Khóa luận Hoài niệm tuổi thơ trong hồi kí Tuổi thơ im lặng của Duy Khán

pdf 53 trang thiennha21 16/04/2022 7220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Hoài niệm tuổi thơ trong hồi kí Tuổi thơ im lặng của Duy Khán", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_hoai_niem_tuoi_tho_trong_hoi_ki_tuoi_tho_im_lang_c.pdf

Nội dung text: Khóa luận Hoài niệm tuổi thơ trong hồi kí Tuổi thơ im lặng của Duy Khán

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ===o0o=== TRẦN THỊ OANH HOÀI NIỆM TUỔI THƠ TRONG HỒI KÍ TUỔI THƠ IM LẶNG CỦA DUY KHÁN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH HÀ NỘI - 2017
  2. LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy giáo, cô giáo khoa Ngữ văn, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tiến sĩ Nguyễn Thị Tuyết Minh - ngƣời trực tiếp hƣớng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thiện Khóa luận của mình. Trong quá trình nghiên cứu, tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong quý thầy cô và bạn đọc góp ý để Khóa luận của tôi đƣợc hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2017 Sinh viên Trần Thị Oanh
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự hƣớng dẫn của TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh. Kết quả trong đề tài này là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào. Những tài liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá đƣợc chính tác giả thu thập từ những nguồn khác nhau có ghi trong phần tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất kì sự sai lệch nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm! Hà Nội, tháng 5 năm 2017 Sinh viên Trần Thị Oanh
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 2 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 6 6. Bố cục của Khóa luận 6 NỘI DUNG 7 Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT CHUNG 7 1.1. Một số vấn đề lý thuyết về thể loại hồi kí 7 1.1.1. Khái niệm hồi kí 7 1.1.2. Đặc trƣng của thể loại hồi kí 8 1.1.3. Phân biệt hồi kí với các tiểu loại khác của kí 10 1.2. Thể loại hồi kí trong đời sống văn xuôi Việt Nam đƣơng đại 13 1.3. Tác giả Duy Khán và hồi kí Tuổi thơ im lặng 15 1.3.1. Nhà văn Duy Khán 15 1.3.2. Hồi kí Tuổi thơ im lặng 17 TIỂU KẾT 19 Chƣơng 2. SỰ THỂ HIỆN HOÀI NIỆM TUỔI THƠ TRONG TUỔI THƠ IM LẶNG CỦA DUY KHÁN 20 2.1. Kí ức về gia đình 20 2.2. Kí ức về cảnh sắc thiên nhiên làng quê 24 2.3. Kí ức về phong tục của một làng quê giàu bản sắc văn hóa 26 2.4. Kí ức về những năm tháng nhọc nhằn của đất nƣớc 29
  5. TIỂU KẾT 33 Chƣơng 3. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN HOÀI NIỆM TUỔI THƠ TRONG TUỔI THƠ IM LẶNG CỦA DUY KHÁN 36 3.1. Nghệ thuật kể chuyện 36 3.2. Ngôn ngữ 38 3.3. Giọng điệu 40 TIỂU KẾT 43 KẾT LUẬN 44 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  6. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Ai trong cuộc đời này cũng có một tuổi thơ. Đó là cái nôi hình thành và nuôi dƣỡng tâm hồn lẫn nhân cách của mỗi ngƣời. Tuổi thơ cho ta biết bao kỉ niệm đẹp, nâng đỡ tâm hồn ta mỗi khi mệt nhoài bởi cuộc sống hiện tại. Tuy nhiên, không phải tuổi thơ nào cũng là “thần tiên”. Với những tuổi thơ không may mắn, con ngƣời chỉ muốn trốn tránh và lãng quên. Song khi nói tới tuổi thơ, nó vẫn là thời gian đƣợc hầu hết mọi ngƣời tìm về trong nỗi nhớ để khắc ghi và trân trọng. Trong sáng tác văn học, nhiều nhà văn, nhà thơ cũng hƣớng ngòi bút về đề tài này. Họ tìm kiếm trong tâm trí mình những kí ức về một tuổi thơ đã qua và làm nó sống dậy trên từng trang sách. Từ những kỉ niệm tuổi thơ, con ngƣời biết trân trọng quá khứ và có ý thức sống tốt hơn. Văn học thế giới và văn học Việt Nam đều có những tác phẩm viết về đề tài tuổi thơ. Văn học Việt Nam sau 1975 có những thuận lợi của tình hình lịch sử - xã hội nên đổi mới toàn diện từ nội dung đến nghệ thuật, từ đề tài đến thể loại. Các đề tài mang cảm hứng thế sự đƣợc quay trở lại với đúng quỹ đạo của nó, trong đó đề tài tuổi thơ cũng đƣợc nhiều ngƣời viết hƣớng đến. Họ viết về tuổi thơ qua các bài thơ, những truyện ngắn hay những thể loại nhƣ hồi kí, tự truyện Qua những tác phẩm viết về tuổi thơ, ngƣời đọc có thể cảm nhận phần nào hiện thực xã hội trong những năm tháng gắn liền với tuổi thơ ngƣời viết. Và quan trọng hơn, qua tác phẩm của mình, ngƣời viết muốn gửi tới bạn đọc những thông điệp, suy tƣ, chiêm nghiệm về cuộc đời và con ngƣời. Với ý nghĩa nhƣ vậy, việc tìm đọc và nghiên cứu các sáng tác về đề tài tuổi thơ cũng rất cần thiết và bổ ích với ngƣời đọc. Duy Khán là một trong những nhà văn thành công ở đề tài tuổi thơ với hồi kí Tuổi thơ im lặng đƣợc nhận giải thƣởng của Hội Nhà văn năm 1987. Tái hiện những kỉ niệm tuổi thơ từng đốt cháy tấm lòng nhà văn, Tuổi thơ im 1
  7. lặng chính là tâm huyết của Duy Khán, là món quà ông dành tặng quê hƣơng, tặng các con, các bạn nhỏ, và đặc biệt là tặng những ai đã từng nghèo khó. Với ý nghĩa đó, hồi kí Tuổi thơ im lặng là tác phẩm ngƣời đọc không thể bỏ qua khi nghiên cứu các sáng tác về đề tài tuổi thơ trong văn học sau 1975. Hiện nay, xu thế mở cửa và hội nhập giữa các quốc gia ngày càng đƣợc đẩy mạnh. Nó thúc đẩy xã hội phát triển mọi mặt, mức sống của con ngƣời nâng cao rõ rệt. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của đời sống vật chất, xu thế mở cửa và hội nhập cũng đem lại nhiều mặt trái. Trong đó, vấn đề nổi cộm là sự xuống dốc của những giá trị tinh thần và truyền thống văn hóa lâu đời. Con ngƣời sống trong xã hội ngày càng tiện nghi nhƣng đạo đức lại suy thoái. Không phải nguyên nhân duy nhất, nhƣng toàn cầu hóa là yếu tố quan trọng dẫn tới hệ quả này. Một trong những đạo lí cần đƣợc giữ gìn và phát huy là tinh thần “uống nƣớc nhớ nguồn”, ghi nhớ những đóng góp và hi sinh của thế hệ đi trƣớc đối với sự phát triển của dân tộc. Góp phần phát huy những truyền thống tốt đẹp đó, việc thông qua các tác phẩm văn chƣơng để giáo dục đạo đức, giúp con ngƣời thấu hiểu quá khứ, từ đó trân trọng hiện tại và có ý thức sống tốt hơn là điều rất cần thiết. Hồi kí Tuổi thơ im lặng là một trong nhiều tác phẩm văn học cung cấp những tƣ liệu xác thực về một thời kì đã qua trong lịch sử. Tìm hiểu những tác phẩm nhƣ vậy là rất cần thiết và bổ ích với ngƣời đọc. Từ những lí do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: Hoài niệm tuổi thơ trong hồi kí Tuổi thơ im lặng của Duy Khán làm đề tài của Khóa luận, với mong muốn đóng góp công sức nhỏ bé vào sự phát triển của hoạt động nghiên cứu khoa học hiện nay, đồng thời qua đó góp phần gìn giữ những giá trị tinh thần tốt đẹp của dân tộc. 2. Lịch sử vấn đề Hồi kí Tuổi thơ im lặng xuất bản năm 1986 là tác phẩm quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Duy Khán, đánh dấu sự chuyển hƣớng của nhà văn từ 2
  8. một ngƣời làm thơ chuyển sang sáng tác văn xuôi, từ một ngƣời dễ dãi chạy theo các đề tài thời sự trở lại tái hiện những kỉ niệm tuổi thơ nằm sâu trong tâm trí. Năm 1987, tác phẩm này đƣợc nhận giải thƣởng của Hội Nhà văn. Với thành công đó, Tuổi thơ im lặng đã nhận đƣợc sự quan tâm chú ý của giới nghiên cứu. Nhận xét về Tuổi thơ im lặng của Duy Khán, nhà văn Nguyễn Khải cho rằng: “Cái tài để trở thành con trẻ, giữ nguyên đƣợc cặp mắt trong veo của ba đứa trẻ không bị biến dạng, bị gãy khúc, bị vẩn đục bởi bao nhiêu tháng năm chồng chất thì không ai dám ganh với Duy Khán” [8, tr.7]. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong tiểu luận Kỷ niệm về một tầng văn hóa làng quê nhận xét: “Tuổi thơ im lặng là những mẩu chuyện nhỏ về làng quê. Những mẩu chuyện, đúng hơn là những mẩu hồi tƣởng của tuổi thơ. Ở đây tƣởng chừng vặt vãnh, rời rạc, chẳng có cốt truyện gì, và khó còn có gì bình thƣờng hơn thế đƣợc nhƣng đã làm sống dậy thế giới làng quê vô cùng thân thiết. Không chỉ riêng làng quê của riêng tác giả, mà còn là làng quê Việt Nam lâu đời. Đặc sắc của tập truyện không chỉ là tình yêu thiên nhiên nồng nàn, ở chất thơ thấm đƣợm trong chữ, trong lời, mà chủ yếu tái hiện lại cái môi trƣờng văn hóa làng quê đã nuôi dƣỡng tâm hồn thơ bé Việt Nam từ nghìn xƣa T ổi thơ im lặng là đóng góp đáng kể vào tủ sách viết cho tuổi thơ” [17, tr.674]. Tác giả Bùi Công Minh cho rằng: “Với T ổi thơ im lặng của Duy Khán, tôi chắc khó ngăn đƣợc nhiều độc giả thiên vị với anh, không nỡ chê trách anh ở chỗ này, chỗ nọ vì anh yêu quê hƣơng say đắm quá, cái tình anh đối với quê hƣơng mặn nồng nhân hậu quá. Tình yêu ấy có lúc làm cho anh cƣờng điệu đôi chút, cái gì cũng độc đáo, cũng “khổng lồ”. Nhƣng không sao, ngƣời ta thấy yêu quê hƣơng anh hơn và từ đó càng thêm yêu quê mình, cố nghĩ ra cách để nói về quê hƣơng mình nhƣ thế” [14, tr.15]. 3
  9. Nhà văn Triệu Bôn nhận xét: “Không những Duy Khán kêu gọi đƣợc lòng trắc ẩn cho đồng loại, kêu gọi con ngƣời hãy trân trọng hơn nữa với quá khứ của mình, hãy độ lƣợng, thƣơng yêu những ngƣời xung quanh mình, mà còn khắc họa đƣợc khá nhiều về một xã hội đen tối trƣớc Cách mạng Tháng Tám và những bạn đọc nhỏ tuổi, cả với những ngƣời có ý định cầm bút viết văn mà ít từng trải sự đời, còn có thể xem đây là một mảng tƣ liệu, một mảng kiến thức về nông thôn ta cách đây hơn bốn mƣơi năm, khá bổ ích” [2, tr.11]. Tác giả Trần Bảo Hƣng viết về Tuổi thơ im lặng nhƣ sau: “Với những tình cảm chân thành và một lối văn giàu chất tạo hình, những trang viết của Duy Khán đã tạo nên đƣợc sự đồng cảm, đồng điệu trong tâm hồn ngƣời đọc. Nỗi buồn trong văn anh thực thấm thía và niềm vui cũng không phải dễ dãi ” [6, tr.9]. Hội Nhà văn Việt Nam nhận xét: “Duy Khán đã dùng một lối văn chắt chiu, ngắn gọn, độc đáo ( ). Đọc văn Duy Khán, ta nhƣ đƣợc xối những gầu nƣớc của những cái giếng khơi, càng xối càng thấy mát, mát từ ngoài da vào tận trong ngƣời theo dòng cảm xúc, ở nhiều chỗ, Duy Khán cũng tìm ra đƣợc cách diễn đạt gợi cảm, đúng và thích hợp với tâm lý tuổi thơ” [1, tr.24]. Trong Giáo trình Văn học trẻ em, Lã Thị Bắc Lý khi nói về quá trình hình thành và phát triển của văn học trẻ em Việt Nam từ 1986 đến nay đã đánh giá khái quát: “Khi chiến tranh đã đi qua, đƣợc sống với riêng mình, ý thức về “cái tôi” thức dậy, con ngƣời ta bỗng có cảm hứng tìm lại mình. Đó cũng là lúc Đảng kêu gọi đổi mới tƣ duy. Từ chỗ lấy điểm nhìn của xã hội làm hệ quy chiếu, văn học chuyển sang cái nhìn đời tƣ, thế sự, lấy số phận con ngƣời để đánh giá hiện thực, và nhìn nhận lại quá khứ” [13, tr.15]. Chính trên cơ sở đó, tác phẩm Tuổi thơ im lặng ra đời. Khóa luận tốt nghiệp của Trƣơng Thanh Huyền (2012, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2) đã đi sâu nghiên cứu: Hiệ q ả nghệ th ật phương thức 4
  10. hoán dụ trong hồi kí T ổi thơ im lặng của nhà văn D y Khán. Khóa luận tốt nghiệp của Chu Thị Thắm (2016, Trƣờng Đại học sƣ phạm Hà Nội 2) lại đi sâu tìm hiểu: Hình tượng con người và làng q ê trong tác phẩm T ổi thơ im lặng của D y Khán. Nhìn chung, những công trình nghiên cứu về hồi kí Tuổi thơ im lặng chủ yếu là những đánh giá, nhận định chung mang tính khái quát, gợi mở cho việc đi sâu tìm hiểu tác phẩm. Một vài khóa luận đại học đi sâu tìm hiểu một số khía cạnh trong nội dung hoặc nghệ thuật của hồi kí. Vì vậy, tiếp thu gợi ý của những công trình đi trƣớc, trong khóa luận này, chúng tôi triển khai đề tài Hoài niệm t ổi thơ trong hồi kí T ổi thơ im lặng của D y Khán. Khóa luận mong muốn tiếp tục lí giải về thể loại hồi kí và những đóng góp của nhà văn Duy Khán đối với thể loại hồi kí trong đời sống văn xuôi Việt Nam đƣơng đại. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tƣợng nghiên cứu của chúng tôi là hồi kí Tuổi thơ im lặng do nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành. -Về phạm vi nghiên cứu, chúng tôi tập trung làm rõ hoài niệm tuổi thơ trong hồi kí Tuổi thơ im lặng của nhà văn Duy Khán ở các phƣơng diện: + Kí ức về gia đình + Kí ức về cảnh sắc thiên nhiên làng quê + Kí ức về phong tục của một làng quê giàu bản sắc văn hóa + Kí ức về những năm tháng nhọc nhằn của đất nƣớc 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của Khóa luận là tập trung nghiên cứu về hoài niệm tuổi thơ của nhà văn Duy Khán trong hồi ki Tuổi thơ im lặng. Từ đó, nhận diện về đặc trƣng của thể loại hồi kí. Đồng thời, Khóa luận tiếp tục khẳng định đóng góp của Duy Khán đối với thể loại hồi kí trên văn đàn Việt Nam đƣơng đại. 5
  11. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ của Khóa luận bao gồm: - Nghiên cứu những vấn đề lý thuyết của thể loại hồi kí: khái niệm, đặc trƣng cơ bản, phân biệt hồi kí với các tiểu loại khác của thể kí. - Lí giải kí ức của nhà văn Duy Khán về gia đình, quê hƣơng, đất nƣớc trong những năm tháng tuổi thơ. Từ đó, thấy đƣợc tình cảm sâu nặng mà nhà văn dành cho con ngƣời và quê hƣơng của mình. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp - Phƣơng pháp so sánh - Phƣơng pháp liên ngành 6. Bố cục của Khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung của Khóa luận gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1. Giới thuyết chung Chƣơng 2. Sự thể hiện hoài niệm tuổi thơ trong hồi kí Tuổi thơ im lặng của Duy Khán Chƣơng 3. Một số phƣơng diện nghệ thuật thể hiện hoài niệm tuổi thơ trong hồi kí Tuổi thơ im lặng của Duy Khán 6
  12. NỘI DUNG Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT CHUNG 1.1. Một số vấn đề lý thuyết về thể loại hồi kí 1.1.1. Khái niệm hồi kí Hồi kí là một thể loại thuộc loại hình kí - loại hình văn học trung gian nằm giữa báo chí và văn học. Hồi kí ra đời rất sớm, từ thời cổ Hi Lạp. Hồi ức của Kxê-nô-phôn và Xô-cơ-rát và những ghi chép của ông về các cuộc hành quân của ngƣời Hi Lạp (thế kỉ V TCN) thƣờng đƣợc coi là những tác phẩm hồi kí cổ xƣa nhất. Giải thích khái niệm hồi kí, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam đã căn cứ vào nhiều góc độ khác nhau. Có tác giả dựa vào nội hàm nghĩa của từ “hồi kí” để nêu khái niệm, có ngƣời dựa vào đặc trƣng thể loại, hoặc dựa vào cách kể chuyện của thể loại này để nêu ra khái niệm. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu khá thống nhất ở điểm cơ bản: hồi kí là tái hiện quá khứ gắn với ngƣời thật, việc thật, tác giả chính là ngƣời trong cuộc hoặc chứng kiến Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê): “Hồi kí là thể văn ghi lại những điều còn nhớ sau khi đã trải qua, đã chứng kiến sự việc” [16, tr.591]. Từ điển văn học (bộ mới) quan niệm: “Hồi kí là sáng tác thuộc nhóm thể tài kí, là một thiên trần thuật từ ngôi tác giả, kể về những sự kiện có thực xảy ra trong quá khứ mà tác giả chứng kiến” [3, tr.646 - 647]. Các tác giả cuốn Lí luận văn học (nhà xuất bản Đại học Sƣ phạm) cho rằng: “Hồi kí là thể loại ghi chép các sự kiện quá khứ đã trải qua do đƣơng sự thực hiện, cũng là một hình thức văn học riêng tƣ, mình nói về mình, một dạng tự truyện của tác giả” [18, tr.379 - 380]. Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: hồi kí là “một thể loại thuộc loại hình kí, kể lại những biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là ngƣời tham dự hoặc chứng kiến [4, tr.152]. 7
  13. Nhƣ vậy, những quan niệm trên về cơ bản đều dựa theo hình thức chiết tự từ Hán Việt: hồi là quay trở lại, kí là ghi chép những điều chứng kiến. Đây là cách lý giải ngắn gọn, dễ hiểu cho số đông ngƣời đọc. Để thuận lợi cho nghiên cứu, trong Khóa luận này, chúng tôi thống nhất theo quan niệm về hồi kí của Từ điển thuật ngữ văn học: hồi kí là “một thể loại thuộc loại hình kí, kể lại những biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là ngƣời tham dự hoặc chứng kiến” [4, tr.152]. 1.1.2. Đặc trưng của thể loại hồi kí Hồi kí ghi chép sự việc diễn ra trong quá khứ nên một trong những đặc trƣng cơ bản nhất là tính xác thực của đối tƣợng miêu tả và tính trung thực của ngƣời hồi tƣởng. Chính yêu cầu cao về tính xác thực trong hồi kí nên ngƣời viết hồi kí hay ngƣời trần thuật phải là ngƣời trong cuộc, kể lại những việc đã xảy ra trong quá khứ mà bản thân đã tham dự hoặc chứng kiến, thậm chí lấy chất liệu từ chính cuộc đời mình. Tác giả là ngƣời tham dự hoặc chứng kiến nên xét về bản chất, thông tin trong hồi kí đều mang tính xác thực cao, rất ít yếu tố hƣ cấu. Ở phƣơng diện này, hồi kí hấp dẫn ngƣời đọc bởi những tƣ liệu có giá trị về bản thân ngƣời viết, về không khí thời đại, các sự kiện lịch sử trong quá khứ mà cuốn hồi kí đó dựng lên. Bởi vậy, viết hồi kí không phải là sự lựa chọn của số đông nhà văn, viết hồi kí là sự “đấu tranh để viết ra”, là “một cuộc mổ xẻ toàn diện” mà ngƣời viết phải thật sự dũng cảm. Hồi kí mang tính chủ quan của ngƣời kể chuyện quá khứ. Vì sự thật xảy ra đã có độ lùi vào quá khứ, cho nên ngƣời chứng kiến hoặc tham dự không thể nhớ lại tƣờng tận, không thể bao quát hết mọi diễn biến sự việc, nhất là sự việc đã xảy ra quá lâu. Đồng thời, bản thân ngƣời viết hồi kí luôn đƣợc trình bày mô tả ở bình diện thứ nhất. Vì thế, hồi kí thƣờng khó tránh khỏi tính chủ quan của ngƣời viết. Có nghĩa là, trong hồi kí cũng có yếu tố hƣ cấu. Tuy nhiên, hƣ cấu ở đây đƣợc hiểu với nghĩa là nhà văn có thể sử dụng những 8
  14. hình thức không xác định. Nghĩa là không phải bịa đặt hay thêm thắt vô căn cứ mà là cả một quá trình lựa chọn, sắp xếp và tổ chức các tƣ liệu, chi tiết dữ kiện, với mục đích trình bày hiện thực một cách chân thực, đúng với bản chất của nó. Hơn nữa, tính chủ quan của hồi kí còn do sự nhìn nhận, đánh giá của ngƣời viết. Hiện thực phản ánh trong hồi kí là hiện thực đƣợc lựa chọn, và gây ấn tƣợng sâu sắc với ngƣời kể nên nó luôn ám ảnh, buộc phải viết ra, phải giải tỏa. Hiện thực ấy đƣợc tái hiện với một trạng thái cảm xúc riêng, đƣợc nhìn nhận, đánh giá lại bằng nhận thức chủ quan và bằng kinh nghiệm sống của ngƣời viết. Do vậy, ngƣời viết hồi kí khi tái hiện hiện thực không giữ thái độ khách quan nhƣ các sử gia. Hiện thực trong hồi kí cũng không thể so với các tƣ liệu gốc, các chứng tích mang tính lịch sử mà nó chỉ là một phần cơ sở để xác minh hiện thực trên phƣơng diện lịch sử. Điều quan trọng nhất, thông qua các sự kiện, các chi tiết liên quan đến tiểu sử, cũng nhƣ qua cách đánh giá, nhìn nhận, thái độ tình cảm trƣớc những gì đƣợc kể đến, tác giả hồi kí gián tiếp bộc lộ mình trong tính khuôn khổ của sự thật lịch sử, qua đó làm tăng thêm ý nghĩa xã hội và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Xét ở phƣơng diện nghệ thuật, một trong những đặc trƣng nổi bật nhất của thể hồi kí là cách kể chuyện theo dòng hồi tƣởng, nhớ đến đâu kể đến đó và thƣờng không sử dụng thủ pháp cốt truyện. Tác giả có thể hồi tƣởng lại quá khứ theo trật tự thời gian tuyến tính, từ quá khứ xa đến quá khứ gần. Tuy nhiên, trong tác phẩm hồi kí, dòng hồi ức cũng có thể bị đảo lộn không theo một quy luật khách quan mà chịu sự tác động của ý thức - tác giả. Có nghĩa là, sự phản ánh hiện thực trong hồi kí đƣợc tuân theo quy luật riêng của dòng hồi tƣởng. Quy luật dòng hồi tƣởng này còn gọi là “dòng ý thức”. Nhìn từ đặc trƣng thể loại, “dòng ý thức” là một thuật ngữ chỉ một xu hƣớng tiểu thuyết khởi điểm từ đầu thế kỉ XX ở phƣơng Tây, có khả năng tái hiện trực tiếp đời sống nội tâm, xúc cảm và liên tƣởng ở con ngƣời. Ở Việt Nam, sau 1986, kỹ 9
  15. thuật dòng ý thức trở nên phổ biến ở nhiều thể loại. Riêng với hồi kí, thủ pháp này không đƣợc sử dụng nhƣ một kỹ thuật mà là cơ chế tự nhiên của dòng hồi tƣởng, xuất phát từ cách kể tự thân, vốn có của hồi kí. Trong quá trình vận động, phát triển của hồi kí, các tác giả đã ý thức phát huy cơ chế này, góp phần tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn ngƣời đọc trong nghệ thuật trần thuật của tác phẩm hồi kí. 1.1.3. Phân biệt hồi kí với các tiể loại khác của kí Về hồi kí và nhật kí, theo nhóm tác giả Từ điển thuật ngữ văn học: “xét về phƣơng diện quan hệ giữa tác giả với sự kiện đƣợc ghi lại về tính chính xác của sự kiện, về góc độ và phƣơng thức diễn đạt, hồi kí có nhiều chỗ gần với nhật kí” [4, tr152]. Từ điển Văn học (bộ mới) quan niệm: “Hồi kí gần nhật kí ở hình thức giãi bày, ở chỗ không dùng thủ pháp cốt truyện, ở cách kể thƣờng theo thứ tự thời gian, ở việc chú ý đến các sự kiện mang tính tiểu sử” [3, tr.646-647]. Có thể khẳng định rằng, giữa hai thể tài này có đƣờng biên gần nhau ở hình thức giãi bày, ở việc không dùng các thủ pháp cốt truyện và đều chú ý đến các sự kiện mang tính tiểu sử. Song, nhật kí là dạng trần thuật từ ngôi thứ nhất số ít dƣới hình thức những ghi chép sự kiện đang diễn ra hàng ngày, có đánh số ngày tháng, không hƣ cấu; ghi lại các sự kiện đời tƣ đồng thời bộc lộ những cảm xúc, suy tƣ của bản thân chứ không chủ đích viết cho công chúng; trong khi hồi kí có thể bao gồm sự tái cấu trúc, sắp xếp sự kiện rời rạc không liền mạch trong trí nhớ của tác giả, và có thể có hƣ cấu. Hồi kí và nhật kí đều là những chuyện đời tƣ, nhƣng hồi kí đƣợc viết theo chiều nghịch của thời gian, hƣớng về dĩ vãng với cảm hứng hồi cố, còn nhật kí đƣợc viết theo chiều thuận, ghi lại những sự kiện và cảm xúc hàng ngày. Hồi kí có tính tổng kết và lý giải còn nhật kí có tính thời sự và thƣờng dang dở, ít khái quát, bởi thời gian sống và viết gần nhƣ đồng thời. Nếu hồi kí viết ra nhằm giãi bày, thú 10
  16. nhận với ngƣời khác, thiên về hƣớng ngoại thì nhật kí là lối viết thầm kín cho riêng mình, có tính riêng tƣ và hƣớng nội. Về hồi kí và tự truyện, nội hàm hai khái niệm này rất gần nhau nhƣng không hoàn toàn trùng khít. Từ điển Văn học (bộ mới) phân biệt: “Hồi kí có thể chỉ ghi lại những sự kiện về một thời kì lịch sử, mà tác giả không phải là nhân vật chính; còn tự truyện kể chuyện của cái “tôi” tác giả. Tự truyện không phải một tập hợp những kỉ niệm tản mạn, mà đƣợc bố trí nhƣ một truyện, một tiểu thuyết” [3, tr.1906]. Nhƣ vậy, hồi kí và tự truyện đều đề cập đến những gì thuộc về quá khứ. Cơ chế của ngƣời viết hồi kí và tự truyện đều hƣớng về dĩ vãng, đều có cảm hứng tổng kết và lý giải, đều đƣợc viết ra cho ngƣời khác đọc để bộc bạch cái tôi, chia sẻ kinh nghiệm cá nhân. Xét về bản chất, tự truyện mang đặc trƣng của truyện, giàu tính miêu tả, chú ý đến nghệ thuật kể, còn hồi kí mang đặc trƣng của kí, nặng về tính sự kiện, tính xác thực. Tự truyện xuất phát từ nhu cầu lý giải bản thân nhiều hơn, từ nhu cầu đó để tập trung vào quá trình hình thành nhân cách và lịch sử thế giới nội tâm của mình trong sự tƣơng tác với thế giới bên ngoài, còn hồi kí chỉ xuất hiện khi ngƣời ta có cảm hứng hồi cố, có nhu cầu trục vớt quá khứ khi nó đòi đƣợc hiện diện trong hiện tại, thỏa mãn mong muốn xét lại lịch sử. Do vậy, tự truyện có cái tôi hiện tại, hồi kí không có cái tôi hiện tại và thông thƣờng hồi kí cần có độ lùi thời gian hơn, đủ cho kí ức sống lại, đong đầy một niềm tiếc nuối, hiện thực bị khuất lấp đƣợc trình ra. Về hồi kí và các dạng thức tự thuật. Tiểu thuyết tự thuật là dạng tiểu thuyết sử dụng những “câu chuyện cuộc đời” có thật để làm chất liệu sáng tạo nghệ thuật. Trong tiểu thuyết tự thuật, ngƣời kể chuyện xƣng “tôi” đồng nhất với tác giả, kể chuyện về đời mình, kể cả chuyện riêng tƣ, trong đó có cả sự hƣ cấu về những câu chuyện liên quan đến đời mình. Nhƣ vậy, đƣờng biên giữa tiểu thuyết tự thuật với hồi kí thật nhạt nhòa. Hồi ức và sáng tạo, sự thật 11
  17. và hƣ cấu, cái riêng và cái chung luôn có nguy cơ lẫn vào nhau, thâm nhập vào nhau ở hai thể loại này. Tuy nhiên, dựa vào những nét khu biệt, ta vẫn nhận ra ranh giới giữa tiểu thuyết tự thuật và hồi kí. Tiểu thuyết tự thuật tuy dựng lại cuộc đời của ngƣời đó, trong thời đại đó nhƣng đã hƣ cấu hóa, còn hồi kí là dựng lại gƣơng mặt quá khứ trong đó có cuộc đời của mình với những chi tiết tiểu sử, đời tƣ không có sự hƣ cấu. Bản chất sự thật trong tiểu thuyết tự thuật ở đây là cái giống, có khi là “phiên bản” của sự thật, tác giả là ngƣời không chịu trách nhiệm về điều đó. Còn hồi kí, nếu có hƣ cấu thì đó cũng chỉ là cách để chuyển tải sinh động cái sự thật. Xuất phát điểm của hồi kí không phải sáng tạo nghệ thuật mà cốt để nhớ lại, viết lại quá khứ và cuộc đời của tác giả, còn tiểu thuyết tự thuật là sự sáng tạo của nhà văn. Ngoài ra, xét về phƣơng diện tƣ liệu, tính xác thực và không có hƣ cấu, hồi kí lại gần với văn xuôi lịch sử, tiểu thuyết khoa học. Song, nếu các thể loại này hƣớng vào tính nghiêm ngặt của sự thực và nghiên cứu, phân tích các tƣ liệu một cách toàn diện, thì ngƣời viết hồi kí chỉ tiếp nhận và ghi chép phần hiện thực mà tác giả nhìn rõ hơn trên cơ sở những ấn tƣợng và hồi ức riêng trực tiếp của mình. Vì vậy, trong toàn bộ tác phẩm hồi kí có sự nổi trội của bản thân ngƣời viết hoặc cái nhìn của bản thân ngƣời viết vào tất cả những gì đƣợc kể lại, miêu tả lại. Nhìn chung, trong sự phát triển của thể hồi kí, đƣờng biên thể loại không tuyệt đối, bản thân tác phẩm hồi kí luôn có sự xâm nhập, dung hợp các thể tài, thể loại khác. Chính sự giao thoa giữa các thể loại khiến tác phẩm hồi kí càng đƣợc chắp thêm đôi cánh vƣơn ra những chân trời mới của việc tái hiện hiện thực. Nó đồng thời cũng thể hiện tính hiện đại, năng động, linh hoạt của thể loại kí nói chung trong thời kì mở rộng và đổi mới tƣ duy nghệ thuật của những năm sau 1975. Tuy vậy, văn bản hồi kí dù có tính tự do (do tính chủ quan của hồi ức) hoặc dẫu khó xác định đƣờng biên thể loại thì cũng không thể nằm ngoài khung đặc trƣng thể loại. 12
  18. 1.2. Thể loại hồi kí trong đời sống văn xuôi Việt Nam đƣơng đại Sau 1975, hồi kí thực sự góp phần đáng kể trong việc tạo lập một diện mạo riêng trên văn đàn Việt Nam. Một trong những nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển của hồi kí là điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam đƣơng đại. Nhìn từ bối cảnh xã hội - văn hóa, trong xu thế hội nhập toàn cầu, đời sống văn học có nhiều chuyển đổi, hồi kí cũng không đứng ngoài lề. Đất nƣớc hòa bình, xã hội có nhiều biến đổi, tâm tƣ, tình cảm, suy nghĩ của con ngƣời, đặc biệt là của ngƣời nghệ sĩ cũng đổi khác. Bên cạnh vấn đề vận mệnh dân tộc, vấn đề số phận cá nhân đƣợc đặt ra gay gắt. Ý thức cá nhân thức tỉnh, trỗi dậy mạnh mẽ. Những vấn đề thuộc về cá nhân, riêng tƣ từ trƣớc bị kìm nén, bị giấu đi trong cái chung, trong nhân danh cái cộng đồng đƣợc chú ý khai thác và đào sâu. Ý thức của con ngƣời cá nhân với những nhu cầu, khát vọng đời thƣờng mang tính bản năng đƣợc đánh thức. Văn học hƣớng đến cảm hứng thế sự, đời tƣ để thỏa mãn thị hiếu, nhu cầu cấp thiết của độc giả. Đặc biệt, văn nghệ sĩ vốn nhạy cảm với những biến thiên của cuộc đời, hành trình sáng tạo cũng nhiều thay đổi, họ có nhu cầu nhìn lại chính mình, khẳng định vai trò, vị thế cá nhân trong xã hội, trong văn chƣơng. Trƣớc những nhu cầu này, sức mạnh của một tác phẩm văn học không còn ở chỗ khối lƣợng hiện thực đƣợc ghi chép, phản ánh mà còn đòi hỏi nhà văn phải thể hiện đƣợc những nghiền ngẫm, tình cảm và chiều sâu tƣ tƣởng của mình. Đòi hỏi này là thế mạnh của hồi kí, nhất là hồi kí văn học. Hồi kí vốn là sự hồi cố lại những gì nhà văn đã trải qua trong quá khứ, thế nhƣng, tất cả những hồi ức đó chỉ là đƣờng viền, là cái cớ để đƣa ra những nhận xét, đánh giá, trăn trở, suy ngẫm và bộc lộ những quan điểm tƣ tƣởng của chính nhà văn. Nói đúng hơn, hồi kí viết về cái hôm qua để suy xét cái hôm nay, để ngƣời đọc nhận ra bao bộn bề của thế sự đời thƣờng Bên cạnh sự phát triển của truyện ngắn, tiểu thuyết với những bứt phá trong cách tân thể loại, hồi kí cũng đi tìm cho mình mảnh đất để dụng võ với 13
  19. cả số lƣợng đông đảo về tác giả, tác phẩm cũng nhƣ những dấu ấn về nội dung và nghệ thuật của thể tài trong hành trình phát triển. Hồi kí đã đáp ứng đƣợc nhu cầu cần hiểu, cần đánh giá lại một thời đại đã qua của lịch sử văn học, chiêm nghiệm lại quá khứ của bản thân ngƣời viết và độc giả. Sự chuyển biến của tƣ duy văn học sau 1975 đƣợc thể hiện ở khuynh hƣớng “phi sử thi hóa”, đƣa văn học trở lại với “quỹ đạo” đời thƣờng. Các thể loại văn học phát triển mạnh mẽ và đều có vị trí trọng yếu. Nằm trong dòng mạch đó, hồi kí phát triển đáp ứng nhu cầu vận động tự thân của văn học. Hơn thế nữa, văn học giai đoạn từ 1975 đến nay đã có một đội ngũ sáng tác trải nghiệm từ thời chiến bƣớc vào thời đổi mới với bao va đập qua những bƣớc ngoặt lịch sử. Nhu cầu viết về mình, về thế hệ mình, về những vinh quang thăng trầm quá khứ trở nên bức thiết. Hồi kí ra đời nhƣ một tổng kết cuộc đời mình, để sống lại một lần nữa cuộc đời đã sống, để khách quan nhìn nhận, đánh giá lại chính cuộc đời mình bằng sự trải nghiệm của bản thân. Nói cụ thể hơn, viết hồi kí là nhu cầu để nhà văn giải tỏa những ẩn ức bởi sự giục giã, thôi thúc từ bên trong. Tất cả điều này đã khiến cho hồi kí phát triển mạnh mẽ. Diện mạo hồi kí sau 1975 khá phong phú với nhiều phong cách, với sự tập hợp nhiều thế hệ. Đóng góp lớn cho thành tựu hồi kí giai đoạn này là thế hệ các nhà văn tiền chiến, từng sáng tác trƣớc Cách mạng, thuộc các khuynh hƣớng. Tham dự với vai trò chủ đạo trong nhiều chặng đƣờng văn học, có mặt trong những sự kiện trọng đại của đất nƣớc qua những biến thiên lịch sử, nhu cầu viết hồi kí trở nên bức thiết đối với thế hệ này. Đây là thế hệ trải qua nhiều thăng trầm trong cuộc đời cũng nhƣ sáng tác văn chƣơng. Thế hệ này cũng đến độ “tri thiên mệnh”, có nhiều đóng góp cho văn học nƣớc nhà, muốn nhìn lại chính mình và thế hệ của mình qua những biến đổi lớn lao. Nhiều thiên hồi kí tái hiện các giai đoạn lịch sử - xã hội - văn học qua các thời kì, giàu tính thẩm mỹ, đƣợc cộng đồng văn học đón nhận. 14
  20. Nhắc tới thành tựu của thể loại hồi kí sau 1975 là nhắc tới các tác phẩm tiêu biểu nhƣ Miền thơ ấu (Vũ Thƣ Hiên), Tuổi thơ im lặng (Duy Khán), Chuyện làng ngày ấy (Võ Văn Trực), Cát bụi chân ai, Chiều chiều (Tô Hoài), Đặng Thai Mai hồi ký (Đặng Thai Mai), Từ bến sông Thƣơng (Anh Thơ), Hồi ký song đôi (Huy Cận), Nhớ lại một thời (Tố Hữu) Với những tác phẩm này, cái tôi của ngƣời viết hiện diện rất sắc nét qua cảm hứng nhận thức, đánh giá lại những gì đã trải nghiệm bằng điểm nhìn từ hiện tại. Những chi tiết tự truyện, thái độ chủ quan của ngƣời trần thuật chứa đựng nhu cầu khẳng định giá trị của kinh nghiệm cá nhân. Trong thành tựu chung của hồi kí sau 1975, số lƣợng tác giả của phong trào Thơ mới tham gia khá nhiều. Những tác phẩm hồi kí ra đời ghi lại cả một khoảng trời về tuổi thơ, về quê hƣơng, gia đình, về những sự kiện lịch sử in đậm trong hồi ức nhƣ Nửa đêm sực tỉnh (Lƣu Trọng Lƣ), Những gƣơng mặt đáng yêu (Nguyễn Xuân Sanh), Hồi ký Song Đôi (Huy Cận). Đặc biệt các nhà thơ nữ cũng làm mới diện mạo hồi kí bằng những tác phẩm đậm tính nữ nhƣ Hồi ký Anh Thơ, hồi kí Núi Mộng Gƣơng Hồ (Mộng Tuyết) Nhìn chung, sau năm 1975, thể loại hồi kí có những điều kiện thuận lợi để phát triển và đạt nhiều thành tựu rực rỡ, góp phần không nhỏ vào việc thay đổi diện mạo của văn xuôi Việt Nam đƣơng đại. 1.3. Tác giả Duy Khán và hồi kí T ổi thơ im lặng 1.3.1. Nhà văn D y Khán Duy Khán là nhà văn gốc Bắc Ninh, trƣởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc. Trong sự nghiệp cầm bút của mình, Duy Khán viết báo nhiều hơn sáng tác văn học. Tuy vậy, nhà văn cũng có vị trí nhất định trong văn xuôi Việt Nam sau 1975. Nhà văn Duy Khán tên khai sinh là Nguyễn Duy Khán, sinh ngày 6 tháng 8 năm 1934, tại thôn Sơn Trung, xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, 15
  21. trong một gia đình nông dân nghèo. Thời niên thiếu, ông đi học trong vùng Pháp kiểm soát. Năm 15 tuổi ông bỏ dở việc học, theo hai anh trai là Nguyễn Đình Thƣ và Nguyễn Đình Thả trốn ra vùng Việt Minh kiểm soát để nhập ngũ. Do có nền tảng học vấn tốt so với thời bấy giờ, thay vì tham gia chiến đấu, Duy Khán đƣợc đơn vị phân công dạy học, rồi làm phóng viên chiến trƣờng cho chƣơng trình Phát thanh Quân đội. Năm 1972, ông làm biên tập viên ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Sau khi nghỉ hƣu với cấp bậc Đại tá, Duy Khán về Hải Phòng sống cùng gia đình ở phố Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân. Ông từng là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Duy Khán mất ngày 29 tháng 1 năm 1993 tại thành phố Hải Phòng. Ở cƣơng vị nào, Duy Khán cũng năng nổ hoạt động. Những năm chiến tranh, nhà văn có mặt hầu hết trên các chiến trƣờng lớn, từ Điện Biên đến đƣờng 9 - Nam Lào. Nhà văn Nguyễn Đức Mậu kể rằng: “Gặp Duy Khán, lúc nào cũng thấy anh đeo súng ngắn, và cái máy ghi âm, cái sắc cốt cứ kè kè bên ngƣời” [9, tr.6]. Duy Khán còn có thời gian khá dài công tác ở quần đảo Trƣờng Sa. Vì đi nhiều, lại làm biên tập viên tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội nên Duy Khán viết ít. Tác phẩm văn chƣơng vẻn vẹn chỉ có mấy tập thơ mỏng, chủ yếu đƣợc viết những năm chống Mỹ, trong khi đồng nghiệp ở cơ quan “sáng tác bằng máy rào rào”. Duy Khán sống cả tin và dễ gần. Bạn bè trong cơ quan, ai cũng yêu quý nhà văn. Ông không ganh đua với ai mà thƣờng mừng vui trƣớc những thành công của bạn và chịu nhận thiệt thòi về mình. Căn phòng của Duy Khán ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội chƣa đầy sáu mét vuông nhƣng luôn đông khách và đầy ắp kỉ niệm. Nhà thơ Phạm Tiến Duật đến thăm phòng Duy Khán có ngẫu hứng đọc mấy câu thơ: “Một nhà thơ đi sáu nghìn cây số biển/ Về ở căn phòng sáu mét vuông ” Trong sự nghiệp văn học của mình, Duy Khán đã để lại những tác phẩm tiêu biểu: Trận mới (thơ - 1972), Một tiếng Xa - Ma - Khi (thơ, 1981), Tâm sự 16
  22. ngƣời đi (thơ, 1984), nổi bật nhất là hồi kí Tuổi thơ im lặng (1986). Tuổi thơ im lặng ghi dấu bƣớc ngoặt lớn trên con đƣờng sáng tác của Duy Khán. Tác phẩm đƣợc nhận giải thƣởng của Hội Nhà văn năm 1987. Năm 2012, Duy Khán đƣợc truy tặng Giải thƣởng Nhà nƣớc về văn học nghệ thuật. 1.3.2. Hồi kí T ổi thơ im lặng Trong đời văn Duy Khán, Tuổi thơ im lặng là tác phẩm có vị trí quan trọng. Tuy là “đứa con ngoài kế hoạch” nhƣng tác phẩm này là tâm huyết của nhà văn. Nó đã mang lại cho ông giải thƣởng cao quý trong sự nghiệp cầm bút của mình. Nguồn cảm hứng lớn lao thôi thúc Duy Khán viết về những kí ức tuổi thơ đã nằm sâu trong tâm trí chính là nguyện vọng, là sự mong đợi đầy nhiệt tình từ các con ông. Trong lời tựa Tuổi thơ im lặng, ông viết: “Các con sinh ra ở một thành phố lao động. Ấy thế mà vì sao các con lại đồng cảm đến mức vậy. Ví thử các con sinh ra ở những làng quê lam lũ thì sao? Các con giục bố viết ra, viết nhanh để các con đọc lại nhiều lần” [9, tr.12]. Chính nguyện vọng chính đáng và da diết của các con, cùng với tình yêu quê hƣơng sâu nặng, nỗi nhớ tuổi thơ khôn nguôi đã trở thành nguồn cảm hứng thôi thúc Duy Khán hƣớng ngòi bút đang chạy theo xu hƣớng chung trở về tái hiện những kỉ niệm tuổi thơ đã nằm sâu và bền chặt trong tâm trí. Vì vậy, Tuổi thơ im lặng tuy không nằm trong kế hoạch sáng tác của Duy Khán nhƣng nó chứa đựng tâm huyết của nhà văn, là món quà ông dành tặng các con, các bạn nhỏ và đặc biệt là tặng những ai đã từng nghèo khó. Những kỉ niệm tuổi thơ trong tác phẩm đƣợc tính từ thời điểm cậu bé Khán biết nhận thức đến tuổi mƣời lăm. Tất cả đƣợc tái hiện chân thực và đầy cảm xúc. Tuổi thơ im lặng xuất bản năm 1986. Vừa mới ra mắt, tác phẩm đã nhận đƣợc lời khen của những cây bút cùng thời. Nhà thơ Đỗ Trung Lai công tác ở báo Quân đội nhân dân gọi tập sách là “Văn chiêu hồn” của một thời, của một 17
  23. vùng. Nhà văn Nguyễn Đức Mậu bình luận về Tuổi thơ im lặng: “Lời văn mộc mạc và cổ nhƣng cốt truyện thì hay, thú vị lắm” [9, tr.8]. Đáng quý hơn, năm 1987, tác phẩm này đã đƣợc nhận giải thƣởng của Hội Nhà văn. Những thành quả trên thực sự xứng đáng với tâm huyết và công sức mà Duy Khán dành cho Tuổi thơ im lặng. Cuốn sách nhỏ bé nhƣng nó nhƣ máu thịt của nhà văn, là lời giãi bày, thủ thỉ chân tình ông dành cho các con và bạn đọc. Tuổi thơ im lặng tái hiện chân thực những kí ức tuổi thơ nhiều cung bậc của Duy Khán. Đó là kí ức về gia đình, về thiên nhiên, phong tục làng quê Qua những kỉ niệm tuổi thơ đó, ngƣời đọc cảm nhận đƣợc bức tranh con ngƣời và thiên nhiên làng quê Bắc Ninh trong những năm tháng khó nhọc của đất nƣớc, đồng thời thấy đƣợc tình cảm sâu nặng mà Duy Khán dành cho quê hƣơng xứ sở. Những nội dung đó đƣợc thể hiện qua nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị và một giọng điệu nhiều sắc thái. Tất cả đã tạo nên thành công cho cuốn hồi kí. 18
  24. TIỂU KẾT Trong văn xuôi Việt Nam sau 1975, cũng nhƣ truyện ngắn, tiểu thuyết, thể loại hồi kí có sự phát triển mới. Một trong những nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển của hồi kí là tình hình lịch sử xã hội Việt Nam sau 1975. Những thuận lợi của giai đoạn này đã tạo điều kiện cho văn học nói chung, thể loại hồi kí nói riêng đi sâu khai thác các vấn đề thế sự - nhân sinh, hƣớng tới số phận cá nhân, bộc lộ tâm tƣ, tình cảm của con ngƣời mà trƣớc đó không có điều kiện nói ra. Hồi kí sau 1975 đƣợc đánh dấu bằng những tác phẩm mang đề tài thế sự, với cảm hứng chiêm nghiệm của ngƣời viết. Thành tựu của hồi kí đã góp phần thay đổi diện mạo văn học giai đoạn đất nƣớc hòa bình, bƣớc vào Đổi mới và hội nhập. Duy Khán là nhà văn gốc Bắc Ninh, trƣởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của dân tộc. Với hồi kí Tuổi thơ im lặng đƣợc nhận giải thƣởng của Hội Nhà văn năm 1987, Duy Khán đã góp phần vào sự phát triển của hồi kí giai đoạn sau 1975. Tuổi thơ im lặng đánh dấu thành công trong sự nghiệp sáng tác của Duy Khán. Nghiên cứu tác phẩm giúp ngƣời đọc nhận ra những đóng góp của nhà văn đối với thể loại hồi kí và đánh giá đúng đắn vị trí của ông trong sự phát triển của văn xuôi Việt Nam sau 1975. 19
  25. Chƣơng 2. SỰ THỂ HIỆN HOÀI NIỆM TUỔI THƠ TRONG TUỔI THƠ IM LẶNG CỦA DUY KHÁN 2.1. Kí ức về gia đình Con ngƣời sinh ra trong cuộc đời này, ai cũng có một tuổi thơ. Tuổi thơ là khoảng thời gian ta đƣợc sống bên cha mẹ, bên những ngƣời thân yêu với một tâm hồn vô ƣu, đầy thơ ngây và thuần khiết. Vì thế, khi đã trƣởng thành, ngƣời ta không nguôi hoài nhớ kí ức tuổi thơ. Tuổi thơ cho ta bao kỉ niệm đẹp, nâng đỡ tâm hồn ta mỗi khi mệt nhoài bởi cuộc sống hiện tại. Nhƣng không phải tuổi thơ nào cũng là “thần tiên”. Với những tuổi thơ không may mắn, con ngƣời chỉ muốn trốn tránh và lãng quên. Song tuổi thơ vẫn là miền kí ức luôn đƣợc ghi nhớ và trân trọng. Nhà văn Duy Khán cũng vậy. “Đang từ một ngƣời dễ dãi chạy theo các đề tài thời sự, Duy Khán trở lại với cái phần kí ức tuổi thơ nằm sâu và đã trở nên bền chặt trong tâm trí”(Vƣơng Trí Nhàn). Những kỉ niệm tuổi thơ trong mƣời lăm năm đầu đời đƣợc nhà văn làm sống dậy qua hồi kí Tuổi thơ im lặng. Tác phẩm là món quà tinh thần ông dành tặng quê hƣơng, tặng các con thân yêu, các bạn nhỏ và đặc biệt là tặng những ai đã từng nghèo khó. Tuổi thơ im lặng chứa đựng biết bao kí ức đẹp đẽ của Duy Khán, với nỗi nhớ da diết, tình thƣơng yêu xen lẫn sự ngậm ngùi, xót xa Mảng kí ức nào cũng đầy ắp tình cảm nhƣ vừa mới diễn ra. Trƣớc tiên là kí ức về những ngƣời thân yêu trong gia đình: bà nội, cha mẹ, anh Thƣ, anh Thả, em Bảng. Ngƣời đầu tiên phải nhắc tới trong nỗi nhớ của nhà văn là bà nội. Bà nội gần bảy mƣơi tuổi nhƣng cái nghèo đói, cái vất vả vẫn đeo bám và hằn hiện trên đôi vai mỏng manh của bà. Bà làm đủ mọi việc, đã vậy còn nuôi em Lĩnh con chú Chà vì chú thím mất sớm. Trong ánh mắt các cháu, bà hiền hậu nhƣ một bà tiên. Bà mang đến kho tàng văn học dân gian với biết bao câu ca, lời ru, câu chuyện cổ tích đầy kì thú. Lời ru ngọt ngào, trầm bổng của bà đã nuôi 20
  26. dƣỡng và bồi đắp tâm hồn cho các con, các cháu. Tất cả đều lớn lên qua các câu hát ru đó và nó nhƣ vẫn văng vẳng bên tai câu bé Khán dù sau này bà đã đi xa. Duy Khán viết về bà bằng lời văn giản dị, mộc mạc nhƣng chan chứa tình cảm. Nó làm ngƣời đọc nhớ đến hình ảnh ngƣời bà trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt. Cũng với nỗi nhớ và tình yêu thƣơng dành cho bà, nhà thơ Bằng Việt đã tái hiện chân dung ngƣời bà tần tảo sớm hôm, chăm lo từng bữa ăn, giấc ngủ cho con cháu qua các câu thơ: “Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu hồng đƣợm Nhóm niềm yêu thƣơng, khoai sắn ngọt bùi Nhóm niềm sôi gạo mới, sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ” (Bếp lửa - Bằng Việt) Đó là hình ảnh các bà mẹ Việt Nam chịu thƣơng, chịu khó, giàu đức hi sinh, là điểm sáng, là tấm gƣơng mẫu mực để con cháu noi theo. Tuy không trực tiếp sống bên bà nhƣ em Lĩnh hay ngƣời cháu trong bài thơ Bếp lửa, nhƣng hình ảnh bà vẫn in đậm trong tâm trí nhà văn bằng nỗi nhớ và tình yêu thƣơng chân thành nhất. Kỉ niệm gắn với bà là kỉ niệm những lần đƣợc nghe bà hát ru, bà kể chuyện hay những lẫn nhổ tóc sâu cho bà Tất cả là quá khứ nhƣng hình ảnh ngƣời bà hiền hậu, vất vả đã trở thành một phần không thể thiếu trong kí ức nhà văn lúc còn thơ bé cho đến tận mai sau. Trong kí ức nhà văn còn là ấn tƣợng sâu đậm về cha. Nếu kí ức về bà nội là những lời ru, những câu chuyện cổ tích nuôi dƣỡng tâm hồn, chắp cánh cho trí tƣởng tƣợng phong phú của cậu bé Duy Khán thì cha lại mang đến những bài học làm ngƣời sâu sắc. Kí ức về cha là kí ức về đôi bàn chân vất vả. Với đôi bàn chân đau nhức đó, cha từng đi khắp nơi và mang về cho các con 21
  27. những món quà bổ ích: “Bố đi chân đất. Bố đi ngang dọc đông tây đâu đâu con không hiểu. Con chỉ thấy ngày nào bố cũng ngâm chân xuống nƣớc, xuống bùn để câu quăng. Bố tất bật đi từ khi sƣơng còn đẫm ngọn cây ngọn cỏ. Khi bố về cũng là lúc cây cỏ đẫm sƣơng đêm” [9, tr.55]. Kí ức về cha còn là những bài học mà cha dạy, cha dạy đọc sách, dạy làm ngƣời: “Làm trai là phải đi, không sợ gì! Phải có chí! Đến đâu cũng học. Gặp ngƣời giỏi hơn mà học. Thù nhà, nợ nƣớc phải biết trả!” [9, tr.222]. Cha là ngƣời đầu tiên kiên quyết cho cậu bé Duy Khán đƣợc ăn học tử tế: “Cả nhà phải dồn cho một đứa học đƣợc. Hàng tháng u mày với thằng Thả gánh gạo lên cho nó. Tôi mang cả cần câu, cả bộ đồ cắt tóc theo nó, nuôi nó. Cả họ cho một đứa học. Thật giỏi, thật cao” [9, tr.207]. Cha cũng là ngƣời ngậm ngùi nhƣng đồng ý cho Duy Khán đƣợc tòng quân khi chƣa đầy mƣời sáu tuổi. Cha ít nói nhƣng khi đã nói thì dứt khoát, quyết liệt. Đằng sau sự nghiêm khắc với những trò nghịch ngợm của anh em Thả và Khán, đằng sau những lời nói dứt khoát là hình ảnh ngƣời cha nhân hậu, có tình thƣơng vô bờ dành cho các con. Anh Thả mất, cha quyết tâm đi tìm và đƣa bằng đƣợc hài cốt của anh về quê hƣơng. Tiễn con lên đƣờng tuyển quân, tuy dứt khoát nhƣng cha không thể che giấu sự ngậm ngùi, đau xót đằng sau đôi mắt và dáng đứng bất động nhìn theo bóng con. Hình ảnh cha lúc đó mãi đƣợc khắc ghi trong tâm trí Duy Khán: “Đôi mắt Ngƣời đỏ lên, gật gật Vƣợt khỏi cánh rừng, đến đồi thông Sơn Ca, tôi đứng lại nhìn. Tôi bất ngờ thấy bóng thầy ở cửa rừng, mờ trong mƣa im nhƣ một pho tƣợng” [9, tr.222]. Đó là một ngƣời cha biết nuôi dƣỡng chí hƣớng trong các con, đồng thời còn là ngƣời cha đầy tình cảm. Cha vừa có nghĩa vừa có tình. Khác với sự nghiêm khắc của cha là sự bao dung của mẹ. Hình ảnh ngƣời mẹ vất vả cùng nỗi đau đớn vì bệnh tật trong những năm tháng đầy khó khăn luôn ám ảnh tâm trí nhà văn: “Đôi vai mẹ thành chai từ bao giờ con 22
  28. không biết. Trên đôi vai ấy ai để chiếc bánh dày vào. Bánh màu nâu sẫm, có lúc nứt ra” [9, tr.56]. Mẹ còn chịu đựng những cơn đau bụng kinh niên hay những lúc nắng mƣa thất thƣờng. Viết về mẹ, nhà văn không thể che giấu giọng điệu ngậm ngùi, xót xa. Những năm tháng sống bên mẹ, kỉ niệm mà Duy Khán nhớ nhất là những lần mấy anh em chờ mẹ đi chợ về. Mẹ về tức là sẽ đƣợc gặp mẹ sau cả ngày vắng mặt, mẹ về sẽ có những thức quà. Điều đó làm anh em Thả và Khán vô cùng vui sƣớng: “U về, u về chúng mày ơi!” [9, tr.63]. Mỗi lần mẹ đi chợ về, mấy anh em chạy ùa ra đón, vây quanh mẹ nhƣ đàn gà con tíu tít. Cảnh tƣợng đó thật ấm áp, bình yên. Cũng nhƣ biết bao ngƣời con khác, Duy Khán luôn ao ƣớc đƣợc sống mãi bên mẹ: “Ƣớc gì u cứ sống mãi để chúng tôi đƣợc reo lên: U về! U về!” [9, tr.66]. Đọc những lời văn giản dị mà chứa đựng tình thƣơng và nỗi nhớ da diết của nhà văn dành cho mẹ, ngƣời đọc không khỏi bồi hồi, xúc động và nhớ đến ngƣời mẹ thân yêu của mình. Trong kí ức Duy Khán, anh Thả là ngƣời anh trai gần gũi và gắn bó với những kỉ niệm tuổi thơ. Cùng với bà nội, bố và mẹ, anh Thả cũng đƣợc tái hiện rõ rệt: “Bàn chân anh Thả không giống bàn chân bố, mà lại y hệt bàn chân mẹ. Nó xòe ra từng ngón. Cứ nhìn dấu chân ở ngõ, ở bãi sắn, tôi đoán đƣợc là chân anh. Bàn chân anh rất mỏng, năm cái xƣơng của năm ngón nổi hẳn lên mu” [9, tr.57]. Tuổi thơ Duy Khán luôn song hành với tuổi thơ anh Thả. Hai anh em cùng đi bắt chim, đi bẫy cò, đi ăn trộm, cùng nhau đi lấy phần trong ngày hội với rất nhiều niềm vui và nỗi buồn đan xen. Tái hiện những kỉ niệm đó, ngƣời đọc nhận ra giọng điệu vui tƣơi, sảng khoái của nhà văn khi kể lại những lần hai anh em nô đùa trong những ngày hè sôi động hay những ngày Tết, ngày hội làng Nhƣng giọng văn ấy chuyển sang giọng buồn thƣơng, đau xót khi Duy Khán nhớ lại sự hi sinh của anh. Anh Thả mất, những năm tháng đƣợc sống bên anh không còn nữa, nhƣng kí ức về anh mãi 23
  29. đƣợc khắc ghi và nằm sâu trong tâm trí Duy Khán. Qua Tuổi thơ im lặng, những kỉ niệm đó đƣợc sống dậy và đầy ắp nỗi nhớ. Trong kí ức nhà văn còn có em Bảng, ngƣời em gái nhỏ nhất của gia đình. Tuổi thơ Bảng cũng gắn liền tuổi thơ anh Thả và Khán, cũng đƣợc trải nghiệm và chứng kiến những đau thƣơng, mất mát của gia đình và quê hƣơng. Nhớ em Bảng, nhà văn nhớ nhất giọng hát véo von và hồn nhiên của em: “Con cò là con cò kì. Ăn cơm nhà dì uống nƣớc nhà cô” [9, tr.61]. Có thể thấy, những lam lũ, vất vả của ngƣời thân trong gia đình đƣợc Duy Khán tái hiện chân thực và đầy cảm xúc qua hồi kí Tuổi thơ im lặng. 2.2. Kí ức về cảnh sắc thiên nhiên làng quê Trong hoài niệm tuổi thơ của Duy Khán, những kỉ niệm tuổi thơ gắn liền với thiên nhiên làng quê Bắc Ninh. Đó là thiên nhiên có sự đa dạng của cảnh vật và sự phong phú của các loài động thực vật. Tất cả thể hiện đặc trƣng của nhiên nhiên làng quê Bắc Bộ. Kí ức của Duy Khán về thiên nhiên làng quê là ấn tƣợng về những dãy núi, những cánh rừng, con sông, con suối. Đây là những nơi vui chơi, nô đùa trong những năm tháng tuổi thơ của nhà văn. Ngôi làng Duy Khán đƣợc sinh ra nằm giữa một ngọn núi có tên là núi Dạm. Núi ấy còn mang các tên gọi khác nhƣ núi Của Tiên, núi Cột Cờ, núi Bà Còm Trong tƣởng tƣợng ngây thơ của cậu bé Khán, núi Dạm có nhiều hình dáng khác nhau: “Đứng ở chỏm núi cao nhất nhìn xuống, núi hoàn toàn là một con rồng” [9, tr.14]. “Ở xa xa nhƣ núi Và nhìn vào, từ Lim nhìn tới, ở Nhồi, ở Ó nhìn sang, núi lại biến thành ngƣời đàn bà nằm ngửa” [9, tr.15]. Núi Dạm là ngọn núi linh thiêng gắn với nhiều giai thoại. Đó là câu chuyện về tƣớng Cao Biền đánh quân Nam Chiếu, chuyện về các cô tiên đánh cờ trên đỉnh núi vào đêm rằm, chuyện về bà Còm Những giai thoại này đã chắp cánh cho trí tƣởng tƣợng của cậu bé Khán, đồng thời mang lại niềm tin yêu, tự hào về ngọn núi gần gũi, quen thuộc với tuổi thơ. 24
  30. Ngoài núi Dạm còn có núi Và, núi Lãm Dƣơng, núi Thiên Thai, núi Nam Sơn, núi Chè Núi gắn liền với tuổi thơ Duy Khán và gắn với cuộc sống ngƣời dân làng quê. Lúc nhỏ, Duy Khán từng leo lên đỉnh núi, từng lên núi lấy cỏ, từng theo thầy lên núi thắp hƣơng đền Bắc Đẩu Nƣớc từ núi chảy xuống các con suối, là nơi trẻ con thỏa thích tắm mát, vui đùa. Núi còn chở che, bao bọc con ngƣời trong những trận hồng thủy. Trong kí ức nhà văn về thiên nhiên làng quê, núi là địa hình đƣợc nhắc đến nhiều nhất. Ngoài các dãy núi, làng quê còn có những bãi đất bằng mà tiêu biểu là Cổng chùa: “Ấy là bãi đất bằng, toàn cát. Các ngõ đều qua đây mới ra đồng. Cạnh đó là cái ao. Mùa mƣa nƣớc đầy đỏ ngàu màu đất sét” [9, tr.24]. Cổng chùa gắn bó với cuộc sống của ngƣời dân xóm Trại. Đây là nơi nghỉ chân của dân làng trong những buổi trƣa hè nóng bức, là nơi vui đùa của lũ trẻ, nơi diễn ra các cuộc hát đối đáp nam nữ đến tận đêm khuya. Ngày xa làng quê, cổng chùa cũng là nơi cuối cùng đƣa tiễn Duy Khán bƣớc đi những bƣớc đầu tiên trên đƣờng đời của mình. Cùng với núi, đồng bằng, thiên nhiên làng quê của nhà văn còn đa dạng bởi sự có mặt của các cánh rừng, các con sông, con suối. Đó là những khu rừng thiêng liêng và đầy bí ẩn trong tâm trí non nớt của cậu bé Khán: Rừng Đống Ngấn, rừng Đống Tháp, rừng Đống Quốc. Mỗi khu rừng đều thờ các vị thần khác nhau. Bên cạnh những khu rừng, là những con sông quê. Sông là nơi dân làng đánh cá, là nơi tắm mát, nơi diễn ra các hội tát nƣớc và ca hát suốt những đêm trăng Sự phong phú, đa dạng của thiên nhiên đã góp phần làm nên những kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ và để lại những dấu ấn khó phai trong lòng nhà văn. Thiên nhiên làng quê cậu bé Duy Khán còn vô số các loài động - thực vật. Mùa hè đến, cây cối xanh tƣơi, muôn loài ong bƣớm đua nhau hút nhụy. Ở dƣới đất, các loài hoa đua sắc thắm, tỏa hƣơng ngào ngạt: “Cây hoa lan nở 25
  31. trắng xóa. Hoa dẻ từng chùm mảnh dẻ. Hoa móng rồng bụ bẫm thơm nhƣ mùi mít chín ở góc vƣờn ông Tuyên” [9, tr.32]. Trên cao các loài chim cũng đua nhau hót ríu rít, ve sầu kêu râm ran, hợp thành dàn âm thanh vô cùng sôi động, vui tƣơi. Tất cả mang đến một không gian đa dạng âm thanh, màu sắc và tràn ngập sức sống. Trong không gian đó, những đứa trẻ nhƣ anh em Thả và Khán đƣợc vui chơi thỏa thích, đƣợc tha hồ ngắm nhìn từng cử động và trạng thái của muôn loài. Bữa cơm gia đình trong những ngày hè cũng vì thế mà vui vẻ và hạnh phúc hơn: “Cả nhà ngồi ăn cơm trong hƣơng lúa đầu mùa từ đồng Chõ thoảng về; trong tiếng sáo diều cao vút của chú Chàng; trong dàn nhạc ve; trong tiếng chó thủng thẳng sủa giăng ” [9, tr.40]. Nếu đƣợc sinh ra và lớn lên ở các làng quê Bắc Bộ thì chắc hẳn chúng ta cũng từng đƣợc cảm nhận những bữa cơm nhƣ thế! Nhƣ vậy, kí ức về cảnh sắc thiên nhiên trong Tuổi thơ im lặng chính là kí ức của Duy Khán về mảnh đất quê hƣơng - nơi chôn nhau cắt rốn, nơi nuôi dƣỡng và để lại trong ông những kỉ niệm đẹp đẽ nhất trong mƣời lăm năm tuổi thơ. Kí ức này của Duy Khán giúp ngƣời đọc cảm nhận đƣợc vẻ đẹp đặc trƣng của thiên nhiên làng quê Bắc Bộ. 2.3. Kí ức về phong tục của một làng quê giàu bản sắc văn hóa Bắc Ninh thuộc xứ Kinh Bắc, vốn là cái nôi văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam. Nơi đây lƣu giữ những công trình văn hóa vật chất và những nét đẹp tinh thần mà đến ngày nay ngƣời Việt vẫn tự hào. Là một ngƣời con của làng quê Bắc Ninh, trong hoài niệm của Duy Khán không thể thiếu vắng những phong tục đẹp đẽ của quê hƣơng, xứ sở. Những phong tục truyền thống của làng quê Bắc Ninh đƣợc Duy Khán tái hiện qua một số mẩu chuyện trong hồi kí. Đó là phong tục trong ngày Tết và ngày hội. Tất cả đều diễn ra vào mùa xuân. Bức tranh làng quê trong ngày Tết đƣợc nhà văn tái hiện qua âm thanh vô cùng vui nhộn, khuấy động khắp 26
  32. không gian: “Tờ mờ sớm mồng Một, tiếng guốc sơn “các côông” ròn trên các sân gạch. Tiếng pháo ran xóm Đông, mùi thơm nhập vào mùi thuốc pháo xóm Tây, phả sang xóm Trại, ngây ngất. Xóm Trại gần nhƣ im tiếng. Chỉ có chú Chàng đốt một bánh mà thôi. Rạch tạch đùm ” [9, tr.81]. Hòa cùng âm thanh vui tai của tiếng pháo là hình ảnh vui tƣơi của con ngƣời: “Kẻ đi giầy, ngƣời đi guốc, ngƣời đi dép da trâu, ngƣời đi đất. Áo cánh gián. Áo trắng. Áo nâu non. Quần láng, váy lĩnh, áo the, khăn xếp Con giai lớn tuổi mặt hồng vì rƣợu. Con gái vì giầu cay, môi đỏ nhƣ son, đỏng đà đỏng đảnh” [9, tr.81- 82]. Sau những ngày Tết chính, một số gia đình ở làng quê Bắc Ninh còn có tục ăn Tết lại, đó là Tết hạ cây nêu. Họ lại gói bánh chƣng và vui chơi ăn uống nhƣ những ngày Tết chính. Bằng nghệ thuật miêu tả sắc nét, qua bức tranh ngày Tết ở làng quê nhà văn, ngƣời đọc đƣợc cảm nhận không khí đón Tết vui tƣơi và hiểu biết thêm một số phong tục truyền thống ở làng quê Kinh Bắc - nơi lƣu giữ nhiều giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh ngày Tết, ngày hội ở quê hƣơng Duy Khán cũng đa dạng và giàu bản sắc văn hóa. Đến với hội làng ở làng quê nhà văn, ngƣời đọc nhƣ đƣợc mở rộng tầm mắt để chiêm ngƣỡng những nét đẹp văn hóa lâu đời của ngƣời dân Kinh Bắc. Kể về ngày hội làng, Duy Khán nhƣ đang giới thiệu không khí vui tƣơi cùng bao phong tục truyền thống của quê mình. Sau Tết độ hơn chục ngày, làng bƣớc vào những ngày hội. Hội làng còn đông vui, nhộn nhịp hơn nhiều những ngày Tết: “Ngày đình đám ập đến nhƣ một giấc mơ. Cờ thần cờ thánh óng a óng ánh, tua múa quanh cờ, rợp sân đình” [9, tr.85]. Trên sân đình: “Hai hàng vệ sĩ hệt hai hàng tốt xanh tốt đỏ. Các anh khoác những chiếc áo lậu cao tiền Trống và chiêng treo trên hai giá đỏ cuối hai hàng vệ sĩ. Hai anh lực điền thắt lƣng nhiễu điều cầm lăm lăm hai cái dùi bằng gốc cây dứa dại to xù. Các anh bắt đầu vung tay nện thẳng cánh. Tùng, bu, tùng, bu ba hồi. Cả làng gần xa, ai cũng chạy tất tƣởi về đình” [9, 27
  33. tr.85]. Hội làng đƣợc bắt đầu bằng nghi thức tế lễ, thƣờng do những ngƣời cao tuổi đảm nhiệm: “Cụ chánh hội mặt đỏ, râu trắng dài nhƣ tiên ông, qùy giữa chiếu hoa. Trang văn tế óng ánh nhƣ lụa. Cụ nâng trang văn, giọng văn tế sang sảng dội vào cung, lan ra sân đình” [9, tr.85]. Đây là nghi thức trong ngày hội làng ở làng quê Bắc Bộ. Nghi thức này thể hiện sự tƣởng nhớ của con cháu tới Tổ tiên và ƣớc mong sự phù trợ, chở che của Tổ tiên. Ở nhiều làng quê Bắc Bộ còn có nghi thức rƣớc tƣợng Thánh đi quanh làng. Nghi thức đó hiện nay vẫn còn tồn tại. Sau khi kết thúc phần nghi thức trang nghiêm và trọng đại, ngƣời dân tiến hành phân phát, chia nhau các đồ ăn, thức uống đƣợc gọi là lộc Thánh ban. Đây cũng là tục lệ lâu đời và quen thuộc ở các làng quê xƣa. Tuy nhiên tập tục này cũng nảy sinh những tranh chấp, bất đồng không đáng có. Viết về những tiêu cực này, ngòi bút của nhà văn Duy Khán đã không ngần ngại chỉ ra những thói hƣ, tật xấu của nhân dân. Tập tục chia phần cũng gợi lại trong tâm trí nhà văn những kỉ niệm khó phai. Đó là kỉ niệm cùng anh Thả đi lấy phần, hai anh em vì đói quá mà trốn vào bụi tre ăn vụng: “Tôi ăn miếng nhỏ, đút thọt lỏm vào mồm. Anh ăn miếng rõ to, bị nghẹn đỏ mặt tía tai. Môi anh nhờn ra” [9, tr.88]. Tiếp sau phần lễ, phần chia lộc Thánh là phần hội với các trò chơi dân gian nhƣ đấu vật, đánh đu, xem hát chèo Những trò chơi diễn ra trong không gian dân làng quây thành vòng tròn, với âm thanh của tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng hò hét, tiếng cƣời nói rộn vang. Hội làng kéo dài ba ngày ba đêm, ngƣời ngƣời đƣợc ăn no, mặc đẹp, đƣợc vui chơi. Trâu bò cũng đƣợc ăn hội trong chuồng. Có thể nói, hội làng là ngày kết nối giữa Tổ tiên với con cháu, giữa quá khứ và hiện tại, góp phần nuôi dƣỡng tâm hồn con ngƣời và bảo lƣu những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Hội làng ở làng quê nhà văn cũng nhƣ các làng quê khác đều mang đặc trƣng của nền văn hóa nông nghiệp. Nó đã trở thành một sinh hoạt văn hóa không thể thiếu trong đời sống ngƣời dân quê. 28
  34. Qua những trang văn về ngày Tết, ngày hội ở làng quê Bắc Ninh, ngƣời đọc có đƣợc cảm nhận đầy ấn tƣợng về các phong tục của quê hƣơng Duy Khán, đồng thời hiểu biết thêm về truyền thống văn hóa của làng quê Việt Nam ngày trƣớc. 2.4. Kí ức về những năm tháng nhọc nhằn của đất nƣớc Hồi kí Tuổi thơ im lặng tái hiện bối cảnh nƣớc ta từ những năm trƣớc Cách mạng tháng Tám đến những năm diễn ra cuộc kháng chiến chống Pháp. Có thể nói, đó là khoảng thời gian tăm tối nhất trong lịch sử dân tộc. Trƣớc Cách mạng tháng Tám, nhân dân ta chịu hai tầng áp bức của Pháp và Nhật. Chúng ra sức đàn áp cách mạng, cai trị về mọi mặt, bóc lột kiệt quệ về kinh tế, đẩy nhân dân ta vào bƣớc đƣờng cùng mà đỉnh cao là nạn đói năm Ất Dậu 1945 - nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử dân tộc. Sau khi giành lại chính quyền, nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, nhân dân ta bƣớc vào cuộc sống mới với tƣ cách ngƣời làm chủ đất nƣớc. Nhƣng lúc này vận mệnh nƣớc ta lại trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Thù trong, giặc ngoài, chính quyền non yếu, kinh tế kiệt quệ, ngân khố trống rỗng Tất cả khó khăn cùng lúc đe dọa vận mệnh dân tộc. Tái hiện những kỉ niệm tuổi thơ trong bối cảnh đất nƣớc đầy biến động, hồi kí Tuổi thơ im lặng đã mang lại bức tranh chân thực về những năm tháng nhọc nhằn của đất nƣớc. Trong bức tranh đó, những cảnh, những ngƣời là có thật, bản thân nhà văn cũng trải nghiệm khoảng thời gian ấy. Nỗi khó khăn, nhọc nhằn của đất nƣớc đã in hằn trên cuộc sống của nhân dân qua hình ảnh ngƣời bà, hình ảnh cha mẹ, những ngƣời thân, ngƣời làng xóm xung quanh và chính bản thân nhà văn lúc đó. Trong kí ức Duy Khán, ngƣời bà, ngƣời mẹ là những ngƣời phụ nữ thân yêu và gần gũi nhất. Họ phải gánh chịu cái đói nghèo, cái vất vả trên đôi vai của mình. Vai bà mỏng manh. Vai mẹ bé nhỏ, xƣơng xẩu và đã chai lại. Nhƣng đói nghèo không thể che lấp 29
  35. bản chất tốt đẹp của những ngƣời phụ nữ ấy, mà nó càng ngời sáng. Đó là sự trung hậu, đảm đang, đức hi sinh, giàu tình yêu thƣơng và lòng bao dung. Đôi chân của bố, đôi chân anh Thả là dấu ấn của những năm tháng khó nhọc. Bố đi ngang dọc đông tây, đi từ sƣơng sớm đến đêm khuya, vƣợt đƣờng rừng hàng bao cây số để tới nơi con trọ học với đôi bàn chân đau nhức. Đêm về đôi bàn chân ấy lại hành hạ bố. Đôi chân anh Thả thì mỏng và nẻ chằng chịt khi mùa hanh về nhƣng nó hết leo núi lại lội đồng. Đi đánh giặc, đôi bàn chân ấy coi thƣờng cả chông gai Hình ảnh bà nội, hình ảnh bố mẹ, anh Thả là hiện thân của những đói nghèo, lam lũ, vất vả đời thƣờng trong những năm tháng khó nhọc của đất nƣớc dƣới sự đàn áp, bóc lột của Pháp và Nhật. Trong những năm tháng ấy, cái nghèo đói đƣợc phản ánh rõ nhất qua bữa cơm của mỗi gia đình. Cơm trộn rau má, cơm trộn thân cây đu đủ, cơm củ chuối nhƣng mọi ngƣời vẫn ăn ngon lành. Cái nghèo đói còn buộc anh em Thƣ, Thả, Khán phải đi làm con nuôi cho nhà giàu. Tuy đƣợc ăn ngon, mặc đẹp ở nhà giàu nhƣng những bữa cơm gia đình đông đủ các thành viên vẫn là điều nhà văn nhớ đến nhất. Trong kí ức nhà văn, những năm tháng nhọc nhằn của đất nƣớc còn phản ánh qua cuộc đời của những ngƣời bạn, ngƣời làng xóm xung quanh. Chị Xuyên, cái Gái chết vì bệnh tả, bệnh kiết, Dị vì ăn thịt trâu toi mà chết, chị Ngoãn tự tử ở sông Vân, bà Sứt chết đuối Cái bãi tha ma hàng trăm mộ ngay sát đƣờng cái quan, hàng trăm ngƣời chết. Cuộc sống làng quê khi ánh sáng cách mạng chƣa tới thật xám xịt, u uất. Bản thân Duy Khán và hai anh của mình cũng đã từng làm con nuôi, đi ở đợ; từng lớn lên từ chiếc chăn có hàng trăm mảnh vá và những nồi cơm xanh, một hạt cơm cõng bao rau má. Trong Tuổi thơ im lặng, ngƣời đọc cũng bắt gặp hình ảnh đoàn ngƣời tha phƣơng cầu thực: “Đầy giời mây đen xì. Từng đàn ngƣời bóng cũng đen ngòm, xiêu vẹo, bồng bế nhau qua đƣờng cái quan. Có bóng bồng con ngã vật 30
  36. xuống. Có ngƣời đã chết cứng, hở xƣơng vè, bụng bẹp gí. Có em bé còn thoi thóp, tay vẫn để ngực mẹ” [9, tr.159]. Hình ảnh này cũng xuất hiện trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân: “Những gia đình từ vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lƣợt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám nhƣ những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lếu chợ” [10, tr.196]. Tất cả những con ngƣời đó đều bất hạnh, là nạn nhân của sự cai trị, bóc lột tàn bạo của kẻ thù. Họ hiện lên trong hồi kí bằng tình cảm chân thành, niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn. Viết về những con ngƣời đó, mỗi trang văn trong Tuổi thơ im lặng nhƣ những tiếng thở dài đầy đau xót của nhà văn trƣớc số phận con ngƣời và hiện thực đất nƣớc lúc bấy giờ. Hình ảnh đất nƣớc trong những năm tháng tuổi thơ của nhà văn không chỉ đói khổ, nhọc nhằn do kẻ thù gây ra mà còn do thiên tai mang lại. Đó là cơn hồng thủy khủng khiếp xảy ra hằng năm vào tháng bảy, tháng tám. Trong kí ức nhà văn, cơn hồng thủy xảy ra thật đáng sợ: “thùng thùng thùng tiếng trống ấy lại nổi lên từ làng xa xóm gần Nƣớc ngập trắng đồng. Lúa má mất sạch”[9, tr.188]. Hình ảnh ngƣời chết đuối cùng âm thanh của tiếng trống, tiếng kêu cứu, tiếng khóc ríu vào nhau, tạo nên một không gian đầy đau thƣơng và sợ hãi. Sau trận lũ, số ngƣời chết lại nhiều hơn, ngƣời dân đã nghèo lại càng nghèo hơn. Tuổi thơ nhà văn đã nhiều lần chứng kiến những cơn hồng thủy đáng sợ đó. Trong những năm tháng nhọc nhằn của đất nƣớc, nhân dân ta không những nghèo đói, cùng cực mà còn phải gánh chịu những đau thƣơng, mất mát do sự tàn phá của kẻ thù. Cách mạng tháng Tám thành công, nƣớc ta giành lại độc lập từ tay Pháp và Nhật. Nhƣng sau đó, thực dân Pháp vẫn trắng trợn trở lại xâm lƣợc nƣớc ta một lần nữa. Chúng cho máy bay đi càn quét, bắn giết nhân dân. Ngay cả trong mồng hai tết, bữa cơm của các gia đình cũng bị chúng phá vỡ: “Giữa mồng hai Tết. Đúng tầm nhà nhà bày cỗ, những 31
  37. chiếc máy bay bà già bay sát ngọn tre. Những chiếc dù bung ra. Một lát làng Và đã bốc cháy, súng nổ điên loạn” [9, tr.210]. Trong những cuộc càn quét dã man đó, ngƣời mẹ thân yêu của Duy Khán đã ra đi mãi mãi. Nƣớc mất thì nhà tan. Anh Thả vào du kích, rồi cũng bị địch sát hại. Đó là những nỗi đau không gì bù đắp đƣợc. Còn lại cha, anh Thƣ, Duy Khán lúc đó và các em nhƣng cha con cũng lƣu lạc mỗi ngƣời một nơi. Lớp lớp bạn bè rời ghế nhà trƣờng, sẵn sàng chiến đấu vì Tổ Quốc. Duy Khán cũng vậy. Anh kết thúc mƣời lăm năm tuổi thơ đầy kỉ niệm, xen lẫn buồn vui và nƣớc mắt để ra đi cứu nƣớc, tiếp tục hành trình hai mƣơi bảy năm cầm súng chiến đấu. Mƣời lăm tuổi, chiếc bị cói, bộ quần áo nâu, đôi dép trắng “con hổ”, chiếc gậy cây rừng theo Duy Khán lên đƣờng tòng quân, cùng lớp lớp kí ức về một “tuổi thơ im lặng”. Những kí ức về ngƣời thân, những kỉ niệm tuổi thơ đầy dữ dội trong những năm tháng khó nhọc của đất nƣớc là hành trang anh mang theo mình trên mọi nẻo đƣờng. Qua kí ức về những năm tháng nhọc nhằn của đất nƣớc, Duy Khán đã phản ảnh bức tranh cuộc sống đầy khó nhọc và đau thƣơng của nhân dân ta trong những năm 30, 40 của thế kỉ XX, đồng thời tố cáo tội ác của kẻ thù đối với dân tộc. Với lời văn dung dị, đời thƣờng, hồi kí Tuổi thơ im lặng không chỉ có giá trị hiện thực mà còn chứa chan cảm xúc của nhà văn về những kỉ niệm tuổi thơ đáng nhớ trong cuộc đời. 32
  38. TIỂU KẾT Hồi kí Tuổi thơ im lặng đánh dấu bƣớc ngoặt lớn trên chặng đƣờng sáng tác của nhà văn Duy Khán: “Đang từ một ngƣời làm thơ, Duy Khán chuyển sang văn xuôi. Đang từ một ngƣời dễ dãi chạy theo các đề tài thời sự, Duy Khác trở lại với cái phần kí ức tuổi thơ nằm sâu và đã trở nên bền chặt trong tâm trí”(Vƣơng Trí Nhàn). Không phải ngẫu nhiên nhà văn có sự chuyển hƣớng quan trọng đó. Chính sự mong mỏi đầy nhiệt tình của các con đã cho ông nguồn cảm hứng lớn lao để viết lại những kỉ niệm tuổi thơ trong mƣời lăm năm của cuộc đời mình, và quan trọng hơn đó là sự gắn bó sâu nặng, tình cảm chân thành mà nhà văn dành cho quê hƣơng xứ sở. Điều đó đã làm nên hồi kí Tuổi thơ im lặng, một “đứa con ngoài kế hoạch” nhƣng là tâm huyết của nhà văn. Xuyên suốt hồi kí, ngƣời đọc nhận thấy ẩn sau các câu chuyện tuổi thơ là chân dung tác giả - một ngƣời con nặng tình với quê hƣơng. Tuổi thơ im lặng tái hiện những kỉ niệm tuổi thơ của Duy Khán trong thời gian sống bên những ngƣời thân yêu. Đó còn là kỉ niệm gắn với những đồ vật, con vật, cây cối trong nhà; kỉ niệm gắn với những ngƣời bạn, ngƣời làng xóm xung quanh, gắn với thiên nhiên làng quê Bắc Ninh. Tất cả đƣợc ngƣời đọc lật giở qua từng trang hồi tƣởng, từ đó nhận ra sự gắn bó sâu nặng và tình cảm chân thành của nhà văn dành cho con ngƣời và mảnh đất quê hƣơng. Viết về những ngƣời thân yêu trong gia đình, với lời văn giản dị, mộc mạc và giàu cảm xúc, Duy Khán đã tái hiện chân thực những vất vả, nhọc nhằn của bà nội, của cha mẹ và các anh em trong nhà. Qua đó, ngƣời đọc thấy đƣợc tình yêu thƣơng, sự kính trọng của nhà văn dành cho họ. Những năm tháng đƣợc sống bên bà nội, bên cha mẹ và anh em trong nhà là những năm tháng nhà văn nhận đƣợc tình yêu thƣơng và dạy bảo chu đáo nhất. Không chỉ 33
  39. những ngƣời thân trong gia đình, với những ngƣời bạn, ngƣời láng giềng, nhà văn cũng dành tình cảm chân thành, sự đồng cảm và xót thƣơng. Đó là những ngƣời bạn tuổi thơ nhƣ: thằng Dị, cô Phan ; những ngƣời làng xóm nhƣ: bà Chùa, chú Ất, ông Cả Kiến Tất cả đều in đậm trong kí ức nhà văn. Mỗi trang văn viết về những cuộc đời bất hạnh nhƣ những tiếng thở dài đầy đau xót của Duy Khán về số phận con ngƣời và hiện thực lúc bấy giờ. Là con ngƣời giàu tình cảm, cậu bé Khán còn nặng tình với những đồ vật, con vật, cây cối trong những năm tháng tuổi thơ của mình. Đó là cây mít, cây na, cây đu đủ; là những con vật nhƣ con chó Vện, con mèo đen; là “những đồ dùng biết nói” nhƣ cái cối, cái chăn Những sự vật đó đƣợc Duy Khán nhắc tới với nỗi nhớ cùng sự biết ơn, trân trọng. Bằng lời văn giản dị, chân thành, nhà văn đã làm cho những sự vật gắn bó với tuổi thơ đƣợc hiện lên nhƣ chính cuộc đời, số phận bất hạnh của con ngƣời trong những năm tháng nhọc nhằn của đất nƣớc. Gắn bó sâu nặng với con ngƣời, với các sự vật trong tuổi thơ, cậu bé Khán cũng đồng thời gắn bó với những cảnh vật thân thuộc của thiên nhiên làng quê Bắc Ninh. Thiên nhiên nhƣ ngƣời mẹ, ngƣời bạn thứ hai của nhà văn. Không phải ngẫu nhiên mà chuyện đầu tiên trong Tuổi thơ im lặng, nhà văn lại viết về phong cảnh làng quê, với những dãy núi, những cánh rừng. Đó là nỗi nhớ đầu tiên đƣợc nhắc đến trong hồi kí. Thiên nhiên làng quê là nơi vui chơi, nơi chở che con ngƣời trƣớc những sóng gió của thiên tai. Tất cả đều đƣợc nhà văn tái hiện trong hồi kí với nỗi nhớ da diết. Phải có một tình yêu sâu sắc đối với con ngƣời và mảnh đất mình sinh sống đến nhƣờng nào, nhà văn mới có thể tái hiện lên từng trang viết của mình những hình ảnh về con ngƣời, về làng quê đẹp và xúc động đến vậy. Qua Tuổi thơ im lặng, Duy Khán không phải đang kể, đang tả về tuổi thơ của mình mà dƣờng nhƣ ông đang sống với từng giây phút của kỉ niệm, kỉ niệm về tuổi thơ, về làng quê thân thƣơng. 34
  40. Nhƣ vậy, hoài niệm tuổi thơ của Duy Khán là kí ức về gia đình, làng quê, về những đau thƣơng, mất mát của dân tộc trong mƣời lăm năm tuổi thơ của nhà văn. Những kí ức đó có niềm vui xen lẫn nỗi buồn, nụ cƣời đan cài nƣớc mắt, lúc thăng pha lẫn lúc trầm. Nó từng đốt cháy tấm lòng nhà văn, là niềm thƣơng nhớ khôn nguôi ông mang trong tâm trí suốt những năm tháng cầm súng chiến đấu đến hết cuộc đời. Tất cả đƣợc tái hiện chân thực qua hồi kí Tuổi thơ im lặng. Điều đáng nói ở chỗ, Tuổi thơ im lặng không nằm trong nhiệm vụ sáng tác của Duy Khán. Tác phẩm đƣợc “thai nghén” từ sự mong đợi nhiệt tình của các con và nỗi nhớ tuổi thơ khôn nguôi luôn thƣờng trực trong tâm trí nhà văn. Những điều hết sức tự nhiên nhƣng vô cùng thiêng liêng đó đã làm nên Tuổi thơ im lặng, cuốn sách nhỏ bé nhƣng mang tâm huyết lớn của Duy Khán. Và chính “đứa con ngoài kế hoạch” này đã mang lại cho nhà văn niềm vinh dự với giải thƣờng của hội Nhà Văn năm 1987, đánh dấu thành công trong sự nghiệp sáng tác của ông. Tên khai sinh của hồi kí là Tuổi thơ im lặng, nhƣng nó có thực sự lặng im? Phân tích hoài niệm tuổi thơ của Duy Khán trong hồi kí, ngƣời đọc có thể suy luận rằng Tuổi thơ im lặng là cách nói của nhà văn về quãng thời gian tuổi thơ đã đi qua, nó mãi mãi không trở lại nhƣng đƣợc nằm im và bền chặt trong tâm trí nhà văn. Không nên suy luận Tuổi thơ im lặng là một tuổi thơ bình yên, lặng lẽ, không có bất kì sóng gió nào. Nhan đề hồi kí dễ gây hiểu lầm cho ngƣời đọc, chỉ khi tìm hiểu tác phẩm, chúng ta mới thấu rõ. 35
  41. Chƣơng 3. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN HOÀI NIỆM TUỔI THƠ TRONG TUỔI THƠ IM LẶNG CỦA DUY KHÁN Trong các tác phẩm văn học, hai phƣơng diện nội dung và hình thức có mối quan hệ chặt chẽ và hài hòa với nhau, trong đó nội dung có tính chất quyết định tới sự thể hiện của hình thức. Hồi kí Tuổi thơ im lặng cũng không nằm ngoài quy luật này. Những câu chuyện tuổi thơ gần gũi và bình dị trong Tuổi thơ im lặng đã quyết định tới những đặc điểm nghệ thuật đƣợc thể hiện trong tác phẩm. 3.1. Nghệ thuật kể chuyện Tuổi thơ im lặng là hồi kí kể về những câu chuyện tuổi thơ của Duy Khán. Vì vậy, phƣơng diện nghệ thuật đầu tiên không thể không nhắc tới trong hồi kí là nghệ thuật kể chuyện. Những kỉ niệm trong Tuổi thơ im lặng đƣợc Duy Khán kể lại bằng ngôi thứ nhất xƣng tôi. Cũng có những chỗ nhà văn xƣng chúng tôi để chỉ bản thân mình với các anh em trong nhà hay chỉ mình với những ngƣời bạn. Những câu chuyện đƣợc kể đều gắn bó với tuổi thơ nhà văn, có nhiều chuyện nhà văn là nhân vật chính, cũng có nhiều chuyện nhà văn chỉ là ngƣời tham dự hoặc chứng kiến. Do đó, việc lựa chọn ngôi kể thứ nhất giúp những câu chuyện đƣợc hiện lên chân thực, khách quan nhờ chính trải nghiệm của ngƣời trong cuộc. Chẳng hạn, câu chuyện về ngƣời thân trong gia đình, câu chuyện về những ngƣời làng xóm đƣợc Duy Khán kể lại với tƣ cách ngƣời từng gắn bó, từng có kỉ niệm với nhân vật trong chuyện. Vì vậy, những câu chuyện này đƣợc tái hiện một cách chính xác, chân thực, khách quan. Những câu chuyện về thiên nhiên làng quê cũng đƣợc nhà văn kể lại bằng trải nghiệm, sự quan sát tinh tế, giúp ngƣời đọc có đƣợc những hình dung cụ thể về bức tranh thiên nhiên làng quê Bắc Ninh. Trong Tuổi thơ im lặng chỉ có một số ít những câu chuyện nhà văn trực 36
  42. tiếp kể về mình hoặc chỉ có duy nhất mình trong chuyện. Ví dụ: Đôi mắt, Bị bắt. Các câu chuyện trong hồi kí còn đƣợc kể theo một trình tự thời gian và trình tự cảm xúc nhất định. Từ khoảng thời gian nhà văn sống bên ngƣời thân đến khi nhà văn rời làng quê đi học xa rồi đến tuổi mƣời lăm - tuổi nhập ngũ, đi giết quân thù. Từ tình cảm dành cho quê hƣơng, nơi chôn nhau cắt rốn đến tình cảm đối với những ngƣời thân trong gia đình, kế tiếp là những ngƣời bạn, ngƣời làng xóm. Cách kể chuyện nhƣ vậy giúp ngƣời đọc nắm bắt những dấu mốc quan trọng trong mƣời lăm năm tuổi thơ của nhà văn cũng nhƣ những biến cố thăng trầm của tình hình đất nƣớc lúc bây giờ. Các câu chuyện cũng nhờ thế mà trở nên khách quan và chân thực hơn. Bên cạnh tính khách quan, chân thực, cách kể chuyện của nhà văn còn có sự tự nhiên, hấp dẫn thể hiện ở việc mở đầu các câu chuyện. Không công phu, rƣờm rà, các chuyện trong Tuổi thơ im lặng đều đƣợc mở đầu trực tiếp, ngắn gọn. Ví dụ ở chuyện Thế đất: “Đứng ở chỏm núi cao nhất nhìn xuống núi hoàn toàn là một con rồng. Gọi chung là núi Dạm. Làng tôi ở giữa núi nên gọi Sơn Trung hay Dạm Giữa. Tên Dạm hình nhƣ thuộc về tình yêu” [9, tr.14]. Cách giới thiệu này rất tự nhiên, thu hút ngay sự chú ý của ngƣời đọc. Với cách mở đầu nhƣ vậy, các câu chuyện tuy đƣợc sắp xếp theo trình tự thời gian nhƣng vẫn tự nhiên nhƣ chính những suy tƣởng miên man, không trình tự của tâm trí. Tính tự nhiên trong cách kể chuyện còn thể hiện ở sự đan xen nhịp nhàng giữa lời kể của nhà văn với lời đối thoại của nhân vật, khiến câu chuyện không tẻ nhạt, nhàm chán mà hết sức sinh động. Qua đối thoại, những trạng thái cảm xúc và tính cách của nhân vật đƣợc bộc lộ. Từ đó, ngƣời đọc có đƣợc cảm nhận khách quan về bản chất của nhân vật mà không cần dùng lời kể trực tiếp. Một điểm đáng chú ý nữa trong nghệ thuật kể chuyện của hồi kí là nhịp điệu kể chuyện. Các câu chuyện đƣợc kể là những kỉ niệm tuổi thơ dữ dội của 37
  43. nhà văn. Nó đan xen buồn - vui, nụ cƣời và nƣớc mắt. Để thể hiện những cung bậc cảm xúc khác nhau đó, Duy Khán đã sử dụng một nhịp điệu kể chuyện có sự đa dạng, hài hòa giữa nhanh và chậm, khỏe khoắn với khoan thai, từ tốn, phù hợp với nội dung thể hiện. Chẳng hạn, khi kể về những ngƣời thân, ngƣời làng xóm bất hạnh, chúng ta nhận ra giọng điệu từ tốn, khoan thai nhƣ những lời tâm sự, thủ thỉ. Ví dụ khi kể về ngƣời bà: “Tôi ngẩng cao đầu mới thấy tuổi của bà; chứ cứ nhìn bà chặt củi, nhổ sắn, nhìn bà đứng, bà đi thì không ai biết bà đã gần bảy mƣơi. Bà làm nhanh, đi nhanh, lƣng thẳng. Bà không hút thuốc lào nhƣ u tôi, không ăn giầu” [9, tr.44]. Những chuyện về ngày Tết, ngày hội làng, hay kể về bức tranh thiên nhiên sôi động trong các chuyện Lao xao, Cái cò, cái vạc, cái nông thì nhịp điệu lại nhanh, mang cảm xúc vui tƣơi, phấn khởi. Ví dụ khi kể về bức tranh ngày hè trong chuyện Lao xao: “Giời chớm hè. Cây cối um tùm. Cả làng thơm. Cây hoa lan nở hoa trắng xóa. Hoa dẻ từng chùm mảnh dẻ. Hoa móng rồng bụ bẫm thơm nhƣ mùi mít chín ở góc vƣờn ông Tuyên. Ong vàng, ong vò vẽ, ong mật đánh lộn nhau để hút mật ở hoa. Chúng đuổi cả bƣớm. Bƣớm hiền lành bỏ chỗ lao xao. Từng đàn rủ nhau lặng lẽ bay đi” [9, tr.32]. Nhịp điệu kể chuyện linh hoạt đó khiến những câu chuyện trong Tuổi thơ im lặng trở nên sinh động và hấp dẫn hơn. Có thể thấy, nghệ thuật kể chuyện là phƣơng diện góp phần làm nên thành công của Duy Khán trong việc tái hiện những kỉ niệm tuổi thơ và thể hiện tình cảm chân thành của mình dành cho quê hƣơng. Hồi kí Tuổi thơ im lặng nhƣ một tài liệu xác thực đáng tin cậy về tuổi thơ của Duy Khán cũng nhƣ hiện thực đất nƣớc lúc bấy giờ. 3.2. Ngôn ngữ Trong những phƣơng diện nghệ thuật thể hiện nội dung tác phẩm, ngôn ngữ là phƣơng diện có vai trò quan trọng nhất. Từ việc sử dụng từ ngữ cho đến các câu văn, tất cả đều góp phần rất lớn vào việc chuyển tải nội dung tác 38
  44. phẩm. Vì vậy, các nhà văn luôn chú trọng sử dụng các từ ngữ, câu văn sao cho “đắt” nhất để mang lại hiệu quả nghệ thuật cho tác phẩm. Ở hồi kí Tuổi thơ im lặng, để tái hiện chân thực, sinh động và giàu cảm xúc những kỉ niệm tuổi thơ, Duy Khán sử dụng hiệu quả những từ ngữ, câu văn, cách nói để chuyển tải nội dung mong muốn. Trƣớc hết ở phƣơng diện từ ngữ, Duy Khán ƣa sử dụng khẩu ngữ thể hiện lời ăn tiếng nói của ngƣời dân quê: à ra, tha hồ, thì phải, mê tít, tịt ngóp, hết nhẵn, túi bụi, hú vía, chui tọt, hết veo, to tƣớng, tung tóe Lớp từ bình dân đó giúp cho lời kể mang sắc thái mộc mạc tự nhiên và đậm hơi thở của cuộc sống bình dị. Hệ thống các tính từ miêu tả mức độ cũng xuất hiện khá nhiều trong tác phẩm: nhẵn lì, đỏ chóe, thơm lừng, ngọt lừ, trắng xóa, đen nhẫy, lạnh ngắt, khát bỏng, mốc thếch góp phần thể hiện trực tiếp cảm xúc của ngƣời nói. Ngoài ra, các phụ từ đƣợc sử dụng ở cuối câu: lắm, quá, cơ mà, mà lị, nhá cũng thể hiện dấu ấn lời ăn tiếng nói bình dị, đời thƣờng của ngƣời dân quê. Để tạo màu sắc bình dị cho lời kể, lời đối thoại, Duy Khán còn dùng các thành ngữ dân gian: nƣớc xô chỗ trũng, kẻ cắp gặp bà già, lƣời chảy thây, hiền nhƣ đất, mồm năm miệng mƣời Các tục ngữ: ăn no cơm tấm, nằm ấm ổ rơm; khéo ăn thì no, khéo co thì ấm; mỡ gà thì gió, mỡ chó thì mƣa Tất cả góp phần mang lại cho tác phẩm sắc thái thân thuộc, suồng sã qua từng lời kể của nhà văn, đồng thời khiến những kỉ niệm tuổi thơ đƣợc tái hiện chân thực và gần gũi hơn. Ngoài việc sử dụng các thành ngữ, tục ngữ để tạo sắc thái thân mật, suồng sã cho lời kể, trong Tuổi thơ im lặng, Duy Khán còn chú trọng đƣa vào các câu văn, cách nói quen thuộc trong ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày. Đó là cách nói so sánh nhƣ: Xúm đen xúm đỏ nhƣ đàn bọ, Quả núi nhƣ quả thị bổ đôi, Đỏ nhƣ máu, Cái đền đá nhƣ cái ghế tựa, Đầy ụ nhƣ mâm xôi gấc, Dữ nhƣ hổ mang, Mây đen nổi lên nhƣ cồn, Tôi đứng im nhƣ bụt, Bà 39
  45. hiền nhƣ đất Cách nói ấy giúp lời văn trở nên giàu hình ảnh và có giá trị biểu cảm hơn. Bên cạnh cách nói so sánh còn là các câu văn bộc lộ trực tiếp cảm xúc của tác giả với nhiều câu cảm thán: Thôi, u bán na rồi!, Chèo bẻo ơi, chèo bẻo!, Không kịp rồi!, U giỏi thật!, Quà của bố làm tôi giàu quá!, Bác thợ nề đã đi xa rồi!, Tết thật rồi!, Giá Vện còn nhỉ! Ngoài ra còn những câu hỏi, lời thắc mắc của cậu bé Khán lúc đó: Vì sao nhỉ? Sao thầy lại dặn chôn nhau ở đây? Thiếu gì góc vƣờn, góc trại?, Ông giời ở đâu nhỉ?, Bà Chùa! Bà đã già thế. Bà còn sống lâu nữa không?, Trời đất này không biết về sau tao có nhƣ đời mày không? Lớp từ ngữ và cách nói nhƣ trên đƣợc Duy Khán sử dụng linh hoạt và khéo léo, tạo ra sắc thái gần gũi và bình dị trên từng trang kỉ niệm. Các câu chuyện tuổi thơ cũng nhờ thế mà đƣợc tái hiện chân thực, sinh động và hấp dẫn hơn. Với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, Tuổi thơ im lặng nhƣ những câu chuyện cổ tích nhẹ nhàng thấm sâu vào tâm trí ngƣời đọc và để lại trong đó những ấn tƣợng sâu sắc. 3.3. Giọng điệu Theo Từ điển thuật ngữ văn học, giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập trƣờng tƣ tƣởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tƣợng đƣợc miêu tả trong lời văn, quy định cách xƣng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, gợi cảm hay châm biếm [4, tr.134]. Trong hồi kí Tuổi thơ im lặng, để góp phần tái hiện những câu chuyện tuổi thơ có niềm vui xen lẫn buồn thƣơng, đau xót, Duy Khán đã sử dụng phối hợp ba sắc giọng chủ đạo: thân mật, tâm tình; ngậm ngùi, buồn thƣơng và vui tƣơi, hồ hởi. Kể về thiên nhiên làng quê, về những ngƣời thân, những sự vật gắn bó với tuổi thơ, nhà văn chủ yếu sử dụng giọng điệu tâm tình, thân mật. Đó là khi 40
  46. kể về ngƣời mẹ: “Đôi vai của mẹ thành chai từ bao giờ con không biết. Trên đôi vai ấy ai để chiếc bánh dày vào. Bánh dày màu nâu sẫm, có lúc nứt ra” [9, tr.56]. Hay khi viết về những đồ dùng gắn bó với tuổi thơ: “Những đồ dùng biết nói thật đấy! Tôi đã từng nhìn khắp nhà, những đồ dùng đã sống cùng tôi: cái chiếu manh thủng giữa. Cái mâm gỗ mộc “cóc gặm” một góc. Cái giỏ cua trông hình con ong, vá đi vá lại. Cái chạn bát xiêu vẹo đầy mọt, đụng vào là bụi bay ” [9, tr.75]. Qua giọng điệu tâm tình, thân mật ngƣời đọc nhận ra thái độ và tình cảm của nhà văn dành cho mảnh đất quê hƣơng, dành cho đối tƣợng đƣợc nói tới trong lời kể. Đó là tình yêu thƣơng, thái độ trân trọng và biết ơn của Duy Khán đối với quê hƣơng, với những ngƣời thân yêu và các sự vật từng gắn bó với tuổi thơ. Đan xen giọng điệu thân mật, tâm tình là giọng điệu ngậm ngùi, thƣơng xót. Có khi trong cùng một câu chuyện hai giọng điệu trên xuất hiện cùng lúc. Chẳng hạn, câu chuyện về bà nội: nhắc tới những năm tháng sống hạnh phúc bên bà là giọng điệu thân mật, tâm tình nhƣng khi nhắc tới sự ra đi của bà lại là giọng điệu ngậm ngùi, tiếc thƣơng: “Bà ơi, bà chết thật rồi! Chúng tôi vừa khóc vừa gào thế. Trong đám trẻ con, thằng Lĩnh gào khản đặc cả cổ” [9, tr.53]. Giọng điệu ngậm ngùi, thƣơng xót còn thể hiện khi nhà văn nhắc tới những đau thƣơng của gia đình bởi sự càn quét của kẻ thù: “ Bao cái đau cũ, bây giờ lại bao nhiêu cái đau mới giáng lên đời thầy. Gà trống nuôi con. Tôi ít thấy thầy cƣời. Nhiều lúc thầy cứ ngắm từ đầu xuống chân tôi. Thầy nhìn tôi chằm chằm” [9, tr.213]. Sắc giọng này cũng thể hiện khi nhà văn nói về kỉ niệm của mình vào ngày cuối cùng ở lại quê hƣơng, trƣớc khi lên đƣờng tuyển quân: “Ý định ra đi của tôi chẳng ai biết. Buổi học cuối cùng của tôi buồn lắm. Thầy Thuyết có đôi mắt lác, hôm nay giảng văn lạc cả giọng. Thầy Hồ giảng Vạn Vật rời rạc, cứ nhƣ nói vào khoảng không ngƣời ”[9, tr.221]. Qua giọng điệu buồn thƣơng, đau xót, ngƣời đọc cảm nhận đƣợc tâm trạng xót xa của nhà văn trƣớc những đau thƣơng, mất mát của gia đình và quê 41
  47. hƣơng. Đây cũng là tâm trạng, là cảm xúc của nhân dân Việt Nam trƣớc nỗi đau chung của dân tộc. Ngoài giọng điệu tâm tình, thân mật hay buồn thƣơng, đôi chỗ còn là giọng tƣơi vui khi nhà văn kể về những kỉ niệm tuổi thơ đáng nhớ, về bức tranh tƣơi vui, nhộn nhịp của ngày Tết, ngày hội làng. Những lần đi ăn trộm cùng anh Thả, chơi đánh trận cùng thằng Dị, những trò chơi trong ngày Tết, ngày hội làng Tất cả đều đƣợc tái hiện bằng giọng điệu tƣơi vui, mừng rỡ, thể hiện tâm trạng háo hức, vui sƣớng của tuổi thơ mà bất kì đứa trẻ nào cũng khao khát. Cũng nhƣ biết bao đứa trẻ khác, ngày Tết, ngày hội làng là niềm mơ ƣớc, niềm mong mỏi lớn nhất của cậu bé Khán lúc đó. Giọng điệu tƣơi vui, hồ hởi còn thể hiện khi nhà văn kể về những kỉ niệm trong những ngày tháng đất nƣớc giành đƣợc chính quyền: “Chùa Hàm Long trên lƣng chừng núi, mọc đầy cờ đỏ. Cờ thành rừng. Ngƣời từ các xã trong toàn tổng Sơn Nam kéo về chùa nhƣ nƣớc lũ. Hôm nay mít tinh toàn tổng chào mừng cả nƣớc cƣớp đƣợc chính quyền ” [9, tr.197]. Trên đây là ba sắc thái giọng điệu chủ đạo đƣợc thể hiện trong Tuổi thơ im lặng. Nó góp phần thể hiện sự gắn bó ân tình của nhà văn Duy Khán với con ngƣời và mảnh đất quê hƣơng. 42
  48. TIỂU KẾT Cùng với phƣơng diện nội dung, phƣơng diện nghệ thuật đã góp phần làm nên thành công cho hồi kí Tuổi thơ im lặng. Bằng nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn; ngôn ngữ mang đậm hơi thở của cuộc sống bình dị; giọng điệu đa dạng, linh hoạt, Duy Khán đã tái hiện chân thực và sinh động bức tranh con ngƣời và làng quê Bắc Ninh trong mƣời lăm năm tuổi thơ của nhà văn. Các câu chuyện tuổi thơ nằm sâu trong kí ức Duy Khán nhờ những đặc sắc nghệ thuật trên mà sống dậy trên từng trang của Tuổi thơ im lặng. Qua hồi kí, ngƣời đọc nhƣ đƣợc hòa mình vào tuổi thơ Duy Khán, đƣợc cảm nhận từng trạng thái cảm xúc của nhà văn. 43
  49. KẾT LUẬN Duy Khán là cây bút có vị trí nhất định trong văn xuôi Việt Nam sau 1975. Tuy sáng tác không nhiều nhƣng nhà văn gốc Bắc Ninh này cũng để lại những tác phẩm đƣợc đánh giá cao. Trong đó, hồi kí Tuổi thơ im lặng có vị trí quan trọng trên chặng đƣờng sáng tác của Duy Khán. Tác phẩm lƣu giữ những kỉ niệm nhà văn nâng niu và trân trọng trong suốt cuộc đời. Là thế hệ trƣởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cũng nhƣ bao cây bút khác, Duy Khán vừa tham gia chiến đấu và sáng tác văn học. Hiện thực cuộc sống đã cung cấp cho nhà văn những đề tài nóng bỏng để ông thỏa sức sáng tạo. Trƣớc khi trở thành nhà văn, Duy Khán đã là một nhà thơ. “Với ba tập thơ Trận mới, Một tiếng Xa - Ma - Khi, Tâm sự ngƣời đi, Duy Khán cũng có chỗ đứng nhất định trên thi đàn những năm trong và sau chiến tranh chống Mỹ, trong đó, có những bài, những câu lạ lùng, lấp lánh bởi chất hồn nhiên” (Ngô Vĩnh Bình). Đến Tuổi thơ im lặng, Duy Khán trở thành nhà văn. Ông viết về những kỉ niệm tuổi thơ đầy xúc động và chan chứa tình cảm. Tác phẩm đƣợc nhận giải thƣởng Hội Nhà văn năm 1987, đánh dấu sự chuyển hƣớng quan trọng trên hành trình sáng tác của Duy Khán. Tuy không có sự nghiệp văn học đồ sộ nhƣng với Tuổi thơ im lặng, Duy Khán đã hoàn thành tâm nguyện đƣợc viết về tuổi thơ từng “đốt cháy” tấm lòng nhà văn, thôi thúc ông trong nhiều năm tháng cầm bút. “Có những cuộc đời dang dở, viết lách chƣa đƣợc gì, đến mức có nhắm mắt cũng không yên. Ngƣợc lại, có những tác phẩm viết xong rồi thì ngƣời viết có thể xoa tay tựa nhƣ làm xong nghĩa vụ với đời. Tuổi thơ im lặng của Duy Khán là thuộc cái dạng tâm huyết nhƣ thế” (Vƣơng Trí Nhàn). Tuổi thơ im lặng tái hiện chân thực kí ức về ngƣời thân, về quê hƣơng Bắc Ninh trong những năm tháng đầy khó nhọc của tuổi thơ Duy Khán. 44
  50. Những khó khăn, nhọc nhằn của con ngƣời và quê hƣơng tác giả cũng chính là những khó khăn, lam lũ của cả dân tộc trong những năm 30, 40 của thế kỉ XX. Qua những kí ức đó, ngƣời đọc nhận thấy tình thƣơng yêu, sự gắn bó sâu nặng mà nhà văn dành cho con ngƣời và quê hƣơng. Bên cạnh giá trị nội dung, Tuổi thơ im lặng còn đặc sắc bởi nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, sử dụng ngôn ngữ đời thƣờng giản dị, giọng điệu đa dạng, linh hoạt. Tất cả góp phần quan trọng vào việc tái hiện kí ức tuổi thơ, làm nó sống dậy trên từng trang sách. Qua những kí ức tuổi thơ chân thực trong hồi kí, ngƣời đọc đƣợc cảm nhận những khó khăn cùng sự đau thƣơng, mất mát của dân tộc trong quá khứ. Từ đó biết trân trọng hiện tại, có ý thức học tập và rèn luyện, bồi dƣỡng tình yêu dành cho quê hƣơng, đất nƣớc. Đó cũng là mong mỏi của tất cả các nhà văn, nhà thơ khi họ dồn tình cảm và tâm huyết vào tác phẩm của mình. Với thành công về nội dung và nghệ thuật của Tuổi thơ im lặng, Duy Khán đã có những đóng góp nhất định đối với thể loại hồi kí nói riêng và văn học Việt Nam sau 1975 nói chung. Với Tuổi thơ im lặng, nhà văn góp thêm tiếng nói khẳng định thế mạnh của hồi kí trong việc tái hiện quá khứ một cách xác thực, làm nó sống dậy với nhiều suy tƣ, trăn trở của tác giả ở điểm nhìn hiện tại. Trong dòng chảy văn học sau 1975, thể loại hồi kí thực sự phù hợp với nhu cầu nhìn nhận quá khứ của ngƣời viết, đánh giá lại một số giá trị, chuẩn mực ứng xử của thời đại đã qua. Tuổi thơ im lặng là một “bằng chứng” khẳng định sự phát triển của hồi kí trong văn xuôi Việt Nam sau 1975, góp phần vào sự phát triển chung của văn học giai đoạn Đổi mới. Trong sự phát triển của xã hội hiện nay, tuổi thơ của hầu hết các em nhỏ không còn là khoảng thời gian đƣợc hòa mình vào thiên nhiên, đƣợc tận hƣởng các trò chơi dân gian bổ ích mà thay vào đó là những khoảng thời gian học tập căng thẳng, những trò chơi trên các thiết bị hiện đại có nguy cơ làm 45
  51. mất dần những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Đây là thiệt thòi rất lớn cho những thế hệ tuổi thơ trong thời đại công nghệ. Sự có mặt của những tác phẩm viết về tuổi thơ nhƣ Tuổi thơ im lặng sẽ bù đắp phần nào cho những thiếu hụt đó. Nghiên cứu hoài niệm tuổi thơ của Duy Khán qua hồi kí Tuổi thơ im lặng, Khóa luận này đã góp thêm tiếng nói khẳng định vị trí của nhà văn trong văn xuôi Việt Nam sau 1975. 46
  52. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban chung khảo (1986), Những tập sách đƣợc tặng thƣởng năm 1985 của hội đồng văn học thiếu nhi, Văn nghệ, (39). 2. Triệu Bôn (1986), Năm mƣơi năm tuổi thơ, Ngƣời Hà Nội, (27). 3. Nguyễn Huệ Chi, Trần Hữu Tá (2003), Từ điển văn học (bộ mới), NXB Thế giới. 4. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2011), Từ điển thuật ngữ Văn học, NXB Giáo dục Việt Nam. 5. Trƣơng Thị Thanh Huyền (2012), Hiệu quả phƣơng thức hoán dụ trong hồi ký Tuổi thơ im lặng của nhà văn Duy Khán, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP Hà Nội 2. 6. Trần Bảo Hƣng (2009), Nhà thơ Duy Khán mãi mãi thơ trẻ, Tạp chí Hội Nhà văn Việt Nam. 7. Nguyễn Quang Hƣng (2016), Đặc điểm hồi kí Văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010, Luận án Tiến sĩ, Đại học Khoa học Huế. 8. Nguyễn Khải (1986), Cặp mắt trong veo của tuổi thơ, Thế giới mới. 9. Duy Khán (2013), Tuổi thơ im lặng, NXB Kim Đồng. 10. Kim Lân (2015), Tuyển tập Kim Lân, NXB Hội Nhà văn. 11. Phạm Nhật Linh (2008), Nhà thơ Duy Khán: “ngƣời say” hiền nhất nƣớc, Báo văn nghệ công an. 12. Nguyễn Văn Long (chủ biên) (2008), Văn học Việt Nam hiện đại (tập 2), NXB Đại học Sƣ phạm. 13. Lã Thị Bắc Lý (2002), Giáo trình văn học trẻ em, NXB Đại học Sƣ phạm Hà Nội. 14. Bùi Công Minh (1985), Tuổi thơ im lặng, Văn nghệ quân đội, (2). 15. Vƣơng Trí Nhàn (1998), Nhớ lại một cuộc phiêu lƣu có hậu, Thể thao văn hóa, (59).
  53. 16. Hoàng Phê (2017), Từ điển tiếng Việt, NXB Hồng Đức. 17. Trần Đình Sử (1986), Tuổi thơ im lặng - Kỷ niệm về một tầng văn hóa làng quê lâu đời, Văn nghệ, (39). 18. Trần Đình Sử (chủ biên), (2012), Lí luận văn học (tập 2), NXB Đại học Sƣ phạm. 19. Chu Thị Thắm (2016), Hình tƣợng con ngƣời và làng quê trong Tuổi thơ im lặng của Duy Khán, Khóa luận tốt nghiệp, ĐH Sƣ phạm Hà Nội 2. 20. Trần Anh Trang (2012), Nhà văn Duy Khán, Tạp chí Cửa Biển. 21. ồi_ký