đế Nguyên Thành Tông đã hủy bỏ kế hoạch xâm chiếm Đại Việt, đồng thời thả Tử Kỳ về nước [8, tr. 63-65]. Không chỉ khi đang làm vua, ngay cả khi đã lui về làm Thái Thượng Hoàng, Trần Nhân Tông vẫn đích than chỉ huy việc đón tiếp sứ thần phương Bắc, nhân dịp đoàn sứ thần sang Đại Việt vào tháng 2 năm 1295. Bấy giờ, sứ đoàn nhà Nguyên dẫn đầu là Lý Hành và Tiêu Thái Đăng đã được cử sang Đại Việt thông báo việc vua Thành Tông nhà Nguyên lên ngôi và đã cho bãi binh. Trong lần đón tiếp này, không chỉ đại việc đón tiếp sứ thần Trung Quốc chu đáo mà khi sứ thần ra về, chính thượng hoàng Trần Nhân Tông còn trực tiếp viết thứ phúc đáp gửi cho Nguyên Thành Tông tỏ rõ sự tôn trọng của mình đối với Hoàng đế đại quốc, bày tỏ mong muốn duy trì mối quan hệ hòa hảo giữa hai bên. Như vậy, dù sứ thần Trung Hoa sang Đại Việt luôn tỏ thái độ cao ngạo và đưa ra nhiều yêu sách vô lí, song chưa lúc nào Trần Nhân Tông không tiếp đón nồng hậu.Trần Nhân Tông lấy lòng nhân từ và lễ nghĩa để đối đãi, đồng thời cũng mềm dẻo, khéo léo khước từ những yêu sách phi lí của đối phương, nhưng cũng không làm ảnh hưởng đến thể diện của cả dân tộc. Đối với Champa: từ khi Trần Nhân Tông lên ngôi năm 1278 cho đến trước cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt năm 1285 và ngay cả sau khi giành thắng lợi trong cuộc chống quân Mông – Nguyên Lần ba thì Trần Nhân Tông vẫn giữ mối quan hệ tốt đẹp với Champa. Vấn đề Champa vẫn được Hốt Tất Liệt xem như là một trong những "đòn binh pháp” hiệu quả để thôn tính Đại Việt. Nhưng chính sách ngoại giao linh hoạt và mềm dẻo của Trần Nhân Tông đối với triều Nguyên sau cuộc chiến tranh 1288, khiến tham vọng của Hốt Tất Liệt đã không thực hiện được cho đến lúc qua đời năm 1294. Không chỉ nỗ lực duy trì hòa khí với nước lớn Trung Quốc, mà với nước nhỏ hơn như Chiêm Thành, Trần Nhân Tông cũng có hành động tự như vậy. Sau chiến thắng chống quân Nguyên xâm lược, Trần Nhân Tông đã tiến 41
- hành một đợt trao trả “các tù binh Chiêm Thành từng theo Toa Đô như bọn Ba Lậu Kê Na Liên” [2, tr. 182], khoan dung độ lượng với những kẻ lầm đường lạc lối. Cách hành xử đó cũng như sự khước từ cấp lương, binh cho nhà Nguyên, không cho nhà Nguyên mượn đường đánh Champa, mà lại cung cấp thêm binh lương cho Champa của Trần Nhân Tông trong khoảng thời gian diễn ra chiến tranh trước đó, đã thể hiện sự nhất quán trước sau như một trong mục tiêu hòa bình, “ nhân quần hòa hợp, chúng sinh an lạc” của Trần Nhân Tông. Đây cũng chính là điều thôi thúc Trần Nhân Tông mở cuộc vân du Champa trong một thời gian dài suốt 9 tháng. Năm 1299, Trần Nhân Tông xuất gia ở núi Yên Tử. Từ đây mở ra một bước ngoặt mới trong cuộc đời và sự nghiệp của Trần Nhân Tông, mà dấu ấn đậm nét nhất của quá trình này là việc đưa hai châu Ô và Lý vào lãnh thổ Đại Việt. Đây chính là sự nghiệp mở nước của Trần Nhân Tông. Châu Ô chính là vùng đất Ô Mã của Champa. Trong cuộc chiến tranh xâm lược Champa năm 1283, Toa Đô đã biết đây là vùng đất "nằm gần nước An Nam”, như Nguyên sử đã ghi nhận. Còn châu Lý, tức vùng đất Việt Lý, mà Toa Đô phải đi qua trước khi tiến công vào trại Bố Chính và đất Hoan Ái của Đại Việt. Cánh quân Toa Đô từ phía Nam đánh ra đã gây nên diễn biến chính trị và quân sự phức tạp đến nỗi đích thân Trần Nhân Tông và Thượng hoàng Thánh Tông đã phải chỉ huy để đối phó lại với chúng và cuối cùng đã chiến thắng vang dội với việc chém đầu Toa Đô và bắt sống gần một vạn quân Nguyên tại trận Tây Kết lần thứ hai. Hơn thế nữa, hai châu Ô và Lý vừa có núi cao hiểm trở chắn ngang ra biển (từ Bắc vào Nam phải lần lượt qua các đèo: Phước Tượng, Phú Gia và Hải Vân, cao nhất và nguy hiểm nhất là đèo Hải Vân; vừa có cảng sâu thuận lợi cho thủy quân như cảng Tư Hiền, Thừa Thiên Huế và cảng Tiên Sa, Đà Nẵng. Có thể nói rằng, trên cả ba lĩnh vực giữ nước, dựng nước và mở nước, vùng đất này giữ một vị trí chiến lược xung yếu. Mở nước về phía Nam, trước tiên là nắm lấy hai châu Ô và Lý, đã trở thành một xu thế tất yếu 42
- đối với sự sống còn của Đại Việt. Quan điểm này hầu như thống nhất trong chính giới Đại Việt lúc bấy giờ. Song tiến hành bằng biện pháp nào để đạt được "nhân quần hòa hợp, chúng sinh an lạc” đang là một vấn đề thách thức đối với triều Trần, trước hết là Trần Nhân Tông. Sau cuộc chiến chống Mông – Nguyên lần thứ hai(1285) và lần thứ ba(1288) thắng lợi, chính lúc này, giới quân sự Đại Việt đã gây sức ép với triều đình trong chính sách mở rộng lãnh thổ về phía Nam. Song với cái nhìn của một bậc minh quân hòa quyện với một trí tuệ bát nhã của một vị thiền sư uyên thâm Phật học, Trần Nhân Tông đã đi theo một con đường khác, “hầu như nghịch lý với lịch sử”: Con đường hòa bình. Điều cần nhấn mạnh ở đây là để cho con đường này trở thành hiện thực, đích than Trần Nhân Tông phải “ xông pha trận mạc”. Tháng Ba năm 1301, với tư cách là một tăng sĩ, Trần Nhân Tông mở cuộc vân du Champa, đến tháng Mười Một cùng năm mới trở về Đại Việt.Đây là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, một vị hoàng đế với tư cách một tăng sĩ đã có chuyến hành trình ngoại giao dài nhất.Cái thời gian dài nhất này là một phần giải thích cho thành quả đạt được của chuyến đi lịch sử này. Thời gian ở Champa, Trần Nhân Tông đã được Hoàng đế Chế Mân đón tiếp nồng hậu, bởi trong cuộc chiến tranh chống xâm lược Mông - Nguyên vừa mới kết thúc không lâu về thời gian, Đại Việt và Champa là đồng minh của nhau.Trong cuộc chiến tranh xâm lược Champa của triều Nguyên năm 1283, Trần Nhân Tông không chỉ không đồng ý cho Hốt Tất Liệt mượn đường Đại Việt xâm lăng Champa, mà ngược lại đã gửi 2 vạn quân và 500 chiến thuyền chi viện cho nhân dân Champa chống Mông - Nguyên, góp phần giúp nhân dân Champa giành thắng lợi. Trong lời đề từ cho bức tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ, Trần Chí Chính viết: "Có lúc Ngài viễn du hóa độ cho các nước lân bang, phía Nam đến tận Champa, đã từng khất thực ở trong thành. Vua nước Champa biết được điều đó, hết sức 43
- kính trọng thỉnh mời, dâng cúng trai lễ, sắp sẵn thuyền bè nghi trượng, than hành tiễn Ngài về ngước”[19], tr202]. Thời gian ở Champa, giữa Trần Nhân Tông và Chế Mân đã có những cuộc đàm đạo . Sử liệu không ghi lại đầy đủ nội dung những cuộc đàm đạo này, trừ việc Chế Mân đồng ý dâng hai châu Ô và Lý cho Đại Việt để được kết duyên với công chúa Huyền Trân, người con gái duy nhất của Trần Nhân Tông. Trần Chí Chính viết tiếp trong lời đề từ cho bức tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ, rằng Chế Mân đã "đem đất hai Châu làm lễ cúng dâng cho Ngài.Ấy là Thần châu và Hóa châu nay vậy” [19, tr. 202]. Trở lại Thăng Long, Trần Nhân Tông thông báo với triều thần về kết quả chuyến đi, trong đó nội dung quan trọng nhất là việc gả công chúa Huyền Trân cho Hoàng đế Champa, để hai Ô và Lý sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Tháng Hai năm Ất Tỵ (1305), Chế Mân sai sứ là Chế Bồ Đài và hơn một trăm người cùng đi, đem vàng, bạc, hương quý và vật lạ đến Thăng Long dâng để xin sính lễ. Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Tháng Hai, Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và bộ đảng hơn trăm người dâng hiến vàng bạc, hương quý, vật lạ làm lễ vật cầu hôn” [10, tr. 218]. Sử liệu này cho thấy cuộc hôn nhân Chế Mân - Huyền Trân đã được hình thành trên cơ sở tự nguyện từ phía vương triều Champa, chứ không có một sức ép nào từ phía Đại Việt. Điều này là hợp lý, bởi khi việc cầu hôn của Chế Mân được đặt ra, triều thần Đại Việt hầu hết không đồng ý, chỉ Văn Túc Vương Đạo Tái cho là nên và Trần Khắc Chung tán thành. Đại Việt sử ký toàn thư chép tiếp: "Các quan trong triều đều cho là không nên, duy có Văn Túc Vương Đạo Tái chủ trương bàn việc đó, Trần Khắc Chung tán thành, việc bàn mới quyết” [10, tr. 219]. Hẳn là triều thần không hiểu hết ý nghĩa của cuộc hôn nhân mà Trần Nhân Tông đã ra sức vun đắp, tạo dựng; hoặc với họ muốn mở nước nên chăng dùng đến biện pháp quân sự; nhưng chắc chắn trong họ vẫn còn vướng bận sự kỳ thị chủng tộc. Mặc dù vậy, quyết định Trần Nhân Tông trước sau 44
- vẫn không thay đổi. Tháng Sáu năm Bính Ngọ (1306), khi đưa công chúa Huyền Trân về Champa, văn nhân trong triều ngoài nội, nhiều người mượn điển vua nhà Hán gả Chiêu Quân cho Hung Nô, làm thơ Nôm để mỉa mai, chê cười: “Tiếc thay cây quế giữa rừng Để cho thằng Mán,thằng Mường nó leo” Còn sử gia Ngô Sĩ Liên thì viết: "Nhân Tông đem con gái gả cho chúa Chiêm Thành là nghĩa làm sao? Nói rằng nhân khi đi chơi đã trót hứa gả, sợ thất tín thì sao không đổi lại lệnh đó có được không? Vua giữ ngôi trời mà Thượng hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi lại lệnh đó thì có khó gì, mà lại đem gả cho người xa không phải giống nòi để thực hiện lời hứa trước ” [7, tr. 219]. Một người can trường, “đứng mũi chịu sào”, lãnh đạo nhân dân Đại Việt giành thắng lợi trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại 1285 và 1288 như Trần Nhân Tông, hơn hết là một vị Tổ đầu tiên của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, không thể cho phép chúng ta nghĩ "đổi lại lệnh” theo cách nghĩ của Ngô Sĩ Liên. Hoặc có ý kiến cho rằng: "Trong khi giải quyết sự kiện này (sự kiện Huyền Trân – Chế Mân) Nhân Tông đã dùng biện pháp cổ truyền, tức dùng quan hệ hôn nhân như một thủ đoạn chính trị. Bản thân sự kiện cũng như tư tưởng chỉ đạo không quan hệ gì đến Phật giáo. Đây là một hành động vua do tư tưởng chính trị chỉ đạo” [6, tr. 70-71]. Cách nhìn này không hợp lý bởi xưa nay mọi chính sách, mọi hành động, nhất là của các bậc quân vương, đều phải xuất phát từ một hệ tư tưởng cụ thể. Đối với Trần Nhân Tông, "sự kiện Huyền Trân” là vì mục tiêu tối hậu của đất nước trên cơ sở "hòa hợp nhân quần”. Nó thể hiện rất rõ nét tư tưởng Phật giáo, bởi lúc này chính Trần Nhân Tông là một thiền sư. Cái tài của Trần Nhân Tông là không dùng đến một binh đao mã tốt mà có thể khiến vua nước Champa bằng lòng dâng Châu Ô và Châu Lý cho Đại Việt,từ đây bờ cõi Đại Việt được mở mang mang xuống phía Nam. Qua 45
- việc gả con gái duy nhất của mình là Huyền Chân cho vua Champa thể hiện sâu sắc tinh thần bình đẳng chứa đựng trong tư tưởng Phật giáo: "Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ; không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn”, nên trở ngại của sự kỳ thị chủng tộc ở Trần Nhân Tông đã bị loại bỏ một cách tuyệt đối. Và cuộc hôn nhân kỳ thú đó được tạo dựng trong một tinh thần như vậy. 2.2. Quan điểm của Trần Nhân Tông về giáo dục và văn hóa 2.2.1 Quan điểm của Trần Nhân Tông về giáo dục Để có được những chiến công vang dội, Trần Nhân Tông với tư cách là một nhà lãnh tụ chính trị, quân sự, nhà ngoại giao tài ba và là một nhà văn hóa lỗi lạc; để có những thành công đó là dựa vào cách dùng người, cách thu phục lòng người của Trần Nhân Tông. Chắc hẳn, không thể có những chiến công vang dội đó nếu không có sự đóng góp công sức trí tuệ của những người tài giỏi, có tài có đức, một lòng phụng sự giúp vua Trần Nhân Tông. Dưới thời đại của mình, ngay từ khi mới lên ngôi vua, Trần Nhân Tông đã chú trọng trong việc tìm người tài giỏi để phục vụ cho công cuộc dựng nước và giữ nước. Năm 1272, Trần Nhân Tông xuống chiếu tìm người tài giỏi, đạo đức, thông hiểu kinh sách làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, tìm người có thể giảng bàn ý nghĩa của Tứ thư, Ngũ Kinh sung vào nơi hầu vua đọc sách. Thông qua chiếu tìm người tài giỏi của Trần Nhân Tông có thể thấy được chính sách giáo dục theo tinh thần Tam giáo đồng nguyên, buổi đầu khoa cử, thời Trần coi trọng cả Tam giáo( Nho Phật Lão) Năm 1281, Trần Nhân Tông dựng nhà học ở phủ Thiên Trường (đất phát tích của hoàng triều, nay thuộc Nam Định). Tuy nhiên, nhà vua vẫn theo lệ cũ, cấm các chiến sĩ hiệu quân Thiên Thuộc được vào học. Cũng từ đầu đời vua Nhân Tông, chữ Quốc ngữ bắt đầu được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm thơ văn ở Đại Việt. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, dưới trướng 46
- Nhân Tông có Hình bộ Thượng thư Nguyễn Thuyên thạo thơ phú Quốc ngữ; năm 1282, khi có cá sấu tới sông Hồng, hoàng đế sai Nguyễn Thuyên làm văn tế cá sấu thả xuống sông. Sau này cá sấu bỏ đi, nhà vua cho là Nguyễn Thuyên có tài như Hàn Dũ, mới đổi gọi là Hàn Thuyên. Năm Giáp Thìn (1304) ,(sau khi nhường ngôi vua cho con và dạy con trị vì nước được vài năm thì Trần Nhân Tông lên núi Yên tử tu hành lấy pháp danh là Trúc Lâm Đại sĩ ) Tổ Trúc Lâm đích thân giảng đạo trong nhân gian, khuyên dân chúng giữ ngũ giới và tu thập thiện. Trần Nhân Tông thấy được cái lợi chính trị của việc đưa đạo Phật vào nhân gian, vì xây dựng con người cá nhân tốt,thì gia đình tốt,gia đình tốt thì quốc gia mới tốt. Trần Nhân Tông luận giảng: Không sát sinh; không trộm cắp; không tà dâm; không nói dối; không uống rượu. Người dân trong nước đều giữ được năm giới thì đất nước trật tự,thái bình,dân chúng vui vẻ ca hát, không phải lo sợ. Vua Trần Nhân Tông còn khuyên người dân tu thập thiện: Thân không sát sinh,không trộm cắp,không tà dâm; Miệng không nói dối, nói hai lưỡi, nói hung dữ, nói thêu dệt; Ý bớt nóng giận, tham lam, si mê. Thân, Miệng,Ý tu mười điều lành sẽ trở thành hiền nhân. Phật tử tu ngũ giới và thập thiện, tức là đóng góp một phần cho quốc gia, xã tắc tốt đẹp an vui, chuyển cảnh khổ thành cảnh vui, chuyển con người phàm tục thành con người thánh thiện. 2.2.2. Quan điểm của Trần Nhân Tông về văn hóa Trần Nhân Tông không những là nhà chính trị nhà quân sự tài năng và đức độ mà còn là nhà văn hóa lớn của dân tộc và nhân loại. Tư tưởng của Trần Nhân Tông về văn hóa thể hiện trước hết ở việc khai sinh ra một dòng thiền mới của Phật giáo tại Việt Nam hết sức thuần việt mang tên Trúc Lâm trên cơ sở thống nhất 3 dòng thiền trước đó tại VIệt Nam là Tỳ Ni Đa Lưu Chi thế kỉ thứ VI, Vô Ngôn Thông thế kỉ IX và Thảo Đường thời nhà Lý. Các quan điểm của Trần Nhân Tông về văn hóa về cơ bản theo những ý sau: 47
- Một là, Trần Nhân Tông tái dựng về một quá khứ huy hoàng của dân tộc bằng việc phong thần cho những người có công với nước, như Phù Đổng Thiên Vương, Triệu Quang Phục, Lý Nam Đế, Phùng Hưng, Lý Thường Kiệt, Thực ra, việc phong thần cho những anh hùng, liệt nữ và những người có công với dân tộc đã được thực hiện từ thời Lý Thái Tổ, song chỉ đến thời Trần Nhân Tông, việc làm này mới được tiến hành một cách đầy đủ và có hệ thống hơn. Căn cứ vào những ghi chép của Lý Tế Xuyên trong Việt điện u linh tập, trong những năm Trùng Hưng thứ nhất (1285) và Trùng Hưng thứ 4 (1288) đã có tới 27 vị được phong thần. Việc làm này của Trần Nhân Tông có một ý nghĩa cực kỳ lớn lao trong việc tạo dựng truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Lần đầu tiên, một thần điện Việt Nam được hình thành với những con người cụ thể, sống bằng xương bằng thịt trong quá khứ, có sự tích, có hành trạng, chứ không chỉ gồm những vị thần, vị thánh từ nước ngoài đưa vào, hay được tưởng tượng ra ở trong nước. Giáo sư, Tiến sĩ Lê Mạnh Thát khẳng định: "Trần Nhân Tông gây dựng một quá khứ anh hùng và thần thánh cho dân tộc ta, dùng những tấm gương anh hùng liệt nữ và thần thánh đó để giáo dục cho nhân dân ta sống xứng đáng với tổ tiên, đất nước mình. Có thể nói chủ nghĩa yêu nước và anh hùng Việt Nam đã được phát huy cao độ vào thời đạiTrần Nhân Tông. Không có quá khứ đó, việc phát huy không thể dễ dàng. Đây có thể là một đóng góp to lớn về đời sống tư tưởng của Trần Nhân Tông với dân tộc ta” [4, tr. 24]. Trên cơ sở đó, Trần Nhân Tông chủ trương phục hồi và phát triển nền văn hóa, văn minh đân tộc mang bản sắc riêng của Đại VIệt. Ông bổ nhiệm nhiều chức quan có tài năng và đức độ nhằm bảo vệ và phát triển nền văn hóa dân tộc “ Thăng Long có ngự sử đài gồm các chức thị ngự sử, giám sát ngự sử, ngự sử trung tán, ngự sử trung thừa, ngự sử đại phu với chức năng gìn giữ phong hòa pháp độ” [13, tr. 177]. 48
- Hai là, Trần Nhân Tông là một trong rất ít người đi tiên phong trong việc sử dụng quốc ngữ (chữ Nôm) kể cả trong công việc triều chính, trong đời sống xã hội và trong sáng tác văn học. Ngày 27 tháng Ba năm Mậu Tý (1288), chỉ ít ngày sau khi trở về Thăng Long, Trần Nhân Tông ban chiếu, tuyên bố lệnh đại xá cho thiên hạ, Trần Nhân Tông buộc các quan phải đọc chiếu bằng hai thứ tiếng: Hán và Quốc ngữ. Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Vua dụ ty Hành khiển giao hảo với viện Hàn lâm. Lệ cũ, mỗi khi tuyên đọc lời vua, thì viện Hàn lâm lĩnh đưa bản thảo tờ chiếu cho Hành khiển để giảng tập trước.Đến khi tuyên đọc, thì giảng cả âm nghĩa cho dân thường dễ hiểu” [10, tr. 198]. Với Trần Nhân Tông, ý nghĩa của việc làm này là cốt để cho quần thần và dân chúng nghe được nội dung chiếu chỉ, bởi trong số họ đa số không biết chữ Hán hoặc có biết cũng chưa đạt đến trình độ thông hiểu hết; mặt khác còn là ở chỗ Nôm hóa ngôn ngữ trong dân gian lẫn chốn cung đình. Trong đời sống xã hội, những lúc xa giá, tiếp xúc với chốn thôn dã, Trần Nhân Tông sử dụng tiếng Nôm trong giao tiếp, vừa thể hiện sự hòa quyện quân dân, vừa có ý nghĩa đề cao tiếng mẹ đẻ, cổ xúy nhân dân chăm lo gìn giữ chữ Nôm Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Vua từng ngự chơi bên ngoài, giữa đường, hễ gặp gia đồng của vương hầu thì tất gọi chúng mà hỏi: „Chủ mày đâu?‟, rồi răn các vệ sĩ không được thét đuổi. Đến khi về cung, bảo tả hữu rằng: „Ngày thường thì có thị vệ tả hữu, khi quốc gia lắm hoạn nạn thì chỉ có bọn chúng có mặt‟ ” [10, tr. 198-202]. Trong văn học, Trần Nhân Tông là một trong số rất ít người đi tiên phong trong việc sử dụng chữ Nôm. Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca là hai tác phẩm được viết bằng chữ Nôm của Trần Nhân Tông. “Hai tác phẩm này thuộc loại văn học luận đề.Chúng là những bản văn chính luận tập trung trình bày một số vấn đề tư tưởng và lý luận.Chúng đã dùng chữ Nôm như một ngôn ngữ để biểu hiện những tư tưởng tương đối khó một cách khéo léo và dễ hiểu. Từ đó chữ Nôm đã trở thành một ngôn 49
- ngữ đủ khả năng chuyển tải bất cứ nội dung tư tưởng nào vào trong một tác phẩm. Nhờ thế, các tác phẩm ấy không những đã lôi cuốn được sự chú ý của người đương thời, mà còn có sức hấp dẫn đối với hậu thế. Đây chính là một trong những cống hiến lớn, mà hai tác phẩm này đã mang lại cho văn họcViệt Nam”[10, tr. 198-199]. Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của Trần Nhân Tông, được xem như là những tác phẩm đầu tiên, hoàn chỉnh trong việc sử dụng chữ Nôm.Những tác phẩm này thực sự đã tác động sâu rộng đến truyền thống dân tộc, chứ không chỉ đối với Phật giáo. Với thời gian đi qua hàng mấy thế kỷ cùng với sự phá hoại của kẻ thù, bao nhiêu tác phẩm ra đời cùng thời, bây giờ đã thất truyền hoặc lắm chỉ biết đến tên, chứ nội dung là gì thì không rõ, song Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của Trần Nhân Tông vẫn được giữ gìn và trao truyền qua bao thế hệ cho đến tận ngày nay và chắc chắn mãi mãi sẽ được giữ gìn và phát huy giá trị. Điều này giải thích tại sao "trong ánh hào quang của nền văn học dân tộc, sáng ngời những tác phẩm của Trần Nhân Tông” [19, tr. 202]. Một vị hoàng đế, một vị thiền sư, rất giỏi chữ Hán, mà lại buộc quần thần đọc chiếu với hai thứ tiếng, giao tiếp với dân bằng quốc ngữ, đặc biệt là sáng tác thơ văn bằng chữ Nôm, trong đó diễn đạt những tư tưởng triết lý cao siêu của Phật giáo, như Cư trần lạc đạo phú. Đây không phải ngẫu nhiên mà là một tất yếu trong tính thống nhất giữa tư tưởng và hành động của Trần Nhân Tông trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc. Từ kinh nghiệm giữ nước trong những thời kỳ trước đó; đồng thời là người lãnh đạo tối cao dân tộc trong một giai đoạn lịch sử đầy cam go và ác liệt trước một đội quân hung bạo như quân đội Mông - Nguyên, Trần Nhân Tông ý thức sâu sắc rằng việc bảo vệ độc lập dân tộc không tách rời với việc xây dựng và phát huy chiều sâu của nền văn hóa dân tộc. Rõ ràng, việc sử dụng chữ Nôm trong sáng tác "đối với Trần Nhân Tông không chỉ dừng lại ở chỗ „nghệ thuật vị nghệ thuật‟ mà còn là và chính là „nghệ thuật vị nhân 50
- sinh‟, nghĩa là phải đáp ứng được yêu cầu phát huy tính độc lập dân tộc ngay cả trong văn tự”. Ba là, Trần Nhân Tông đã sáng lập ra phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Đây được xem như là mặt nổi bật nhất trong sự nghiệp văn hóa của Trần Nhân Tông. Đầu thế kỷ XII, ba Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường dần dần thống nhất, trên cơ sở đó hình thành phái Thiền Trúc Lâm. Đây là thiền phái đầu tiên do một người Việt Nam sáng lập. Thiền phái Trúc Lâm đề cao sự tự ngộ, sự nỗ lực rèn luyện của hết thảy mọi người. Dù xuất gia hay tại gia, sống trong chùa hay ở ngoài đời, miễn là biết tu tập, cải tạo tâm từ ác chuyển thành thiện, từ xao động chuyển thành bình lặng, định tĩnh, biết phá trừ vô minh, tham dục thì đều đi đến con đường giác ngộ. Trong Cư trần lạc đạo phú, Trần Nhân Tông viết: “Dứt trừ nhân ngã thì ra thực tướng kim cương Dừng hết tham sân, mới làu long màu viên giác” “Trần tục mà yên,phúc ấy càng yêu hết tấc Sơn lâm chẳng cốc,họa kia thực cả đồ công”. Điều quan trọng nhất là Thiền phái Trúc Lâm đã thể hiện tinh thần nhập thế hết sức mãnh liệt. Bản thân Trần Nhân Tông khi xuất gia vẫn quan tâm đến vận mệnh đất nước. Trần Nhân Tông đã chọn Yên Tử làm trung tâm của Giáo hội Trúc Lâm. Tại đây, trên đỉnh núi Yên Tử, cùng với việc tu hành, Trần Nhân Tông có thể quan sát được sự động tĩnh của các cánh quân xâm lược từ phương Bắc xuống. Mặt khác, Trần Nhân Tông đi khắp các chốn thôn dã, khuyên dân bỏ những hủ tục, mê tín và thực hành giáo lý Thập thiện. Theo Trần Nhân Tông, "sống mà không giúp gì cho đời là điều đáng hổ thẹn của kẻ trượng phu”. Ngay cả đến thời điểm trước lúc viên tịch, Trần Nhân Tông vẫn căn dặn các đệ tử rằng: "Các người hãy xuống núi lo tu hành, đừng coi sinh tử là việc nhàn”. Tiêu biểu hơn cả là việc Trần Nhân Tông đã đến tận Champa, tạo được mối quan hệ thân 51
- thiện láng giềng, đặt cơ sở cho việc Ô, Lý trở thành một bộ phận của Đại Việt sau đó. Việc ra đời thiền phái Trúc Lâm – một dòng thiền thuần Việt, mang đậm bản sắc, bản lĩnh, trí thuệ và cốt cách Phật giáo Việt Nam có ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn vô cùng to lớn đối với lịch sử tư tưởng và văn hóa Việt Nam “ Sự hình thành thiền phái Trúc Lâm Yên Tử thể hiện ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường về mặt văn hóa, tư tưởng song song với độc lập chính trị, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Quốc giá Đại Việt. Cuộc đời của Trần Nhân Tông thể hiện một cách sinh động về tinh thần nhập thế mãnh liệt của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Khi làm vua thì thu phục được nhân tâm, "dĩ nhân tâm, vi kỷ tâm” để đạt cho được mục đích tối hậu: "Non sông muôn thuở vững âu vàng”. Khi trở thành thiền sư, Trần Nhân Tông, không chỉ chuyên lo việc "kinh kệ”. Thực ra việc “kinh kệ” đối với Trần Nhân Tông cốt để trí tuệ bừng sáng nhằm phục vụ nhân quần với một hiệu quả cao nhất. 2.3. Những giá trị nổi bật trong các quan điểm của Trần Nhân Tông về chính trị, quân sự, ngoại giao,văn hóa và giáo dục Trong những quan điểm của Trần Nhân Tông về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục, hoàn toàn có thể khai thác nghiên cứu trên những khía cạnh và bình diện khác nhau. Và ở khía cạnh nào ta cũng sẽ tìm thấy những giá trị sâu sắc mang tầm vóc và ý nghĩa to lớn. Là một nhà thơ, ông hào mình với thiên nhiên, thể hiện tinh thần yêu thiên nhiên, cây cỏ. Là một nhà vua, tư tưởng của ông lại tập trung xây dựng nền hòa bình dân tộc, quốc thái dân an. Là một nhà quân sự, ông thể hiện mình là một nhà quân sự kiệt xuất thông qua việc hai lần đánh tan quân Mông – Nguyên hùng mạnh, những bài học về tư duy dùng binh của ông là những bài học vô giá cho hậu bối. Những tư tưởng của Trần Nhân Tông về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa, giáo dục có giá trị và ý nghĩa sâu sắc trong quá khứ lẫn hiện tại và tương lai, là bài học cho hậu bối kế thừa và phát huy. 52