Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng

pdf 75 trang thiennha21 20/04/2022 3330
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nghien_cuu_tri_thuc_ban_dia_su_dung_cay_thuoc_tai.pdf

Nội dung text: Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM  LỘC TIẾN DŨNG NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC TẠI XÃ VÂN TRÌNH, HUYỆN THẠCH AN, TỈNH CAO BẰNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : ST&BTĐDSH Khoa : Lâm nghiệp Khóa học : 2016 - 2020 Thái Nguyên – Năm 2020
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM  LỘC TIẾN DŨNG NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC TẠI XÃ VÂN TRÌNH, HUYỆN THẠCH AN, TỈNH CAO BẰNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : ST&BTĐDSH Lớp : K48 - ST&BTĐDSH Khoa : Lâm nghiệp Khóa học : 2016 – 2020 Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Thu Hiền Thái Nguyên – Năm 2020
  3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài: “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng” là một công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Thu Hiền, số liệu được trình bày trong đề tài không có sự sao chép từ bất kì công trình nào, hoàn toàn là do bản thân tôi thực hiện điều tra nghiên cứu một cách trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước khoa và nhà trường về sự cam đoan này. Thái Nguyên, ngày 20 tháng 8 năm 2020 XÁC NHẬN CỦA GVHD NGƯỜI VIẾT CAM ĐOAN Nguyễn Thị Thu Hiền Lộc Tiến Dũng Xác nhận của giáo viên chấm phản biện Giáo viên chấm phản biện xác nhận sinh viên đã sửa sai sót sau khi hội đồng chấm yêu cầu. (Ký, ghi rõ họ tên)
  4. ii LỜI CẢM ƠN Đề tài “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng” là nội dung tôi chọn để nghiên cứu và làm đề tài tốt nghiệp sau 4 năm theo học chương trình đai học, chuyên nghành Sinh thái và Bảo tồn đa dạng sinh học tại trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên. Để hoàn thành và hoàn thiện đề tài khóa luận này, lời đầu tiên tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến cô: Nguyễn Thị Thu Hiền thuộc khoa Lâm nghiệp Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để kiến thức của tôi ngày càng hoàn thiện hơn. Ngoài ra, tôi xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô Khoa Lâm nghiệp, Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên những người đã truyền đạt kiến thức quý báu cho tôi suốt trong thời gian học tập vừa qua. Nhân dịp này, tôi cũng xin cảm ơn Khoa lâm nghiệp Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, lãnh đạo và các anh chị đang công tác tại UBND xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng đã tạo điều kiện cho tôi trong trong suốt quá trình nghiên cứu về đề tài. Mặc dù đã nỗ lực cố gắng, tuy nhiên do hạn chế về kinh nghiệm cũng như thời gian và trình độ nghiên cứu nên khóa luận không thể tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được những ý kiến góp ý, chỉ bảo của thầy cô cũng như bạn đọc khác để khoá luận được hoàn thiện hơn nữa. Tôi xin chân thành cảm ơn! Thái nguyên, ngày 20 tháng 8 năm 2020 Sinh viên Lộc Tiến Dũng
  5. iii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1. Mẫu bảng điều tra cây thuốc được các cộng đồng dân tộc ở khu vực nghiên cứu 20 Bảng 4.1. Phân bố các ngành thực vật làm thuốc ở xã Vân Trình, huyện Thạch An 24 Bảng 4.2. Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ 26 Bảng 4.3. Các họ đa dạng nhất ở khu vực nghiên cứu 27 Bảng 4.4. So sánh các họ giầu loài ở kvnc (1) với số loài của từng họ trong hệ thực vật việt nam (2). 27 Bảng 4.5. Đa dạng về dạng sống của nguồn cây thuốc ở kvnc 28 Bảng 4.6. Sự phân bố nguồn cây thuốc theo môi trường sống ở kvnc 30 Bảng 4.7. Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận ở xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng 32 Bảng 4.8. Bộ phận sử dụng của cây thuốc theo kinh nghiệm sử dụng trong cộng đồng dân tộc ở kvnc. 34 Bảng 4.9. Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể 37 Bảng 4.10. Danh sách cây thuốc được cả 3 dân tộc ở kvnc sử dụng 40 Bảng 4.11. Số lượng thầy thuốc được phỏng vấn theo từng dân tộc ở kvnc 41 Bảng 4.12. Độ tuổi của các thầy thuốc tại kvnc 42 Bảng 4.13. Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ một số loài cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở kvnc 43
  6. iv DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 3.1. Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài 21 Hình 4.1. Hình ảnh một số loài cây thuốc ở kvnc 25 Hình 4.2. Tỷ lệ nhóm bệnh chữa trị từ nguồn cây thuốc theo kinh nghiệm sử dụng trong cộng đồng dân tộc tày, nùng, dao tại xã vân trình 38 Hình 4.3. Hoạt tính ức chế e. Coli và s. Aureus của cây huyết đằng, bòng bong 45
  7. v DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ cái viết tắ/ký hiệu Cụm từ đầy đủ DLĐCT Danh lục đỏ cây thuốc EN Nguy cấp IA Nghiêm cấm khai thác sử dụng vì mục đích thương mại IIA Hạn chế khai thác sử dụng vì mục đích thương mại KVNC Khu vực nghiên cứu SĐVN - 2007 Sách đỏ Việt Nam 2007 VU Sắp nguy cấp UBND Ủy Ban nhân dân HTKK Hoạt tính kháng khuẩn
  8. vi MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN i LỜI CẢM ƠN ii DANH MỤC CÁC BẢNG iii DANH MỤC CÁC HÌNH iv DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT v MỤC LỤC vi PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1 1.1 Đặt vấn đề 1 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài 2 1.3. Ý nghĩa của đề tài 3 1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học 3 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 3 PHẦN 2: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4 2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu 4 2.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trong nước và trên Thế giới 5 2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên Thế giới 5 2.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 9 2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu 15 2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu 15 2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu 16 PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 18 3.1. Đối tượng, phạm vi thời gian và địa điểm nghiên cứu 18 3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 18 3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 18
  9. vii 3.2. Nội dung nghiên cứu 18 3.3. Phương pháp nghiên cứu 19 3.3.1. Phương pháp kế thừa 19 3.3.2. Phương pháp điều tra cộng đồng 19 3.3.3. Phương pháp thu thập mẫu 21 3.3.4. Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc 21 3.3.5. Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp 22 3.3.6. Phương pháp nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn 22 PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 24 4.1. Đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng 24 4.1.1 Đa dạng về các bậc Taxon 24 4.1.2. Đa dạng về dạng sống của nguồn tài nguyên cây thuốc 28 4.1.3. Đa dạng về nơi sống của nguồn tài nguyên cây thuốc 30 4.2. Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được ở khu vực nghiên cứu. 32 4.3. Vốn tri thức trong việc sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng 34 4.3.1. Kinh nghiệm sử dụng bộ phận làm thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Vân Trình. 34 4.3.2. Kinh nghiệm về nhóm bệnh chữa trị của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Vân Trình. 36 4.3.3. Ảnh hưởng của sự giao thoa giữa các dân tộc đến vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc 39 4.3.4. Vấn đề truyền thụ kiến thức về cây thuốc trong cộng đồng các dân tộc ở xã Vân Trình 41
  10. viii 4.4. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu 43 PHẦN 5: KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ 46 5.1. Kết luận 46 5.2. Kiến nghị 47 TÀI LIỆU THAM KHẢO 48
  11. 1 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1 Đặt vấn đề Việt Nam là một quốc gia có 3/4 diện tích đồi núi, là nơi có nguồn tài nguyên cây thuốc đa dạng và là nơi cư trú của 54 dân tộc mà phần lớn là dân tộc thiểu số với khoảng 24 triệu người, chiếm hơn 1/3 dân số quốc gia (Trần Thúy và cs., 2005)[35]. Chính sự đa dạng về dân tộc người cùng với sự khác biệt về điều kiện, thổ nhưỡng, khí hậu, phong tục tập quán, văn hóa từng cộng đồng dân tộc thiểu số đã tạo nên sự đa dạng và phong phú trong vốn tri thức dân gian về kinh nghiệm sử dụng cây cỏ xung quanh mình làm cây thuốc chữa bệnh. Đối với mỗi dân tộc đều có những kinh nghiệm dân gian, những tri thức về thuốc được truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cùng với thời gian những bài thuốc ngày càng trở nên có tính độc đáo và thông dụng trong việc chăm sóc sức khỏe cho người dân và cộng đồng xung quanh. Trong tri thức chăm sóc sức khỏe dân gian, các tộc người phần lớn sử dụng các loại cây cỏ có trong địa bàn cư trú của mình, trở thành cây thuốc để chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe. Cây cỏ là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài dưới tác động của tự nhiên, còn tri thức là kết quả từ quá trình đấu tranh sinh tồn của con người được đúc kết bằng kinh nghiệm, tích lũy và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Đặc biệt những tri thức bản địa về chăm sóc sức khỏe, là những tri thức luôn cần thiết cho sự sinh tồn không chỉ của một tộc người mà của cả nhân loại. Do đó, việc phục dựng và bảo tồn những tri thức bản địa về chăm sóc sức khỏe có cả giá trị trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa tộc người mà còn có giá trị thiết thực trong đời sống (Nguyễn Thị Thanh Vân, 2015) [42]
  12. 2 Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, quá trình đô thị hóa Hiện nay nhiều loài cây thuốc có giá trị quý đang có nguy cơ bị tàn phá đến tuyệt chủng, lạm dụng khai thác quá mức. Cùng với đó, những bài thuốc và những kinh nghiệm quý bấu của cộng đồng dân tộc cũng ngày càng bị mai một đi. Đặc biệt hơn, những thế hệ trẻ ít tiếp thu những kiến thức mang tính bản địa mà lại thích học theo những cái hiện đại, cái mới khiến cho những bài thuốc và cây thuốc quý bị lãng quên đi. Huyện Thạch An có diện tích tự nhiên là 690,79km² là một trong những huyện có nguồn tài nguyên khá là phong phú và đa dạng, đặc biệt là nguồn tài nguyên rừng và đất rừng chiếm 90% diện tích đất canh tác của huyện. Huyện Thạch An có 16 đơn vị hành chính, bao gồm 01 thị trấn và 15 xã. Đồng bào dân tộc ở nơi đây chủ yếu là Tày, Nùng, Mông, Dao, Kinh, Hoa. Mỗi dân tộc lại mang bản sắc và những kinh nghiệm chữa bệnh bằng thực vật làm thuốc khác nhau và đa dạng. Trong đó, xã Vân Trình là một trong 15 xã có nhiều cộng đồng dân tộc có nhiều kinh nghiệm trong việc điều trị bệnh bằng thực vật làm thuốc. Đồng thời tại xã Vân Trình hiện chưa có một công trình nghiên cứu nào về tri thức bản địa sử dụng cây thuốc. Do vậy, để góp phần bảo tồn, phát triển và giữ gìn những kinh nghiệm quý của bà con nơi đây và tránh khai thác nguồn tài nguyên cây thuốc một cách bừa bãi, và đồng thời để cung cấp cơ sở khoa học góp phần bảo vệ nguồn gen cây thuốc và phát triển các bài thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, tôi tiến hành lựa chọn đề tài “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng”. 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài - Đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong các cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng.
  13. 3 - Xác định những cây thuốc thuộc diện quý hiếm ở Việt Nam, hiện có ở khu vực nghiên cứu. - Xác định vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc của các cộng đồng dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu. 1.3. Ý nghĩa của đề tài 1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học - Xác định tri thức bản địa sử dụng các loài cây thuốc của các cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng. 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn - Kết quả thu được sẽ là cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất công tác bảo tồn và phát triển nguồn gen cây thuốc của các cộng đồng dân tộc tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng.
  14. 4 PHẦN 2 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu Rất nhiều dân tộc trên thế giới, nhất là những nước nghèo, dựa vào những loại cây thu hái hoang dại để làm thức ăn, vật liệu xây dựng, chất đốt, thuốc chữa bệnh và cho nhiều mục đích khác. Đặc biệt hiện nay, tri thức bản địa về cách dùng thuốc đã và đang phát triển ở một số nước trên thế giới. Tại Việt Nam, nguồn tài nguyên thực vật đang đứng trước nguy cơ bị mai một, do tác động của nhiều nguyên nhân như: tăng dân số, hậu quả của việc tranh nhau các hình thức sử dụng đất để canh tác, xây dựng, khai thác, tàn phá một cách vô ý thức. Bên cạnh đó, do nhiều nguyên nhân, kho tàng tri thức dân gian quý báu của các dân tộc thiểu số đang bị mai một dần, đặc biệt là tri thức y học bản địa (Nguyễn Thị Thanh Vân, 2005) [41]. Việt Nam là quốc gia có nhiều loại dược liệu quý, hiếm và vốn tri thức y học truyền thống dân tộc với nhiều bài thuốc có giá trị, thực sự là một kho tàng vô giá để tạo ra các sản phẩm thuốc, dược liệu để phát triển nền y dược cổ truyền (Hải Yến, 2019) [65]. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), có đến 80% dân số ở các nước đang phát triển vẫn dựa vào thuốc thảo dược để chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Còn tại Việt Nam, theo báo cáo của Cục Quản lý Dược-Bộ Y tế, mỗi năm nước ta tiêu thụ khoảng 50-60 nghìn tấn các loại dược liệu khác nhau, sử dụng vào việc chế biến vị thuốc y học cổ truyền, nguyên liệu ngành công nghiệp dược hoặc xuất khẩu (Phùng Tuấn Giang, 2016) [64]. Việc bảo tồn cây thuốc dân tộc khác với việc bảo tồn các loại cây khác, vì nó gắn liền với tri thức sử dụng của dân tộc thiểu số, nếu yếu tố tri thức mất đi thì cây thuốc trở thành cây hoang dại, phi tác dụng (Nguyễn Thị Thanh Vân, 2005) [41]. Vì
  15. 5 vậy, nghiên cứu về các loài cây thuốc là hết sức cần thiết cho việc bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc và bài thuốc cho thế hệ hôm nay và mai sau. 2.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trong nước và trên Thế giới 2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên Thế giới Trong những năm gần đây, những nghiên cứu về sử dụng cây thuốc cho mục đích chữa bệnh của người dân bản địa ở các khu vực, các quốc gia được các nhà khoa học thực hiện trên khắp các châu lục trên Thế giới: Ở Châu Á: Có thể nói đây là châu lục có nhiều dân tộc bản địa sinh sống, với vốn tri thức bản địa về việc sử dụng các loài thực vật làm thuốc phong phú và đa dạng, đã có những nghiên cứu cụ thể ở các cộng đồng người, các khu vực khác nhau như: Manju Panghal và cs. (2010) công trình nghiên cứu kiến thức bản địa về cây thuốc được sử dụng ở cộng đồng Saperas của làng Khetawas, quận Jhajjar, Haryana, Ấn Độ đã tìm thấy 57 loài thực vật thuộc 51 chi và 35 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau, theo nghiên cứu này cây thuốc được cộng đồng Saperas sử dụng nhiều nhất là các cây thuộc họ Fabaceae [54]. Arshad Abbasi và cs. (2013) khi thẩm định về thực vật học và các giá trị văn hóa của các loại rau ăn được hoang dã quan trọng trong y học của Lesser dãy Hymalaya đã ghi nhận 45 loại rau ăn được hoang dã thuộc 38 chi và 24 họ đã được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau và tiêu thụ [44]. Mi-Jang Song và cs. (2013) khảo sát cây thuốc ở đảo Jeju, Hàn Quốc đã tìm thấy 171 loài thực vật thuộc 141 chi và 68 họ, 777 cách sử dụng các loài cây thuốc của người dân bản địa được ghi lại [57]. Auemporn Junsongduang và cs. (2013) nghiên cứu về cây thuốc từ nương rẫy và rừng thiêng của dân tộc Karen và Lawa ở Thái Lan đã chỉ ra
  16. 6 365 loài thực vật thuộc 244 chi và 82 họ được sử dụng làm thuốc, trong đó các cây thuộc họ Euphorbiaceae và Lauraceae được người dân sử dụng nhiều nhất [45]. Mi-Jang Song và cs. (2014) khi điều tra và phân tích các kiến thức truyền thống về cây thuốc được sử dụng bởi các cư dân tại Vườn quốc gia (VQG) Gayasan, Hàn Quốc đã điều tra và thống kê 200 loài thực vật thuộc 168 chi và 87 họ được các cư dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau như: rối loạn cơ xương, đau nhức, rối loạn hệ hô hấp, bệnh gan và các vết cắt vết thương [58]. Ở Châu Âu: Đây là một Châu lục có lịch sử y học dân gian lâu dài, những tri thức dân gian bản địa được truyền lại cho các thế hệ sau bằng việc ghi chép lại và thông qua truyền miệng qua nhiều thế kỉ (Cassandra L. Quave và cs., 2012) [48]. Những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về việc sử dụng các loài thực vật để điều trị các loại bệnh của người dân bản địa được thực hiện: Maria Leporatti và cs. (2007) thực hiện nghiên cứu về một số công dụng của cây thuốc trong khu vực Alto Tirreno Cosentino, Calabria, miền Nam nước Ý đã chỉ ra 52 loài thực vật thuộc 35 họ được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh chủ yếu như: bệnh ngoài da, bệnh về đường hô hấp, đau răng, sâu răng và đau thấp khớp [55]. Montse Parada và cs. (2009) nghiên cứu thực vật dân tộc của khu vực Alt Empordaf, Catalonia, bán đảo Iberia đã tìm thấy trên 518 loài thực vật thuộc 335 chi và 80 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau [59]. Behxhet Mustafa và cs. (2012) nghiên cứu về các loài thực vật được sử dụng làm thuốc của dãy núi Alps Albania ở Kosovo đã ghi nhận 98 loài thực vật thuộc 39 họ được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau, trong
  17. 7 đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu thuộc các họ Rosaceae, Asteraceae và Lamiaceae [46]. Ở Châu Mĩ: Việc nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc của người dân bản địa cũng được thực hiện: Rainer W Bussmann và Douglas Sharon (2006) kết quả nghiên cứu về sử dụng cây thuốc cổ truyền ở miền Bắc Peru đã ghi nhận 510 loài thực vật được người dân địa phương sử dụng để điều trị bệnh, các cây thuộc các họ được sử dụng nhiều nhất là: Asteraceae, Fabaceae, Lamiaceae, Solanaceae, Euphorbiaceae và Poaceae [60]. Cecilia Almeida và cs. (2006) nghiên cứu cây thuốc phổ biến được sử dụng trong các khu vực Xingo – một khu vực khô hạn ở Đông Bắc Brazil đã tìm thấy 187 loài thực vật thuộc 128 chi và 64 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh: cảm lạnh thông thường, viêm phế quản, bệnh tim mạch, bệnh thận, viêm và an thần [49]. Gabriele Volpato và cs. (2009) kết quả nghiên cứu sử dụng cây thuốc của người nhập cư Haiti và con cháu của họ ở tỉnh Camaguey, Cuba đã chỉ ra 123 loài thực vật thuộc 112 chi và 63 họ được người nhập cư Haiti sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau [51]. Gaia Luziatelli và cs. (2010) khi nghiên cứu cây thuốc của cộng đồng Ashaninka, một nghiên cứu từ các cộng đồng bản địa của Bajo Quimiriki, Junin, Peru đã tìm thấy 402 loài thực vật được cộng đồng sử dụng để điều trị các loại bệnh, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu thuộc các họ: Asteraceae, Araceae, Rubiaceae, Euphorbiaceae, Solanaceae và Piperaceae [52]. Yadav Uprety và cs. (2012) nghiên cứu sử dụng cây thuốc trong rừng phương Bắc của Canada đã điều tra và thống kê 546 loài cây thuốc được sử dụng bởi những người thổ dân của rừng phương bắc Canada, các loại cây thuốc này được sử dụng để điều trị 28 bệnh và triệu chứng rối loạn khác nhau,
  18. 8 trong đó các cây thuốc được sử dụng để chữa bệnh rối loạn dạ dày – ruột, rối loạn cơ xương là chủ yếu [63]. Theo nghiên cứu “Thực vật dân tộc của người dân Rayones, Nuevo León, Mexico” năm 2014, đã ghi nhận 252 loài thực vật thuộc 228 chi và 91 họ được người dân Rayones sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó các họ được sử dụng chủ yếu là: Asteraceae và Fabaceae (Eduardo Estrada-Castillón và cs., 2014) [50]. Nghiên cứu “Cây thuốc trong bối cảnh văn hóa của một cộng đồng Mapuche – Tehuelche trong thảo nguyên Datagonia Argentina” đã chỉ ra 121 loài thực vật được cộng đồng sử dụng để điều trị các bệnh liên quan đến tiêu hóa, hô hấp, tim mạch, giảm đau, chống viêm, sản khoa, phụ khoa và sinh dục (Soledad Molares và Ana Ladio, 2014) [61]. Ở Châu Phi: Đây là khu vực mà từ lâu nay người dân đã biết sử dụng cây thuốc bản địa hàng nghìn năm nay để bảo vệ sức khỏe của họ, những nghiên cứu gần đây cho thấy việc sử dụng cây thuốc của những người dân bản địa ở châu Phi rất đa dạng và phong phú: Tilahun Teklehaymanot và Mirutse Giday (2007) nghiên cứu về thực vật học của cây thuốc được sử dụng bởi người dân ở Zegie Peninsula, Tây Bắc Ethiopia đã ghi nhận 67 loài cây thuốc thuộc 64 chi và 42 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh liên quan đến rối loạn tiên hóa, kí sinh trùng và nhiễm trùng [62]. “Nghiên cứu về thực vật học và kiến thức bản địa về sử dụng cây thuốc của các thầy lang trong khu vực Oshikoto, Namibia”, đã tìm thấy 61 loài cây thuốc thuộc 25 họ được các thầy lang trong khu vực sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau như: Tâm thần, nhiễm trùng da, vết thương ngoài da, rắn cắn và các vấn đề tim mạch (Ahmad Cheikhyoussef và cs., 2011) [43].
  19. 9 Nghiên cứu “cây thuốc được sử dụng bởi phụ nữ từ rừng ven biển Agnalazaha Đông Nam Madagascar”, đã thống kê được 152 loài cây thuốc được sử dụng bởi người dân địa phương để điều trị các bệnh, trong đó ghi nhận 8 loài được sử dụng bởi những người phụ nữ để điều trị các biến chứng trong khi sinh, các bệnh nhiệt đới như: sốt rét, giun chỉ và các bệnh liên quan đến tình dục như bệnh lậu và giang mai (Mendrika Razafindraibe và cs., 2013) [56]. Nghiên cứu về “sử dụng và quản lý cây thuốc truyền thống của cộng đồng dân tộc Maale và Ari, ở miền nam Ethiopia”, đã ghi nhận 128 loài cây thuốc thuộc 111 chi và 49 họ được cộng đồng người Maale và Ari sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau (Berhane Kidane và cs., 2014) [47]. Ở Châu Úc: Những nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc bản địa được thực hiện ở châu Úc còn rất ít. Một nghiên cứu về các loài cây thuốc được sử dụng bởi cộng đồng thổ dân Yaegl ở miền Bắc New South Wales, Australia, đã ghi nhận 32 loài cây thuốc thuộc 21 họ được thổ dân Yaegl sử dụng để điều trị các bệnh (Joanne Packera và cs., 2012) [53]. Như vậy, việc điều tra và thống kê các loài cây thuốc đã để lại những công trình mang tính khoa học, tính dân tộc sâu sắc, cho thấy vốn tri thức dân gian bản địa về sử dụng cây thuốc trên thế giới là vô cùng đa dạng và phong phú. 2.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam Ở Việt Nam tập quán sử dụng cây thuốc đã có từ lâu đời, có thể nói nó xuất hiện từ buổi đầu sơ khai, khi con người còn sống theo lối nguyên thủy. Trong quá trình tìm kiếm thức ăn, tổ tiên chúng ta đã ngẫu nhiên phát hiện ra công dụng của nhiều loại cây. Suốt một thời gian dài như vậy tổ tiên chúng ta đã dần dần tích lũy được nhiều kinh nghiệm, biết lợi dụng tính chất của cây rừng để làm thức ăn và làm thuốc chữa bệnh. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu về tài nguyên cây thuốc Việt Nam. Năm 1976, để phục vụ
  20. 10 cho công tác giảng dạy và nghiên cứu cây thuốc, dược sĩ Vũ Văn Chuyên đã cho ra đời cuốn sách “Tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốc” (Vũ Văn Chuyên, 1967) [11]. Năm 1980, Đỗ Huy Bích và Bùi Xuân Chương đã giới thiệu “Sổ tay cây thuốc Việt Nam” giới thiệu 519 loài cây thuốc, trong đó có 150 loài mới được phát hiện (Đỗ Huy Bích và Bùi Xuân Chương, 1980) [1]. Viện dược liệu đã cho xuất bản cuốn “Dược điển Việt Nam” tập I, II đã tổng kết các công trình nghiên cứu về cây thuốc trong nhiều năm, cuốn “Danh lục cây thuốc miền Bắc Việt Nam”; “Danh lục cây thuốc Việt Nam”; “Atlas – Bản đồ cây thuốc”, đã thống kê và công bố một danh sách về cây thuốc từ năm 1961 – 1972 ở miền Bắc là 1.114 loài, từ năm 1977 – 1985 ở miền Nam là 1.119 loài (Dẫn theo Viện Dược Liệu, 1993) [40]. Viện Dược liệu (1993) [40], trong quá trình thu thập và nghiên cứu về cây thuốc cho thấy, các cây thuốc hiện nay ở Việt Nam biết đến chủ yếu được sử dụng theo kinh nghiệm dân gian và trong số trên 2000 loài và dưới loài cây thuốc có tới gần 90% cây thuốc là các cây mọc tự nhiên và được phân bố chủ yếu trong các quần thể rừng với trữ lượng lớn, khoảng 10% là cây thuốc được đem về trồng ngay tại nhà. Trong những năm này, nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã được xuất bản thành các tập sách như: “Tài Nguyên cây thuốc Việt Nam” (1993) của Viện Dược liệu, với khoảng 300 loài cây thuốc (Dẫn theo Viện Dược Liệu, 1993) [40]. Công trình “1900 loài cây có ích” của Trần Đình Lý (1995) [25], đã thống kê ở Việt Nam có khoảng 76 loài cho nhựa thơm, 260 loài cho dầu béo, 160 loài có tinh dầu, 40 loài tre nứa, 40 loài song mây. Lương y lão thành, thầy thuốc ưu tú Lê Trần Đức với công trình “Cây thuốc Việt Nam” (1995) đã giới thiệu hơn 830 loài cây thuốc chính, phụ (Lê Trần Đức,1997) [14].
  21. 11 Võ Văn Chi là một nhà thực vật lớn của Việt Nam, đã đóng góp rất nhiều trong quá trình nghiên cứu về các loài thực vật ở Việt Nam và ông đã biên soạn cuốn “Từ điển cây thuốc Việt Nam”, trong đó ông mô tả rất tỷ mỷ về các cây được sử dụng làm thuốc ở Việt Nam bao gồm 3.200 cây (1996) (Võ Văn Chi, 1996) [8]. Ngoài ra, cuốn “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” tập I, II đề cập đến rất nhiều cây cỏ có ích như làm gỗ, làm lương thực, làm thuốc (Võ Văn Chi, 2012) [9]. Trong những năm từ 2000 đến nay, đã có nhiều cuốn sách và các tài liệu về cây thuốc được xuất bản nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều người quan tâm tới cây thuốc trên khắp đất nước Việt Nam như: “577 bài thuốc dân gian gia truyền” (Âu Anh Khâm, 2001) [21]; “Thuốc Nam, thuốc Bắc và các phương thang chữa bệnh” (Tào Duy Cần, 2001) [4] và cuốn “Thuốc bệnh 24 chuyên khoa” (Tào Duy Cần, 2006) [5]. “Nghiên cứu cây thuốc từ thảo dược” (Nguyễn Thượng Dong, 2006) [13]; “Cây có vị thuốc ở Việt Nam” do Phạm Hoàng Hộ nghiên cứu và tập hợp (Phạm Hoàng Hộ, 2006) [17]; “Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược” của Phạm Thiệp và cs. (2000) [33] đề cập tới 327 cây thuốc phổ biến, Đồng thời, có nhiều công trình nghiên cứu về cây thuốc trên cả nước công bố trên các tạp chí về cây thuốc như: Đặng Quang Châu đã công bố một số dẫn liệu về cây thuốc của dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn (Nghệ An) gồm 177 loài, thuộc 149 chi, thuộc 71 họ khác nhau (Đặng Quang Châu, 2011) [6]. Đặng Quang Châu, Bùi Hồng Hải khi điều tra các loài cây của dân tộc Thái ở huyện Quỳ Châu (Nghệ An) đã thu được 93 loài thuộc 7 chi, 42 họ (Đặng Quang Châu và Bùi Hồng Hải, 2003) [7]. Các tác giả đã phân loại cây được sử dụng theo các nhóm bệnh: bệnh ngoài da, bệnh về đường tiêu hóa, bệnh về gan, bệnh về xương Lưu Đàm Cư, Hà Tuấn Anh, Trương Anh Thư khi điều tra các loài cây có ích của dân tộc H’mông ở vùng núi cao phía Bắc đã phân loại được 4 nhóm theo công dụng: cây
  22. 12 lương thực – thực phẩm, cây làm thuốc, cây có độc, cây để nhuộm màu, cây ăn quả. Trong nhóm này cây làm thuốc,các tác giả đã thống kê được 657 loài thuộc 118 họ mà người H’mông sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người và gia súc (Lưu Đàm Cư và cs., 2004) [12]. Nguyễn Thị Thủy và Phạm Văn Thỉnh (2004) [36] đã xây dựng các mô hình vườn bảo tồn cây thuốc ở vùng cao Sa Pa, như vườn rừng, trang trại, vườn các hộ gia đình. Bước đầu đã bảo tồn được 52 loài cây thuốc thuộc 28 họ, trong đó có nhiều loài đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Điều tra các loài cây thuốc và giá trị sử dụng của chúng ở một số xã thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp” của tác giả Võ Thị Phượng và Ngô Trực Nhã (2011) [27] đã điều tra và thống kê 232 loài cây được sử dụng làm thuốc thuộc 186 chi, 90 họ tại các xã của huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Kết quả nghiên cứu về đa dạng tài nguyên cây thuốc của người Hmong huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái của Hờ A Bình đã xác định được 86 loài cây thực vật làm thuốc và xác định tương đối về tên địa phương, tên phổ thông, tên khoa học, gồm 53 họ thực vật và 3 ngành thực vật đó là: Ngành Ngọc lan (Magnoliophyta), ngành Dương xỉ (Pteridophyta) và ngành Dây gắm (Gnetophyta) (Hờ A Bình, 2019) [2]. Nông Thái Hòa (2018) [19] khi nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên xác định được 137 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc ngành Ngọc lan thuộc 129 chi và 72 họ có công dụng làm thuốc. Số họ thực vật làm thuốc là 72 họ, Trong đó, họ nhiều loài nhất là họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) với 10 loài; họ Cúc (Asteraceae) và họ Hòa thảo (Poaceae) với 7 loài. Trong 129 chi, có tới 13 chi có 2 loài được sử dụng làm thuốc. Nguyễn Minh Hiếu (2019) [16] kết quả nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Nặm Pung, Bát Xát, tỉnh Lào Cai của đồng bào dân tộc Dao đã ghi nhận được 75 loài thực vật thuộc 3 ngành: Ngành Ngọc lan
  23. 13 (Magnoliophyta), ngành Dương xỉ (Pteridophyta) và ngành Thạch tùng (Lycopodiophyta) được đồng bào dân tộc Dao ở đây sử dụng lamg thuốc thuộc 73 chi và 42 họ. Nông Thu Hằng (2019) [15] công trình nghiên cứu kiến thức bản địa về khai thác và sử dụng một số cây dược liệu (lâm sản ngoài gỗ) tại vườn quốc gia Phia Oắc-Phia Đén, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng đã thống kê được 70 loài cây thuốc trong tổng số 42 loài, đã xác định được tên địa phương, tên phổ thông và tên khoa học của các loài thực vật. Hoàng Thị Thanh (2019) [32] thực hiện nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai của đồng bào dân tộc Hà Nhì đã ghi nhận được 102 loài thực vật bậc cao được cộng đồng Hà Nhì sử dụng làm thuốc thuộc 90 chi, 52 họ. Kết quả nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của cộng đông dân tộc Hmông tại xã Trung Lèng Hồ, huyên Bát Xát, tỉnh Lào Cai đã nghiên cứu tim ra được 90 loài thực vật bậc cao có mạch được cộng đồng Hmong sử dụng làm thuốc thuộc 81 chi, 53 họ (Vàng Văn Trung, 2019) [37]. Quàng Văn Kiêm (2019) [22] kết quả nghiên cứu về tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Kim Đồng, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng đã xác định được 102 loài thực vật bậc cao có mạch được cộng đồng dân tộc Nùng và Tày sử dụng làm thuốc thuộc 94 chi, 57 họ. Một nghiên cứu về cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên đã thu được 149 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc ngành Thông có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ, thuộc ngành Dương xỉ có 3 loài thuộc 3 chi và 3 họ, thuộc ngành Mộc lan có 145 loài thuộc 133 chi và 70 họ có công dụng làm thuốc (Dương Văn Hưng, 2018) [20]
  24. 14 Cùng với một nghiên cứu khác về cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Yên Lạc, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên của Vàng A Lả cũng đã xác định được 183 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc ngành Dương xỉ có 2 loài thuộc 2 họ và 2 chi. Thuộc ngành Nấm có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ, Thuộc ngành Mộc Lan có 180 loài thuộc 156 chi và 87 họ có công dụng làm thuốc chữa bệnh (Vàng A Lả, 2018) [23] Lục Thanh Sắc (2018) [29] khi nghiên cứu về tri thức bản địa trong sử dụng, bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Hà Lang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang đã thống kê được 85 loài cây thực vật làm thuốc tại cộng đồng dân tộc Dao và đã xác định được tương đối về tên địa phương, tên phổ thông, tên khoa học. Ngoài ra, Tác giả còn phát hiện ra 22 bài thuốc trong tổng số hơn 57 loài cây được sử dụng trong bài thuốc, xác định được bộ phận cây thuốc mà người dân thường dùng và cách pha chế của mỗi bài thuốc. Lương Minh Ngọc (2018) [26] công trình đã nghiên cứu tính đa dạng nguồn cây thuốc được sử dụng trong đồng bào dân tộc Bru – Vân Kiều ở xã Thượng Trạch, huyện Bổ Trạch, tỉnh Quàng Bình đã phát hiện được 52 loài cây thực vật được dùng làm thuốc, thuộc 60 chi và 41 họ. Với kết quả nghiên cứu tính đa dạng nguồn cây thuốc được sử dụng trong một số dân tộc thiểu số tại xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên của Lò Thị Quý đã ghi nhận được 80 loài thực vật bậc cao thuộc 73 chi và 47 họ, được cộng đồng dân tộc sử dụng làm thuốc (Lò Thị Quý, 2018) [28] Như vậy, việc điều tra và thống kê các loài cây thuốc, các bài thuốc không những mang lại những giá trị khoa học, giá trị thực tiễn sâu sắc mà còn đóng góp và công tác bảo tồn nguồn dược liệu nước nhà, bảo tồn những bài thuốc hay. Nhằm góp phần, bảo tồn bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
  25. 15 2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu 2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu * Vị trí địa lý * Vị trí địa lý Xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng nằm ở phía Bắc của huyện Thạch An, cách trung tâm huyện khoảng 2 km, địa giới hành chính xã được xác định như sau: + Phía Đông giáp xã Thụy Hùng + Phía Tây giáp xã Thái Cường + Phía Nam giáp xã Lê Lai + Phía Bắc giáp huyện Hòa An và huyện Quảng Hòa. - Diện tích tự nhiên: 3238,51 ha Hệ thống giao thông: Xã Vân Trình có vị trí rất thuận lợi, có tuyến đường quốc lộ 4A mới chạy qua, và tỉnh lộ 208 nối huyện Thạch An với huyện Phục Hòa, đường tỉnh lộ 209 nối huyện Thạch An với Cửa Khẩu xã Đức Long. Giao thông đi lại với các xã lân cận thuận lợi, tạo điều kiện rất lớn trong việc giao lưu thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, học hỏi tiếp thu các ứng dụng khoa học kỹ thuật phục vụ cho sản xuất, đời sống nhân dân. * Điều kiện địa hình, địa mạo Địa hình xã Vân Trình khá phức tạp bị chia cắt bởi những dãy núi đá vôi và núi đất nằm rải rác và xen kẽ lẫn nhau nằm ở giữa các núi đá vôi và núi đất là thung lũng đất đai ở đây phù hợp cho sản xuất nông nghiệp. Do địa hình của xã không bằng phẳng nên việc bố trí sản xuất, tưới tiêu, giao thông gặp rất nhiều khó khăn. * Địa chất, thổ những Theo báo cáo thống kê đất đai tính đến ngày 31/12/2019 của UBND xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng [39] đã thống kê được như sau:
  26. 16 Tổng diện tích tự nhiên: 3238,51 ha Diện tích đất nông nghiệp: 2913,3757ha Diện tích đất phi nông nghiệp: 207,4943ha Diện tích đất chưa sử dụng: 117,64ha * Đặc điểm khí hậu Xã Vân Trình có điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa: Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa: nóng ẩm mưa nhiều, chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa, Thời tiết trong năm chia thành hai mùa (mùa mưa và mùa khô) rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, thời tiết nóng ẩm, lượng mưa khá lớn (chiếm 80% lượng mưa cả năm). Cá biệt có những trận mưa rào có cường độ lớn kèm theo gió bão từ 2 đến 4 ngày; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa ít, có thời kỳ hanh khô kéo dài từ 15 đến 25 ngày, nhiều diện tích canh tác, ao, hồ bị khô cạn. Nhiệt độ trung bình năm 23,40 C, (tháng 7 cao nhất là 28,90 C, tháng 01 thấp nhất là 15,80 C), sự chênh lệch giữa tháng cao nhất và tháng thấp nhất là 13,10C. Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1.530 – 1.776 giờ, trong tháng có nhiều giờ nắng trong năm là tháng 7, tháng có ít giờ nắng trong năm là tháng 1. Lượng mưa dao động từ 1400 – 1500 mm/năm. Mưa tập trung chủ yếu vào các tháng 6, 7, 8. Lượng mưa lớn nhất lên tới 2.000 mm. Do mưa Lớn tập trung nên có năm có hiện tượng ngập úng, kéo dài. 2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu Xã Vân Trình có 14 xóm với tổng số hộ là 759 hộ, tổng số nhân khẩu là 2515 người, nhân khẩu lao động là 1.322 người (lao động nam là 793, nữ là 529) trong đó lao động nông nghiệp có 1.256 người chiếm 95% tổng lao động toàn xã. Tỷ lệ tăng dân số trung bình là 1%.
  27. 17 Lao động đã qua đào tạo 238 người (chiếm 18% tổng số lao động), trong đó lao động nông nghiệp là 1071 người chiếm 81%, lao động phi nông nghiệp là 26 người (chiếm 0,02%). Trên địa bàn xã chủ yếu có 4 dân tộc anh em sinh sống trong đó là: Kinh có 22 người (chiếm 0,76%), Nùng có 1443 người (chiếm 49,66%), Tày với 1347 người (chiếm 46,35%), Dao với 94 người (chiếm 3%)
  28. 18 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng, phạm vi thời gian và địa điểm nghiên cứu 3.1.1. Đối tượng nghiên cứu Các loài thực vật được được các cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Vân Trình sử dụng làm chuốc chữa bệnh; kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng. 3.1.2. Phạm vi nghiên cứu - Địa điểm nghiên cứu: Công tác điều tra thực địa được tiến hành tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng. - Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1 đến tháng 5/2020 - Nghiên cứu tri thức về kinh nghiệm sử dụng sử dụng cây thuốc của các cộng đồng dân tộc: Nùng, Tày và Dao. 3.2. Nội dung nghiên cứu * Đánh giá đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong các cộng đồng dân tộc tại xã Vân Trình, huyện Thạch an, tỉnh Cao Bằng: - Đánh giá đa dạng các bậc taxon của nguồn tài nguyên cây thuốc: đa dạng bậc họ; đa dạng bậc chi. - Đánh giá đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc. - Đánh giá về môi trường sống của thực vật làm thuốc. * Xác định những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn: Đánh giá ở mức độ quý hiếm của các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu. * Vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc của các cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng. - Kinh nghiệm sử dụng bộ phận làm thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Vân Trình.
  29. 19 - Kinh nghiệm về nhóm bệnh chữa trị của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Vân Trình. - Ảnh hưởng của sự giao thoa giữa các dân tộc đến vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc. - Vấn đề truyền thụ kiến thức về cây thuốc trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Vân Trình. * Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá trị cao được các cộng đồng dân tộc thiểu số sử dụng tại xã Vân Trình. 3.3. Phương pháp nghiên cứu Đề tài thực hiện tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng. Để đạt được các kết quả gắn với các nội dung nghiên cứu trên, cách thức và giải pháp thực hiện ý tưởng bao gồm như sau: 3.3.1. Phương pháp kế thừa - Kế thừa những những tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ở khu vực nghiên cứu và các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. - Kế thừa kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các ông lang, bà mế người dân tộc ở khu vực nghiên cứu. 3.3.2. Phương pháp điều tra cộng đồng - Điều tra phỏng vấn thu thập cây thuốc: Tại khu vực nghiên cứu, phỏng vấn các ông lang, bà mế, người dân có kinh nghiệm sử dụng cây thuốc và sử dụng các bài thuốc gia truyền của các cộng đồng dân tộc tại địa bàn nghiên cứu. Mẫu phiếu điều tra dựa theo: phiếu điều tra cây thuốc trong cộng đồng và phiếu điều tra bài thuốc gian dân (Viện Dược liệu, 1993) [40]. Thu thập đầy đủ các thông tin cây thuốc gồm: Tên phổ thông, tên địa phương; số hiệu mẫu/ảnh cây thuốc; dạng sống; môi trường sống; bộ phận sử dụng làm thuốc (thân, rễ, hoa, quả, hạt, nhựa, vỏ); công dụng. Đồng thời ghi
  30. 20 chép những đặc điểm dễ nhận biết của cây ngoài thiên nhiên, ghi rõ thời gian, địa điểm và người thu thập thông tin. - Định danh tên cây: định danh loài cây theo các bước: (i) định danh tại thực địa; (ii) sử dụng kiến thức kinh nghiệm của các chuyên gia và nguồn tài liệu tin cậy đã công bố giám định lại. + Bước 1: xác định sơ bộ tên địa phương, tên thường gọi được thực hiện ngay ở lần điều tra đầu tiên. Đối với những loài chưa chắc chắn thì chú thích để kiểm định lại ở bước sau. Các loài không biết tên cần phải lấy mẫu (lá, hoa, quả ) và ghi vào biểu điều tra bằng ký hiệu sp1, sp2 để giám định. + Bước 2: tất cả các cây được thẩm định lại tên cây, lập danh mục cây thuốc bằng sử dụng kiến thức kinh nghiệm của các chuyên gia về thực vật và nguồn tài liệu tin cậy đã công bố gồm: Cây cỏ Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ, 2000) [18], Từ điển Cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi, 2012) [8], Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (Đỗ Tất Lợi, 2005) [24], Danh lục các loài thực vật Việt Nam (Trung tâm NCTN&MT – Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện ST&TNSV, 2006) [38]. Danh sách tên cây thuốc sẽ được hoàn thiện ở bước này. Bảng 3.1. Mẫu bảng điều tra cây thuốc được các cộng đồng dân tộc ở khu vực nghiên cứu Thời gian điều tra: Người điều tra: Địa điểm điều tra: Địa chỉ điều tra: Người được phỏng vấn Số Bộ Tên Tên địa Môi Cách hiệu Dạng phận Công Họ Địa TT phổng phươn trường sử ảnh cây sử dụng tên, chỉ thông g sống dụng chụp dụng điện liên thoại hệ (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (11)
  31. 21 3.3.3. Phương pháp thu thập mẫu Đối với loài cây chưa xác định được tên ở ngoài thực địa và loài cần giám định lại tên. - Tiến hành thu mẫu ở thực địa: Mỗi cây thuốc thu từ 3 đến 10 mẫu và được gắn nhãn ghi rõ các thông tin về ký hiệu mẫu, địa điểm,thời gian và người thu mẫu (các mẫu cùng cây đánh số cùng số hiệu mẫu). - Dụng cụ thu mẫu: bản gỗ ép mẫu, túi đựng mẫu, bao tải dứa, kéo cắt cây, giấy báo , dây buộc, etyket, bút chữ A, sổ ghi chép, máy ảnh (Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997) [34]. Hình 3.1. Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài 3.3.4. Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc Đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc của các cộng đồng dân tộc ở xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, đề tài sử dụng phương pháp đánh giá của Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [34]: - Đa dạng về bậc phân loại: ngành, lớp, họ, chi, loài. - Đa dạng về dạng sống: kí sinh, dây leo, gỗ trung bình, gỗ nhỏ, thảo, bụi. - Đa dạng về môi trường sống: rừng, đồi, vườn, ven suối hoặc nơi ẩm ướt. - Đa dạng về bộ phận sử dụng làm thuốc: thân, rễ, lá, hoa, quả, hạt, nhựa, cả cây.
  32. 22 - Đa dạng về cách chế biến cây thuốc: khô và tươi. - Đa dạng về các nhóm bệnh chữa trị: bệnh về khớp, tim, dạ dày, gan, giải độc, xương, 3.3.5. Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp Đánh giá mức độ nguy cấp của các loài cây thuốc, xác định những cây thuốc thuộc diện bảo tồn ở khu vực nghiên cứu theo: Sách đỏ Việt Nam, phần thực vật rừng (Bộ KH&CN, 2007) [3], Nghị định 06/2019/NĐ-CP (Chính phủ nước Việt Nam, 2019) [10], Danh sách đỏ cây thuốc Việt Nam trong Cẩm nang cây thuốc cần được bảo vệ ở Việt Nam (Nguyễn Tập, 2007) [31]. 3.3.6. Phương pháp nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn - Bước 1: Chuẩn bị nguyên liệu Nguyên liệu lá, thân, rễ cây thuốc sau khi thu hái được rửa sạch, để ráo nước sau đó đem sấy khô ở 900C đến khối lượng không đổi. - Nguyên liệu sau khi sấy khô được nghiền trong máy xay đa năng loại nhỏ thành bột dạng mịn, bảo quản nơi khô ráo để sử dụng trong các nghiên cứu tiếp theo. - Bước 2: Tạo cao chiết Nguyên liệu được tách chiết theo phương pháp ngâm nóng. Nguyên liệu dạng bột khô được đem đi chiết với tỷ lệ 10 g/100 ml bằng dung môi methanol, sau đó cho vào máy lắc với tần số 200 vòng/phút (để các chất có hoạt tính sinh học tan đều trong dung môi) ở các điều kiện thời gian 24 giờ, sau đó tiến hành lọc qua giấy lọc, 80 ml dịch lọc được đem đi cô đặc bằng máy cô quay (hoặc sấy khô) đến khi có khối lượng khô không đổi và được bảo quản ở 40C để sử dụng trong các nghiên cứu về khả năng kháng khuẩn. - Bước 3: Chuẩn bị giống vi khuẩn Sử dụng 2 chủng vi khuẩn gồm 1 chủng gram dương là S.a (Staphylococcus aureus) và 1 chủng gram âm là E.coli (Escherichia coli), lấy từ phòng thí nghiệm Vi sinh - Trường Đại học Khoa học Thái Nguyên. Bảo
  33. 23 quản giống trên môi trường thạch nghiêng: vi sinh vật được hoạt hóa trong môi trường LB, sau đó được cấy chuyển sang môi trường thạch nghiêng, nuôi 24 giờ ở 370C, giữ trong tủ lạnh để thực hiện các nghiên cứu tiếp theo. - Bước 4: Thử khả năng kháng khuẩn Kiểm tra khả năng kháng khuẩn của cao chiết bằng phương pháp khuếch tán trên đĩa thạch, thí nhiệm được bố trí 3 lần nhắc lại trên một chủng vi khuẩn 3 đĩa petri trên 1 lần nhắc lại. Pha cao chiết của toàn thân cây thuốc với nước ở nồng độ 100 mg/ml sau đó dùng cao đã pha để thử hoạt tính kháng khuẩn. Các thao tác được thực hiện trong tủ cấy vô trùng. Khi mật độ vi khuẩn đạt đến nồng độ 106 tế bào/ml, lắc đều ống nghiệm chứa vi khuẩn. Môi trường LB đã được hóa lỏng trong lò vi sóng, khi còn lỏng đổ đều môi trường vào các đĩa Petri, sau đó để nguội để môi trường đông đặc lại tạo thành mặt phẳng. Dùng micropipet hút 100μl dịch vi khuẩn vào giữa đĩa thạch chứa môi trường LB (Thành phần của môi trường LB là như sau (g/l): Peptone - 10; Cao nấm men - 5; NaCl -10; pH: 7,0), dùng que cấy tam giác trang đều cho đến khi mặt thạch khô. Sau 15 phút đục giếng trên môi trường thạch với đường kính 6 mm, đục 2 giếng, mỗi giếng cách nhau 2 – 3 cm. Mỗi giếng thạch nhỏ 100μl dịch cao chiết cần nghiên cứu bằng micropipet, sử dụng đối chứng dương là kháng sinh Kanamycin và Akamicin với nồng độ 5mg/ml để so sánh, để các đĩa thạch trong tủ lạnh 30 phút để dịch cao chiết khuếch tán ra môi trường nuôi cấy vi khuẩn, sau đó nuôi cấy trong tủ ấm 370C, sau 24h mang ra đo kích thước vòng kháng khuẩn. Hoạt tính kháng khuẩn được xác định bằng cách đo kích thước vùng kháng khuẩn (BK) bằng công thức: BK = D - d, trong đó D là đường kính vòng kháng khuẩn, d là đường kính giếng thạch.
  34. 24 PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng 4.1.1. Đa dạng về các bậc Taxon 4.1.1.1. Đa dạng ở bậc ngành Nghiên cứu cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm của cộng đồng các dân tộc Nùng, Tày và Dao tại xã Vân Trình đã ghi nhận 82 loài thực vật thuộc ngành Ngọc lan (Magnoloiophyta) được sử dụng làm thuốc thuộc 80 chi và 63 họ. Kết quả được tổng hợp tại Bảng 4.1. Bảng 4.1. Phân bố các ngành thực vật làm thuốc ở xã Vân Trình, huyện Thạch An Số họ Số chi Số loài Stt Magnoloiophyta Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Lớp một lá mầm 1 7 11,11 8 10 9 10,98 (Liliopsida) Lớp hai lá mầm 2 56 88,89 72 90 73 89,02 (Maguoliopsida) Tổng 63 100 80 100 82 100 Kết quả cho thấy, lớp Hai lá mầm (Magnoliopsida) có số lượng loài, chi, họ được sử dụng làm thuốc chiếm ưu thế hơn với 56 họ, chiếm 88,89% số họ trong ngành Ngọc lan (Magnoliophyta); số chi là 72, chiếm 90,00%; và số loài là 73 loài chiếm 89,02%. Một số loài thuộc lớp Ngọc lan có thể kể đến như: loài Giảo cổ lam - Gynostemma pentaphyllum (Thunb.) Makino được sử dụng điều trị viên tai giữa. Lớp Một lá mầm (Liliopsida) chỉ có 9 loài (Chiếm 10,98%), 8 chi (Chiếm 10,00%) và 7 họ (Chiếm 11,11%) so với tổng số loài, chi, họ điều tra được.
  35. 25 Tỉ lệ họ giữa lớp Ngọc lan với lớp Hành là 8,00 nghĩa là trung bình cứ 8 họ thuộc lớp Hai lá mầm thì sẽ có 1 họ thuộc lớp Một lá mầm; tương tự tỉ lệ các bậc chi và bậc loài lần lượt là 9,00 và 8,11 có nghĩa là trung bình cứ 9 chi và 8 loài thuộc lớp Hai lá mầm sẽ có 1 chi và 1 loài thuộc lớp Một lá mầm. Tóm lại, các loài cây trong ngành Ngọc lan, nhất là các loài thuộc lớp Hai lá mầm (Magnoliopsida) chiếm một tỷ lệ lớn và đóng vai trò quan trọng trong các loài thực vật làm thuốc được cộng đồng các dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng và chữa trị bệnh. Dưới đây là một số hình ảnh về một số loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu: Bảy lá một hoa - Paris Ké hoa đào - Urena lobata L. chinensis Franch Khoan cân đằng- Tinospora Sa nhân - Amomum villosum Lour sinensis (Lour.) Merr Hình 4.1. Hình ảnh một số loài cây thuốc ở KVNC
  36. 26 4.1.1.2. Số lượng phân bố các loài cây trong từng họ. Số lượng họ cây thuốc thu được ở khu vực nghiên cứu bao gồm 63 họ và sự phân bố số lượng các loài cây thuốc trong các họ được thể hiện qua Bảng 4.3 như sau: Bảng 4.2. Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ 5 6 7 8 9 2 3 4 >10 Ngành thực vật 1 loài loà loà loà loà loà loài loài loài loài i i i i i Magnoloiophyta 47 13 3 0 0 0 0 0 0 0 Liliopsida 6 0 1 0 0 0 0 0 0 0 Maguoliopsida 41 13 2 0 0 0 0 0 0 0 Tổng số họ 47 13 3 0 0 0 0 0 0 0 Tỷ lệ số họ/ 74,60 20,63 4,76 0 0 0 0 0 0 0 Tổng số họ (%) Số loài 47 26 9 0 0 0 0 0 0 0 Tỷ lệ số loài/ 10,9 Tổng số loài 57,32 31,71 0 0 0 0 0 0 0 8 (%) Nguồn số liệu được tổng hợp từ bảng phụ lục 3 Từ kết quả Bảng 4.2 trên số liệu cho thấy, có 3 họ có 3 loài trong đó có 2 họ thuộc lớp Hai lá mầm đó là 2 họ Rutaceae (họ Cam) và họ Menispermaceae (họ Tiết dê), một họ thuộc lớp Một lá mầm là họ Araceae (họ Ráy) chiếm 4,76% so với tổng số họ và 10,98% so với tổng số loài. Có 13 họ có 2 loài thuộc lớp Hai lá mầm chiếm 20,63% so với tổng số họ và 31,71% so với tổng số loài. Có 47 họ có 1 loài chiếm 74,60% trên tổng số họ và 57,32% so với tổng số loài. 4.1.1.3. Các họ đa dạng nhất Kết quả đánh giá có 3 họ đa dạng nhất của nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm của cộng đồng các dân tộc thiểu số Nùng, Tày và Dao ở xã Vân Trình của huyện Thạch An được ghi nhận tại Bảng 4.3:
  37. 27 Các họ đa dạng nhất ở khu vực nghiên cứu bao gồm: họ Cam (Rutaceae) có 2 chi và 3 loài, họ Tiết dê (Menispermaceae) có 3 chi và 3 loài, họ Ráy (Araceae) có 2 chi và 3 loài. Bảng 4.3. Các họ đa dạng nhất ở khu vực nghiên cứu St Tên họ Số loài Số chi t Tên Việt Nam Tên Khoa học Số loài Tỉ lệ % Số chi Tỉ lệ % 1 Họ cam Rutaceae 3 3,66 2 2,5 Họ tiết dê Menispermacea 3 3,66 3 3,75 2 e 3 Họ ráy Araceae 3 3,66 2 2,5 3 họ đa dạng nhất (10,98%) 9 10,98 7 8,75 Tổng số được phát hiện: 82 80 Trong 3 họ giàu loài được xác định ở xã Vân Trình thì không có họ nào nằm trong 10 họ đa dạng nhất của hệ thực vật Việt Nam. Điều này cho thấy tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc tại khu vực nghiên cứu vẫn còn thấp, do vậy cần phải tiếp tục nghiên cứu tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc. Kết quả so sánh các họ giàu loài của nguồn cây thuốc tại xã Vân Trình với họ giàu loài của hệ thực vật Việt Nam (Nguyễn Nghĩa Thìn, 2005) được ghi nhận tại Bảng 4.4 như sau: Bảng 4.4. So sánh các họ giầu loài ở KVNC (1) với số loài của từng họ trong hệ thực vật Việt Nam (2) KVNC DLTV VN Tỷ lệ % giữa (1) Stt Họ nhiều loài (1) (2) và (2) 1 Rutaceae - Họ cam 3 128 2,34 3 Araceae - Họ Ráy 3 175 1,71 4 Menispermaceae - Họ tiết dê 3 52 5,77 Chú thích: (1) số loài cây thuốc của các họ trong KVNC. (2) theo Danh lục các loài thực vật Việt Nam (Trung tâm NCTN&MT – Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện ST&TNSV, 2006)
  38. 28 Từ Bảng kết quả cho thấy, có 3 họ giàu loài được cộng đồng các dân tộc Nùng, Tày và Dao tại xã Vân Trình sử dụng làm thuốc để điều trị bệnh, trong đó cả 3 họ đều có 3 loài, chiếm tỷ lệ lần lượt là Rutaceae (2,34%), Araceae (1,71%) và Menispermaceae (5,77%). Như vậy, số loài được sử dụng làm thuốc còn chiếm tỷ lệ rất thấp so với số lượng loài trong cùng một họ đó có tại Việt Nam, nên khả năng phát hiện ra thêm nhiều loài có thể sử dụng làm thuốc là rất lớn. 4.1.2. Đa dạng về dạng sống của nguồn tài nguyên cây thuốc Nghiên cứu kinh nghiện sử dụng cây thuốc ở xa Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, tôi đã điều tra được 82 loài cây thuốc khác nhau được bà con nơi đây sử dụng làm thuốc với sự đa dạng về các dạng sống khác nhau. Kết quả được thể hiện ở Bảng 4.5 dưới đây: Bảng 4.5. Đa dạng về dạng sống của nguồn cây thuốc ở KVNC Stt Dạng sống Số lượng Tỉ lệ 1 Thân thảo 33 40,24 2 Dây leo 17 20,73 3 Gỗ nhỏ 12 14,63 4 Bụi 10 12,20 5 Gỗ trung bình 4 4,88 6 Gỗ lớn 6 7,32 Tổng cộng: 82 100,00 Tổng số loài được điều tra được 82 Từ bảng kết quả trên cho thấy, nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm của 3 cộng đồng dân tộc Nùng, Tày, Dao tại KVNC tập trung vào 6 dạng sống, trong đó tập trung nhiều nhất vào 4 dạng sống cây thân thảo, dây leo và gỗ nhỏ. Thân thảo là dạng sống có số lượng loài nhiều nhất với 33/82 so với tổng số loài (chiếm 40,24% so với tổng số loài). Các cây thuộc nhóm này tập trung chủ yếu vào họ Lan (Orchidaceae) được dùng để chữa các bệnh tim, bệnh máu trắng; họ Hoa hồng (Rosaceae) một số cây như Mâm xôi, Long nha
  39. 29 thảo Được dùng để chữa các bệnh nhiễm trùng như nhiễm trùng uốn ván, và làm thuốc kháng khuẩn. Đứng thứ hai dạng dây leo với 17/82 loài được sử dụng làm thuốc (chiếm 20,73%) một số loài cây thuốc thuộc nhóm này như sau: Bòng bong - Lygodium flexuosum Sw. được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để chữa xơ gan; Bình vôi - Stephania rotunda Lour được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng làm thuốc bổ; Khoan cân đằng - Tinospora sinensis (Lour.) Merr được cộng đồng người Nùng sử dụng điều trị viêm họng Đứng thứ ba là dạng sống gỗ nhỏ với số lượng 12/82 loài được sử dụng làm thuốc (chiếm 14,63%) dạng cây này tập trung chủ yếu ở các họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Cam (Rutaceae), họ Long não (Lauraceae) Có thể kể đến một số loài như: Màng tang - Litsea cubeba (Lour.) Pers được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để điều trị đau thần kinh tọa và rắn căn; Vàng anh - Saraca dives Pierre được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để điều trị chấn thương, cầm máu và điều trị đau rát họng; Hòe - Styphnolobium japonicum (L.) Schott được cộng đồng dân tộc tày sử dụng để điều trị cao huyết áp Thấp nhất là dạng cây gỗ trung bình với 4/82 loài (chiếm 4,88% so với tổng số loài), trong đó có thể kể đến một số loài như: Sơn ta - Toxicodendron succedanea (L.) Mold được cộng đồng dân tộc Dao điều trị băng huyết; Núc nác - Oroxylum indicum (L.) Kurz được cả 3 cộng đồng dân tộc sử dụng trong đó cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để điều trị bệnh bại liệt và làm thuốc kháng sinh, còn cộng đồng dân tộc Tày sử dụng để làm thuốc kháng sinh đường ruột bên cạnh đó cộng đồng dân tộc Dao lại sử dụng để điều trị các bệnh về tim, máu và gan; Nhìn chung, vấn đề sử dụng các dạng cây cỏ làm thuốc chữa bệnh của 3 dân tộc Nùng, Tày và Dao tại khu vực nghiên cứu khá đa dạng và phong phú.
  40. 30 4.1.3. Đa dạng về nơi sống của nguồn tài nguyên cây thuốc Để thuận lợi cho công tác bảo tồn các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu, Tôi đã tiến hành đánh giá sự đa dạng về môi trường sống của các loài cây thuốc. Việc phân chia các loại môi trường sống, căn cứ vào địa hình, đất đai, khí hậu, nơi mà cây thuốc đó phát triển. Có các dạng môi trường sau: - Làng xóm, làm bản, vườn. - Rừng (trồng, tái sinh, tự nhiên). - Đồi cây bụi, đồi trọc, trảng cỏ - Ven sông. Bảng 4.6. Sự phân bố nguồn cây thuốc theo môi trường sống ở KVNC Stt Môi trường sống Số loài Tỷ lệ % 1 Làng xóm, làng bản, vườn (vu) 44 53,66 2 Rừng (trồng, tái sinh, tự nhiên) ( R ) 32 39,02 3 Đồi cây bụi, đồi trọc, trảng cỏ ( Đ, NĐ ) 22 26,83 4 Ven suối ( Vs) 2 2,44 Tổng cộng: 100 121,95 Tổng số được phát hiện 82 Chú thích: Tỉ lệ % trong Bảng hơn 100% do một số loài có thể sống ở nhiều môi trường khác nhau Qua Bảng 4.6 cho thấy, số lượng loài cây thuốc phân bố trên các sinh cảnh là rất khác nhau: Đối với môi trường ở các làng xóm, làng bản và vườn có số lượng cây thuốc nhiều nhất với 44/82 loài, chiếm 53,66% so với tổng số loài điều tra được, trong đó phải kể đến một số loài sống ở rừng được bà con sử dụng nhiều như: Khoan cân đằng - Tinospora sinensis (Lour.) Merr (1. Khau bẻo) được bà con dân tộc Nùng sử dựng để chữa viêm họng; Chanh - Citrus aurantifolia (Christm. & Panzer) Swingle (2. Mác chanh) được dân tộc Tày sử dụng điều trị hen; loài Cà độc dược - Datura metel L. (1. Mác trẻ phạ) được cộng đồng dân tộc Dao sử dụng để điều trị đau răng Điều này cũng
  41. 31 được minh chứng qua nghiên cứu của tác giả Quàng Văn Kiêm (2019) khi điều tra về tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Kim Đồng, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng [22] cũng cho thấy môi trường sống ở vườn chiếm số lượng nhiều nhất với 59 loài chiếm 57,84% so với tổng số loài. Như vây, có thể thấy người dân ở KVNC đã từng bước có những biện pháp bảo tồn nguồn tài nguyên cây thuốc cho tương lai. Đứng thứ hai là các loài cây thuốc có ở môi trường rừng với 32/82 loài và chiếm tỷ lệ 39,02% so với tổng số loài điều tra được. Có thể kể đến một số loài như: Cây si - Ficus benjamina L. (1,2. Mạy rày) được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để điều trị bệnh khớp và làm thuốc bổ, ngoài cộng đồng dân tộc Tày còn dùng để điều trị đau lưng và đau khớp; Lá vông - Erythrina variegata L. (1. Mạy toong) được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để điều trị dạ dày và hạ huyết ap; Trầm hương - Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte (1. Trầm hương) được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để điều trị tiêu chảy Đứng thứ ba là những loài cây thuốc phân bố ở khu vực đồi trọc, trảng cỏ với 22/82 loài, chiếm 26,83% so với tổng số loài, trong đó một số loài được các cộng đồng sử dụng để làm thuốc như: Cây khế - Averrhoa bilimbi L. (1. Mác phường) được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để điều trị bệnh dị ứng và ốm sốt; loài Rau ngót - Sauropus androgynus (L.) Merr (1. Phắc ràu) được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để điều trị bệnh vô sinh ở nam giới và táo bón Thấp nhất là những cây thuốc phân bố ở những khu ven sông ven suối chỉ có 2 loài, chiếm 2,24% so với tổng số loài đó là 2 loài: Ráy túi - Alocasia cucullata (Lour.) Schott (2. Pục) được cộng đồng dân tộc Tày sử dụng để điều trị bỏng; Nhân trần - Acrocephalus indicus (Burm. f.) Kuntze (1,2. Booc sinh) được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để làm thuốc giải nhiệt bên cạnh đó cộng đồng dân tộc tày còn sử dụng làm thuốc điều trị ho gió. Nhìn chung, đánh giá về nơi sống của từng loài cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm của cộng đồng các dân tộc Nùng, Tày, Dao ở khu vực
  42. 32 nghiên cứu là một việc rất quan trọng, điều này có ý nghĩa trong việc cung cấp cơ sở khoa học cho công tác bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn nguyên liệu làm thuốc chữa bệnh. 4.2. Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được ở khu vực nghiên cứu. Căn cứ vào các tài liệu bảo tồn như Sách đỏ Việt Nam - Phần II Thực vật (2007); Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam trong “Cẩm nang cây thuốc cần bảo vệ ở Việt Nam” của Nguyễn Tập (2007) và Nghị định số 06/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22 tháng 01 năm 2019, tôi tiến hành xác định các loài cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn và kết quả được thể hiện Bảng 4.7 như sau: Bảng 4.7. Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận ở xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng Cấp quy định Tt Tên phổ thông Tên khoa học Thuộc họ SĐVN 06/NĐ DLĐCTVN 2007 -CP 2006 Anoectochilus Orchidaceae - Họ 1 Lan kim tuyến EN IA setaceus Blume lan Stephania rotunda Menispermaceae- IIA 2 Bình vôi Lour Họ tiết dê Hoàng tinh hoa Disporopsis Convallariaceae - IIA 3 trắng longifolia Craib Họ mạch môn đông Trilliaceae - Họ 4 Bảy lá một hoa Paris chinensis Franch IIA EN trọng lâu Fallopia multiflora Polygonaceae - 5 Hà thủ ô đỏ VU EN (Thunb.) Haraldson Họ rau răm Gynostemma Cucurbitaceae - EN VU 6 Giảo cổ lam pentaphyllum (Thunb.) Họ bầu bí Makino Fibraurea tinctoria Tiết dê - 7 Hoàng đằng IIA Lour Menispermaceae Drynaria fortunei Dương xỉ - EN IIA 8 Cốt toái bổ EN (Kuntze ex Mett.) J.Sm. Polypodiaceae Chú thích: SĐVN: Sách đỏ Việt Nam; NĐ 06/2019/NĐ-CP: Nghị định 06 của Chính phủ; DLĐCTVN: Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam 2006; VU: Sắp nguy cấp – Vulnerable; EN: Nguy cấp - Endangered; IA: Nghiêm cấm khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại; IIA: Hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại
  43. 33 Từ bảng kết quả trên, có thể thấy có 8 loài cây thuốc đang thuộc diện cần bảo tồn, chiếm 9,76% so với tổng số loài điều tra được, thuộc 8 họ và 8 chi được cộng đồng dân Nùng, Tày và Dao ở xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng sử dụng chữa bệnh. Cụ thể: Số loài có tên trong Nghị định số 06/2019/NĐ-CP là 6 loài, trong đó có 1 loài ở mức IA - Nghiêm cấm khai thác sử dụng đó là loài Lan kim tuyến - Anoectochilus setaceus Blume được cộng đồng dân tộc Nùng ở KVNC sử dụng để chữa bệnh tim và bệnh máu trắng. Ở mức IIA - Hạn chế khai thác sử dụng có 5 loài như: Bình vôi - Stephania rotunda Lour; Hoàng tinh hoa trắng - Disporopsis longifolia Craib; Bảy lá một hoa - Paris chinensis Franch; Hoàng đằng - Fibraurea tinctoria Lour; Cốt toái bổ - Drynaria fortunei (Kuntze ex Mett.) J.Sm chiếm 75,00% tổng số loài thuộc diện cần bảo tồn đã phát hiện được ở KVNC. Số loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam (2007) là 4 loài, trong đó có 3 loài ở mức độ đang nguy cấp (EN) chiếm 37,5% tổng số loài cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn đã phát hiện được ở KVNC đó là loài Lan kim tuyến - Anoectochilus setaceus Blume, Giảo cổ lam - Gynostemma pentaphyllum (Thunb.) Makin và; Cốt toái bổ - Drynaria fortunei (Kuntze ex Mett.) J.Sm. Có 1 loài ở mức độ sắp nguy cấp (VU) chiếm 12,5% tổng số loài cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn đã phát hiện được ở KVNC đó là các loài: Hà thổ ô đỏ - Fallopia multiflora (Thunb.) Haraldson. Theo Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam (2006) có 4 loài, trong đó có 3 loài ở mức độ nguy cấp (EN) chiếm 37,5% tổng số loài cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn và có 1 loài thuộc mức đang nguy cấp (VU) đó là Giảo cổ lam - Gynostemma pentaphyllum (Thunb.) Makino. Ngoài ra, trong số 8 loài cây thuốc này có 1 loài là: Cốt toái bổ - Drynaria fortunei (Kuntze ex Mett.) J.Sm. được ghi nhận ở cả 3 nguồn tài liệu bảo tồn là Nghị định số 06/2019/NĐ-CP của Chính phủ, Sách đỏ Việt Nam (2007) và Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam (2006). Vì vậy, cần có biện
  44. 34 pháp sử dụng và khai thác hợp lý các loài cây thuốc này để phục vụ cho công tác chữa bệnh lâu dài của cộng đồng dân tộc thiểu số khu vực nghiên cứu nói riêng và của Việt Nam nói chung. 4.3. Vốn tri thức trong việc sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng 4.3.1. Kinh nghiệm sử dụng bộ phận làm thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Vân Trình. Nghiên cứu về bộ phận sử dụng của các loài cây thuốc không chỉ cho thấy tính chất phong phú và đa dạng trong khả năng chữa bệnh của các bộ phận đó, mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với công tác bảo tồn. Đồng thời, việc nghiên cứu các bộ phận sử dụng làm thuốc của cây phần nào đánh giá được tính bền vững trong thực trạng khai thác và sử dụng tài nguyên cây thuốc trong cộng đồng các dân tộc thiểu số. Kết quả thống kê về các bộ phận được sử dụng làm thuốc theo kinh nghiệm của dân tộc Nùng, Tày và Dao ở xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng được trình bày tại Bảng 4.8. Bảng 4.8. Bộ phận sử dụng của cây thuốc theo kinh nghiệm sử dụng trong cộng đồng dân tộc ở KVNC. Nùng Tày Dao Stt Bộ phận sử dụng Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ % lượng % lượng % Lượng 1 Cả cây 25 43,86 9 39,13 10 76,92 2 Lá 11 19,30 5 21,74 0 0,00 3 Rễ 11 19,30 2 8,70 2 15,38 4 Vỏ 7 12,28 2 8,70 1 7,69 5 Củ 6 10,53 3 13,04 0 0,00 6 Thân 2 3,51 0 0,00 0 0,00 7 Hoa 2 3,51 1 4,35 0 0,00 8 0 0,00 1 4,35 0,00 Quả Tổng số 64 112,28 23 100,00 13 100,00 Tổng số phát hiện 57 23 13 theo mỗi dt Chú thích: Tỷ lệ % trong bảng lớn hơn 100% do một số loài có thể sử dụng nhiều bộ phận khác nhau làm thuốc
  45. 35 Kết quả thống kê ở Bảng 4.8 cho thấy việc sử dụng bộ phận loài cây làm thuốc của 3 cộng đồng dân tộc Nùng, Tày và Dao rất phong phú với 8 bộ phận được sử dụng. Trong đó bộ phận cả cây, lá, rễ được sử dụng nhiều hơn so với các bộ phận khác. Cụ thể: - Bộ phận sử dụng cả cây: Đây là bộ phận được cả 3 dân tộc sử dụng nhiều nhất trong đó dân tộc Nùng có số lượng nhiều nhất với 25/57 loài, chiếm 43,86% so với tổng số loài điều tra được từ dân tộc Nùng, bên cạnh đó dân tộc Tày và Dao đều biết sử dụng với số lượng và tỷ lệ lần lượt là 9/23 (39,13%) và 10/13 loài (76,92%) so với tổng số loài điều tra được từ cộng đồng dân tộc Tày và Dao. Trong đó phải kể đến những loài cây có giá trị như: cây Si- Ficus benjamina L. (1,2. Mạy rày) được làm thuốc bổ chữa xương khớp, ngoài ra cộng đồng dân tộc Tày cũng dùng để điều trị bệnh xương khớp về đau lưng; Ngũ gia bì chân chim - Schefflera heptaphylla (L.) Frodin (1,2. Mác tọc tẹc) được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng làm thuốc điều trị bệnh xương khớp, thần kinh tọa, bên cạnh đó thì cộng đồng dân tộc Tày cũng sử dụng làm thuốc để điều trị các bệnh về chấn thương; Thôi ba - Alangium chinense (Lour.) Harms (1. Mạy đa) được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để điều trị viêm họng - Đối với bộ phận lá: Dân tộc Nùng biết sử dụng với số lượng nhiều nhất với 11/57 loài, chiếm 19,30% so với tổng số loài điều tra được từ dân tộc Nùng, còn dân tộc Tày có số lượng ít hơn với số lượng và tỷ lệ lần lượt là 5/23 loài (chiếm 21,74%) so với tổng số loài điều tra được từ cộng đồng dân tộc Tày, còn cộng đồng dân tộc Dao chưa phát hiện sử dụng bộ phận lá làm thuốc. Trong nhóm này có thể kể đến một số loài như sau: Cây khế - Averrhoa bilimbi L. (1. Mác phường) được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để điều trị ốm sốt và dị ứng; Cánh kiến - Mallotus philippinesis (Lamk.) Muell.-Arg (1. Rùng hao) được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để điều trị
  46. 36 rắn cắn; Ổi - Psidium guajava L. (2. Mác ội) được cộng đồng dân tộc Tày sử dụng để điều trị bệnh kiết lị - Đối với bộ phận rễ: Cộng đồng dân tộc Nùng đã biết sử dụng 11/57 loài (chiếm 19,30% so với tổng số loài điều tra được từ dân tộc Nùng), cộng đồng dân tộc Tày và Dao biết sử dụng lần lượt là 2/23 và 2/13 loài cây thuốc (chiếm 8,70% và 15,38% so với tổng số loài điều tra được từ cộng đồng dân tộc Tày và Dao) và có thể kể đến một số loài như: Nhãn - Dimocarpus longan Lour (1. Mác nhàn) cộng đồng dân tộc sử dụng loài này để điều trị ốm sốt; Sau sau - Liquidambar formosana Hance (1. Sau phia) cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để điều trị thần kinh tọa và ngoài ra còn sử dụng để điều trị thận; Cỏ xước - Achyranthes aspera L (2. Cỏ xước) được cộng đồng dân tộc Tày sử dụng ngâm rượu làm thuốc bổ Nhìn chung kết quả nghiên cứu đã chứng minh được rằng: các bộ phận của cây được sử dụng làm thuốc của cả 3 cộng đồng Tày, Nùng và Dao ở khu vực nghiên cứu rất đa dạng và phong phú, đặc biệt đối với kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Nùng. Mặt khác kết quả cũng cho thấy việc sử dụng bộ phận cả cây hoặc thân hoặc rễ hoặc củ làm thuốc sẽ rất bất lợi trong việc bảo tồn nguồn gen của cây thuốc, vì vậy chúng ta cần phát triển và thực hiện các phương pháp trồng cây thuốc có bộ phận được sử dụng là cả cây hoặc thân hoặc rễ, để bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên cây dược liệu trong khu vực nghiên cứu nói riêng và ở Việt Nam nói chung. 4.3.2. Kinh nghiệm về nhóm bệnh chữa trị của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Vân Trình Thông qua quá trình điều tra thu thập những kinh nghiệm sử dụng cây thuốc trong điều trị bệnh, tôi nhận thấy rằng cộng đồng dân tộc Nùng, Tày và Dao đều có những kiến thức sử dụng cây thuốc rất đa dạng và phong phú và mang tính gia truyền trong điều trị các nhóm bệnh khác nhau. Kết quả đó được thể hiện ở Bảng 4.9 và Hình 4.2 dưới đây.
  47. 37 Bảng 4.9. Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể Nùng Tày Dao Stt Nhóm bệnh chữa trị Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ lượng % lượng % lượng % Nhóm thuốc bổ ( Bổ thận, bổ 1 10 17,54 4 17,39 1 7,69 tim ) Nhóm bệnh đường tiêu hóa 2 (Đau bụng,đau dạ dày, viêm 8 14,04 6 26,09 1 7,69 loét dạ dày, ) Nhóm bệnh hệ thần kinh 3 (thần kinh tọa, cao huyết áp, 8 14,04 4 17,39 2 15,38 đau răng, bệnh tim.) Nhóm bệnh xương khớp, hệ vận động (Đau khớp, 4 8 14,04 5 21,74 1 7,69 Gãy xương, Phong thấp, Gút) Nhóm bệnh về đường hô 5 hấp (Ho gió, viêm họng, 7 12,28 3 13,04 0 0,00 hen.) Nhóm bệnh do động vật 6 5 8,77 0 0,00 2 15,38 cắn(rắn cắn, rết cắn) Nhóm bệnh đường tiết 7 3 5,26 1 4,35 2 15,38 niệu (thận hư, đái dắt.) 8 Nhóm bệnh cảm cúm (sốt ) 3 5,26 1 4,35 0 0,00 Nhóm bệnh phụ nữ, sinh sản, sinh dục, sinh lý (Băng 9 2 3,51 0 0,00 2 15,38 huyết, vô sinh nam, viên phụ khoa ) Nhóm bệnh ngoài da (Dị 10 2 3,51 1 4,35 0 0,00 ứng, mụn nhọt, bỏng) 11 Nhóm bệnh về gan (xơ gan, gan ) 2 3,51 0 0,00 1 7,69 Nhóm bệnh về ngộ độc 12 1 1,75 0 0,00 0 0,00 (Giải nhiệt) Nhóm bệnh về ung bướu 13 1 1,75 0 0,00 0 0,00 (bệnh máu trắng.) Nhiễm trùng vết thương, 14 0 0,00 0 0,00 2 15,38 cầm máu Tổng số 60 105,26 25 108,70 14 107,69 Tổng số loài điều tra được của 57 23 13 mỗi dt Chú thích: Tỉ lệ % ở bảng lớn hơn 100 do một số loài có thể sử dụng chữa nhiều nhóm bệnh khác nhau
  48. 38 15,38 Nhiễm trùng vết thương, cầm máu 0,00 0,00 0,00 Nhóm bệnh về ung bướu 0,00 1,75 0,00 Nhóm bệnh về ngộ độc 0,00 1,75 7,69 Nhóm bệnh về gan 0,00 3,51 0,00 Nhóm bệnh ngoài da 4,35 3,51 15,38 Nhóm bệnh phụ nữ, sinh sản, sinh dục, sinh lý 0,00 3,51 0,00 Nhóm bệnh cảm cúm 4,35 5,26 Dao 15,38 Nhóm bệnh đường tiết niệu 4,35 Tày 5,26 15,38 Nùng Nhóm bệnhNhómtrị chữa Nhóm bệnh do động vật cắn 0,00 8,77 0,00 Nhóm bệnh về đường hô hấp 13,04 12,28 7,69 Nhóm bệnh xương khớp, hệ vận động 21,74 14,04 15,38 Nhóm bệnh hệ thần kinh 17,39 14,04 7,69 Nhóm bệnh đường tiêu hóa 26,09 14,04 7,69 Nhóm thuốc bổ 17,39 17,54 0 4 8 12 16 20 24 28 Tỷ lệ % Hình 4.2. Tỷ lệ nhóm bệnh chữa trị từ nguồn cây thuốc theo kinh nghiệm sử dụng trong cộng đồng dân tộc Tày, Nùng, Dao tại xã Vân Trình Từ kết quả Bảng 4.9 cho thấy có 14 nhóm bệnh khác nhau được cộng đồng 3 dân tộc Nùng, Tày và Dao sử dụng các loài cây thuốc để điều trị, trong đó người Nùng biết sử dụng thuốc để điều trị 13 nhóm bệnh, người Tày biết sử dụng cây thuốc để điều trị 8 nhóm bệnh và người Dao biết điều trị 9 nhóm bệnh. Trong đó có nhũng căn bệnh nan y như: ung thư gan, tim mạch, thận, gan Cụ thể: Với cộng đồng dân tộc Nùng: Số lượng cây thuốc được sử dụng để chữa trị tập trung lớn vào 5 nhóm bệnh là nhóm làm thuốc bổ với 10/57 loài cây (chiếm 17,54% so với tổng số loài điều tra được từ Nùng); nhóm bệnh xương khớp, hệ vận động, nhóm bệnh tiêu hóa và nhóm bệnh thần kinh có số với 13/62 loài cây (chiếm 20,97%), nhóm bệnh về tiêu hóa và nhóm bệnh tiết niệu đều có 9/62 loài (chiếm 14,52%); tiếp là nhóm bệnh ngoài da với 7/62 loài (chiếm 11,29%)
  49. 39 Tiếp theo, với dân tộc Tày: Số lượng cây thuốc được sử dụng để chữa trị tập trung vào 4 nhóm bệnh là nhóm bệnh về đường tiêu hóa với 6/23 loài (chiếm 26,09%), nhóm bệnh về xương khớp hệ vận động 5/26 loài (chiếm 21,74%) so với tổng số loài điều tra được từ dân tộc Tày, nhóm làm thuốc bổ và nhóm bệnh hệ thần kinh đều có số lượng là 4/23 loài (chiếm 17,39%) Với cộng đồng dân tộc Dao: Những nhóm bệnh được cộng đồng dân tộc Dao sử dụng các loài cây thuốc điều trị tập trung vào nhóm bệnh về đường tiết niệu, nhóm bệnh thần kinh, đương tiết niệu, nhóm bệnh về vết thương với số lượng 2/13 loài cây (chiếm 15,38% so với tổng số loài điều tra được từ dân tộc Dao). Nhìn chung, kinh nghiệm sử dụng nguồn tài nguyên cây cỏ làm thuốc các dân tộc thiểu số Nùng, Tày và Dao ở xã Vân Trình tương đối đa dạng và phong phú. Trong đó, dân tộc Nùng thể hiện tính nổi bật hơn về kinh nghiệm sử dụng cây thuốc thông qua số lượng loài cây thuốc biết cách sử dụng và số lượng nhóm bệnh chữa trị cho người dân. 4.3.3. Ảnh hưởng của sự giao thoa giữa các dân tộc đến vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc Trải qua quá trình sinh sống lâu dài, mỗi cộng đồng dân tộc đều thể hiện sự sáng tạo của riêng mình trong việc đấu tranh chóng chọi lại với bệnh tật, chính sự đấu tranh đó đã giúp cho họ tìm ra được những phương pháp trong việc điều trị các bệnh tật cũng như chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng mình từ việc sử dụng các loại cây cỏ có sẵn trong tự nhiên. Cho đến ngày nay những kinh nghiệm đó đã được người dân ở xã Vân Trình huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng đúc kết và học hỏi qua nhiều thế hệ, đã trở thành những kinh nghiệm quý báu. Chính sự học hỏi qua lại giữa các dân tộc đã tạo nên sự giao thoa giữa các dân tộc với nhau trong việc sử dụng các loài cây cỏ trong điều trị và phòng chống bệnh. Trong quá trình điều tra, nghiên cứu tôi nhận thấy giữa các dân tộc ở xã Vân Trình có sự giao thoa trong việc sử dụng cùng một cây thuốc để điều trị các bệnh, kết quả được thể hiện ở Bảng 4.11 sau:
  50. 40 Bảng 4.10. Danh sách cây thuốc được cả 3 dân tộc ở KVNC sử dụng Stt Tên khoa học Tên Việt Nam Tên dân tộc Công dụng 1. bệnh tim 1 Paris chinensis Franch Bảy lá một hoa Cẳn lưởng 2. gãy xương, hen 3. rắn cắn 1. Bại liệt, kháng sinh Oroxylum indicum 2. Kháng sinh đường ruột 2 Núc nác Ca liệng (L.) Kurz 3.Tim, máu,gan Chú thích: Tên dân tộc: 1. Nùng, 2. Tày, 3. Dao Qua những dẫn liệu trên cũng như từ quá trình điều tra nghiên cứu tại KVNC tôi đã thống kê được 2 loài cây thuốc được cả 3 cộng đồng dân tộc Nùng, Tày và Dao cùng sử dụng chung để phòng và điều trị bệnh. Trong đó loài Bảy lá một hoa - Paris chinensis Franch được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để điều trị bệnh tim, còn cộng đồng dân tộc Tày sử dụng để điều trị gãy xương, bệnh hen, bên cạnh đó cộng đồng dân tộc Dao lại có kinh nghiệm sử dụng khác là dùng để điều trị rắn cắn; loài Núc nác - Oroxylum indicum (L.) Kurz được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để điều trị bệnh bại liệt làm thuốc kháng sinh, cùng với dân tộc Tày cộng đồng này cũng sử dụng để làm thuốc kháng sinh, tuy nhiên cộng đồng dân tộc dao lại sử dụng làm thuốc chữa tim, gan. So sánh với nghiên cứu của tác giả Hoàng Văn Sinh (2020), nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Đức Thông, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng cho thấy cộng đồng dân tộc Nùng, Tày và Dao ở xã Đức thông, huyện Thạch An có sự giao thoa về kinh nghiệm sử dụng cây thuốc đa dạng hơn so với cộng đồng dân tộc Nùng, Tày và Dao ở xã Vân Trình, cụ thể ở xã Đức Thông có 8 loài được cả 3 dân tộc cùng sử dụng, còn ở xã Vân Trình chỉ có 2 loài được 3 cộng đồng cùng sử dụng.
  51. 41 4.3.4. Vấn đề truyền thụ kiến thức về cây thuốc trong cộng đồng các dân tộc ở xã Vân Trình Để biết được những vấn đề truyền thụ kiến thức trong cộng đồng các dân tộc ở xã Vân Trình, huyện Thạch An, chúng tôi đã tiến hành điều tra phỏng vấn 8 thầy thuốc đã từng sử dụng các bài thuốc chữa bệnh trong các cộng đồng. Khi tiến hành phỏng vấn và thống kê số liệu liên quan đến việc truyền thụ kiến trong cộng đồng dân tộc Nùng, Tày và Dao tại KVNC thì tôi nhận thấy rằng cả 9 người đều là nam giới. Đều này có thể giải thích bởi theo phong tục phổ biến ở các dân tộc đó là nam giới thường là chủ gia đình mà bên cạnh đó có những dân tộc chỉ truyền nghề thuốc cho nam giới. Bên cạnh đó, việc đi rừng tìm kiếm thuốc thường gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm nên nam giới phù hợp hơn nữ giới. Kết quả điều tra được thể hiện trong Bảng 4.11. Bảng 4.11. Số lượng thầy thuốc được phỏng vấn theo từng dân tộc ở KVNC Stt Dân tộc Số thầy thuốc phỏng vấn Tỉ lệ % 1 Nùng 5 55,56 2 Tày 3 33,33 3 Dao 1 11,11 Tổng 9 100,00 Kết quả Bảng 4.11 cho thấy, tại KVNC số thầy lang tập trung chủ yếu ở cộng đồng dân tộc Nùng, chiếm 55,56% so với tổng số thầy lang, bà mé đã điều tra được, bởi lễ dân tộc Nùng chiếm số lượng nhiều hơn là bởi vì dân tộc Nùng là dân tộc chiếm phần lớn các dân tộc ở khu vực nghiêm cứu, là dân tộc đã cư trú từ lâu đời nên vấn đề truyền thụ kiến thức phòng chữa bệnh được truyền tải tốt hơn. Còn dân tộc Tày chiếm 33,33% và Dao chỉ chiếm 11,11% so với tổng số thầy lang bà mé được điều tra.
  52. 42 Bảng 4.12. Độ tuổi của các thầy thuốc tại KVNC Nhóm tuổi Giới tính Số người Tổng Nam 0 >75 0 Nữ 0 Nam 9 50-75 9 Nữ 0 Nam 0 25-49 0 Nữ 0 Nam 0 <25 0 Nữ 0 Tổng số nam 9 9 Tổng số nữ 0 Kết quả nghiên cứu ở Bảng 4.12 cho thấy, người làm nghề thầy thuốc ở khu vực nghiên cứu chỉ có nam giới và thuộc độ tuổi 50 -75. Điều này dễ giải thích theo truyền thống nghề này đa số được truyền thụ theo huyết thống gia đình, nếu khi bố mẹ còn sống họ sẽ giữ vai trò chính trong việc bốc thuốc và dạy lại cho con cái mình qua quá trình tích lũy dần dần. Khi bố mẹ già yếu không thể tiếp tục làm nghề nữa mới chính thức truyền lại cho con cái, lúc đó độ tuổi thông thường của con cái họ giao động khoảng 40 tuổi. Sau một số năm kinh nghiệm làm nghề thì độ tuổi của các ông lang bà mế nhiều nhất là khoảng 50 - 75 tuổi. Nhóm tuổi từ 25 – 49 thì đây được coi nhóm người lao động chính trong gia đình, họ thường tập trung vào trong lao động sản xuất, chăn nuôi, kinh doanh để đáp ứng nhu cầu cuộc sống gia đình họ, do vậy họ hầu như chưa có thời gian được tiếp thu những bài thuốc từ những người lớn tuổi. Bên cạnh đó những người trẻ dưới 25 tuổi hầu như không tham gia vào việc thu thập cây thuốc, điều này có thể lí giải là ở độ tuổi này chủ yếu là độ tuổi còn
  53. 43 đang đi học, tham gia các hoạt động xã hội, chưa tích lũy được nhiều kinh nghiệm, vốn sống và những kiến thức bản địa của ông cha truyền lại. Tóm lại, những thầy lang có kinh nghiệm trong việc sử dụng các loài cây thuốc tập trung độ tuổi từ 50 trở lên. Do đó, việc phát giữ gìn và tiếp thu những giá trị truyền thống tốt đẹp đó là hết sức cần thiết. 4.4. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu Từ kết quả nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng một số dân tộc ở KVNC trong việc phòng và điều trị một số bệnh nhiễm khuẩn, tôi tiến hành lựa chọn cây Huyết đằng - Sargentodoxa cuneata (Oliv.), Bòng bong - Lygodium flexuosum (L.) Sw. để tiến hành đánh giá hoạt tính kháng khuẩn (HTKK) của cây. Kết quả thể hiện ở Bảng 4.13 và Hình 4.3 Bảng 4.13. Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ một số loài cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở KVNC Đơn vị tính: mm Cao chiết HĐ BB K1 K2 Dung môi Vi khuẩn S. aureus 23,8±0,7 18,7±0,9 19,2±1,2 24,3±1,1 0 E. coli 25,1±0,6 24,5±0,7 21±0,5 20,2±0,9 0 HĐ: Huyết đằng; BB: Bòng bong; K1: kháng sinh Aminkacin (đối chứng dương); K2: Kháng sinh Kanamicin (đối chứng dương); Dung môi: đối chứng âm Qua dữ liệu trên cho thấy, 2 loài khảo sát (Huyết đằng và Bòng bong) đều có hoạt tính ức chế đối với vi khuẩn gây bệnh đại diện nhóm vi khuẩn Gram dương và Gram âm. Trong đó, cả 2 loài khảo sát đều có khả năng ức chế trực khuẩn đường ruột (E. coli) mạnh hơn so với tụ cầu vàng (S. aureus). Đối với vi khuẩn Gram dương (S. Aureus), Huyết đằng có hoạt tính ức chế vi khuẩn mạnh hơn với vòng ức chế đạt được là 23,8 mm, Bòng Bong có hoạt tính ức chế vi
  54. 44 khuẩn thấp hơn với vòng ức chế đạt được 18,7 mm. Đối với vi khuẩn Gram âm (E. coli), Huyết đằng có hoạt tính ức chế vi khuẩn mạnh hơn với vòng ức chế đạt được là 25,1 mm, Bòng bong vẫn là loài có hoạt tính ức chế vi khuẩn thấp hơn với vòng ức chế đạt được 24,5 mm. Như vậy, Huyết đằng có khả năng ức chế vi khuẩn Gram âm (E. coli) và Gram dương (S. aureus) mạnh hơn so trong 2 loài thực vật khảo sát. So sánh khả năng ức chế vi khuẩn gây bệnh của bốn loài cây khảo sát với kháng sinh đối chứng cho thấy: hoạt tính ức chế vi khuẩn tụ cầu vàng (S. aureus) của cả 2 loài thực vật đều thấp hơn so với kháng sinh Kanamicin ở nồng độ khảo sát. Nhưng so với hoạt tính ức chế tụ cầu vàng của kháng sinh Akamicin thì loài Huyết đằng có hoạt tính ức chế mạnh hơn, còn Bòng bong có hoạt tính ức chế kém hơn. Đối với hoạt tính ức chế trực khuẩn đường ruột (E. Coli) thì cả 2 loài thực vật đều có hoạt tính ức chế mạnh hơn hai kháng sinh Akamicin và Kanamicin ở nồng độ khảo sát. Từ kết quả phân tích HTKK tôi đề xuất, có thể sử dụng bốn loài cây Huyết đằng và Bòng bong để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do S. aureus (Tụ cầu vàng) và E. coli gây ra. Đặc biệt cây Huyết đằng có khả năng ức chế vi khuẩn mạnh hơn trong 2 loài cây khảo sát. Kết quả này là một bằng chứng khoa học chứng minh kinh nghiệm sử dụng các cây thuốc này trong việc phòng chống một số bệnh nhiễm khuẩn của cộng đồng các dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu.
  55. 45 Hình 4.3. Hoạt tính ức chế E. coli và S. aureus của cây Huyết đằng, Bòng bong Chú thích: TVC: Staphylococus aureus; E. coli: Escherichia coli; ĐC: Đối chứng âm (Dung môi); K1: Đối chứng dương (Amikacin); K2: Đối chứng dương (Kanamicin); HĐ: Huyết đằng; BB: Bòng bong
  56. 46 PHẦN 5 KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ 5.1. Kết luận Quá trình điều tra, nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Vân Trình huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, chúng tôi đã thu được những kết quả như sau: - Quá trình điều tra nghiên cứu đã điều tra được 82 loài thực vật thuộc ngành Ngọc lan, thuộc 80 chi và 63 họ. Có 3 họ nhiều loài nhất là học Cam (Rutaceae), họ Tiết dê (Menispermaceae) và họ Ráy (Araceae) tất cả đều có 3 loài. - Đề tài xác định được 6 dạng sống trong đó dạng sống là thân thảo được sử dụng nhiều nhất với 33 loài, dây leo 27 loài, gỗ nhỏ 12 loài, bụi 10 loài, gỗ trung bình 4 loài và gỗ lớn 6 loài. - Đã tìm hiểu được môi trường sống chủ yếu của các loài cây thuốc là ở lang xóm, làng bản, vườn với 44 loài, ở rừng là 32 loài, đồi cây bụi, trảng cỏ là 22 loài và ven sông 2 loài. - Đã thống kê được 8 loài cần bảo tồn, trong đó có 4 loài có tên trong sách đỏ Việt Nam 2007, 6 loài có tên trong Nghị Định 06/2019/NĐ – CP và 4 loài có tên trong Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam 2006. - Đã xác định được có 8 bộ phận khác nhau được sử dụng theo kinh nghiệm của các cộng đồng dân tộc Tày, Nùng, Dao tại xã Xã Vân Trình, trong đó bộ phận cả cây, lá, rễ là 3 bộ phận có tần số được sử dụng nhiều nhất trong chữa trị bệnh cho người dân nơi đây. - Đã thống kê được 14 nhóm bệnh khác nhau được chữa trị bằng kinh nghiệm sử dụng cây thuốc trong cộng đồng dân tộc Tày, Nùng, Dao tại khu vực nghiên cứu. Trong đó số lượng cây thuốc được sử dụng để chữa trị tập
  57. 47 trung phần lớp vào các nhóm bệnh là: Nhóm làm thuốc bổ; bệnh về xương khớp, hệ vận động; bệnh về tiêu hóa; nhóm bệnh hệ thần kinh. - Qua kết quả điều tra về kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của 3 cộng đồng Nùng, Tày và Dao đã xác định được có 2 loài cây cỏ được cả 3 cộng đồng dùng trong phòng và chữa bệnh đó là 2 loài Bảy lá một hoa - Paris chinensis Franch và Núc nác - Oroxylum indicum (L.) Kurz. - Qua kết quả phân tích hoạt tính kháng khuẩn, cho thấy có thể sử dụng cây Huyết đằng và Bòng bong để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do S. aureus (Tụ cầu vàng) và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do E. coli gây ra. 5.2. Kiến nghị - Cần tiếp tục mở rộng khu vực điều tra và nghiên cứu về tài nguyên cây thuốc để có kế hoạch bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu cho tương lai. - Tiếp tục nghiên cứu và đánh giá tính hiệu quả của các loài cây thuốc mà cộng đồng dân tộc tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng sử dụng. - Xây dựng những vườn thuốc trong gia đình cho những gia đình lương y hay những gia đình có những người biết sử dụng thuốc ở các thôn bản để bảo vệ nguồn gen quý và hướng dẫn cách trồng hái, chế biến cho phù hợp. - Với những loài cây thuốc thuộc dạng quý hiếm cần hướng dẫn nhân dân nhận biết và tiến hành bảo vệ rừng, hạn chế khai thác một cách cạn kiệt các loài cây thuốc để bán sang Trung Quốc.
  58. 48 TÀI LIỆU THAM KHẢO A. Tiếng việt 1. Đỗ Huy Bích (2004), Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, Nxb 2. Hờ A Bình (2019) “Nghiên cứu về đa dạng tài nguyên cây thuốc của người Hmong, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 3. Bộ Khoa học và Công nghệ (2007), Sách đỏ Việt Nam, phần Thực vật. Nxb Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. 4. Tào Duy Cần (2001), Thuốc Nam, thuốc Bắc và các phương thang chữa bệnh, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật. 5. Tào Duy Cần (2006), Thuốc bệnh 24 chuyên khoa, Nxb Y học. 6. Đặng Quang Châu (2011), “Một số dẫn liệu về cây thuốc của dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn – Nghệ An”. Tạp chí Sinh học, tập 23. 7. Đặng Quang Châu, Bùi Hồng Hải (2003), “Điều tra cây thuốc của đồng bào dân tộc Thái, xã Xuân Hạnh, huyện Quỳ Châu – Nghệ An”, Báo cáo Khoa học Hội nghị toàn quốc lần 2. Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong Khoa học Sự sống, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội. 8. Võ Văn Chi (1996), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội. 9. Võ Văn Chi (2012), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb Hà Nội, tập 1-2. 10. Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2019), Nghị định 06/2019/NĐ-CP về nghiêm cấm, hạn chế khai thác và sử dụng các loài động thực vật hoang dã. 11. Vũ Văn Chuyên (1976), Tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốc, Nxb Y học Hà Nội. 12. Lưu Đàm Cư, Hà Tuấn Anh, Trương Anh Thư (2004), “Các cây có ích của dân tộc H’mông và khả năng ứng dụng trong phát triển kinh tế”, Báo cáo Khoa học Hội nghị toàn quốc lần 3. Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong Khoa học Sự sống, Thái Nguyên, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội.
  59. 49 13. Nguyễn Thượng Dong (2006), “Nghiên cứu thuốc từ thảo dược” (Giáo Trình sau đại học). Nxb Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội. 14. Lê Trần Đức (1997), Cây thuốc Việt Nam, trồng hái chế biến và trị bệnh ban đầu. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 15. Nông Thu Hằng (2019) “Nghiên cứu kiến thức bản địa về khai thác và sử dụng một số cây dược liệu (lâm sản ngoài gỗ) tại vườn quốc gia Phia Oắc- Phia Đén, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 16. Nguyễn Minh Hiếu (2019) “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Nặm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai của đồng bào dân tộc Dao”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 17. Phạm Hoàng Hộ (1999 – 2000), Cây cỏ Việt Nam, Nxb trẻ, Tp Hồ Chí Minh. Tập 1 – 3. 18. Phạm Hoàng Hộ (2000), "Cây cỏ Việt Nam”, Nhà xuất bản trẻ, Tp. Hồ Chí Minh 19. Nông Thái Hòa (2018) “Nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 20. Dương Văn Hưng (2018) “Nghiên cứu tri thức sử dụng cây thuốc tại xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 21. Âu Anh Khâm (2001), 577 bài thuốc dân gian gia truyền (sách dịch), Nxb Thanh niên. 22. Quàng Văn Kiêm (2019), “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Kim Đồng, huyện Thạnh An, tỉnh Cao Bằng”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên. 23. Vàng A Lả (2018) “Nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Yên Lạc, huyện Phú Lương, tỉnh
  60. 50 Thái Nguyên”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 24. Đỗ Tất Lợi (2005), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 25. Trần Đình Lý (1995), 1900 loài cây có ích, Nxb Thế giới, Hà Nội. 26. Lương Minh Ngọc (2018) “Nghiên cứu tính đa dạng nguồn cây thuốc được sử dụng trong đồng bào dân tộc Bru – Việt Kiều ở Xã Thượng Trạch, huyện Bổ Trạch, tỉnh Quảng Nam”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 27. Võ Thị Phượng và Ngô Trực Nhã (2011), Điều tra các loài cây thuốc và giá trị sử dụng của chúng ở một số xã thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4 (2011), Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 28. Lò Thị Quý (2018) “Nghiên cứu tính đa dạng nguồn cây thuốc được sử dụng trong một số dân tộc thiểu số tại xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 29. Lục Thanh Sắc (2018) “Tri thức bản địa trong sử dụng, bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Hà Lang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 30. Hoàng Văn Sinh (2020) “Nghiên Cứu Tri Thức Bản Địa Sử Dụng Cây Thuốc Tại Xã Đức Thông, Huyện Thạnh An, Tỉnh Cao Bằng”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 31. Nguyễn Tập (2007), Cẩm nang cây thuốc cần bảo vệ ở Việt Nam, Nxb Mạng lưới lâm sản ngoài gỗ Việt Nam, Hà Nội. 32. Hoàng Thị Thanh (2019), “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai của đồng bào dân tộc Hà Nhì”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
  61. 51 33. Phạm Thiệp, Lê Văn Thuần, Bùi Xuân Chương (2000), Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược, Nxb. Y học, Hà Nội. 34. Nguyễn Nghĩa Thìn (1997), Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật, Nxb Nông nghiệp, Hà nội. 35. Trần Thúy, Vũ Nam, Nguyễn Văn Toại (2005), Lý luận Y học cổ truyền, Nxb Y học, Hà Nội. 36. Nguyễn Thị Thủy, Phạm Văn Thỉnh (2004), “Nghiên cứu xây dựng và bảo tồn cây thuốc ở Sa Pa”, Báo cáo Khoa học Hội nghị toàn quốc lần 3 - Những vấn đề cơ bản trong Khoa học Sự sống, Thái Nguyên, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 37. Vàng Văn Trung (2019), “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Hmông tại xã Trung Lèng, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai”, Khóa luận tốt nghiệp Đại Học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 38. Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội (2006). Danh lục các loài thực vật Việt nam. Nxb Nông nghiệp, Hà nội, tập 2 – 3. 39. UBND xã Vân Trình (2019), Báo cáo tổng kết tình hình kinh tế - xã hội xã Vân Trình năm 2019 phương hướng nhiệm vụ năm 2020. 40. Viện Dược Liệu (1993), Tài Nguyên cây thuốc Việt Nam – Chương Trình tạo nguồn nguyên liệu làm thuốc (KV.02), Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 41. Nguyễn Thị Thanh Vân (2005), Bước đầu tìm hiểu cây thuốc của đồng bào dân tộc thiểu số ở việt nam, sách Nam Bộ Dân tộc và tôn giáo, 165-190. 42. Nguyễn Thị Thanh Vân (2015), Tìm hiểu tri thức sử dụng cây cỏ trong chăm sóc sức khỏe của người H’Mông, Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, 4, 53-58. B. Tiếng nước ngoài 43. Ahmad Cheikhyoussef, Martin Shapi, Kenneth Matengu và Hina Mu Ashekele (2011), “Research on the botany of indigenous knowledge of medicinal plants used by traditional healers in the area Oshikoto,
  62. 52 Namibia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 7(10):10, DOI: 10.1186/1746-4269-7-10 44. Arshad Abbasi, Mir Khan, Munir H Shah, Mohammad Shah, Arshad Pervez, Mushtaq Ahmad (2013), “Ethnobotanical appraisal and cultural values of medicinally important wild edible vegetables of Lesser Himalayas - Pakistan”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 66, DOI:10.1186/1746-4269-9-66 45. Auemporn Junsongduang, Henrik Balslev, Angkhana Inta, Arunothai Jampeetong, Prasit Wangpakapattanawong (2013), “Medicinal plants from swidden fallows and sacred forest of the Karen and the Lawa in Thailand”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 9(1):44, DOI: 10.1186/1746-4269-9-44 46. Behxhet Mustafa, Avni Hajdari, Feriz Krasniqi, Esat Hoxha, Hatixhe Ademi, Cassandra L Quave và Andrea Pieroni (2012), “Medical ethnobotany of the Albanian Alps in Kosovo”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 8(1):6, DOI: 10.1186/1746-4269-8-6 47. Berhane Kidane, Tinde van Andel, Laurentius van der Maesen, Zemede Asfaw (2014), “Use and management of traditional medicinal plants by Maale and Ari ethnic communities in southern Ethiopia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 10(1):46, DOI: 10.1186/1746-4269-10-46 48. Cassandra L. Quave, Manuel Pardo-de-Santayana, and Andrea Pieroni (2012), “Medical Ethnobotany in Europe: From Field Ethnography to a More Culturally Sensitive Evidence-Based CAM?”. Evidence-Based Complementary and Alternative Medicine. Volume 2012, Article ID 156846, 17 pages, DOI: 10.1155/2012/156846 49. Cecilia Almeida, Elba de Amorim, Ulysses de Albuquerque, Maria Maia (2006), “Medicinal plants commonly used in the area Xingo - a place in the semi - arid northeastern Brazil”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 2:15, DOI:10.1186/1746-4269-2-15
  63. 53 50. Eduardo Estrada-Castillón, Miriam Garza-López, José Villarreal- Quintanilla, María Salinas-Rodríguez, Brianda Soto-Mata, Humberto González-Rodríguez, Dino González-Uribe, Israel Cantú-Silva, Artemio Carrillo-Parra, César CantúAyala (2014), “Ethnobotany in Rayones, Nuevo León, México”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 10:62pp 51. Gabriele Volpato, Daimy Godínez, Angela Beyra, Adelaida Barreto (2009), “Use of medicinal plants of Haitian immigrants and their descendants in the province of Camagüey, Cuba”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 5(1):16, DOI: 10.1186/1746-4269-5-16 52. Gaia Luziatelli, Marten Sørensen, Ida Theilade, Per Mølgaard (2010), “Ashaninka medicinal plants: a case study from the indigenous communities of the Bajo Quimiriki, Junín, Peru”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 6(1):21, DOI: 10.1186/1746-4269-6-21 53. Joanne Packera, Nynke Brouwera, David Harringtona, Jitendra Gaikwada, Ronald Heronb, Shoba Ranganathana, Subramanyam Vemulpada, Joanne Jamiea (2012), “An ethnobotanical study of medicinal plants used by indigenous communities Yaegl in northern New South Wales, Australia”, Journal of Ethnopharmacology, 139(1):244-55, DOI: 10.1016/j.jep.2011.11.008 54. Manju Panghal, Vedpriya Arya, Sanjay Yadav, Sunil Kumar, Jaya Yadav (2010), “Indigenous knowledge of medicinal plants used by the community Saperas Khetawas, District Jhajjar, Haryana, India”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 6:4, DOI: 10.1186/1746-4269-6-4 55. Maria Leporatti and Massimo Impieri (2007), “Ethnobotanical notes about some uses of medicinal plants in Alto Tirreno Cosentino area (Calabria, Southern Italy)”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 3(1):34, DOI: 10.1186/1746-4269-3-34
  64. 54 56. Mendrika Razafindraibe, Alyse R Kuhlman, Harison Rabarison, Vonjison Rakotoarimanana, Charlotte Rajeriarison, Nivo Rakotoarivelo, Tabita Randrianarivony, Fortunat Rakotoarivony, Reza Ludovic, Armand Randrianasolo, Rainer W Bussmann (2013), “Medicinal plants used by women from Agnalazaha coastal forests (Southeast Madagascar)”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 9:73, DOI: 10.1186/1746- 4269-9-73. 57. Mi-Jang Song, Hyun Kim, Brian Heldenbrand, Jongwook Jeon, Sanghun Lee (2013), “Ethnopharmacological survey of medicinal plants in Jeju Island, Korea”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 9(1):48, DOI: 10.1186/1746-4269-9-48. 58. Mi-Jang Song, Hyun Kim, Byoung-Yoon Lee, Heldenbrand Brian, Chan- Ho Park, Chang-Woo Hyun (2014), “Analysis of traditional knowledge of medicinal plants from residents in Gayasan National Park (Korea)”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 10(1):74, DOI: 10.1186/1746-4269-10-74 59. Montse Parada, Esperança Carrió, Maria Bonet, Joan Valles (2009), “Ethnobotany of the Alt Empordà region (Catalonia, Iberian Peninsula): Plants used in traditional medicine man”, Journal of Ethnopharmacology, 124,3,609-618, DOI: 10.1016/j.jep.2009.04.050 60. Rainer W Bussmann, Douglas Sharon (2006), “Use of traditional medicinal plants in northern Peru: tracking two thousand years of healthy culture”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 2:47, DOI:10.1186/1746-4269-2-4 61. Soledad Molares, Ana Ladio (2014), “Medicinal plants in the cultural landscape of a Mapuche-Tehuelche community in arid Argentine Patagonia: an eco-sensorial approach”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 10(1):61, DOI: 10.1186/1746-4269-10-61
  65. 55 62. Tilahun Teklehaymanot, Mirutse Giday (2007), “Research on the botany of medicinal plants used by people in Zegie Peninsula, Northwestern Ethiopia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 3(1):12, DOI: 10.1186/1746-4269-3-12 63. Yadav Uprety, Hugo Asselin, Archana Dhakal, Nancy Julien (2012), “Traditional use of medicinal plants in the boreal forest of Canada: review and perspectives”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine, 8(1):7, DOI: 10.1186/1746-4269-8-7 C. Nguồn tài liệu internet 64. Phùng Tuấn Giang (2016), Tiềm năng to lớn của cây thuốc Việt Nam. n126481.html 65. Hải yến (2019), Thời đại của thuốc từ Dược liệu. cua-thuoc-tu-duoc-lieu-55267/
  66. PHỤ LỤC
  67. Phục lục 1: Danh lục các loài cây thuốc được cộng đồng các dân rộc ở xã Vân Trình huyện Thạch An tỉnh Cao Bằng sử dụng Stt Tên khoa học Tên phổ Tên VN Tên KH Tên địa Dạn Môi Bộ Cách sử Công dụng thông của Họ của Họ phương g cây trường phận dụng sống sử dụng Ngành ngoc lan- MAGNOLIOPHYTA Lớp một lá mầm- Liliopsida Zingiberaceae Họ Gừng 1 Amomum villosum Lour Sa nhân Họ Gừng Zingiberaceae Nó nẻng Th 1. R 1. Cc 1. K 1. Ốm sốt Convallariaceae Họ mô đông 2 Disporopsis longifolia Craib Hoàng tinh Họ mô đông Convallariaceae Khinh lài Th 1.2. NĐ, 1.2. Củ 1.2. T,K 1,2. Thuốc bổ trắng R Smilacaceae Họ khúc khắc 3 Heterosmilax Khúc khắc Họ khúc Smilacaceae Khúc Lp 1. R 1. Củ 1. T,K 1. Thuốc bổ gaudichaudiana (Kunth) khắc khắc Maxim Araceae Họ ráy 4 Homalomena occulta Thiên nhiên Họ ráy Araceae Vạt Lp 2.R 2.Cc 2.T,K 2.Khớp (Lour.) Schott kiện Hương 5 Alocasia macrorhizos (L.) Ráy Họ ráy Araceae Vạt vẹo Th 1.Vu 1.Cc 1.T,K 1.Rắn cắn G. Don 6 Alocasia cucullata (Lour.) Ráy túi Họ ráy Araceae Pục Th 2.Vs,Vu 2.L,T 2.T 2.Bỏng Schott Trilliaceae Họ trọng lâu
  68. 7 Paris chinensis Franch Bảy lá một Họ trọng Trilliaceae Cẳn Th 1. NĐ 1.2.3. 1.2.3.T, 1. bệnh tim hoa lâu lưởng 2.Đ,R Cc K 2. gãy xương, 3.Đ hen 3. rắn cắn Zingiberaceae Họ gừng 8 Kaempferia galanga L. Địa liền Họ gừng Zingiberaceae Sa chóng Th 2. Vu 2.Cc 2.K 2.Chấn thương Iridaceae Họ lay ơn 9 Eleutherine bulbosa (Mill.) Sâm đại hành Họ lay ơn Iridaceae Th 2.Vu 2.Cc 2.T,K 2.Thuốc bổ Urban Lớp hai mầm-Maguoliopsida Araliaceae Họ Ngũ Gia Bì 10 Acanthopanax lasiogyne Ngũ Gia Bì Họ Ngũ Gia Araliaceae Mạy tảng Th 1. Vu, R 1. Cc 1. K 1. xương Harms Bì khớp 11 Schefflera heptaphylla (L.) Ngũ Gia Bì Họ Ngũ Gia Araliaceae Mác tọc Lp 1.2.NĐ 1.2.Cc 1.2.T,K 1.Thần kinh Frodin Chân Chim Bì tẹc tọa, xương khớp 2.chấn thương Moraceae Họ Dâu Tằm 12 Ficus benjamina L. Cây Si Họ Dâu Moraceae Mạy rày Mg 1-2. R, 1. R, L 1.T,K 1. làm thuốc Tằm NĐ 2. Cc 2. K bổ, bệnh khớp. 2.Khớp, đau lưng. Myrsinaceae Họ Đơn nem 13 Ardisia silvestris Khôi nhung Họ Đơn Myrsinaceae Thài rán Na 2.R,Đ 1,2. Cc 1, 2. T,K 1.Xương khớ, nem 1:Đ dạ dày 2.Dạ dày
  69. 14 Maesa perlarius (Lour.) Merr Đơn nem Họ Đơn nem Myrsinaceae Thạp lợt Na 3.R 3.R 3.K 3.Phù nề Valerianaceae Họ nữ lang 15 Valeriana hardwickii Wall. Cẩu tích Họ nữ lang Valerianaceae Cút báng Th 1.2. R 1, 2.Củ 1, 2.K 1. Thuốc bổ, in Roxb Xương khớp 2.dạ dày Sapindaceae Họ bồ hòn 16 Dimocarpus longan Lour Nhãn Họ bồ hòn Sapindaceae Mác nhàn Me 1.Vu,R 1.L,R 1.T,K 1.Ốm sốt Lamiaceae Họ Bạc Hà 17 Perilla frutescens (L.) Britt Tía tô Họ Bạc Hà Lamiaceae Chẻ ro Th 1.Vu 1.Cc 1.T 1.Ốm sốt 18 Acrocephalus indicus Nhân trần Họ Bạc Hà Lamiaceae Booc sinh Th 1. R, Vu 1. Cc 1. K 1. Giải nhiệt (Burm. f.) Kuntze 2. Vs, Vu 2. L 2. T 2. Ho gió Oxalidaceae Họ Me Đất 19 Averrhoa bilimbi L. Cây khế Họ Me Đất Oxalidaceae Mác Mi 1.Đ,R,V 1.L 1.T 1.Ốm sốt, dị phường u ứng Polygonaceae Họ Rau răm 20 Fallopia multiflora (Thunb.) Hà Thủ Ô đỏ Họ Rau răm Polygonaceae Hà thủ ô Lp 1. NĐ 1 Củ 1 T, K 1. Đau bụng Haraldson 21 Polygonum chiensis L. Thồm lồm Họ Rau răm Polygonaceae Nó thớn Th 3.NĐ 3.Cc 3.T,K 3.Gút Caricaceae Họ Đu đủ 22 Carica papaya L. Đu Đủ đực Họ Đu đủ Caricaceae Mác rung Th 1. Vu 1. R, H 1. T 1. Mụn nhọt, phủ quai bị Sargentodoxaceae Họ huyết đằng 23 Sargentodoxa cuneata Huyết đằng Họ huyết Sargentodoxace Lp 1.NĐ 1.Cc 1.T,K 1.Suy nhược (Oliv.) Rehd. et Wiis đằng ae Verbenaceae Họ cỏ roi ngụa
  70. 24 Clerodendrum cyrtophyllum Đắng cảy Họ cỏ roi Verbenaceae Mi 1.Đ 1.R 1.T,K 1.Phong tháp Turcz ngụa Gnetaceae Họ dây gắm 25 Gnetum montanum Markgr Dây gắm Họ dây gắm Gnetaceae Mác mổi Lp .1. R 1.Cc 1. K 1. Thận Fabaceae Họ đậu 26 Erythrina variegata L. Lá vông Họ đậu Fabaceae Mạy Me .1. R .1. L 1 T 1 Dạ dày, hạ toong huyết áp 27 Styphnolobium japonicum Hòe, Lài Họ đậu Fabaceae Hoa hòe Mi 2.Vu 2.H 2.T,K 2.Cao huyết (L.) Schott - Sophora luồng (Tày), áp japonica L. Hòe hoa, Hòe mễ Euphorbiaceae Họ thầu dầu 28 Sauropus androgynus (L.) Rau ngót Họ thầu dầu Euphorbiaceae Phắc ràu Mi 1.R,NĐ 1.L,V 1.T,K 1.Vô sinh Merr nam, táo bón 29 Mallotus philippinesis Cánh kiến Họ thầu dầu Euphorbiaceae Rùng hao Mi 1.Vu 1.L 1.K 1.Rắn cắn (Lamk.) Muell.-Arg Rutaceae Họ cam 30 Zanthoxylym nitidum Xuyên tiêu Họ cam Rutaceae Chạ Lp 1. R 1. R 1.T 1.Đau răng, (Roxb.) DC chanh viên phụ khoa 31 Citrus aurantifolia (Christm. Chanh Họ cam Rutaceae Mác Mi 2.Vu 2.Q 2.T,K 2.Hen & Panzer) Swingle chanh 32 Citrus grandis (L.) Osb Bưởi Họ cam Rutaceae Mác pàng Mi 1.R,Vu 1.L 1.T 1.Buồn nôn Bignoniaceae Họ chùm ớt 33 Oroxylum indicum (L.) Núc nác Họ chùm ớt Bignoniaceae Ca liệng Me 1.2.3. R, 1.2.3. 1.2.3.K 1. Bại liệt, Kurz NĐ Vỏ kháng sinh 2. Kháng sinh đường ruột 3.Tim,
  71. máu,gan Menispermaceae Họ tiết dê 34 Fibraurea tinctoria Lour Hoàng đằng Họ tiết dê Menispermacea Lạc khem Lp 1.2. NĐ, 1.2. Củ 1.2. T,K 1,2. Thuốc bổ e R 35 Tinospora sinensis (Lour.) Khoan cân Họ tiết dê Menispermacea Khau bẻo Lp 1.Vu 1.Cc 1.K 1.Viêm họng Merr đằng e 36 Stephania rotunda Lour Bình vôi Họ tiết dê Menispermacea Lp 1. NĐ 1. Củ 1. K 1. Thuốc bổ e Elaeagnaceae Họ nhót 37 Elaeagnus bonii Lecomte Nhót rừng Họ nhót Elaeagnaceae Mác lót Lp 2.NĐ 2.R 2.K 2.Thận nọc Myrtaceae Họ Sim 38 Psidium guajava L. Ôỉ Họ Sim Myrtaceae Mác ội Mi 2.Vu,R 2.L 2.K 2.Kiết lị 39 Syzygium cuminii (L.) Vối rừng Họ Sim Myrtaceae Mg 2.R 2.V 2.T,K 2. Viêm loét Skells Dạ dày Solanaceae Họ cà 40 Capsicum frutescens L Ớt Họ cà Solanaceae Mác trêu Th 2.Vu 1.Cc 1.T,K 1.Chảy máu cam 41 Datura metel L. Cà độc dược Họ cà Solanaceae Mác trẻ Th 3.Vu 3.Cc 3.T,K 3.Đau răng phạ Piperaceae Họ Hồ tiêu 42 Piper lolot C. DC Lá lốt Họ Hồ tiêu Piperaceae Phắc pát Th 1. Vu 1. R 1. T,K 1. Đau thần kinh tọa Lauraceae Họ Long não 43 Litsea cubeba (Lour.) Pers Màng tang Họ Long Lauraceae Khẩu Mi 1. R 1. R 1. T,K 1. Đau thần
  72. não khinh kinh tọa, Rắn cắn Fabaceae Họ Đậu 44 Desmodium styracifolium Kim tiền thảo Họ Đậu Fabaceae Trạ thố Th 1.Vu 1.Cc 1.K 1.Bại liệt, (Osbeck) Merr tum phong thấp Alangiaceae Họ Thôi ba 45 Alangium chinense (Lour.) Thôi ba Họ Thôi ba Alangiaceae Mạy đa Mi 1.Vu 1.L,V 1.T,K 1.Rắn cắn, Harms viêm tai giữa Altingiaceae Họ Tô hạp 46 Liquidambar formosana Sau sau Họ Tô hạp Altingiaceae Sau phia Mg 1.Vu 1.V,R, 1.K 1.Thần kinh Hance L tọa, thận Caesalpiniaceae Họ Vang 47 Saraca dives Pierre Vàng anh Họ Vang Caesalpiniaceae Mạy mạ Mi 1.Vu 1.Cc 1.T,K 1.Chấn thương, cầm máu, đau rát họng 48 Chamaecrista mimosoides Thảo quyết Họ Vang Caesalpiniaceae Nhả bẻ Na 1.Vu 1.H 1.K 1.An thần (L.) Greene minh Melastomataceae Họ Mua 49 Melastoma malabathricum Mua Họ Mua Melastomatacea Mác náp Na 1.Vu 1. R 1. T 1. Đau rát L. - Melastoma candidum e họng D. Don Iridaceae Họ Lay ơn 50 Belamcanda chinensis (L.) Rẻ quạt Họ Lay ơn Iridaceae Th 1.Vu 1.L 1.T,K 1.Ho DC Asteraceae Họ Cúc 51 Eclipta prostrata (L.) L Nhọ nồi Họ Cúc Asteraceae Táp héc Th 2.Vu 2.Cc 2.K 2. Loét Đại tràng, nôn mửa Amaranthaceae Họ Rau dền