Khóa luận Nghiên cứu ảnh hưởng phân BMT18 đến sản xuất chè sạch - an toàn tại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên

pdf 77 trang thiennha21 13/04/2022 5140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghiên cứu ảnh hưởng phân BMT18 đến sản xuất chè sạch - an toàn tại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nghien_cuu_anh_huong_phan_bmt18_den_san_xuat_che_s.pdf

Nội dung text: Khóa luận Nghiên cứu ảnh hưởng phân BMT18 đến sản xuất chè sạch - an toàn tại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TRƯƠNG THỊ ĐIỂM Tên đề tài: NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG PHÂN BIOCHAR - KHOÁNG THẾ HỆ MỚI BMT18 ĐẾN SẢN XUẤT CHÈ ẠS CH-AN TOÀN TẠI HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Khoa học môi trường Khoa : Môi trường Khóa học : 2014 – 2018 Thái Nguyên, năm 2018
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TRƯƠNG THỊ ĐIỂM Tên đề tài: NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG PHÂN BIOCHAR - KHOÁNG THẾ HỆ MỚI BMT18 ĐẾN SẢN XUẤT CHÈ ẠS CH-AN TOÀN TẠI HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Chuyên ngành : Khoa học môi trường Lớp : K46 - KHMT - N01 Khoa : Môi trường Khoá học : 2014 - 2018 Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS. Đỗ Thị Lan Thái Nguyên, năm 2018
  3. i LỜI CẢM ƠN Thực tập tốt nghiệp là một khâu rất quan trọng trong quá trình học tập của mỗi sinh viên nhằm hệ thống lại toàn bộ lượng kiến thức đã học, vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, bước đầu làm quen với những kiến thức khoa học. Qua đó sinh viên ra trường sẽ hoàn thiện hơn về kiến thức lý luận, phương pháp làm việc, năng lực công tác nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn của công việc say này. Để hoàn thành đề tài tốt nghiệp này, ngoài sự cố gắng, nỗ lực của bản thân, bên cạnh những thuận lợi, tôi đã gặp không ít khó khăn, tuy vậy với sự giúp đỡ của các thầy cô, các anh chị, gia đình và bạn bè tôi đã vượt qua các khó khăn ấy và hoàn thành bài khóa luận. Trước tiên, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo PGS.TS. Đỗ Thị Lan đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ và động viên tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài này. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ban Giám hiệu trường - Ban Chủ nhiệm Khoa Môi trường - Các thầy, cô giáo trong Khoa Môi trường - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên những người đã trực tiếp giảng dạy, trang bị những kiến thức bổ ích trong suốt thời gian học đại học. Mặc dù bản thân có nhiều có gắng nhưng do hạn chế về thời gian, trình độ và kinh nghiệm song đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự cảm thông, đóng góp ý kiến chỉ bảo của các thầy cô giáo và ý kiến đóng góp của bạn bè để đề tài tốt nghiệp được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, tháng 3 năm 2018 Trương Thị Điểm
  4. ii DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1: Diện tích chè của thế giới và một số nước trồng chè chính 32 Bảng 2.2: Năng suất chè của Thế Giới và một số nước trồng chè chính năm 2009 – 2013. 33 Bảng 2.3: Sản lượng chè của Thế Giới và một số nước trồng chè chính 34 Bảng 2.4: Diện tích, năng suất và sản lượng chè của Việt Nam 35 Bảng 2.5. Diện tích, năng suất, sản lượng chè của Thái Nguyên 40 năm 2012 – 2015 40 Bảng 4.1. Ảnh hưởng của liều lượng phân BMT 18 tới sinh trưởng 47 Bảng 4.2. Ảnh hưởng của liều lượng phân BMT 18 tới sinh trưởng đến động thái tăng trưởng chiều dài búp (cm) 49 Hình 4.1: Ảnh hưởng của liều lượng phân BMT 18 tới sinh trưởng đến động thái tăng trưởng chiều dài búp (cm) 49 Bảng 4.3. Ảnh hưởng của liều lượng phân BMT 18 đến đợt sinh trưởng của giống chè 50 Bảng 4.4. Ảnh hưởng của liều lượng phân BMT 18 tới biểu hiện một số sâu bệnh hại trên chè 51 Bảng 4.7. Ảnh hưởng của liều lượng tổ hợp phân BMT 18 tới sinh trưởng đến hàm lượng một số chất hóa học trong búp chè 55 Bảng 4.8. Ảnh hưởng của liều lượng phân BMT 18 tới sinh trưởng đến chất lượng chè xanh 56 Bảng 4.9. Ảnh hưởng của liều lượng tổ hợp phân BMT 18 tới sinh trưởng đến năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất 57 Bảng 4.10: Hiệu quả kinh tế các công thức phân NTR1, BMT18 trên cây chè 58
  5. iii DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 4.1: Ảnh hưởng của liều lượng phân BMT 18 tới sinh trưởng đến động thái tăng trưởng chiều dài búp (cm) 49
  6. iv DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CT : Công Thức ĐC : Đối chứng K2O : Kali KHKT : Khoa học kỹ thuật KTCB : Kiến thiết cơ bản LAI : Chỉ số diện tích lá MN : Miền núi N : Đạm NLN : Nông lâm nghiệp NXB : Nhà xuất bản P2O5 : Lân SP : Sản phẩm TB : Trung Bình TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam
  7. v MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN i DANH MỤC BẢNG ii DANH MỤC CÁC HÌNH iii DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT iv MỤC LỤC v MỞ ĐẦU 1 1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1 1.2. Mục đích đề tài 2 1.2.1 Mục tiêu chung. 2 1.2.2 Mục tiêu cụ thể. 2 1.3 Ý nghĩa của đề tài 2 1.3.1 Ý nghĩa trong học tập 2 1.3.2 Ý nghĩa trong thực tiễn 3 PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4 2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4 2.1.1. Cơ sở lý luận 4 2.1.2. Cơ sở thực tiễn. 4 2.1.3. Nguồn gốc của cây chè 5 2.1.4. Một số đặc điểm sinh trưởng phát triển của cây chè 6 2.1.4. Vai trò của phân khoáng đối với cây chè 7 2.2. Thực trạng đất trồng chè trên thế giới và Việt Nam 11 2.2.1. Sự phân bố của cây chè 11 2.2.2. Thực trạng đất trồng chè ở Việt Nam 12 2.2.3. Thực trạng đất trồng chè trên thế giới 16 2.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về sử dụng phân bón cho cây chè 18 2.3.1. Những nghiên cứu về sử dụng phân bón cho chè trên thế giới 18 2.3.2. Những kết quả nghiên cứu về đất và phân bón cho chè ở Việt Nam 22
  8. vi 2.4. Tình hình sản xuất chè trên thế giới và việt Nam 31 2.4.1. Tình hình sản xuất chè trên thế giới 31 2.4.2. Tình hình sản xuất chè ở Việt Nam 35 2.5. Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè Thái Nguyên 37 PHẦN 3: VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 41 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 41 3.1.1 Đối tượng: 41 3.2. Nội dung nghiên cứu 41 3.3. Phương pháp nghiên cứu 42 3.3.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm 42 3.3.2 Các chỉ tiêu nghiên cứu 42 3.3.3. Phương pháp xử lý số liệu 45 3.3.4. Phương pháp khác 45 PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 46 4.1.Thành phần của phân biochar và các nghiên cứu về ứng dụng của phân biochar 46 4.1.1 Thành phần của phân biochar 46 4.1.2 Các nghiên cứu về ứng dụng của phân biochar 46 4.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng liều lượng phân BMT 18 đến sinh trưởng chè 46 4.2.1. Ảnh hưởng của liều lượng phân BMT 18 đến sinh trưởng thân cành chè 46 4.2.2. Ảnh hưởng của liều lượng BMT 18 đến động thái tăng trưởng chiều dài búp 48 4.2.3. Ảnh hưởng của liều lượng bón BMT 18 đến lứa hái chè 50 4.3. Kết quả nghiên ức u ảnh hưởng phân BMT 18 đến mức độ sâu bệnh hại 51 4.4. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng phân NTR1, BMT18 đến các yếu tố cấu thành năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. 53 4.4.1. Ảnh hưởng phân NTR1, BMT18 đến chất lượng chè 53
  9. vii 4.3.2. Ảnh hưởng liều lượng phân BMT 18 đến năng suất chè và hiệu quả kinh tế sử dụng phân bón 57 Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 60 5.1. Kết luận 60 5.2. Kiến nghị 60 TÀI LIỆU THAM KHẢO 61
  10. 1 PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Phân hữu cơ khoáng BMT18 BMT18 do Trường Đại học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên nghiên cứu và sản xuất. Phân BMT18 có hàm lượng phân có hàm lượng N và K2O cao nên có thể dùng bón thúc cho cây trồng. Phân BMT18 đã nghiên cứu sử dụng cho nhiều loại cây trồng nhưng chưa nghiên cứu xậy dựng quy trình kỹ thuật bón phân cho cây chè. Hiện nay, vấn đề về sản xuất chè an toàn theo quy trình Viet GAP đang được cả dư luận và xã hội quan tâm, trong đó ảnh hưởng của phân bón đến năng suất và chất lượng cây chè được coi là vấn đề quan trọng nhất. Phân BMT18 là sản phẩm mới thành phần gồm: than sinh học, phân hữu cơ sinh học và vô cơ. Để xây dựng quy trinh kỹ thuật sử dụng phân bón này cho cây chè nói chung và cây chè tại Đại Từ nói riêng cần phải nghiên cứu ảnh hưởng của liều phân bón đến năng suất và chất lượng chè. Vùng sản xuất chè an toàn Đại Từ – Thái Nguyên là nơi có diện tích trồng chè thuộc loại lớn nhất tỉnh Thái Nguyên, tuy nhiên người dân sản xuất chè chưa được khoa học theo quy trình Viet GAP và chè chưa đảm bảo chất lượng như bà con còn sử dụng phân chuồng tươi và sử dụng nhiều phân khoáng Trong quá trình chăm sóc, nông dân bón phân chưa cân đối, bón nhiều đạm (ure) làm cây mất cân đối về dinh dưỡng (gây ra thừa đạm) ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây, cây dễ bị nhiễm các loại sâu bệnh hại dẫn đến năng suất còn hạn chế, chất lượng sản phẩm chưa cao. Đặc biệt việc bón quá nhiều đạm hoặc gần ngày thu hoạch gây dư lượng nitrat tích lũy trong cây vượt quá mức cho phép, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người sử dụng. Ở nước ta hiện đã có nhiều tác giả nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến năng suất và chất lượng của cây chè như Phạm Minh Tâm (2001), Ngô Thị Hạnh (2010) Tuy nhiên vẫn
  11. 2 chưa có nghiên cứu nào được tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng phân BMT18 cho cây chè tại vùng sản xuất chè an toàn Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. Xuất phát từ các vấn đề nêu trên, chúng tôi đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng phân BMT18 đến sản xuất chè ạs ch-an toàn tại huyện ạĐ i Từ tỉnh Thái Nguyên”. 1.2. Mục đích đề tài 1.2.1 Mục tiêu chung. Xác định liều lượng phân BMT18 phù hợp để góp phần nâng cao chất lượng chè bằng sử dụng phân bón hữu cơ khoáng, hạn chế gây ô nhiễm môi trường, tiến tới sản xuất chè an toàn và ềb n vững. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể. + Đánh giá được ảnh hưởng các liều lượng phân BMT18 đến chất lượng chè vụ hè thu năm 2017. + Đánh giá được khả năng hạn chế gây ô nhiễm môi trường của phân BMT18 tại vùng trồng chè Đại Từ. + Xác định được liều lượng phân BMT18 hợp lý có để cải thiện chất dinh dưỡng trong đất ở vùng trồng chè Đại Từ. 1.3 Ý nghĩa của đề tài 1.3.1 Ý nghĩa trong học tập + Nghiên cứu đề tài nhằm củng cố lại cho sinh viên những kiến thức đã học và làm quen dần với công việc thực tế + Kết quả của đề tài góp phần hoàn thiện quy trình kỹ thuật bón phân, bổ sung tài liệu cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về cây chè + Kết quả của đề tài là cơ sở để phát triển rộng rãi việc đưa phân bón BMT18 vào sản xuất nông nghiệp. + Nâng cao khả năng tiếp cận, thu thập và xử lý thông tin của sinh viên trong quá trình điều tra nghiên cứu.
  12. 3 1.3.2 Ý nghĩa trong thực tiễn Đưa ra được liều lượng phân BMT18 thích hợp cho cây chè nhằm nâng cao năng suất và chất lượng chè ở vùng chè sản xuất chất lượng cao huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên Kết quả cho thấy phân BMT18 góp phần hạn chế gây ô nhiễm môi trường tốt hơn các loại phân vô cơ và phân hữu cơ khác, Kết quả nghiên cứu của đề tài làm cơ sở khoa học xây dựng quy trình sử dụng phân bón cho cây chè. Hiệu quả của đề tài góp phần nâng cao chất lượng chè tại tỉnh Thái Nguyên, giúp tạo nên thương hiệu chè sạch và an toàn cho sức khỏe con người.
  13. 4 PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 2.1.1. Cơ sở lý luận Nghiên cứu các nhu cầu của cây trồng, từ đó tìm các biện pháp kỹ thuật nhằm tác động nhằm đáp ứng nhu cầu đó để tạo ra nhiều nông sản có năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao là nhiệm vụ cơ bản của khoa học Nông nghiệp. Một trong những nhu cầu cơ bản của cây trồng là các chất dinh dưỡng và để đáp ứng nhu cầu đó chủ yếu thông qua việc bón phân. Nhiệm vụ của việc bón phân là cung cấp cho cây phần dinh dưỡng ít nhất cũng đủ bù lượng mà cây lấy đi theo sản phẩm thu hoạch. Muốn xây dựng chế độ bón phân hợp lý cần nghiên cứu đặc tính của cây đồng thời phân tích khả năng dinh dưỡng trong đất. Việc bón phân hợp lý cho cây trồng vừa nhằm đạt năng suất cây trồng cao thoả đáng với chất lượng tốt, hiệu quả sản xuất cao, đồng thời để ổn định và bảo vệ được đất trồng trọt. Bên cạnh đó bón phân còn có thể làm môi trường tốt hơn, cân đối hơn 2.1.2. Cơ sở thực tiễn. Sản xuất chè tại xã Tân Thái, huyện Đại Từ ,tỉnh Thái Nguyên cũng như các vùng chè khác trong cả nước, đều thiếu phân bón hữu cơ trầm trọng. Trong canh tác chè truyền thống, phân chuồng là giải pháp chủ yếu của phân bón cho chè, tuy nhiên hiện nay, lượng phân chuồng trong chăn nuôi hiện có trong các nông hộ không thể đáp ứng nổi cho sự mở rộng diện tích trồng chè nhằm tăng tổng sản lượng cung cấp cho nhu cầu của thị trường ngày càng lớn. Quá trình thâm canh chè với sự có mặt tràn lan, mất cân đối của các chất hóa học như phân hóa học, phân chuồng tươi, thuốc bảo vệ thực vật đã làm tăng lượng Nitrat và các chất độc hại dư thừa trong rau, tạo ra sự mất vệ sinh an toàn thực phẩm, gây hại cho sức khỏe người sử dụng. Về lâu dài, đất
  14. 5 càng ngày càng bị chai cứng hơn do dung nhiều phân hóa học, tính đệm của đất giảm nhiều do thiếu mùn, sự ô nhiễm nặng nề về môi trường sản xuất đã dẫn đến hệ sinh vật đất và thiên địch có lợi cho cây trồng bị tiêu diệt. Nguồn nước ngầm đang dần dần bị ô nhiễm làm tăng nguy cơ thiếu tài nguyên nước sạch xung quanh đô thị. Vì vậy, việc sử dụng phân hữu cơ sinh học bón cho chè là biện pháp có hiệu quả nhất hiện nay để bổ sung chất hữu cơ cho đất, nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón, tăng cường hoạt động của các chủng vi sinh vật hữu ích, thúc đẩy nhanh quá trình phân giải chất hữu cơ từ phế phụ phẩm nông nghiệp, cung cấp mùn cho đất, cải tạo và bồi dưỡng đất, tiến tới nền sản xuất nông nghiệp hữu cơ, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nâng cao năng suất và chất lượng chè. 2.1.3. Nguồn gốc của cây chè Chè là loài cây có lịch sử thuộc vào hàng lâu đời nhất trên thế giới. Cây chè có tên khoa học là Camelia Sineusis, thuộc họ Theacae, khí hàn, vị khổ cam, không độc. Đây một loại cây xanh lá quanh năm, có hoa màu trắng. Cây chè là loại cây dài hạn, phải trồng từ 5 năm trở lên mới thu hoạch được và thu hoạch trong vòng 25 năm, có nhiều cây chè cổ thụ có tuổi đời lên tới vài trăm năm như cây Trà Tước ở chùa Hương Sơn Thái Nguyên nước ta có tuổi đời 300 năm. Dựa trên đặc tính và sự sinh trưởng của cây chè, những nhà thực vật học đưa ra các điều kiện để cây chè sinh trưởng và phát triển tốt như sau: 1) Quanh năm không có sương muối. 2) Có mưa đều quanh năm với lượng mưa trung bình khoảng 3000 mm/ năm. 3) Nằm ở độ cao 500-1000 mm so với mực nước biển, môi trường mát mẻ, không nắng quá hoặc ẩm quá.
  15. 6 Những vùng đất thỏa mãn các điều kiện trên là: tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, Bắc Việt Nam, Bắc Miến Điện, Thái Lan và Lào, vùng núi phía đông bang Assam của Ấn Độ Như vậy có thể thấy cây chè chỉ tập trung sinh sống và phát triển được ở châu Á. Cây chè nguyên thủy được cho rằng có từ 4-5 nghìn năm trước đây. Các nhà khảo cổ học ở nước ta đã tìm thấy những dấu tích cổ đại của hoá thạch cây chè ở Phú Thọ. Ở Suối Giàng có cả một rừng chè hoang mấy vạn cây, có nhiều cây chè cổ thụ rất to lớn. 2.1.4. Một số đặc điểm sinh trưởng phát triển của cây chè Chè là loại cây thân gỗ, nếu để sinh trưởng tự nhiên có thể cao 5- 20m. Đường kính tán rộng. Thân và cành chè tạo nên bộ khung tán của cây chè, nếu cây chè có bộ khung tán khỏe, các cành phân bố hợp lý sẽ là tiền đề cho năng suất cao. Bộ rễ cây chè ăn sâu 1- 2m, ưa đất chua, chịu hạn tốt. Rễ nhánh và rễ hút phân bố ở tầng đất sâu từ 0- 40cm, rễ tập trung giữa hai hàng chè, nếu để sinh trưởng tự nhiên tán rễ so với tán cây lớn hơn 2- 2,5 lần. Trong kĩ thuật trồng chè theo hàng rào đa số rễ tập trung dưới hình chiếu của tán cây. Khác với cây trồng khác, ở cây chè, búp và lá vừa là cơ quan quang hợp vừa là sản phẩm cho thu hoạch. Để nâng cao năng suất cây chè cần phải kết hợp đồng thời việc thu hái búp với việc nuôi chừa bộ lá. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến bộ lá chừa trong đó có đất đai và dinh dưỡng. Toàn bộ đời sống của cây chè được chia ra thành 2 chu kỳ phát triển: chu kỳ phát triển lớn và chu kỳ phát triển nhỏ. - Chu kỳ phát triển lớn: bao gồm suốt cả đời sống cây chè, kể từ khi tế bào trứng thụ tinh, bắt đầu phân chia cho đến khi cây chè già cỗi và chết. Cây chè thuộc nhóm cây nhiều đời quả, hàng năm đều ra hoa kết quả trong suốt mấy chục năm sinh trưởng phát triển. Chu kỳ phát triển lớn của cây chè
  16. 7 được các nhà khoa học Trung Quốc chia làm 5 giai đoạn: giai đoạn phôi thai (giai đoạn hạt giống), giai đoạn cây con, giai đoạn cây non, giai đoạn chè lớn, và giai đoạn già cỗi. - Chu kỳ phát triển nhỏ (chu kỳ phát triển hàng năm): bao gồm các giai đoạn sinh trưởng phát triển trong một năm như hạt nảy mầm, chồi mọc lá, ra hoa kết quả và giai đoạn tạm ngừng sinh trưởng, cây không ra các lá non mới, hoa quả phát triển chậm, song bộ rễ lại phát sinh ra các rễ mới. Từ hạt mọc lên, đến khi chết vì già cỗi, cây chè trải qua những diễn biến về sinh trưởng phát triển nói trên, lặp đi lặp lại trong nhiều năm. Quá trình sinh trưởng sinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực song song cùng tồn tại. Hai chu kỳ trên có quan hệ mật thiết với nhau, các chu kỳ phát triển nhỏ được thực hiện trên cơ sở của chu kỳ phát triển lớn. Các hiện tượng hàng năm như hạt nảy mầm, đâm chồi, nảy lộc, mọc lá, ra hoa kết quả đều tiến hành trên cơ sở của chu kỳ lớn tích luỹ hàng năm gọi là tuổi sinh vật (tuổi chung) của cây chè. Những đặc điểm sinh trưởng phát triển của cây chè là kết quả phản ánh tổng hợp giữa đặc điểm của giống (tính di truyền) với những điều kiện ngoại cảnh. Như vậy, nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng phát triển, năng suất và chất lượng của từng giống sẽ giúp chúng ta sẽ đánh giá được khả năng thích ứng của giống trong vùng sinh thái. Từ đó làm cơ sở xây dựng các biện pháp kỹ thuật canh tác thích hợp, tạo điều kiện cho cây chè sinh trưởng phát triển cho năng suất cao, chất lượng tốt. 2.1.4. Vai trò của phân khoáng đối với cây chè Sử dụng phân khoáng cho cây trồng nói chung và cây chè nói riêng là vô cùng phong phú. Mục đích của việc bón phân là nhằm bảo đảm dinh dưỡng cân đối cho cây trồng và không để các chất dự trữ trong đất giảm xuống dưới mức cây cần. Trên nguyên tắc duy trì độ phì sẵn có trong đất dễ dàng và đỡ tốn kém
  17. 8 hơn là khôi phục độ phì của đất do hậu quả của việc bón phân không hợp lý trong thời gian dài. Sử dụng phân bón cho chè là vấn đề khá phức tạp bởi tính đa dạng và phức tạp của đất đai vùng đồi núi. Xu thế hiện nay các tác giả đều cho rằng bón phân cho chè kết hợp 3 yếu tố N, P, K là cần thiết, song tỷ lệ và liều lượng bao nhiêu là hợp lý cũng rất phụ thuộc vào điều kiện đất đai, thời tiết và khí hậu của từng vùng. Nhu cầu dinh dưỡng của cây chè được nhiều nhà nghiên cứu nhìn nhận từ các khía cạnh khác nhau, hoặc hiệu suất thu hoạch trên đơn vị phân bón, hoặc với một đơn vị năng suất lấy đi một lượng dinh dưỡng cần thiết các yếu tố khác nhau. Những kết quả nghiên cứu về nhu cầu phân bón và các thực nghiệm về hiệu lực phân bón đã chứng minh: đạm là yếu tố chủ yếu đối với cây chè, có tương quan chặt chẽ với năng suất. Tương quan giữa năng suất chè với đạm là tuyến tính với cả mức bón phân cao hơn 120kg N/ha. Khi lượng bón trên 80 – 90kg N/ha thì tối thiểu phải bón làm 2 lần. Hiệu ứng của đạm là tác động tích lũy, vượt qua giới hạn của một năm mà phải tính qua các chu kỳ thu hái. Theo kết quả nghiên cứu ở Assam Ấn Độ thấy rằng hiệu lực đạm tăng đều đặn theo thời gian: hiệu suất của 1kg N của lần bón thứ 1, 2, 3 và 4 là 2kg, 4kg, 6kg và 8kg chè khô. Ở Đông Phi hiệu suất của 1kg N là từ 4 – 8kg chè khô. Nếu như hiệu suất dưới 4 kg chè khô/kg N thì đã xuất hiện yếu tố hạn chế P hoặc K. Tác dụng đầy đủ của đạm được thể hiện chỉ trên nền đảm bảo các yếu tố khác. (Willson K. C, 1992) [45] Trong nhiệm kỳ kinh tế vài chục năm của đời sống cây chè với các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Willson K. C (1992) [45] đã xác định rằng cây chè ở giai đoạn đầu sau trồng (1 – 3 tuổi) sang giai đoạn cho thu búp (4 – 6 tuổi) lượng đạm được bón làm nhiều lần, bón từ 30 kg N/ha tăng dần nhưng không vượt quá 100kg N/ha. Hiệu lực của lượng đạm 100kg
  18. 9 N/ha đạt cao nhất ở độ tuổi 7 – 8 đến 10 – 12 tuổi. Thời kỳ 10 – 12 tuổi lượng đạm bón có hiệu lực cao nhất từ 200 – 300 kg N/ha, nhưng năng suất búp của 1 kg N cao nhất không quá 200 kg N/ha ở những nương chè có mức năng suất 5 – 8 tấn đọt tươi/ha, còn những nương chè có năng suất trên 10 tấn/ha đầu tư đến 300kg N/ha vẫn cho hiệu suất cao. Tất cả các liều lượng bón trên 300kg N/ha không làm tăng năng suất chè và hiệu suất giảm. Các nương chè trên 20 tuổi hiệu lực phân đạm tốt nhất với liều lượng không quá 200kg N/ha. Cũng theo Willson K.C and M.N. Lifford (1992) [45] để thu hoạch 1 tấn chè búp tươi cần phải bón 32,0 - 33,5 kg N; 16,5 - 18,0 kg P2O5; 2,0 – 10,0kg K2O. Trong đó chỉ một nửa dinh dưỡng bị lấy đi bởi thu hái búp, được tích lũy trong 25 – 28% lượng vật chất khô trong búp thu hoạch. Bởi vậy cung cấp lượng dinh dưỡng hằng năm cho cây chè cần quan tâm đến sự tiêu hao cho quá trình duy trì bộ khung tán cây chè, bộ rễ, sinh khối phần đốn hằng năm, và duy trì hệ sinh vật đất, các quá trình rửa trôi, bốc hơi, cỏ dại Qua kết quả nghiên cứu của một số tác giả cho thấy: Cây chè là loại cây thu hoạch lá nên yếu tố N là chất dinh dưỡng quan trọng hàng đầu, N có ảnh hưởng tốt đến năng suất búp chè. Bón N có thể làm tăng năng suất chè búp 40- 50%, hoặc có khi còn cao hơn nữa, nhưng khi bón N đơn độc kéo dài đã làm giảm năng suất và ảnh hưởng xấu đến chất lượng chè. Lân là yếu tố rất cần thiết trong đời sống cây chè, có tác dụng tăng cường sự phát triển của rễ mới, còn yếu tố N chỉ kích thích sự phát triển chiều dài của rễ. Bộ rễ chè có tương quan rất chặt chẽ với năng suất. Bón kết hợp lân và N đã làm tăng cường sự sinh trưởng của bộ rễ. Lân còn có tác dụng tích cực trong việc nâng cao chất lượng chè chế biến, làm tăng hương vị của chè đen. Vai trò của kali đối với sự sinh trưởng và năng suất chè còn nhiều ý kiến chưa được thống nhất, có tác giả cho rằng hiệu lực kali đối với chè là tùy thuộc vào từng loại đất. Trên các loại đất có hàm lượng kali tổng số và dễ tiêu thấp, bón kali cho chè đã làm tăng năng suất rõ rệt. Song cũng có những
  19. 10 nghiên cứu bón kali trong thời gian dài đã không làm tăng năng suất chè ở mức độ có ý nghĩa. Thậm chí, có thí nghiệm bón kết hợp N và kali kéo dài trong 21 năm cũng không thấy tăng năng suất đáng kể. (Wanyoko Othieno, 1987) [42]. Xu thế hiện nay các tác giả đều cho rằng bón phân cho chè kết hợp 3 yếu tố N,P, K là cần thiết, song tỉ lệ và liều lượng bao nhiêu là hợp lý cũng rất phụ thuộc vào điều kiện đất đai, thời tiết và khí hậu của từng vùng. Ở Ấn Độ, với những đất nghèo dinh dưỡng, K dễ bị rửa trôi, người ta đề nghị bón N:P:K theo tỉ lệ 1:2:2 hay 1:2:3 nhưng ở Indonesia chè được trồng ở vùng đất hình thành trên sản phẩm phong hóa của núi lửa nên không cần bón kali cho chè mà hàng năm chỉ cần bón khoảng 120- 150N và 30 P2O5/ha. Còn vùng đất thiếu kali có thể bón N:P:K theo tỷ lệ 2:1:2. Khác hơn nữa ở Kenya bón phân cho chè trưởng thành với tỷ lệ thích hợp là N:P:K=5:1:1 hoặc N:P:K:S = 5:1:1:1 (Hakawata, 1993 [34]; Darma Wijaya, 1985 [30]; Othieno, 1994) [38]. Ở Việt Nam vấn đề sử dụng phân khoáng cho chè còn gặp nhiều khó khăn, phần lớn đất trồng chè rất nghèo dinh dưỡng, địa hình đa dạng và phức tạp, khả năng đầu tư phân bón thâm canh cho chè rất hạn chế, kết quả nghiên cứu chưa nhiều. Một số kết quả nghiên cứu mới đề cập đến vấn đề bón N đơn độc cho chè đã cho năng suất tăng rõ rệt, nhưng cho đến năm thứ 7, thứ 8 năng suất giảm dần, tăng tỷ lệ chè bị chết. Bón đạm liều lượng cao (đã có ảnh hưởng đến chất lượng chè (Đỗ Ngọc Quỹ, 1979 [19]; Phạm Kiến Nghiệp,1984 [14]. Bón kali kết hợp với N cho chè đã tăng năng suất khoảng 13,3- 20,0%. Bón lân với các dạng supe lân Lâm Thao, lân chậm tan (lân nung chảy) đã có tác dụng tăng năng suất chè 23- 24%. (Hồ Quang Đức, 1994 [31]; Bùi Đình Dinh, Lê Văn Tiềm, Võ Minh Kha, 1993 [5]). Rải rác còn một số kết quả tương tự nhưng cũng chỉ mới là sơ khởi. Để
  20. 11 có thể góp phần nâng cao năng suất và chất lượng chè. Việc tiếp tục nghiên cứu các tỷ lệ và liều lượng N, P, K thích hợp cho từng loại đất trên từng vùng trồng chè ở những điều kiện khí hậu khác nhau là những vấn đề cần phải quan tâm. 2.2. Thực trạng đất trồng chè trên thế giới và Việt Nam 2.2.1. Sự phân bố của cây chè Sự phân bố của cây chè chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện tự nhiên, khí hậu. Các công trình nghiên cứu trước đây đều đã có kết luận: vùng khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới đều thích hợp cho sự phát triển của cây chè. Cây chè đã có mặt ở cả những vùng cao nhất của bắc địa cầu như trên dãy núi Pôchi vùng Kratxnoda, đến những vùng thấp nhất ở nam địa cầu như vùng Miosiones của Achentina. Chè sinh trưởng tốt cả ở vùng có độ cao 20- 25m đến vùng có độ cao hàng nghìn mét so với mặt biển. Với đặc tính chung là ở vùng thấp cây chè sinh trưởng tốt, cho sản lượng búp cao nhưng chất lượng chè chế biến không ngon, còn ở vùng cao chè sinh trưởng chậm, năng suất búp không cao nhưng chất lượng chè chế biến lại ngon (Astika) [28]. Ở các nước nhiệt đới với những vùng có độ cao từ 20- 25m trở lên so với mặt biển, có lượng mưa từ 1500mm trở lên, phân bố đều trong năm, nắng nhiều là những nơi có điều kiện tối ưu để cây chè cho năng suất cao, phẩm chất tốt [12], [32]. Nhiều tài liệu ở các nước trồng chè cho thấy cây chè đòi hỏi đất chua, đất có trị số pHKCL từ 4 đến 6 là thích hợp cho cây chè phát triển và tối ưu là pHKCL khoảng 4,5 đến 5,6 [12]. Châu Á có 20 nước trồng chè bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Srilanca, Inđônexia, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kì, Banglades, Iran, Myanma, Việt Nam, Thái Lan, Lào, Malaysia, Campuchia, Nêpan, Philippin, Triều Tiên, Apganistan và Pakistan. Châu Phi có 21 nước bao gồm Kenia, Malavi, Uganda, Tanzania,
  21. 12 Mozambich, Ruanda, Mali, Ghine, Morixơ, Namphi, Ai cập, Cônggô, Camơrun, Đảo Reuynion, Tchat, Rodezia, Abitxini, Brundi, Maroc, Angiêri và Zimbabue. Châu Mỹ có 12 nước bao gồm Achentina, Braxin, Peru, Columbia, Ecuado, Guatemala, Paragoay, Jamica, Mêhico, Bolivia, Guyanna và Mỹ. Châu Đại Dương có 3 nước sản xuất chè bao gồm: Paqua Tân Ghinê, Fiji và Australia. Ở châu Âu có: Cộng hoà liên bang Nga, Bồ đào Nha. 2.2.2. Thực trạng đất trồng chè ở Việt Nam Ở Việt Nam, cây chè có thể trồng được ở hầu hết trên các loại đất với điều kiện là ở độ cao so với mặt biển từ 20m trở lên, mực nước ngầm ở sâu dưới 1m, đất chưa có độ pHKCL 4- 6, lượng mưa trung bình từ 1200 mm/năm trở lên, độ ẩm không khí khoảng 80%, độ dốc không quá 300, tầng dày trên 50cm (Nguyễn Ngọc Kính [12], Đỗ Ngọc Quỹ [20]. Từ lâu đời do điều kiện kinh tế, tập quán canh tác của từng nơi, cây chè đã được trồng và hình thành ở 5 vùng chính với điều kiện đất đai, khí hậu và các giống chè khác nhau. Vùng chè trung du Cây chè được trồng chủ yếu ở một số huyện như Hàm Yên, Yên Sơn, Sơn Dương, Chiêm Hóa thuộc tỉnh Tuyên Quang, một số huyện trong tỉnh Yên Bái như: Lục Yên, Trấn Yên, Yên Bình Một số huyện trong tỉnh Phú Thọ như Thanh Sơn, Yên Lập, Thanh Ba, Hạ Hòa và Đoan Hùng. Đất đồi vùng trung du có độ cao so với mặt biển từ 25- 200m, chiếm 1/10 diện tích cả nước, không có độ dốc đứng và lòng chảo sâu. Ranh giới giữa núi và đồi khó phân biệt chính xác [25]. Đất được hình thành trên nhiều loại đá mẹ khác nhau như phiến sét, phiến thạch mica, gnai dưới những thảm thực vật khác nhau, có mức độ Feralit khác nhau, vì lẽ đó mà đất đai vùng trung du không đồng đều, hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất chênh lệch nhau đáng kể [26].
  22. 13 Thành phần cơ giới nặng vì được hình thành từ những đá mẹ giàu sét, cấu trúc kém, ít tơi xốp. Đất thường chua, pHKCL có chỗ <4,5. Các cation Ca++, Mg++, K+ rất nghèo. Đất tích lũy nhiều sắt, nhôm, hàm lượng chất hữu cơ thấp, nhiều nương chè hàm lượng chất hữu cơ chỉ chung quanh 1%, đạm tổng số thường <0,2%, kali rất nghèo trung bình khoảng 0,15- 0,2% (Lương Đức Loan, Nguyễn Tử Siêm- 1979, Vũ Ngọc Tuyên- 1977) [13], [25]. Với đất đai vùng trung du như vậy nên trong quá trình trồng và chăm sóc chè cần được chú ý tới biện pháp bảo vệ và bồi dưỡng đất. Vùng chè thượng du (miền núi) phía Bắc Cây chè được trồng ở một số huyện thuộc các tỉnh như: Sơn La, Hà Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên Đất đai vùng đồi núi các tỉnh phía Bắc chiếm 3/4 diện tích đất tự nhiên (Nguyễn Vy, Đỗ Đình Thuận, Vũ Ngọc Tuyên ) [26], [25] có độ cao so với mặt biển từ 200m trở lên, phần lớn các loại đất được hình thành tại chỗ, có hàm lượng mùn cao, càng lên cao sự hình thành mùn càng chậm, nhưng sự phân hủy mùn yếu hơn so với vùng thấp. Tầng đất có độ dày mỏng hơn đất vùng đồi, do bị xói mòn mạnh. Đất được phát triển trên phiến thạch, sa thạch và đá gnai (ở vùng Đông Bắc), còn ở vùng Tây Bắc đất được hình thành từ đá gnai, Granit, phiến thạch là chính (Vũ Ngọc Tuyên, Phạm Gia Tu ) [25]. Đất có mầu vàng, đỏ vàng và nâu. Đa số đất có độ dày trung bình từ 0,6 đến 1m, đất khá tơi xốp, độ chua cao pHKCL từ 4- 4,5 thành phân cơ giới thuộc loại thịt nhẹ và trung bình, hàm lượng mùn biến động mạnh, hàm lượng lân tổng số và dễ tiêu đều nghèo (lân tổng số phổ biến ở mức 0,03- 0,05%) theo Lương Đức Loan, Nguyễn Tử Siêm 1979 [13]. Theo tác giả Nguyễn Thi Dần [3]. Đất ferarit vàng đỏ phát triển trên phiến thạch Mica thích hợp cho phát triển cây chè ở miền Bắc Việt Nam, nhóm đất này luôn chịu ảnh hưởng của quá trình ferarit hóa, nên đất thường chua, màu đỏ hay màu vàng, tích lũy nhiều sắt, nhôm, hàm lượng sét vật lý
  23. 14 cao, quá trình trồng chè có hiện tượng rửa trôi sét xuống tầng sâu, lân dễ tiêu nghèo do bị giữ chặt dưới dạng phosphat sắt, nhôm. Vùng chè khu 4 cũ Ở vùng khu 4 cũ chè thường được trồng ở một số huyện như Hậu Lộc, Thiệu Hóa, Đông Sơn, Quảng Xương, Tĩnh Gia của tỉnh Thanh Hóa. Một số huyện như Hương Sơn, Hương Khê, Thạch Hà, Can Lộc thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Đất đai ở đây phần lớn là đất đỏ vàng, phát triển trên các loại đá mẹ khác nhau. Địa hình bị chia cắt, tầng đất chỗ dày chỗ mỏng, thường gặp từ 60cm- 120cm. Đất vùng trồng chè thường chua pHKCL từ 4- 4,5, khoáng vật chủ yếu là Kaolinit, hàm lượng kali tổng số từ 0,2- 0,3%, hàm lượng chất hữu cơ chênh lệch nhau nhiều [25]. Vùng khu 4 cũ mùa mưa thường đến muộn nên chè bị hạn vào cuối mùa khô. Đất đai thuộc diện nghèo dinh dưỡng, nên trong quá trình trồng chè phải chú ý thâm canh ngay từ đầu. Vùng chè Gia Lai- Kon Tum Đất đai vùng Tây Nguyên rất phù hợp cho việc trồng các loại cây lương thực nói chung, cũng như cây chè nói riêng. Các đồn điền chè, cà phê đã đựơc thành lập ngay từ những năm 1925 đến năm 1940, với quy mô 300- 400 ha. Đất đai vùng chè Gia Lai - Kon Tum thuộc loại đất Ferarit nâu vàng, nâu đỏ, vàng đỏ và phát triển trên đá Bazan, ở độ cao 700m so với mặt biển. Đất có tỷ lệ sét cao, trên 50% đất có cấu trúc viên, tơi xốp, thoáng khí. Hàm lượng lân tổng số trung bình (0,10- 0,15%) kali tổng số ở mức nghèo (0,08- 0,10%), hàm lượng chất hữu cơ trong đất khá cao pHKCL: 4,5- 5,5. Theo Nguyễn Vy- 1977 [26], Vũ Cao Thái- 1996 [24], (dẫn theo Nguyễn Khả Hòa 1994) [9] thì đất Bazan giàu lân tổng số, nhưng nghèo lân dễ tiêu.
  24. 15 Vùng Tây Nguyên có khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình. Mùa khô hạn trầm trọng, mùa mưa lượng mưa rất lớn (từ 1800 trên 2000mm), nhiệt độ dao động ngày đếm lớn. Cây chè sinh trưởng trên vùng đất Bazan rất thuận lợi, sản lượng thu bình quân 40- 50 tạ/ha. Tuy nhiên vì mùa khô thiếu nước nên trồng chè gặp nhiều khó khăn. Vùng chè cao nguyên Lâm Đồng Tính đến năm 2010 Lâm Đông có trên 16000 ha chè. Cây chè được trồng tập trung ở các huyện: Di Linh, Đơn Dương, Đức Trọng, Bảo Lộc. Vùng chè Lâm Đồng ở độ cao >800m so với mặt biển, đây là vùng rất thuận lợi về mặt chất lượng chè. Đất tích lũy nhiều sắt, nhôm, là một trở ngại lớn cho việc cung cấp lân cho cây chè nói riêng và cây công nghiệp nói chung. Hàm lượng chất hữu cơ, hàm lượng đạm, lân, kali tổng số đều ở mức khá, đất chua, pHKCL biến động từ 4,5- 5,5 [26]. Cũng như đất đai vùng Gia Lai- Kon Tum, có độ ẩm cây héo lớn, lượng nước khuếch tán thấp nên mùa khô hạn hán xảy ra nghiêm trọng (Nguyễn Vy, Đỗ Đình Thuận 1977) [26], Trần Công Tấu, Nguyễn Thị Dần 1984 [23]. Với cây chè chú ý biện pháp trồng và chăm sóc cây cẩn thận trong mùa khô, cũng như thời gian nắng nóng kéo dài trong mùa mưa. Ở Việt Nam cây chè được trồng trên nhiều vùng sinh thái khác nhau với điều kiện canh tác, đất đai khác nhau. Nhưng chè được trồng nhiều nhất vẫn là trên loại đất đỏ vàng phát triển trên đá sét và biến chất tập trung ở vùng đồi bị phân cách. Nhìn chung, đa phần đất đai của các vùng trồng chè ở nước ta là nghèo các chất dinh dưỡng (N, P, K) kể cả tổng số và dễ tiêu, đất chua, hàm lượng hữu cơ thấp. Đồng thời do điều kiện khí hậu thời tiết nắng nóng, khô hạn kéo dài đã dẫn đến năng suất chè giảm sút. Do vậy nghiên cứu bổ sung phân bón cho chè đặc biệt là phân hữu cơ, tạo điều kiện thâm canh cho chè
  25. 16 ngay từ khi trồng mới là điều cần thiết để đạt năng suất cao. 2.2.3. Thực trạng đất trồng chè trên thế giới Cây chè có lịch sử lâu đời và phân bố rất rộng trên rất nhiều các loại đất khác nhau nhưng chủ yếu trên các loại đất chua Acrisols; Feralsols; Andosols và một phần trên đất Alisols, Podzoluvisols. Nhiều nhà khoa học đều thống nhất chè chỉ phù hợp với đất chua, nhưng về khoảng pH thích hợp thì có nhiều ý kiến khác nhau. Đến nay pH đối với chè được thống nhất giới hạn dưới là 4, giới hạn trên là 6 và thích hợp trong khoảng 4,5 - 5,5. Phản ứng chua cho đất trồng chi phối rất nhiều đến chế độ dinh dưỡng cả hữu cơ và vô cơ cung cấp cho cây. Điều này thể hiện rõ nhất ở sự tích luỹ đạm amon thay thế tích luỹ đạm nitrat và hiện tượng giữ chặt lân, dễ tiêu trong đất ở dạng phốt phát sắt, phốt phát nhôm. Trong môi trường chua, sinh trưởng của cây chè bị hạn chế nhiều bởi sụ khó hòa tan của nhôm, nó bị tích tụ và tạo thành kết von, sự ngưng tụ của lignin qua đó làm tăng hàm lượng H2O2. Khi hàm lượng nhôm tự do thấp sẽ ảnh hưởng rõ đến thành phần sinh hóa và chất lượng chè, đặc biệt là chỉ tiêu tannin [45]. Theo Chen Zong Mao (1994) [29] thì trong suốt quá trình trồng, quản lý chăm sóc chè, việc quản lý đất là quan trọng nhất trong tất cả các việc cần làm, tác giả cho biết đất chè Trung Quốc có hàm lượng dinh dưỡng thấp, chủ yếu do đất bị xói mòn, rửa trôi. Qua kết quả phân tích 200 mẫu ở các loại đất trồng chè khác nhau ở Trung Quốc đã cho thấy hàm lượng kali diễn biến từ 15,3- 1031 mg/1kg đất. Hàm lượng này giảm dần từ Bắc xuống Nam. 63% đất chè Trung Quốc có hàm lượng Mg < 40mg/1 kg đất. 69% đất chè có hàm lượng S<80mg/1 kg đất. Với đất trồng chè ở Trung Quốc hiệu lực sử dụng N chỉ từ 30- 50%. Cũng như một số nước vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, việc bón lân cho chè là kém hiệu quả vì tới 90% lượng lân bón vào đất bị giữ chặt, do trong đất chứa phần
  26. 17 lớn lượng Fe2+ và Al3+, khi bón lân vào đất tạo thành dạng phốt phát sắt nhôm khó tiêu, cây chè khó sử dụng. Theo Astika và các cộng tác viên [28], Wibowo 1994 [44], hầu hết chè ở Indonesia được trồng ở độ cao 800- 1300m so với mặt biển, trên loại đất có nguồn gốc của núi lửa hoạt động từ thế kỷ thứ IV. Đất chè ở Indonesia bao gồm đất Oxisols, Alfisols và Ultisols. Đất trồng chè ở Indonesia được phân làm 5 loại chính với những chỉ tiêu là: độ sâu tầng đất, cấu trúc đất, hàm lượng chất hữu cơ tổng số và hàm lượng một số chất dinh dưỡng khác. Nhìn chung đất trồng chè ở Indonesia có độ sâu tầng đất, hàm lượng chất hữu cơ, hàm lượng một số chất dinh dưỡng khác từ trung bình đến cao. Đây là điều kiện tốt cho cây chè sinh trưởng. Theo Anon 1993 [27] đất trồng chè ở Srilanka gồm 3 nhóm chính: Ultisols, Oxisols và Inceptisols, trong đó nhóm đất Ultisols chiếm diện tích nhiều nhất. Nhìn chung đất chè ở Srilanka thuộc diện nghèo dinh dưỡng. Hàm lượng chất hữu cơ tổng số trên dưới 1%, pH KCl: 5,0- 5,5 thành phần cơ giới đất 50% cát, 20% limon, 30% sét. Địa hình đồi núi cao, dốc nhiều đất thường bị xói mòn do mưa nhiều và mưa lớn. Theo Sharma, V.S-1994 [40] Ở Nam Ấn Độ, đất đai xấu hơn vùng Đông Bắc Ấn Độ, đất thường thiếu kali. Đất có hàm lượng kali dễ tiêu dưới 60 ppm là đất bị thiếu kali, 61- 100ppm là trung bình và trên 100 ppm là cao. Ngoài kali thì kẽm cũng là nguyên tố được quan tâm, đây là nguyên tố mà đất không đủ cung cấp cho cây chè. Đất trồng chè của một số nước trên thế giới có diện tích chè tập trung và lớn là rất đa dạng và phong phú. Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong mỗi loại đất của từng miền có địa hình khí hậu khác nhau là rất khác nhau. Do đó nghiên cứu chế độ phân bón cho chè hoàn toàn phụ thuộc vào từng điều kiện đất đai cụ thể của mỗi nước.
  27. 18 2.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về sử dụng phân bón cho cây chè 2.3.1. Những nghiên cứu về sử dụng phân bón cho chè trên thế giới 2.3.1.1. Những kết quả nghiên cứu về sử dụng phân khoáng cho chè Tất cả các cây trồng nói chung và cây chè nói riêng đều cần thức ăn để sinh trưởng và phát triển bằng việc hút nước và các chất khoáng từ đất, CO2 từ không khí. Ngay từ những ngày đầu tiên của nông nghiệp con người đã biết sử dụng các chất thải của gia súc, các tàn dư thực vật để bón cho cây trồng mà sau này người ta gọi là phân hữu cơ. Tuy nhiên có được nguồn phân hữu cơ bón cho chè không phải ở đâu và lúc nào cũng giải quyết được. Vì thế thành tựu từ cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp, việc sử dụng phân hoá học để bón cho cây từ những năm 1891 - 1900 được coi là bước tiến quan trọng trong nền nông nghiệp. Bằng phương pháp phân tích hoá học người ta đã tìm thấy trong cây có 74 nguyên tố hoá học trong đó 4 nguyên tố C, H, O, N chiếm tới 95% và là thành phần chủ yếu tạo nên chất hữu cơ của cây, các nguyên tố khoáng còn lại có trong thành phần tro của cây nhưng với hàm lượng rất khác nhau ở các loại cây và các bộ phận khác nhau trên cùng một cây. Đến nay người ta đã xác định được 16 nguyên tố không thể thiếu được đối với sự sinh trưởng và phát triển của cây. Những nguyên tố này được gọi là chất dinh dưỡng cơ bản. Chúng bao gồm các nguyên tố C, H, O được cây nhận từ khí quyển, còn lại là các nguyên tố N, P, K, S, Ca, Mg, Fe, Zn, Mn, Cu, B, Mo và Cl được cung cấp từ nguồn dự trữ trong đất hoặc thông qua việc sử dụng phân bón. Phân vô cơ trong đó 3 nguyên tố chính là N, P, K và một số nguyên tố trung lượng như Mg, S, Ca, Fe, Al, vẫn được coi là nguồn phân bón không thể thiếu được với cây chè nói riêng cũng như các loại cây trồng nói chung. Dinh dưỡng khoáng có liên quan mật thiết tới sinh trưởng phát triển của cây. Trong đó bộ lá chè là cơ quan mẫn cảm nhất phản chiếu mức độ tốt
  28. 19 xấu của cây trồng và điều kiện dinh dưỡng của môi trường sống. - Với đạm: cây chè là cây trồng thu hoạch lá nên đạm là chất dinh dưỡng quan trọng nhất. Năng suất búp phụ thuộc chặt chẽ vào lượng bón N (Marwaha, Grice 1982 [33], Sandanam và Rajasingham 1987 [39]. Khi nghiên cứu ảnh hưởng của bón N đến năng suất chè, đã cho thấy: trong 3 lượng bón 300N, 500N và 700N trên nền bón P, K, trong 3 năm đầu năng suất tăng 10,16% ở công thức bón 500N và 700N. Từ năm thứ 4 thứ 5 công thức bón 500N năng suất giảm đi 6- 7%, với lượng bón 700N hầu như năng suất không tăng (so với công thức bón 300N). Bón các dạng phân đạm khác nhau có ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển của bộ rễ, cây chè có bộ rễ phát triển tốt làm cơ sở cho việc tăng năng suất. Với 3 loại phân đạm đưa vào nghiên cứu (NH4)2SO4, (NH4)NO3, CaCN2 thì dạng phân (NH4)NO3 có tác dụng tốt nhất đến khối lượng bộ rễ, mà nhất là rễ dẫn (khối lượng bộ rễ tăng gấp 3 lần so với bón P và K). Còn dạng CaCN2 làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của bộ rễ (khối lượng bộ rễ giảm 3 lần so với bón P, K). Tác giả Othieno 1994 [37] cho biết việc bón N đơn độc kéo dài nhiều năm (từ những năm 1960 đến những năm 1990) đã gây ra sự thiếu hụt các chất dinh dưỡng đặc biệt là P và K trong đất. Qua việc phân tích đất và lá chè cho thấy cây chè ở Kenya cần loại phân có N, P, K, S với tỷ lệ phối hợp 25:5:5:5 hoặc N, P, K với tỷ lệ 20:10:10. Tác giả Wang Xia Ping 1989 [40] cho biết đất trồng chè ở Trung Quốc rất nghèo và thiếu dinh dưỡng nên ngay từ những năm 1960 Trung Quốc đã chú trọng bón đủ N, P, K và tăng lượng phân bón trên những diện tích đất thiếu hụt dinh dưỡng. - Với lân: lân chứa trong búp khá lớn, cứ thu hoạch 1 tấn búp, tức đưa ra khỏi đất 4- 5 kg P2O5, mà lân có trong đất, cây trồng khó sử dụng do đất có khả năng hấp phụ lân cao (ở đất sét 73% lượng lân bị hấp phụ, đất nâu
  29. 20 rừng là 56%, đất podzolic 69%, đất nâu bạc 86% ) vì thế khi bón lân cho chè cần bón với lượng cao hơn nhiều so với yêu cầu của cây. Khi nghiên cứu ảnh hưởng của bón N, P, K đến năng suất búp đã kết luận: khi bón P đơn độc hoặc P kết hợp với K (không có đạm), hiệu lực của 2 loại phân này hầu như không có tác dụng, chỉ làm tăng năng suất búp được 2- 3% so với công thức không bón phân, thí nghiệm lặp lại nhiều năm (5 năm) đều cho kết quả tương tự. Khi bón P, K trên nền N (300N) năng suất tăng 14% so với bón N đơn độc. - Với kali: vai trò của kali có ảnh hưởng tới sinh trưởng và năng suất búp còn là vấn đề chưa rõ ràng, có nhiều kết quả nghiên cứu khác nhau. Wanyoko và Othieno 1987 [42] với thí nghiệm bón K cho chè trong thời gian 5 năm, với 4 mức bón K khác nhau (0, 50, 100 và 250 kg K2O/ha/năm) đi tới kết luận: với mức bón kali khác nhau không làm tăng năng suất búp chè hàng năm ở mức có ý nghĩa. Với thí nghiệm bón N và K cho chè (2 mức bón N là 224 và 336 kg/ha kết hợp với 2 mức bón kali là 70 và 140 K2O) kéo dài 21 năm (từ năm 1973- 1993) cho thấy: ở các mức bón N và K khác nhau không làm tăng năng suất ở mức có ý nghĩa. Khi nghiên cứu bón kali cho chè trong 3 năm, với 3 mức bón K2O khác nhau (70, 140 và 200 kg/ha) trên nền bón N và P đã kết luận: chè được bón kali năng suất tăng so với đối chứng (nền) từ 21,0; 24,0 và 30,0% (ở mức bón kali tương ứng 70, 140 và 200 kg). Krishnamoothy 1985 [35] khi nghiên cứu ảnh hưởng của bón kali trên các loại đất khác nhau, đến năng suất chè đã cho thấy: trên các loại đất có hàm lượng kali tổng số và dễ tiêu nghèo, việc bón kali đã làm tăng năng suất ở mức độ tin cậy. Nhu cầu K thay đổi tùy theo loại đất, cần định ra mức bón K phù hợp và cân đối với các loại phân khác. Trong điều kiện các chất dinh dưỡng đủ và cân đối cây chè cho năng suất cao. Việc định ra mức bón kali chung
  30. 21 là khó khăn, khi mà một trong các điều kiện như đất đai, địa hình, năng suất, kỹ thuật canh tác và thời tiết khí hậu khác nhau. Theo nghiên cứu của F.Hurisa (Liên Xô) thì hiệu quả trực tiếp của 3 năm bón lân và liều lượng 126 - 196 kg/ha trên nền N, K tăng sản lượng búp 5 - 30% so với đối chứng chỉ bón N, K song hiệu quả tăng bình quân 21 năm về sau là 60-78%. Ở Liên Xô (cũ) trên đất đỏ hiệu quả phân lân ở những năm sau thường cao hơn năm trực tiếp bón. [4] Nhận xét về bón phân khoáng đối với năng suất chè Với các kết quả nghiên cứu của một số tác giả đã trình bày ở trên việc bón phân đơn độc hoặc bón thiếu một nguyên tố nào đó đều có ảnh hưởng đến năng suất búp chè. Trong số các nguyên tố bón đơn độc thì N là yếu tố có ảnh hưởng đến năng suất so với không bón phân, bón N làm tăng năng suất cao nhất, nhưng chỉ cao ở thời gian 3- 5 năm đầu sau đó giảm dần. Bón N đơn độc kéo dài gây ra sự thiếu hụt các chất dinh dưỡng đặc biệt là P và K (Othieno 1994) [37]. Bón P hoặc P với K (không có đạm) năng suất tăng không có ý nghĩa so với không bón phân. Bón K đơn độc hoặc không cân đối với các nguyên tố khác, năng suất không thay đổi giữa các lượng bón kali khác nhau. Khi bón đủ các yếu tố N, P, K cây chè cho năng suất cao đặc biệt là bón vô cơ kết hợp với hữu cơ năng suất tăng 30-40%. Hiện nay phân bón cho chè chủ yếu là bón đủ và cân đối N, P, K ngoài ra ở một số nước như Indonesia, Kenya, Srilanka còn chú ý ếđ n 2 nguyên tố trung lượng là Mg và S. 2.3.1.2. Những kết qủa nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến chất lượng chè Chất lượng chè phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau như giống, khí hậu, kỹ thuật thu hái, đất đai, phân bón. Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến năng suất và chất lượng chè đã kết luận: phân bón ảnh hưởng không đáng kể đến phẩm chất chè chế biến đã cho thấy: đối với phẩm chất chè việc bón phối hợp đủ 3 yếu tố N, P, K chất
  31. 22 lượng chè tốt hơn so với bón N đơn độc. Bón nhiều N ở bất kỳ dạng nào cũng đều làm giảm phẩm chất chè. Không thấy K có ảnh hưởng xấu đến phẩm chất. Bón P có tác dụng tích cực trong việc nâng cao chất lượng chè. De Geus 1982 [6] cho thấy chè được bón đủ N, P, K đã làm tăng phẩm chất chè. Bón N đơn độc nhất là bón N dạng Urê làm giảm phẩm chất chè, bón P làm tăng hương vị của chè đen. White Head và Temple 1990 [43] cho biết việc bón N có ảnh hưởng xấu đến chất lượng là do: khi bón N đơn độc với lượng nhiều (trên 200N/ha) hàm lượng N tích lũy nhiều trong lá non và búp làm ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp axítamin, làm giảm các hợp chất như: Chlorophyll, Catesin, Caffein dẫn đến làm giảm chất lượng chè. Như vậy phân bón có ảnh hưởng đến phẩm chất chè khi các yếu tố được bón đơn độc, không cân đối. Ảnh hưởng của phân bón đến chất lượng chủ yếu là một số các yếu tố như kỹ thuật thu hái, quá trình chế biến, giống chè, điều kiện địa hình 2.3.2. Những kết quả nghiên cứu về đất và phân bón cho chè ở Việt Nam Năm 1969- 1979 với sự giúp đỡ của Viện thổ nhưỡng nông hóa, trại thí nghiệm chè Phú Hộ đã tiến hành làm thí nghiệm bón phân khoáng N, P, K cho chè. Kết quả được tác giả Đỗ Ngọc Quỹ và các cộng tác viên [19] cho biết: bón N và nhất là bón Kali có tác dụng rất rõ đến việc làm tăng năng suất chè. Bón lân năng suất ít chênh lệch so với đối chứng. Bón kali pHKCL của đất được tăng lên. Phân bón còn ảnh hưởng đến chất lượng nguyên liệu chế biến (búp chè). Việc bón phân đạm đơn độc với lượng cao (100N đến 200N) cho chè đã cho thấy, với lượng bón 100N- làm giảm hàm lượng tanin tổng số 1,4% và 2,8% với lượng 200N. Làm giảm lượng chất hòa tan tổng số là 0,6% với lượng bón 100N và 1% với lượng bón 200N. Bón đạm đơn thuần năng suất tăng đến năm thứ 7 và từ năm thứ 8 thì giảm dần.
  32. 23 Phạm Kiến Nghiệp, 1984 [15] ở vùng chè Bảo Lộc- Lâm Đồng, việc bón phân đạm đơn độc với lượng cao (100, 200, 300, 400N) cho thấy: Lượng đạm bón tăng dẫn tới năng suất tăng- nhưng hiệu suất sử dụng 1 kg N lại giảm. Với lượng bón 100N, 1 kg N cho thu hoạch 9 kg chè búp, còn lượng bón 400N 1 kg N cho thu hoạch 6 kg chè búp. Bón lượng đạm cao đã làm giảm hàm lượng tanin tổng số từ 1,3% đến 2,9%, làm giảm chất hòa tan từ 1% đến 3,1% nhưng lại làm tăng hàm lượng N tổng số trong búp chè (so với không bón phân). Với những số liệu trên đã chứng tỏ bón đạm đơn độc với lượng cao có ảnh hưởng không tốt đến chất lượng búp chè. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng chè chế biến không cao. Ở Việt Nam vấn đề sử dụng phân khoáng cho chè còn gặp nhiều khó khăn, phần lớn đất trồng chè rất nghèo dinh dưỡng, địa hình đa dạng và phức tạp, khả năng đầu tư phân bón thâm canh cho chè rất hạn chế, kết quả nghiên cứu chưa nhiều. Sử dụng N:P:K mất cân đối, nhìn chung chú ý nhiều lượng bón N mà ít chú ý đến các nguyên tố khác, vì thế đã không phát huy được hiệu quả của bón phân, đặc biệt chất lượng nguyên liệu chè giảm. Lượng bón phân vô cơ ở Việt Nam thấp hơn các nước Nhật Bản, Srilanka Do vậy việc nghiên cứu liều lượng, tỷ lệ bón của một số yếu tố phân bón cho chè là rất cần thiết trong thâm canh chè hiện nay. Thực tế cho đến nay có rất ít các công trình nghiên cứu vế phân bón cho chè ở Việt Nam. Theo kết quả thống kê của FAO mức đầu tư phân bón cho chè ở Việt Nam bình quân 200kg N, 50kg P2O5, 50kg K2O/ha. Song theo hiệp hội phân bón quốc tế (IFA) mức phân bón khuyến nghị với chè kinh doanh là 90kg N, 240kg P2O5 , 360kg K2O/ha. Qua điều tra 1990 – 1994 ở Việt Nam (Nguyễn Tử Siêm, 1996) [21] lượng bón thực tế cho cây chè kinh doanh bình quân là 140 kg N, 80kg P2O5 và 40kg K2O/ha. Bón đạm trên cơ sở cân đối với các yếu tố cơ bản khác hiệu lực phân
  33. 24 bón cho chè, theo Đỗ Ngọc Quỹ 1980 [18], nêu rằng trên nền đạm 100 – 200 kg N/ha, kali 50kg K2O/ha hiệu lực phân lân không rõ với mức bón 50kg P2O5/ha. Kết quả nghiên cứu về bón hàng năm 60 - 180kg P2O5/ha trên nền hữu cơ có đạm làm tăng năng suất chè 13,04 – 16,67%. Theo Nguyễn tử Siêm, Nguyễn Thị Thanh Hà và Thái Phiên [21]. Đạm làm tăng khối lượng búp, tăng lượng nước và chất hòa tan, song làm giảm lượng tannin trong búp chè. Kali làm tăng khối lượng búp, giảm lượng nước, tăng độ hòa tan và tăng lượng tannin đóng góp vào việc tăng phẩm chất búp chè rõ rệt. Theo tác giả Vũ Cao Thái 1996 [24], việc sử dụng phân bón cân đối là một tiền đề duy trì năng suất cao và tiết kiệm phân bón. Sử dụng phân bón không cân đối có thể dẫn đến thoái hóa đất và suy giẩm sức sản suất của cây. Mục tiêu của sử dụng phân bón cân đối là tăng năng suất cât trồng, chất lượng nông sản, hiệu chỉnh sự thiếu hụt các chất dinh dưỡng của cây trồng mà đất thiếu, duy trì, nâng cao độ phì nhiêu của đất. Theo tác giả Nguyễn Xuân Cường 2010[2], với lượng bón N + P + K = 300kg, bón phối hợp theo 4 tỷ lệ: 2:1:1; 3:1:1; 3:1:2; 3:2:1 trên nên phân chuồng 20 tấn/ha không làm ảnh hưởng đến độ chua của đất và có tác dụng làm tăng hàm lượng chất hữu cơ và hàm lượng các chất dinh dưỡng đạm, lân, kali trong đất ở cả hai dạng tổng số và dễ tiêu tuy nhiên mức tăng không nhiều. Đất trồng chè tại địa điểm nghiên cứu vẫn là loại đất chua, nghèo dinh dưỡng. Với chè giai đoạn đầu kinh doanh, Đinh Thị Ngọ 1996 [16], cho thấy: cùng tổng lượng bón N + P2O5 + K2O là 200 kg/ha, tỷ lệ bón phối hợp N : P : K khác nhau, chè cho năng suất khác nhau. Các tỷ lệ phối hợp có N chiếm tỷ lệ cao chè cho năng suất cao hơn, tỷ lệ phối hợp N : P : K = 2 : 2 :1 chè cho năng suất cao và hiệu quả kinh tế. Về sử dụng phân khoáng, qua kết quả thí nghiệm trong chậu cho thấy vai trò của N đối với sự tăng sinh khối của chè KTCB rất rõ. Về tác dụng tăng sinh khối có thể xếp thứ tự như sau: N>P>K.
  34. 25 Về chất lượng chè, Đinh Thị Ngọ (1996) [16]: thay đổi tỷ lệ các nguyên tố N, P, K trong hỗn hợp phân bón, với tỉ lệ chênh nhau giữa các nguyên tố không vượt quá 2 lần, chưa nhận thấy có ảnh hưởng xấu đến chất lượng nguyên liệu (búp chè). Lê Văn Đức (1996) [8] cũng cho kết quả tương tự về hiệu lực của yếu tố lân khi bón lân phối hợp với đạm và kali trên nương chè tuổi nhỏ là rất tốt. Bón lân làm tăng hiệu quả sử dụng đạm, tăng tổng sinh khối nhất là hệ rễ và số lá – hai cơ quan đồng hoá chủ yếu của cây. Việc bón đầy đủ các yếu tố cho tăng năng suất chè cao nhất. Việc bón phân đạm đơn độc với lượng cao (100N đến 200N) cho chè tại trại nghiên cứu chè Phú Hộ đã cho thấy, với lượng bón 100N đã làm giảm hàm lượng tanin tổng số 1,4% và 2,8% với lượng 200N. Làm giảm lượng chất hòa tan tổng số là 0,6% với lượng bón 100N và 1% với lượng bón 200N. Bón đạm đơn thuần năng suất tăng đến năm thứ 7 và từ năm thứ 8 thì giảm dần. Ở nước ta cây chè được trồng thuộc các vùng sinh thái khác nhau, trên nhiều loại đất. Do đó mức độ cung cấp các yếu tố dinh dưỡng từ đất cần thiết cho cây chè cũng rất khác nhau, thêm vào đó tập quán canh tác và điều kiện kinh tế, xã hội của từng vùng cũng rất khác nhau, nên việc nghiên cứu để có một chế độ bón phân thích hợp cho chè như tỷ lệ, liều lượng bón phối hợp chung cho các vùng là rất khó khăn. Các kết quả nghiên cứu về phân bón cho chè còn chưa nhiều nhưng cũng đã tập trung nghiên cứu các vấn đề như giải quyết nguồn phân hữu cơ, bảo vệ đất, chống xói mòn, sử dụng phân khoáng N, P, K bổ sung dinh dưỡng hàng năm cho chè Theo tác giả Lê Văn Đức 1997 [7] cho thấy: Nếu bón các yếu tố riêng lẻ (nếu có hoặc không bổ sung phân hữu cơ) chỉ có N có tác dụng tăng chỉ số là chè 261,8%, làm cho hệ rễ phát triển 269%, tổng số búp đầu xuân đạt cao 821%. Lượng đạm trong lá tích lũy 57%
  35. 26 (nền hữu cơ). Bón đơn lẻ P hay K không làm tăng, thậm chí còn làm giảm số lá, tổng sinh khối lá chè đạt thấp (P nền hữu cơ). Lượng rễ hút giảm nghiêm trọng 63,4% (K nền hữu cơ) làm cho cây phát triển mất cân đối. Tỷ số trên mặt đất và dưới mặt đất cao 4,32 (P nền không hữu cơ), làm cho số búp đầu xuân đạt thấp. Khi bón P hay K đơn lẻ cây hầu như không sử dụng chúng, hiệu quả phân bón bằng không. Bón phối hợp N với P cho hiệu quả cao hơn phối hợp giữa N với K, tăng số lá chè đơn (NP – 320,2%; NK – 140,5%), tăng tổng sinh khối chè (NP – 241%; NK – 161,1%), tăng sinh khối rễ hút hơn (NP – 518,8%; NK – 186,2%), dẫn đến tăng tổng lượng búp đầu xuân (156% và 281%). P kết hợp với N làm tăng hiệu quả sử dụng N hơn hẳn N kết hợp K (38,1% và 14% tương ứng). Bón phối hợp P với K không làm tăng thậm chí làm giảm số lá chè (93,0%) so với không bón. Tổng sinh khối nhỏ, rễ hút phát triển kém 47,3%, tỷ lệ trên mặt đất dưới mặt đất cao 5,2 (nền hữu cơ). Sinh trưởng sinh thực chiếm ưu thế, sinh khối quả rất lớn 497,4% (nền hữu cơ) làm cho sinh trưởng sinh dưỡng bị kìm hãm, tổng số búp giảm thấp. Hiệu quả sử dụng phân P và k thấp. Chỉ số lá cao nhất khi được bón đầy đủ N, P, K, làm cho tổng sinh khối đạt mức cao nhất 246,3% (nền không hữu cơ), sinh khối cành 520% (nền không hữu cơ), sinh khối rễ hút 758,6%, tỷ số bộ phận trên mặt đất với dưới mặt đất thấp 2,07. Cây phát triển toàn diện, tổng số búp đầu xuân đạt cao nhất 1280% (nền hữu cơ). Rải rác còn một số kết quả tương tự nhưng cũng chỉ mới là sơ khởi. Để có thể góp phần nâng cao năng suất và chất lượng chè. Việc tiếp tục nghiên cứu các tỷ lệ và liều lượng N, P, K thích hợp cho từng giống chè trên từng vùng trồng chè ở những điều kiện khí hậu khác nhau là những vấn đề
  36. 27 cần phải quan tâm. Tác giả Hồ Quang Đức, 1994 [31] nghiên cứu bón kali cho chè trưởng thành (27 tuổi) với 4 liều lượng kali (80 K2O , 120 K2O, 160 K2O và 240 K2O trên nền 5 tấn phân chuồng + 160N + 50 P2O5 (năm 1992). Kết quả cho thấy công thức bón 240 K2O cho năng suất cao nhất (110,6% so đối chứng) hàm lượng tanin và chất hòa tan trong búp chè cũng cao hơn các công thức khác. Sang năm sau công thức đối chứng bón tăng lượng đạm (5 tấn phân chuồng + 240N + 50 P2O5/năm) còn lượng kali không thay đổi. Kết quả năng suất ở hai mức bón 160 K2O và 240 K2O đựơc tăng lên (đạt 120,0% và 113,3% ở mức tương ứng) còn các công thức bón 80 K2O và 120 K2O năng suất tăng, ở mức như năm 1992. Hàm lượng tanin, chất hòa tan ở các công thức có bón kali đều cao hơn công thức đối chứng. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy, khi bón tăng lượng kali cây chè đòi hỏi phải bón tăng N thì hiệu quả sử dụng phân kali của cây chè mới cao. Việc bón tăng kali không làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng nguyên liệu chè. Nghiên cứu hiệu lực của các loại phân lân đến năng suất chè. Tác giả Bùi Đình Dinh, Lê Văn Tiềm, Võ Minh Kha, 1993 [5] cho thấy: so với công thức không bón lân công thức bón loại supe lân Lâm Thao năng suất đạt 124%, công thức bón lân chậm tan (lân nung chảy) năng suất đạt 115,7%. Kết quả nghiên cứu không thống nhất với kết quả nghiên cứu thu được của Đỗ Ngọc Quỹ năm 1979 [19]: bón lân không làm tăng năng suất. Có thể điều kiện đất đai trong 2 thí nghiệm có khác nhau. Nếu như khi trồng chè mà bón lót lượng lân lớn, hiệu lực của lân sẽ không rõ. Đời sống cây chè gắn liền với điều kiện đất đai trong suốt chu kỳ kinh tế (kéo dài hàng 30- 40 năm). Vấn đề đặt ra cho các nhà sản xuất chè phải quan tâm đến quá trình biến đổi về lý tính và hóa tính đất ra sao, để có biện pháp canh tác, cũng như có chế độ bón phân, duy trì độ phì nhiêu của đất chè.
  37. 28 Đối với những diện tích đất trồng chè lại chu kỳ 2, với mức độ thâm canh ngay từ đầu, độ phì của đất không biến động nhiều, năng suất chè ổn định, hàm lượng mùn N, P, K ở mức trung bình (dẫn theo Đỗ Ngọc Qũy 1979) [19]. Về độ ẩm đất vùng trung du, qua kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Dần, 1980 [3], Trần Công Tấu, Nguyễn Thị Dần, 1984 [23] cho thấy: Vụ đông xuân hiện tượng khô hạn xảy ra phổ biến vào tháng 12, tháng 1 và tháng 3. Độ ẩm đất có lúc giảm xuống dưới mức độ ẩm cây héo. Dùng biện pháp che phủ, tủ ẩm hoặc tưới chè, đều làm tăng năng suất: che phủ cho chè bằng nilon hoặc các phụ phế phẩm (cỏ khô, rơm rạ) đã có tác dụng làm tăng độ ẩm đến từ 5- 7%, năng suất chè tăng trung bình 28- 30%, cây chè trồng mới có tỷ lệ cây sống cao. Phần lớn cây chè ở nước ta được trồng trên đất đỏ vàng, tập trung ở các khu vực mưa nhiều, mưa tập trung, có mùa khô hạn kéo dài 5- 6 tháng. Địa hình dốc lượng nước mưa chảy trên mặt nhiều hơn lượng nước thêm vào đất, mùa khô lượng nước bay hơi bao giờ cũng lớn hơn lượng nước mưa, nên cây chè nói riêng cũng như cây trồng khác nói chung thường xuyên ở trong tình trạng hạn hán. Vấn đề đã đặt ra là tìm biện pháp để giữ lại lượng nước mưa trong đất, hạn chế lượng nước bốc hơi, một trong các biện pháp phải kể đến là tủ gốc giữ ẩm cho cây. (Lương Đức Loan, Nguyễn Tử Siêm- 1979) [13]. Theo tác giả Đỗ Văn Ngọc và các công sự- 1993 [17], chè qua thời gian canh tác thu hái 20- 30 năm, năng suất búp giảm thấp, độ xốp của đất giảm, lớp đất mặt độ xốp giảm 4- 5% so với đất rừng mới khai phá Việc áp dụng một số biện pháp canh tác, trong đó có biện pháp đào rãnh giữa hàng chè kết hợp cây phân xanh đã làm tăng độ xốp, giảm trị số dung trọng, tạo điều kiện cho bộ rễ chè phát triển (lượng rễ hút tăng 40,8%, khối lượng bộ rễ tăng 24,19%). Do đó mà năng suất trên những nương chè áp dụng biện pháp canh tác này đã được tăng lên.
  38. 29 Theo Lê Văn Khoa và Phạm Cảnh Thanh- 1988 [11]. Chè được trồng theo các phương thức canh tác khác nhau, đều có ảnh hưởng đến hàm lượng chất dinh dưỡng, đến diễn biến hàm lượng sét vật lý trong đất. Với các phương thức trồng chè có thâm canh, trồng xen ghép với cây họ đậu hoặc theo phương thức nông lâm kết hợp, có tác dụng duy trì và nâng cao độ phì nhiêu của đất, làm tăng hàm lượng mùn 26- 54% ở tầng đất 0-50cm so với đất đồi trọc. Hàm lượng N, P, K tổng số và dễ tiêu cũng tăng lên đáng kể ở phương thức chè trồng có thâm canh. Việc trồng chè có xen với cây họ đậu đã có tác dụng làm giảm mức độ rửa trôi sét theo chiều sâu, sự chênh lệch hàm lượng sét giữa hai tầng không lớn (dao động từ 0,5 đến 2,7%). Theo tác giả Nguyễn Văn Tạo và cộng sự 2006 [22], bón đầy đủ 3 loại phân khoáng N300 P100 K100 kg/ha, lân được bón 2 lần/năm có tác dụng tốt đến sự hình thành bộ lá chè, các chỉ tiêu sinh trưởng búp, năng suất và phát huy tốt hiệu lực của lân trong đất chè kinh doanh. Đặc biệt tác động của phân khoáng ở tỷ lệ 3:1:1 có hiệu quả tốt đến sinh trưởng và cho năng suất cao, có thể thay thế tỷ lệ 2:1:1 cho những đối tượng chè cấp năng suất trên 10 tấn búp/ha. Bón phân khoáng cân đối và bổ sung phân hữu cơ đều làm tăng sản lượng chè. Nhưng liều lượng NPK thích hợp cho nương chè còn phụ thuộc vào tính chất lý hóa của đất, tuổi chè và yếu tố tác động các các yếu tố sinh thái [10]. * Nhận xét chung. Các công trình nghiên cứu về phân bón và đất trồng chè đã tập trung vào hướng nâng cao hàm lượng dinh dưỡng cho đất, bổ sung các nguyên tố chính cần thiết cho cây chè N, P, K. Với mục tiêu bón phân cân đối và tỷ lệ thích hợp cho cây chè theo hướng nâng cao năng suất nhưng không làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng nguyên liệu chè và giảm chi phí phân bón cho 1 tấn sản phẩm (chè búp). Một
  39. 30 yếu tố quan trọng trong việc hạ giá thành, đang được những nhà sản xuất chè quan tâm. Nghiên cứu về phân bón cho chè ở Việt Nam còn rất ít và chưa có được sự thống nhất một mức cho một giống cụ thể ở một giai đoạn cụ thể do đó cần tăng cường hơn nữa sự quan tâm của các nhà nghiên cứu về vấn đề sử dụng phân bón cho chè để áp dụng vào sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao. Một trong những tiến bộ khoa học thường xuyên, liên tục được áp dụng vào sản xuất nông nghiệp đó chính là việc sử dụng các loại phân bón thế hệ mới được nhập khẩu từ các nước có ngành nông nghiệp phát triển như: Mỹ, Canada, Pháp, Đức vv. Các quan niệm về dinh dưỡng cây trồng đã có những thay đổi đáng kể trong những năm gần đây. Trước kia và cả hiện nay vẫn còn đang phổ biến cách hiểu dinh dưỡng cây trồng là các khoáng chất được cấp bằng các loại phân bón có chứa N, P, K. Các kinh nghiệm canh tác cũng tập trung vào các chương trình bón các phân bón vô cơ này, trong đó phân đạm được sử dụng tăng lên nhiều đáng kể. Ngày nay, quan niệm về dinh dưỡng cây trồng đang thay đổi. Những người trong nông nghiệp đã thấy rằng cần phải đánh giá lại các quan niệm trước kia về việc sử dụng phân bón vô cơ, về vai trò của từng loại phân bón với sự phát triển của cây trồng, thấy rõ hơn cây trồng cần nhiều chất dinh dưỡng hơn, ví dụ như các vi lượng, các trung lượng, các dinh dưỡng hữu cơ như các axít amin, các vitamin và cần một chương trình phân bón cân đối. Các chất dinh dưỡng này làm tăng năng suất, chất lượng nông sản và tăng khả năng chống chịu sâu bệnh, sự thay đổi bất thường của thời tiết. Chúng ta thường được biết cây lấy nước và chất dinh dưỡng từ đất qua rễ, nhưng ít ai chý ý rằng rễ chỉ chiếm rất nhỏ phần trong đất (chỉ 1 - 2%), nhưng lại biết rất rõ là đạm, lân, kali bị mất đi rất nhiều vào môi trường, cây trồng chỉ sử dụng được dưới 50% lượng phân bón sử dụng. Để tăng suất, sử
  40. 31 dụng nhiều phân bón là giải pháp hàng đầu, dẫn đến phân bón ngày càng phải dùng nhiều và hiệu quả sử dụng cũng ngày càng ít đi. 2.4. Tình hình sản xuất chè trên thế giới và việt Nam 2.4.1. Tình hình sản xuất chè trên thế giới - Tình hình sản xuất Chè là cây trồng có lịch sử lâu đời (khoảng hơn 4000 năm). Ngày nay chè là thứ nước uống chủ yếu và phổ biến với những sản phẩm chế biến đa dạng và phong phú. Ngoài việc thỏa mãn nhu cầu về giải khát, dinh dưỡng, thưởng thức chè ở nhiều nước đã được nâng lên tầm văn hóa với cả những nghi thức trang trọng và thanh cao của trà đạo. Theo PGS. Đỗ Ngọc Quỹ, quốc gia đầu tiên trên Thế Giới phát triển sản xuất chè là Trung Quốc, sau đó được truyền bá sang Nhật Bản vào những năm 805 sau Công Nguyên, vào Indonexia năm 1654, vào Ấn Độ năm 1780, vào Nga năm 1833, vào Malaixia năm 1914, đến năm 1920 thì tiến tới các nước Châu Phi như: Kenia, Malavi, Ghine, Trên Thế Giới cây chè được phát triển với tốc độ rất nhanh, đặc biệt là từ đầu thế kỷ 18 trở lại đây. Đến năm 2000, đã có hơn 100 nước trồng và xuất khẩu chè. Sản lượng chè Thế Giới năm 2000 đạt hơn 2,8 triệu tấn. Ấn Độ và Trung Quốc là hai nước trồng chè lớn nhất (chiếm hơn nửa tổng sản lượng) và cũng là hai nước tiêu thụ chè lớn nhất Thế Giới. Chè được xuất khẩu trên Thế Giới dưới hai dạng chính là chè đen và chè xanh, trong đó, chè đen chiếm phần lớn lượng chè xuất khẩu (84%). Shrilanka và Kenya là hai nước xuất khẩu chè đen lớn nhất, chiếm 27,88% và 20,63% thị phần xuất khẩu. Các nước Liên Xô cũ là thị trường nhập khẩu chè đen lớn nhất, chiếm 22%, tiếp theo là Anh (13%), Parkistan (11%) và Mỹ (8%). Không như chè đen, chè xanh được sản xuất ít hơn (chiếm 25% tổng sản lượng) và chủ yếu được tiêu thụ nội địa. Trung Quốc, Nhật Bản là các nước sản xuất và tiêu thụ chính. Các nước xuất khẩu chè xanh lớn nhất gồm có Trung Quốc (83,4%), Việt Nam (10,16%) và Inđônêsia (4,28%). Chè xanh
  41. 32 được xuất khẩu nhiều nhất sang Morocco (18,7%). Theo FAO (2016) thì tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trên Thế Giới tính đến năm 2013 như sau: * Về diện tích: Bảng 2.1: Diện tích chè của thế giới và một số nước trồng chè chính năm 2009 – 2013. (Đơn vị: ha) Năm Tên nước 2009 2010 2011 2012 2013 Trung Quốc 1.342.853 1.440.590 1.658.760 1.748.508 1.763.500 Ấn Độ 579.000 579.000 600.000 605.000 563.980 Indonexia 123.506 124.573 123.300 121.600 122.400 Việt Nam 111.400 113.200 114.399 115.964 121.649 Myanma 77.975 78.746 78.604 79.000 79.900 Nhật 47.300 46.800 46.200 45.900 45.400 Kenya 158.294 171.916 187.855 190.600 198.600 Bangladest 59.000 52.236 56.670 57.900 58.300 Châu Á 2.706.078 2.800.228 3.048.509 3.145.878 3.130.454 Thế giới 3.050.639 3.149.609 3.412.539 3.517.384 3.521.221 (Nguồn: Số liệu thống kê của FAO năm 2016) [32] Qua số liệu Bảng 1 cho thấy: Tính đến năm 2013 diện tích chè trên thế giới đạt 3.521.221 ha tăng 470.582 ha tương đương 15,42% so với năm 2009. Trong đó Trung Quốc là nước có diện tích trồng chè lớn nhất thế giới với diện tích 1.763.500 ha, chiếm 50,08% tổng diện tích chè toàn thế giới. Ấn Độ là nước đứng thứ 2 với diện tích là 563.980 ha, chiếm 16,01% tổng diện tích chè toàn thế giới. Diện tích chè Việt Nam đạt 121.649ha chiếm 3,45% tổng diện tích chè toàn thế
  42. 33 giới. Diện tích chè tập trung chủ yếu ở khu vực châu Á chiếm 88,90% (3.130.454ha) diện tích, đây cũng là nơi phát sinh ra cây chè. * Về năng suất: Bảng 2.2: Năng suất chè của Thế Giới và một số nước trồng chè chính năm 2009 – 2013. (Đơn vị: tạ chè khô/ha) Năm Tên nước 2009 2010 2011 2012 2013 Trung Quốc 10,245 10,187 9,889 10,321 10,998 Ấn Độ 16,800 17,119 18,258 18,761 21,433 Indonexia 12,704 12,069 12,182 11,793 12,100 Việt Nam 16,670 17,532 18,060 18,704 17,616 Myanma 3,880 3,944 3,944 3,949 3,967 Nhật 18,182 18,162 17,771 18,715 18,678 Kenya 19,849 23,209 20,117 19,381 21,771 Bangladest 10,085 11,486 10,676 10,363 10,978 Châu Á 13,406 13,702 13,231 13,683 14,457 Thế giới 14,052 15,181 14,315 13,981 14,624 (Nguồn: Số liệu thống kê của FAO năm 2016) [32] Qua số liệu Bảng 2.2 cho thấy: Tính đến năm 2013, năng suất chè trên Thế Giới đạt 14,624 tạ chè khô/ha tăng 0,572 tạ chè khô/ha tương đương 4,07% so với năm 2009. Kenya là nước có năng suất chè cao nhất đạt 21,771 tạ chè khô/ha, vượt hơn năng suất bình quân của thế giới là 48,87%. Ấn Độ là nước có năng suất chè cao thứ hai đạt 21,433 tạ chè khô/ha tương ứng 46,56% năng suất chè thế giới. Việt Nam tính đến năm 2013 đạt năng suất 17,616 tạ chè khô/ha vượt hơn năng suất bình quân của Thế Giới là 20,45%, so với năng suất bình quân
  43. 34 Châu Á là 21,85%. Trung Quốc là nước có diện tích cao nhất về trồng chè nhưng năng suất chè của đất nước này chỉ đạt 10,998 tạ chè khô/ha, so với năng suất bình quân của Thế Giới là 75,20%. * Về sản lượng: Bảng 2.3: Sản lượng chè của Thế Giới và một số nước trồng chè chính năm 2009 - 2013 (Đơn vị : tấn) Năm Tên nước 2009 2010 2011 2012 2013 Trung 1.375.780 1.467.467 1.640.310 1.804.655 1.939.457 Quốc Ấn Độ 972.700 991.182 1.095.460 1.135.070 1.208.780 Indonexia 156.901 150.342 150.200 143.400 148.100 Việt Nam 185.700 198.466 206.600 216.900 214.300 Myanma 30.255 31.060 31.000 31.200 31.700 Nhật 86.000 85.000 82.100 85.900 84.800 Kenya 314.198 399.006 377.912 369.400 432.400 Bangladest 59.500 60.000 60.500 60.000 64.000 Châu Á 3.627.689 3.836.747 4.033.635 4.304.620 4.525.700 Thế giới 4.286.824 4.606.069 4.771.205 5.034.968 5.345.523 (Nguồn: Số liệu thống kê của FAO năm 2016) [32] Qua số liệu Bảng 2.3 cho thấy: Sản lượng chè toàn Thế Giới năm 2013 là 5.345.523 tấn tăng 1.058.699 tấn, tương đương 24,69% so với năm 2009. Trung Quốc là nước có sản lượng chè lớn nhất Thế Giới đạt 1.939.457 tấn chiếm 36,28% tổng sản lượng chè toàn Thế Giới, chiếm 42,85% tổng sản lượng chè Châu Á. Sản lượng chè thấp nhất là Myanma chỉ đạt 31.700 tấn chiếm 0,59% tổng sản lượng chè toàn Thế
  44. 35 Giới. Việt Nam đạt sản lượng 214.300 tấn chiếm 4,00% tổng sản lượng chè toàn Thế Giới. 2.4.2. Tình hình sản xuất chè ở Việt Nam Trong những năm gần đây, nhà nước ta có nhiều cơ chế, chính sách đầu tư cho phát triển cây chè. Do vậy, diện tích, năng suất và sản lượng chè không ngừng tăng lên. Bảng 2.4: Diện tích, năng suất và sản lượng chè của Việt Nam Năng suất Sản lượng Năm Diện tích (ha) (tạ khô/ha) (tấn) 2007 107.400 15,270 164.000 2008 108.800 15,947 176.500 2009 111.400 16,670 185.700 2010 113.200 17,532 198.466 2011 114.399 18,060 206.600 2012 115.964 18,704 216.900 2013 121.649 17,616 214.300 (Nguồn: Số liệu thống kê của FAO năm 2016) [32] Qua Bảng 2.4 cho thấy: Từ năm 2007 đến 2013 diện tích, năng suất, sản lượng và xuất khẩu chè tăng nhanh. Năm 2013 diện tích chè là 121.649ha, tăng 14.249ha tương ứng 13,26% so với năm 2007. Năng suất bình quân năm 2013 là 17,616 tạ khô/ha, tăng 2,346 tạ khô/ha tương ứng 15,36% so với năm 2007. Sản lượng chè theo đó cũng tăng mạnh đạt 214.300 tấn búp khô vào năm 2013 tăng 50.300 tấn tương ứng 30,67% so với năm 2007. Chè là cây công nghiệp thế mạnh của Việt Nam đứng thứ 5 về diện tích và thứ 6 về sản lượng chè trên thế giới. Chè phân bố trên 35 tỉnh nhưng tập trung ở 12 tỉnh trọng điểm (chiếm 94% diện tích toàn quốc). Trong khoảng mười năm gần đây, sản xuất và xuất khẩu chè của Việt Nam có bước tăng
  45. 36 trưởng khá cả về diện tích, năng suất và chất lượng. Trong 7 năm từ 2007 - 2013, diện tích chè Việt Nam từ 107.400 ha đã tăng lên 121.649ha, năng suất tăng từ 15,270 tạ/ha lên 17,616 tạ khô/ha cho thấy sự tiến bộ vượt bậc của ngành chè. Nâng cao chất lượng chè búp tươi và chè thương phẩm, để cải thiện chất lượng sản phẩm xuất khẩu tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế bằng cách: Đưa giống mới có chất lượng cao chiếm một tỉ lệ thích đáng trong cơ cấu nguyên liệu chế biến. Từng bước cải tạo đất theo hướng tăng độ mùn và tơi xốp. Đưa máy đốn, máy hái và các dụng cụ làm đất vào canh tác. Quy hoạch vùng chè nguyên liệu như: Sơn La, Lai Châu, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Thái Nguyên, Phú Thọ và Lâm Đồng. Về giống chè lấy Viện nghiên cứu chè làm nòng cốt xúc tiến việc khu vực hoá, nhân và đưa nhanh các giống có năng suất cao, chất lượng tốt vào các vườn chè. Tại các đơn vị sản xuất chè, khôi phục các vườn giống chè, sử dụng các giống mới có chất lượng cao nhằm cung cấp giống cho trồng dặm, trồng mới của dân. Đầu tư tưới cho các vườn chè tập trung có điều kiện về nguồn nước để nâng cao năng suất. Giải pháp về vốn. Với mức vốn hạn hẹp ta phải tranh thủ sự đầu tư của nước ngoài để quay vòng sản xuất có hiệu quả nhất. Về thị trường cần đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường trong nước duy trì và mở rộng các bạn hàng ở ngoài nước Đa dạng hoá sản phẩm tổng hợp. Tăng cường đầu tư tập huấn cán bộ kĩ thuật và tập huấn khuyến nông cho người trồng chè.
  46. 37 Cần tổ chức và phân công lại sản xuất của ngành chè: Các địa phương tự chịu trách nhiệm về sản xuất nông nghiệp và chế biến, nhất là chế biến nhỏ. Các doanh nghiệp qui mô lớn sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Tổng công ty chè Việt Nam cùng các công ty xí nghiệp làm tốt công tác thị trường bao tiêu sản phẩm và cung ứng vật tư, thiết bị chuyên dùng có chất lượng cao. Chính phủ cần ban hành những chính sách khuyến khích sản xuất chè như: Chính sách đầu tư cho vay và làm mới chè và xây dựng cải tạo các nhà máy chế biến chè. Đề nghị miễn thuế 5 năm cho các diện tích chè phục hồi và trồng mới trên đất dốc. Miễn thuế 5 năm cho các sản phẩm thu từ việc tận dụng đất đai và chế biến các sản phẩm mới. Cho phép các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài được hưởng lợi từ các chế độ như doanh nghiệp trong nước. Nhà nước đầu tư đường điện đường giao thông và các cơ sở phục vụ công cộng khác. Cho phép ngành chè được thành lập quỹ bình ổn giá để ổn định giá mua chè tươi cho nhân dân và dự phòng một lượng chè xuất khẩu hợp lý nhằm giữ giá chè xuất khẩu. Hiện nay việc quản lý chất lượng chè xuất khẩu chưa có tổ chức nào chịu trách nhiệm trước nhà nước, do vậy cần thống nhất quản lý Ngành về chất lượng sản phẩm chè xuất khẩu. Vậy ngành chè có thể tin tưởng rằng: “Doanh thu của ngành chè tương đương 1 tỷ USD vào những năm 2020”. 2.5. Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè Thái Nguyên Thái Nguyên nằm ở cửu ngõ giao lưu kinh tế giữa các vùng Trung Du Miền Núi phía bắc và đồng bằng bắc bộ qua hệ thống đường bộ, đường sông. Thái Nguyên có diện tích tự nhiên 3.562,82 km2, dân số khoảng 1.127.200 người. Tỉnh Thái Nguyên có tỉnh phía bắc giáp tỉnh Bắc Kạn, phía tây tiếp giáp với các tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, phía đông giáp với tỉnh Lạng Sơn,
  47. 38 Bắc Giang và phía nam giáp thủ đô Hà Nội. Với vị trí là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, giáo dục của khu vực Việt Bắc nói riêng và của vùng Trung Du Miền Núi nói chung. Sản xuất chè là một trong những ngành có thế mạnh ở Trung du và Miền núi nói chung và ở Thái Nguyên nói riêng. Cây chè ít tranh chấp đất với cây lương thực, thích hợp trên đất dốc. Trồng chè có tác dụng phủ xanh đất trống đồi núi trọc, hạn chế xói mòn, rửa trôi. Chè là cây trồng sử dụng có hiệu quả đất đai, khí hậu vùng đồi núi. Phát triển chè sẽ thu hút được lượng lao động đáng kể, không những chỉ trong khâu sản xuất nguyên liệu mà cả khâu chế biến và tiêu thụ. Do vậy phát triển chè ngoài ý nghĩa kinh tế, còn ổn định đời sống và định cư cho người dân do sử dụng nhiều lao động tại chỗ để chăm sóc, thu hái, vận chuyển, chế biến và tiêu thụ chè. Ưu điểm tương đối của chè là hệ số chi phí nội nguồn thấp (DRC – Domestic Resource Cost) do nguồn lực tự nhiên dồi dào và chi phí lao động thấp. Cây chè thực sự được coi là người bạn “chung thủy” của nông dân. Cây chè tỉnh Thái Nguyên đã từng là “cây xoá đói giảm nghèo” và hiện đang là “cây làm giàu” của của nhiều hộ nông dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên. Hiện nay tỉnh Thái Nguyên có diện tích chè lớn thứ 2 trong cả nước, cả 9 huyện, thành thị đều có sản xuất chè. Do thiên nhiên ưu đãi về thổ nhưỡng đất đai, nguồn nước, thời tiết khí hậu, rất phù hợp với cây chè. Vì vậy nguyên liệu chè búp tươi ở Thái Nguyên có phẩm cấp, chất lượng rất cao. Theo phân tích của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm Nghiệp miền Núi phía Bắc, chất lượng nguyên liệu chè Thái Nguyên có ưu điểm khác biệt với chất lượng nguyên liệu của các vùng chè khác. Từ những đặc điểm phẩm chất trên, nguyên liệu chè Thái Nguyên có nội chất đáp ứng được yêu cầu của nguyên liệu để sản xuất chè xanh chất lượng cao.
  48. 39 Bên cạnh thế mạnh được thiên nhiên ưu đãi về đất đai, khí hậu thích hợp với sản xuất chè. Người làm nghề chè tỉnh Thái Nguyên có kỹ thuật chăm sóc, thu hái và chế biến chè rất tinh xảo, với đôi bàn tay khéo léo của các nghệ nhân nghề chè, bằng những công cụ chế biến thủ công, truyền thống, đã tạo nên những sản phẩm chè cánh đẹp, thơm hương chè, hương cốm, uống “có hậu” với vị chát vừa phải, đượm ngọt, đặc trưng của chè Thái Nguyên, với chất lượng và giá trị cao; 100% sản phẩm của làng nghề chè là sản phẩm chè xanh, chè xanh cao cấp, chủ yếu tiêu thụ nội địa và có xuất khẩu. Những hộ làm nghề chè đã hình thành lên những làng nghề truyền thống. Từ năm 2008 đến năm 2011 đã có 52 làng nghề sản xuất, chế biến chè được UBND tỉnh quyết định công nhận trên địa bàn 5 huyện, 1 thành phố Thái Nguyên. Những làng nghề này từ lâu đã gắn liền với văn hoá mang đậm bản sắc của các dân tộc tỉnh Thái Nguyên. Năm 2010, số lao động của làng nghề khoảng 35.900 người. Trong đó số lao động làm nghề 23.300, chiếm 65%; thu nhập của làng 446.466 triệu đồng. Trong đó thu nhập từ ngành nghề 345.404 triệu đồng, bằng 77,4%. Sản xuất chè ở Thái Nguyên còn chủ yếu là sản xuất quy mô hộ. Tuy vậy, do đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học, tăng đầu tư thâm canh chè mang lại hiệu quả kinh tế cao. Cùng với kinh nghiệm sản xuất chè truyền thống có từ rất lâu đời , người dân có kinh nghiệm trong trồng trọt và chế biến nhiều vùng chuyên canh cây chè cho sản phẩm chèn ngon được người tiêu dùng ưa chuộng như: Tân Cương, Trại Cài Thái Nguyên đã có những bước tăng trưởng mạnh mẽ về về cả diện tích, năng suất, chất lượng, giá trị chè nổi tiếng ở nước ta. Theo niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên thí diện tích, năng suất, chất lượng chè Thái Nguyên được thể hiện ở bảng sau:
  49. 40 Bảng 2.5. Diện tích, năng suất, sản lượng chè của Thái Nguyên năm 2012 – 2015 Năm Diện tích Năng suất Sản lượng (Nghìn ha) (tạ /ha) (nghìn tấn) 2012 18.140 108,73 181,02 2013 18.520 108,80 183,04 2014 19.083 110,80 190,00 2015 20.735 109,40 193,00 Nguồn: (Báo cáo Kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2012,2013,2014,2015) [47] Qua bảng số liệu 2.5 cho thấy: Năm 2012, diện tích chè toàn tỉnh có 18.140 nghìn ha, năng suất 108,73 tạ/ha, sản lượng 181,02 nghìn tấn. Năm 2013: diện tích chè toàn tỉnh có 18.520 nghìn ha, năng suất 108,80 tạ/ha, sản lượng 183,04 nghìn tấn. Đến năm 2015, diện tích chè toàn tỉnh có 20.735 nghìn ha. Năng suất chè năm 2014 đạt 109,40 tạ/ha, sản lượng 193,00 nghìn tấn. Tỉnh Thái Nguyên đang đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu giống chè theo hướng giảm giống chè Trung du tăng các giống chè nhập nội và các giống chè trong nước chọn tạo, lai tạo có năng suất cao, chất lượng tốt và khả năng chống chịu cao để đưa vào sản xuất. Cùng với kinh nghiệm sản xuất chè truyền thống có từ lâu đời, người dân có nhiều kinh nghiệm trong trồng trọt và nhiều vùng chuyên canh cây chè có sản phẩm chè ngon được người tiêu dùng ưa chuộng như: Tân Cương, Trại Cài Thái Nguyên đã có những bước tăng trưởng mạnh mẽ cả về diện tích, năng suất, sản lượng cũng như chất lượng chè và đã trở thành một trong những vùng chè nổi tiếng của nước ta.
  50. 41 PHẦN 3 VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1.1 Đối tượng: + Giống chè LDP1 - Nguồn gốc: Là giống chè mới do Viện nghiên cứu chè chọn tạo và di thực vào Lâm Đồng năm 1996. Giống mẹ của LDP1 là Đại Bạch Trà, một giống chè có chất lượng thơm nổi tiếng của Trung quốc nhưng năng suất thấp. + Phân bón - Phân NTR1, BMT18 là phân hữu cơ khoáng, có màu nâu sẫm, có mùi hắc nhẹ, của Trường ĐH Nông Lâm. Phân BMT18 có hàm lượng các chất: hữu cơ ≥30%, N:P:K ≥ 4,5:3,5:3; độ ẩm 25% và các chất dinh dưỡng vi lượng: Ca, Mg, S, Cu, Fe, Bo, Zn, Phân NTR1 có hàm lượng các chất: hữu cơ ≥20%, N:P:K=2,5:5,5:0,5 độ ẩm 20% và các chất dinh dưỡng vi lượng: Ca, Mg, S, Cu, Fe, Bo, Zn, - Phân vô cơ: Đạm Ure Hà Bắc (46%N), phân KCl (60% K2O), phân supe lân Lâm Thao (17%P2O5). 3.1.2 Thời gian nghiên cứu Thời gian nghiên cứu: từ tháng 7/2017 đến tháng 12/2017. 3.2. Nội dung nghiên cứu - Nghiên cứu ảnh hưởng phân BMT18 đến sinh trưởng cây chè. - Nghiên cứu ảnh hưởng phân BMT18 đến mức độ sâu bệnh hại. - Nghiên cứu ảnh hưởng BMT18 đến các yếu tố cấu thành năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
  51. 42 3.3. Phương pháp nghiên cứu 3.3.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm + Công thức thí nghiệm: Thí nghiệm gồm 4 công thức, có 3 công thức sử dụng phân BMT18 có nền phân bón sử dụng phân NTR1. CT1: Bón 2 tấn NTR1 + 6 tấn BMT18 CT2: Bón 2 tấn NTR1 + 7 tấn BMT18 CT3: Bón 2 tấn NTR1 + 8 tấn BMT18 CT4 (đ/c): Bón 420 kgN +210 kg P2O5 + 280 kg K2O Thí nghiệm bố trí theo phương pháp khối ngẫu nhiên đầy đủ, 3 lần nhắc lại. NL 1 CT 1 CT 2 CT 3 CT 4 NL 2 CT 2 CT 3 CT 4 CT 1 NL 3 CT 4 CT 2 CT 1 CT 3 + Cách bón: Phân NTR1 bón thúc lần 1 vào tháng 2-3 với lượng 60%, còn lại 40% bón vào tháng 7 hoặc tháng 8. Phân BMT 18 chia đều bón 6 lứa trong năm, bón sau khi hái 6-7 ngày. Công thức đối chứng, bón lót toàn bộ phân chuồng + 60% lân vào tháng 2 hoặc tháng 3, còn 40 % lân bón vào tháng 7 hoặc tháng 8, lượng phân khoáng còn lại chia đều bón cho 6 lứa trong năm. 3.3.2 Các chỉ tiêu nghiên cứu + Các chỉ tiêu về sinh trưởng và năng suất: Chọn cây đại diện theo phương pháp ngẫu nhiên. Mỗi công thức chọn 5 cây, với 3 lần nhắc là 15 cây theo dõi. Các chỉ tiêu theo dõi gồm: - Thời gian bắt đầu sinh trưởng: Từ khi có 10% cành nảy mầm sau đốn. - Thời gian kết thúc sinh trưởng: Khi cành ngừng sinh trưởng. - Theo dõi sinh trưởng của búp: Đánh dấu 10 búp và 5 ngày theo dõi 1 lần đến khi búp đủ 5 lá thật. - Bề dày tán: Đo từ mặt vết đốn đến điểm cao nhất của tán, đo 1 lần vào tháng (6 hoặc 11). - Rộng tán: Lấy trung bình chiều rộng nhất, hẹp nhất, đo 1 lần vào
  52. 43 tháng (6 hoặc 11). - Đường kính thân: Đo cách mặt đất 5 cm (chỗ có đánh dấu để tránh hiện tượng mưa làm vùi lấp, đo bằng thước kẹp). - Số búp trên cây: Hái toàn bộ số búp chè đủ tiêu chuẩn của mỗi lần hái (cả búp có tôm và búp mù) trên mỗi cây. - Tỷ lệ mù xòe: Tổng số búp mù/tổng số búp. - Trọng lượng búp 1 tôm 3 lá, trọng lượng búp 1 tôm 2 lá: Chọn 10 búp đủ tiêu chuẩn cân và lấy trung bình. - Chiều dài búp 1 tôm 2 lá: Đo từ chỗ hái tự nhiên đến cuống của tôm. - Thành phần cơ giới búp: Chọn 10 búp 1 tôm 3 lá đủ tiêu chuẩn, cân riêng 10 lá 1, lá 2, lá 3, tôm, cuộng sau đó lấy trung bình. - Năng suất ô thí nghiệm: Thu hoạch tất cả búp chè trên toàn ô thí nghiệm ở tất cả các lứa. - Chỉ số diện tích lá (LAI): tiến hành vào sau đốn và cuối năm theo phương pháp cân khối lượng lá theo diện tích của m2 lá. - Số đợt sinh trưởng: Đếm trực tiếp trên cây theo dõi đếm trên 5 cành của một cây. Mỗi công thức đếm 15 cây (3 lần nhắc). - Số ngày hoàn thành đợt sinh trưởng tự nhiên: Cố định cành chè trên cây chè sinh trưởng tự nhiên (không thu hái búp), theo dõi số ngày hoàn thành đợt sinh trưởng tự nhiên trong một lứa. + Xác định tỷ lệ bánh tẻ: Lấy mẫu của lô búp đã hái ở cả 3 lần nhắc theo phương pháp đường chéo 5 điểm. Phương pháp xác định: Dùng phương pháp xác định bấm bẻ để xác định độ non già của búp chè. Mỗi lần nhắc cân 50g mẫu thực hiện bấm bẻ số búp của mẫu. Đối với cuống bẻ ngược từ cuống hái đến đỉnh búp, đối với lá bấm bẻ từ cuống lá đến đầu lá, phần bấm bẻ có xơ gỗ là phần bánh tẻ có trong lượng P1, phần non có trọng lượng P2.
  53. 44 Tỷ lệ (%) búp bánh tẻ = P1:50x100 Tỷ lệ (%) búp non = P2:50x100.(P1 +P2=50g) - Căn cứ vào tỷ lệ bánh tẻ đẻ đánh giá phẩm cấp búp theo từng công thức. Tiêu chuẩn chè đọt tươi được quy định như sau : (theoTCVN1053- 71): Loại chè A B C D Tỷ lệ bánh tẻ (%) 0- 10% 11- 20% 21- 30% >30% Tỷ lệ các thành phần búp trung bình là bình quân lần lượt các giá trị ở 3 lần nhắc lại + Theo dõi các chỉ tiêu chất lượng giống chè - Chất lượng chè nguyên liệu: Phân tích các chỉ tiêu sinh hoá: hàm lượng Tanin, chất hoà tan, đường tổng số, axit amin tại Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc. Mỗi năm phân tích 3 kỳ: Vụ xuân (tháng 3- 4); vụ hè thu (tháng 7- 8); vụ đông (tháng 9- 10). - Chất lượng chè thành phẩm: Tổ chức hội nghị thử nếm cảm quan và cho điểm của Hội đồng thử nếm về chất lượng chè xanh, của giống thí nghiệm về ngoại hình, màu nước, mùi và vị theo phương pháp cảm quan. Mỗi năm hội đồng tổ chức thử nếm vào 3 vụ: Vụ xuân (tháng 4), vụ hè (tháng 8), vụ thu (tháng 10). - Phân tích dư lượng nitrat: + Theo dõi các chỉ tiêu phân tích đất - Lấy mẫu đất ở 2 tầng độ sâu: 0- 20cm, 20- 40cm. Lấy hai lần: Lần 1 trước khi làm thí nghiệm, lần hai sau 1 năm. PHKCl: Sử dụng PHmét (Potentiometer). Hàm lượng chất hữu cơ: Phương pháp Tiurin. Đạm tổng số (%): Phương pháp Kjeldahl. Lân tổng số (%): phương pháp so màu (Photocolorimetric). Kali tổng số (%): Phương pháp quang kế ngọn lửa. Lân dễ tiêu: Phương pháp Oniani
  54. 45 Kali dễ tiêu: Dung môi rút tinh là H2SO4 0,1N đốt trên quang kế ngọn lửa. Đạm thuỷ phân: Phương pháp Tiurin – Kononova Al3+ di động: Phương pháp Sôkolốp. Tỷ trọng đất: Phương pháp Picnomet Dung trọng đất: Lấy mẫu đất ở thể tự nhiên 3.3.3. Phương pháp xử lý số liệu Các kết quả thí nghiệm được tổng hợp xử lý, vẽ đồ thị, biểu đồ trên Microsoft Excel 2010. Số liệu được xử lý theo chương trình xử lý thống kê sinh học trên phần mềm SAS 3.3.4. Phương pháp khác + Tính hiệu quả của từng công thức bón phân bón Lợi nhuận (RVAC) được tính bằng tổng thu nhập (GR) trừ đi tổng chi phí (TC): RVAC = GR – TC.
  55. 46 PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1.Thành phần của phân biochar và các nghiên cứu về ứng dụng của phân biochar 4.1.1 Thành phần của phân biochar Phân BMT18 là sản phẩm mới thành phần gồm: than sinh học, phân hữu cơ sinh học và vô cơ. Biochar được sản xuất từ vỏ trấu đốt trong lò yếm khí chuyên dụng ở nhiệt độ 600o C. Thành phần một số dinh dưỡng như sau: OC: 2,03%, N: 0,16%, P2O5: 0,22%, K2O: 0,56%, Mg: 99,8 mg/kg, Cu: 28,0 mg/kg, Zn: 93,8 mg/kg. 4.1.2 Các nghiên cứu về ứng dụng của phân biochar - Ảnh hưởng của biochar đến sinh trưởng và năng suất cà chua trồng trên đất cát của Vũ Duy Hoàng1*, Nguyễn Tất Cảnh1 , Nguyễn Văn Biên2 , Nhữ Thị Hồng Linh2 1 Bộ môn Canh tác học, 2 Sinh viên Khoa Nông học, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội . -Ảnh hưởng của việc bón biochar đến sự chuyển biến các dạng đạm NH4+ và NO3 - trong đất trong điều kiện phòng thí nghiệm. - Khảo sát khả năng hấp phụ đạm bởi biochar trong điều kiện ủ háo khí của Nguyễn Mỹ Hoa, khoa nông nghiệp & sinh học ứng dụng, trường đại học cần thơ. 4.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng liều lượng phân BMT 18 đến sinh trưởng chè 4.2.1. Ảnh hưởng của liều lượng phân BMT 18 đến sinh trưởng thân cành chè Ở giai đoạn thời kỳ kinh doanh (8 – 10 tuổi) cây chè cho năng suất chưa cao, do bộ khung tán đang phát triển, biện pháp bón phân thích hợp cho chè ở giai đoạn này là vô cùng quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi để cây chè phát triển bộ khung cành khoẻ và cho năng suất cao. Theo dõi sự sinh trưởng của cây chè thí nghiệm chúng tôi thu được kết quả ở bảng 4.1
  56. 47 Bảng 4.1. Ảnh hưởng của liều lượng phân BMT 18 tới sinh trưởng thân cành chè Đ/K thân Rộng tán Bề dày tán Cao cây (cm) (cm) (cm) (cm) Công thức % So % So % So % So Sau Sau Sau Sau với với với với TN TN TN TN ĐC ĐC ĐC ĐC CT1 98,54n 100,0 2 tấn NTR1 2,67ns 101,5 81,36 ns 104,7 100,8 31,67ns s 9 + 6 tấn BMT18 CT2 99,06n 2 tấn NTR1 + 7 tấn 2,70ns 102,7 85,20ns 109,6 101,3 32,03* 101,2 s BMT18 CT3 100,5n 2 tấn NTR1 + 8 tấn 2,78* 105,7 86,05* 110,6 102,8 32,9* 104,1 s BMT18 CT4 (đ/c) 420 kgN + 210 kg P2O5 2,63 100 77,77 100 97,80 100 31,64 100 + 280 kg K2O P >0,05 >0,05 >0,05 <0,05 LSD0,05 0,59 10 10,42 2,17 CV% 10 6,6 5,5 8,92 Về chỉ tiêu đường kính thân: Bón phân BMT 18 theo các lượng bón khác nhau đã có tác động nhiều đến tăng trưởng đường kính thân. Đối với các công thức 1,2,3 đường kính thân đều cao hơn đối chứng sai khác không có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95%. Chiều cao cây: do tác động của việc đốn chè hàng năm, độ cao đốn căn cứ theo tuổi chè nên chiều cao cây của giống chè thí nghiệm không có sự chênh lệc đáng kể, sự khác nhau trong các công thức của giống phụ thuộc vào tốc độ sinh trưởng búp và do công tác thu hái. Cây chè LDP1 chiều cao cây
  57. 48 của các công thức bón thổ hợp phân BMT18 đều cao hơn đối chứng, chiều cao cây lớn nhất là CT3 đạt 86,05 cm tăng 110,6% so với đối chứng không có ý nghĩa ở mức độ 95%. Chiều rộng tán: là một trong những chỉ tiêu chi phối năng suất búp chè, cây chè tán rộng thì diện tích thu búp nhiều, năng suất sẽ cao. Thể hiện rõ tác động của bón phân BMT18 có sử dụng phân NTR1 tăng chiều rộng tán so với đối chứng sai khác không có ý nghĩa ở mức độ 95%. Độ dày tán: độ dày tán phản ảnh mức độ sinh trưởng tốt hay xấu của cây chè trong thí nghiệm, độ dày tán phụ thuộc mức độ thu hái búp nhiều lứa hay ít lứa, thu hái nhiều lần để lại bộ lá chừa ít, tán sẽ mỏng và ngược lại. Trong thí nghiệm độ dày tán phản ảnh trung thực hiện trạng sinh trưởng của cây chè, chè sinh trưởng tốt cho độ dày tán cao. Với 4 công thức thí nghiệm trên giống chè đều cho thấy CT3 có độ dày tán cao nhất là 32,9 cm tăng 104,1% so với đối chứng, thấp nhất là CT1 đạt 31,67 cm nhưng vẫn cao hơn 100.09% so với đối chứng chắc chắn ở mức độ tin cậy 95%. Như vậy so sánh giữa các công thức của giống chè ta thấy CT3 có các chỉ tiêu sinh trưởng cao hơn cả. Điều đó chứng tỏ sự kết hợp của bón phân BMT18 có sử dụng phân NTR1 theo lượng bón một cách hợp lý, đã có sự tác động tích cực đến các chỉ tiêu sinh trưởng. Điều này đồng nghĩa với khả năng cây chè cho nhiều đợt cành sinh trưởng, cho nhiều búp là tiền đề cho năng suất cao. 4.2.2. Ảnh hưởng của liều lượng BMT 18 đến động thái tăng trưởng chiều dài búp Sự tăng trưởng chiều dài của búp chè là yếu tố quan trọng trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển của cây chè. Đây là yếu tố quyết định đến lứa hái và thời gian hái đồng thời liên quan tới các biện pháp kỹ thuật canh tác để cây chè phát triển tốt.
  58. 49 Trên cơ sở đó tôi tiến hành theo dõi sinh trưởng búp chè của giống chè LDP1. Các kết quả được thể hiện trong bảng 4.2 và được biểu diễn trên hình 4.1: Bảng 4.2. Ảnh hưởng của liều lượng phân BMT 18 đến động thái tăng trưởng chiều dài búp (cm) Số ngày sau bật mầm Công 5 10 15 20 25 30 Thức CT1 2 tấn NTR1 1,02 1,42 1,97 2,06 4,42 5,8 + 6 tấn BMT18 CT2 1.32 1,58 2,22 3,34 4,72 6,11 2 tấn NTR1 + 7 tấn BMT18 CT3 1,33 1,74 2,81 3,69 5,23 6,51 2 tấn NTR1 + 8 tấn BMT18 CT4 (đ/c) 420 kgN + 210 kg P2O5 + 280 kg 0,84 1,18 1,78 2,77 4,12 5,51 K2O 7 6 5 CT1 4 CT2 3 CT3 CT4 2 1 0 5 10 15 20 25 30 ngày ngày ngày ngày ngày ngày Hình 4.1: Ảnh hưởng của liều lượng phân BMT 18 đến động thái tăng trưởng chiều dài búp (cm) Qua kết quả bảng 4.2 và hình 4.1 cho thấy mức tăng trưởng chiều dài búp của giống LDP1 có sự diễn biến theo thời gian như sau: trong 15 ngày đầu không có sự chênh lệch rõ rệt giữa các công thức, CT3 (2,81cm) có mức
  59. 50 tăng trưởng cao hơn so với công thức đối chứng, thấp nhất là công thức đối chứng (1,87cm). Từ ngày 30 trở đi các công thức đã có sự tăng trưởng khá nhanh, CT3 có sự vượt trội cao nhất đạt 6,51cm cao hơn đối chứng 1,0cm, CT4 đối chứng vẫn là công thức thấp nhất (5,51cm) Kết quả trên cho thấy CT3 là công thức có mức tăng trưởng chiều dài búp đạt cao nhất. 4.2.3. Ảnh hưởng của liều lượng bón BMT 18 đến lứa hái chè Bảng 4.3. Ảnh hưởng của liều lượng phân BMT 18 lứa hái chè Số ngày hoàn Số đợt sinh Công thức thành một lứa trưởng/vụ hái Thu đông CT1 36,08 4,79 2 tấn NTR1 + 6 tấn BMT18 CT2 36,79 4,9 2 tấn NTR1 + 7 tấn BMT18 CT3 37,91 4,96 2 tấn NTR1 + 8 tấn BMT18 CT4 (đ/c) 35,85 4,66 420 kgN + 210 kg P2O5 + 280 kg K2O P >0,05 >0,05 LSD0,05 2,27 1,23 CV% 3,12 12,9 Qua bảng 4.3 cho thấy: Số ngày hoàn thành một đợt sinh trưởng ở các công thức thí nghiệm dao động từ 35,85 - 37,91 ngày. Trong đó cao nhất là CT3 (37,91 ngày) cao hơn CT4 đối chứng (35,85 ngày). Thấp nhất là CT1 (36,08 ngày) tuy nhiên các công thức thí nghiệm có sự chênh lệch khá đồng đều và sai khác không có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% Số đợt sinh trưởng trên vụ thu đông nhiều có nghĩa là số lứa hái nhiều (Trung bình một đợt sinh trưởng có khoảng 3 lứa hái vì các búp ở vị trí khác nhau sinh trưởng khác nhau nên không thể hái cùng một đợt). Số đợt sinh
  60. 51 trưởng trong vụ thu đông của giống chè dao động từ 4,66 – 4,96 đợt sai khác không có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95%. 4.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng phân BMT 18 đến mức độ sâu bệnh hại Kết quả tìm hiểu về sâu bệnh hại cho thấy: chè bị gây hại chủ yếu là do tác nhân sâu hại. Thành phần sâu hại chính trên chè bao gồm: rầy xanh, bọ cánh tơ, nhện đỏ và bọ xít muỗi. Mỗi loài sâu hại sống và gây hại ở những bộ phận khác nhau chủ yếu là lá và búp non với những mật độ khác nhau. Mật độ sâu hại là chỉ tiêu phản ánh mức độ nhiễm sâu bệnh và gây hại trên cây chè. Xác định mật độ sâu hại trên chè thu được kết quả bảng 4.4 sau: Bảng 4.4. Ảnh hưởng của liều lượng phân BMT 18 tới biểu hiện một số sâu bệnh hại trên chè Bọ xít Bọ cánh Nhện Rầy xanh muỗi Công thức tơ đỏ (con/khay) (% búp (con/búp) (con/lá) bị hại) CT1 2,7 2,6 2,16 0,4 2 tấn NTR1 + 6 tấn BMT18 CT2 2,53 2,73 2,47 0,41 2 tấn NTR1 + 7 tấn BMT18 CT3 2,27 2,33 2,17 0,34 2 tấn NTR1 + 8 tấn BMT18 CT4 (đ/c) 3,23 3,26 2,93 0,44 420 kgN + 210 kg P2O5 + 280 kg K2O P >0,05 0,05 >0,05 LSD0,05 1,71 1,08 2,03 0,15 CV% 31,7 23,89 43,2 20,21 Rầy xanh: là loại côn trùng gây hại lớn cho cây chè, rầy xanh hút nhựa cây bằng vòi châm. Cả rầy trưởng thành và rầy non đều gây hại như nhau. Rầy thường bám ở cuống búp, lá non dùng vòi châm hút dịch tế bào ở cuống, gân chính, gân phụ phía dưới mặt lá non. Các vết châm của rầy tạo thành những vết nhỏ li ti màu thâm nâu làm cho lá, búp non bị tổn thương, cản trở sự vận chuyển dinh dưỡng, dẫn đến búp chè bị chùn lại. Nếu bị hại nặng lá
  61. 52 chè khô từ chóp lá lan dần theo 2 mép xuống giữa thành lá, thâm đen từ 1/3- 1/2 lá thường gọi là cháy rầy. Những lá non bị hại có thể rụng chỉ còn trơ cuộng búp chè. Nương chè bị rầy xanh hại ở mức độ trung bình thì lá và búp chè có màu vàng hơi đỏ, nhìn xa giống nương chè cằn cỗi do thiếu dinh dưỡng. Trong các công thức 1, 2, 3 có số lượng bọ cánh tơ ít hơn công thức đối chứng sai khác không có ý nghĩa ở mức độ 95%. Bọ cánh tơ: Cư trú và gây hại ở cả mặt trên và mặt dưới lá chè non, tôm, cuộng búp (những phần non và mềm). Chúng hút tạo thành những vết rách và chấm khi lành sẹo tạo thành những vết sần sùi màu nâu và có những vết nứt ngang. Bọ cánh tơ phá hại làm cho búp chè thô, cứng và cằn lại, lá biến dạng cong queo. Khi hại nặng búp chè chùn lại, không phát triển được. Nhìn toàn bộ nương chè từ xa như thiếu dinh dưỡng nghiêm trọng. Trường hợp bị hại quá nặng lá non bị rụng chỉ còn trơ lại cuộng búp. Trong các công thức thí nghiệm thì CT4 đối chứng có số lượng bọ cánh tơ nhiều nhất là 3,26 con/búp và ít nhất CT3 có 2,33 con/búp là chắc chắn có ý nghĩa ở mức độ tin cậy 95% Nhện đỏ: Thường tập trung gây hại trên các lá bánh tẻ và lá già. Khi cây chè bị nhện hại nặng, mật độ nhện nâu tăng cao, các lá chưa bị rụng nhiều, chúng có thể gây hại lên các lá non và rải rác cả mặt dưới lá. Trong các công thức 1, 2, 3 có số lượng bọ cánh tơ ít hơn công thức đối chứng sai khác không có ý nghĩa ở mức độ 95%. Bọ xít muỗi: tập trung chích hút búp chè vào lúc sáng sớm và chiều tối. Khi có ánh nắng mặt trời, cả bọ xít non lẫn trưởng thành đều lẩn trốn, ẩn mình dưới tán chè. Vết châm lúc đầu trong như dọt dầu sau đó nhanh chóng chuyển thành màu nâu. Các công thức thí nghiệm bón phân BMT 18 có số lượng bọ xít muỗi ít hơn công thức đối chứng sai khác không có ý nghĩa ở mức độ 95%.
  62. 53 4.4. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng phân NTR1, BMT18 đến các yếu tố cấu thành năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. 4.4.1. Ảnh hưởng phân NTR1, BMT18 đến chất lượng chè 4.4.1.1. Ảnh hưởng của liều lượng phân NTR1, BMT18 đến thành phần cơ giới búp Thành phần cơ giới búp chè có một ý nghĩa quan trọng trong sản xuất cũng như kỹ thuật chế biến chè. Thành phần cơ giới búp phản ánh mức độ sinh trưởng của cây chè đồng thời có liên quan đến các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật, quy trình công nghệ và chất lượng sản phẩm. Búp chè có tỷ lệ tôm lớn, tỷ lệ cuộng nhỏ thì đều phù hợp cho công nghệ chế biến chè chất lượng cao. Nghiên cứu thành phần cơ giới để biết được thành phần nào làm ảnh hưởng không tốt đến chất lượng chè chế biến, giống chè nào, công thức nào có tỷ lệ tôm, lá 1, lá 2 cao sẽ có lợi cho quá trình chế biến chè thành phẩm. Ngược lại tỷ lệ lá 3 và cuộng cao thì không có lợi vì nó làm tăng tỷ lệ bồm, gây vụn nát chè làm tăng tỷ lệ mặt hàng chè cấp thấp, hiệu quả kinh tế kém. Ảnh hưởng của các lượng phân bón đến thành phần cơ giới búp chè thu được kết quả sau: Bảng 4.5. Ảnh hưởng của phân BMT 18 đến thành phần cơ giới búp chè Tôm Lá 1 Lá 2 Lá 3 Cuộng Công thức (%) (%) (%) (%) (%) CT1 7,46 8,31 20,82 34,4 29,01 2 tấn NTR1 + 6 tấn BMT18 CT2 7,41 8,27 21,68 34,39 28,25 2 tấn NTR1 + 7 tấn BMT18 CT3 7,83 8,85 22,05 32,43 28,84 2 tấn NTR1 + 8 tấn BMT18 CT4 (đ/c) 420 kgN + 210 kg P2O5 6,78 7,92 21,35 33,07 30,88 + 280 kg K2O Kết quả trình bày tại bảng 4.5 cho thấy: Búp chè giống LDP1có lá 3 và cuộng là thành phần chiếm tỷ lệ cao nhất, hai thành phần này tương đương nhau. Điều này chứng tỏ để có nguyên liệu thuận lợi cho chế biến chỉ nên hái búp non (tôm +2 lá ). Trong các công thức thí nghiệm, CT3 của giống chè cho tỷ lệ tôm + lá 1 + lá 2 cao nhất là
  63. 54 38,73% có nghĩa là tỷ lệ lá 3 và cuộng thấp hơn các công thức khác. Do vậy bón phân theo CT3 sẽ cho chất lượng nguyên liệu để chế biến chè khô. Nghiên cứu phẩm cấp nguyên liệu là một nhiệm vụ không thể thiếu trước khi đưa vào chế biến. Ở Việt Nam, việc thu hái chè chủ yếu bằng tay, năng suất tuy thấp nhưng chất lượng nguyên liệu cao hơn so với chè được thu hái bằng máy, Chất lượng nguyên liệu chè thu hái được quy định theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 1054 – 86, việc quy định phẩm cấp nguyên liệu được căn cứ vào tỷ lệ bánh tẻ của búp xác định bằng cách bấm bẻ trực tiếp. Theo tiêu chuẩn này nguyên liệu chè được phân ra thành 4 cấp A, B, C, D. Phẩm cấp nguyên liệu chè ảnh hưởng rất lớn đến thời gian làm héo chè, chi phí năng lượng, nhiên liệu trong quá trình chế biến và chất lượng chè thành phẩm. Trong suốt quá trình sinh trưởng của búp kể từ khi hình thành lá vảy ốc cho tới khi thu hoạch không phải tất cả búp đều đạt tiêu chuẩn (búp 1 tôm 2, 3 lá) mà trong số đó có cả những búp mù. 4.4.1.2. Ảnh hưởng của liều lượng phân NTR1, BMT18 đến phẩm cấp nguyên liệu Bảng 4.6. Ảnh hưởng của liều lượng phân BMT 18 đến phẩm cấp nguyên liệu Tỷ lệ Tỷ lệ mù Xếp loại Chiều dài búp Công thức bánh tẻ xòe chè 1 tôm 2 lá (cm) (%) (%) CT1 18,82 B 4,32 4,57 2 tấn NTR1 + 6 tấn BMT18 CT2 18,75 B 4,11 4,75 2 tấn NTR1 + 7 tấn BMT18 CT3 19,52 B 4,68 5,38 2 tấn NTR1 + 8 tấn BMT18 CT4 (đ/c) 420 kgN + 210 kg P2O5 + 280 kg 18,15 B 4,90 4,17 K2O P - - - < 0,05 LSD0,05 - - - 1,037 CV% - - - 11,7
  64. 55 Số búp mù được phản ánh bằng thông số tỷ lệ mù xoè, tỷ lệ mù xoè cao sẽ làm giảm năng suất chè ngay trên đồng ruộng hoặc làm giảm chất lượng chè khi chế biến. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến búp bị mù do điều kiện ngoại cảnh và dinh dưỡng Trong định hướng chế biến, giống chè LDP1 được định hướng thu hoạch búp làm nguyên liệu để chế biến chè xanh chất lượng cao. Trên giống chè LDP1 ở tất cả các công thức đều cho phẩm cấp chè loại B. Tỷ lệ mù xoè trên giống chè dao động từ 4,11 -4,90%, tỷ lệ mù xòe cao nhất là CT4 đối chứng (4,90%), thấp nhất là CT2 (4,11%) có ảnh hưởng tốt đến phẩm cấp nguyên liệu chè búp tươi. Bảng số liệu 4.8 cho thấy: trên giống LDP1, tất cả các công thức đều cho phẩm cấp chè loại B. Chiều dài búp 1 tôm 2 lá có sự chênh lệch giữa các công thức trên giống chè ở mức tin cậy 95%, các công thức thí nghiệm dao động từ 4,17 – 5,38cm. Trong đó CT3 (5,38cm) cao nhất cao hơn đối chứng 1,21cm, thấp nhất là CT4 đối chứng (4,17cm). 4.4.1.3. Ảnh hưởng của liều lượng phân BMT 18 đến thành phần sinh hóa trong búp chè Để đánh giá chất lượng búp chè tôi tiến hành phân tích thành phần sinh hoá búp chè kết quả thu được ở bảng 4.7 Bảng 4.7. Ảnh hưởng của liều lượng tổ hợp phânBMT 18 đến chỉ tiêu sinh hóa búp chè ĐVT: % Axit Đạm Tanin Chất hoà Đường Công thức amin tổng số (%) tan (%) khử (%) (%) (%) CT1 2 tấn NTR1 + 6 tấn 31,65 41,25 2,80 2,27 0,53 BMT18 CT2 2 tấn NTR1 + 7 tấn 31,40 40,85 2,64 2,39 0,49 BMT18 CT3 2 tấn NTR1 + 8 tấn 31,59 42,70 2,27 2,48 0,48 BMT18 CT4 (đ/c) 420 kgN + 210 kg P2O5 + 280 32,20 41,64 2,23 2,46 0,26 kg K2O
  65. 56 Kết quả bảng 4.7 cho thấy các chỉ tiêu sinh hoá trong các công thức phân bón thí nghiệm đều có sự khác nhau: hàm lượng Tanin trong các công thức bón phân BMT 18 đều thấp hơn đối chứng, thấp nhất là ở CT3 giảm 0.61% so với đối chứng. Chất hòa tan ở các công thức bón BMT 18 đều cao hơn đối chứng, cao nhất tại CT3 đạt 42,70% cao hơn công thức đối chứng 1,06%. Nhìn chung các công thức thí nghiệm bón phân BMT 18 có hàm lượng tanin giảm, chất hòa tan tăng, axit amin giảm, đường khử tăng, đạm giảm đồng nghĩa với việc chất lượng chè phần nào đã được cải thiện. 4.4.1.4. Kết quả đánh giá cảm quan sản phẩm chè xanh, của giống chè thí nghiệm Bảng 4.8. Ảnh hưởng của liều lượng phân BMT 18 đến chất lượng chè xanh Ngoại hình Màu nước Mùi Vị Tổng Xếp Công thức Nhận Nhận Nhận Nhận xét Điểm Điểm Điểm Điểm điểm loại xét xét xét Mặt chè CT1 Thơm xoăn Dịu 2 tấn NTR1 Xanh nhẹ đều, tự 4,25 4,39 3,27 hơn 4,18 16.09 Khá + 6 tấn vàng đặc nhiên có đậm BMT18 trưng tuyết Mặt chè CT2 xoăn Dịu 2 tấn NTR1 Xanh Thơm đều, tự 4,47 4,27 3,47 hơn 4,17 16,68 Khá + 7 tấn vàng nhẹ nhiên có đậm BMT18 tuyết Thơm Mặt chè CT3 nhẹ xoăn Xanh Dịu 2 tấn NTR1 đặc đều, tự 4,57 vàng 4,22 4,38 hơn 3,55 16.72 Khá + 8 tấn trưng nhiên có sánh đậm BMT18 tự tuyết nhiên Mặt chè CT4 (đ/c) Thơm xoăn Xanh Dịu 420 kgN + 210 nhẹ đều, tự 4,65 vàng 3,82 3,57 hơn 3,42 15,46 Khá kg P2O5 + 280 đặc nhiên có sánh đậm kg K2O trưng tuyết
  66. 57 Qua bảng 4.8 cho thấy chỉ tiêu ngoại hình và màu nước của cả 4 công thức không có sự khác nhau nhiều, song ở chỉ tiêu quan trọng là mùi và vị. Trong đó CT3 cho kết quả mùi cao nhất, tuy nhiên vị ở CT2 lại được đánh giá cao nhất. Chất lượng của giống chè thí nghiệm ở cả 4 công thức đều xếp loại khá nhưng tổng điểm cao nhất là CT3 đạt 16,72 điểm. 4.3.2. Ảnh hưởng liều lượng phân BMT 18 đến năng suất chè và hiệu quả kinh tế sử dụng phân bón Bảng 4.9. Ảnh hưởng của liều lượng tổ hợp phânBMT 18 đến năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất Khối lượng Năng Năng (g/búp) suất Mật độ suất công Công thức búp/lứa búp búp thực thu thức /m2 tôm tôm (tấn/ha/2 (kg/CT/2 +2 lá +3 lá lứa) lứa) CT1 2 tấn NTR1 + 6 tấn 327 0,92 1,08 15,8 4,15ns BMT18 CT2 2 tấn NTR1 + 7 tấn 334 0,94 1,14 16,20 4,48ns BMT18 CT3 2 tấn NTR1 + 8 tấn 341,4 1,05 1,21 21,30 5,62* BMT18 CT4 (đ/c) 420 kgN + 210 kg P2O5 + 280 317,26 0,92 1 14,46 3,73 kg K2O P >0,05 >0,05 >0,05 <0,05 <0,05 LSD0,05 29,41 0,2 0,17 3,38 0,48 CV% 4,67 10,9 7,92 11,1 6,75 Qua bảng 4.9 cho thấy: Mật độ số búp/ lứa/m2 ở các công thức tham gia thí nghiệm dao động từ 317,26 – 341,4 búp/lứa/m2 . Trong đó các công thức bón tổ hợp phân BMT18 có mật độ búp/ lứa/m2 cao hơn công thức đối chứng, cao nhất là CT3