Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên

pdf 100 trang thiennha21 20/04/2022 3220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nghien_cuu_tri_thuc_ban_dia_su_dung_cay_thuoc_cua.pdf

Nội dung text: Khóa luận Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM  TÒNG THỊ KIM NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI XÃ PHÚ XUYÊN, HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGHUYÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : NLKH Khoa : Lâm Nghiệp Khóa : 2016 - 2020 Thái Nguyên, năm 2020
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM  TÒNG THỊ KIM NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI XÃ PHÚ XUYÊN, HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : NLKH Lớp : K48 - NLKH Khoa : Lâm nghiệp Khóa học : 2016 - 2020 Giảng viên hướng dẫn : TS. Đặng Kim Tuyến Thái Nguyên, năm 2020
  3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu là quá trình điều tra trên thực địa hoàn toàn trung thực, chưa công bố trên các tài liệu, nếu có gì sai tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn. Thái Nguyên, ngày 10 tháng 06 năm 2020 XÁC NHẬN CỦA GVHD NGƯỜI VIẾT CAM ĐOAN Đặng Kim Tuyến Nguyễn Thị Thu Hiền Tòng Thị Kim Xác nhận của giáo viên chấm phản biện Giáo viên chấm phản biện xác nhận sinh viên đã sửa sai sót sau khi hội đồng chấm yêu cầu. (Ký, ghi rõ họ tên)
  4. ii LỜI CẢM ƠN Được sự phân công của Nhà trường, Khoa Lâm Nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, sau 5 tháng thực tập em đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc thiểu số tại xã Phú Xuyên, Huyện Đại Từ, Tỉnh Thái Nguyên”. Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, ngoài sự nỗ lực học hỏi của bản thân còn có sự hướng dẫn tận tình của thầy cô, bạn bè, cô chú, anh chị tại địa bàn xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Xin cảm ơn hai cô giáo – TS. Đặng Kim Tuyến, TS. Nguyễn Thị Thu Hiền, người đã hướng dẫn cho em trong suốt thời gian thực tập đã chỉ dẫn, định hướng đi cho em để em hoàn thành tốt nhiệm vụ. Xin cảm ơn sự giúp đỡ của cán bộ Ủy ban Nhân dân xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên và cán bộ Kiểm lâm Khu bảo tồn thiên nhiên Đại Từ, cùng sự chỉ bảo tận tình của các thầy lang, bà mế thuộc xã Phú Xuyên. Đồng thời xin cảm ơn thầy cô giáo Khoa Lâm nghiệp, các bộ phận liên quan thuộc Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên và người thân trong gia đình cùng bạn bè thân thiết đã giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Mặc dù đã nỗ lực cố gắng, tuy nhiên do hạn chế về kinh nghiệm cũng như về thời gian và trình độ nghiên cứu nên khóa luận tốt nghiệp không thể tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến góp ý, chỉ bảo của thầy cô cũng như các bạn đọc khác để khóa luận được hoàn thiện hơn nữa. Tôi xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày 30 tháng 06 năm 2020 Sinh viên Tòng Thị Kim
  5. iii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1. Mẫu bảng điều tra nguồn cây thuốc được cộng đồng một số dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng và điều trị bệnh Error! Bookmark not defined. Bảng 4.1. Số loài cây thuốc đã phát hiện ở khu vực nghiên cứu 27 Bảng 4.2. Số lượng họ, chi, loài thuộc hai lớp trong ngành Ngọc lan 28 Bảng 4.3. Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ 30 Bảng 4.4. Các họ đa dạng nhất ở khu vực nghiên cứu 31 Bảng 4.5. So sánh các họ có nhiều loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu (1) với số loài của từng họ trong hệ thực vật Việt Nam (2) 32 Bảng 4.6. Đa dạng về dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu 33 Bảng 4.7. Sự phân bố nguồn cây thuốc theo môi trường sống ở khu vực nghiên cứu 35 Bảng 4.8. Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận 37 Bảng 4.9. Đa dạng của các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc 40 Bảng 4.10. Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể 42 Bảng 4.11. Danh sách cây thuốc được cả 2 dân tộc Nùng, Dao tại xã Phú Xuyên sử dụng 44 Bảng 4.12. Số lượng thầy thuốc được phỏng vấn theo từng dân tộc ở KVNC 46 Bảng 4.13. Tỷ lệ về độ tuổi và giới tính của các thầy thuốc ở KVNC 46 Bảng 4.14. Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ cây Mã tiền lông và cây Vẩy ốc 48
  6. iv DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 3.1: Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài 23 Hình 4.1: Hình ảnh một số loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu 29 Hình 4.2: Tỷ lệ nhóm bệnh chữa trị từ nguồn cây thuốc theo kinh nghiệm sử dụng trong cộng đồng dân tộc 46 Hình 4.3: Hoạt tính ức chế E. coli và S. aureus của cây Mã tiền lông và cây Vẩy ốc 49
  7. v DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ cái viết tắt/ký hiệu Cụm từ đầy đủ (1) Dân tộc Nùng (2) Dân tộc Dao Cc Cả cây Ha,Ho Quả, hoa HTKK Hoạt tính kháng khuẩn KBT Khu bảo tồn KVNC Khu vực nghiên cứu KH&CN Khoa học & công nghệ L Lá Lp Dây leo Me Cây gỗ trung bình Mi Cây gỗ nhỏ Na Cây bụi NCTN & MT Nghiên cứu tài nguyên & môi trường NĐ - CP Nghị định Chính phủ R Rễ R Sống ở rừng ST & TNSV Sinh thái & tài nguyên sinh vật Th Thân thảo/thân UBND Ủy ban nhân dân V Vỏ Vs Sống ven sông ven suối Vu Sống ở vườn
  8. vi MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN ii DANH MỤC CÁC BẢNG iii DANH MỤC CÁC HÌNH iv DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT v PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài 2 1.3. Ý nghĩa của đề tài 2 1.3.1. Ý nghĩa khoa học 2 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 2 PHẦN 2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3 2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu 3 2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước 3 2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới 3 2.2.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở trong nước 7 2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu 17 2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu 17 2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu 19 PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP . 20 NGHIÊN CỨU 20 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 20 3.2. Nội dung nghiên cứu 20 3.3. Phương pháp nghiên cứu 21 PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 27
  9. vii 4.1. Đa dạng các bậc taxon nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên 27 4.1.1. Đa dạng các bậc taxon 27 4.1.2. Đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc 33 4.1.3. Đa dạng về môi trường sống của thực vật làm thuốc 35 4.2 Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh thái Nguyên 37 4.3. Vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Phú Xuyên, Huyện Đại Từ, Tỉnh Thái Nguyên 39 4.3.1. Kinh nghiệm sử dụng bộ phận làm thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu sốở xã Phú Xuyên 39 4.3.2. Kinh nghiệm về nhóm bệnh chữa trị của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Phú Xuyên 42 4.3.3. Ảnh hưởng của sự giao thoa giữa các dân tộc đến vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc ở xã Phú Xuyên 44 4.3.4 Vấn đề truyền thụ kiến thức về cây thuốc trong cộng đồng các dân tộc ở xã Phú Xuyên 45 4.4. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu 47 PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 50 5.1. Kết luận 50 5.2. Đề nghị 51 TÀI LIỆU THAM KHẢO 53 PHỤ LỤC
  10. 1 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một quốc gia có 3/4 diện tích đồi núi, là nơi có nguồn tài nguyên cây thuốc đa dạng và là nơi cư trú của 54 dân tộc mà phần lớn là dân tộc thiểu số với khoảng 24 triệu người, chiếm hơn 1/3 dân số quốc gia (Trần Thúy và cs., 2005) [21]. Chính sự đa dạng về dân tộc người cùng với sự khác biệt về điều kiện, thổ nhưỡng, khí hậu, phong tục tập quán, văn hóa từng cộng đồng dân tộc thiểu số đã tạo nên sự đa dạng và phong phú trong vốn tri thức dân gian về kinh nghiệm sử dụng cây cỏ xung quanh mình làm cây thuốc chữa bệnh. Đại Từ là huyện có tài nguyên rừng tương đối phong phú và đa dạng so với các huyện khác của tỉnh Thái Nguyên. Huyện Đại Từ có diện tích rừng là 24.469 ha chiếm khoảng 23.94% tổng diện tích rừng toàn tỉnh, chủ yếu là rừng hệ thứ sinh. Hệ sinh thái ở Đại Từ còn tương đối tốt, nhiều động thực vật quý hiếm còn tồn tại đặc biệt là ở vùng cao Quân Chu , Phúc Lương, Phục Linh, Quân Chu, Tân Linh, Tân Thái và Phú Xuyên. Huyện Đại Từ có 30 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn và 28 xã. Người dân ở đây chủ yếu là các đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu Kinh, Tày, Nùng, Dao, Sán Dìu ,Thái, Hoa . Trong đó đời sống người Sán Dìu và người Dao có quan hệ mất thiết với tài nguyên thiên nhiên. Mỗi dân tộc lại mang bản sắc và kinh nghiệm chữa bệnh bằng thực vật làm thuốc rất đa dạng. Trong đó, cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên cũng có nhiều kinh nghiệm độc đáo về việc chữa bệnh bằng cây thuốc. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng khai thác tài nguyên rừng (Cây thuốc, cây cảnh, rau rừng, ) của người dân địa phương bán cho các khách du lịch, tham quan dẫn đến nguồn tài nguyên cây thuốc ngày càng bị suy giảm. Mặt khác những bài
  11. 2 thuốc được cộng đồng dân tộc thiểu số sử dụng từ lâu đời trong việc phòng và trị một số bệnh nhưng hoạt tính sinh học và cơ sở khoa học của các bài thuốc chưa được nghiên cứu, chứng minh bằng con đường khoa học. Vì vậy, để cung cấp các cơ sở khoa học góp phần bảo vệ nguồn gen cây thuốc, bảo tồn và phát triển các bài thuốc của một số cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tôi đề xuất ý tưởng đề tài: “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên”. 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài - Đánh giá được tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao,Nùng tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. - Đánh giá được hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá trị cao được của cộng đồng dân tộc Dao,Nùng tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên sử dụng trong phòng và trị bệnh. - Xác định được những cây thuốc thuộc diện quý hiếm ở Việt Nam, hiện có ở khu vực nghiên cứu. 1.3. Ý nghĩa của đề tài 1.3.1. Ý nghĩa khoa học - Xác định được tri thức bản địa sử dụng các loài cây thuốc của cộng đồng dân tộc tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. - Xác định được hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá trị cao tại khu vực nghiên cứu. 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn - Kết quả thu được sẽ là cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất công tác bảo tồn và phát triển nguồn gen cây thuốc của của cộng đồng dân tộc tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
  12. 3 PHẦN 2 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu Phòng và chữa bệnh bằng các loài thảo dược đã được con người sử dụng từ hàng ngàn năm nay. Nó vẫn đang tồn tại và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Hàng năm, con người đã tìm ra được những hoạt chất quý trong các loài thảo dược có thể phòng và chữa trị được những căn bệnh từ đơn giản hàng ngày như cảm cúm, ho sốt đến những căn bệnh nan y như ung thư, bệnh tim, suy thận, hay những căn bệnh nhiệt đới nguy hiểm như dịch cúm A H5N1, H1N1, Các cây thuốc và bài thuốc có được nhờ kinh nghiệm tích lũy qua nhiều thế hệ giờ đây đang dần mất đi theo thời gian. Do đó việc gìn giữ vốn kiến thức quý báu trong việc sử dụng cây thuốc và bài thuốc từ thảo dược là việc hết sức cần thiết. Theo tổ chức y tế thế giới WHO, khoảng 80% dân số hiện nay trên thế giới vẫn dựa vào thuốc có nguồn gốc tự nhiên trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng (Nguyễn Hoàng Sơn, 2014) [51]. Trong tuyên ngôn Alma Ata năm 1978 và “Hướng dẫn đánh giá y học cổ truyền” năm 1991, WHO luôn khuyến nghị dùng các thuốc cổ truyền vào chăm sóc sức khỏe ban đầu (Nguyễn Hoàng Sơn, 2014) [51]. Vậy, nghiên cứu về các loài cây thuốc là hết sức cần thiết cho việc bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc và bài thuốc cho thế hệ hôm nay và mai sau. 2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước 2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới Tổ tiên loài người từ khi xuất hiện đã gắn bó với thiên nhiên, trải qua quá trình đấu tranh với thiên nhiên và bệnh tật để sinh tồn. Trong quá trình đó, tổ tiên chúng ta ngay từ khi còn là các tộc người đã sớm phát hiện ra những cây cỏ trong tự nhiên có thể sử dụng làm thuốc, đồng thời trong cuộc
  13. 4 sống lao động, đấu tranh với bệnh tật đã sáng tạo ra những bài thuốc và phương pháp chữa bệnh. Trong những năm gần đây, những nghiên cứu về sử dụng cây thuốc cho mục đích chữa bệnh của người dân bản địa ở các khu vực, các quốc gia được các nhà khoa học thực hiện trên khắp các châu lục trên thế giới: Ở Châu Á: Châu Á là châu lục có nhiều dân tộc bản địa sinh sống, với vốn tri thức bản địa về việc sử dụng các loài thực vật làm thuốc phong phú và đa dạng, đã có những nghiên cứu cụ thể ở các cộng đồng người, các khu vực khác nhau như: Arshad Abbasi và cs. (2012) [37] khi thẩm định về thực vật học và các giá trị văn hóa của các loại rau ăn được hoang dã quan trọng trong y học của Lesser dãy Hymalaya đã ghi nhận 45 loại rau ăn được hoang dã thuộc 38 chi và 24 họ đã được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau và tiêu thụ. Auemporn Junsongduang và cs. (2013) [38] nghiên cứu về cây thuốc từ nương rẫy và rừng thiêng của dân tộc Karen và Lawa ở Thái Lan đã chỉ ra 365 loài thực vật thuộc 244 chi và 82 họ được sử dụng làm thuốc, trong đó các cây thuộc họ Euphorbiaceae và Lauraceae được người dân sử dụng nhiều nhất. Homervergel G. Ong và Young - Dong Kim (2014) [49] nghiên cứu về thực vật học định lượng của các cây thuốc được sử dụng bởi các nhóm bản địa Ati Negrito ở đảo Guimaras, Philippin đã tìm thấy 142 loài cây dược liệu thuộc 55 họ được sử dụng trong 16 loại bệnh. Dol Luitel và cs. (2014) [44] khi nghiên cứu cây thuốc được sử dụng bởi cộng đồng người Tamang ở quận Makawanpur của Trung tâm Nepal đã
  14. 5 tìm thấy 161 loài thực vật thuộc 144 chi và 86 họ đã được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau. Ở Châu Âu: Y học dân gian châu Âu có một lịch sử lâu dài, những tri thức dân gian bản địa được truyền lại cho các thế hệ sau bằng việc ghi chép lại và thông qua truyền miệng qua nhiều thế kỉ. Những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về việc sử dụng các loài thực vật để điều trị các loại bệnh của người dân bản địa được thực hiện: Behxhet Mustafa và cs. (2012) [40] nghiên cứu về các loài thực vật được sử dụng làm thuốc của dãy núi Alps Albania ở Kosovo đã ghi nhận 98 loài thực vật thuộc 39 họ được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu thuộc các họ Rosaceae, Asteraceae và Lamiaceae. Gorka Menedez-Baceta và cs. (2014) [48] nghiên cứu về cây dược liệu truyền thống được sử dụng ở phía Tây Bắc của xứ Basque, bán đảo Iberia đã chỉ ra 139 loài thực vật thuộc 58 họ được người dân sử dụng để điều trị bệnh, trong đó các cây được sử sụng nhiều nhất thuộc họ Asteraceae. Ở Châu Mĩ: Việc nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc của người dân bản địa cũng được thực hiện: Cecilia Almeida và cs. (2006) [42] nghiên cứu cây thuốc phổ biến được sử dụng trong các khu vực Xingo – một khu vực khô hạn ở Đông Bắc Brazil đã tìm thấy 187 loài thực vật thuộc 128 chi và 64 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh: cảm lạnh thông thường, viêm phế quản, bệnh tim mạch, bệnh thận, viêm và an thần. Gabriele Volpato và cs. (2009) [46] nghiên cứu sử dụng cây thuốc của người nhập cư Haiti và con cháu của họ ở tỉnh Camaguey, Cuba đã chỉ ra 123
  15. 6 loài thực vật thuộc 112 chi và 63 họ được người nhập cư Haiti sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau. Gaia Luziatelli và cs. (2010) [47] nghiên cứu cây thuốc của cộng đồng Ashaninka (một nghiên cứu từ các cộng đồng bản địa của Bajo Quimiriki, Junin, Peru đã tìm thấy 402 loài thực vật được cộng đồng sử dụng để điều trị các loại bệnh, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu thuộc các họ: Asteraceae, Araceae, Rubiaceae, Euphorbiaceae, Solanaceae và Piperaceae. Theo nghiên cứu “Thực vật dân tộc của người dân Rayones, Nuevo León, Mexico” năm 2014, đã ghi nhận 252 loài thực vật thuộc 228 chi và 91 họ được người dân Rayones sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó các họ được sử dụng chủ yếu là: Asteraceae và Fabaceae (Eduardo Estrada - Castillón và cs., 2014) [45]. Ở Châu Phi: Người dân Châu Phi đã sử dụng cây thuốc bản địa hàng nghìn năm nay để bảo vệ sức khỏe của họ, những nghiên cứu gần đây cho thấy việc sử dụng cây thuốc của những người dân bản địa ở châu Phi rất đa dạng và phong phú (Cây thuốc Châu Phi, 2013) [36]. Theo nghiên cứu của David J Simbo “Một cuộc khảo sát về các loài thực vật được sử dụng làm thuốc trong Babungo, khu vực Tây Bắc, Cameroon”, đã xác định và ghi nhận 107 loài thực vật thuộc 98 chi và 54 họ được người dân địa phương sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó họ được sử dụng chủ yếu là họ Asteraceae (David J Simbo, 2010) [43]. “Nghiên cứu về thực vật học và kiến thức bản địa về sử dụng cây thuốc của các thầy lang trong khu vực Oshikoto, Namibia”, đã tìm thấy 61 loài cây thuốc thuộc 25 họ được các thầy lang trong khu vực sử dụng để điều trị các
  16. 7 bệnh khác nhau như: Tâm thần, nhiễm trùng da, vết thương ngoài da, rắn cắn và các vấn đề tim mạch (Ahmad Cheikhyoussef và cs., 2011) [36]. Nghiên cứu “cây thuốc được sử dụng bởi phụ nữ từ rừng ven biển Agnalazaha Đông Nam Madagascar”, đã thống kê được 152 loài cây thuốc được sử dụng bởi người dân địa phương để điều trị các bệnh, trong đó ghi nhận 8 loài được sử dụng bởi những người phụ nữ để điều trị các biến chứng trong khi sinh, các bệnh nhiệt đới như: sốt rét, giun chỉ và các bệnh liên quan đến tình dục như bệnh lậu và giang mai. Nghiên cứu về “sử dụng và quản lý cây thuốc truyền thống của cộng đồng dân tộc Maale và Ari, ở miền nam Ethiopia”, đã ghi nhận 128 loài cây thuốc thuộc 111 chi và 49 họ được cộng đồng người Maale và Ari sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau (Berhane Kidane và cs., 2014) [41]. Kết quả nghiên cứu về cây thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền bởi những người Oromo, quận Ghimbi, Tây Nam Ethiopia đã thống kê được 49 loài cây thuốc thuộc 31 họ và 46 chi được người Oromo sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau (Balcha Abera, 2014) [39]. Như vậy, việc điều tra và thống kê các loài cây thuốc đã để lại những công trình mang tính khoa học, tính dân tộc sâu sắc, cho thấy vốn tri thức dân gian bản địa về sử dụng cây thuốc trên thế giới là vô cùng đa dạng và phong phú. 2.2.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở trong nước Ở Việt Nam, tập quán sử dụng cây thuốc đã có từ rất lâu đời. Trải qua hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã phải trải qua các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đấu tranh với thiên nhiên và bệnh tật. Từ những buổi đầu sơ khai, từ khi con người còn sống theo lối nguyên thủy, trong quá trình tìm tòi thức ăn, tổ tiên chúng ta đã phát hiện ra công dụng và tác hại của nhiều loại cây. Suốt một quãng thời gian dài như vậy, tổ tiên
  17. 8 chúng ta đã tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm, biết lợi dụng tính chất của các loài cây rừng để làm thức ăn và làm thuốc chữa bệnh (Trần Thúy và cs., 2005) [21]. Thế kỷ thứ XI (TCN), Người dân Việt Nam ta có tục ăn trầu cho ấm người, thơm miệng, uống nước chè xanh cho mát và nụ vối cho dễ tiêu, điều đó nói lên những hiểu biết về dinh dưỡng và sử dụng thuốc của dân tộc (Lê Trần Đức, 1997) [9]. Từ xa xưa, thời Hùng Vương, tổ tiên ta đã biết nấu rượu, biết dùng Thủy ngân để ướp xác và sử sách đã ghi chép về một lương y tên là Thôi Vỹ đã biết chữa bệnh lao hạch ở thời An Dương Vương (257 – 207) (Trần Thúy và cs., 2005) [21]. Thời nhà Lý (1010 – 1221) đã có tổ chức Ty Thái Y chăm lo và bảo vệ sức khỏe cho nhà vua, có nhiều thầy thuốc chuyên lo việc chữa bệnh cho nhân dân và phương pháp chữa bệnh bằng tâm lý liệu pháp phát triển. Trong sử sách còn ghi lại năm 1136, vua Lý Thần Tông khi bị điên đã được lương y Nguyễn Chí Thành người Gia Viễn – Ninh Bình dùng tâm lý liệu pháp và tắm nước Bồ hòn chữa cho khỏi bệnh. Nhà Lý đặt quan hệ với Tống Huy Tông (Trung Quốc) trao đổi thuốc Nam lấy thuốc Bắc (Trần Thúy và cs., 2005) [21]. Ở thời này, làng Đại Yên là một làng thuốc nổi tiếng, chuyên trồng và bán các loại cây thuốc Nam phục vụ công tác chữa bệnh (Viện dược liệu, 1993) [27]. Thời nhà Trần (1224 – 1399), y học cũng khá phát triển, đã có kế hoạch tự túc thuốc Nam để kháng chiến. Tướng Phạm Ngũ Lão đã trồng cây thuốc ở Vạn An và Dược Sơn (xã Hưng Đạo – Chí Linh – Hải Dương) để cung cấp cho quân y (Lê Trần Đức, 1997) [9]. Nổi bật ở thời này là nhà sư Tuệ Tĩnh (Nguyễn Bá Tĩnh) – được nhân dân tôn trọng, gọi là “Ông thánh thuốc Nam”. Tuệ Tĩnh đã xây dựng 74 ngôi chùa chữa bệnh cho nhân dân không lấy tiền
  18. 9 và gây phong trào trồng thuốc ở gia đình. Ông là một đại sư nước Việt dùng thuốc Nam giảm giá trị của thuốc Bắc, sắc thuốc chữa bệnh cho nhân dân với phương châm: “thuốc Nam chữa bệnh người Nam” ông đã truyền bá y dược cổ truyền cho nhân dân trong các tác phẩm (Lê Trần Đức, 1997) [9]. Thời kỳ nhà Lê (1428 – 1876) đã có những chủ trương tiến bộ trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân, tổ chức Thái Y Viện, có lương y chăm lo việc chữa bệnh cho quân đội, hàng năm tổ chức các đợt phòng và chống dịch bệnh cho nhân dân. Trong giai đoạn này có làng thuốc ở thôn Nghĩa Trai, huyện Văn Lâm, hiện nay vẫn còn tồn tại và phát triển (Trần Thúy và cs., 2005) [21]. Thế kỷ XVIII, Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông (1729 – 1791) đã thừa kế dược học của Tuệ Tĩnh chép vào tập “Lĩnh Nam bản thảo” nội dung gồm 496 vị thuốc Nam của “Nam dược thần hiệu” và phát hiện thêm hơn 300 vị nữa. Tác giả đã để lại bộ sách thuốc rất có giá trị là: “Tân Hoa Hải Thượng Lãn Ông y tông tâm lĩnh dương an toàn trạch” gọi tắt là “Lãn Ông Y Nghiệp” hay “Lãn Ông Y Tập” gồm 66 quyển (Nguyễn Nhân Thống, 2008) [19]. Suốt 30 năm của cuộc dời mình, tác giả đã xây dựng được nền móng cho nền y học cổ truyền Việt Nam toàn diện cả về lý luận, phương pháp điều trị và dược liệu. Ngoài các bộ sách nêu trên, còn kể đến tập “Vạn phương thập nghiệm” của Nguyễn Nho và Ngô Văn Tĩnh gồm 8 tập, xuất bản 1763. Tập “Nam bang thảo mộc” của Trần Nguyệt Phương mô tả 100 loài cây thuốc Nam, xuất bản năm 1858 (Lê Trần Đức, 1997) [9]. Thời kỳ Tây Sơn (1788 – 1808) Nguyễn Hoành đã để lại tập “Nam dược” với 620 vị thuốc, với các phương thuốc kinh nghiệm gia truyền (Lê Trần Đức, 1997) [9]. Thời kỳ từ năm 1802 – 1883, nhà Nguyễn cũng tổ chức Thái Y Viện, tổ chức điều trị bệnh phong tập trung, mở trường dạy thuốc ở Huế (Trần Thúy
  19. 10 và cs., 2005) [21]. Nguyễn Quang Lượng, Nguyễn Kinh, là những danh y nổi tiếng thời này, đã góp phần phát triển nền y học với quyển: “Nam dược tập nghiệm quốc âm” bằng chữ Nôm của Nguyễn Quang Lượng về phương thuốc dân gian. Thời kỳ Pháp thuộc (1848 – 1945), y học cổ truyền nước ta có một số hoạt động như: Thành lập các hội y học ở Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ; mở các lớp huấn luyện y học cổ truyền, mở các phòng chữa bệnh, tổ chức triển lãm y học cổ truyền, (Trần Thúy và cs., 2005) [21]. Đến đầu thế kỷ XX, đã cho xuất bản một số sách Y học cổ truyền bằng chữ quốc ngữ như “Việt Nam dược học” của Phó Đức Thành. Nhiều nhà thực vật học người Pháp và người Việt góp công nghiên cứu cây thuốc Việt Nam, như: bộ “Trung Việt dược tính hợp biên” của Đinh Nho Chân với 1.600 vị thuốc Nam Bắc. Công trình nghiên cứu của Crévót, Pétélot. Pétélot đã cho xuất bản bộ “Catalogue des produits de L’Indochine” (1928 – 1935), trong đó tập V (Produits medicinaux, 1928) đã mô tả 368 cây thuốc và vị thuốc là các loài thực vật có hoa. Năm 1952, tác giả đã cho bổ sung và xây dựng thành bộ “Les plantes de médicinales du Cambodge, du Laos et du Vietnam”, gồm 4 tập và thống kê được 1.482 vị thuốc thảo mộc ở ba nước Đông Dương (Lê Thị Thanh Hương, 2007) [12]. Sau cách mạng tháng 8 – 1945, y dược học cổ truyền đạt được những thành tựu to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Bộ y tế cùng y học hiện đại, sức khỏe của người dân được quan tâm và chăm lo chu đáo hơn. Chỉ thị số 210 TTG/VG ngày 06/12/1966 của thủ tướng chính phủ đã nhận định như sau: “Dược liệu nước ta rất nhiều, gồm các loài cây thuốc và một số động vật. Có nhiều loài quý, hiếm ở trên thế giới. Dược liệu ở nước ta chẳng những là cơ sở cho nền y học dân tộc mà còn có một vị trí quan trọng trong nền y học hiện đại, chẳng những là nguồn tự cung tự cấp về các loài cây thuốc Nam, thuốc
  20. 11 Bắc, thuốc Tây, mà còn là loại hàng xuất khẩu có giá trị phải coi trọng dược liệu như cây công nghiệp cao cấp” (Võ Văn Chi, 1996) [5]. Chính vì vậy, sau khi nước nhà thống nhất, việc nghiên cứu cây thuốc ở nước ta được quan tâm nhiều hơn. Có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu, tìm tòi và phát hiện thêm nhiều loài cây thuốc mới. Tiêu biểu có thể kể đến bộ sách “Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam” gồm 3 tập, do Đỗ Tất Lợi biên soạn năm 1957 và đến năm 1961, cuốn sách này được tái bản in thành 2 tập. Trong đó, tác giả đã mô tả chi tiết và nêu công dụng của hơn 100 cây thuốc nam (Nguyễn Tập, 2007) [15]. Đỗ Tất Lợi đã tiếp tục dày công nghiên cứu và trrong những năm từ 1962 – 1965, tác giả cho xuất bản bộ “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” gồm 6 tập, năm 1969 tái bản trong 2 tập. Cuốn sách này của tác giả đã đề cập đến trên 500 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc, động vật và khoáng vật. Tác giả đã kiên trì nghiên cứu, bổ sung liên tục các loài cây thuốc trong các công trình nghiên cứu của mình và sách đã được tái bản nhiều lần và các năm 1970, 1977, 1981, 1986, 1995, 1999, 2001 và năm 2003. Lần tái bản thứ 7 vào năm 1995 số cây thuốc của ông nghiên cứu đã lên tới 792 loài và gần đây nhất là lần tái bản lần thứ 13 (dẫn theo Lê Thị Thanh Hương, 2007) [12]. Bộ sách của ông đã mang lại giá trị khoa học và giá trị thực tiễn sâu sắc, thể hiện sự kết hợp giữa khoa học dân gian và khoa học hiện đại. Trong những năm này, nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã được xuất bản thành các tập sách như: “Tài Nguyên cây thuốc Việt Nam” vào 1993 của Viện Dược liệu, với khoảng 300 loài cây thuốc (Phạm Hoàng Hộ, 2006) [11]; Trần Đình Lý với cuốn “1900 loài cây có ích” năm 1995, đã thống kê ở Việt Nam có khoảng 76 loài cho nhựa thơm, 260 loài cho dầu béo, 160 loài có tinh dầu, 40 loài tre nứa, 40 loài song mây (dẫn theo Lê Thị Thanh Hương, 2007) [12]. Lương y lão thành, thầy thuốc ưu tú Lê Trần
  21. 12 Đức với cuốn: “Cây thuốc Việt Nam” năm 1995 đã giới thiệu hơn 830 loài cây thuốc chính, phụ (Lê Trần Đức, 1997) [9]. Võ Văn Chi là một nhà thực vật lớn của Việt Nam, đã đóng góp rất nhiều trong quá trình nghiên cứu về các loài thực vật ở Việt Nam và ông đã biên soạn cuốn “Từ điển cây thuốc Việt Nam”, trong đó ông mô tả rất tỷ mỷ về các cây được sử dụng làm thuốc ở Việt Nam bao gồm 3.200 cây (Nguyễn Thượng Dong và cs., 2006) [8]. Ngoài ra, cuốn “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” tập I, II đề cập đến rất nhiều cây cỏ có ích như làm gỗ, làm lương thực, làm thuốc (Nguyễn Thượng Dong và cs., 2006) [8]. Từ những năm 2000 cho đến nay, đã có nhiều cuốn sách và các tài liệu về cây thuốc được xuất bản nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều người quan tâm tới cây thuốc trên khắp đất nước Việt Nam như: “577 bài thuốc dân gian gia truyền” (Âu Anh Khâm, 2001) [13]; “Thuốc Nam, thuốc Bắc và các phương thang chữa bệnh” (Tào Duy Cần, 2001) [1] và cuốn “Thuốc bệnh 24 chuyên khoa” (Tào Duy Cần, 2006) [2]; “Nghiên cứu cây thuốc từ thảo dược” (Nguyễn Thượng Dong và cs., 2006) [8]; “Cây có vị thuốc ở Việt Nam” do Phạm Hoàng Hộ nghiên cứu và tập hợp (Phạm Hoàng Hộ, 2006) [11]; “cây thuốc, bài thuốc và biệt dược” của Phạm Thiệp và cs. (2000) [16] đề cập tới 327 cây thuốc phổ biến, Đồng thời, có nhiều công trình nghiên cứu về cây thuốc trên cả nước công bố trên các tạp chí về cây thuốc như: Đặng Quang Châu đã công bố một số dẫn liệu về cây thuốc của dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn (Nghệ An) gồm 177 loài, thuộc 149 chi, thuộc 71 họ khác nhau (Đặng Quang Châu, 2011) [4]. Đặng Quang Châu, Bùi Hồng Hải khi điều tra các loài cây của dân tộc Thái ở huyện Quỳ Châu (Nghệ An) đã thu được 93 loài thuộc 7 chi, 42 họ (Đặng Quang Châu và Bùi Hồng Hải, 2003) [3]. Các tác giả đã phân loại cây được sử dụng theo các nhóm bệnh: bệnh ngoài da, bệnh về đường tiêu hóa, bệnh về gan, bệnh về xương Lưu Đàm
  22. 13 Cư và cs. (2004) [7] khi điều tra các loài cây có ích của dân tộc H’mông ở vùng núi cao phía Bắc đã phân loại được 4 nhóm theo công dụng: cây lương thực – thực phẩm, cây làm thuốc, cây có độc, cây để nhuộm màu, cây ăn quả. Trong nhóm này cây làm thuốc đã thống kê được 657 loài thuộc 118 họ mà người H’mông sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người và gia súc. Nguyễn Thị Thủy và Phạm Văn Thỉnh (2004) [20] đã xây dựng các mô hình vườn bảo tồn cây thuốc ở vùng cao Sa Pa, như vườn rừng, trang trại, vườn các hộ gia đình. Bước đầu đã bảo tồn được 52 loài cây thuốc thuộc 28 họ, trong đó có nhiều loài đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Trong Hội nghị Khoa học Toàn quốc lần thứ 4 năm 2011 tại Hà Nội, đã có nhiều báo cáo khoa học về tài nguyên cây thuốc và cách sử dụng các loài cây thuốc trong điều trị các bệnh của cộng đồng dân tộc ở Việt Nam được công bố như: một số kết quả nghiên cứu “Các loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò sử dụng làm thuốc trị bệnh thận” của các tác giả Đỗ Sĩ Hiến và Đỗ Thị Xuyến đã chỉ ra 65 loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường sử dụng làm thuốc chữa bệnh về thận (dẫn theo Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4, 2011) [25]. “Đánh giá đa dạng nguồn gen cây thuốc của người Sán Chí ở xã Tức Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Lê Thị Thanh Hương và cs. đã xác định được 90 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 82 chi, 50 họ thực vật của 2 ngành thực vật bậc cao có mạch được đồng bào dân tộc Sán Chí ở xã Tức Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên dùng làm thuốc (dẫn theo Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4, 2011) [25]. “Những cây thuốc được sử dụng thay thế mật gấu theo kinh nghiệm dân gian và đông y ở một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Lê Thị Thanh Hương và Nguyễn Thị Thuận đã thu được 35 loài thuộc 27 chi, 21 họ của 2 ngành thực vật bậc cao được sử dụng làm thuốc chữa bệnh thay thế mật gấu ở một số địa bàn tỉnh Thái
  23. 14 Nguyên (dẫn theo Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4, 2011) [25]. “Điều tra các loài cây thuốc và giá trị sử dụng của chúng ở một số xã thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp” của tác giả Võ Thị Phượng và Ngô Trực Nhã đã điều tra và thống kê 232 loài cây được sử dụng làm thuốc thuộc 186 chi, 90 họ tại các xã của huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (dẫn theo Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4, 2011) [25]. Nguyễn Xuân Hoà, Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Nguyễn Nhật Như Thuỷ (2013) khi nghiên cứu hiện trạng hệ sinh thái rừng ngập mặn và thảm cỏ biển ở khu vực đầm thuỷ triều tỉnh Khánh Hoà đã cho thấy thành phần loài cây khá nghèo nàn với 26 loài được xác định, trong đó có 16 loài cây ngập mặn thực sự và 10 loài cây tham gia rừng ngập mặn. Nguyễn Thị Kim Oanh (2015) [28], khi nghiên cứu tri thức bản địa và sử dụng tài nguyên cây thuốc của đồng bào dân tộc Dao tại khu rừng du lịch văn hóa xã Mẫu Sơn, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đã xác định được 73 loài cây thực vật làm thuốc tại cộng đồng dân tộc Dao và đã xác định được tương đối về tên địa phương, tên phổ thông, tên khoa học, gồm 43 họ thực vật thuộc 3 ngành thực vật. Tác giả còn thống kê được 15 bài thuốc với 36 loài cây được sử dụng trong bài thuốc xác định được bộ phận cây thuốc mà người dân thường dùng và cách pha chế của mỗi bài thuốc. Trong đó xác định được 8 bài thuốc cần được lưu giữ bảo tồn: chữa bệnh tim, chữa băng huyết, tắm cho bà đẻ, chữa khớp và toái hóa cột sống, trị cảm và đau bụng, giúp dễ sinh, chữa mất ngủ, chữa sỏi thận và đái vàng, đây là các bài thuốc được người dân sử dụng phổ biến và có hiệu quả cao trong chữa trị bệnh. Bùi Thị Ngân (2018) [29] khi nghiên cứu tri thức bản địa trong sử dụng, bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Tày tại xã Hà Lang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang đã thống kê được 108 loài cây thực vật làm thuốc tại cộng đồng dân tộc Tày và đã được xác
  24. 15 định tương đối về tên phổ thông, tên địa phương, tên khoa học của các loài thực vật. Khi nghiên cứu về nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc Dao ở xã Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên của Nguyễn Minh Hiếu và cs. (2018) [30] đã thu được 71 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc ngành Ngọc lan có 67 loài thuộc 60 chi và 42 họ, thuộc ngành Dương sỉ với 2 loài thuộc 2 chi và 2 họ , ngành Mộc tặc có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ , thuộc ngành Thạch tùng có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ, thuộc ngành Dây gắm có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ có công dụng làm thuốc. Nông Thái Hòa (2018) [31] khi nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên xác định được 137 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc ngành Ngọc lan thuộc 129 chi và 72 họ có công dụng làm thuốc. Số họ thực vật làm thuốc là 72 họ, Trong đó, họ nhiều loài nhất là họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) với 10 loài; họ Cúc (Asteraceae) và họ Hòa thảo (Poaceae) với 7 loài. Trong 129 chi, có tới 13 chi có 2 loài được sử dụng làm thuốc. Dương Văn Hưng (2018) [32] khi nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên đã thu được 149 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc ngành Thông có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ, thuộc ngành Dương xỉ có 3 loài thuộc 3 chi và 3 họ, thuộc ngành Mộc lan có 145 loài thuộc 133 chi và 70 họ có công dụng làm thuốc. Ma Văn Khiêm (2018) [33] khi nghiên cứu tri thức bản địa trong sử dụng, bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Tân An, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang đã thống kê được 73 loài cây thực vật làm thuốc tại cộng đồng dân tộc Dao và đã xác định được tương đối về tên địa phương, tên phổ thông, tên khoa học. Phát hiện được 18 bài
  25. 16 thuốc trong tổng số hơn 22 loài cây được sử dụng trong bài thuốc, xác định được bộ phận cây thuốc mà người dân thường dùng và cách pha chế của mỗi bài thuốc. Vàng A Lả (2018) [34] khi nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Yên Lạc, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên đã xác định được 183 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc ngành Dương xỉ có 2 loài thuộc 2 họ và 2 chi. Thuộc ngành Nấm có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ, Thuộc ngành Mộc Lan có 180 loài thuộc 156 chi và 87 họ có công dụng làm thuốc chữa bệnh. Lục Thanh Sắc (2018) [35] Khi nghiên cứu về tri thức bản địa trong sử dụng, bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Hà Lang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang đã thống kê được 85 loài cây thực vật làm thuốc tại cộng đồng dân tộc Dao và đã xác định được tương đối về tên địa phương, tên phổ thông, tên khoa học. Ngoài ra, Tác giả còn phát hiện ra 22 bài thuốc trong tổng số hơn 57 loài cây được sử dụng trong bài thuốc, xác định được bộ phận cây thuốc mà người dân thường dùng và cách pha chế của mỗi bài thuốc. Việt Nam là một nước có tài nguyên rừng rất đa dạng và phong phú nhưng vì ở trong những khu rừng hay gần rừng lại thường tập trung nhiều cộng đồng các dân tộc sinh sống, có nhiều nền văn hóa đặc sắc khác nhau, tri thức bản địa trong việc sử dụng cây làm thuốc cũng rất đa dạng và phong phú, mỗi dân tộc có các cây thuốc và bài thuốc riêng biệt, cách pha chế và sử dụng khác nhau. Nên hiện nay, nguồn tài nguyên rừng của chúng ta đang bị giảm sút nghiêm trọng, kéo theo sự đa dạng sinh học cũng bị suy giảm trong đó có cả một số cây thuốc bản địa có giá trị chưa kịp nghiên cứu cũng đã mất dần, vậy việc nghiên cứu phát hiện và bảo tồn sử dụng tài nguyên cây thuốc bản địa là một việc rất cần thiết. Các cộng đồng dân tộc thiểu số, họ có những bài
  26. 17 thuốc kinh nghiệm rất hay và đơn giản nhưng lại chữa bệnh hiệu quả rất cao. Lào Cai cũng là một tỉnh tập trung nhiều dân tộc thiểu số sinh sống đặc biệt là huyện Đại Từ, nơi giáp với khu bảo tồn thiên nhiên Tam Đảo và nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số sinh sống trong khu bảo tồn và gần khu bảo tồn, trong đó có dân tộc, Nùng, Dao. Vì vậy, đây là một nơi lý tưởng cho nghiên cứu kiến thức bản địa về khai thác và sử dụng tài nguyên cây thuốc, các bài thuốc dân gian từ thiên nhiên của cộng đồng dân tộc địa phương nơi đây. Việc điều tra và thống kê các loài cây thuốc, các bài thuốc không những mang lại những giá trị khoa học, giá trị thực tiễn sâu sắc mà còn đóng góp và công tác bảo tồn nguồn dược liệu nước nhà, bảo tồn những bài thuốc hay. Nhằm góp phần, bảo tồn bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. 2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu 2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu * Vị trí địa lý Xã Phú Xuyên cách trung tâm huyện Đại Từ 40 km về phía Tây Nam, vị trí địa lý có các mặt tiếp giáp như sau: Phía đông giáp xã Bản Ngoại và xã Phú Thịnh Phía tây giáp tỉnh Tuyên Quang Phía nam giáp xã La Bằng Phía bắc giáp xã Na Mao và xã Yên Lãng.
  27. 18 * Địa hình, địa mạo Xã Phú Xuyên có địa hình tương đối đặc trưng : Phía Tây là núi cao và phía Đông là cánh đồng bằng phẳng ven theo quốc lộ QL37. Địa hình thấp dần từ phía Tây xuống Đông Bắc với đồi núi thấp, đồng bằng xen kẽ sông, suối, ao hồ. Trên địa bàn xã Phú Xuyên có 3 con suối bắt nguồn từ dãy núi Tam Đảo có tổng chiều dài khoảng 9 km. Đặc điểm về địa hình của xã phần lớn là đồi núi, địa hình dốc dần theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. * Địa chất, thổ nhưỡng Theo báo cáo tổng kết của UBND xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên năm 2019 [22] đã thống kê được như sau: tổng diện tích tự nhiên của xã là 2.320,06 ha, trong đó: Đất nông nghiệp 2.095,33 ha; Đất phi nông nghiệp 216,25 ha; Đất chưa sử dụng 1,84 ha. * Đặc điểm khí hậu Là vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 11, khí hậu nóng ẩm và mưa nhiều, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4, gió Đông Bắc chiếm ưu thế, lượng mưa ít, thời tiết hanh khô. Đặc trưng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thể hiện rõ qua các chỉ số: Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 230C; tổng lượng mưa bình quân hàng năm 1.700 - 2.200mm, phân bố không đều có chênh lệch lớn giữa mùa mưa và mùa khô. * Chế độ thủy văn Tổng diện tích mặt nước trên địa bàn xã hiện trạng là 32,85 ha, trong đó: diện tích ao, hồ, đầm 9,2 ha, diện tích đất sông suối 23,65 ha gồm 2 con suối bắt nguồn từ dãy núi Tam Đảo chảy theo hướng Tây - Bắc và Đông Nam. Toàn bộ diện tích ao, hồ, đầm hiện tại đã và đang được các hộ dân sử dụng để nuôi trồng thủy sản kết hợp việc tưới tiêu sản xuất nông nghiệp. Các
  28. 19 con suối chảy trên địa bàn xã là nguồn cung cấp nước chủ yếu phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. * Hiện trạng thảm thực vật Điều kiện sinh thái và địa hình xã Phú Xuyên có thảm thực vật chủ yếu ở trên địa bàn xã là rừng tự nhiên. 2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu * Dân cư, dân tộc Xã Phú Xuyên được chia thành 18 xóm có 7 dân tộc cùng sinh sống, cả xã có 2079 hộ, 7608 khẩu trong đódân tộc Kinh là chiếm 58% còn lại là các dân tộc thiểu số như Dao, Tày, Nùng, Cao Lan, Sán Chỉ, Ngái. Tỷ lệ hộ nghèo chiếm 6,32% với 119 hộ. * Kinh tế Cuộc sống của đồng bào dân tộc tại địa phương gắn với sản xuất nông lâm nghiệp, đặc biệt là gắn với cây lúa, rừng và đất rừng. Các hoạt động sinh kế truyền thống chính là khai thác sản phẩm tự nhiên, canh tác lúa nước, nương rẫy, chăn nuôi. Rừng và đất rừng là nguồn tài nguyên đặc biệt quan trọng đối với sinh kế, cuộc sống của đồng bào người Nùng và Dao.
  29. 20 PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Các loài thực vật được cộng đồng dân tộc Dao, Nùng tại xã Phú Xuyên sử dụng làm thuốc chữa bệnh; kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao, Nùng tại xã tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. - Phạm vi nghiên cứu: - Địa điểm nghiên cứu: + Công tác điều tra thực địa được tiến hành tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. + Nghiên cứu thực nghiệm (xác định hoạt tính khánh khuẩn) được tiến hành tại phòng thí nghiệm Khoa công nghệ sinh học - trường Đại học Khoa học Thái nguyên. - Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 01/2020 đến tháng 05/2020. - Nghiên cứu tri thức dân tộc thiểu số: Dân tộc Dao, Nùng. 3.2. Nội dung nghiên cứu - Đánh giá đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên: + Đánh giá đa dạng các bậc taxon của nguồn tài nguyên cây thuốc: đa dạng bậc họ; đa dạng bậc chi. + Đánh giá đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc. + Đánh giá về môi trường sống của thực vật làm thuốc. - Xác định những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn: Đánh giá ở mức độ quý hiếm của các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu.
  30. 21 - Vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc của các cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. + Kinh nghiệm sử dụng bộ phận làm thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở Phú Xuyên. + Kinh nghiệm về nhóm bệnh chữa trị của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Phú Xuyên. + Ảnh hưởng của sự giao thoa giữa các dân tộc đến vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc. + Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu. 3.3. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được các kết quả gắn với các nội dung nghiên cứu trên, cách thức và giải pháp thực hiện ý tưởng bao gồm như sau: * Phương pháp kế thừa - Kế thừa những những tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ở khu vực nghiên cứu và các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. - Kế thừa kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các ông lang, bà mế người dân tộc Nùng, Dao ở khu vực nghiên cứu. * Phương pháp điều tra thực địa - Điều tra phỏng vấn thu thập cây thuốc: tại khu vực nghiên cứu, phỏng vấn các ông lang, bà mế, người dân có kinh nghiệm sử dụng cây thuốc và sử dụng các bài thuốc gia truyền của cộng đồng dân tộc ít người tại địa bàn nghiên cứu. Mẫu phiếu điều tra dựa theo: phiếu điều tra cây thuốc trong cộng đồng và phiếu điều tra bài thuốc gian dân (Viện Dược liệu, Bộ Y tế) [27]. Bảng 3.1. Mẫu bảng điều tra nguồn cây thuốc được cộng đồng một số dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng và điều trị bệnh Thời gian điều tra: Người điều tra:
  31. 22 Địa điểm điều tra: Địa chỉ điều tra: Số Cán bộ được Bộ Tên hiệu Môi Cách phỏng vấn Tên địa Dạng phận Công TT phổ mẫu trường sử phương cây sử dụng thông / sống dụng dụng Họ Địa Điên ảnh tên chỉ thoại (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (11) (12) . . . . - Thu thập đầy đủ các thông tin cây thuốc gồm: tên phổ thông, tên dân tộc Nùng, Dao; số hiệu mẫu/ảnh cây thuốc; dạng sống; môi trường sống; bộ phận sử dụng làm thuốc (thân, rễ, hoa, quả, hạt, nhựa, vỏ); công dụng. Đồng thời ghi chép những đặc điểm dễ nhận biết của cây ngoài thiên nhiên, ghi rõ thời gian, địa điểm và người thu thập thông tin. - Định danh tên cây: định danh loài cây theo các bước: (i) định danh tại thực địa; (ii) sử dụng kiến thức kinh nghiệm của các chuyên gia và nguồn tài liệu tin cậy đã công bố giám định lại. + Bước 1: xác định sơ bộ tên địa phương, tên thường gọi được thực hiện ngay ở lần điều tra đầu tiên. Đối với những loài chưa chắc chắn thì ghi chú để kiểm định lại ở bước sau. Các loài không biết tên cần phải lấy mẫu (lá, hoa, quả, ) và ghi vào biểu điều tra bằng ký hiệu sp1, sp2, để giám định. + Bước 2: Tất cả các cây được thẩm định lại tên cây, lập danh mục cây thuốc bằng sử dụng kiến thức kinh nghiệm của các chuyên gia về thực vật và nguồn tài liệu tin cậy đã công bố gồm: Cây cỏ Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ, 2001) [10], Từ điển Cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi, 2012) [6], Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (Đỗ Tất Lợi, 2005) [14], Danh lục các loài thực vật Việt Nam (Trung tâm NCTN&MT – Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện ST&TNSV, 2001 – 2005) [26]. Danh sách tên cây thuốc sẽ được hoàn thiện ở bước này.
  32. 23 * Phương pháp thu thập mẫu: Đối với loài cây chưa xác định được tên ở ngoài thực địa và loài cần giám định lại tên. - Tiến hành thu mẫu ở thực địa: Mỗi cây thuốc thu từ 3 đến 10 mẫu ( lá, hoa, quả, thân, rễ, ) và được gắn nhãn ghi rõ các thông tin về ký hiệu mẫu, địa điểm, thời gian và người thu mẫu (các mẫu cùng cây đánh số cùng số hiệu mẫu). - Dụng cụ thu mẫu: bản gỗ ép mẫu, túi đựng mẫu, bao tải dứa, kéo cắt cây, giấy báo, dây buộc, etyket, bút chữ A, sổ ghi chép, máy ảnh (Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997) [17]. Hình 3.1: Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài * Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc Để đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Nùng, Dao tại khu vực nghiên cứu, tôi sử dụng phương pháp đánh giá của Nguyễn Nghĩa Thìn (2007) [18]: - Đa dạng về bậc phân loại: ngành, lớp, họ, chi, loài. - Đa dạng về dạng sống: dây leo, gỗ trung bình, gỗ nhỏ, thảo, bụi. - Đa dạng về môi trường sống: rừng, đồi, vườn, ven suối.
  33. 24 - Đa dạng về bộ phận sử dụng làm thuốc: thân, rễ, lá, hoa, quả, hạt, vỏ, cả cây. - Đa dạng về các nhóm bệnh chữa trị: bệnh về khớp, tim, dạ dày, gan, giải độc, xương, * Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp Đánh giá mức độ nguy cấp của các loài cây thuốc, xác định những cây thuốc thuộc diện bảo tồn ở khu vực nghiên cứu theo: Sách đỏ Việt Nam, phần thực vật rừng (Bộ KH&CN, 2007) [23], Nghị định 06/2019/NĐ-CP (Chính phủ nước Việt Nam, 2019) [24], Danh sách đỏ cây thuốc Việt Nam trong Cẩm nang cây thuốc cần được bảo vệ ở Việt Nam (Nguyễn Tập, 2007) [15]. Các mức đánh giá về độ nguy cấp được liệt kê trong Sách Đỏ Việt Nam bao gồm: Cực kỳ nguy cấp (CE): Critically Endangered Nhóm nguy cấp (EN): Endangered Sẽ nguy cấp (VU): Vulnerable Sắp bị đe dọa (NT): Near Threatened Mức độ hiếm ( R): Rare Bị đe dọa (T): Threatened Nhóm thiếu dữ liệu thống kê (K): Insufficiently known Ngoài ra, theo Nghị định 06/2019 của Chính phủ thì các loài động, thực vật rừng sẽ được chia thành các nhóm chính sau: Nhóm I: Các loài động thực vật rừng đang có nguy cơ tuyệt chủng, nghiêm cấm mọi hành vi khai thác và sử dụng với mục đích thương mại. Nhóm IA là các loài thực vật còn nhóm IB là động vật rừng. Nhóm II: Bao gồm những loài động thực vật rừng chưa bị đe dọa tuyệt chủng nhưng cần được bảo vệ và hạn chế khai thác, sử dụng với mục đích thương mại. Nhóm IIA là các loài thực vật còn IIB là các động vật rừng. * Phương pháp nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn - Bước 1: Chuẩn bị nguyên liệu
  34. 25 Nguyên liệu lá, thân, rễ cây thuốc sau khi thu hái được rửa sạch, để ráo nước sau đó đem sấy khô ở 900C đến khối lượng không đổi. - Nguyên liệu sau khi sấy khô được nghiền trong máy xay đa năng loại nhỏ thành bột dạng mịn, bảo quản nơi khô ráo để sử dụng trong các nghiên cứu tiếp theo. - Bước 2: Tạo cao chiết Nguyên liệu được tách chiết theo phương pháp ngâm nóng. Nguyên liệu dạng bột khô được đem đi chiết với tỷ lệ 10 g/100 ml bằng dung môi methanol, sau đó cho vào máy lắc với tần số 200 vòng/phút (để các chất có hoạt tính sinh học tan đều trong dung môi) ở các điều kiện thời gian 24 giờ, sau đó tiến hành lọc qua giấy lọc, 80 ml dịch lọc được đem đi cô đặc bằng máy cô quay (hoặc sấy khô) đến khi có khối lượng khô không đổi và được bảo quản ở 40C để sử dụng trong các nghiên cứu về khả năng kháng khuẩn. - Bước 3: Chuẩn bị giống vi khuẩn Sử dụng 2 chủng vi khuẩn gồm 1 chủng gram dương là S.a (Staphylococcus aureus) và 1 chủng gram âm là E.coli (Escherichia coli), lấy từ phòng thí nghiệm Vi sinh - Trường Đại học Khoa học Thái Nguyên. Bảo quản giống trên môi trường thạch nghiêng: vi sinh vật được hoạt hóa trong môi trường LB, sau đó được cấy chuyển sang môi trường thạch nghiêng, nuôi 24 giờ ở 370C, giữ trong tủ lạnh để thực hiện các nghiên cứu tiếp theo. - Bước 4: Thử khả năng kháng khuẩn Kiểm tra khả năng kháng khuẩn của cao chiết bằng phương pháp khuếch tán trên đĩa thạch, thí nhiệm được bố trí 3 lần nhắc lại trên một chủng vi khuẩn 3 đĩa petri trên 1 lần nhắc lại. Pha cao chiết của toàn thân cây thuốc với nước ở nồng độ 100 mg/ml sau đó dùng cao đã pha để thử hoạt tính kháng khuẩn.
  35. 26 Các thao tác được thực hiện trong tủ cấy vô trùng. Khi mật độ vi khuẩn đạt đến nồng độ 106 tế bào/ml, lắc đều ống nghiệm chứa vi khuẩn. Môi trường LB đã được hóa lỏng trong lò vi sóng, khi còn lỏng đổ đều môi trường vào các đĩa Petri, sau đó để nguội để môi trường đông đặc lại tạo thành mặt phẳng. Dùng micropipet hút 100μl dịch vi khuẩn vào giữa đĩa thạch chứa môi trường LB (Thành phần của môi trường LB là như sau (g/l): Peptone - 10; Cao nấm men - 5; NaCl -10; pH: 7,0), dùng que cấy tam giác trang đều cho đến khi mặt thạch khô. Sau 15 phút đục giếng trên môi trường thạch với đường kính 6 mm, đục 2 giếng, mỗi giếng cách nhau 2 – 3 cm. Mỗi giếng thạch nhỏ 100μl dịch cao chiết cần nghiên cứu bằng micropipet, sử dụng đối chứng dương là kháng sinh Kanamycin và Akamicin với nồng độ 5mg/ml để so sánh, để các đĩa thạch trong tủ lạnh 30 phút để dịch cao chiết khuếch tán ra môi trường nuôi cấy vi khuẩn, sau đó nuôi cấy trong tủ ấm 370C, sau 24h mang ra đo kích thước vòng kháng khuẩn. Hoạt tính kháng khuẩn được xác định bằng cách đo kích thước vùng kháng khuẩn (BK) bằng công thức: BK = D - d, trong đó D là đường kính vòng kháng khuẩn, d là đường kính giếng thạch.
  36. 27 PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Đa dạng các bậc taxon nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên 4.1.1. Đa dạng các bậc taxon 4.1.1.1. Đa dạng về bậc ngành Kết quả điểu tra, nghiên cứu cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm của đồng bào dân tộc Nùng, Dao tại khu vực nghiên cứu đã ghi nhận được 103 loài thực vật thuộc 3 ngành đó là: Ngành Ngọc lan (Magnoliophyta), Ngành Thông – (Pinophyta) và Ngành Dây gắm – (Gnetophyta) được đồng bào dân tộc ở đây sử dụng làm thuốc, thuộc 91 chi, 59 họ. Các loài cây này đều là những cây mọc phổ biến quanh làng bản, ở đồi và ở rừng, cũng là những loài mà người dân thường gặp, nên họ đã lựa chọn để làm thuốc nhiều hơn các loài thực vật khác. Kết quả được tổng hợp từ phụ lục 3 thể hiện trong bảng dưới đây: Bảng 4.1. Số loài cây thuốc đã phát hiện ở khu vực nghiên cứu Họ Chi Loài TT Ngành thực vật Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ lượng % lượng % lượng % 1Ngành Thông - 1 1,69 1 1,10 1 0,97 1 Pinophyta 2Ngành Dây gắm - 1 1,69 1 1,10 1 0,97 2 Gnetophyta 3Ngành Ngọc lan - 57 96,61 89 97,80 101 98,06 3 Magnoliophyta Tổng 59 100 91 100 103 100 Kết quả bảng 4.1 cho thấy, Ngành Ngọc lan (Magoliophyta) có số loài được sử dụng làm thuốc tối ưu hơn 2 ngành còn lại, Ngành Ngọc lan có 57 họ, (chiếm 96,61% tổng số họ), có 89 chi (chiếm 97,80% tổng số chi), có 101
  37. 28 loài, (chiếm 98,06% tổng số loài). Tiếp theo là ngành Dây gắm (Gnetophyta) và ngành Thông cùng có 1 loài, (chiếm 1,69% tổng số họ), 1 họ (chiếm 1,10% tổng số chi), và 1 chi (chiếm 0,97% tổng số chi). Sự phân bố không đồng đều nhau của các taxon không chỉ được thể hiện giữa các ngành mà còn thể hiện qua sự chiếm ưu thế của các lớp trong ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) như sau: Bảng 4.2. Số lượng họ, chi, loài thuộc hai lớp trong ngành Ngọc lan Họ Chi Loài Lớp Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ SL SL SL % % % Lớp Hai lá mầm- Magnoliopsida 43 75,44 72 80,90 81 80,20 Lớp Một lá mầm - Liliopsida 14 24,56 17 19,10 20 19,80 Ngành Ngọc lan - Magnoliophyta 57 100 89 100 101 100 Tỉ lệ lớp Ngọc lan/lớp Hành 3,07 4,24 4,05 Kết quả cho thấy, lớp Hai lá mầm (Magnoliopsida) chiếm ưu thế với 43 họ, chiếm 75,44% số họ trong ngành Ngọc lan (Magnoliophyta); số chi là 72, chiếm 80,90%; và số loài là 81 loài chiếm 80,20%. Một số loài thuộc lớp Ngọc lan có thể kể đến như: cây giảo cổ lam - Gynostemma pentaphyllum (Thunb.) Makino được dùng để chữa các bệnh huyết áp cao, mỡ máu; Dây đau xương - Tinospora sinensis (Lour.) Merr được dùng để chữa các bệnh đau lưng, đau nhức xương khớp. Lớp Một lá mầm (Liliopsida) chiếm tỉ trọng thấp hơn với 20 loài, 17 chi và 14 họ. Có thể kể đến một số loài thuộc lớp Hành là: cây Huyết dụ - Cordyline fruticosa (L.) Goepp được sử dụng để chữa bệnh kinh nguyệt, mát thận, phụ khoa, xấu máu; cây ráy - Alocasia macrorhizos (L.) G. Don được sử dụng để chữa bệnh gút. Tỉ lệ họ giữa lớp Hai lá mầm với lớp Một lá mầm là 3,07 nghĩa là trung bình cứ 3 đến 4 họ thuộc lớp Hai lá mầm thì sẽ có 1 họ thuộc lớp Một lá mầm; tương tự tỉ lệ các bậc chi và bậc loài lần lượt là 4,24 và 4,05 có nghĩa
  38. 29 là: trung bình cứ 4 chi và 4 loài thuộc lớp Ngọc lan sẽ có 1 chi và 1 họ thuộc lớp Hành. Tóm lại, Các loài cây trong ngành Ngọc lan, nhất là các loài thuộc lớp Hai lá mầm (Magnoliopsida) chiếm một tỷ lệ lớn và đóng vai trò quan trọng trong các loài thực vật làm thuốc được cộng đồng dân tộc ở khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng và chữa trị bệnh. Dưới đây là một số hình ảnh một số loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu: A. Gối hạc (Leea rubra Blume) B. Vẩy ốc (Ficus pumila) C. Cây tai chuột D. Thạch xương bồ (Dischidia acuminate) (Acorus gramineus Soland) Hình 4.1: Hình ảnh một số loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu
  39. 30 4.1.1.2. Phân bố số lượng loài trong từng họ Số lượng họ cây thuốc thu được ở khu vực nghiên cứu bao gồm 59 họ. Sự phân bố các họ trong các lớp như sau: Bảng 4.3. Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ trên 3 4 5 6 7 8 9 Ngành thực vật 1 loài 2 loài 10 loài loài loài loài loài loài loài loài Magnoliophyta 38 10 2 3 2 1 0 0 0 0 Lớp Một lá mầm - 10 2 2 0 0 0 0 0 0 0 Liliopsida Lớp Hai lá mầm - 28 8 0 3 2 1 0 0 1 0 Magnoliopsida Pinophyta 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Lớp Thông - Pinopsida 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Gnetophyta 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Lớp Dây gắm - 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Gnetopsida Tổng số họ 40 10 2 3 2 1 0 0 1 0 Tỷ lệ số họ/tổng số họ % 67,80 16,95 3,39 5,08 3,39 1,69 0,00 0,00 1,69 0,00 Số loài 40 20 6 12 10 6 0 0 9 0 Tỷ lệ số loài/tổng số 38,83 19,42 5,83 11,65 9,71 5,83 0,00 0,00 8,74 0,00 loài% Qua bảng 4.3 cho thấy, sự phân bố số lượng loài cây trong các họ tập trung chủ yếu ở hai lớp của nghành Ngọc Lan gồm có 38 họ có 1 loài cây, 10 họ có 2 loài cây chiếm 16,95% so với tổng số họ và chiếm 5,83% trên tổng số loài. Số lượng các họ có từ 3 loài cây trở lên là khá ít, trong đó có duy nhất 1 họ là có 9 loài cây chiếm 8,74% trên tổng số các loài cây thuốc đã được thu thập số liệu. Lớp Hai lá mầm, chiếm 5,83% số loài so với tổng số loài, số họ chiếm 1,69% so với tổng số họ điều tra được. Có 2 họ 5 loài là họ Đậu (Fabaceae) và họ Cà phê (Rubiaceae), chiếm 3,39% so với tổng số họ được điều tra, cả 2 họ đều thuộc lớp Hai lá mầm, và cả 2 họ có 5 loài này chiếm 3,39% so với số loài điều tra được, có 3 họ 4 loài chiếm 5,08% trong tổng số họ và chiếm 11,65% trong tổng số loài điều tra được, cả 2 họ đều thuộc lớp
  40. 31 Hai lá mầm. Có 2 họ có 3 loài chiếm 3,39% so với tổng số họ và chiếm 5,83% trong tổng số loài điều tra được, cả 2 họ đều thuộc lớp Một lá mầm đó là họ Gừng và họ Hòa thảo. Có 10 họ có 2 loài chiếm 16,95% so với tổng số họ và chiếm 19,42% trong tổng số loài điều tra được, 2 họ thuộc lớp Một lá mầm và 8 họ thuộc lớp Hai lá mầm. Có 40 họ có 1 loài chiếm 67,80% so với tổng số họ và chiếm 38,83% trong tổng số loài điều tra được, 10 họ thuộc lớp Một lá mầm, 28 họ thuộc lớp Hai lá mầm ngành Ngọc Lan - 1 họ thuộc lớp Thông (Pinopsida) ngành Thông - 1 họ lớp Dây gắm (Gnetopsida) ngành Gắm. 4.1.1.3 Đa dạng họ Sự đa dạng họ của các loài tại khu vực nghiên cứu được thu thập và tổng hợp trong bảng sau: Bảng 4.4. Các họ đa dạng nhất ở khu vực nghiên cứu Số loài Số chi STT Tên Việt nam Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ lượng % lượng % 1 Họ Cúc - Asteraceae 9 8,73 7 7,69 2 Họ Đại Kích - Euphorbiacea 6 5,82 5 5,49 3 Họ Đậu - Fabaceae 5 4,85 5 5,49 4 Họ Cà phê - Rubiaceae 5 4,85 5 5,49 5 Họ Rau Dền - Amaranthaceae 4 3,88 3 3,29 6 Họ Bông Bụp - Malvaceae 4 3,88 2 2,19 7 Họ Ngũ Da Bì - Araliaceae 4 3,88 3 3,29 7 họ đa dạng nhất (11,86%) 37 30 Tổng số được phát hiện: 103 91 Trong số 7 họ được xác định ở xã Phú Xuyên thì phần lớn cũng được gặp trong các họ giàu loài của hệ thực vật Việt Nam. Các họ cây thuốc giàu loài tại khu vực nghiên cứu có 3 họ nằm trong 10 họ giàu loài nhất của hệ thực vật Việt Nam là: họ Đậu - fabaceae, họ Cúc – asteraceae và họ Thầu dầu
  41. 32 – euphorbiaceae; 4 họ còn lại không nằm trong 10 họ lớn nhất Việt Nam đó là họ Ngũ da bì, họ Cà phê, họ Rau dền và họ Bông bụp điều này chứng minh nguồn cây thuốc tại xã Phú Xuyên khá phong phú nhưng vấn có nét khác biệt so với tính đa dạng chung của thực vật Việt Nam. Kết quả điều tra đã thu được những loài cây thuốc nằm trong những họ có nhiều loài nhất ở Việt Nam (Bảng 10 họ giàu loài nhất theo danh lục thực vật Việt Nam phụ lục 4 trang 3) Số lượng thống kê và so sánh được thể hiện ở Bảng 4.5: Bảng 4.5. So sánh các họ có nhiều loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu (1) với số loài của từng họ trong hệ thực vật Việt Nam (2) KVNC DLTV Tỷ lệ % giữa Họ nhiều loài (1) VN (2) (1) và (2) 1 Asteraceae - Họ cúc 9 380 2,37 2 Euphorbiacea - Họ đại kích 6 477 1,26 3 Fabaceae -Họ Đậu 5 471 1,06 4 Rubiaceae -Họ cà phê 5 492 1,02 5 Amaranthaceae - Họ Rau dền 4 32 12,50 6 Malvaceae - Họ Bông bụp 4 69 5,80 7 Araliaceae - Họ Ngũ da bì 4 158 2,53 Tổng số được phát hiện: 103 Chú thích: (2) theo Danh lục các loài thực vật Việt Nam (Trung tâm NCTN & MT – Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện ST&TNSV, 2009) Kết quả Bảng 4.5 cho thấy, có 7 họ có nhiều loài được cộng đồng dân tộc ở khu vực nghiên cứu sử dụng làm thuốc phòng và chữa trị bệnh. Tỷ lệ số loài trong cùng một họ có nhiều loài được sử dụng làm thuốc tại khu vực nghiên cứu so với tổng số loài trong cùng họ đó có tại Việt Nam có sự chênh
  42. 33 lệch rất lớn, cụ thể tỷ lệ của từng họ là: với họ có nhiều loài được sử dung làm thuốc nhất là họ Cúc (Asteraceae) chiếm tỷ lệ 2,37% có các loài như: Nhọ nồi (Eclipta prostrata L.) có tác dụng giải độc gan; Ngải cứu (Artemisia vulgaris L.) chữa đau thận, họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) có 6 loài, chiếm tỷ lệ 1,26 %; (Fabaceae) - Họ Đậu (Rubiaceae) - Họ cà phê cùng có 5 loài được sử dụng làm thuốc, chiếm tỷ lệ lần lượt là 1,06% và 1,02% – (Amaranthaceae) - Họ Rau dền (Malvaceae) - Họ Bông bụp (Araliaceae) - Họ Ngũ da bì cùng có 4 loài sử dụng làm thuốc chiếm tỷ lệ lần lượt là 12,50%; 5,80%; 2,53%. Như vậy, số loài được sử dụng làm thuốc còn chiếm tỷ lệ rất thấp so với số lượng loài trong cùng một họ đó có tại Việt Nam, nên khả năng phát hiện ra thêm nhiều loài có thể sử dụng làm thuốc là rất lớn. Một công trình khác của Dương Văn Hưng (2018) [32] khi nghiên cứu về tri thức bản địa của người dân tại xã Yên Ninh, Huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên cho thấy các họ có nhiều loài được sử dụng làm thuốc tại khu xã Phú Xuyên phong phú hơn ở địa bàn xã Yên Ninh, Huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Cụ thể là ở xã Phú Xuyên có 59 họ có nhiều loài được sử dụng làm thuốc, còn ở xã Yên Minh có 74 họ có nhiều loài được sử dụng làm thuốc. 4.1.2. Đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc Sự đa dạng về dạng sống của loài thực vật làm thuốc tại khu vực nghiên cứu được thể hiện trong Bảng 4.6 như sau: Bảng 4.6. Đa dạng về dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu STT Dạng sống Số lượng Tỉ lệ % 1 Thân thảo 41 39,81 2 Bụi 37 35,92 3 Dây leo 13 12,62 4 Gỗ nhỏ 11 10,69 5 Gỗ lớn 1 1
  43. 34 Dữ liệu trên cho thấy, nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm của 2 cộng đồng dân tộc Nùng, Dao tại KNNC tập trung vào 5 dạng sống, trong đó tập trung nhiều nhất vào 3 dạng sống cây thân thảo, cây bụi và dây leo. Thân thảo là dạng sống có số lượng loài nhiều nhất với 41/103 so với tổng số loài (chiếm 39,806% so với tổng số loài). Các cây thuộc nhóm này tập trung chủ yếu vào họ Cúc (Asteraceae) được dùng để chữa các bệnh như hạ sốt, viêm khớp, thấp khớp, giải độc gan , họ Hòa thảo (Poaceae) được dùng để chữa các bệnh như viêm thận, đái rắt, hậu sản và họ Rau dền (Amaranthaceae) dùng để chữa trị các bệnh đau thận, xơ gan, cam sài trẻ con, đau bụng, viêm nhiễm phụ khoa, gai cột sống Ngoài ra có họ Đại kích (Euphorbiacea) được dùng để chữa các bệnh tắc sữa, viêm đại tràng, sinh lý nam Đứng thứ hai dạng cây bụi với 37/103 loài (chiếm 35,92%), dạng cây này tập trung chủ yếu các loài thuộc họ Bông bụp (Malvaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Ngũ da bì (Araliaceae), họ Đậu (Fabaceae) Một số loài cây thuốc thuộc nhóm này như sau: Đinh lăng lá to - Polyscias grandifolia Volkens được công đồng dân tộc Dao dùng để trị chữa mất ngủ; Dâm bụt hoa trắng - Hibiscus syriacu L. sử dụng ở dân tộc Nùng làm thuốc chữa bệnh tiểu dắt và cây Giao - Euphorbia tirucalli L. được cả 2 dân tộc Nùng, Dao dùng chữa để diều trị bệnh xoang và lợi sữa ở trong cộng đồng Đứng thứ ba là dạng sống cây Dây leo với số lượng 13/103 loài (chiếm 12,62%) dạng sống này tập trung chủ yếu các loài cây thuộc nhóm cây dây leo như họ tiết Dê (Menispermaceae), họ Thiên Lý (Asclepiadaceae) và họ Bầu bí (Cucurbitaceae). Có thể kể đến một số loài đại diện như: cây Giảo cổ lam - Gynostemma pentaphyllum (Thunb.) Makino sử dụng để chữa bệnh huyết áp cao, mỡ máu; cây Hoàng đằng - Fibraurea recisa Pierre dùng chữa bệnh viêm đường tiết niệu, đau khớp
  44. 35 Như vậy dựa vào nghiên cứu khoa học điều tra cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của Nguyễn Minh Hiếu và cs. (2018) [30] khi nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên cho thấy các dạng sống của các cây thuốc ở xã Phú Xuyên đa dạng tương tự nhau với các dạng sống ở xã Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Nhìn chung, vấn đề sử dụng các dạng cây cỏ làm thuốc chữa bệnh của 2 dân tộc Nùng, và Dao tại khu vực nghiên cứu khá đa dạng và phong phú. Như vậy, các dạng sống chủ yếu của thực vật được sử dụng làm thuốc tại khu vực nghiên cứu là thân thảo, dây leo và cây bụi. Vì các dạng sống này mọc rất phổ biến quanh nhà, quanh làng bản, rất dễ mọc và dễ trồng nên các dạng sống này cũng rất dễ thu hái để sử dụng. 4.1.3. Đa dạng về môi trường sống của thực vật làm thuốc Để phục vụ cho công tác bảo tồn các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu, tôi đã tiến hành đánh giá sự đa dạng về môi trường sống của các loài cây thuốc. Việc phân chia các loại môi trường sống được căn cứ vào địa hình, đất đai, khí hậu, nơi mà cây thuốc đó phát triển. Có các dạng môi trường sau: - Làng xóm, làng bản, vườn (Vu) - Rừng (trồng, tái sinh, tự nhiên) (R) - Ven suối (Vs) Bảng 4.7. Sự phân bố nguồn cây thuốc theo môi trường sống ở khu vực nghiên cứu Stt Môi trường sống Số loài Tỷ lệ % 1 Rừng (trồng, tái sinh, tự nhiên) (R) 84 81,55 2 Làng xóm, làng bản, vườn (Vu) 36 34,95 3 Ven suối (Vs) 1 0,97
  45. 36 Ghi chú: Tỉ lệ % trong Bảng hơn 100% do một số loài có thể sống ở nhiều môi trường khác nhau Kết quả Bảng 4.7 cho thấy, có 3 môi trường sống chính của cây thuốc ở KVNC là: sống ở vườn (Vu), sống ở rừng (R) và sống ở ven sông ven suối (Vs). Nơi sống chiếm tỷ lệ cao nhất so với tổng số loài điều tra được là môi trường rừng, người dân ở đây từ bao đời nay đã có cuộc sống gắn bó với núi rừng, hiểu biết của họ về các loài cây trong rừng là vô cùng phong phú. Tỷ lệ số loài sống ở từng môi trường so với tổng số loài điều tra được: Sống ở rừng chiếm tỷ lệ cao nhất 81,55% với 84/103 loài, hơn nửa số loài điều tra được có thể kể đến các loài như: Gắm (Gnetum montanum Markgr) chữa viêm đại tràng; Ráy (Alocasia macrorhizos (L.) G. Don) chữa bệnh gút; Thài lài tía (Tradescantia zebrina Hort. ex Loud) có tác dụng chữa viêm nhiễm âm đạo; Nhờ hiểu biết về nhiều loài cây có giá trị làm dược liệu cuộc sống cộng đồng dân tộc nơi đây cững được cải thiện.Tuy nhiên việc gắn bó và phụ thuộc chủ yếu vào rừng trong tương lai sẽ làm giảm đa dạng sinh thái rừng, nguồn tài nguyên cây thuốc cũng sễ bị cạn kiệt dẫn đến tri thức sử dụng cây thuốc của cộng đồng nơi đây sẽ bị mai một. Thấy được người dân tại địa bàn nghiên cứu cũng đã ý thức được giá trị, tầm quan trọng của cây thuốc khi đã đem cây thuốc về vườn nhà trồng thuận tiện cho việc thu hái và sử dụng. Với tỷ lệ cây thuốc sống ở vườn chiếm 34,95% với (36/103) loài bao gồm các loài đơn giản như: Nghệ (Curcuma longa L.) chữa dải vàng; Mã đề (Plantago major L.) chữa mát gan; Sâm cau (Peliosanthes teta Andr) chữa sinh lý nam; Lá lốt (Piper lolot C. DC) chữa đau nhức lưng; Chỉ có 1/103 loài sống ven sông ven suối với tỷ lệ rất ít 0,97% đó là loài Sung đất (Ficus var. badiostrigosa Corn) dùng để tắm đẻ. Như vậy nơi sống chiếm tỷ lệ cao nhất so với tổng số loài điều tra được là môi trường rừng. Tuy nhiên, số lượng cây thuốc được trồng ở vườn nhà còn
  46. 37 ít nguồn cây thuốc chủ yếu lấy trong rừng, nhưng theo người dân nơi đây cây thuốc trong rừng giờ rất khó tìm, phải vào sâu trong rừng mới tìm được cây thuốc như ý muốn, trong đó có những loài quý hiếm Paris chinensis Franch (Thất diệp) dùng để trị ho, hen suyễn, Fibraurea recisa Pierre (Hoàng đằng) dùng để chữa viêm đường tiết niệu, đau khớp. Số lượng loài cây thuốc sống ở rừng chiếm tỷ lệ cao hơn so với số lượng loài cây thuốc sống ở môi trường sống ở vườn, nhiều loài mọc hoang ở môi trường này đều đã được người dân đem về vườn nhà trồng. Tuy nhiên các cây thuốc điều tra được tại địa phương thì không có loài nào là đặc hữu của Việt Nam. 4.2. Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh thái Nguyên Kết quả điều tra đã xác định các loài cây thuốc thuộc diện cần bảo vệ ở khu vực xã Phú Xuyên được ghi tại Bảng 4.8. Bảng 4.8. Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận Cấp quy định TT Tên phổ thông Thuộc họ SĐVN DLĐCT NĐ - CP 2007 VN 2006 Giảo cổ lam - Gynostemma Bầu bí - 1 EN VU pentaphyllum (Thunb.) Cucurbitaceae Makino Khôi - Ardisia Đơn nem - 2 EN VU silvestris Pitard Myrsinaceae Hoàng đằng - Tiết dê - 3 IIA Fibraurea recisa Pierre Menispermaceae Thất diệp - Paris Trọng lâu - IIA 4 VU chinensis Franch Trilliaceae Ngũ da bì - Ngũ da bì - 5 Acanthopanax EN VU Araliaceae trifoliatus (L.) Voss Sâm cau - Peliosanthes Hạnh môn đông - 6 VU teta Andr Convallariaceae
  47. 38 Ghi chú: SĐVN: Sách đỏ Việt Nam; EN – Nguy cấp – Endangered; 06/NĐ – CP: Nghị định 06 của chính phủ; VU- Sắp nguy cấp – Vulnerable; DLĐCT: Danh lục đỏ cây thuốc Để xác định được loài cây thuộc diện bảo tồn sử dụng pp tra tên việt nam của loài, tên khoa học của loài trong từng danh mục của danh lục đỏ vn, nghị định 06 nghị định cp loài cây thuộc cấp bậc bảo tồn và sách đỏ vn 2007. Ở khu vực nghiên cứu có 6 loài cây thuốc quý hiếm, bị đe dọa tuyệt chủng ở Việt Nam, thuộc 6 chi, 6 họ của một ngành thực vật bậc cao là ngành Ngọc lan (Magnoliophyta). Trong đó: 4 loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam (2007) và trong Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam, 2 loài trong Nghị định 06 Dựa vào bảng trên đã thống kê được: Cấp VU - Sắp nguy cấp trong sách đỏ Việt Nam năm 2007 có 1 loài là Sâm cau - Peliosanthes teta Andr. thuộc họ Mạnh môn đông, có tác dụng chữa bệnh sinh lý nam. Cấp VU – Sắp nguy cấp trong danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam 2006 có 4 loài là Giảo cổ lam - Gynostemma pentaphyllum (Thunb.) Makino thuộc họ Bầu bí – Cucurbitaceae có tác dụng chữa huyết áp cao; Khôi - Ardisia silvestris Pitard thuộc họ Đơn nem – Myrsinaceae tác dụng chữa trào ngược dạ dày; Thất diệp - Paris chinensis Franch thuộc họ Trọng lâu – Trilliaceae có tác dụng trị ho, hen suyễn; Ngũ da bì - Acanthopanax trifoliatus (L.) Voss thuộc họ Ngũ da bì – Araliaceae tác dụng chữa viêm khớp. Cấp EN - nguy cấp trong sách đỏ Việt Nam năm 2007 có 3 loài đó là loài Giảo cổ lam - Gynostemma pentaphyllum (Thunb.) Makino thuộc họ Bầu bí – Cucurbitaceae có tác dụng chữa huyết áp cao; Khôi - Ardisia silvestris Pitard thuộc họ Đơn nem – Myrsinaceae tác dụng chữa trào ngược dạ dày; Ngũ da b - Acanthopanax trifoliatus (L.) Voss thuộc họ Ngũ da bì – Araliaceae tác dụng chữa viêm khớp. - Nghị định 06/NĐ - CP có 2 loài:
  48. 39 + Thất diệp - Paris chinensis Franch thuộc họ Trọng lâu – Trilliaceae có tác dụng trị ho, hen suyễn. + Hoàng đằng - Fibraurea recisa Pierre thuộc họ Tiết dê, có tác dụng chữa viêm đường tiết niệu, đau khớp. Trong quá trình thực hiện đề tài ở xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên tôi nhận thấy có 6 loài cây thuốc thuộc diện đang bị đe dọa tuyệt chủng ở Việt Nam. Chính vì vậy, cần phải nâng cao ý thức bảo vệ của mọi người để bảo tồn nguồn gen quý hiếm, phục vụ cho công tác chữa bệnh lâu dài của người dân nơi đây. Theo kết quả nghiên cứu công trình của Nguyễn Minh Hiếu và cs. (2018) [30] tại xã Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên về điều tra cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc tại khu vực nghiên cứu, cho thấy loài cây thuốc cần được bảo vệ ở xã Phú Xuyên, huyện Đại từ, tỉnh Thái Nguyên còn nhiều hơn và đa dạng hơn loài cây thuốc có ở xã Liên Minh. Cụ thể là ở xã Liên Minh chỉ phát hiện được 2 loài cần bảo tồn, còn ở xã Phú Xuyên phát hiện được 6 loài cần bảo tồn. 4.3. Vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Phú Xuyên, Huyện Đại Từ, Tỉnh Thái Nguyên 4.3.1. Kinh nghiệm sử dụng bộ phận làm thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu sốở xã Phú Xuyên Nghiên cứu về bộ phận sử dụng của các loài cây thuốc không chỉ cho thấy tính chất phong phú và đa dạng trong khả năng chữa bệnh của các bộ phận đó, mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với công tác bảo tồn, đồng thời, việc nghiên cứu các bộ phận sử dụng làm thuốc của cây phần nào đánh giá được tính bền vững trong thực trạng khai thác và sử dụng tài nguyên cây thuốc trong cộng đồng các dân tộc thiểu số. Kết quả thống kê về các bộ phận được sử dụng làm thuốc theo kinh nghiệm của dân tộc.Trong quá trình thực tập tại
  49. 40 khu vực nghiên cứu, tôi nhận thấy kinh nghiệm sử dụng các loại cây cỏ làm thuốc chữa bệnh của dân người đồng bào dân tộc tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên khá phong phú và đặc sắc. Để thấy rõ được tính đa dạng và phong phú về việc sử dụng các bộ phận khác nhau của cây để chữa bệnh của người dân tộc ở khu vực nghiên cứu,kết quả được tổng hợp tại Bảng 4.9. Bảng 4.9. Đa dạng của các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc Bộ phận Dao Nùng STT sử dụng Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % 1 Cả cây 67 69,07 6 60,00 2 Lá 43 44,33 3 30,00 3 Thân 28 28,87 2 20,00 4 Hạt 4 4,12 1 10,00 5 Rễ 3 3,09 0 0,00 6 Củ 2 2,06 1 10,00 7 Hoa 2 2,06 0 0,00 8 Vỏ 1 1,03 0 0,00 9 Bẹ 1 1,03 0 0,00 Tổng số 151 155,67 13 130 Tổng số loài phát hiện 97 10 của mỗi dt (Ghi chú: Tỉ lệ % trong Bảng hơn 100% do một số loài có thể sử dụng nhiều bộ phận khác nhau làm thuốc): Dân tộc: 1 – Nùng, 2 – Dao. (Bảng loài cây cụ thể theo từng bộ phận sử dụng của từng dân tộc trích phụ lục 4 trang 1).
  50. 41 Kết quả Bảng 4.9 cho thấy, đã xác định được có 9 bộ phận cây thuốc được cộng đồng dân tộc Nùng, Dao sử dụng trong chữa trị bệnh cho người dân, trong đó có 2 bộ phận được sử dụng nhiều nhất lần lượt là cả cây và lá. Cụ thể như sau: Bộ phận sử dụng là cả cây được cả 2 dân tộc sử dụng nhiều nhất trong đó dân tộc Dao có số lượng nhiều nhất với 67/97 loài, chiếm 69,07% so với tổng số loài điều tra được từ dân tộc Dao, bên cạnh đó dân tộc Nùng cũng biết sử dụng với số lượng và tỷ lệ là 6/10 (60,0%). Trong đó phải kể đến những loài cây có giá trị như: Móc (còng giòng) – Caryota urens L, cây Kim giao (2.Miền đìa chai) – Nageia fleuryi (Hickel) de Laub chữa các bênh ngộ độc thức ăn, xoang. - Đối với bộ phận lá dân tộc Dao biết sử dụng với số lượng nhiều nhất với 40/97 loài, chiếm 44,33% so với tổng số loài điều tra được từ dân tộc Dao, dân tộc Nùng có số lượng ít hơn với số lượng và tỷ lệ lần lượt là 3/10 loài (30,00%) so với tổng số loài điều tra được từ cộng đồng Nùng. Trong nhóm này có thể kể đến một số loài như sau: cây Sổ (2.Sổ bà) - Dillenniaceae được dân tộc Dao sử dụng để tắm đan giật, cây Đu đủ rừng (2.Nhiềm đèng kem)- Trevesia palmata (Roxb. ex Lindl.) Visan được sử dụng để chữa bênh đau lưng, - Đối với bộ phận thân: Cộng đồng dân tộc Dao đã biết sử dụng 28/97 loài (chiếm 28,87%), còn cộng đồng Nùng biết sử dụng 2/10 loài dùng làm thuốc (chiếm 20,00%). Trong nhóm này có thể kể đến một số loài như: cây Mắc ca (2.Mắc ca) – Macadamia integrifolia được dừng để chữa tim đập thất thường và bảo vệ tim khỏe, cây Khế (2.Lố lằng) - Averrhoa carambola L dùng để chữa dị ứng cây sơn, Có sự phân bố không đồng đều trong các bộ phận sử dụng là thuốc là do đặc tính về thời vụ, do quan niệm chữa bệnh, do loại bệnh và do hạn chế về số lượng các loài cây thuốc.
  51. 42 4.3.2. Kinh nghiệm về nhóm bệnh chữa trị của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Phú Xuyên Kết quả nghiên cứu đã thống kê được 16 nhóm bệnh mà cộng đồng dân tộc Dao, Nùng ở khu vực nghiên cứu đã sử dụng cây thuốc để phòng và chữa bệnh. Kết quả chi tiết được ghi tại Bảng 4.10: Bảng 4.10. Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể Nùng Dao STT Nhóm bệnh chữa trị Số Số Tỷ lệ % Tỷ lệ % loài loài Nhóm bệnh đường tiêu hóa (viêm đại tràng, trĩ, 1 nhiễm trùng đường ruột, loét dạ dày, viêm đường 1 10,00 20 20,62 ruột, ) Nhóm bệnh về xương khớp, hệ vận động (gai cột 2 sống, thấp khớp, phong thấp, đau cơ khớp, 0 0,00 24 24,74 gút, ) Nhóm bệnh đường tiết niệu (viêm thận, tan sỏi 3 3 30,00 13 13,40 thận, thận hư, phù thận, suy thận, ) Nhóm bệnh phụ nữ, sinh sản, sinh dục, sinh lý 4 2 20,00 14 14,43 (viêm nhiễm phụ khoa, tắc sữa, điều kinh, ) Nhóm bệnh về gan (viêm gan B, đau gan, xơ 5 1 10,00 9 9,28 gan, giải độc gan, mát gan) Nhóm bệnh của trẻ em (tắm trẻ em, cam sài trẻ 6 0 0,00 6 6,19 con, tắm đan giật, cam trẻ con) Nhóm bệnh ngoài da (dị ứng ngoài da, mụn nhọt, 7 0 0,00 6 6,19 đắp nhọt, ) Nhóm bệnh đường hô hấp (ho, hen suyễn, viêm 8 0 0,00 4 4,12 họng) 9 Nhóm bệnh về mắt (sạch mắt) 0 0,00 1 1,03 10 Nhóm bệnh về mũi (xoang, viêm xoang mũi) 1 10,00 3 3,09 Nhóm bệnh về tim mạch (suy tim, tim đập thất 11 1 10,00 3 3,09 thường, loan nhịp tim, bảo về tim khỏe) Nhóm bệnh về thần kinh ( huyết áp cao, mỡ 12 0 0,00 4 4,12 máu, máu trắng ) 13 Thuốc bổ ( Thanh nhiệt ) 1 10,00 0 0,00 14 Nhóm bệnh do thời tiết (Trúng gió ) 0 0,00 1 1,03 Nhóm bệnh về ung bướu ( Ung thư lá nách, Trị 15 0 0,00 2 2,06 u tán bướu ) 16 Nhóm về ngộ độc ( giải độc ) 1 10,00 Tổng số: 11 110,000 110 113,402 Tổng số loài phát hiện của mỗi dt: 10 97 Chú thích: Tỷ lệ % ở bảng lớn hơn 100 do một số loài có thể sử dụng chữa.
  52. 43 (Bảng tên chi tiết các loài cây theo bộ nhóm bệnh trích phụ lục 4 trang 2). Hình 4.2: Tỷ lệ nhóm bệnh chữa trị từ nguồn cây thuốc theo kinh nghiệm sử dụng trong cộng đồng dân tộc Theo kết quả điều tra thì người dân nơi đây sử dụng cây thuốc để chữa trị 16 nhóm bệnh khác nhau. Có những căn bệnh nan y như bệnh gan, thận, tim, Trong đó, số lượng cây thuốc được sử dụng để chữa trị tập trung phần lớp vào 4 nhóm bệnh là: Với cộng đồng dân tộc Nùng: số lượng cây thuốc được sử dụng để chữa trị tập trung lớn vào 2 nhóm bệnh là nhóm bệnh đường tiết niệu với 3/11 loài cây (chiếm 30% so với tổng số loài được dùng theo kinh nghiệm người Nùng) đứng thứ hai là nhóm bệnh phụ nữ, sinh sản, sinh dục, sinh lý với 2/11 loài cây (chiếm 20% so với tổng số loài được dùng theo kinh nghiệm người Nùng). Tương tự, với cộng đồng dân tộc Dao: số lượng cây thuốc được sử dụng để chữa trị tập trung lớn vào 3 nhóm bệnh là nhóm bệnh là nhóm bệnh đường tiêu hóa với 20/110 loài cây (chiếm 20,62% so với tổng số loài được dùng theo kinh nghiệm người) tiếp theo là nhóm bệnh về xương khớp, hệ vận động với 24/110 loài cây (chiếm 24,74% so với tổng số loài được dùng theo kinh nghiệm người
  53. 44 Dao). Cuối cùng là nhóm bệnh phụ nữ, sinh sản, sinh dục, sinh lý với 14/110 loài cây (chiếm 14,43% so với tổng số loài được dùng theo kinh nghiệm người Dao). Nhìn chung, kinh nghiệm sử dụng nguồn tài nguyên cây cỏ làm thuốc các dân tộc thiểu số Nùng, Dao ở xã Phú Xuyên rất đa dạng và phong phú. Trong đó, dân tộc Dao thể hiện tính nổi bật hơn về kinh nghiệm sử dụng cây thuốc thông qua số lượng loài cây thuốc biết cách sử dụng và số lượng nhóm bệnh chữa trị cho người dân. 4.3.3. Ảnh hưởng của sự giao thoa giữa các dân tộc đến vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc ở xã Phú Xuyên Trải qua quá trình sinh sống lâu dài, cùng với lịch sử chinh phục thiên nhiên và phòng chống bệnh tật, mỗi cộng đồng dân tộc đều thể hiện được những sự sáng tạo riêng biệt của mình. Mỗi dân tộc đã tìm ra những phương thức ứng xử khác nhau để vượt qua sự khắc nghiệt của thiên nhiên, trong đó không thể không kể đến việc sử dụng nguồn tài nguyên cây cỏ có sẵn trong tự nhiên để chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng. Việc khai thác nguồn tài nguyên cây thuốc để đáp ứng như cầu chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng đã là một tập quán lâu đời của cộng đồng dân tộc Nùng và Dao tại xã Phú Xuyên. Cùng với đó, kinh nghiệm sử dụng cây thuốc để chữa bệnh cũng được tích lũy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong quá trình điều tra cho thấy cả 2 dân tộc Nùng và Dao đều cùng sử dụng một số cây thuốc chữa bệnh tại bảng kết quả dưới đây: Bảng 4.11. Danh sách cây thuốc được cả 2 dân tộc Nùng, Dao tại xã Phú Xuyên sử dụng STT Tên khoa học Tên việt nam Tên dân tộc Công dụng 1. Kinh nguyệt 1Cordyline fruticosa (L.) 1,2. Quyền Huyết dụ 2. Mát thận, phụ 1 Goepp diềm sĩ khoa xấu máu 2 Giao (xương khô, 1,2. Lợi sữa, Euphorbia tirucalli L. 1,2. Giao 2 xương cá ) xoang 3 Solanum procumbens Cà gai leo (cà 2,1. Viêm gan B, 1,2. Cà gai leo 3 Lour quạnh, cà gai dây) đau gan
  54. 45 Qua Bảng 4.11 cho thấy, cả 2 dân tộc đều sử dụng chung 3 loài cây thuộc 3 họ thực vật khác nhau. Phần lớn những loài cây thuốc này mọc phổ biến ở trong tự nhiên, sống ở trong rừng, quanh làng xóm, quanh làng bản, đồi cây bụi, đồi trọc, trảng cỏ, ven suối. Những kinh nghiệm sử dụng cây thuốc này chỉ được sử dụng qua phương thức lưu truyền trong phạm vi từng cộng đồng, cùng với đặc trưng truyền miệng từ đời này sang đời khác do đó có nguy cơ mai một cao, vì vậy rất cần có những biện pháp thu thập nguồn tri thức quý giá này để phổ biến cho cộng đồng, phục vụ công tác chữa bệnh. Mặc dù ngôn ngữ của mỗi dân tộc thuộc nhiều nhóm khác nhau, song do các dân tộc sống xen kẽ nhau nên có sự ảnh hưởng giao thoa nhất định về mặt ngôn ngữ cũng như tri thức bản địa trong việc sử dụng tài nguyên cây thuốc để chữa bệnh. Nhiều cây thuốc được gọi tên dựa theo kinh nghiệm của dân tộc nào đó. Mặt khác, cũng nhiều cây thuốc được các dân tộc cùng gọi một tên dựa vào các đặc điểm hình thái của cây như cây Giao (xương khô, xương cá) - Euphorbia tirucalli L, cây cà gai leo (cà quạnh, cà gai dây) - Solanum procumbens Lour. Ngoài việc giao thoa trong cách gọi tên của các thầy lang bà mế giữa các dân tộc Nùng, Dao tại xã Phú Xuyên còn có sự giao thoa trong cách sử dụng chữa bệnh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có nhiều loài cây được cả 2 cộng đồng dân tộc sử dụng để chữa trị cùng một nhóm bệnh. Vì vậy kinh nghiệm sử dụng cây cỏ của các dân tộc cư trú tại xã Phú Xuyên là đáng tin cậy và cần được nhân rộng trong cộng đồng. 4.3.4. Vấn đề truyền thụ kiến thức về cây thuốc trong cộng đồng các dân tộc ở xã Phú Xuyên Kết quả điều tra cho thấy, tại khu vực nghiên cứu hầu hết nam giới có kinh nghiệm sử dụng cây thuốc nhiều hơn nữ giới bởi vì trong nhiều dân tộc
  55. 46 thì nam giới được ưu tiên với việc chuyển giao kiến thức về cây thuốc từ đời trước sang đời sau. Bảng 4.12. Số lượng thầy thuốc được phỏng vấn theo từng dân tộc ở KVNC Stt Dân tộc Số thầy thuốc phỏng vấn Tỷ lệ % 1 Nùng 1 7.69 2 Dao 12 92.31 Tổng 13 100 Dữ liệu cho thấy, số lượng thầy thuốc chiếm đa số hơn là người dân tộc Dao có 12 người được phỏng vấn có tỷ lệ 92.31% so với tổng thầy thuốc được phỏng vấn. Tại xã Phú Xuyên những thầy thuốc chủ yếu là nữ giới và thuộc nhóm tuổi từ 50 - 75 tuổi. Bảng 4.13. Tỷ lệ về độ tuổi và giới tính của các thầy thuốc ở KVNC Nhóm tuổi Giới tính Số người Tổng >75 Nam 1 3 Nữ 2 50-75 Nam 2 8 Nữ 6 25-49 Nam 2 2 Nữ 0 <25 Nam 0 Nữ 0 Tổng số nam 5 Tổng số nữ 8 Về độ tuổi, từ 50 - 70 đây là độ tuổi mà con người thường tích lũy được nhiều kinh nghiệm sống, trong đó có việc thu lượm những kiến thức thực tế từ
  56. 47 những người xung quanh hoặc từ sự truyền đạt những bí quyết của những người cao tuổi trong gia đình, dòng họ liên quan đến việc chữa trị các bệnh. Điều này đã lý giải tỉ lệ thầy thuốc nằm trong độ tuổi 50 – 75 so với nhóm có độ tuổi trẻ hơn là lớn hơn. Mặt khác người ở độ tuổi từ 25 đến dưới 50 tuổi là nguồn lao động chính trong gia đình, do vậy họ thường chú tâm vào các hoạt động sản xuất chính như làm nương rẫy, chăn nuôi, kinh doanh tạo nguồn thu nhập để đảm bảo cuộc sống hàng ngày của gia đình. Những người dưới 25 tuổi chưa tham gia vào việc sử dụng cây cỏ làm thuốc theo kinh nghiệm theo ông cha đi trước bởi vì ở độ tuổi này chủ yếu là độ tuổi còn đang đi học, tham gia các hoạt động xã hội, chưa tích lũy được nhiều kinh nghiệm, vốn sống và những kiến thức bản địa của các bậc cao nhân truyền lại. Như vậy, qua kết quả phỏng vấn 13 thầy thuốc ở xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ cho thấy hầu hết các kiến thức về cây thuốc của cộng đồng Nùng, Dao đều được truyền miệng qua các thế hệ. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, việc chuyển giao kinh nghiệm chữa bệnh chỉ được truyền lại cho con cháu trong gia đình. Do đó việc giữ gìn các giá trị truyền thống về y học dược thảo thì việc hệ thống hóa lại kiến thức thực vật và chuyển giao kiến thức đảm bảo tính liên tục trong các cộng đồng dân tộc là thực sự cần thiết 4.4. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu Từ kết quả nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng một số dân tộc ở khu vực nghiên cứu trong việc phòng và điều trị một số bệnh nhiễm khuẩn, tôi tiến hành lựa chọn cây Mã tiền lông - Strychnos ignatii Berg và cây Vẩy ốc - Phyllanthus virgatus Forst. & Forst. F để tiến hành đánh giá hoạt tính kháng khuẩn (HTKK) của cây. Kết quả thể hiện ở bảng 4.14 và hình 4.4
  57. 48 Bảng 4.14. Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ cây Mã tiền lông và cây Vẩy ốc Đơn vị tính: mm Cao chiết Đối chứng Đối chứng Đối chứng Mã tiền lông Vỏ ốc dương - K1 dương - K2 âm (Dung (MTL) (VO) Vi khuẩn (Amikacin) (Kanamicin) môi) S. aureus 23,4±0,8 10,7±0,3 20,1±0,5 24,2±0,9 0 E. coli 25,1±0,5 23,1±0,6 19,2±0,3 21,7±0,4 0 Qua dữ liệu trên cho thấy, hai loài khảo sát (Mã tiền lông và Vẩy ốc) đều có hoạt tính ức chế đối với chế với cả 2 vi khuẩn gây bệnh Gram dương (S. Aureus) và Gram âm (E. coli) với vòng ức chế đạt được với loài Mã tiền lông là 23,4 mm với vi khuẩn Gram dương (S. aureus) và 25,1mm với vi khuẩn Gram âm (E. Coli). Trương tự với cây Vẩy ốc là 10,7mm với vi khuẩn Gram dương (S.aureus) và 23mm, vi khuẩn gây bệnh. Cả 2 loài Mã tiền lông và Vẩy ốc đều có hoạt tính cao ức 1 mm với vi khuẩn Gram âm (E. Coli). So sánh giữa 2 loài cho thấy loài Mã tiền lông có hoạt tính kháng khuẩn mạnh hơn loài Vẩy ốc. Cả 2 loài này có hoạt tính kháng khuẩn khá mạnh, tuy nhiên hoạt tính ức chế vi khuẩn gây bệnh Gram dương của 2 loài vẫn yếu hơn so với kháng sinh Kanamicin cùng so sánh (đối với loài Mã tiền lông yếu hơn không đáng kể). So với đối chứng âm (dung môi) thì cả 2 loài cây mẫu đều có tính kháng khuẩn, ngược lại đối chứng âm (dung môi) không có tính kháng khuẩn đối với 2 vi khuẩn gây bệnh Gram dương (S. Aureus) và Gram âm (E. coli). Từ kết quả phân tích hoạt tính kháng khuẩn tôi đề xuất, có thể sử dụng cây Mã tiền lông và Vẩy ốc để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do S. aureus (Tụ cầu vàng) và E. coli gây ra. Kết quả này là một bằng chứng khoa học chứng minh kinh nghiệm sử dụng các cây thuốc này trong
  58. 49 việc phòng chống một số bệnh nhiễm khuẩn của cộng đồng các dân tộc thiểu số ở xã Phú Xuyên, huyện Đại Tư, tỉnh Thái Nguyên. Hình 4.3: Hoạt tính ức chế E. coli và S. aureus của cây Mã tiền lông và cây Vẩy ốc Chú thích: TVC: Staphylococus aureus; E. coli: Escherichia coli; ĐC: Đối chứng âm (Dung môi); K1: Đối chứng dương (Amikacin); K2: Đối chứng dương (Kanamicin); MTL: Mã tiền lông; VO: Vẩy ốc
  59. 50 PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1. Kết luận Nghiên cứu về nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, tôi đã thu được những kết quả sau: - Xác định được 103 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc ngành Ngọc lan có 101 loài thuộc 89 chi và 57 họ, thuộc ngành Thông với 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ, thuộc ngành Gắm có 1 loài thuộc 1 chi và 1 họ có công dụng làm thuốc. Số họ thực vật làm thuốc là 59 họ. Trong đó, họ nhiều loài nhất là họ Cúc (Asteraceae) với 9 loài, họ Đại kích (Euphorbiacea) 6 loài, họ Đậu (Fabaceae) và họ Cà Phê (Rubiaceae) với 5 loài.Trong 91 chi, có 1 chi có 3 loài được sử dụng làm thuốc đó là chi Hibiscus thuộc họ Bông bụp (cẩm quỳ). - Dạng cây thuốc được người dân sử dụng nhiều nhất là dạng cây thảo với 41 loài, cây bụi có 37 loài, dây leo có 13 loài, cây nhỏ 11 và gỗ lớn có 1 loài. - Nơi sống chủ yếu của cây thuốc là chủ yếu ở rừng với 84 loài, ở rừng 36 loài và ở ven suối là ít nhất 1 loài. Số lượng cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn có 6 loài chiếm 6,18% tổng số loài cây thuốc thu được, gồm các loài: Thất diệp (2.Bảy lá một hoa) - Paris chinensis Franch; Hoàng đằng (2.Nàng nhà) - Fibraurea recisa Pierre; Giảo cổ lam (1.Giảo cổ lam) - Gynostemma pentaphyllum (Thunb.); Dracaena cambodianaPierre ex Gagnep Huyết giác) (2.Huyết giác) ; Khôi (2.Đìa giàng phản, đèng phản, lì sàng phản, đùng phản) - Ardisia silvestris Pitard; Ngũ da bì (2.Đèng tây hây, chân chim) - Acanthopanax trifoliatus (L.) Voss.
  60. 51 - Sử dụng các bộ phận để làm thuốc bao gồm: Cả cây có 73 loài, lá có 46 loài, thân có 30 loài, rễ có 3 loài, hoa có 2, củ có 3, hạt có 5, loài và cuối cùng cả bẹ và vỏ đều có 1 loài. Trong đó một số loài cây được cả hai dân tộc cùng sử dụng để chữa các bệnh giống và khác nhau, như cây Giao (xương khô, xương cá) - Euphorbia tirucalli L cùng được sử dụng để chữa xoang và lợi sữa. Có sự giao thoa về kiến thức sử dụng cây thuốc của các dân tộc trong khu vực nghiên cứu. - Đã thống kê được 16 nhóm bệnh khác nhau được chữa trị bằng kinh nghiệm sử dụng cây thuốc trong cộng đồng dân tộc Nùng, Dao tại khu vực nghiên cứu. Trong đó số lượng cây thuốc được sử dụng để chữa trị tập trung phần lớp vào các nhóm bệnh là: bệnh về tiêu hóa; bệnh về đường tiết niệu; bệnh về xương khớp, nhóm bệnh phụ nữ sinh sản,sinh dục,sinh lý. - Đã xác định được có 3 loài cây cùng được cả 2 dân tộc Nùng và Dao tại khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng và chữa trị bệnh. - Qua kết quả phân tích hoạt tính kháng khuẩn, cho thấy có thể sử dụng cây Vảy ốc và cây Dây gió để phòng ngừa và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do S. aureus (Tụ cầu vàng) và kiểm soát một số bệnh nhiễm khuẩn do E. coli gây ra. 5.2. Đề nghị - Cần tiếp tục mở rộng khu vực điều tra và nghiên cứu về tài nguyên cây thuốc để có kế hoạch bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu cho tương lai. - Tiếp tục nghiên cứu và đánh giá tính hiệu quả của các loài cây thuốc mà đồng bào dân tộc tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên sử dụng. - Xây dựng những vườn thuốc trong gia đình cho những gia đình lương y hay những gia đình có những người biết sử dụng thuốc ở các thôn
  61. 52 bản để bảo vệ nguồn gen quý và hướng dẫn cách trồng hái, chế biến cho phù hợp. - Với những loài cây thuốc thuộc dạng quý hiếm cần hướng dẫn nhân dân nhận biết và tiến hành bảo vệ rừng, hạn chế khai thác một cách cạn kiệt các loài cây thuốc để bán sang Trung Quốc.
  62. 53 TÀI LIỆU THAM KHẢO A.TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT. 1. Tào Duy Cần (2001), Thuốc Nam, thuốc Bắc và các phương thang chữa bệnh, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật. 2. Tào Duy Cần (2006), Thuốc bệnh 24 chuyên khoa, Nxb Y học, Hà Nội. 3. Đặng Quang Châu, Bùi Hồng Hải (2003), “Điều tra cây thuốc của đồng bào dân tộc Thái, xã Xuân Hạnh, huyện Quỳ Châu – Nghệ An”, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội. 4. Đặng Quang Châu (2011), “Một số dẫn liệu về cây thuốc của dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn – Nghệ An”, Tạp chí Sinh học, tập 23. 5. Võ Văn Chi (1996), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội. 6. Võ Văn Chi (2012), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb Hà Nội, tập 1-2. 7. Lưu Đàm Cư, Hà Tuấn Anh, Trương Anh Thư (2004), “Các cây có ích của dân tộc H’mông và khả năng ứng dụng trong phát triển kinh tế”, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội. 8. Nguyễn Thượng Dong (chủ biên) và nhiều tác giả (2006), “Nghiên cứu thuốc từ thảo dược”, Nxb Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội. 9. Lê Trần Đức (1997), Cây thuốc Việt Nam, trồng hái chế biến và trị bệnh ban đầu, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 10. Phạm Hoàng Hộ (2001), Cây cỏ Việt Nam, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 11. Phạm Hoàng Hộ (2006), Cây có vị thuốc ở Việt Nam, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 12. Lê Thị Thanh Hương (2007), “Điều tra và đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc của đồng bào dân tộc Tày ở một số xã của huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên”, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội.
  63. 54 13. Âu Anh Khâm (2001), 577 bài thuốc dân gian gia truyền (sách dịch), Nxb Thanh niên, Hà Nội. 14. Đỗ Tất Lợi (2005), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 15. Nguyễn Tập (2007), Cẩm nang cây thuốc cần bảo vệ ở Việt Nam, Nxb Mạng lưới lâm sản ngoài gỗ Việt Nam, Hà Nội. 16. Phạm Thiệp, Lê Văn Thuần, Bùi Xuân Chương (2000), Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược, Nxb Y học, Hà Nội. 17. Nguyễn Nghĩa Thìn (1997), Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật, Nxb Nông nghiệp, Hà nội. 18. Nguyễn Nghĩa Thìn (2007), Các phương pháp nghiên cứu thực vật, Nxb Đại Học Quốc gia Hà Nội. 19. Nguyễn Nhân Thống (2008), Danh y tuổi tý, Hội Đông y Việt Nam – Tạp chí Đông y – số 405/2008. 20. Nguyễn Thị Thủy, Phạm Văn Thỉnh (2004), “Nghiên cứu xây dựng và bảo tồn cây thuốc ở Sa Pa”, Thái Nguyên, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 21. Trần Thúy, Vũ Nam, Nguyễn Văn Toại (2005), Lý luận Y học cổ truyền, Nxb Y học, Hà Nội. 22. UBND xã Phú Xuyên (2020), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2019 và phương hướng nhiệm vụ năm 2020 23. Bộ Khoa học và Công nghệ (2007), Sách đỏ Việt Nam, phần Thực vật. Nxb Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. 24. Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2019), Nghị định 06/2019/CP – NĐ về nghiêm cấm, hạn chế khai thác và sử dụng các loài động thực vật hoang dã.
  64. 55 25. Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4 (2011), Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 26. Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội (2009). Danh lục các loài thực vật Việt nam. Nxb Nông nghiệp, Hà nội, tập 2 – 3. 27. Viện Dược Liệu (1993), Tài Nguyên cây thuốc Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 28. Nguyễn Thị Kim Oanh (2015), “Tri thức bản địa về khai thác và sử dụng tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại khu rừng du lịch văn hóa xã Mẫu Sơn, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 29. Bùi Thị Ngân (2018) “Tri thức bản địa trong sử dụng, bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Tày tại xã Hà Lang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 30. Nguyễn Minh Hiếu, Vàng Sảo Hai, Lồ Di Mềnh, Giàng A Cắng, Hờ A Bình (2018) “Điều tra cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên” 31. Nông Thái Hòa (2018) “nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 32. Dương Văn Hưng (2018) “Nghiên cứu tri thức sử dụng cây thuốc tại xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
  65. 56 33. Ma Văn Khiêm (2018) “Tri thức bản địa trong sử dụng, bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Tân An, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 34. Vàng A Lả (2018) “Nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Yên Lạc, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 35. Lục Thanh Sắc (2018) “Tri thức bản địa trong sử dụng, bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao tại xã Hà Lang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. B.TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI 36. Ahmad Cheikhyoussef, Martin Shapi, Kenneth Matengu và Hina Mu Ashekele (2011), “Research on the botany of indigenous knowledge of medicinal plants used by traditional healers in the area Oshikoto, Namibia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 37. Arshad Abbasi, Mir Khan, Munir H Shah, Mohammad Shah, Arshad Pervez, Mushtaq Ahmad (2012), “Ethnobotanical appraisal and cultural values of medicinally important wild edible vegetables of Lesser Himalayas - Pakistan”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 38. Auemporn Junsongduang, Henrik Balslev, Angkhana Inta, Arunothai Jampeetong, Prasit Wangpakapattanawong (2013), “Medicinal plants from swidden fallows and sacred forest of the Karen and the Lawa in Thailand”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 39. Balcha Abera (2014), “Medicinal plants used in traditional medicine by Oromo people, Ghimbi District, Southwest Ethiopia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine.
  66. 57 40. Behxhet Mustafa, Avni Hajdari , Feriz Krasniqi, Esat Hoxha, Hatixhe Ademi, Cassandra L Quave và Andrea Pieroni (2012), “Medical ethnobotany of the Albanian Alps in Kosovo”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 41. Berhane Kidane, Tinde van Andel, Laurentius van der Maesen, Zemede Asfaw (2014), “Use and management of traditional medicinal plants by Maale and Ari ethnic communities in southern Ethiopia”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 42. Cecilia Almeida, Elba de Amorim, Ulysses de Albuquerque, Maria Maia (2006), “Medicinal plants commonly used in the area Xingo - a place in the semi - arid northeastern Brazil”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 43. David J Simbo (2010), “A survey of the botany of medicinal plants in Babungo, northwestern region, Cameroon”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 44. Dol Luitel, Maan B Rokaya, Binu Timsina, Zuzana Münzbergová (2014), “Medicinal plants used by the Tamang community in the Makawanpur district of central Nepal”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 45. Eduardo Estrada-Castillón, Miriam Garza-López, José VillarrealQuintanilla, María Salinas-Rodríguez, Brianda Soto-Mata, Humberto González-Rodríguez, Dino González-Uribe, Israel Cantú- Silva, Artemio Carrillo-Parra, César CantúAyala (2014), “Ethnobotany in Rayones, Nuevo León, México”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 46. Gabriele Volpato, Daimy Godínez, Angela Beyra, Adelaida Barreto (2009), “Use of medicinal plants of Haitian immigrants and their
  67. 58 descendants in the province of Camagüey, Cuba”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 47. Gaia Luziatelli, Marten Sørensen, Ida Theilade, Per Mølgaard (2010), “Ashaninka medicinal plants: a case study from the indigenous communities of the Bajo Quimiriki, Junín, Peru”, Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine. 48. Gorka Menendez-Baceta, Laura Aceituno-Mata, María Molina, Victoria ReyesGarcía, Javier Tardío, Manuel Pardo-de-Santayana (2014), “Medicinal plants traditionally used in the northwest of the Basque Country (Biscay and Alava), the Iberian Peninsula”, Journal of Ethnopharmacology. 49. Homervergel G. Ong, Young-Dong Kim (2014), “The study of botany quantification of the medicinal plants used by indigenous Ati Negrito groups in the island of Guimaras, Philippines”, Journal of Ethnopharmacology. C. TÀI LIỆU INTERNET 50. Nghiên cứu tài nguyên thực vật rừng Việt Nam (2009) 51. Nguyễn Hoàng Sơn (2014), “Sự cần thiết phát triển dược liệu”
  68. PHỤ LỤC
  69. PHỤ LỤC 1 Một số hình ảnh chụp cùng thầy lang bà mế tại khu vực nghiên cứu Phỏng vấn bà Lương Thị Hoa, xóm Quyên (dân tộc Nùng). Phỏng vấn bà Lương Thị Vinh dân tộc Dao xóm Tân Lập
  70. Phỏng vấn ông Phùng Văn Lập tại xóm Tân Lập (dân tộc Dao). Bà Lương Thị Thanh (dân tộc Dao) tại xóm Tân Lập.
  71. Phỏng vấn ông Bàn Văn Thanh tại xóm Tân Lập (dân tộc Dao).
  72. PHỤ LỤC 2 Một số hình ảnh trong quá trình thu mẫu cây phân thích HTKK 1. Cây Vẩy ốc ở tọa độ tại KVNC 2. Cây Dây gió ở tọa độ tại KVNC (21.6545953, 105.5424286) (21.6583839, 105.5356906) 3. Rửa cây mẫu 4. Băm cây mẫu
  73. 5. Mẫu cây Vảy ốc sau khi băm 6. Mẫu cây Dây gió sau khi băm 7. Phơi mẫu cây phân thích
  74. Phụ lục 3 Bảng danh sách các cây thuốc đã thu thập được tạị xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
  75. Dân đL đỏ IUCN Tên khoa Tên Tên tộc SĐV cây Tên khoa Tên phổ Dạng MT BPS Cách Công Ređ NĐ- Stt học của VN dân (1 N Thuốc học thông sống sống D SD đụng list 32 họ của họ tộc Nùng ; (1996) VN (2004) 2 Dao ) (2001) A NGÀNH THÔNG - Pinophyta A1 Lớp Pinopsida 1 Podocarpa HỌ ceae THÔNG TRE 1 Nageia Kim giao, Podocarpa HỌ 2.Miề Mi 2.R 2.Cc, 2.T, 2.Ngộ 2 VU.B1a, fleuryi (Kim giao ceae THÔN n đìa L K độc b (i-v (Hickel) de đá vôi ) G chai thức ).c1.c2a( Laub TRE ăn, i) xoang B Ngành Dây Gắm - Gnetophyt a B1 Lớp Dây gắm - Gnetopsid a 2 Gnetaceae HỌ DÂY GẮM 2 Gnetum Gắm ( Gnetaceae HỌ 2.Mu Lp 2.R 2.Th 2.K 2.Viêm 2 montanum Rau bép, DÂY m pây đại Markgr Rau ranh, GẮM tràng Bét, ) C Ngành
  76. Ngọc lan - MAGNOL IOPHYtA C1 Lớp Một lá mầm - Liliopsida 3 Asteliacea HỌ e HUYẾT DỤ 3 Cordyline Huyết dụ Asteliacea HỌ 1,2.Q Na 1,2.V 1,2.C 1,2.K 1.Kinh 1,2 fruticosa e HUYẾ uyền u,R c,L nguyệt (L.) Goepp T DỤ diềm 2.Mát sĩ thận, phụ khoa , xấu máu 4 Cordyline Huyết dụ Asteliacea HỌ 2.Quy Na 2.Vu, 2.Cc, 2.T, 2.Máu 2 stricta Endl thắng e HUYẾ ền R L K trắng (huyết dụ T DỤ diêm hẹp) pe 4 Alliaceae HỌ HÀNH 5 Allium Hẹ Alliaceae HỌ 2.Hẹ Th 2.Vu 2.Cc 2.T 2.Sinh 2 odorum L HÀN lý nam H 6 Allium Tỏi Alliaceae HỌ 2.Phủ Th 2.Vu 2.Cc 2.T, 2.Viêm 2 sativum L HÀN n K xong H mũi 5 Cannaceae HỌ DONG RiỀNG
  77. 7 Canna Dong đỏ ( Cannaceae HỌ 1,2.D Th 1.R 1.Củ 1.T, 1. Suy 1,2 edulis Ker- dong rềng DON ong 2.Vu, 2.Cc K Tim Gawl ,chuối củ ) G đỏ R 2.T 2. Giải RiỀN rượu G 6 Araceae HỌ RÁY 8 Alocasia Ráy Araceae HỌ 2. Th 2.R 2.Th 2.K 2.Gút 2 macrorhizo RÁY Ráy s (L.) G. Don 7 Iridaceae HỌ DIÊN VĨ ( LAY ƠN ) 9 Belamcand Rẻ quạt ( Iridaceae HỌ 2.Rẻ Th 2.Vu, 2.Cc 2.K 2.Viêm 2 a chinensis Xạ DIÊN quạt R họng (L.) DC can,Lưỡi VĨ ( lòng ) LAY ƠN ) 8 Costaceae HỌ MÍA DÒ ( ĐÓT ĐẮNG ) 10 Costus Mía dò ( Costaceae HỌ 2.Điề Th 2.Vu 2.Th 2.K 2.Sỏi 2 speciosus sẹ MÍA n dạy thận (Koenig) vàng,đót DÒ ( lình Smith đắng) ĐÓT ĐẮN G ) 9 Poaceae HỌ HÒA THẢO ( LÚA ) 11 Saccharum Mía tím ( Poaceae HỌ 1.Mía Th 1.Vu 1.Cc 1.K 1.Viêm 1
  78. officinaru cam giá ) HÒA tím thận,đá m L THẢO i dắt ( LÚA ) 12 Cymbopog Sả đỏ ( sả Poaceae HỌ 2.Đìa Th 2.R 2.Th 2.T, 2.Hậu 2 on tía ) HÒA sản K sản pendulus THẢO kía (Nees ex ( LÚA Steud.) ) Wats 13 Arundo Sậy ( Sậy Poaceae HỌ 2.Cột Na 2.R 2.Cc 2.K 2.Tắm 2 donax L trúc ) HÒA tị trẻ con THẢO ( LÚA ) 10 Zingiberac HỌ eae GỪNG 14 Curcuma Nghệ ( Zingiberac HỌ 2.Vàn Th 2.Vu 2.Củ 2.T 2.Dải 2 longa L Nghệ eae GỪN g vàng nhà,nghệ G chang trồng ) 15 Amomum Sa nhân ( Zingiberac HỌ 2.Thù Th 2.Vu 2.Cc 2.T 2.Đau 2 repens Trúc sa ) eae GỪN ng sà nhức Sonn G đẻng xương khớp 16 Amomum Thiều đất Zingiberac HỌ 2.Thi Th 2.R 2.Ha, 2.T, 2.Đau 2 vespertilio (Sẹ đất ) eae GỪN ều đất Th K nhức Gagnep G 11 Convallari HỌ aceae MẠNH MÔN ĐÔNG 17 Peliosanthe Sâm cau Convallari HỌ 2.Pằn Th 2.Vu 2.Cc 2.K 2.Sinh 2 VU.A1a,
  79. s teta Andr (Sâm aceae MẠN lòng lý nam c,d mây, huệ H kiềm đá ) MÔN ĐÔN G 12 Acoraceae HỌ XƯƠNG BỒ 83 Macadamia Mắc ca Proteaceae HỌ 2.Mắc Mi 2.Vu, 2.Th, 2.T, 2.Tim 2 integrifolia CHẸO ca R Ha K đập THUI thất ( thường, CƠM bảo vệ VÀN tim G ) khỏe 13 Commelin HỌ aceae THÀI LÀI 19 Tradescanti Thài lài Commelin HỌ 2.Thà Th 2.R 2.Cc 2.T 2.Viêm 2 a zebrina tía ( hồng aceae THÀI i lài nhiễm Hort. ex trai ) LÀI tía âm đạo Loud 14 Trilliaceae HỌ HẮC DƯỢC HOA ( TRỌNG LÂU ) 20 Paris Thất diệp Trilliaceae HỌ 2.Bảy Th 2.R 2.Cc 2.K 2.Trị 2 chinensis ( bảy lá 1 HẮC lá một ho, hen Franch hoa,tảo DƯỢ hoa suyễn hưu) C HOA ( TRỌN G