Khóa luận Hiện tượng học Edmund Husserl dưới góc nhìn của Trần Đức Thảo

pdf 73 trang thiennha21 15/04/2022 4910
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Hiện tượng học Edmund Husserl dưới góc nhìn của Trần Đức Thảo", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_hien_tuong_hoc_edmund_husserl_duoi_goc_nhin_cua_tr.pdf

Nội dung text: Khóa luận Hiện tượng học Edmund Husserl dưới góc nhìn của Trần Đức Thảo

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC KHOA TRIẾT HỌC NGUYỄN THỊ THU TRANG LÊ THỊ DIỆU NGỌC HIỆN TƢỢNG HỌC EDMUND HUSSERL DƢỚI GÓC NHÌN CỦA TRẦN ĐỨC THẢO TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA N.MACHIAVELLI TRONG TÁC PHẨM QUÂN VƯƠNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRI ẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Khóa học: QH 2016 - X NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH 2016 – X HÀ NỘI -– 20202020 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC NGUYỄN THỊ THU TRANG HIỆN TƢỢNG HỌC EDMUND HUSSERL DƢỚI GÓC NHÌN CỦA TRẦN ĐỨC THẢO KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH 2016 - X NGƯỜI HƯỚNG DẪN: Th.s Trần Minh Hiếu HÀ NỘI - 2020 2
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 5 CHƢƠNG 1. HIỆN TƢỢNG HỌC HUSSERL 11 1.1. Cuộc đời và sự nghiệp của Edmund Husserl 11 1.1.1 Tiểu sử 11 1.1.2. Giai đoạn duy tâm lý 12 1.1.3. Giai đoạn phản duy tâm lý 14 1.1.4. Giai đoạn Hiện tượng học 15 1.2. Hiện tƣợng học Husserl 18 1.2.1. Bối cảnh hình thành Hiện tượng học Husserl 18 1.2.2. Tiền đề tư tưởng của Hiện tượng học Husserl 21 1.2.3. Một số nội dung cơ bản của Hiện tượng học Husserl 25 1.3. Một số ý nghĩa và ảnh hƣởng của Hiện tƣợng học Husserl đối với triết học phƣơng Tây hiện đại 38 CHƢƠNG 2. QUAN ĐIỂM CỦA TRẦN ĐỨC THẢO ĐỐI VỚI HIỆN TƢỢNG HỌC EDMUND HUSSERL 42 2.1. Đôi nét về Trần Đức Thảo và những hƣớng nghiên cứu của ông. 42 2.2. Lập trƣờng nhìn nhận Hiện tƣợng học Husserl của Trần Đức Thảo 44 2.2.1. Chủ nghĩa duy vật ở Trần Đức Thảo 44 2.2.2. Quan điểm của Trần Đức Thảo về “Bản chất” trong Hiện tượng học Husserl 47 3
  4. 2.2.3. Quan điểm của Trần Đức Thảo về “Tính ý hướng” trong Hiện tượng học Husserl 49 2.2.4. Quan điểm của Trần Đức Thảo về phương pháp quy giản Hiện tượng học 54 2.3. Sự “vƣợt bỏ” của Trần Đức Thảo với Hiện tƣợng học Husserl 55 2.3.1. Quan điểm của Trần Đức Thảo về nguồn gốc và bản chất của ý thức 55 2.3.2. Vấn đề con người và cuộc cách mạng ở Việt Nam 61 KẾT LUẬN 68 4
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhận thức luận - lý luận về bản chất, quá trình hình thành, phát triển của nhận thức cũng như khả năng phản ánh thế giới của con người – vốn là một trong những nội dung cơ bản của triết học. Trong nhiều vấn đề đặt ra, việc nhận thức vận động như thế nào để đạt tới chân lý luôn là một đề tài thu hút sự chú ý và gây tranh cãi. Nguyên nhân là vì, thứ nhất, ngay trong những nguyên lý mang tính nền tảng của nhận thức vốn chứa đựng mâu thuẫn biện chứng nội tại, thứ hai, mỗi quan niệm, dù đặc sắc đến thế nào, chỉ có giá trị khi giúp con người giải quyết được những vấn đề cụ thể do thực tiễn đặt ra. Thật vậy, trong khi chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng nhận thức là sự phức hợp những cảm giác của con người thì chủ nghĩa duy tâm khách quan lại coi nhận thức là sự “hồi tưởng lại” của linh hồn bất tử về “thế giới các ý niệm” hay là sự vận động của “Ý niệm tuyệt đối” trong sự “chiêm ngưỡng” lại chính mình (Hegel). Trong khi những người theo thuyết hoài nghi coi nhận thức là trạng thái hoài nghi về sự vật và biến sự nghi ngờ về tính xác thực của tri thức thành một nguyên tắc của nhận thức thì chủ nghĩa duy vật lại thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người, coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người Trong dòng chảy sôi động của lịch sử tư tưởng về nhận thức đó, Hiện tượng học Husserl xuất hiện, một mặt là những suy tư nhằm giải quyết phần nào “nan đề” của nhận thức, mặt khác, quan trọng hơn nhằm “đối mặt” với cuộc khủng hoảng của xã hội Đức cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Với quan niệm về “Bản chất”, “Tính ý hướng”, “Thế giới sống” , Hiện tượng học Husserl đề xuất cách tiếp cận mới, với phương pháp nhận thức đặc thù, giúp con người soi rọi sâu hơn vào thế 5
  6. giới tinh thần, từ đó góp phần lý giải những vấn đề của xã hội đương thời, tạo nền tảng cho triết học phương Tây hiện đại. Trần Đức Thảo – một nhà nghiên cứu triết học Việt Nam - trong khi tìm thấy những giá trị cốt lõi, khoa học trong Hiện tượng học của Hurrserl cũng nhận ra một số hạn chế của nó, đặc biệt khi vận dụng vào việc lý giải, tìm đường cho hiện thực Việt Nam những năm 1952. Trần Đức Thảo đã có một sự chuyển mình âm thầm, đầy nội lực bằng sự kết hợp giữa Hiện tượng học và Chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhưng không phải theo kiểu “trung dung”, “hài hoà” mà bằng những trăn trở phản tư đau đáu, bằng sự dấn thân mạnh mẽ vào thực tiễn với sự trở về, góp sức trong cuộc kháng chiến chống Pháp, cho chúng ta nhận ra một cốt cách, một sự “sống trải” đáng kính. Đó là lý do chúng tôi lựa chọn đề tài “Hiện tượng học Edmund Husserl dưới góc nhìn của Trần Đức Thảo”. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu * Các công trình nghiên cứu về Hiện tượng học E. Husserl: Hiện tượng học là học thuyết ra đời những năm đầu thế kỷ XX, tuy nhiên việc tiếp cận nó ở Việt Nam và thể hiện những nghiên cứu thông qua các công trình, tài liệu chuyên khảo vẫn còn khá ít. Công trình đầu tiên cần phải kể đến chính là tác phẩm “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng” của giáo sư Trần Đức Thảo, xuất bản lần đầu tiên tại Paris năm 1951, được dịch và xuất bản sang tiếng Việt năm 2004. Tác phẩm là những tiếp thu Hiện tượng học Husserl của Trần Đức Thảo với tư duy phê phán độc đáo. Ở đó, tác giả đã cố gắng tìm kiếm điểm gặp nhau, bổ sung cho nhau của hai học thuyết Hiện tượng học và biện chứng nói riêng, chủ nghĩa Marx nói chung. Mặc dù đánh giá cao những thành tựu của Hiện tượng học, ông vẫn chỉ ra những mâu thuẫn mà nó chưa thể giải quyết. Theo ông, Hiện tượng học chưa thể giúp con 6
  7. người có được sự hiểu biết chính xác về thế giới hiện thực, đặc biệt là phương hướng giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra, bởi sự thiếu hụt tính chất “thực tiễn” và “thực hành” trong nó. Do đó, chủ nghĩa Marx sẽ là sự bổ sung cần thiết cho những khoảng trống này. Đúng như lời nhận xét của Phan Ngọc: “Trần Đức Thảo đến với chủ nghĩa duy vật sau khi trèo lên cái đỉnh cao nhất của chủ nghĩa duy tâm thời đại này là Hiện tượng học, rồi lật ngược lại nó” [14, tr.17]. Công trình chuyên khảo đáng chú ý thứ hai là “Edmund Husserl” của tác giả Diêu Trị Hoa người Trung Quốc, được dịch và xuất bản sang tiếng Việt vào 2006 thuộc dự án “Tủ sách triết học Đông Tây”. Trong tác phẩm này, tác giả Diêu Trị Hoa đã đem đến cho độc giả một cách nhìn căn bản về Hiện tượng học Husserl. Theo Diêu Trị Hoa, lộ trình gần 40 năm hoạt động nghiên cứu của Husserl gắn liền với quá trình đi từ chủ nghĩa tự nhiên đến Hiện tượng học, từ tâm lý học mô tả đến Hiện tượng học tiên nghiệm và dừng lại ở thế giới đời sống. Điều cơ bản nhất của Hiện tượng học là một hệ thống khoa học chặt chẽ với lập trường triệt để. Sự phong phú và đa dạng về các công trình nghiên cứu về Hiện tượng học Husserl đã đem lại một bức tranh mới hơn về một trào lưu triết học lớn. Tài liệu chuyên khảo đáng chú ý tiếp theo là “Hiện tượng học Husserl” của nhóm tác giả Nguyễn Chí Hiếu, Đỗ Minh Hợp, Phạm Quỳnh Trang xuất bản năm 2008. Là một công trình nghiên cứu công phu, cuốn sách gồm 3 chương, trong đó chương 2 khái quát toàn bộ nội dung Hiện tượng học với các khái niệm cơ bản “Tính ý hướng”, “Ý thức tuyệt đối”, “Dòng ý thức”, “Hiện tượng”, và “Thế giới sống”. Việc nghiên cứu một cách có hệ thống các khái niệm này giúp cho người đọc có một cái nhìn khá toàn diện, có chiều sâu về một học thuyết làm nền tảng cho các trào lưu triết học cũng như nền văn hoá phương Tây hiện đại. * Các công trình nghiên cứu về Trần Đức Thảo và góc nhìn của ông đối với Hiện tượng học Husserl: 7
  8. Không chỉ là một nhà nghiên cứu về Hiện tượng học Husserl, Trần Đức Thảo còn là một triết gia. Bởi thế, những tác phẩm cũng như tư tưởng của ông trở thành một đối tượng nghiên cứu đầy sức hút, và hơn thế, cực kỳ quan cũngtrọng, cần thiết đối với những người nghiên cứu khác, ở cả Việt Nam và trên thế giới. Trước tiên cần kể đến một số bài báo mang tính học thuật cao. Đó là bài viết “Trần Đức Thảo với Hiện tượng học Husserl” của Nguyễn Anh Tuấn (in trong sách “Những vấn đề phương Tây thế kỷ XX”, 2007), đã nêu lên cách thức mà Trần Đức Thảo thoát khỏi mâu thuẫn và bế tắc trong việc luận giải về ý thức mà Hiện tượng học Husserl đã mắc phải [xem 33]. Bài viết “Hiện tượng học và Hiện tượng học của Trần Đức Thảo” của Ngô Hương Giang đưa ra nhận định, Trần Đức Thảo đã mở ra một dòng “Hiện tượng” riêng tạm gọi là Hiện tượng học duy vật [xem 7]. Hội thảo khoa học “Trần Đức Thảo - cuộc đời và di sản” được tổ chức tháng 11/2007, tại trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh của Trần Đức Thảo tập hợp các bài viết quan tâm đến Hiện tượng học Husserl cũng như các quan điểm kiến giải, phát triển, phê phán của Trần Đức Thảo đối với Hiện tượng học Husserl. Hội thảo khoa học quốc tế “Tư tưởng triết học và giáo dục của Trần Đức Thảo” được tổ chức vào năm 2013, tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, nhân kỷ niệm 20 năm ngày mất của giáo sư Trần Đức Thảo. Một số bài viết được lựa chọn tại hội thảo này đã được in trong tập sách cùng tên vào năm 2015, cũng tập trung chủ yếu vào chủ đề Hiện tượng học và Hiện tượng học của Trần Đức Thảo. Qua tổng quan tài liệu chúng tôi nhận thấy vấn đề Hiện tượng học Husserl và quan điểm của Trần Đức Thảo đối với Hiện tượng học Husserl đã thu hút sự quan tâm của đông đảo học giả và người nghiên cứu. Dù vậy, theo cảm nhận, dường như những khái niệm căn bản như “Hiện tượng”, “Ý thức sống trải”, “Bản 8
  9. chất”, “Thế giới sống” vẫn là những “ẩn số” chưa được khai thác hết. Một học thuyết là kết tinh cả cuộc đời của một triết gia lớn, một học thuyết làm nền tảng cho không chỉ triết học mà còn cả nền văn hoá phương Tây hiện đại chắc chắn sẽ còn nhiều điều thú vị, hấp dẫn, truyền cảm hứng cho người nghiên cứu, nhất là đối với trình độ một sinh viên đang bước đầu tìm hiểu như chúng tôi. Mặt khác, là người thế hệ sau, có điều kiện để cùng đặt lên bàn không chỉ Hiện tượng học Husserl mà còn cả sự phê phán Hiện tượng học từ một triết gia Việt Nam như Trần Đức Thảo, chúng tôi không những được hiểu rõ hơn các nội dung của Hiện tượng học mà còn hiểu được thế nào là một sự phê phán triết học. Đó là sự phê phán không phải chỉ để phê phán mà còn để tự “vượt bỏ” chính mình. Trong khuôn khổ của một khoá luận sinh viên, chúng tôi mong muốn nghiên cứu phần nào các nội dung trên, qua đó làm rõ những đặc sắc trong tư tưởng của triết gia Trần Đức Thảo khi “đọc” Hiện tượng học Husserl. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Phân tích, làm rõ một số nội dung cơ bản của Hiện tượng học Husserl, đồng thời phân tích, làm rõ góc nhìn của Trần Đức Thảo về Hiện tượng học Husserl cũng như sự “vượt bỏ” của ông về vấn đề Hiện tượng học. Nhiệm vụ: Phân tích điều kiện kinh tế, xã hội và tiền đề tư tưởng cho sự ra đời quan niệm của Hiện tượng học Husserl Phân tích, làm rõ những nội dung cơ bản của quan niệm về Hiện tượng học Husserl. Phân tích và làm rõ góc nhìn của Trần Đức Thảo về Hiện tượng học Husserl. Đưa ra những đánh giá về sự lĩnh hội, vượt bỏ trong nghiên cứu của Trần Đức Thảo. 9
  10. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Những khái niệm cơ bản của Hiện tượng học Husserl và quan điểm của Trần Đức Thảo về Hiện tượng học Husserl. Phạm vi nghiên cứu: Một số tác phẩm như “Ý niệm Hiện tượng học” của Edmund Husserl; “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng”, “Tìm cội nguồn ngôn ngữ, ý thức”, “Sự hình thành con người” của Trần Đức Thảo. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Khóa luận được thực hiện dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm Marx – Lenin về lịch sử tư tưởng và lịch sử triết học. Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh, thống nhất lịch sử - logic, khái quát hóa, trừu tượng hóa, 6. Ý nghĩa của khoá luận Ý nghĩa lý luận: Khóa luận góp phần vào việc hiểu rõ hơn Hiện tượng học Husserl và cách nhìn của Trần Đức Thảo đối với Hiện tượng học, qua đó cho thấy giá trị tư tưởng của Trần Đức Thảo đối với hệ thống triết học Việt Nam và thế giới. Ý nghĩa thực tiễn: Khóa luận sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai quan tâm đến vấn đề Hiện tượng học và tư tưởng Trần Đức Thảo. 7. Kết cấu của khoá luận Ngoài phần mở đầu và tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 2 chương và 5 tiết. 10
  11. CHƢƠNG 1. HIỆN TƢỢNG HỌC HUSSERL 1.1. Cuộc đời và sự nghiệp của Edmund Husserl 1.1.1 Tiểu sử Edmund Husserl (1859 - 1938) là người sáng lập ra trường phái “Hiện tượng” luận của thế kỷ XX. Ông sinh tại Prossnitz miền Movarie, lúc ấy đang thuộc đế quốc Áo - Hung. Tốt nghiệp phổ thông tại Áo, Husserl sau đó lần lượt học đại học từ năm 1876 ở đại học Leipzing, Berlin và Viên. Vào những năm 80 - 90 của thế kỷ XIX, ông chịu ảnh hưởng các nhà tư tưởng theo chủ nghĩa Kant mới như F. A. Lange, H. L. F. Heimholtz, những người ủng hộ chủ nghĩa tâm lý thịnh hành khi đó. Nhưng người có tầm ảnh hưởng lớn đến con đường chuyển từ toán học sang triết học của ông là nhà tâm lý học, triết học người Áo F. Brentano (1838 -1917). Vào năm 1886, Husserl bảo vệ luận án tiến sĩ triết học với đề tài “Các vấn đề triết học của số học”. Sau khi bảo vệ luận án tiến sĩ vào năm 1887, Husserl trở thành phó giáo sư đại học tổng hợp Halle. Từ năm 1901 đến năm 1916, ông giảng dạy tại Goettingen và trở thành giáo sư vào năm 1906. Trong thời gian này tư tưởng Husserl đã có bước chuyển to lớn. Ông phê phán gay gắt việc nghiên cứu toán học, số học - một môn khoa học khách quan - dựa trên các lý thuyết của tâm lý học. Ông cho rằng toán học, logic học là khoa học độc lập, thuần tuý không phụ thuộc vào bất kỳ nội dung tâm lý nào, và xác định đây là khoa học làm nền tảng cho các môn khoa học thực chứng khác. Đối với Husserl, logic học thuần tuý không gì khác là học thuyết nghiên cứu “nhận thức”. Ông đặc biệt quan tâm tới những khái niệm “hiện tượng”, “hiện tượng học”, “thời gian”, “ý thức” cũng như học thuyết về phép quy giản Hiện tượng học. Khi Hitle lên cầm quyền, luật phân biệt chủng tộc đối với viên chức nhà nước có hiệu lực vào tháng 4/1933 và Husserl bị loại khỏi hàng ngũ giáo sư do 11
  12. nguồn gốc Do Thái của mình, thậm chí ông còn không được phép đến trường đại học và thư viện. Nếu trước đây, ông ít quan tâm tới triết học xã hội thì giờ đây, nhãn quan của ông hướng vào những vấn đề thời sự bức thiết của xã hội và sự phát triển của lịch sử nhân loại. Husserl mất ngày 27 tháng 4 năm 1938. Cả cuộc đời mình, Husserl đã suy tư, nghiên cứu, lao vào biển cả triết học đầy rẫy những khó khăn, thử thách. Quá trình tư duy của Husserl là sự chuyển biến từ chủ nghĩa tâm lý đến Hiện tượng học, từ Hiện tượng học mô tả đến Hiện tượng học siêu nghiệm, từ chủ thể tiên nghiệm đến “Thế giới sống”. Tương ứng với 3 giai đoạn: sơ kỳ, trung kỳ và hậu kỳ là giai đoạn duy tâm lý, giai đoạn phản duy tâm lý, giai đoạn Hiện tượng học - Hiện tượng học siêu nghiệm trong tư tưởng của ông. 1.1.2. Giai đoạn duy tâm lý Husserl sinh ra và lớn lên vào những năm cuối của thế kỷ XIX, những năm này diễn ra nhiều xung đột giữa các luồng tư tưởng ở châu Âu. Trong thời gian này, các ngành khoa học tự nhiên có nhiều bước phát triển vượt bậc, khẳng định vị trí thống trị. Các bộ môn thuộc ngành khoa học xã hội - nhân văn chủ yếu vận dụng các phương pháp của ngành khoa học tự nhiên vào những nghiên cứu của mình. Để chống lại sự xâm nhập ngày càng mạnh mẽ của các phương pháp khoa học tự nhiên vào các nghiên cứu, nhiều nhà khoa học xã hội - nhân văn đã đề xuất thiết lập môn “khoa học tinh thần”. Vấn đề đặt ra khi đó là đối tượng thực sự của khoa học tự nhiên và “khoa học tinh thần” là gì? Không gì khác trước hết đó là vấn đề logic học và tiếp sau đó là mối liên hệ của các cấu trúc tư duy và hiện thực. Hai vấn đề cơ bản khi đó được đặt ra: thứ nhất, các cấu trúc logic có đưa được về các cấu trúc tâm lý hay không?; thứ hai, các thao tác logic có phải là các mô hình về quá trình tư duy hiện thực hay không? Khi trả lời hai vấn đề trên, hầu hết các nhà theo chủ nghĩa tâm lý đều khẳng định tính chất mô tả của logic học đối với quá trình tư duy. Chủ nghĩa tâm lý cổ điển thế kỷ XIX (J. Mill) cho rằng, thứ 12
  13. nhất, logic học được quy về tâm lý học tức là các khái niệm logic có thể được suy ra từ các khái niệm tâm lý học, đồng thời các các quy luật logic học cũng có thể được tách từ các quy luật của tâm lý học. Thứ hai, logic học là mô hình về quá trình tư duy vì bản thân nó cũng là một bộ phận cấu thành nên quá trình ấy. Một số quan điểm khác thì không đồng tình, phủ định vấn đề thứ nhất nhưng vẫn nhất trí sự đồng nhất của cấu trúc logic và cấu trúc tâm lý theo một con đường kinh nghiệm xác định nào đó. Lập trường nghiên cứu giai đoạn sơ kỳ của Husserl chịu ảnh hưởng bởi thời đại và trực tiếp chịu ảnh hưởng từ nhà tâm lý học Brentano. Trong tác phẩm “Tâm lý học xét từ góc độ kinh nghiệm” (1874), Brentano đã xác định đối tượng của tâm lý học là những yếu tố ý thức của con người và phương thức liên kết chúng cũng như các tiền đề và các điều kiện làm xuất hiện những yếu tố ấy. Đối với Brentano thì không gì có thể thay thế được tâm lý học trong việc nhận thức chân lý khoa học, nó đem đến cho nhà nghiên cứu nhận thức chân thực và chính xác về ý thức con người. Brentano lần đầu tiên đưa ra khái niệm “Tính ý hướng” (intentio). Đây là khái niệm quan trọng, mấu chốt đối với hệ thống triết học phương Tây hiện đại sau này, mà người đang chịu ảnh hưởng trực tiếp là Husserl. “Tính ý hướng” luôn giả định phải có một cặp tương liên, một là hành vi ý hướng, hai là cái mà hành vi ý hướng vào, trong đó chỉ hành vi ý hướng là thực tồn. Sau này, Husserl sử dụng hai khái niệm noesis và noema để chỉ mối tương liên này. Sự ra đời của khái niệm “Tính ý hướng’ đã giải quyết những mâu thuẫn trong việc xác định đối tượng, cung cấp một nhãn quan mới mẻ hướng tới đối tượng và cũng mở lối cho sự phát triển đường hướng triết học phi duy lý sau này. Husserl xây dựng các kết luận dựa trên cơ sở phân tích logic toán thời bấy giờ dựa trên sự đồng tình với Brentano về lý giải phénomène tâm lý trong tâm lý học mô tả. Phénomène tâm lý là các “Bản chất” không đòi hỏi phải viện dẫn các 13
  14. khách thể bên ngoài mà chỉ đòi hỏi được trải nghiệm từ bên trong. Một giai đoạn mà người ta lý giải logic học trên tinh thần tâm lý học là vì thế. Husserl đã viết tác phẩm “Các vấn đề triết học số học” với mong muốn lý giải các khái niệm số học, các nguyên tắc, các nguyên lý số học dựa trên các kiến giải tâm lý học. Giai đoạn này diễn ra trong thời gian không lâu. Sau này, Husserl gọi tác phẩm “Các vấn đề triết học số học” là “vô tội nhưng ấu trĩ” vì đã tiếp cận nhiều vấn đề mà không hiểu rõ vấn đề. Đây là giai đoạn đánh dấu sự phê phán và tự phê phán trong suốt cuộc đời ông. 1.1.3. Giai đoạn phản duy tâm lý Đối lập với chủ nghĩa tâm lý là chủ nghĩa phản tâm lý, coi logic học là một môn khoa học độc lập với tập lý học với mục đích, đối tượng, phương pháp nghiên cứu riêng. Trước hai vấn đề1 nêu trên của thời đại, các nhà theo chủ nghĩa phản tâm lý cổ điển (Frege, Husserl) đã trả lời như sau. Thứ nhất, không thể quy logic học về tâm lý học, bởi lẽ không thể rút ra được các khái niệm logic học từ các khái niệm tâm lý học, không thể tách các định đề logic từ các định đề tâm lý học, không thể viện dẫn các sự kiện tâm lý để luận chứng cho các nguyên tắc logic học. Thứ hai, logic hoàn toàn không thể là mô hình về tư duy, vì các kết quả và phương pháp của logic không đem lại bất kỳ thông tin nào về tư duy tự nhiên của con người. Trong khi đồng tình với lý giải của Brentano về quan hệ ý hướng là cái thuần túy mô tả, là đặc thù nội tại của các trải nghiệm xác định, là tính quy định về bản chất của các hiện tượng tâm lý hay hành vi tâm lý [xem 9, tr.165], Husserl lại phê phán ông khi cho rằng có sự tách biệt giữa hành vi ý hướng và đối tượng ý hướng, bởi Brentano luôn hướng tới triết học đạt tới sự đồng nhất chủ khách thể. Ông hiểu ý hướng là hành vi quy định đối tượng nhờ phương pháp biểu tượng, tưởng tượng, khát vọng, “Không ai có thể suy luận, hy vọng hay sợ hãi nếu 1 Trong bài viết, tr. 4. 14
  15. người ấy không biểu tượng một cái gì” [9, tr.166]. Trên thực tế có những khái niệm không hề có ngoại diên, nhưng vẫn có nội hàm xác định. Theo cách lý giải của Husserl, ngay cả khi đối tượng không tồn tại trên thực tế thì cũng hoàn toàn không ảnh hưởng tới tính thực tại của đối tượng ấy. Trong tác phẩm “Những nghiên cứu logic” tập 1 Husserl đã kịch liệt phê phám chủ nghĩa tâm lý. Bác bỏ các luận đề của chủ nghĩa tâm lý về sự phụ thuộc của logic học vào tâm lý học, ông cho rằng đây là chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa hoài nghi. Husserl bày tỏ mong muốn xây dựng logic thuần túy trở thành khoa học về những “Bản chất” tuyệt đối, không phụ thuộc vào chủ thể. Bước ngoặt tư tưởng Husserl chuyển từ chủ nghĩa logic tuyệt đối của khoa học sang Hiện tượng học khi ông viết tập thứ 2 của “Những nghiên cứu logic”. Chính Hiện tượng học đã in đậm dấu ấn Husserl trong sự phát triển của triết học thế giới. 1.1.4. Giai đoạn Hiện tượng học Xuất phát từ quan niệm Hiện tượng học như khoa học về ý thức thuần túy, như dòng chảy của những “Hiện tượng” (phénomène) với tư cách sản phẩm của hoạt động kiến tạo ý thức thuần túy, Husserl đã mang một hơi thở hoàn toàn mới thổi vào khái niệm “Hiện tượng”. Cho đến trước quan niệm của Husserl, khái niệm “Hiện tượng” đã được bàn trong lịch sử triết học. Những tranh luận xoay quanh các câu hỏi như sau: “Hiện tượng” là những tồn tại khách quan hay là những thứ được mang lại trong cảm giác”? “Hiện tượng” tách rời hay đồng nhất với “Bản chất”? Các nhà triết học thời kỳ Hy Lạp cổ đại chia thành hai trường phái khi đưa ra quan điểm về “Hiện tượng”. Trường phái thứ nhất cho rằng “Hiện tượng” là 15
  16. những gì khách quan, xuất hiện trước giác quan. Trường phái thứ hai cho rằng thế giới các sự vật cảm tính (thế giới hiện thực) chính là “Hiện tượng” với tư cách là cái bóng của thế giới ý niệm. Bản chất thật sự thuộc về thế giới ý niệm, không thuộc về thế giới “Hiện tượng”. Ở đây, bắt đầu có sự tách rời giữa “Hiện tượng” và “Bản chất”. Triết học Cận đại, Berkeley, Hume và sau này là triết học cổ điển Đức, cho rằng “Hiện tượng” không còn phản ánh ý niệm đáng tin cậy nữa. Họ đưa ra các khái niệm khác có quan hệ gần gũi với khái niệm “Hiện tượng”, biểu hiện các mức độ đáng tin cậy, hiện ra khác nhau của tồn tại (cảm tưởng, vẻ bề ngoài, ) như là cái đứng giữa ảo tưởng và chân lý. Kant cho rằng “Hiện tượng” không gì khác chính là hiện thực hoạt động sống của con người, và năng lực nhận thức của con người là có giới hạn. Hegel dành cả cuộc đời để nghiên cứu, biện giải cho tinh thần tuyệt đối. Ông coi “Hiện tượng” là thế giới hiện thực bao gồm cả con người, là sự phản ánh “Tinh thần tuyệt đối”. Nhưng trong khi “Tinh thần tuyệt đối” vận động biện chứng, thì thế giới “Hiện tượng” lại chết cứng, không vận động. Trong triết học, việc sử dụng từ hiện tượng là để nói đến một sự kiện có thể nhận biết được. Có thể nhận biết qua giác quan hoặc trong tâm trí. Thuật ngữ này bắt đầu được sử dụng trong triết học bởi triết gia người Kant, khái niệm “Hiện tượng” đã được Kant sử dụng “vật tự nó” - Ding an sich hoặc "vật tự vật" - thing-in-itself) hoặc Tuyệt đối. Kant bị ảnh hưởng bởi triết gia “tiền bối” Absolute về phần này trong triết lý của ông. Hiện tượng và vật tự thể tương quan với nhau, ta không thể trực tiếp dùng mắt mà thấy. Hiện tượng học tinh thần của Hegel là cội nguồn thực sự và “bí ẩn” của học thuyết Hegel, tức là cái chìa khoá mà có nó, người ta sẽ mở toang được cánh cửa đi vào nội dung quý giá của học thuyết này. Đây là lãnh địa của tinh thần tuyệt đối – bản chất, chi phối toàn bộ thế giới hiện thực. Mọi sự vật chỉ là hiện thân cá biệt của tinh thần tuyệt đối. Theo Hegel, tinh thần thế giới trực tiếp hay gián tiếp 16
  17. bị tha hoá thành tự nhiên, thành các thể chế và các đồ vật do con người tạo ra. Và, tất cả các quá trình tha hoá đó dường như là mặt trái của sự vận động của ý niệm tuyệt đối đến chính mình, đến sự hiện thân trọn vẹn như sự tự nhận thức. Quá trình này diễn ra nhất thiết phải thông qua mặt đối lập của mình, tức là qua vô tri và thậm chí, qua tri thức giả dối xuất hiện trên đường nhận thức một cách tất yếu như tồn tại khác của nó, tức không phải như lỗi ngẫu nhiên, mà như sai lầm tất yếu và cần thiết. Những giới hạn đó của các hiện tượng tha hoá tương ứng với nguyên tắc Hegel về đồng nhất tư duy và tồn tại vốn giống hệt như quá trình bản thể luận phổ quát. Và, với bất kỳ quá trình nào trong số chúng - nhận thức luận hay bản thể luận, thì theo Hegel, tha hoá nhất định phải được vượt bỏ và được khắc phục: Tinh thần quay trở về với chính mình qua đầy rẫy những đớn đau cực hình và những thử thách trải nghiệm đầy thông thái. Chân lý đạt tới độ trọn vẹn và tuyệt đối, thế giới được lý tính rọi sáng hoàn toàn. Lập trường của Hegel trong vấn đề tha hoá đầy lạc quan và chúng ta có thể cảm thấy điều đó ở khắp nơi trong Hiện tượng học tinh thần. Triết học Marx - Lenin khắc phục tính chất duy tâm của triết học cổ điển Đức, đặt khái niệm “Hiện tượng” trong mối tương quan biện chứng với khái niệm “Bản chất”. Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua “Hiện tượng”, còn “Hiện tượng” bao giờ cũng là sự thể hiện của “Bản chất” nhất định. Bản chất nào thì sẽ thể hiện ra qua “Hiện tượng” ấy. Một “Bản chất” có thể được biểu hiện thông qua nhiều “Hiện tượng” và ngược lại một “Hiện tượng” có thể bộc lộ ra nhiều “Bản chất”. Nhưng sẽ luôn chỉ có một “Hiện tượng” là phù hợp hơn cả với “Bản chất” mà nó thể hiện. Khái niệm “Hiện tượng” cũng đóng vai trò quan trọng ở Brentano: tri thức về con người (nhiệm vụ của tâm lý học) mà theo ông chỉ nhận được từ việc quan sát đời sống tâm thần, còn cái gì đạt được từ nhờ sự quan sát như vậy là “Hiện 17
  18. tượng” (phénomène). Theo nghĩa rộng, phénomène là tất cả những gì có thể trở thành khách thể của sự nghiên cứu khoa học. Với nghĩa đó, ta có các phénomène “nội tâm” - tâm lý và các phénomène “ngoại tâm” - vật lý. Cái đặc thù của các phénomène tâm lý là sự tồn tại ý hướng vốn có của chúng. Đối với Husserl, khái niệm “Hiện tượng” trở thành then chốt trong triết học của ông. Bên cạnh cách hiểu truyền thống về “Hiện tượng” như trên, theo Husserl, “Hiện tượng” không những biểu thị những phương diện xác định của sự vật được đem lại trong trực giác cảm tính mà còn đặc trưng cho “dòng ý thức”. Hiện tượng ở Husserl là những “Bản chất” của ý thức được xây dựng dựa trên phương pháp đặc thù của riêng nó. Ông cho rằng, “Hiện tượng học: thuật ngữ này biểu thị một môn khoa học, một phức hợp những bộ môn khoa học; nhưng đồng thời và trên hết nó biểu thị một phương pháp và một thái độ tư duy: đó là thái độ tư duy triết học riêng biệt và phương pháp triết học riêng biệt” [13, tr.23]. Như vậy, Hiện tượng học Husserl có ba đặc trưng cơ bản. Thứ nhất, học thuyết Hiện tượng học là học thuyết về ý thức. Thứ hai, phương pháp riêng biệt, độc đáo của Hiện tượng học là phương pháp quy giản Hiện tượng học. Thứ ba, Hiện tượng học còn là học thuyết về “Thế giới sống” và sự khủng hoảng loài người châu Âu. Thông qua Hiện tượng học, Husserl đã chuyển sự suy từ vấn đề khủng hoảng của khoa học sang cuộc khủng hoảng của con người. Ông đã dành cả đời mình để trăn trở, để suy ngẫm về khoa học, về con người, là nét chấm phá nhưng là nét chấm phá quan trọng nhất trong bức tranh triết học muôn màu, muôn vẻ. 1.2. Hiện tƣợng học Husserl 1.2.1. Bối cảnh hình thành Hiện tượng học Husserl Vào nửa cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phát triển tới cực thịnh của nó, chứng kiến sự biến đổi dữ dội nhất trong lịch sử châu Âu. Đây là thế kỷ của chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa khoa học lên ngôi với những thành tựu khoa học, kỹ thuật, 18
  19. các lý thuyết thực nghiệm chi phối toàn bộ đời sống xã hội, đem lại những ảnh hưởng to lớn cho con người châu Âu. Bước sang thế kỷ XX, một kỷ nguyên hưng thịnh chứng kiến sự phát triển vượt bậc của khoa học, kỹ thuật vượt qua thời kỳ cổ điển bước sang thời kỳ hiện đại. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai được đánh dấu bằng các nguồn năng lượng được khai thác và sử dụng một cách phổ biến. Các ngành công nghiệp năng lượng ra đời: khai thác dầu mỏ, sản xuất gang thép, sản xuất ô tô, đặc biệt là năng lượng điện đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt nhân loại thế kỷ XX trên mọi phương diện đời sống kinh tế, văn hóa, tinh thần, Khoa học ngày càng phát triển, nền sản xuất phát triển kéo theo năng suất lao động tăng nhanh, thúc đẩy chất lượng đời sống con người đi lên. Thế nhưng, do cả quy mô sản xuất lẫn số lượng sản phẩm làm ra tăng nhanh một cách không thể kiểm soát, cần hạn chế cạnh tranh tự do, nên như một điều tất yếu chủ nghĩa tư bản bắt buộc phải thực hiện bước chuyển mình sang chủ nghĩa tư bản độc quyền và ngay sau đó là sang chủ nghĩa đế quốc. Khi nghiên cứu sâu vấn đề kỹ thuật, tiến bộ kỹ thuật, Karl Marx đã chỉ ra mặt trái của nó trong xã hội tư bản “ Những thắng lợi của kỹ thuật dường như đã được mua bằng cái giá của sự suy đồi về tinh thần” [22, tr.10], hay Albert Einstein cũng nhận xét “sự phát triển về khoa học và kỹ thuật đã khiến cho cuộc đấu tranh sinh tồn của con người ngày càng thêm gay gắt” [6, tr.26] với biểu hiện rõ ràng nhất là chiến tranh thế giới thứ nhất. Đầu thế kỷ XX, vật lý học Newton gặp thách thức to lớn. Vật lý học hiện đại của A Einstein, L. Planck đập tan hòn đá tảng tưởng như không thể lay chuyển nổi của vật lý học kinh điển. Các công thức toán học mới ra đời phá vỡ quy luật toán học cổ điển. Tình hình trên làm cho người ta lo sợ trước nguy cơ của khoa học. Nhưng cho đến những năm 30 của thế kỷ XX, từ đó trở đi thì người ta cũng hiểu ra rằng cuộc khủng hoảng đó đã phá vỡ được phần sơ cứng của vật lý học cổ điển, 19
  20. thúc đẩy vật lý học phát triển thêm một bước tiến mới. Với sự ra đời của định lý bất toàn thì mọi người cũng thấy rõ hơn tính không thể của khoa học cho dù đó có là một khoa học chính xác như toán học. Những cố gắng không ngừng nghỉ của các nhà khoa học, cơ bản khắc phục được những khủng hoảng trong lòng nó. Lúc này, Husserl vẫn nói nhiều về khủng hoảng của khoa học châu Âu. Khủng hoảng mà ông đề cập đến ở đây không đơn giản là cuộc khủng hoảng vật lý, số học hay bản thân của bất kỳ khoa học nào mà khủng hoảng về nguồn gốc của khoa học, là khủng hoảng của toàn bộ bầu không khí văn hoá mà khoa học hoạt động trong đó. Hơn ai hết, Husserl hiểu rõ cho dù Newton, Einstein, Planck hay bất kỳ ai sau này là nhân vật tiêu biểu cho vật lý học thì vật lý học từ trước đến nay và từ nay về sau vẫn luôn là một khoa học chính xác. Mọi người có thể phản bác rằng sẽ không bao giờ có được một cấu trúc vật lý đúng tuyệt đối song đó chưa từng là lý do ngăn cản vật lý học là môn khoa học chính xác. Cuộc khủng hoảng ấy, không phải cá biệt cho một môn khoa học nào, một học thuyết cá biệt nào mà là cuộc khủng hoảng chung, tức là khủng hoảng tính người châu Âu. Khủng hoảng cá biệt xảy ra trong các lĩnh vực khác nhau, có những đặc trưng khác nhau nhưng chúng vẫn ràng buộc nhau bởi cuộc sống con người. Cuộc sống con người được đề cập tới là hoạt động sáng tạo có mục đích, sáng tạo văn hoá được tiến hành trong quá trình lịch sử. Con người đánh mất tính người. Trong trạng thái mơ màng, không mục đích con người không thể sáng tạo, cải tạo bản thân, cải tạo thế giới đã dẫn đến sai lầm cả trong lý luận và thực tiễn. Husserl ví khủng hoảng như một con bệnh mà triệu chứng bệnh nó biểu hiện ra là cuộc khủng hoảng khoa học. Khủng hoảng của khoa học không phải ở chỗ bản thân nó được xây dựng không vững chắc, không đồ sộ mà ở cái nền của nó xét về căn bản là không đạt tiêu chuẩn. Đánh mất tính người đó là nguồn gốc thực sự cho mọi sự khủng hoảng. Và, vấn đề 20
  21. ý thức, sự hiểu biết bản thân, hiểu biết lẫn nhau trở nên thiết yếu trong xã hội và chính nó cũng trở thành đối tượng nghiên cứu của Hiện tượng học. 1.2.2. Tiền đề tư tưởng của Hiện tượng học Husserl Với tư cách là một triết gia, Husserl xây dựng triết thuyết của mình khi ông đứng trên “đôi vai của những người khổng lồ”, nhìn nhận, đánh giá và khai phá những tri thức mới. Tiền đề tư tưởng của ông bao gồm: triết học hoài nghi của Descates, chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm của Kant, và tư tưởng của Brentano. Trước hết, Husserl học hỏi từ Descartes. Trong hệ thống triết học Descartes, có hai nguyên tắc để ông đem ra khai thác, luận giải và phê phán: Một là, bất cứ thứ gì ta biết thì phải biết một cách rõ ràng, phân minh, những gì xuất hiện một cách trực tiếp. Hai là, những “Hiện tượng” là an toàn, là chắc chắn ở trên vì được mang lại một cách trực tiếp, được đồng nhất với những tư tưởng, phụ thuộc vào tâm lý của chủ thể nhận thức. Husserl trước hết tán thành với việc nhận thức đối tượng một cách rõ ràng, phân minh bằng con đường trực tiếp. Ông cho rằng không được chấp nhận bất kỳ một tồn tại nào như là có sẵn mà không có sự kiểm chứng rõ ràng minh bạch. Và có thể hoàn toàn chỉ ra được một tồn tại mà ta không có gì để phải nghi ngờ, được mang lại một cách tuyệt đối, hoàn toàn rõ ràng, bất kỳ câu hỏi nào về nó đều có thể đưa ra câu trả lời trực tiếp. Tiếp theo, Husserl đồng ý rằng đối tượng của Hiện tượng học là những cogitations (những tư tưởng, những trạng thái tâm lý, những hành vi và nội dung tư duy) của Tôi được mang lại một cách trực tiếp. Tuy nhiên, Husserl cũng chỉ ra những hạn chế trong học thuyết Descartes. Đầu tiên, Descartes coi cái Cogito (cái tôi tư duy) là cái tôi tâm lý. Husserl viết: “Khi bắt đầu phê phán nhận thức thì toàn bộ giới tự nhiên vật lý và tâm lý, kể cả bản ngã người của chính mình, cùng mọi ngành khoa học có quan hệ với những 21
  22. đối tượng khách quan này, đều phải được đưa vào danh mục những điều khả vấn” [13, tr.48]. Chừng nào vẫn còn tồn tại cái tôi tâm lý, tức là vẫn có gì đó chưa minh bạch hoàn toàn. Với Husserl, cái Cogito của Descartes vẫn cần cần phải quy giản nữa. Vậy “Cái tôi tư duy” mà Husserl hướng đến có gì khác biệt với Descates. Ông gọi đó là Tôi Hiện tượng học, cái Tôi đã được “epoché” khỏi mọi vấn đề tâm lý. Cái Tôi Hiện tượng học chỉ là một điểm nhìn, và cái biết của nó là cái biết chắc chắn, tuyệt đối. Cái tôi Hiện tượng học đóng vai trò như kẻ quan sát một cách thuần túy. Bên cạnh đó, Husserl đặt ra câu hỏi rằng “làm sao nhận thức có thể vượt ra khỏi chính mình và được đối tượng của mình một cách đáng tin cậy” [13, tr.24]. Ông đặt ra vấn đề về nội tại (immanenz) và siêu nghiệm (transzendenz). Đây là hai thuật ngữ được riêng Husserl sử dụng mà không phải ở Descartes. Tính nội tại thuộc về ý thức còn siêu nghiệm là một đặc tính thiết yếu của nhiều đối tượng nhận thức, làm sao để nhận thức được nó. Làm sao có thể nhận thức được sự nội tại là điều dễ hiểu còn làm sao có thể nhận thức được sự siêu nghiệm thì không dễ dàng. Ông lý giải hai thuật ngữ này theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất, nội tại và siêu nghiệm đơn giản là ở bên trong và ở bên ngoài tâm trí, “nội tại (immanenz) có nghĩa là nội tại một cách thực sự (reell/ really) trong trải nghiệm của nhận thức” [13, tr.57]. Nghĩa thứ hai, nội tại có nghĩa “cái được mang lại một cách tuyệt đối và rõ ràng, là cái tự mang lại theo nghĩa tuyệt đối” [13, tr.67]. Còn siêu nghiệm là cái không trình hiện một cách trực tiếp đích thân cho nhận thức mà cùng lắm là chỉ được hình dung để chủ thể suy luận mới đến được đích. Rõ ràng, nếu nội tại được hiểu theo nghĩa thứ hai và siêu nghiệm được hiểu theo nghĩa thứ nhất thì phá vỡ rào cản khuôn khổ của Descartes về sự phụ thuộc vào cái Tôi tâm lý và có thể tránh được thuyết duy ngã. Như vậy, đối tượng được phản ánh một cách chân xác, tuyệt đối đáng tin cậy không có điều gì đáng phải nghi ngờ. 22
  23. Husserl cũng chịu ảnh hưởng từ triết học cổ điển Đức đặc biệt là chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm Kant. Kant chủ trương muốn dung hòa cả triết học duy lý và triết học duy nghiệm truyền thống để giải quyết các vấn đề nảy sinh một cách có hệ thống của “Bản chất” ý thức, các năng lực nhận thức của chủ thể. Kant không đặt ra cho mình mục tiêu làm sáng tỏ “Bản chất” của thế giới, ông chỉ đặt ra cho mình một mục tiêu khiêm tốn hơn là làm sáng tỏ chủ thể nhận thức có thể nhận thức được gì và nhận thức như thế nào. Vậy, chúng ta có thể nhận thức được gì? Chúng ta có thể nhận thức được mọi thứ trong giới hạn của nó. Kant trước sau chỉ xem xét thế giới thông qua các hành vi và hình thức của tính chủ quan của con người. Tính chủ quan này chính là cái mà nhờ đó thế giới mới được đem lại cho con người. Husserl cho rằng ý thức luôn là ý thức về một cái gì đó, ý thức mang tính “tạo dựng”, ông coi toàn bộ thế giới hiện thực và các sự vật là do ý thức, ý đồ chủ quan của con người sắp đặt. Nếu không có hành vi ý hướng của con người thì sự tồn tại của mọi sự vật và “Hiện tượng” đều vô nghĩa. Ông viết: “Cả thế giới thời gian và không gian, bao gồm con người và tính tự ngã của con người, xét về ý nghĩa mà nói, là một thứ tồn tại của ý đồ. Nói thế cũng có nghĩa là, thế giới này đối với ý thức chỉ là cái có sau, có ý nghĩa tồn tại tương đối. Nó là tồn tại của ý thức được bố trí trong kinh nghiệm. Sự tồn tại như vậy, về nguyên tắc, chỉ là cái nhất trí trong biểu tượng ý thức mà nhiều người có thể cảm nhận và quy định. Ngoài cái đó ra, chẳng có gì khác” [5, tr. 485]. Tuy nhiên khi bàn đến tính chủ quan của ý thức, Husserl không đồng ý với cách luận giải của Kant. Với Kant tri giác chủ quan khi kết hợp với các phạm trù giác tính mới cho ra được một tri thức phổ quát và tất yếu. Những nỗ lực của Kant không phải không đáng ghi nhận nhưng Kant không có sự quy giản Hiện tượng học nên dưới con mắt Husserl, Kant chưa thoát khỏi các “Hiện tượng” tâm lý tự nhiên. Và khi xem xét tính chủ quan dựa trên tâm lý tự nhiên, có thể áp dụng trong 23
  24. nhận thức hiện thực khách quan, thế giới bên ngoài nhưng với việc nhận thức về chính tính chủ quan liệu có còn hợp lý. Điều kiện để nhận thức tính chủ quan lại là tính chủ quan, nói cách khác bản thân khách thể nhận thức lại là chính điều kiện để nhận thức khách thể ấy. Husserl cho rằng điều này là nhảm nhí. Tính chủ quan ở Husserl thể hiện như là cơ sở thứ nhất là cái tuyệt đối mà triết học cần xuất phát từ đó lý giải sự tồn tại của vạn vật thậm chí là cả bản thân nó. Tính chủ quan tồn tại một cách hoàn toàn đặc biệt, không có sẵn, không bộc lộ một cách trực tiếp như khách thể mà hiện diện trong mọi hành vi nhưng lại không thể tách rời khỏi hành vi, nó tạo ra bất kỳ sản phẩm nào của hoạt động con người nhưng không thể quy về các sản phẩm đó, nó bao giờ cũng là khả năng nhưng không ở một sự kiện xác định, tham gia vào các hình thức, phương pháp thực tồn nhưng không chịu sự quy định trở lại của các hình thức, phương pháp đó. Và với tư cách là đối tượng thực tiễn, tồn tại người là không thể thiếu quan niệm của con người về chính nó, như vậy sự thấu hiểu tồn tại người là một trong các thành tố cấu thành nên nó. Bước tiến lớn nhất của Husserl so với chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm Kant là việc khám phá một cách tiếp cận đặc thù triết học chuyển từ bản thể luận siêu nghiệm sang bản thể luận văn hóa - vạch ra và mô tả cội nguồn văn hóa của tồn tại người. Tính quy định văn hóa của tồn tại người là cơ sở của mọi hoạt động con người kể cả hoạt động nhận thức, cũng là cơ sở bản thể của sự hiện sinh người. Cách tiếp cận văn hóa, mở ra triển vọng cho việc xác định lại đối tượng và phương pháp triết học trong triết học truyền thống. Và cũng với cách tiếp cận như vậy mà Hiện tượng học Husserl đã trở thành cơ sở quan trọng nhất của toàn bộ triết học phương Tây hiện đại, và vô số lĩnh vực nhân văn khác. Bên cạnh nhị nguyên luận Descartes, chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm Kant, thì Husserl còn chịu ảnh hưởng trực tiếp từ người thầy của mình là Brentano. Husserl tiếp thu quan điểm về “Tính ý hướng” và biến nó trở thành yếu tố quyết 24
  25. định đối với Hiện tượng học. Tính ý hướng là tính chủ ý có định hướng, hoặc nói “tôi nghĩ” thì phải nói “tôi nghĩ về vật nào đó”. Điều đó cũng có nghĩa là, ông đã phân biệt sự khác nhau giữa hoạt động mang “Tính ý hướng” của ý thức và đối tượng của ý hướng. Sự phân biệt đó cho thấy rõ đằng sau nhiều biểu tượng hiển thị trong quá trình nhận thức, còn có “sự nhộn nhịp” của hoạt động mang “Tính ý hướng” [xem 15]. Brentano là người ảnh hưởng nhiều nhất đến con đường triết học của Husserl, hai tác phẩm “Về khái niệm con số” - 1887 và “Triết học của số học” - 1891 là minh chứng cho sự ảnh hưởng của tâm lý, ông muốn giải thích toán học dựa vào tâm lý. Nhưng Husserl đã giải phóng học thuyết của mình ra khỏi chủ nghĩa tâm lý. Khám phá ra “Bản chất” độc lập của các “Hiện tượng” (phénomène) tâm lý, sự không phụ thuộc của chúng đối với hiện thực bên ngoài và cấu trúc thể xác, tâm hồn con người đã đem lại một đối tượng nghiên cứu đặc biệt - nó nằm trong chính nột tâm con người nhưng lại không phụ thuộc vào chủ thể tâm lý. Husserl đã đem đến một cách tiếp cận khác về đối tượng nghiên cứu đặc biệt là phương pháp nghiên cứu độc đáo - phương pháp quy giản Hiện tượng học để giải quyết các vấn đề triết học truyền thống còn bỏ ngỏ và làm cơ sở cho nhiều trường phái triết học phương Tây hiện đại sau này. 1.2.3. Một số nội dung cơ bản của Hiện tượng học Husserl a. Khái niệm “Hiện tượng học” Hiện tượng học (phénomènologie) là một trong những khuynh hướng tư tưởng triết học có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ tiến trình phát triển của triết học phương Tây hiện đại. Husserl đặt vấn đề như sau: “Trong tất cả các biểu hiện, nhận thức là một biểu hiện tâm lý: đó là nhận thức của chủ thể nhận thức. Đối tượng được nhận thức 25
  26. đứng đối lập lại với chủ thể nhận thức. Vậy thì làm thế nào đảm bảo được sự tương ứng của nó đối với đối tượng được nhận thức? Làm thế nào nhận thức vượt ra khỏi chính nó để gặp được đối tượng một cách đáng tin cậy?” [13, tr. 24]. Theo Husserl, triết học truyền thống cho rằng những gì được mang lại trong nhận thức có thể thực sự hiểu được, và đó là một quan điểm sai lầm. Ông nói: triết học truyền thống “thường tiền giả định rằng: những gì duy nhất được mang lại mà có thể thực sự hiểu được, không khả nghi và tuyệt đối hiển nhiên phải là những momen thực sự chứa trong hành vi nhận thức, và, vì thế, họ xem xét tất cả những gì liên quan đến đối tượng được nhận thức mà không thực sự chứa đựng trong hành vi nhận thức mới là những gì bí hiểm, nghi vấn, có vấn đề. Tuy nhiên, ta sẽ sớm thấy rằng đây là vấn đề sai lầm nghiêm trọng” [13, tr. 58]. Không thể sử dụng các khoa học truyền thống làm cơ sở, Husserl cho rằng chỉ có thể dựa vào toàn bộ những nội dung tư duy (cogitationes), tức là từ hành vi của ý thức hay nội tại của ý thức. Bởi nơi đó có những gì “được mang lại một cách tuyệt đối” hay “Hiện tượng học thuần tuý”. Đó là những gì diễn ra trong ý thức là tuyệt đối, không có gì khả nghi, là chân lý tuyệt đối. Husserl gọi đây đích thị là bến đỗ an toàn và vững chắc mà Hiện tượng học có thể “thả neo”. Như vậy, theo Husserl nhận thức Hiện tượng học là học thuyết nhận thức về “Bản chất”. Hiện tượng học phân tích và nghiên cứu “Bản chất” trong khuôn khổ sự quan sát trực quan thuần tuý hay trong khuôn khổ những gì được mang lại một cách hiển nhiên. Đối với những ai có thể đặt mình ở vị trí trực quan thuần tuý và gạt bỏ hết mọi thiên kiến tự nhiên, ắt hẳn rằng sẽ thấy không chỉ những cái cá biệt mà cả những cái phổ biến, những đối tượng phổ biến, những sự việc phổ biến cũng có thể đạt được trạng thái thuần tuý, được mang lại một cách hiển nhiên. Vì thế, Hiện tượng học đặt ra nhiệm vụ nắm bắt “Bản chất” của nhận thức. Vấn đề ở đây không phải là quan sát những gì diễn ra mà mô tả sự nhận thức phát 26
  27. triển như thế nào. “Câu hỏi đặt ra là: Về bản chất thì cái gì được chứa đựng và được đặt nền tảng nơi những hiện tượng nói trên? Chúng được cấu thành từ những yếu tố nào? Chúng có thể kết hợp với nhau ra sao khi nắm bắt vấn đề về mặt bản chất và như cái nội tại thuần tuý; và đâu là những mối quan hệ tổng quát bắt nguồn từ chúng?” [13, tr. 98]. Bên trong ý thức luôn xác định được yếu tố nội tại đích thực nhưng đồng thời ta cũng sẽ thấy một tương quan giữa yếu tố nội tại đích thực ấy và đối tượng khách quan được ý hướng. Muốn hiểu được “bản chất của ý thức thì phải lĩnh hội được hai yếu tố. “Làm rõ bản chất của nhận thức, và đưa ra những sự kết nối mang tính bản chất thuộc về nhận thức thành những gì tự mang lại, chính nghiên cứu cả hai mặt này, là xét mối quan hệ thuộc về bản chất nhận thức” [13, tr. 98]. Trong mọi trường hợp nghiên cứu bản chất không bao giờ là đối với các hiện tượng đơn lẻ, cá biệt. Cái đến rồi đi theo dòng chảy bất tận của của ý thức không phải là cái mà Hiện tượng học nhắm tới. Hiện tượng học nhắm tới cội nguồn của nhận thức, đến những bản chất phổ biến có thể nhìn thấy được, đến những cái phổ biến được mang lại một cách hiển nhiên, tuyệt đối. Theo Husserl, chắc chắn một số đối tượng không đơn thuần khép kín trong hành vi tâm trí, phá vỡ chiếc lồng chật hẹp của Descartes, đó chính là những cái phổ biến. Cái phổ biến chính là cái bản chất, mà có thể nhận thức về nó một cách trực tiếp (không cần đến suy luận hay khái quát hoá) mặc dù nó vượt ra khỏi hành vi tâm trí của ta. Hoạt động nhận thức của ý thức trong tính nội tại đích thực được hiểu trực quan, hiển nhiên và trong sự siêu việt nằm bên ngoài, vượt ra khỏi phạm vi của các hành vi nhận thức. Đến đây thì Husserl đã khắc phục được hạn chế của Descartes trong nhận thức về đối tượng. Để làm rõ bản chất của ý thức, Husserl bắt đầu với ý tưởng cho rằng, mọi ý thức của con người đều là ý thức về đối tượng nào đó. Vậy, thực chất của đối tượng mà ý thức con người hướng tới là gì, hành vi nhận thức đối tượng diễn ra 27
  28. như thế nào? Husserl trả lời câu hỏi này bằng khái niệm “Tính ý hướng” và “Phương pháp quy giản Hiện tượng học”. b. Khái niệm “Tính ý hướng” Khái niệm “Tính ý hướng” tiếng Latinh là intentio, có nghĩa là hướng tới - khái niệm của một loạt học thuyết triết học, được sử dụng ghi nhận sự đặc thù của ý thức con người. Sự đặc thù của ý thức thể hiện ở định hướng của nó vào một đối tượng nào đó. Theo Ceneca (4 TCN-65 SCN), “Tính ý hướng” là phương thức vận động của tâm thần. Theo Thomas Aquino (1225 - 1274) thì nó là một trong số những công cụ nhận thức của trí tuệ, công cụ hiện thực hoá những tiềm năng của trí tuệ nhờ nắm bắt khách thể bằng ý thức. Đến Brentano, thì khái niệm “Tính ý hướng” được đem đến với một hơi thở mới. Bên ngoài “Hiện tượng” của ý thức không có đối tượng nghiên cứu của triết học, vì tính thực tại, tính hiện hữu, tính được đem lại của thế giới thể hiện là tổng thể những “Hiện tượng” (phénomène) tâm lý hoàn toàn khả tri với tư cách những cái hiện diện trong ý thức. Theo Brentano, “Tính ý hướng” là “có quan hệ với nội dung”, “hướng vào một đối tượng”. Mọi ý hướng đều là hướng vào một đối tượng, “Hiện tượng” tâm lý là “Hiện tượng” có ý hướng bao dung đối tượng vào tự thân nó. Tiếp thu quan điểm này, Husserl nhất trí rằng bất kỳ hành vi nào của ý thức cũng hướng tới một đối tượng nào đó. Tôi thấy một cái cây và nó trình diện cho tôi với một số lượng các quy định nhất định, xác định ý nghĩa khách quan mà nó mà nó có cho tôi, nghĩa là: nó là gì cho tôi. Nếu tôi nhìn nó trong màn sương mù, nó được thiết định như là chính đối tượng ấy nhưng lại mang trong ý thức của tôi. Nhờ vào sự phản tư đang được đối tượng hóa: đối tượng được làm giàu thêm với một quy định mới mẻ và vì thế, được làm cho sẵn sàng đón nhận một đặc tính hoàn toàn mới mẻ. Tuy nhiên, màu sắc kinh nghiệm và chủ nghĩa tâm lý nặng nề là nội dung mà Husserl phê phán Brentano trong lý luận “Tính ý hướng” của ông. Brentano phân 28
  29. biệt hiện tượn tâm lý và hiện tượng vật lý. Điều này chỉ đúng trong phạm vi tâm lý học kinh nghiệm truyền thống, còn trong lĩnh vực Hiện tượng học sự phân biệt đó không còn giá trị. Trong thế giới của ý thức thuần tuý, bất kỳ đối tượng nào đều tồn tại không thể tách rời ý thức. Chúng đều được ý thức hướng đến. Brentano cũng không thể thoát khỏi sự phân biệt chủ - khách thể, nhận thức - đối tượng. Ông sử dụng khái niệm “bao hàm” để luận giải, tức là mô tả “Tính ý hướng” là đối tượng đã thâm nhập vào ý thức, mối quan hệ lúc này kiểu như vật bao chứa và vật bị bao chứa. Husserl muốn triệt để khắc phục kiểu quan hệ như vậy khi ông đưa ra mối quan hệ giữa đối tượng ý hướng (noema) và hành vi ý hướng (noesis). Khái niệm “Đối tượng ý hướng” (neoma) là nội dung của hoạt động ý hướng. Các triết gia Hy Lạp sử dụng Neoma để chỉ nội dung được tư duy. Vì vậy, từ này được dùng dưới hình thức “được ”. Đối tượng ý hướng bị hoạt động của “Tính ý hướng” đồng nhất, thống nhất, hướng vào. Nếu hỏi “noema là gì?”, câu trả lời chỉ có thể là cái làm cho trải nghiệm tạo dựng của ý hướng. Và nếu lại hỏi “trải nghiệm tạo dựng của ý hướng là như thế nào?”, câu trả lời cũng chỉ có thể là trải nghiệm tự thân. Noema tức là ý nghĩa hoạt động tạo dựng, là đối tượng trong hoạt động của “Tính ý hướng”, nên gọi là đối tượng ý hướng. Đối tượng ý hướng cũng được phân làm hai loại: đối tượng như nó ý hướng và đối tượng ý hướng. Thứ nhất “đối tượng như nó ý hướng” là đối tượng của ý hướng nội tại (là đối tượng đã gác lại, loại bỏ các thiên kiến tự nhiên). Thứ hai, “đối tượng được ý hướng” là đối tượng ở bên ngoài. Hai loại đối tượng này đều là đối tượng ý hướng, trong đó “đối tượng được ý hướng luôn chuyển hoá thành “đối tượng như nó ý hướng” trở thành đối tượng của ý hướng nội tại. Đối tượng ý hướng khiến chúng ta chú ý dựa theo cái mà ý hướng hướng vào để nắm bắt nó. Có như thế thì hoạt động ý hướng của ý thức mới phong phú, sâu sắc. 29
  30. Khái niệm “hành vi ý hướng” (neosis) cũng bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp. Các triết gia Hy Lạp dùng nó để chỉ hoạt động tư duy, chứng tỏ nó chủ động, không ngừng hoạt động. Trong Hiện tượng học, nó là mắt khâu quan trọng trong trải nghiệm của “Tính ý hướng”. Nếu hỏi “Noesis là gì?”, sẽ không một câu trả lời trực tiếp, bởi nó không là một cái cụ thể nào, hoặc bất cứ hoạt động đặc thù nào. Ta chỉ có thể căn cứ vào tình hình mà nó thể hiện trong trải nghiệm ý hướng cụ thể, để mô tả lại nó. Hành vi ý hướng là mắt khâu quan trọng trong việc chuyển hoá “đối tượng được ý hướng” thành “đối tượng như nó ý hướng”. Trong quá trình đó hành vi ý hướng nắm bắt và duy trì đối tượng. Mặt khác hành vi ý hướng cũng tiến hành việc làm rõ, liên hệ, tập hợp, nhằm phát huy vai trò tổng hợp của nó. Đồng thời nó còn thể hiện những quan niệm giá trị tương ứng như tin tưởng, hoài nghi hoặc phủ định, Trong trường hợp này, hành vi ý hướng như hoạt động tổng hợp, cấu thành nên đối tượng. Hành vi ý hướng là mắt khâu kết cấu mang tính “Bản chất” của trải nghiệm “Tính ý hướng”. Nó là lĩnh vựa hoạt động của trải nghiệm “Tính ý hướng”, và cũng là đặc trưng ý thức của nó. Hành vi ý hướng có thể biểu hiện thành hoạt động tạo dựng, cũng có thể biểu hiện thành hoạt động tổng hợp. Nó được kiến tạo không ngừng trong hoạt động nhận thức của con người. Hai lĩnh vực kết cấu nên “Tính ý hướng” của ý thức: đối tượng ý hướng và hành vi ý hướng có mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau. Trong đó, hành vi ý hướng mang tính bản chất còn đối tượng ý hướng có địa vị không “Bản chất”. Hành vi ý hướng như người chấp hành chủ động trong quá trình nhận thức còn đối tượng ý hướng bị động trong quá trình này. Hành vi ý hướng đa tạp, tạo dựng còn đối tượng ý hướng thống nhất và được tạo dựng. Tuy nhiên, sự mật thiết của hai khái niệm này là không có gì để bàn cãi. Không thể nói rằng trong một hành vi ý hướng nào đó lại không có đối tượng ý hướng tương ứng với nó và ngược lại. Mối quan hệ giữa đối tượng ý hướng và hành vi ý hướng là kết cấu mang tính chỉ đạo, 30
  31. để phân tích kết cấu trong các lĩnh vực hoạt động của “Tính ý hướng”, từ đó giải quyết các vấn đề còn mập mờ, không rõ của triết học truyền thống. Trên cơ sở đó, “Tính ý hướng” trong Hiện tượng học Husserl mang đặc trưng “tạo nghĩa”. Cùng với hoạt động định hướng là hoạt động hiện thực hoá định hướng ấy có ý nghĩa quan trọng. Trong quá trình nhận thức cụ thể, hai hoạt động đó đan xen vào nhau, gắn liền chặt chẽ với nhau, không thể tách khỏi nhau. Chúng thúc đẩy lẫn nhau để hình thành quá trình nhận thức sôi động. Trong lịch sử, lý luận Hiện tượng học truyền thống, bao giờ cũng đi từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính với khái niệm, phạm trù làm cơ sở. Ngay cả Kant được coi có “một cuộc cách mạng kiểu Copernik”, thì cũng chỉ dùng các phạm trù giác tính để chỉnh lý các tài liệu cảm tính được cung cấp liên tục bởi các sự vật khách quan. Nhưng với Hiện tượng học Husserl, hết thảy mọi hoạt động nhận thức đều là sự tự phản tư về chính nó. Tất cả mọi đối tượng vật lý, nếu nó là đối tượng trong lĩnh vực ý thức thì nó không còn là đối tượng bên ngoài nữa mà trở thành ý nghĩa nội tại. Quá trình đó được thực hiện và hoàn thành bằng chính khả năng “tạo nghĩa” của ý thức. Mối quan hệ chủ - khách thể, nhận thức - đối tượng cơ bản được giải quyết. Với đặc trưng “tạo nghĩa” của “Tính ý hướng” thì ý thức luôn hướng về đối tượng. Khi tìm kiếm, một cách vô tình hay hữu ý thì đã luôn có một dáng hình, tính cách, trình độ văn hoá, được hình thành trong đầu óc người. Cái đối tượng trong ý tưởng đó không có một đối tượng thực, nó là một đối tượng trừu tượng được tạo ra từ trong quan niệm. Thực ra đó là khả năng “tạo nghĩa” của ý thức. Trong hoạt động nhận thức, ý thức hướng vào đối tượng, tạo nên bản chất của đối tượng ấy, để biểu hiện ra thành các hiện tượng thuần tuý, bản chất thực tại của đối tượng được mang lại một cách tuyệt đối. Husserl đã đề xuất một phương pháp hoàn toàn mới mẻ trong việc đào sâu, bám rễ tìm kiếm bản chất tận cùng của đối tượng, đó là phương pháp Hiện tượng học. 31
  32. c. Phương pháp Hiện tượng học Nếu như “Tính ý hướng” bàn đến kết cấu của và nội dung của ý thức, thì câu hỏi tiếp theo là làm thế nào để nhận thức đạt được tri thức “Bản chất” cuối cùng, không bị nhiễu loạn bởi những thiên kiến, ảo tưởng. “Thiên kiến tự nhiên” là một khái niệm được Husserl sử dụng để chỉ toàn bộ những luận điểm, định kiến (ý thức hàng ngày, dư luận, các luận điểm khoa học tự nhiên, các luận điểm triết học truyền thống, các tín điều tôn giáo, các định đề mang tính quyền uy, ) nằm sẵn trong nền tảng của chính các học thuyết, lý luận, và nó là điểm hạn chế. Thật vậy, “Ta tự bảo, nó tồn tại tự mình ở đó; bất chấp ta có nhận thức nó hay không thì nó vẫn cứ tự mình diễn ra” [13, tr. 33]. Đi theo phương pháp nhận thức truyền thống, các tri thức chưa thể loại bỏ hoàn toàn các “tạp chất tự nhiên” vốn tồn tại sẵn từ trước. Cách mà khoa học truyền thống có được tri thức khách quan là rút ra trên cơ sở những suy luận mang tính kinh nghiệm. Bởi vậy, những tri thức ấy tuy xác định, song cũng chứa cả những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng bởi sự mập mờ, thiếu sót của kinh nghiệm cảm tính. “Toàn bộ nhận thức mang tính tự nhiên chủ nghĩa, tiền khoa học và khoa học đều là nhận thức mang tính siêu việt - khách quan hoá; nó coi các khách thể là tồn tại và cố gắng nắm bắt chúng, trong khi đó chúng theo nghĩa chân thực không được đem lại, không mang tính nội tại với nó” [9, tr. 213 -214]. Bởi vậy, trước tiên cần tìm cách khắc phục những “thiên kiến tự nhiên” này. Đây là một suy tư không phải theo cách giành lấy cho mình một bộ phận xác định của thế giới để nghiên cứu như các ngành khoa học khác, mà chính xác là tìm kiếm một cách tiếp cận, một lập trường, một tư duy mới. Vậy phương pháp đó cần phải như thế nào? Theo Husserl, bất kỳ nghiên cứu nhận thức nào, dù thuộc loại hình nhận thức này hay loại hình nhận thức kia thì cũng cần tiến hành sự quy giản nhận thức luận, ông gọi đó là phương pháp “Quy giản Hiện tượng học”. “Quy giản” nghĩa là 32
  33. “đặt mọi sự siêu việt có liên quan vào danh mục bị loại trừ, hay vào danh mục của sự dửng dưng, của sự vô hiệu của nhận thức luận, vào danh mục với lời tuyên bố rằng: sự hiện hữu của mọi sự siêu việt này, dù tôi có tin vào chúng hay không, là tuyệt nhiên không liên quan gì đến tôi ở đây cả; và, đây không phải là nơi để tôi đưa ra phán đoán về chúng, việc phán đoán ấy hoàn toàn ở ngoài cuộc” [13, tr. 62]. Husserl đưa ra thuật ngữ “Epoché”, vốn có nguồn gốc từ thuyết khắc kỷ cổ đại, có nghĩa đen là “kiêng”, “nhịn”, còn nghĩa bóng là “gác lại”, “treo lại”. Theo Husserl, nhà Hiện tượng học cần kiềm chế phán đoán, bởi thế giới vốn luôn đầy rẫy những đánh giá, những ý kiến trái ngược nhau. Việc bổ sung các phán đoán không những làm phức tạp hoá vấn đề mà còn làm tăng hỗn loạn xã hội. Hiện tượng học không che đậy, không im lặng mà có hướng đi riêng để không lu mờ cả ý kiến của mình và của những người xung quanh. Nhà Hiện tượng học không nên cố phán đoán mà chỉ nên kể, mô tả, xây dựng hình ảnh đối tượng để nghiên cứu. Husserl thường nói đến 3 kiểu quy giản: Thứ nhất là quy giản triết học (có ý kiến gọi là giản lược lịch sử), là yêu cầu đặt ra ngoài nhận thức mọi học thuyết của tiền nhân, bởi nhà Hiện tượng học cần nắm lấy ngay bản thân sự vật. Trong tư duy, đây là bước tiến đầu tiên nhằm tránh những đường mòn, đặt lại mọi vấn đề. Ở đây, tư tưởng của Husserl có sự liên hệ và chịu ảnh hưởng bởi nguyên tắc nhận thức minh bạch, rõ ràng của Descartes. Quy giản này cũng đi đến hành động đặt các quan điểm khoa học về giới tự nhiên “sang một bên”, và là sự chuyển hướng về phía lĩnh vực Hiện tượng học – lĩnh vực của ý thức. Thứ hai là quy giản “Bản chất”, “đặt trong ngoặc” hữu thể của tự nhiên. Theo Husserl, để tìm lại kinh nghiệm sống của mình, chúng ta phải đặt thế giới hiện hữu vào trong ngoặc để chỉ nhắm đến cái “Hiện tượng” trong ý thức, của ý thức. Khi đó, mỗi đối tượng hay thế giới hiện hữu nói chung chỉ là một eidos (cái 33
  34. mà tôi ý thức). Theo đó, khi tôi tư duy, chú ý đến một cái gì đấy thì thế giới tự nhiên bị tạm thải loại ra ngoài phạm vi của ý thức. Như vậy, quy giản “Bản chất” đưa ta đến sự gặp gỡ giữa ý thức và đối tượng. Đối tượng lúc này không phải là sự vật, “Hiện tượng” của giới tự nhiên, mà là tôi đang ý thức. Thứ ba là quy giản Hiện tượng học, đến đây mới là phương pháp đặc thù giúp ta “vén màn” để đi tới thế giới “Hiện tượng”. Bước quy giản này làm cho thế giới hiện ra đúng như nó đã xuất hiện trong kinh nghiệm sống của ta, cho thấy thế giới đã xuất hiện dưới ý thức như thế nào trong mỗi cái nhìn của ta. Nhờ các thao tác quy giản Hiện tượng học, toàn bộ nội dung đối tượng được loại bỏ. Ý thức được “làm sạch” và biến thành “ý thức thuần tuý”. Nó chỉ giữ lại những đặc điểm vốn có ở ý thức nói chung. Nói cách khác, ý thức thuần tuý là ý thức đạt tới sự thấu hiểu bản thân nó như là ý thức phổ biến. Sau khi đạt tới sự thuần tuý của ý thức, chủ thể nhận thức sẽ có một cái nhìn không còn thiên kiến về bản thân mình. d. Khả năng tạo dựng của ý thức Việc có được tri thức đích thực, không tạp nhiễm chỉ là một phương diện của Ý thức, một phương diện khác của nó là “Khả năng tạo dựng”. Trước hết, ý thức tạo dựng thời gian, thời gian là hình thức tồn tại của ý thức. Thời gian, theo quan điểm của Husserl, được xem là hình thức của mọi trải nghiệm chủ thể, chúng diễn ra đồng thời và nối tiếp nhau. Husserl lấy một ví dụ về âm thanh. Một âm thanh vang lên trong thời điểm hiện tại, đó là thời điểm hoàn toàn khách quan thuần tuý. Nhưng cũng chính âm thanh đó có thể xuất biến thành “Hiện tượng” nếu chủ thể để nó “lùi” vào quá khứ. Cái “Hiện tượng” ấy, trong mỗi lúc vừa là cái bây giờ, vừa là cái đang thay đổi theo một tiến trình liên tục. Hình thức thời gian cũng giúp cho những trải nghiệm được hồi tưởng theo đúng trình tự. Hình thức thời gian của ý thức cũng giúp cho sự quá độ từ trải nghiệm này sang 34
  35. trải nghiệm khác. Những trải nghiệm riêng lẻ - cũng như các những giai đoạn của chúng không bao giờ tiếp diễn nhau một cách nhảy vọt. Giữa những trải nghiệm luôn có một sự quá độ. Âm thanh vang vọng trong khoảnh khắc này rồi trầm lặng trong khoảnh khắc kế tiếp thì giữa hai khoảnh khắc còn có một cái gì khác nữa và thường là trầm lặng. Sự liên tục của bước quá độ có căn nguyên trong chuỗi tiếp diễn của các giai đoạn thời gian của dòng chảy ý thức. Các trải nghiệm không chỉ dàn trải theo thời gian mà còn có tính quảng tính của không gian. Cũng giống như thời gian, không gian khách quan của đối tượng được đặt cơ sở trên cơ sở cấu tạo chủ quan của chủ thể. Không gian khách quan nhào trộn với không gian chủ quan, dựa trên cơ sở không gian chủ quan. Sự biến đổi của thời gian và không gian trên cơ sở tính chủ thể được Husserl gọi là “những tổng hợp thụ động” (passive synthesis) theo nghĩa không có sự thêm thắt của cái Tôi như vẫn diễn ra trên địa vực của tính chủ thể. Những tổng hợp kế tiếp nhau kiến tạo nên những gì mà ta gọi là thế giới. Bên cạnh vấn đề “Khả năng tạo dựng của ý thức”, “cấu tạo tính liên chủ thể” cũng là một nội dung đáng chú ý trong nghiên cứu của Husserl. Ý thức không đơn thuần là ý thức của tôi mà nó còn chi phối, sáng tạo nên ý thức của tha nhân. Khả năng kiến tạo của chủ thể mà Husserl bàn tới ở đây không phải là cái thuộc về từng cá hể riêng biệt, mà của mọi cá thể. Ý tượng này, đặt ra trong bối cảnh khủng hoảng xã hội của Châu Âu, có ý nghĩa như thế nào. Trong một xã hội thiếu đi sự giao tiếp, người ta không thấu hiểu nhau, đối xử với nhau xa cách, lạnh lùng. Vậy có thể khắc phục như thế nào. Husserl đưa ra khái niệm “Tính liên chủ thể siêu nghiệm”, với xuất phát điểm về sự giống nhau giữa người với người ở năng lực ý thức. Husserl cho rằng người ta ban đầu nhận thức nhau như những chủ thể tri giác, khi đạt tới trình độ nhận thức người khác cũng như chính mình, họ sẽ thấu hiểu nhau. 35
  36. Một nội dung nữa trong “hệ sinh thái” ý thức của Hiện tượng học là “Thế giới sống” (lebenswelt). Theo Husserl, Ý thức không chỉ kiến tạo nên ý thức tha nhân mà còn bao trùm toàn bộ thế giới tự nhiên, xã hội. Với sự ra đời của các bộ môn khoa học thời Cận đại, cùng với đó là việc toán học hoá giới tự nhiên khiến thế giới xung quanh chúng ta mất dần đi ý nghĩa. Mọi “Hiện tượng” của tự nhiên chỉ còn được xem xét dưới giác độ định lượng. Những câu hỏi thiết thân và đặc trưng của con người bị gác lại, bị gạt bỏ khỏi các ngành khoa học thực chứng. Thế giới chỉ được hiểu như “vũ trụ của các sự kiện đơn thuần” - các sự kiện vừa có nghĩa, vừa vô nghĩa. Khoa học châu Âu rơi vào khủng hoảng, trong bối cảnh đầy hiểm hoạ của nguy cơ phát xít và chiến tranh, Husserl đề xuất giải pháp quay lại với Ý thức và những công năng “kiến tạo thế giới” của nó thông qua “tự nhận thức” sâu sắc về chính mình. Hiện tượng học thời hậu kỳ, Husserl đã có những thay đổi đáng kể. Nếu “thiên kiến tự nhiên” chủ yếu được xem xét dưới góc độ phê phán thì với sự ra đời của khái niệm “Thế giới sống”, nhãn quan Hiện tượng học có chiều cạnh mới. “Thế giới sống” theo Husserl là “thế giới hiện thực cụ thể” là thực tại bao quanh chúng ta và bao hàm chúng ta, là cơ sở tồn tại của chúng ta. Đây là thế giới kinh nghiệm đang được trực giác, có quan hệ với tính chủ quan của kinh nghiệm và với cuộc sống hàng ngày của cộng đồng người. Nó được đem lại trước và ngoài khoa học. Tuy nhiên ý thức cùng với những “Hiện tượng” của nó vẫn là cái lăng kính mà thông qua đó mọi thứ được khảo cứu. Nhận thức của chúng ta vẫn xuất phát từ những tài liệu thô cảm tính, sau đó tổng hợp lại thành đối tượng nhận thức để rồi mô tả lại trạng thái thật sự của tồn tại thông qua “Thế giới sống” – thế giới chủ quan. Đồng thời “Thế giới sống” ấy lại là cơ sở cho những nhận thức đó. “Thế giới sống” trở thành cơ sở cuối cùng cho hết thảy mọi tri thức khách quan, là cơ sở tuyệt đối của thực tiễn khoa học, chính trị, lao động của con người. Trên cơ sở đó, 36
  37. chúng ta không ngừng trừu tượng hoá mới rút ra được từ những yếu tố cảm tính cái năng lực nhận thức cần thiết. Như vậy, thế giới hiện ra dưới lăng kính của các nhà khoa học tự nhiên chỉ là một phần - phần thô cứng, đằng sau nó còn cả một “Thế giới sống” cần được khai phá. Cấu trúc cơ bản của “Thế giới sống” là tính lịch sử của nó. Thế giới sống hiện ra với ta thông qua bộ mặt của truyền thống, lịch sử; là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Thế giới này, một mặt có sắc thái nhân cách sâu sắc, mặt khác thể hiện là môi trường của những sự vật. Căn cứ trên hai mặt này của thế giới tạo nên một môi trường lý tưởng, sự đan xen phức tạp giữa những thực tại khách quan hoá của văn hoá. Đây cũng là lối thoát của Hiện tượng học trong việc xác định cái Tôi siêu nghiệm và cho thấy hoạt động kiến tạo của ý thức thuần tuý. Khái niệm “Thế giới sống” là sự khởi đầu cho cách tiếp cận phương pháp luận triết học mới - cách tiếp cận nhân học văn hoá, đặt nền móng cho bản thể luận văn hoá. Với cách tiếp cận như vậy, “Thế giới sống” như thể là không gian văn hoá cho sự hình thành nhân cách với tư cách chiếc chìa khoá để mở ra bí ẩn về cách thức hiện hữu của thế giới trong ý thức cá nhân. Có thể coi Hiện tượng học là bản thể luận ý thức, tức học thuyết về những cơ sở bản thể, tồn tại của ý thức. Theo Hiện tượng học, con người tồn tại trong hai thế giới: thế giới vật thể vật chất và “Thế giới sống” của con người. Trong khuôn khổ của “Thế giới sống”, các “Bản chất” hiện ra dưới dạng các khái niệm, phạm trù. Thế giới vật chất vốn hiện hữu khách quan trong các vật thể, và nhiệm vụ của chúng ta là nhận biết những “Bản chất” tồn tại trong nó. Cuộc sống con người là sự hài hoà giữa thế giới khách quan và “Thế giới sống”. Hiện tượng học không ngừng đòi hỏi: hãy nhân lên những cảm nghiệm (“Thế giới sống”), hãy phát hiện ra những “Bản chất”, đừng tách “Bản chất” ra khỏi những cảm nghiệm, hãy hành động phù hợp với kết quả nhận thức Hiện tượng học của mình. Tất cả những đòi hỏi ấy mang đậm sắc thái 37
  38. đạo đức, thuộc vào lĩnh vực “Lý tính thực hành” mà I. Kant đã từng nói. Những tai hoạ của nhân loại ở thời văn minh công nghệ là hệ quả của cuộc khủng hoảng trong các khoa học vốn dựa trên thành tựu của khoa học và triết học cận đại. Các nhà khoa học khi đạt được những thành tựu quan trọng trong nhận thức “Bản chất” các sự vật, đem lại vị thế tối quan trọng cho các ngành khoa học tự nhiên thì đồng thời quên đi, tách rời “Thế giới sống” của con người. Khoảng cách giữa hai thế giới được hình thành, không thể khoả lấp bằng những thành tựu khoa học mới. Điều này chứng tỏ trong cuộc sống còn có một cái gì đó còn quan trọng hơn cả những thành tựu đó. Đó là quy trình tạo dựng ý nghĩa ban đầu, trong đó con người tự kiến tạo bản thân mình. Tư tưởng về tồn tại người của Husserl, trở thành tiền đề quan trọng cho triết học hiện sinh sau này. Có thể nói, Hiện tượng học Husserl đã khắc phục những khủng hoảng của châu Âu ở phương diện đề xuất một cách tiếp cận mới, giàu sức thuyết phục đối với vấn đề Ý thức. Với tiếp cận này, Ý thức trở về nguyên nghĩa bản thể của nó, giúp con người lý giải nguyên nhân của những khủng hoảng, từ đó tạo tiền đề lý luận cho việc khắc phục khủng hoảng. 1.3. Một số ý nghĩa và ảnh hƣởng của Hiện tƣợng học Husserl đối với triết học phƣơng Tây hiện đại Có thể nói, trong dòng chảy bất tận của lịch sử triết học, Hiện tượng học Husserl là một màu sắc khác lạ, là một điểm nhìn mới mẻ nhưng đồng thời cũng là mắt khâu quan trọng để lý giải và khắc phục những khủng hoảng của xã hội Châu Âu giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Husserl xây dựng Hiện tượng học nhằm thiết lập một nền tảng lý luận vững chắc về Ý thức, giúp con người gạt bỏ những “thiên kiến tự nhiên” trong nhận thức của mình. Lập trường của Hiện tượng học là mô tả, chứ không giải thích hay phân tích; khuynh hướng của Hiện tượng học là nhằm triển khai, mô tả sự xuất hiện của 38
  39. đối tượng, sự hình thành của thế giới như ta thấy trong kinh nghiệm của ta. Hiện tượng học là một triết học đặt các “Bản chất” tại nơi hiện hữu, nên nó là thứ triết lý siêu nghiệm chủ trương “thế giới đã có rồi” trước khi con người phản tỉnh. Nỗ lực của con người là tìm về nơi gặp gỡ giữa chủ thể với thế giới và xây dựng cho nó một cơ sở triết học. Hiện tượng học là học thuyết về “Bản chất” của Ý thức. Nó giúp nhận thức các “Hiện tượng” đúng như nó xuất hiện nơi ý thức. Hiện tượng học đề xuất phương pháp mới khám phá “Bản chất” đối tượng. Nó gác lại những thiên kiến sai lầm tìm ra luận điểm đáng tin cậy. Việc phát hiện ra phương pháp quy giản Hiện tượng học giải quyết những khó khăn của lý luận nhận thức khi sa vào thái độ tự nhiên. Phương pháp Hiện tượng học do Husserl sáng lập cùng với các vấn đề mà ông đặt ra đáng để cho các thế hệ kế tiếp lưu tâm. Nhiều trào lưu tư tưởng, trường phái triết học Pháp chịu ảnh hưởng sâu sắc bưởi tư tưởng Hiện tượng học Husserl. Chủ nghĩa hiện sinh của Jean Paul Sartre đã vận dụng một cách cụ thể và sáng tạo phương pháp Hiện tượng học. J. P Sartre kế thừa tư tưởng về “Tính ý hướng” của Hiện tượng học. Ông lý giải nó như sau, “Tính ý hướng - đó là cấu trúc cơ bản của mọi ý thức. Từ đó tất yếu sẽ nảy sinh sự khác biệt căn bản giữa ý thức và cái được ý thức. Khách thể của ý thức, cho dù nó có là gì đi chăng nữa (trừ trường hợp ý thức phản tư), về nguyên tắc, tồn tại bên ngoài ý thức: nó mang tính siêu việt” [9, tr. 398]. Theo Sartre, nguyên tắc “Tính ý hướng” là hình thức triết học duy nhất cho phép chúng ta ý thức được tính thực tại khách quan và tính quy định của thế giới về ý thức. Điều này giúp ông lý giải được thực tế rằng, những xung đột, mâu thuẫn của tồn tại người không thể khắc phục được theo con đường mâu thuẫn trong lĩnh vực ý niệm. Đây là một cách tiếp cận mới mẻ khắc phục tính trực quan trong nhận thức đồng thời mở ra thái độ thực tiễn đối với cuộc sống. 39
  40. Trên đất Đức, Hiện tượng học cũng hun đúc lên đội ngũ các nhà triết học lớn: Heidegger, Nicolai Hartmann, Goeger Gadamer, Họ là đại diệ tiêu biểu của các lĩnh vực: nhân học triết học, triết học hiện sinh, chú giải học, Mặc dù trong tư tưởng của các vị này ít nhiều có những bất đồng với Husserl, nhưng Hiện tượng học vẫn là cái gốc cho học thuyết của họ. Trong thế giới thuật ngữ triết học, ngoài từ “Hiện tượng học” được dùng để chỉ tư tưởng Husserl, còn có cụm từ “trào lưu tư tưởng Hiện tượng học” để chỉ các học thuyết theo Hiện tượng học. Những trào lưu, học thuyết này tạo thành bộ phận chủ yếu của trào lưu tư tưởng nhân văn thế kỷ XX. Triết học hiện sinh Heidegger, cũng kế thừa học thuyết về “Tính ý hướng”. Với cách tiếp cận này, thế giới hình ảnh của khách thể sẽ biến mất chỉ còn lại duy nhất một thế giới khách thể ý hướng. Triết học Hiện tượng học còn có ý nghĩa to lớn, thúc đẩy sự phát triển các lưu tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn đương đại. Nó mở ra bức tranh triết học sống động, muôn màu muôn vẻ với nhiều những trường phái, trào lưu ở khắp nơi trên thế giới. Tiểu kết chƣơng 1 Trong tác phẩm “Khủng hoảng của các khoa học châu Âu và Hiện tượng học siêu nghiệm”, Husserl đã viết: “Triết học là một môn khó học; là một khoa học thực sự, nghiêm túc, được khẳng định, không thể nghi ngờ. Giấc mơ ấy đã đến hồi kết” [11, tr. 219]. Quả tình, giấc mơ ấy đã đi theo ông hơn nửa đời người. Suốt mấy chục năm ấy, ông chỉ tâm tâm niệm niệm về một khoa học Hiện tượng học là một khoa học nghiêm túc, để có thể phản ánh bản thân sự việc một cách tuyệt đối không sai sót. Husserl cũng ôm ấp cho Hiện tượng học như các triết gia thế kỷ trước quan niệm trở thành khoa học của mọi khoa học, lý luận của mọi lý luận. Nó là nền tảng, cơ sở cho việc nhận thức hết thảy mọi khoa học, phải bám sát vào những lý luận, nguyên tắc của Hiện tượng học mới có thể có chân lý phổ biến 40
  41. mang tính phổ quát, tất yếu. Theo Hiện tượng học thì chủ thể tiên nghiệm là cơ sở, mấu chốt chi phối tất cả. Song, khi ông phát hiện ra thế giới cuộc sống phong phú và rộng lớn, thì Hiện tượng học cũng đứng trước nguy cơ “phá sản”. Bởi lẽ, cái thế giới ấy không lấy chủ thể tiên nghiệm làm cơ sở, thậm chí nó đã sẵn có trước mọi thể nghiệm của ý thức và mọi hoạt động cấu trúc. Thế giới đó là nguồn tài nguyên vô tận cảm tính, bất cứ chủ thể nào cũng phải cắm rễ trong đó, không ngừng giao tiếp, không ngừng hỗ trợ cùng nhau họp thành giới tự nhiên, xã hội sinh động, phong phú. Đến đây, tầm nhìn và phương pháp của triết học Hiện tượng học đã không thể tìm kiếm hết ngọn nguồn của nó; các yêu cầu của Hiện tượng học với tư cách là triết học của các khoa học nghiêm túc không thể thoả mãn nữa. Trên cơ sở phân tích những vấn đề chủ yếu của Hiện tượng học Husserl, ta thấy lập trường duy tâm chủ quan thể hiện rõ nét. Ông cho rằng đối tượng, khách thể của nhận thức không tồn tại khách quan mà tồn tại chủ quan trong ý thức của con người. Quan điểm này bộc lộ hạn chế nhất định trong vận dùng nhằm lý giải những trường hợp cụ thể của thực tiễn. Trần Đức Thảo một trong số ít những người đã tiếp cận trực tiếp với các tài liệu mà Husserl, qua đó có một cái nhìn mang tính phê phán khoa học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Vậy, ông đã tư duy như thế nào? 41
  42. CHƢƠNG 2. QUAN ĐIỂM CỦA TRẦN ĐỨC THẢO ĐỐI VỚI HIỆN TƢỢNG HỌC EDMUND HUSSERL 2.1. Đôi nét về Trần Đức Thảo và những hƣớng nghiên cứu của ông Về tiểu sử, Trần Đức Thảo sinh ngày 26/9/1917 tại xã Song Tháp, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh trong một gia đình viên chức nhỏ. Trần Đức Thảo vốn là học sinh xuất sắc của trường trung học Pháp Albert Sarraut (Hà Nội), từng đạt giải Nhì cuộc thi Triết học các trường trung học toàn quốc Pháp. Năm 1935, sau khi đỗ xuất sắc tú tài, ông theo học Trường Luật Hà Nội. Năm 1936, ông được gửi sang Pháp chuẩn bị thi vào Trường cao đẳng sư phạm phố d' Ulm (Thủ đô Paris) - một trường nổi tiếng ở Pháp về truyền thống tư tưởng tân tiến, văn hoá và khoa học hiện đại. Năm 1939, Trần Đức Thảo thi đỗ vào trường này với số điểm cao. Đến năm 1945, ông tốt nghiệp thủ khoa, nhận học vị thạc sĩ triết học về luận án “Phương pháp “Hiện tượng” luận của Husserl”. Về các hướng nghiên cứu chính, các công trình của Trần Đức Thảo được chia thành bốn nội dung lớn. Thứ nhất là sự phê phán Hiện tượng học Husserl trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng (ông viết trong giai đoạn sống ở Pháp 1941 - 1951). Thứ hai là sự chuyển hoá trong tư tưởng Trần Đức Thảo từ lập trường chủ nghĩa duy tâm biện chứng của Hegel sang lập trường duy vật biện chứng của Marx, khẳng định vai trò của chủ nghĩa Marx trong việc nhận thức và cải tạo thế giới. Thứ ba, những công trình nghiên cứu có thể được xếp vào chủ nghĩa duy vật biện chứng của Trần Đức Thảo (1966 - 1986). Đây cũng là một phần của hệ vấn đề vẫn làm Trần Đức Thảo trăn trở từ thập niên 1940: ý thức, tư tưởng xuất hiện như thế nào trong cuộc tiến hoá vĩ đại của tự nhiên đi từ vật chất, qua sinh vật, lên nhân loại. Cũng chính ở mảng này, ông đã để lại một tác phẩm có tầm vóc quốc tế nữa “Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không con người” (1988). Thứ tư, liên quan đến bản chất và sự hình thành con người, qua đó, ông cũng nêu 42
  43. sơ đồ tiến hoá của lịch sử loài người, từ “xã hội cộng sản nguyên thủy” lên “xã hội cộng sản khoa học”, thông qua sự chuyển biến của các phương thức sản xuất trung gian. Những đóng góp của Trần Đức Thảo nổi bật ở hai mảng nghiên cứu: thứ nhất, về Triết học Marx; thứ hai ,về Hiện tượng học. Đối với Triết học Marx, từ khi giác ngộ chủ nghĩa Marx đến khi về cõi vĩnh hằng vào ngày 19/4/1993, thời gian cách nhau trên 40 năm, Trần Đức Thảo đã dành toàn bộ thời gian làm cho triết học Marx trở nên “nhập thế”, gắn liền với đời sống, với số phận con người, dân tộc mình. Ông có niềm tin sâu sắc rằng chủ nghĩa Marx không phải là một lý thuyết giáo điều, mà phải là ngọn đuốc thực tiễn dẫn đường cho cuộc cách mạng vô sản. Ông nhận thức sâu sắc khả năng lý giải các vấn đề bản thể của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đóng góp lâu dài của Trần Đức Thảo là một tư duy triết học thuần khiết. Điều này trước hết thể hiện năng lực trừu tượng hoá cao, kế đó là khả năng biết đặt và giải quyết các vấn đề Triết học dưới ánh sáng của những phát kiến khoa học mới bằng các phương pháp nghiên cứu liên ngành [xem 34]. Với Hiện tượng học, Trần Đức Thảo không những là người am hiểu sâu sắc mà còn phát triển nó ở một số phương diện. Bàn về Ý thức, Husserl và các nhà Hiện tượng học quả thức đã tạo nên một “hệ sinh thái” các khái niệm phong phú, sâu sắc. Tuy nhiên, với Trần Đức Thảo, ông đặt câu hỏi: “Nhưng ý thức do đâu mà có?”. Với Husserl, Ý thức có vẻ tồn tại sẵn, sự sinh thành, vận động của nó đã được “an bài” ở đâu đó. Vấn đề còn lại chỉ là tìm hiểu xem Ý thức làm thế nào để đạt tới tri thức đích thực, không thiên kiến. Khác với thầy mình và các đồng nghiệp, Trần Đức Thảo muốn tìm hiểu nguồn gốc sinh thành của Ý thức. Trong những năm 40 - 50 thế kỷ trước, ông lờ mờ nhận ra Hiện tượng học còn thiếu cái gì đó rất căn bản làm nền tảng, mà nếu không tìm được lời giải thỏa đáng thì sẽ dẫn 43
  44. đến sự sụp đổ vào bất kỳ lúc nào của nó. Trên đường tìm kiếm, ban đầu, một cách ngẫu nhiên, ông đã gặp Chủ nghĩa duy vật biện chứng và tìm hiểu nó. Nhưng phải phải đến nửa cuối những năm 60 - đầu những năm 70, câu trả lời về nguồn gốc của Ý thức trong ông mới trở nên sáng rõ, là lý do trực tiếp ông để ông viết tác phẩm “Tìm về cội nguồn ngôn ngữ và ý thức”. Từ đây, ông không chỉ tự giác đứng trên lập trường duy vật biện chứng mà còn phát triển học thuyết này ở một số phương diện mới. 2.2. Lập trƣờng nhìn nhận Hiện tƣợng học Husserl của Trần Đức Thảo 2.2.1. Chủ nghĩa duy vật ở Trần Đức Thảo Với động cơ ban đầu tìm kiếm nguồn gốc của Ý thức, Trần Đức Thảo đã tìm đến Chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nhưng học thuyết này không chỉ nói về điều đó. Nó còn nói đến những nội dung khác, quan trọng hơn, lớn lao hơn, đến mức khiến Trần Đức Thảo dám từ bỏ điều mình đã dày công theo đuổi. Ông viết: “được đào tạo Hiện tượng học, việc lựa chọn chủ nghĩa Marx đã tạo nên ở tôi yêu cầu bỏ Hiện tượng học kép của cả Hegel và Husserl khỏi hình thức duy tâm và các yếu tố siêu hình của nó, để sử dụng những gì còn có giá trị phục vụ cho chủ nghĩa duy vật biện chứng, tìm ra một giải pháp tính khoa học cho vấn đề tính chủ quan” [29, tr. 18]. Đáng nói là, Chủ nghĩa Marx tại thời điểm đó bị đánh giá là học thuyết mang tính giáo điều và thấm đẫm chủ nghĩa sùng bái cá nhân, nhưng Trần Đức Thảo vẫn lựa chọn. Trong quá trình nhận thức chủ nghĩa duy vật biện chứng, Trần Đức Thảo thậm chí rơi vào bế tắc. Chương hai tác phẩm “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng” (1950), Trần Đức Thảo thể hiện rõ mong muốn cải cách triết học của mình theo con đường duy vật. Tuy hiểu đúng phương pháp biện chứng, nhưng ông lại quên phải đặt vấn đề trong thực tiễn. Điều này khiến cố gắng của ông, khi khi muốn trung hoà đặt Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng trở nên “thất bại”, rơi vào nhị nguyên luận ít hay nhiều mang tính duy tâm. 44
  45. Bế tắc của Trần Đức Thảo chỉ được tháo gỡ khi tiếng vang của Đại hội lần thứ XX của Đảng Cộng sản Liên Xô đã tác động đến ông cùng với sự kiện quay về Việt Nam tham gia kháng chiến theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bầu không khí của công cuộc đổi mới đã giúp ông hiểu sâu sắc luận giải của Marx về nguồn gốc của việc chiếm đoạt sở hữu cộng đồng, về thái độ của người sản xuất đối với cộng đồng, với cơ sở lao động và phương thức lao động của mình. Mối quan hệ giữa sản xuất và sở hữu - nền tảng cho sự tiến hoá của lịch sử - chỉ có thể được làm sáng tỏ thông qua quá trình sống trải trong chính thực tiễn sản xuất. Đến đây, Trần Đức Thảo đã thể hiện rõ lập trường của mình khi gắn phương pháp biện chứng với thực tiễn xã hội. Ông đã biến Hiện tượng học siêu nghiệm của E. Husserl thành Hiện tượng học thực tiễn với một phương pháp mới, đồng thời đánh dấu sự kết thúc nghiên cứu Hiện tượng học. Với nền tảng Hiện tượng học, cùng lập trường duy vật biện chứng, Trần Đức Thảo đã có những suy tư giá trị, góp phần bổ sung, làm phong phú hơn triết học Marx. Chẳng hạn, trong vấn đề vật chất - ý thức, ông giải thích sâu sắc hơn mối quan hệ này thông qua nghiên cứu cội nguồn của ngôn ngữ. Như Friedrich Engelss đã nói “trước hết là lao động, sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con người, làm cho bộ óc đó dần dần chuyển thành bộ óc của con người” [23, tr. 646], Trần Đức Thảo tập trung vào nghiên cứu ngôn ngữ. Ngôn ngữ, theo Trần Đức Thảo, là “tín hiệu học của đời sống hiện thực trong lao động sản xuất”. Là tiếng nói bên trong của ý thức, nhưng nội dung của ngôn ngữ không phải là những ý niệm viển vông, mơ hồ đâu đó, mà gắn liền với đời sống thực. Ý thức về Chân – Thiện – Mỹ là thực và có cơ sở. Tất cả điều này là vì ngôn ngữ, ý thức gắn liền với lao động. Lập trường duy vật biện chứng cũng giúp Trần Đức Thảo nhìn rõ hơn tính vật chất của đời sống ý thức – đối tượng trung tâm của Hiện tượng học. Dù đã xây 45
  46. dựng một “hệ sinh thái” các khái niệm về “Ý thức”, Hiện tượng học vẫn không thể chỉ ra tính mục đích cuối cùng của Ý thức là gì. Thế giới Ý thức hay ho, đẹp đẽ là vậy, nhưng để làm gì, nếu nó không gắn với hoạt động thực tiễn, vật chất của con người. Điểm trống của Hiện tượng học chính là nó không nhìn thấy tính biện chứng sống động của đời sống hiện thực, sống động như Trần Đức Thảo mô tả trong “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng”: “thực tại, với tư cách là phép biện chứng, là sự vận động như thế, trong từng phương thức tồn tại, những sự biến đổi của trật tự nhân quả, do chính cấu trúc của phương thức ấy quy định, qua chính sự phát triển nội dung của nó, tất yếu dẫn đến việc tạo lập một phương thức mới: hấp phụ phương thức trước đây và duy trì nó như là cái bị thải hồi, được bảo lưu, bị vượt bỏ” [31, tr.713]. Từ đó, Trần Đức Thảo nhận định: “Hiện tượng học chưa nhìn ra được tính vật chất của đời sống cảm tính nên mục đích của công cuộc Hiện tượng học nhằm “đặt triết học “trên con đường vững chắc của khoa học”, nghịch lý thay lại kết thúc trong một thuyết tương đối có tính duy cảm luận. Với nó, truyền thống vĩ đại của thuyết duy tâm duy lý luận đi đến sự cáo chung” [31, tr. 700]. Lập trường duy vật biện chứng cũng cho Trần Đức Thảo một cái nhìn sâu sắc về vấn đề chủ thể nhận thức. Ông cho rằng sự phân tích duy tâm từ lâu đã phát hiện rằng mọi ý thức đều bao hàm hoạt động của chủ thể, nhưng nó chỉ được dùng như là cỗ máy chống lại chủ nghĩa duy vật bằng cách phủ định tính hiện thực của đời sống con người hiện thực. Trong sự Tồn tại của cái Tôi, mọi sự phốc động, sinh động của đời sống hiện thực bị biến thành cái chết cứng, vô hình, bị đè nén, chèn ép. Chỉ còn lại đó cái “linh hồn”, cái Ý niệm tuyệt đối, lang thang như cơn gió vô định, không mục đích, song lại tưởng là toàn bộ tồn tại. Dù Ý thức có sống trải phong phú như thế nào, dù sự tự ý thức về cái Tôi có phong phú bao nhiêu, thì nó vẫn mãi là chật hẹp, phiến diện, bởi nó được bao bọc trong thế giới tinh thần đã 46
  47. thoát khỏi, xa rời hiện thực. Theo nghĩa đó, chủ thể vẫn chưa phải là chủ thể, vì chưa được làm chủ chính mình. Tư thế ấy chỉ xuất hiện, tồn tại khi Ý thức hay cái Tôi được đặt vào đời sống vật chất, lao động. Có thể nói, lập trường duy vật biện chứng của Trần Đức Thảo mang màu sắc riêng, bởi nó được nghiên cứu, suy tư trong mối tương quan với nền tảng Hiện tượng học. Đây chính là điểm độc đáo của Trần Đức Thảo, cho phép ông không chỉ phê phán đúng Hiện tượng học, mà còn “vượt bỏ” nó ở một số điểm. 2.2.2. Quan điểm của Trần Đức Thảo về “Bản chất” trong Hiện tượng học Husserl Quan điểm của Trần Đức Thảo về “Bản chất” trong Hiện tượng học, theo chúng tôi, có ba điểm chính. Thứ nhất, về động lực của nghiên cứu “Bản chất”. Đồng ý với quan điểm của Husserl “Hiện tượng học là khoa học về “Bản chất”, song khác với Husserl, Trần Đức Thảo cho rằng động lực nghiên cứu “Bản chất” ấy không phải chỉ để “tỏ tường” cơ cấu hoạt động của Ý thức, mà “động lực đích thực của các nghiên cứu “Bản chất” (eidétiques) buộc ta phải quay trở lại với cái hiện thực” [31, tr. 451], nghĩa là “Bản chất” trong Hiện tượng học có nguồn gốc sâu xa từ hiện thực. Thứ hai, về mối quan hệ giữa “Bản chất” và “Sự kiện”. Mục đích của Husserl khi nghiên cứu “Bản chất” chính là tìm hiểu cách thức đạt tới tri thức phổ quát, tất yếu. Nhưng ngay từ đầu, ông đã cho rằng một tri thức như thế không thể gắn với những “sự kiện” cảm tính, biểu thị cái gì khả hữu. Sự phân biệt về hai loại tri thức đó là đúng, song việc tách rời chúng lại là một sai lầm. Đối với Husserl Hiện tượng học luôn nắm bắt “Bản chất” bằng “sự trừu tượng ý thể hoá” từ những thực thể cá biệt thông qua quy giản hiện tượng học. Bản chất có tính phổ quát nghiêm ngặt, không giới hạn, khác với sự tổng quát hoá hay khái quát hoá dựa trên 47
  48. các quy luật tự nhiên. Sự quy giản chỉ có nhiệm vụ vạch rõ nội dung của khái niệm trong khi loại bỏ mọi quan hệ với cái hiện hữu. Nhưng theo Trần Đức Thảo, muốn hiểu được giá trị tổng hợp tiên nghiệm những quy luật của “Bản chất” phải quy lại tận gốc của cái khả hữu, mà xét đến cùng chính là bản thân của hiện thực, trong chừng mực được phơi bày trong ý nghĩa của nó. Với các nhà Hiện tượng học, “Bản chất” là độc lập với cái hiện thực, không phải là chúng nằm ở bên ngoài nó mà bởi chúng đi trước cái hiện thực và mang lại ý nghĩa cho cái hiện thực ấy. Nguyên nhân do đâu mà lại đẩy các nhà Hiện tượng học theo con đường nghiên cứu đó? Trần Đức Thảo cho rằng bởi họ đã quá đề cao phương pháp mà mình theo đuổi. Sự vượt mặt của phương pháp với việc xác định đối tượng, để rồi mọi phân tích “Bản chất” tồn tại phát hiện ý nghĩa thực sự của nó đều quy chiếu đến cái tôi, chịu sự chi phối bởi ý thức của tôi. Thứ ba, Trần Đức Thảo cũng đồng tình với câu khẩu hiệu “quay trở lại với bản thân sự vật” của Husserl song cách làm của Husserl thì có thật sự “bóc trần” được “Bản chất” của đối tượng. Hiện tượng học là một sự thanh tân đáng kinh ngạc, là một sáng tạo mới mẻ. Sự độc sáng ấy thể hiện ở chính phương pháp quy giản hiện tượng học. Nhưng phương pháp ấy cũng thể hiện ra những điểm bất cập khi khái niệm “Thế giới sống” ra đời. Chính Husserl cũng phải giật mình thảng thốt rằng “nếu thế giới (mondain) là tất cả những gì có trước việc quy giản siêu nghiệm,thì, qua việc quy giản ta đã thật sự di ra khỏi thế giới” [31, tr. 456]. Còn Trần Đức Thảo lại khác, ông cho rằng việc nghiên cứu và hiện thực hoá “Bản chất” là bước đầu tiên đối với triết học và những khó khăn do triết học đặt ra phải đòi hỏi có sự vượt bỏ biện chứng. Việc khám phá ra chân lý triết học cơ bản này là rất quan trọng, rằng cái đang hiện hữu tiền giả định ý nghĩa sự tồn tại của nó trong chính bản thân nó. Vì thế, triết học đã bắt đầu bằng cách khẳng định rằng sự vật đẹp chỉ hiện hữu thông qua vẻ đẹp tự thân chứ không phải từ thế giới ý niệm kiểu 48
  49. Plato hay tồn tại siêu nghiệm kiểu Kant hay Husserl. Từ đó, vấn đề đặt ra không còn là sự phân biệt giữa cái thường nghiệm và cái “Bản chất” nữa, bởi bất kỳ khái niệm nào - được nắm bắt trong chính nó đều biểu thị một cái “Bản chất”. Trong thực tế, việc tìm kiếm “Bản chất” đích thực không nằm ở đâu xa lạ mà ở trong chính cái hiện thực. Như vậy, Trần Đức Thảo đồng ý với những luận điểm mà Husserl đưa ra khi tìm hiểu về “Bản chất”, song cách làm của Husserl thì vẫn còn đó những mâu thuẫn, hạn chế so với luận điểm ban đầu. Xét đến cùng, Husserl vẫn không xác định được điểm khởi đầu khi nghiên cứu vấn đề “Bản chất” là xuất phát từ chính cái hiện thực mặc dù trong các nghiên cứu của mình ông đã manh nha chỉ ra điều này. Nhiệm vụ của Trần Đức Thảo là phát hiện ra nó và sử dụng một phương pháp toàn diện hơn để khắc phục những hạn chế mà Husserl gặp phải. 2.2.3. Quan điểm của Trần Đức Thảo về “Tính ý hướng” trong Hiện tượng học Husserl Quan điểm của Trần Đức Thảo về “Tính ý hướng” trong Hiện tượng học, theo chúng tôi, tập trung ở bốn điểm chính. Thứ nhất, về cơ bản ông đồng tình với khái niệm “Tính ý hướng” và hiểu rõ lịch sử vận động của khái niệm này. Thực vậy, “Tính ý hướng” là một khái niệm quan trọng của Hiện tượng học, khởi đầu từ Brentano khi cho rằng mỗi hiện tượng tâm lý đều được đặc trưng bởi sự hiện hữu có chủ đích. Trong khi bản thân Brentano đề cập đến mối tương quan của “Hiện tượng” tâm lý với đối tượng bên ngoài, thì Husserl lại tránh nói tới “tính hiện hữu” của đối tượng ý thức, và tránh cả đề cập tới các “hoạt động” của ý thức nhằm thiết lập sự tương quan giữa các đối tượng. Đối với Husserl, mọi đối tượng được nhắm tới đều mang tính tư tưởng và thuộc về các “Hiện tượng”. Husserl nhấn mạnh ý thức là ý thức về một cái gì đó trong bản thân nó, ý thức còn đòi hỏi cái gì khác với bản thân nó, nghĩa là đối 49
  50. tượng mà nó nhắm tới. Husserl luôn hướng tới trung tâm, nơi mà chủ thể và khách thể tỏ ra là không thể tách rời nhau. Ông đưa ra hai khái niệm đối tượng ý hướng và hành vi ý hướng, mối quan hệ ràng buộc không thể tách rời giữa chúng nhằm biện giải cho mong muốn của mình. Thứ hai, Trần Đức Thảo tập trung vào vấn đề “Chức năng tạo dựng của ý thức” – một quan điểm được Husserl xây dựng vào lúc cuối đời. Ý thức không chỉ hướng một cách có chủ đích vào đối tượng mà nó nhận thức, đồng thời nó còn có khả năng kiến tạo một cách năng động ý nghĩa cho chính mình. Theo Husserl, thời gian thực sự không phải là thời gian được phân định bởi cái đồng hồ như Aristotle từng tuyên bố trong định nghĩa nổi tiếng của ông: “Thời gian là sự đo lường chuyển động, diễn ra từ thời điểm trước đến thời điểm sau” [trích theo 8, tr. 614] mà được xác định bởi ý thức. Đó là thời gian mang tính “Hiện tượng”. Husserl cho rằng cái hiện tại sống động phải là hiện thực của những khoảnh khắc đang chuyển động, đã từng chuyển động trong quá khứ và sẽ tiếp tục chuyển động trong tương lai. Cả ba cái này đều được phác hoạ trong sự phóng chiếu vào tương lai, diễn ra một cách có chủ ý vào một thời điểm luôn vận động. Đồng tình với điều này, Trần Đức Thảo cho rằng thời gian không chỉ được hiểu là thời gian vật lý, mà còn là thời gian “Hiện tượng”, do đó phản ánh lịch sử một cách chân xác. Thời gian hiểu theo nghĩa như thế làm cho lịch sử trở thành phép đo lường về nhân tính với tất cả sự phong phú của các quan hệ của đời sống hiện thực, một lịch sử phốc động, chứ không chết cứng, đã trừu tượng đi các quan hệ nhân quả tuyến tính. Trần Đức Thảo viết: “Vào mỗi khoảnh khắc khi cá nhân tính mang tính sinh học trỗi dậy như một hệ thống chức năng được thừa hưởng từ quá khứ, mọi sự thừa hưởng được hình thành dựa trên sự lắng đọng trong quá khứ của nó và vẫn được hiện thực giữ lại và tiếp tục hoà trộn với cái bây giờ, thì cá nhân mang tính sinh học ấy sẽ kích thích quá trình chuyển hoá chức năng trong tương lai” 50
  51. [trích theo 4, tr. 1125]. Đây là luận điểm triết học rất quan trọng của Trần Đức Thảo, có ý nghĩa trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hoá, đặc biệt là khi nhiều quốc gia đang phải sống trong sự chia rẽ, hận thù bởi các di sản quá khứ. Thứ ba, đứng trên quan điểm duy vật biện chứng, Trần Đức Thảo còn nhìn thấy tính logic – lịch sử trong Ý thức. Ví dụ, một đứa bé trở thành một thanh niên rồi từ một thanh niên trở thành một người đứng tuổi, thì những giá trị sống của thời thơ ấu luôn luôn được giữ lại phát triển thành những giá trị của thời trưởng thành. Cứ như thế, khi nó trở thành người trưởng thành đứng tuổi, thì những giá trị của thời thơ ấu không bị chôn vùi trong quá trình phát triển. Quan điểm này rất quan trọng, bởi mỗi sự vật, “Hiện tượng” trong quá trình phát triển luôn giữ lại những giá trị tinh tuý của quá khứ. Nếu một sự vật, “Hiện tượng” trong quá trình phát triển không hồi đáp lại những giá trị của thời quá khứ thì trước hay sau sự vật, “Hiện tượng” ấy tự nó sẽ sụp đổ. Mỗi khoảnh khắc trong hiện thực đều hàm chứa quá khứ, thống nhất với tương lai. Quan điểm về thời gian của Trần Đức Thảo mang tính duy vật vì mỗi khoảnh khắc được tạo thành bởi chính sự phát triển của sự vận động sự vật, “Hiện tượng”. Đồng thời, quan điểm ấy, cũng mang tính biện chứng, bởi mỗi khoảnh khắc không phải là một cái gì cố định mang tính hư vô như là cái tiền định, mà cái khoảnh khắc hiện tại chính là quá trình phủ định của phủ định liên tục xảy ra trong lịch sử. Thứ tư, Trần Đức Thảo quan tâm tới nội dung ý thức kiến tạo nên tha nhân của Hiện tượng học. Theo Husserl, “tha nhân” với tư cách là “một cái tự ngã”, sẽ không bao giờ tồn tại trong tôi được, nên tôi không thể lĩnh hội được điều gì về nó hết. Tuy nhiên, do “Tha nhân” được cấu tạo dựa trên những đặc điểm giống tôi, đặc biệt ở năng lực nhận thức, nên tôi có thể hiểu được “tha nhân”. Những con người nhận thức này quy định lẫn nhau bằng cách làm cho mình hiểu nhau. Trên thực tế, họ không ngừng tác động lẫn nhau để chứng minh sự tồn tại của bản thân 51
  52. mình. Trong những hành động tương hỗ này mỗi bên hành động dựa vào việc mình là một chủ thể và đối tượng mình tác động vào cũng là một chủ thể không thua kém gì. Tuyệt nhiên, đây không phải là mối quan hệ nhân quả thay thế cho nhau một cách cơ giới mà tồn tại với tư cách là một nhân cách, thúc đẩy người khác thực hiện hoạt động. Vì thế, Trần Đức Thảo phát hiện ra sự cấu tạo được đặt trong những nghịch lý. “Làm sao cái tôi của tôi, bên trong sự riêng biệt của nó lại có thể cấu tạo nên “cái tôi khác” bằng một cách nào đó. Bởi nó là một cái xa lạ đối với người khác, nghĩa là làm sao quy cho nó ý nghĩa hiện hữu, đặt nó bên ngoài nội dung cụ thể “của bản thân cái tôi cụ thể” này, là cái cấu tạo nên nó” [32, tr. 526]. Trong những tác phẩm sau này của mình, khi đã vững vàng trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng, tìm được tận cùng nguồn gốc của ý thức thì Trần Đức Thảo đã giải quyết triệt để nghịch lý này. Chỉ trong lao động, khi con người biết phản tư về chính bản thân mình khi ấy ý thức mới xuất hiện. Để hiểu được “Bản chất” của ý thức, phải xuất phát từ đời sống hiện thực của con người để lý giải ý thức, tư tưởng của họ chứ “không xuất phát từ những con người chỉ tồn tại trong lời nói, trong ý nghĩ, trong tưởng tượng, trong biểu tượng của người khác, để từ đó mà đi tới những con người bằng xương bằng thịt”, đồng thời “việc sản xuất ý niệm, các biểu tượng, ý thức trước hết dược quấn vào nhau trong các hoạt động vật chất và các quan hệ vật chất của con ngườicủa con người trong ngôn ngừ của hiện thực đời sống. Biểu tượng, tư duy các quan hệ tinh thần của con người còn xuất hiện ở đây như sự toả phát trực tiếp của hành vi xử sự vật chất của họ” [21, tr. 37 -38]. Thứ năm, Trần Đức Thảo quan tâm đến “Thế giới sống” của Hiện tượng học. Hậu kỳ Hiện tượng học của mình, Husserl đưa ra khái niệm “Thế giới sống” trên tinh thần “cấu tạo thế giới” dựa trên các dữ kiện cảm tính, vận động. Trần Đức Thảo không đồng tình với những mô tả của Husserl về “thế giới nguyên sơ, triển khai với sự đắc ý rõ rệt về những toạ độ cảm tính - vận động, khiến không 52
  53. còn nghi ngờ rằng “chủ thể siêu nghiệm” do Hiện tượng học đề ra không được đồng nhất với con người bằng xương bằng thịt đang phát triển, tiến hoá trong thế giới hiện thực” [31, tr. 425]. Theo đó, với Trần Đức Thảo, chủ thể siêu nghiệm phải được thay thế bằng chủ thể hiện thực. Từ lúc ấy trở đi, ta cần xét lại Hiện tượng học, vẫn có ngoại lệ mà Husserl dành cho Hiện tượng học về “vật” (Ding). Kỳ cùng, tận nền móng của mọi thực tại khác, ta tìm thấy thực tại tự nhiên, và như thế, Hiện tượng học về tự nhiên vật chất, không nghi ngờ gì nữa, giữ vị trí ưu tiên. Trần Đức Thảo nhận xét “sự trở thành hiện thực của vật chất đi tới sự sống, và từ sự sống đi tới tinh thần, hiểu như tồn tại xã hội” [31, tr. 427]. Để phân tích “Thế giới sống”, Trần Đức Thảo đã đặt nó trong dòng chảy thời gian, nối dài từ quá khứ đến hiện tại và từ hiện tại đổ về phía tương lai. Có thể nói, lý thuyết về “Thế giới sống” là một sáng tạo lớn, độc đáo của Trần Đức Thảo, đã phản ánh đúng hiện thực của sự vận động của thế giới khách quan, đồng thời xây dựng quan điểm đúng đắn về thời gian, về các khoảnh khắc của khoảnh khắc để con người có thái độ khách quan với lịch sử và đối với chính bản thân mình. Từ đó, con người có thể sử dụng cái quá khứ bền vững nhằm xúc tiến giải quyết các vấn đề hiện tại đặt ra, luôn có xu hướng tiến bộ vì sự phát triển, hạn phúc tự do của con người. Thông qua việc phân tính “Thế giới sống”, Trần Đức Thảo nhận thấy những phân tích ý hướng - lịch sử ở giai đoạn hậu kỳ của Hiện tượng học Husserl, tuy rất giàu những gợi ý, nhưng lại đáng thất vọng vì sự lẻ tẻ và thiếu nội dung hiện thực. Theo ông, cuối cùng, thực tại vật chất mới là cơ sở tối hậu cho những hình thái được cấu tạo. Tính vật chất là “hình thức căn nguyên bao giờ cũng hiện diện của sự vận động đã nâng nó lên thành sự sống và ý thức” [31, tr. 699]. Tính vật chất trong quan niệm của Trần Đức Thảo được hiểu như khái niệm bao trùm về tổng thể những hình thức khác nhau của tồn tại (trong khuôn khổ của thuyết nhất nguyên 53
  54. duy vật). Ông cũng khẳng định rằng “Ta không rơi trở lại vào trong thuyết duy tâm tầm thường, mà “sự giới hạn riêng biệt của nó nằm trong việc nó không có trong việc nó không có khả năng thấu hiểu được vũ trụ như một tiến trình - như là vật chất đang phát triển trong một tiến trình lịch sử”. Trái lại, chúng ta kết thúc với chủ nghĩa duy vật biện chứng như là sự thật hay chân tướng (verité) của thuyết duy tâm siêu nghiệm” [31, tr. 699]. 2.2.4. Quan điểm của Trần Đức Thảo về phương pháp quy giản Hiện tượng học Phương pháp quy giản Hiện tượng học là phương pháp đặc thù, mới mẻ dựa trên các đặc trưng về “Tính ý hướng” của ý thức để gác lại, gạt bỏ những thiên kiến, dọn đường dẫn tới phân tích các “Hiện tượng” thuần tuý. Theo Trần Đức Thảo, quy giản Hiện tượng học không phải là phương pháp phủ định đơn giản, trái lại nó bóc trần đời sống cụ thể của ý thức thuần tuý trong sự tồn tại tuyệt đối của nó. Quy giản Hiện tượng học cũng không phải là phương pháp suy luận logic mà chính là một sự nhận thức (trực giác) thực tế đã trải nghiệm: ý thức nhìn vào bản thân nó để làm rõ những nội dung vốn trước đây chỉ là cái được sống trải chưa được tri giác, ý thức quay trở lại “từ bỏ thế giới để quay trở lại với chính bản thân mình”. Đồng ý với Husserl về mặt ý tưởng dùng phương pháp quy giản Hiện tượng học để đạt tới nhận thức chân lý, nhưng Trần Đức Thảo nhấn mạnh sự tồn tại của thế giới vật chất tự nó. Tuy thế, ông vẫn hết lời ca ngợi cho phương pháp độc đáo của Husserl khi đi tìm giải pháp cho vấn đề của phép duy lý trong hành vi hiện thực của chủ thể cá biệt. Đời sống tinh thần không phải là sự từ bỏ cái tôi, nhường chỗ cho những chuẩn mực cao hơn; trái lại, vượt bỏ “Bản chất” là sự vượt bỏ chính mình, là sự vĩnh cửu của ý niệm không có ý nghĩa nào khác ngoài việc là kết quả hành vi sống trải của chính mình. 54
  55. Những phân tích của Trần Đức Thảo tại thời điểm này thể hiện rõ ràng mong muốn của ông đặt Hiện tượng học bên cạnh chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chính điều này đã khiến cho ông rơi vào thuyết nhị nguyên, chưa thoát ra được vòng luẩn quẩn của thuyết duy tâm siêu nghiệm trong nội dung Hiện tượng học. Những phân tích trên đây là quan điểm chính của Trần Đức Thảo về một số khái niệm cơ bản của Hiện tượng học Husserl. Khi viết tác phẩm “Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng”, Trần Đức Thảo cũng thẳng thắn thừa nhận một sự diễn giải trong điều kiện của tệ sùng bái cá nhân đã đặt nội dung duy tâm siêu nghiệm của Hiện tượng học cạnh nội dung mang tính duy vật một cách vô vọng, nó đã mở đường cho việc quay lại với nhị nguyên luận duy tâm. Chính vòng luẩn quẩn ấy đôi khi đã làm chùn bước nhà triết học kiệt xuất của Việt Nam. Trở về Việt Nam theo lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, ông đã phát hiện ra rằng muốn thoát ra được vòng luẩn quẩn ấy phải tối thiểu hoá vai trò của Hiện tượng học thậm chí là khước từ nó, để rồi cho ra đời “Tìm cội nguồn ngôn ngữ ý thức” (1973) với những kiến giải về nguồn gốc, “Bản chất” của ý thức trên lập trường triết học hoàn toàn mới - chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. 2.3. Sự “vƣợt bỏ” của Trần Đức Thảo với Hiện tƣợng học Husserl 2.3.1. Quan điểm của Trần Đức Thảo về nguồn gốc và bản chất của ý thức Khi Husserl phát hiện ra thế giới cuộc sống phong phú và rộng lớn thì hệ thống nghiên cứu Hiện tượng học của ông lung lay mạnh mẽ. Muốn nắm bắt thế giới ấy một cách chính xác, phải đặt nó trong tiến trình lịch sử. Việc này đòi hỏi một phương pháp nhận thức mới. Giấc mơ kéo dài mấy chục năm mà Husserl theo đuổi về một khoa học nghiêm túc cuối cùng cũng phá sản. Lối thoát nào cho Hiện tượng học Husserl đây? Trần Đức Thảo cũng đã từng phải vật lộn, luẩn quẩn với điều đó. Nhưng khi ông bắt gặp một triết thuyết cùng với phương pháp đúng đắn thì mọi nghịch lý đã được giải quyết. 55