Khóa luận Hiện thực chiến tranh và số phận con người trong tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân

pdf 61 trang thiennha21 16/04/2022 6900
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Hiện thực chiến tranh và số phận con người trong tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_hien_thuc_chien_tranh_va_so_phan_con_nguoi_trong_t.pdf

Nội dung text: Khóa luận Hiện thực chiến tranh và số phận con người trong tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN TRẦN THỊ HƢƠNG HIỆN THỰC CHIẾN TRANH VÀ SỐ PHẬN CON NGƢỜI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN TRÍ HUÂN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH HÀ NỘI - 2017
  2. LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới cô giáo, TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh - ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận. Xin cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc biệt là các thầy, cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam đã giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận. Mặc dù có nhiều cố gắng song với trình độ và kiến thức còn hạn chế của ngƣời viết, khóa luận chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận đƣợc sự góp ý chân thành của thầy cô và các bạn sinh viên để khóa luận đƣợc hoàn thiện hơn. Hà Nội, tháng 4 năm 2017 Sinh viên TRẦN THỊ HƢƠNG
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Bản khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả này không trùng với bất cứ công trình nghiên cứu nào. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng 4 năm 2017 Sinh viên TRẦN THỊ HƢƠNG
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử nghiên cứu 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6 3.1. Mục đích nghiên cứu 6 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 6 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 7 6. Dự kiến đóng góp của khóa luận 7 7. Bố cục khóa luận 7 CHƢƠNG 1 8 TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN TRÍ HUÂN 8 TRONG ĐỜI SỐNG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1975 8 1.1. Thể loại tiểu thuyết sau 1975 8 1.2. Tác giả Nguyễn Trí Huân và thể loại tiểu thuyết 13 1.2.1. Đôi nét về tiểu sử 13 1.2.2. Sự nghiệp sáng tác 15 CHƢƠNG 2: HIỆN THỰC CHIẾN TRANH VÀ SỐ PHẬN CON NGƢỜI 19 TRONG TIỂU THUYẾT CUẢ NGUYỄN TRÍ HUÂN - NHÌN TỪ NỘI DUNG PHẢN ÁNH 19 2.1. Bức tranh hiện thực 19 2.1.1. Hiện thực chiến trƣờng 19 2.1.2. Hiện thực đời thƣờng 24 2.2. Số phận con ngƣời 28 2.2.1. Số phận ngƣời lính 28 2.2.2. Số phận ngƣời phụ nữ 34 2.2.3. Số phận trẻ em 37 CHƢƠNG 3: HIỆN THỰC CHIẾN TRANH VÀ SỐ PHẬN CON NGƢỜI
  5. TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN TRÍ HUÂN -NHÌN TỪ HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT 41 3.1. Nghệ thuật kể chuyện 41 3.2. Ngôn ngữ 44 3.3. Giọng điệu 49 KẾT LUẬN 53 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  6. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Chiến tranh - cho đến nay vẫn là một đề tài lớn mang tầm vóc nhân loại. Nó từng có bề dài và bề dày trong tiến trình của lịch sử văn học thế giới. Chiến tranh âm vang trong bản trƣờng ca Iliat và Ôđixê của Homerơ, trong bộ tiểu thuyết đồ sộ Chiến tranh và hòa bình của Tolstoi và gần hơn, trong Chuông nguyện hồn ai của Hemingway, trong Cái trống thiếc của Gunter Grass và vô số tác phẩm khác. Ở Việt Nam, chiến tranh vẫn là đề tài có tính thời sự vì nó gắn liền với số phận đau thƣơng của dân tộc. Chiến tranh nhƣ một ám ảnh, một vết thƣơng rỉ máu khó lành. Nó trở thành món nợ dài của các nhà văn mặc áo lính. Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, giang sơn thu về một mối, đất nƣớc Việt Nam bƣớc vào thời kì hòa bình. Nhờ đó, văn học Việt Nam nói chung và thể loại tiểu thuyết nói riêng có điều kiện chuyển mình sang một giai đoạn mới. Đặc biệt là từ Đại hội VI của Đảng, văn học gắn bó với hiện thực nhƣng không chỉ phản ánh hiện thực mà còn suy ngẫm về hiện thực. Đối tƣợng nghiên cứu và khám phá của văn học không chỉ là xã hội mà còn là con ngƣời với tất cả sự phức tạp và bí ẩn của nó. Thế nhƣng, dẫu chiến tranh qua đi, văn học phát triển trong điều kiện xã hội mới, trong môi trƣờng ý thức cá nhân có nhiều chuyển biến song sự khốc liệt của chiến tranh và số phận con ngƣời luôn là cảm hứng sáng tác của nhiều nhà văn. Tuy không chiếm vị trí số một nhƣ giai đoạn trƣớc, nhƣng đề tài chiến tranh và số phận con ngƣời vẫn in đậm trong sáng tác của nhiều cây bút nhƣ: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh, Nam Hà, Thái Bá Lợi, Bảo Ninh, Nguyễn Trí Huân và phản ánh rõ nét quá trình chuyển biến ý thức văn học, nhất là khi đất nƣớc bƣớc vào thời kì đổi mới. 1
  7. Nguyễn Trí Huân là một trong những nhà văn thời hậu chiến có tác phẩm viết về chiến tranh. Ông xuất hiện sau năm 1975 với tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế và nhanh chóng đƣợc bạn đọc chú ý. Dẫu sáng tác không nhiều, song với đủ thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kí sự, Nguyễn Trí Huân đã góp phần làm phong phú thêm cho diện mạo văn học thời kì hậu chiến. Điểm qua các sáng tác trong sự nghiệp của nhà văn, tiểu thuyết đƣợc xem là thể loại thành công hơn cả với hai cuốn Năm 1975, họ đã sống như thế và Chim én bay. Sự nghiệp sáng tác của nhà văn đƣợc đánh dấu bằng hai giải thƣởng lớn: giải thƣởng Văn học Bộ Quốc phòng 1985-1989 và giải thƣởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1990 với tác phẩm Chim én bay. Đồng thời, năm 2007, ông cũng đạt giải Nhà nƣớc về Văn học nghệ thuật. Tiếp nối mạch nguồn của dòng tiểu thuyết hậu chiến về đề tài chiến tranh cách mạng, tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân luôn đƣợc nhắc đến cùng với Chu Lai, Nguyễn Minh Châu, Khuất Quang Thụy, Thái Bá Lợi, Bảo Ninh nhƣ một thế hệ nhà văn mặc áo lính tiêu biểu nhất cho thể loại tiểu thuyết viết về chiến tranh nói riêng và văn học sau năm 1975 nói chung. Dẫu không sở hữu một khối lƣợng tác phẩm đồ sộ nhƣ Chu Lai với Phố, Nắng đồng bằng, Ăn mày dĩ vãng, Vòng tròn bội bạc, Ba lần và một lần, Cuộc đời dài lắm, Khúc bi tráng cuối cùng ; cũng chƣa có một tác phẩm gây tiếng vang lớn nhƣ Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh nhƣng cả hai tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế và Chim én bay của Nguyễn Trí Huân luôn xuất hiện trong các bài báo, bài phê bình hay nghiên cứu về tiểu thuyết giai đoạn này. Chúng đƣợc đánh giá nhƣ những tiểu thuyết xuất sắc viết về cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nƣớc anh hùng của toàn dân tộc. Với hai tiểu thuyết này, Nguyễn Trí Huân đã nói “bao điều bão tố ở bên trong” mà một thời ông chƣa kịp nói. Cùng với độ lùi của thời gian, nhà văn đã viết về chiến tranh với sự thấu đáo và từng trải hơn. Chiến tranh và số phận con ngƣời đƣợc nhà văn 2
  8. “tái bút” trên nhiều bình diện và cấp độ. Đó là những trăn trở, những chiêm nghiệm đầy suy tƣ về hiện thực và con ngƣời. Hiện thực chiến tranh tàn khốc cùng sự giằng xé trong cuộc sống thời bình và số phận con ngƣời với những nỗi đau, thƣơng tổn về nhân tính và hạnh phúc tất cả đã hằn in và ám ảnh trong tâm khảm bạn đọc bao thế hệ. Đó chính là lí do, động lực khiến chúng tôi lựa chọn đề tài: Hiện thực chiến tranh và số phận con người trong tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân. Tác giả khóa luận hy vọng đề tài này sẽ đem lại những đóng góp nhất định đối với công tác nghiên cứu và giảng dạy văn xuôi Việt Nam giai đoạn sau 1975. Đồng thời, mong muốn góp thêm một tiếng nói khẳng định vị trí, vai trò của Nguyễn Trí Huân trong dòng tiểu thuyết viết về chiến tranh đặt trong bối cảnh thời hậu chiến. 2. Lịch sử nghiên cứu Nguyễn Trí Huân không thuộc số nhà văn viết khỏe, vì thế trong sự nghiệp sáng tác của mình, số lƣợng tiêu tiểu thuyết không nhiều. Tuy nhiên, so với những cây bút cùng thế hệ, tiểu thuyết của ông lại có nét riêng, độc đáo. Ngay từ tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế đến tiếu thuyết cuối cùng Chim én bay, Nguyễn Trí Huân đã đƣợc nhiều bạn đọc yêu mến và nhiều nhà báo, nhà nghiên cứu, phê bình chú ý. Có thể kể đến một số công trình và bài viết sau đây: Trƣớc hết là các bài viết, bài phỏng vấn hay trò chuyện của nhà văn xoay quanh nghề văn - nghề báo. Báo Công an nhân dân số ra ngày 22/7/2008 có đăng bài viết Nhà văn Nguyễn Trí Huân - Người luôn tự biết mình của tác giả Phạm Khải. Bài báo thể hiện cảm nhận của ngƣời viết về con ngƣời Nguyễn Trí Huân trên cƣơng vị là Tổng biên tập tuần báo Văn nghệ, ngƣời đã từng 15 năm “cầm trịch” tờ Văn nghệ quân đội: “Nguyễn Trí Huân là người có cái nhìn cuộc sống ôn hòa. Trong mỗi con người, bên cạnh những mặt chưa hoàn 3
  9. thiện, ông luôn nhìn ra và tìm ra những nét đẹp tiềm ẩn của họ” [18]. Về sự nghiệp sáng tác, tác giả bài viết cho rằng, so với nhiều nhà văn cùng trang lứa, Nguyễn Trí Huân thuộc diện viết ít, số sách của ông có thể đếm trên đầu ngón tay. Lý giải về điều này, trong một lần trả lời phỏng vấn của phóng viên, nhà văn đã thành thực bộc lộ ông có một “thói quen xấu” là phải “bứt ra một thời gian dài đi đâu hẳn, thoát ra mọi sự vụ thì mới có thể viết được”. Vậy nhƣng, sau khi từ chiến trƣờng trở về, học xong khóa I trƣờng viết văn Nguyễn Du, ông liên tục vƣớng bận vào công việc, nên thời gian dành cho văn chƣơng trở nên eo hẹp dần. Trên báo điện tử Tổ quốc, tác giả Đức Đan có bài viết Nguyễn Trí Huân: làm báo phải có bản lĩnh. Trong bài viết này, nhà văn đã thể hiện quan điểm của mình về phẩm chất quan trọng của nhà báo nói riêng và ngƣời viết nói chung, đó là bản lĩnh: “Để có một bài báo hay thì nhà báo, nhà văn phải sống trong sự thật mà mình viết, phải trải. Nếu chỉ nghe kể thôi để lấy tư liệu viết lại thì không thể hay được” [8]. Thứ đến là những bài phê bình, đánh giá về các sáng tác của Nguyễn Trí Huân, trong đó tập trung chủ yếu vào tiểu thuyết. Với tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế, tác giả Hoài Anh có bài viết Tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân - Một cách nhìn chiến tranh xác thực trên website Tác giả đánh giá tiểu thuyết này “không chỉ dự báo những cuộc chiến tranh xảy ra trong tương lai” mà “còn dự báo về sự lan rộng của những hiện tượng tiêu cực ở Miền Bắc”. Bên cạnh đó, bài viết còn tổng kết một số thành tựu nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm nhƣ lối kể chuyện chính xác, sinh động, nghệ thuật xây dựng, miêu tả tâm lí nhân vật chân thực. Sau khi đoạt giải thƣởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1988-1989, tiểu thuyết Chim én bay đã nhận đƣợc sự chú ý của đông đảo dƣ luận cũng nhƣ giới nghiên cứu, phê bình. Tiêu biểu trong số đó là hai bài viết Chim én 4
  10. bay - Một cách nhìn về chiến tranh của tác giả Phạm Hoa đăng trên báo Văn nghệ năm 1989 và Đồng hiện - Một thủ pháp nghệ thuật có hiệu quả trong tiểu thuyết Chim én bay của Ngô Vĩnh Bình đăng trên báo Văn nghệ năm 1990. Tác giả Phạm Hoa cho rằng Nguyễn Trí Huân đã thể hiện nhận thức về hiện thực tàn khốc của chiến tranh bằng “một lối viết bộc lộ tính người”, “giọng văn chứa đầy trăn trở, nghĩ suy nặng nề tâm trạng”. Trong khi đó, tác giả Ngô Vĩnh Bình lại đi sâu khai thác một thủ pháp nghệ thuật đƣợc coi là đắc địa của Chim én bay đó là thủ pháp đồng hiện: “Đọc Chim én bay người đọc vừa như thấy lại những năm tháng chiến tranh xưa với tất cả sự khốc liệt của nó ( ), lại vừa như đứng trước những vấn đề thời sự của cuộc sống hôm nay như: Vấn đề đổi mới cách nghĩ, cách sống, vấn đề nhân đạo cũng như việc giải tỏa thù hận, ngăn chặn nọc độc của một cuộc chiến tranh mới” [4]. Và cuối cùng là những bài viết về đề tài chiến tranh thời hậu chiến, trong đó các tác giả có nhắc đến tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân nhƣ là một phần không thể thiếu của mảng đề tài này. Tạp chí Văn học số 5/1980 với bài Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh sau năm 1975 và những thành tựu nghệ thuật bị bỏ lỡ (Nguyễn Phƣợng), Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 (Nguyễn Bích Thu). Trên website báo Văn nghệ quân đội có một số bài viết nhƣ: Nhân vật của tiểu thuyết hậu chiến (Đinh Thị Huyền), Cái nhìn mới về người lính và sự thay đổi về đề tài của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 (Nguyễn Tiến Đức) và rất nhiều bài viết riêng lẻ khác. Có thể nói, nghiên cứu về nhà văn Nguyễn Trí Huân và tiểu thuyết của ông chƣa thực sự nhiều và tập trung. Gần đây nhất mới chỉ có một số luận văn thạc sĩ: Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân (Phạm Thị Trang - do PGS. TS Tôn Phƣơng Lan dƣớng dẫn, trƣờng ĐHKHXH và NV); Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân (Vũ Thị Thanh - do PGS. TS Đoàn Đức Phƣơng hƣớng dẫn, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2); Thế giới nghệ thuật 5
  11. tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân (Đặng Thị Hà - do PGS. TS Lý Hoài Thu hƣớng dẫn, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2). Nhìn chung, các bài nghiên cứu, bài phê bình, bài báo ở trên quan tâm đến nhiều khía cạnh khác nhau trong tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân. Chƣa có một đề tài nào đề cập đến hiện thực chiến tranh và số phận con ngƣời. Vì thế, tiếp thu gợi ý của những nhà nghiên cứu đi trƣớc, đề tài chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu: Hiện thực chiến tranh và số phận con người trong tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Thực hiện đề tài Hiện thực chiến tranh và số phận con người trong tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân, tác giả khóa luận mong muốn làm rõ những đóng góp mới mẻ của Nguyễn Trí Huân về hiện thực chiến tranh và con ngƣời trong tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế và Chim én bay. Từ đó càng nhận thức rõ hơn vị trí văn học sử của nhà văn trong đời sống văn học Việt Nam sau 1975. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề lý thuyết của thể loại tiểu thuyết sau năm 1975 với những đổi mới trong quan niệm về hiện thực và con ngƣời. Tìm hiểu về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyễn Trí Huân. Làm rõ hiện thực chiến trƣờng và hiện thực đời thƣờng, lý giải số phận ngƣời lính, ngƣời phụ nữ và trẻ em trong hai tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế và Chim én bay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu khóa luận là Hiện thực chiến tranh và số phận con người trong tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân. 6
  12. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Triển khai đề tài Hiện thực chiến tranh và số phận con người trong tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân, khóa luận tập trung tìm hiểu hai tiểu thuyết: Năm 1975, họ đã sống như thế (1979) và Chim én bay (1988). Và trong một chừng mực nhất định có thể có sự so sánh, đối chiếu với những tác phẩm khác để làm rõ đối tƣợng nghiên cứu. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong khóa luân này, chúng tôi sử dụng kết hợp các phƣơng pháp: - Phƣơng pháp hệ thống - Phƣơng pháp so sánh - Phƣơng pháp phân tích tổng hợp 6. Dự kiến đóng góp của khóa luận Với đề tài này, khóa luận làm rõ hơn về hiện thực chiến tranh và số phận con ngƣời trong hai tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế và Chim én bay. Đồng thời, khẳng định những đóng góp của Nguyễn Trí Huân trong dòng tiểu thuyết viết về chiến tranh trong bối cảnh hậu chiến. 7. Bố cục khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, khóa luận đƣợc triển khai trong 3 chƣơng sau: Chƣơng 1: Tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân trong đời sống văn xuôi Việt Nam sau 1975 Chƣơng 2: Hiện thực chiến tranh và số phận con ngƣời trong tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân – Nhìn từ nội dung phản ánh Chƣơng 3: Hiện thực chiến tranh và số phận con ngƣời trong tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân – Nhìn từ hình thức nghệ thuật 7
  13. CHƢƠNG 1 TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN TRÍ HUÂN TRONG ĐỜI SỐNG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1975 1.1. Thể loại tiểu thuyết sau 1975 Năm 1975 khép lại một thời kỳ lịch sử vinh quang của dân tộc, cũng là năm mở ra một thời kỳ mới cho sáng tác văn học trong yêu cầu tái tạo lại thời kỳ lịch sử này. Đƣợc coi là chiếc “máy cái” trong nền văn học hiện đại, thành tựu và những quy luật vận động của tiểu thuyết có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nghiên cứu văn học sử. Ở nƣớc ta, tiểu thuyết chỉ thực sự đƣợc khẳng định nhờ tài năng của các cây bút Tự lực văn đoàn và các nhà văn hiện thực giai đoạn 1930-1945. Trên những kinh nghiệm khá phong phú đó, tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1945 tự điều chỉnh để trở thành một vũ khí đa dạng trƣớc yêu cầu phục vụ kháng chiến và công việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các tác phẩm mang tính sử thi trở thành dạng thức tiểu thuyết điển hình trong hai giai đoạn kháng chiến vệ quốc. Tiểu thuyết từ 1975 đến nay không cắt lìa truyền thống đã có nhƣng ý thức “làm mới”, “làm giàu”, “làm khác” truyền thống đã và đang trở thành khát vọng, nhu cầu mạnh mẽ của ngƣời cầm bút. Với những nỗ lực đổi mới, bốn thập kỉ qua đã tạo ra không ít tiểu thuyết có giá trị, bên cạnh sự đông đúc của đội ngũ tác giả, sự dồi dào về số lƣợng tác phẩm là sự đa dạng về bút pháp, sự phong phú về đề tài và chủ đề. Áp lực cạnh tranh từ các phƣơng tiện giải trí - truyền thông, lối sống và nhịp độ sống hiện đại vừa là yếu tố kích thích vừa là nguy cơ làm hao mòn tình yêu văn chƣơng. Ngƣời viết bây giờ buộc phải đối diện với đòi hỏi: mỗi nhà tiểu thuyết, mỗi cuốn tiểu thuyết phải sáng tạo ra một hình thức riêng, một nội dung phong phú, xác thực. Tiếp thu những thành tựu từ văn học giai đoạn 1945-1975, tiểu thuyết từ sau năm 1975 vẫn tiếp tục khơi sâu vào mảng đề tài chiến tranh vốn là thế 8
  14. mạnh này. Nhiều ngƣời gọi tiểu thuyết ngay sau năm 1975 là chặng đƣờng chuyển tiếp từ nền văn học cách mạng trong chiến tranh sang nền văn học của thời kì hậu chiến để đi tới công cuộc đổi mới toàn diện, sâu sắc, đồng bộ với sự đổi mới của đất nƣớc từ sau 1986. Trong phạm vi phần này, chúng tôi sẽ chủ yếu đề cập đến tiểu thuyết hậu chiến với những đổi mới về cách tiếp cận hiện thực và con ngƣời trong sự vận động và phát triển của thể loại tiểu thuyết sau 1975. Tiểu thuyết hậu chiến lâu nay đã trở thành khái niệm ƣớc lệ chỉ tiểu thuyết viết về chiến tranh ngay sau chiến tranh. Đây là thời kì mà ngọn nguồn cảm hứng của tiểu thuyết vẫn nằm trong từ trƣờng của chiến tranh. Đối tƣợng phản ánh của tiểu thuyết hậu chiến có thể là hiện thực chiến tranh, có thể là cuộc sống hòa bình nhƣng là một hòa bình trong những dƣ âm và ảnh hƣởng nặng nề của cuộc chiến. Điểm chung lớn nhất của các tác phẩm văn học hậu chiến chính là ở nhân vật. Đa số họ là những con ngƣời đã từng tham gia chiến trận, vừa bƣớc ra khỏi chiến tranh, đối mặt với cuộc sống mới nhƣng vẫn còn bị chi phối bởi quán tính của cuộc chiến đấu trƣờng kì, gian khổ trong quá khứ. Là một bộ phận tiểu thuyết sáng tác ngay sau chiến tranh, đề cập và tái nhận thức các vấn đề của chiến tranh. Điều này mang lại cho tiểu thuyết hậu chiến những quan niệm mới về hiện thực và con ngƣời, góp phần tạo nên bƣớc phát triển mới so với loại hình tiểu thuyết chiến tranh trong các giai đoạn trƣớc đó. Quá trình đổi mới tiểu thuyết sau 1975 bắt đầu khá sớm nhƣng thầm lặng với những tín hiệu có tính dự báo trong Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977) của Nguyễn Minh Châu, Cha và con và (1979) của Nguyễn Khải, Đất trắng (Tập 1 - 1979) của Nguyễn Trọng Oánh, Năm 1975, họ đã sống như thế (1979) của Nguyễn Trí Huân, Trong cơn gió lốc (1980) của Khuất Quang Thụy Những tác phẩm này cho thấy ý thức khắc phục cái 9
  15. nhìn lí tƣởng hóa một chiều về hiện thực. Nếu nói theo Nguyễn Minh Châu thì cái “lớp men trữ tình hơi dày” mà các nhà văn thƣờng “tráng lên” hiện thực đang cố đƣợc gột tẩy. Phạm vi hiện thực đƣợc mở rộng, có sự bổ sung những miền hiện thực mới, những góc khuất, những vùng cấm địa mà trƣớc đây chƣa có hoặc ít đƣợc nói đến. Nếu nhƣ hiện thực trong chiến tranh đề cập đến những gam go, khốc liệt nhƣng rất hào hùng của dân tộc thì sau chiến tranh, bộ mặt thật của hiện thực đã hiện ra với tất cả sự khốc liệt của nó, không còn giản đơn, xuôi chiều nhƣ tiểu thuyết trƣớc đây. Sự đổi mới quan hệ nhà văn với hiện thực hậu chiến phải chăng bắt nguồn từ nhu cầu đƣợc nói thật “phương châm nhìn thẳng vào sự thật làm nhà văn nhận rõ những non yếu của văn học thời kì trước” [25, 12]. Hiện thực chiến tranh lúc này đƣợc nhận thức là cái chƣa biết, không thể biết, cái phức tạp cần phải khám phá. Chính vì vậy, hiện thực trong các sáng tác đƣợc ngƣời nghệ sĩ lựa chọn, chắt lọc, khái quát và tái tạo. Ngay cả ở các tiểu thuyết mà cảm hứng sử thi vẫn giữ vai trò chủ đạo thì hiện thực đều đƣợc miêu tả trên một bình diện mới. Chiến tranh trong Đất trắng, Chim én bay, Ăn mày dĩ vãng đã đƣa độc giả khám phá với một bộ mặt mới của chiến tranh, ở đó không phải lúc nào cũng có màu đỏ của chiến thắng mà nhiều khi là màu xám của thất bại và chết chóc. Có thể nói, thời gian càng lùi xa thì nhà văn càng có cái nhìn kĩ hơn, sâu hơn về cuộc chiến và cách viết của họ cũng đa chiều hơn, toàn diện hơn. Những tổn thƣơng của ngƣời lính đƣợc phản ánh trên tinh thần trung thành tuyệt đối với lịch sử, không bỏ sót một ai và không bỏ sót điều gì. Bên cạnh việc hƣớng ngòi bút tới những thời điểm khốc liệt, bi quan của chiến tranh, các nhà văn hậu chiến còn mở rộng phạm vi hiện thực về thời điểm hiện tại - nơi chiến tranh đã đi qua nhƣng không phải bình yên đã thực sự trở lại. Đó là lúc những con ngƣời trở về sau chiến tranh vẫn không ngơi 10
  16. nghỉ, tiếp tục cuộc chiến đấu tranh để đứng vững trong hoàn cảnh mới. Ở khoảnh khắc giao thời này, cái cũ chƣa hẳn đã dứt bỏ đƣợc, cái mới lại đang chập chững đến, những ngƣời trở về từ chiến tranh thực sự thấm thía đƣợc những bon chen, lo toan trong cuộc sống mới. Họ không phải đấu tranh với kẻ thù nhƣng lại phải đối mặt với những khó khăn của thời hậu chiến, với chính những ngƣời mình từng gắn bó, thậm chí đối mặt với chính bản thân mình. Các nhà văn đã mở ra một hiện thực rộng lớn, đa chiều trƣớc mắt bạn đọc. Điểm gặp gỡ chung của các nhà văn viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc là họ đều từng trải qua những năm tháng đầy “máu và hoa” trên nhiều nẻo đƣờng của đất nƣớc. Bởi thế, chiến tranh hiện diện trong tác phẩm không chỉ là những sự kiện, những biến cố lịch sử mà còn là số phận con ngƣời. Trong hàng loạt tiểu thuyết, các nhà văn Nguyễn Minh Châu, Bảo Ninh, Chu Lai, Nguyễn Trí Huân đi sâu khám phá cuộc sống hàng ngày và thể hiện số phận cá nhân; nhìn thẳng vào những mảnh vỡ của đời sống, những bi kịch nhân sinh; không né tránh cả những mặt tăm tối, góc khuất của cuộc sống thƣờng nhật bằng cái nhìn trung thực và sáng tạo. Chính bởi thế, vấn đề con ngƣời cá nhân trở thành tâm điểm khai thác của thế hệ nhà văn sau chiến tranh. Thực tế cho thấy, trong các sáng tác trƣớc 1975, hình ảnh con ngƣời cá nhân bị lu mờ bởi sứ mệnh thiêng liêng, cao cả của con ngƣời công dân với tiếng hô Xung kích, với sức mạnh Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), với Tầm nhìn xa, với lời kêu gọi Hãy đi xa hơn nữa (Nguyễn Khải); đó là con ngƣời cùng với Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), đi những dặm dài trong Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu) khắp mọi nẻo đƣờng đất nƣớc. Giờ đây chiến tranh kết thúc cũng là lúc tiểu thuyết cần có sự trở mình. Ngƣời đọc bắt gặp trong Miền cháy; Năm 1975, họ đã sống như thế; Nắng đồng bằng cùng với những “nhân vật sử thi”, đã thấp thoáng kiểu “nhân vật số phận”. Bên cạnh “con người lí tưởng”, hình ảnh những con ngƣời đời thƣờng, bình dị xuất hiện 11
  17. nhiều hơn. Cùng với hiện thực đa chiều, con ngƣời đƣợc nhìn nhận trong nhiều bình diện và nhiều tầng bậc. Đặc biệt, nếu giai đoạn trƣớc, văn học dùng con ngƣời làm phƣơng tiện để biểu đạt lịch sử thì giờ đây, văn học qua thăng trầm lịch sử mà khắc họa số phận con ngƣời. Cùng với sự xuất hiện hình ảnh ngƣời lính - hình ảnh quen thuộc của tiểu thuyết chiến tranh, trong sáng tác thời kì này còn nổi bật lên bức chân dung những con ngƣời thời bình. Vẫn là những hình ảnh đẹp, song bƣớc ra từ cuộc chiến, những ngƣời lính chĩu nặng suy tƣ, với ám ảnh sâu sắc về quãng thời gian đã qua, với bộn bề suy nghĩ, dằn vặt và một tâm hồn mang đầy thƣơng tích nhƣ Quy (Chim én bay), Kiên (Nỗi buồn chiến tranh) Mỗi nhân vật trong tiểu thuyết hậu chiến đều có một số phận riêng, một cảnh ngộ riêng song họ gặp nhau ở một điểm đó là những thƣơng tổn tinh thần. Không chỉ khắc họa hình ảnh ngƣời lính với niềm say mê lí tƣởng nhiều tác phẩm còn lột trần bộ mặt đớn hèn, tham sống sợ chết, háo sắc và phản bội. Bên cạnh đó, tiểu thuyết hậu chiến còn đặc biệt chú ý khai thác và tô đậm hình ảnh ngƣời lính với những đổ vỡ của tâm hồn, mang thƣơng tật vĩnh viễn. Đối với ngƣời lính trong Ăn mày dĩ vãng, Chim én bay, Nỗi buồn chiến tranh, Bến không chồng Chiến tranh nhƣ một định mệnh nghiệt ngã, một “nhát dao phạt ngang” cuộc đời. Thể hiện hình ảnh ngƣời lính trong tâm trạng đầy bi kịch này, dƣờng nhƣ các nhà văn đã nhận thức rõ đƣợc sự chi phối mạnh mẽ của hoàn cảnh chiến tranh đến số phận con ngƣời. Ngƣời lính giờ đây không còn là những con ngƣời vĩ đại có thể thay đổi lịch sử mà đôi khi họ còn yếu đuối, bất lực, thƣờng xuyên rơi vào bi kịch cô đơn, lạc lõng. Cùng với việc mạnh dạn khai thác những bi kịch sâu sắc trong cuộc đời mỗi con ngƣời. Các nhà văn “gửi gắm những câu hỏi nghiêm túc về con người, về cuộc vật lộn giữa con người với hoàn cảnh để tìm kiếm chính mình” [2, 51]. Có thể coi đây là hƣớng đi mới của tiểu thuyết chiến tranh trên con 12
  18. đƣờng đổi mới thể loại và cách tân văn học. Nó đặt tiền đề cho các tiểu thuyết về sau trong việc khám phá hiện thực và thể hiện số phận con ngƣời. 1.2. Tác giả Nguyễn Trí Huân và thể loại tiểu thuyết 1.2.1. Đôi nét về tiểu sử Nguyễn Trí Huân sinh ngày 20/9/1947 tại xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phƣợng, tỉnh Hà Tây (cũ). Hiện nay, ông đang sống ở Hà Nội, là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, phó Tổng thƣ kí Hội Nhà văn Việt Nam kiêm Tổng biên tập tuần báo Văn nghệ (từ 2005). Về con ngƣời Nguyễn Trí Huân, nhà văn Vƣơng Trọng từng tâm sự: “Huân là một người kiểu Từ Bích Hoàng (Nguyên Phó tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ quân đội), tức là khi chia phần cho anh em, bao giờ cũng thích nhận phần ít hơn về mình. Như thế nếu nhận phần ít hơn này Huân mới thấy lòng nhẽ nhõm” [18]. Nhà văn sống khép mình, khá khiêm nhƣờng và luôn có cái nhìn cuộc sống ôn hòa. Trong mỗi con ngƣời, bên cạnh những mặt chƣa hoàn thiện, ông luôn nhìn ra và tìm ra những nét đẹp tiềm ẩn của họ. Bản thân giữ nhiều chức vụ cao và đƣợc tín nhiệm song ông luôn tự nhận “So với các anh, các chị ở đây, tôi còn nhiều điểm thua kém. Từ tuổi nghề, tuổi quân, kinh nghiệm sống và cả những đóng góp văn học” [18]. Ông quan niệm rằng, “nhà văn cũng như mọi người, cũng có mặt chưa được. Nhưng trước trang giấy thì họ thánh thiện đấy” [18]. Những trang văn dào dạt lòng thƣơng cảm, niềm xót xa và nhân văn sâu sắc của Chim én bay, Dòng sông của Xô nét, Mặt cát, Có lẽ đã khơi nguồn từ tâm hồn “thánh thiện” ấy. Tuổi thơ của Nguyễn Trí Huân gắn bó với quê hƣơng Hà Tây. Học xong phổ thông cũng là lúc vừa tròn 18 tuổi, ông vào bộ đội, thuộc lực lƣợng phòng không không quân. Trong những năm tháng chống Mỹ cứu nƣớc, Ông là chiến sĩ công binh, sau làm phóng viên quân chủng. Đây là quãng thời gian đầu tiên nhà văn bắt đầu cuộc sống binh nghiệp. Chính tại tờ báo quân chủng, 13
  19. ông đã viết truyện ngắn đầu tiên đƣợc in trên tạp chí Văn nghệ quân đội. Năm 1971, sau khi học xong lớp bồi dƣỡng nhà văn khóa 4, khóa đặc biệt dành cho chiến trƣờng, ông đƣợc điều vào khu V làm phóng viên và biên tập viên tạp chí Văn nghệ quân đội miền Trung Trung Bộ. Mặt trận khu V nói chung và mặt trận Quảng Đà nói riêng thời kì này vô cùng ác liệt. Ông đã cùng đồng nghiệp xuống tận cơ sở, bám trụ và viết. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Nguyễn Trí Huân tham gia đội hình của sƣ đoàn 3 - Sao vàng vào giải phóng Đà Nẵng, Phan Rang, Bà Rịa, sau đó ra tiếp quản Côn Đảo. Sau này, hình ảnh sƣ đoàn 3 đã in đậm và trở thành không gian chính trong các sáng tác của nhà văn. Sau năm 1975, đất nƣớc hoàn toàn thống nhất, Nguyễn Trí Huân về trại sáng tác văn học thuộc quân khu V. Cuối năm 1979, ông trở lại Hà Nội và học khóa I trƣờng viết văn Nguyễn Du. Tốt nghiệp khóa học, Nguyễn Trí Huân đƣợc tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đều về tạp chí Văn nghệ quân đội làm biên tập viên rồi làm trƣởng ban văn xuôi. Ít lâu sau, ông đƣợc đề bạt làm Phó tổng biên tập rồi Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông đƣợc bầu làm ủy viên ban chấp hành khóa VII, ủy viên Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam. Hiện nay, Ông là Phó tổng thƣ kí Hội Nhà văn Việt Nam kiêm Tổng biên tập tuần báo Văn nghệ. Cũng nhƣ bao ngƣời lính trên khắp đất nƣớc Việt Nam, cuộc đời của Nguyễn Trí Huân cũng bị chiến tranh gây nên những thƣơng tổn nặng nề. Đất nƣớc hòa bình nhƣng ngƣời anh trai của ông nằm lại nơi chiến trƣờng. Vành khăn tang nhƣ vòng kim cô siết chặt trên đầu mỗi thành viên trong gia đình. Có lần ông tâm sự: Tôi là ngƣời lính, cũng nhƣ nhiều gia đình Việt Nam khác, gia đình tôi đã bị cuộc chiến tranh xâm lƣợc của Mỹ xé rách. Cho đến nay đã ba mƣơi năm trôi qua, cái chết của anh tôi đối với cha mẹ tôi, chị tôi vẫn khủng khiếp nhƣ vừa mới xảy ra hôm qua. Có chăng số phận may mắn hơn 14
  20. nên ông đƣợc hƣởng trọn vẹn niềm vui ngày chiến thắng và tiếp tục cống hiến cho dân tộc trong suốt chặng đƣờng phát triển từ sau khi hòa bình lập lại; nhà văn có cơ hội ghi lại quãng thời gian “không thể nào quên” trong cuộc đời mình qua những trang văn, trang báo. Đi qua bão táp của dân tộc, Nguyễn Trí Huân ngời sáng nhƣ một tấm gƣơng sống dũng cảm dám dấn thân và nhập cuộc với cuộc đời. Gắn bó và có những cống hiến lớn lao đối với sự nghiệp phát triển văn hóa, văn học dân tộc, nhà văn Nguyễn Trí Huân đã đƣợc trao tặng những giải thƣởng lớn: Giải thƣởng Hội Nhà văn Việt Nam (1988-1989), Giải thƣởng văn học Bộ Quốc phòng (1989), Giải thƣởng Nhà nƣớc về Văn học nghệ thuật năm 2007. 1.2.2. Sự nghiệp sáng tác Dẫu Nguyễn Trí Huân đƣợc biết đến nhiều hơn trên cƣơng vị của một tổng biên tập, gắn bó phần lớn cuộc đời cho nghiệp báo, nhƣng chính điều đó đã làm nên thành công của ông trong văn chƣơng. Vốn sống của một ngƣời làm báo nay đây mai đó trên khắp các chiến trƣờng, cộng thêm những ám ảnh khôn nguôi suốt cuộc đời trong những năm tháng chiến tranh đã giúp ông tích lũy đƣợc nhiều tƣ liệu sống cho các trang văn của mình. Toàn bộ sự nghiệp của Nguyễn Trí Huân đƣợc đánh dấu bằng các tác phẩm: - Mặt cát (Tập truyện và ký, 1977) - Năm 1975, họ đã sống như thế (Tiểu thuyết, 1979) - Dòng sông của Xô nét (Truyện, 1980) - Chim én bay (Tiểu thuyết, 1988) - Dấu thời gian (Ký, 2004) Có thể nhận định rằng, hầu hết sáng tác của Nguyễn Trí Huân đều tập trung vào đề tài lớn là chiến tranh cách mạng và ngƣời lính. Với ông viết về chiến tranh không đơn thuần chỉ là một đề tài văn chƣơng, mà nó dƣờng nhƣ là máu thịt, là món nợ ân tình khó có thể dứt bỏ. 15
  21. Dù viết ít song tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân có một vị trí nhất định trong bức tranh chung của tiểu thuyết giai đoạn hậu chiến và làm phong phú thêm mảng tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kì này. Với hai cuốn tiểu thuyết nhƣng nhà văn Nguyễn Trí Huân đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả và thành công trong sáng tác của ông cũng đƣợc giới lí luận, phê bình ghi nhận. Có thể nói, nếu Đất trắng làm nên Nguyễn Trọng Oánh, Ăn mày dĩ vãng làm nên Chu Lai, Nỗi buồn chiến tranh nổi danh cùng tên tuổi Bảo Ninh, Lê Lựu gắn với Thời xa vắng, Dƣơng Hƣớng đi cùng Bến không chồng thì nhắc đến Năm 1975, họ đã sống như thế hay Chim én bay là nhắc tới nhà văn - nhà báo Nguyễn Trí Huân. Tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế lấy cảm hứng từ chiến thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh với tâm điểm là khoảng thời gian gần ngày giải phóng 30 tháng 4 năm 1975. Trong tiểu thuyết không có nhân vật nào là nhân vật trung tâm, các nhân vật Thư, Thức, Thiết, Mạc, Nhã xuất hiện rải rác, đan xen nhau. Mỗi con ngƣời một quê hƣơng, một tính cách nhƣng họ luôn sát cánh cùng nhau và chia sẻ khó khăn trong lúc bom rơi, đạn nổ nơi chiến trƣờng. Bằng việc tạo ra sự đa dạng về điểm nhìn, Năm 1975, họ đã sống như thế đã đem lại những góc nhìn đa diện về cuộc chiến tranh. Việc sử dụng nhật kí của một tên sĩ quan ngụy chết trƣớc cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 1975 ở ngay những trang đầu tiên trong tiểu thuyết, bản chất chiến tranh từ phía địch đƣợc lộ rõ: “Chiến tranh cần thiết hay vô ích? Nó nâng cao con người hay hủy hoại con người? Thật ra, cho đến giờ phút này ta cũng chưa thể đưa ra một kết luận nào chắc chắn” [16, 8]. Với ngƣời lính ở phe ta, tham gia cuộc chiến tranh chính là một sự tự nguyện, là sự cống hiến hết mình cho Tổ quốc. Nhƣng với sĩ quan ngụy, chiến tranh chỉ là “Một đống sự phi lí, méo mó” trong cái tập thể “ung thối”. Chiến tranh đã hủy hoại cả một thế hệ trẻ, ngƣời ta gọi họ đi lính “như thể lùa những con vịt vô chuồng”, khiến họ bị 16
  22. dồn vào thế cùng, “bị kìm hãm”, “rồi rơi vào trạng thái thối rữa” nhƣng không có cách nào thoát ra đƣợc. Đặt chiến tranh trong cách nhìn của một ngƣời lính phía bên kia chiến tuyến, nhà văn đã mang đến cho tiểu thuyết bức phác họa chiến tranh chân thực và sống động. Năm 1975, họ đã sống như thế ghi nhận sự đổi mới mạnh mẽ trong việc phản ánh chiến tranh và xây dựng hình tƣợng ngƣời lính. Khác với tiểu thuyết sử thi giai đoạn 1945-1975, tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân đã xây dựng đƣợc kiểu nhân vật tập thể cùng với các nhân vật cá nhân khách quan và chân thực hơn. Bên cạnh hình ảnh ngƣời lính “ít tính lí tưởng”, không hoàn hảo, sạch sẽ, không đƣợc “bao bọc trong bầu không khí vô trùng” nhƣ trƣớc đây thƣờng thấy, ngƣời lính trong Năm 1975, họ đã sống như thế cũng có những phút đớn hèn, nhát sợ với tƣ tƣởng quay đầu và hơn nữa là chân dung của những kẻ phản bội mà dƣới con mắt của Mạc đó là “vài dúm cứt sắt” do “lò luyện thép” chiến tranh “thải ra”. Bằng việc sử dụng ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ gần gũi với đời sống, Nguyễn Trí Huân đã đem đến cho tiểu thuyết sử thi một diện mạo mới, một cách tiếp cận gần gũi và hiệu quả từ ngƣời đọc. Chim én bay, tiểu thuyết dày hơn 200 trang, dạo đầu bằng một bài ca: “Em mong sao trên trái đất hoa thơm nở bốn mùa Em mong sao trên trái đất không còn chia li Em mong sao trên trái đất mọi con người Như em đây là chim trắng bay giữa trời Sống để yêu thương” Ngƣời ta cứ nghĩ đó là một khúc ca bình yên vậy mà lại có quá nhiều bão tố. Tiểu thuyết trải dài trong khoảng thời gian hơn 10 năm và cô đặc trong không gian của dải đất nhỏ hẹp vùng duyên hải Trung Bộ. Nguyễn Trí Huân đã tạo ra sự đối lập nghiệt ngã giữa số phận trẻ em và chiến tranh. Chiến tranh đã cắt những vết thƣơng lên tâm hồn và thể xác những em nhỏ - đội viên đội 17
  23. Chim én, khi chƣa hiểu thế nào là qui luật của chiến tranh thì các em đã bị nó cuốn vào guồng quay khốc liệt nhƣ mọi sinh linh khác. Quy trở thành trẻ mồ côi khi chƣa tròn 12 tuổi, 15 tuổi trở thành đàn bà và mất vĩnh viễn quyền làm mẹ. Có lẽ, không ở đâu nhƣ trên đất nƣớc Việt Nam, thứ “đồ chơi” duy nhất đầy sức ám ảnh với tuổi thơ Quy, Dũng, Thêm, Dũng nhỏ và những con én bé nhỏ khác là cây Ru-lô, khẩu K54, quả lựu đạn những thứ vũ khí đen ngòm và vô tình của chiến tranh. Không ở đâu mà “trò chơi” duy nhất trong tuổi thơ của các em lại là việc đi tìm diệt những kẻ phản bội đã gây nên tội ác với gia đình và đồng bào mình. Chim én bay không chỉ đặc tả đƣợc những khuôn mặt dị dạng và gớm ghiếc của chiến tranh mà còn đặt ra vấn đề nhân đạo. Đặc biệt, với việc xây dựng kết cấu theo dòng kí ức, sử dụng đắc địa thủ pháp đồng hiện Nguyễn Trí Huân đã tạo đƣợc một hiệu ứng đặc biệt trong cảm xúc của độc giả. Là một nhà văn không có nhiều sáng tác, song Nguyễn Trí Huân đã có những đóng góp quan trọng vào sự đổi mới văn học sau 1975, đặc biệt là ở thể loại tiểu thuyết. Qua nhiều thế hệ, các sáng tác của ông luôn đƣợc bạn đọc đón nhận với niềm yêu mến và trân trọng. Tiểu kết: Tiểu thuyết hậu chiến tiếp nối mạch nguồn của đề tài chiến tranh từ văn học chống Pháp, chống Mỹ nhƣng đã tạo dựng đƣợc một diện mạo hoàn toàn mới thông qua việc thay đổi cách tiếp cận hiện thực và phản ánh con ngƣời. Hòa vào dòng chảy chung của tiểu thuyết sau 1975, tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân không chỉ góp phần làm phong phú thêm bức tranh chung của tiểu thuyết hậu chiến mà còn tạo đƣợc những nét chấm phá trong bức phác họa về chiến tranh ấy. 18
  24. CHƢƠNG 2 HIỆN THỰC CHIẾN TRANH VÀ SỐ PHẬN CON NGƢỜI TRONG TIỂU THUYẾT CUẢ NGUYỄN TRÍ HUÂN - NHÌN TỪ NỘI DUNG PHẢN ÁNH 2.1. Bức tranh hiện thực Văn học là tấm gƣơng phản chiếu đời sống xã hội, nhà văn là ngƣời thƣ kí trung thành của thời đại. Vì vậy, văn học gắn bó với chức năng phản ánh hiện thực. Sau 1975, chiến tranh chấm dứt, đất nƣớc chuyển sang một thời kì mới. Do đó, viết về hiện thực chiến tranh ngƣời nghệ sĩ không bị bó buộc trong những tƣ tƣởng định sẵn mà thể hiện tính đa chiều của hiện thực. Nhiều bình diện của chiến tranh: quá khứ, hiện tại, tƣơng lai, chiến trƣờng, hậu phƣơng, tổn thất, vinh quang đƣợc nhà văn đi sâu khám phá và thể hiện. Nằm trong xu hƣớng đổi mới đó, tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân mở rộng chiều kích và có cái nhìn toàn diện về bức tranh hiện thực cả trong và sau chiến tranh. 2.1.1. Hiện thực chiến trường Xuất phát từ những trăn trở của một ngòi bút đầy trách nhiệm, nhà văn Nguyễn Trí Huân đã thoát đƣợc lối mòn của tiểu thuyết cách mạng và tìm đến một lối viết không chỉ nói đến thắng lợi mà còn phải nói đến nỗi đau khổ do quân thù gây lên. Chính lẽ đó, hiện thực chiến tranh trong tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân là hiện thực đƣợc nhận thức lại, ở đó có những chiến công làm bừng lên sức mạnh, ý chí của dân tộc và có cả những khó khăn, bi quan tƣởng nhƣ không thể gƣợng dậy. Tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế tái hiện cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nƣớc ở thời điểm ác liệt của lịch sử khi nó đã tiến sát đến ngày tổng tiến công 30 tháng 4 năm 1975. Theo đó, mạch sự kiện, diễn tiến các trận đánh vẫn là sợi dây xuyên suốt tác phẩm. Tuy nhiên, khác hẳn với không 19
  25. khí sử thi hừng hực khí thế trong Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, ngay từ đầu tiểu thuyết đã mở ra một khung cảnh tan tác khi D3 để mất cao điểm 174. Súng nổ, lựu đạn liên tiếp ném xuống, anh em thƣơng vong gần hết “ba người ngồi nép vào nhau trong căn hầm sụt lở giữa đỉnh đồi. Thỉnh thoảng một mảng trời méo mó lại lộ ra sau màn khói đạn dày đặc” [16, 33], “Sau mỗi loạt pháo ( ) đầy khói đạn cứ loang lổ dần, thăm thẳm trên đỉnh đầu” [16, 34]. Mất cao điểm 174, cuộc chiến liên tiếp rơi vào những tình huống vô cùng khó khăn. Đặc biệt, càng đến những ngày cuối cùng của chiến dịch, trận tuyến giữa ta và địch càng co hẹp lại. Ở bên này, Phác, Duật và cả sƣ trƣởng Khâm dù muốn hay không vẫn phải nhắm bắn thẳng về phía bên kia trong đó có em, anh và con mình. Chiến tranh đã len lỏi vào mỗi gia đình và họ nghiễm nhiêm phải đối mặt nhau, trở thành kẻ thù của nhau trên chiến tuyến. Bối cảnh chính của tiểu thuyết diễn ra ở Hoài Châu, Hoài Nhơn nhƣng chiến trƣờng đã bị thu hẹp đến cùng cực. Có những lúc ranh giới giữa ta và địch chỉ cách nhau một con đƣờng, một ngôi nhà, thậm chí một bức tƣờng đổ. Rõ ràng, dù vẫn mang âm hƣởng sử thi khi miêu tả chiến tranh nhƣng nhà văn đã hƣớng ngòi bút của mình đến gần sát hơn với hiện thực. Ở đó, ngƣời đọc nhƣ đƣợc nhìn vào cận cảnh với “đạn nổ choang chác, veo véo ở xung quanh” [16, 211]. Đối với vùng bắc Bình Định, bom đạn đã in dấu trên những căn nhà, những thửa ruộng, gần nhƣ không đâu là không có hố bom, hố đạn. Những ngôi mộ nằm kề sát những ngôi nhà, những căn hầm. Không né tránh những thời điểm khốc liệt nhất của chiến tranh, Nguyễn Trí Huân đã cho ngƣời đọc thấy đƣợc diễn biến chân thực nhất của nó. Có những lúc cả ba tiểu đoàn, chỉ sau trận đánh đầu tiên, quân số còn lại quá ít ỏi. Tiểu đoàn pháo binh của Phác, tiểu đoàn công binh của Khải liên tục đƣợc tăng cƣờng nhƣng cũng liên tục gặp phải thất bại. Phƣơng án vƣợt sông không thành, đến cuộc hành quân đƣờng bộ thì ngƣời nào cũng mệt nhoài “càng đi càng có cảm giác 20
  26. đang bị lún sâu trong đầm, như không bao giờ tới bờ bên kia nổi” [16, 316]. Trƣớc năm 1975, chƣa bao giờ ngƣời đọc bắt gặp trong tiểu thuyết những hoàn cảnh bi thƣơng đến thế. Mặc dù vẫn thiên về cảm hứng sử thi nhƣng hiện thực chiến tranh trong Năm 1975, họ đã sống như thế đã đƣợc dồn nén cả về không gian và thời gian. Nhà văn tập trung miêu tả không khí của trận địa pháo bằng những thời khắc rất ngắn, thƣờng là “nửa giờ”, “mười phút sau”, “hơn một giờ” hoặc những mốc thời gian chính xác: “tám giờ”, “chín giờ”, “năm giờ sáng”, “bảy giờ tối”, “nửa đêm”, “một giờ sáng”, “ba giờ sáng”. Bằng những điểm thời gian ấy, tác giả nhƣ đang dẫn dắt ngƣời đọc cùng chứng kiến mỗi bƣớc chuyển biến của trận địa. Cuộc chiến diễn ra căng thẳng trong từng giây phút, thế trận liên tục chuyển dịch giữa ta và địch, khi thì hỏa lực pháo binh địch bắn điên dại nhƣng có lúc lại nằm câm bặt, không có lấy một phản ứng nhỏ. Cũng có khi nhà văn tập trung miêu tả những cuộc hành quân của ngƣời lính “đêm như vỡ ra bởi những tiếng nổ ở cả hai phía bờ sông. Pháo ta bắn, pháo địch bắn. Nhiều quả rơi xuống mặt nước, sóng dập vào bờ sú óc ách. Đại đội đi thành hàng một, vai vác pháo, chân sục trong bùn. Không thể phân biệt được người nào là du kích, người nào là bộ đội chủ lực nữa. Tất cả đều cởi trần, cài ngụy trang nom như những khóm cây di động” [16, 301]. Mỗi ngƣời lính đều lặng lẽ, gấp gáp bởi chiến tranh không chờ đợi một ai và cuộc chiến càng lúc càng bất lợi cho phía ta. Trong cảm nhận của một sĩ quan ngụy chết trƣớc tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, chiến tranh cũng khốc liệt không kém. Giữa bộn bề những nghĩ suy, trăn trở sĩ quan ngụy đã phác họa diện mạo chiến tranh đen đúa, tăm tối ở phía địch. Ngay trong căn hầm tên lính ngụy đang sống luôn lổn nhổn những mảng xƣơng ngƣời đen thẫm, nồng nặc mùi hôi thối bốc lên và không hiếm những mảng sọ đang nhe răng cƣời ở một góc hầm. Kinh 21
  27. khủng hơn, một tên lính ngụy còn lấy một mảng sọ ngƣời in hằn những đƣờng dây thần kinh trên não bộ gọt một thẻ bùa hộ mệnh đeo trƣớc ngực. Chết chóc luôn lảng vảng ngay quanh sự sống của mỗi ngƣời lính ngụy và đối với họ, nó cũng không còn lạ lẫm gì. So với hiện thực trần trụi của chiến tranh ở phía ta thì bộ mặt chiến tranh ở phía địch đƣợc Nguyễn Trí Huân nhìn thẳng, nhìn sâu vào sự thật, mở ra những vùng hiện thực mới mà trƣớc đây chƣa từng đƣợc biết đến trong tiểu thuyết chiến tranh. Cũng nhƣ Năm 1975, họ đã sống như thế, Chim én bay mở ra bằng thời điểm khó khăn của cách mạng sau cuộc tập kích chiến lƣợc tết Mậu Thân. Sƣ đoàn Sao Vàng, một sƣ đoàn chủ lực của chiến trƣờng khu 5, từng làm cho sƣ đoàn không vận số 1 của Mỹ điêu đứng cũng bị đẩy dần dần khỏi đồng bằng, khỏi vùng ranh và cuối cùng bị đẩy bật lên thƣợng nguồn sông Côn. Theo cách miêu tả của nhà văn, đó là những năm tháng của pháo bầy, của bom rải thảm. Nguyễn Trí Huân đã giúp bạn đọc hình dung đƣợc cái dữ dội, điên cuồng của chiến tranh trên mảnh đất Bình Định vốn đã khắc nghiệt này. Sự khốc liệt của chiến trƣờng còn hiện lên rõ nét qua những cái chết thảm thƣơng. Từ tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế cho đến Chim én bay, hình ảnh cái chết của các nhân vật xuất hiện nhiều và có sức ám ảnh lớn. Nếu nhƣ trong chiến tranh, “điều không bình thường đã trở nên bình thường” thì cái chết cũng vậy. Có những cái chết không rõ nguyên nhân, bất ngờ và đột ngột. Trong số những cái chết đƣợc nhắc đến, cái chết của Mạc là cái chết từ từ đầy ám ảnh: “nước ộc vào miệng, vào mũi, vào tai mạc. Mạc giãy giụa, ngột ngạt. Những chiếc bong bóng nổi trên mặt sông. Con sông nước mặt, xanh thẫm. Sóng vẫn ào ạt đổ qua trụ cầu gãy, cuốn theo những chiếc ván thuyền còn nổi trên sông, ra biển” [16, 331]. Cái chết của anh Dƣơng, chị Hảo, của Dũng, của ba Quy trong Chim én bay cũng vô cùng thê thảm và đau đớn, “Cách chỗ chị vài sải tay Dũng nằm, ngực vỡ nát. Đôi ống chân gầy gò 22
  28. của Dũng mở rộng, đầu ngật về một bên” [15, 93]. Từ nhân vật chính đến nhân vật phụ, từ kẻ tiểu nhân, phản bội đến ngƣời anh hùng, trên chiến trƣờng ác liệt cái chết đều không buông tha một ai. Rõ ràng, khi đƣợc nhìn sâu vào bản chất, nhìn gần vào thực tế, chiến tranh hiện lên qua các tiểu thuyết hậu chiến với diện mạo hoàn toàn khác so với tiểu thuyết trƣớc năm 1975. Ở đó, ngƣời đọc thấy đƣợc sự dữ dội của cuộc chiến đấu giữa ta và địch, những thiệt hại nặng nề, những thời điểm khó khăn, thất bại và cả sự chịu đựng đến mức ghê gớm của con ngƣời. Tô đậm cái hiện thực trần trụi ấy của chiến tranh, tiểu thuyết hậu chiến đã giúp ta hiểu rằng cái giá phải trả cho hai chữ “hòa bình” là biết bao xƣơng máu của những ngƣời đã từng cầm súng. Cho đến nay cả thế giới vẫn không khỏi ngỡ ngàng tại sao một đất nƣớc nhỏ bé với vũ khí quân sự thô sơ lại có thể chiến đấu và chiến thắng Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ - Hai cƣờng quốc lúc bấy giờ. Đó là bởi, “nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước”, một ý chí, một tinh thần chiến đấu quật cƣờng, lớp này ngã xuống, lớp kia đứng lên tất cả vì một ngày toàn thắng. Bởi vậy, chiến trƣờng càng khốc liệt bao nhiêu, hi sinh lớn lao bao nhiêu thì chiến thắng lại càng vẻ vang bấy nhiêu. Trong tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân, bên cạnh việc phản ánh chiến trƣờng bom đạn ác liệt, nhà văn cũng không quên khắc họa những chiến thắng vẻ vang của quân và dân ta. Đó là giây phút thực hiện nhiệm vụ: “Anh ráng chờ cho chiếc trực thăng đỗ hẳn xuống mặt đất. Người anh nổi da gà vì quá căng thẳng và sung sướng. Cái sung sướng của một người đi săn bắt gặp một con mồi đang lao vào tầm bắn của mình” (Năm 1975, họ đã sống như thế). Ngƣời chiến sĩ bình tĩnh và làm chủ tình thế, chính bởi có những con ngƣời nhƣ anh mà quân ta đã nắm đƣợc thế chủ động: “Địch có hiện tượng tháo chạy. Chuẩn bị thọc nhé, thọc thật mạnh” (Năm 1975, họ đã sống như thế). Trƣớc sức mạnh và ý chí “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” của quân ta, kẻ địch “luôn luôn cảm thấy mất an toàn 23
  29. ở bất kì nơi nào chúng đặt chân đến, những cái chết bất đắc kì tử, khủng khiếp luôn treo lơ lửng trên đầu chúng” (Chim én bay). Chiến trƣờng mƣa bom, bão đạn dần đƣợc thay thế bằng những lá cờ rợp đỏ, những khúc hát, những khẩu hiệu đầy hào khí và trang nghiêm: “Người, xe như nối thêm, dài bất tận trên các ngả đường đổ về Sài Gòn. Bộ đội vừa hành quân vừa hát, những khúc hát về Bác Hồ” (Năm 1975, họ đã sống như thế). Việc mở đầu tác phẩm bằng những khó khăn, những mất mát của nhân dân ta và khép lại bằng những chiến thắng vang dội, Nguyễn Trí Huân đã cho độc giả một cái nhìn toàn vẹn về chiến trƣờng - nơi mất mát, hi sinh và gian khổ và cũng là nơi chiến đấu, chiến thắng và làm chủ cuộc đời. 2.1.2. Hiện thực đời thường Song song với hiện thực chiến trƣờng là bức tranh hiện thực đời thƣờng với đủ gam màu sáng tối. Đây là điều đáng ghi nhận ở tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân. Bằng những trải nghiệm của mình, Nguyễn Trí Huân đã cho bạn đọc thấy đƣợc một thực tế rằng dù chiến tranh đang diễn ra hay đã kết thúc thì cuộc sống vẫn vận động theo đúng quy luật của nó với những nghịch lý, cần phải nghĩ suy. Trong tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế, Nguyễn Trí Huân đã mạnh dạn phơi bày những thực trạng mà trƣớc đây ngƣời ta thƣờng né tránh. Qua câu chuyện của Thăng và Mạc, hậu phƣơng miền Bắc - Nơi một lòng hƣớng về miền Nam ruột thịt lại hiện lên ở một góc độ khác: “Anh không thể lường trước được trong lúc hàng triệu người hy sinh máu mủ của mình thì một số người cũng là cán bộ, đảng viên lại sống một cuộc sống khác hẳn. Anh có còn nhớ tay Phẩm, phó phòng thương nghiệp không? Sống như ông vua con. Người ta bảo hồi đi đánh Pháp về, mãi tới năm sáu lăm, sáu sáu, anh ta vẫn chỉ là một anh chàng nghèo rớt mồng tơi, có đồng nào vắt mũi đút miệng đồng ấy. Vậy mà chỉ ba bốn năm sau, người làng bỗng bật ngửa khi thấy anh 24
  30. ta mướn ô tô chở gạch ngói về xây nhà, mua giường, sắm tủ, cứ như bắt được của Rồi anh ta lên phó phòng, bắt đầu sắm xe máy kiểu mới nhất của Đức. Con cái anh ta, mới nhỏ xíu đã xuyến, nhẫn, đồng hồ y như con cái tư sản” [16, 149]. Những điều này, Nguyễn Trí Huân đã viết cách đây ngót bốn mƣơi năm nhƣng vẫn nóng hổi ý nghĩa thời sự giống hệt những lời báo chí mới hôm qua viết về những vụ tham nhũng lớn. Phải chăng, nhà văn đã nhìn thấy đƣợc những mâu thuẫn tồn đọng trong xã hội mới đang hình thành đằng sau cuộc chiến tranh đạn bác nơi chiến trƣờng. Trong dự cảm của tác giả, cuộc sống thời bình cũng đầy rẫy những bất công, phi lí không kém gì thời chiến và đối mặt với nó là điều không dễ dàng. Bức tranh đời thƣờng xuất hiện rải rác trong Năm 1975, họ đã sống như thế nhƣng phải đến Chim én bay mới thực sự rõ nét. Tác phẩm ra đời đã góp phần gióng lên một hồi chuông về những nghịch lí mà con ngƣời đang phải đối mặt. Chim én bay mở ra với không khí tƣơi vui, rộn ràng ngập tràn những trang tiểu thuyết. Chiến tranh đi qua, nhƣng một cuộc chiến đấu mới lại bắt đầu. Nhân dân cả nƣớc chung tay xây dựng kinh tế và khôi phục đất nƣớc. Nhiều đoàn hội đƣợc thành lập, cán bộ đƣợc phân bổ để giúp bà con ổn định cuộc sống. Ruộng đƣợc chia lại, tổ hợp sản xuất đƣợc ra đời. Một mặt khôi phục và xây dựng nƣớc nhà, mặt khác nhân dân ta còn góp sức chung lòng với ngƣời anh em Campuchia vƣợt qua họa diệt chủng mùng 7 tháng giêng năm 1979 với tinh thần “tương thân tương ái”, “một nắm khi đói bằng một gói khi no”. Bức tranh sinh động của cuộc sống ấy cho phép chúng ta có niềm tin vào một tƣơng lai tƣơi đẹp. Thế nhƣng đằng sau đó còn ẩn chứa cả một câu chuyện dài mà nhà văn đang trăn trở. Sau chiến tranh, huyện chị Quy có hơn một vạn liệt sĩ, ngót nghét một vạn tên lính ngụy, công chức làm việc dƣới chính quyền ngụy. Những gia đình có công với cách mạng đã đƣợc đãi 25
  31. ngộ, còn những gia đình có tội thì bị ruồng bỏ và khinh miệt. Dẫu biết rằng họ hay ngƣời thân họ từng có nợ với đất nƣớc, với nhân dân nhƣng dù sao họ vẫn là một con ngƣời và họ cần đƣợc sống, huống chi vợ con họ không đáng bị ruồng bỏ. Quy - Một chiến sĩ cách mạng từng vào sinh ra tử, bom đạn không làm chị nề hà nhƣng cuộc sống thực tại sau chiến tranh lại đang khiến chị phải suy nghĩ. Chị đau đớn khi đối diện với nó. Hàng ngày, bà con vác cuốc rƣợt đuổi những tên ấp trƣởng đi cải tạo về, bị dồn vào đƣờng cùng họ phải bán đất lên rừng để ở. Nhƣng có lẽ, cay đắng, tủi nhục hơn là những ngƣời vợ, ngƣời con kẻ phản bội. Thay vì cần phải có những chính sách cụ thể đối với gia đình những tên ác ôn, công chức, sĩ quan ngụy thì một số cán bộ dùng chức quyền để hành hạ, để chì chiết họ. Trong cuộc họp vận động ủng hộ Campuchia, vợ Hai Đích đã mạnh dạn đƣa ra ý kiến: “Tôi thấy các bà con bên đó cần nhất là hạt giống. Ta nên giúp họ lúa giống, cả gà, lợn giống nữa. Phải giúp họ làm ra của cải chớ mình lấy đâu ra mà giúp họ mãi được”(Chim én bay). Biết bản thân là vợ một kẻ phản bội nhƣng mẹ con chị đã cố gắng để đƣợc hòa nhập với cộng đồng, vậy nhƣng điều chị nhận đƣợc lại là cái cƣời nhạt đầy khinh bỉ của chị hội trƣởng: “Chị khỏi lo, chưa chắc chúng tôi đã nhận phần ủng hộ của chị đâu”. “Chị nên hỏi các vong linh khốn nạn của thằng chồng phản bội nhà chị. Trồng cây nào chị phải ăn quả nấy. Không ai thèm hiếp đáp nhà chị” (Chim én bay). Thật đáng buồn bởi con ngƣời, chỉ vì thành kiến cá nhân mà có những lời lẽ độc ác nhƣ vậy. Hòa bình lập lại, những tƣởng cuộc sống mới sẽ đến nào ngờ bom đạn không giết ngƣời ta mà tự ngƣời ta tìm đến cái chết. Vợ Giám Tuân uống thuốc độc tự tử, đứa con thứ của hắn thì lao vào xe mà chết. Họ thà chết chứ không thể sống nổi trong cảnh ngƣời quen thì xa lánh, ngại liên quan còn cán bộ chỉ đến để hành hạ, rồi làm ruộng thì chia ruộng xa, ruộng xấu, đến khi không nộp đủ sản lƣợng thì khiêng bàn ghế xung vào công quỹ; xin vào tổ hợp làm mè xửng thì không ai 26
  32. chịu nhận; buôn cá thì “đánh thuế thật nặng”. Có lẽ cái chết của mẹ con giám Tuân còn đau đớn gấp trăm nghìn lần so với cái chết vì bom đạn bởi đó là cái chết cả thể xác lẫn tâm hồn. Cuộc sống của mẹ con Hai Đích, Giám Tuân chỉ là hai trong vô vàn gia đình có tội với cách mạng phải chịu cảnh sống không bằng chết bởi những định kiến cay nghiệt của xã hội. Bên cạnh đó, hiện thực đời sống sau chiến tranh còn hiện lên trong dự cảm của nhà văn về một cuộc chiến tranh mới. Dự cảm đó xuất hiện trong Chim én bay với câu chuyện của một thanh niên, là đoàn viên, cán bộ của một công ty dịch vụ của tỉnh. Anh là con của một liệt sĩ nổi tiếng hồi chống Mỹ. Nghe tin kẻ giết cha mình mới đi cải tạo về, anh lập tức lấy súng mà cha để lại tìm đến nhà tên ác ôn, nói chuyện một cách sằng phẳng rồi nổ súng bắn chết. Quả thực, chiến tranh chấm dứt nhƣng không có nghĩa là chấm dứt hoàn toàn, nó vẫn có thể xảy ra bởi cách lập luận của không ít ngƣời: “Một khi người thân của tôi bị giết thì không có lí gì, những người thân của kẻ giết người có thể sống yên ổn” (Chim én bay). Câu khẳng định của thằng bé con kẻ phản bội khiến không ít ngƣời giật mình: “Nhưng con và anh con sẽ trốn ở lại. Anh con nói chưa trả thù được thì chưa đi đâu hết” (Chim én bay). Hòa bình lập lại nhƣng có nguy cơ sẽ xảy ra một cuộc chiến tranh mới khiến những ngƣời chiến sĩ nhƣ Quy chán nản và rùng mình nhƣ khi “đang phải đi qua một con đường lầy lội và đã cố gắng quên quãng đường ấy đi nhưng có kẻ vẫn buộc chị phải đi trở lại con đường ấy”. Đời sống hậu chiến diễn ra vô cùng phức tạp, do đó những dự cảm của nhà văn không phải là điều phi lí. Bằng óc quan sát tỉ mỉ, ngòi bút Nguyễn Trí Huân đã khám phá và thể hiện bức tranh hiện thực đời thƣờng với tất cả những góc khuất lấp và mang đến cho bạn đọc một cái nhìn cụ thể, không chỉ là hiện thực chiến trƣờng mà còn là hiện thực đời thƣờng muôn hình, muôn vẻ. 27
  33. 2.2. Số phận con ngƣời Trong văn học, con ngƣời là điểm xuất phát, đồng thời cũng là đích cuối cùng của mọi sáng tạo. Lịch sử phát triển của văn học, suy cho cùng là lịch sử của những khám phá và thể hiện con ngƣời. Trƣớc năm 1975, do yêu cầu cổ vũ chiến đấu, nhà văn rất coi trọng việc phản ánh kịp thời những sự kiện nóng bỏng ở mặt trận. Khi cuộc chiến tranh đi qua, nhiều ngƣời băn khoăn lựa chọn “con người” hay “sự kiện” làm đối tƣợng chủ yếu trong tác phẩm của mình. Ngay từ năm 1976, các nhà văn đã xác định: cần dành sự ƣu tiên cho con ngƣời, cần viết về thân phận con ngƣời trong cuộc chiến, còn các sự kiện thì hãy dành phần cho các nhà sử học và các nhà quân sự. Cũng nhƣ nhiều tiểu thuyết hậu chiến khác, tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân đã có “cuộc hành hương” tìm về cội nguồn đặc trƣng thể loại: đi tìm những ẩn số thân phận con ngƣời. Khi lấy con ngƣời làm hệ quy chiếu, chiến tranh sẽ chỉ còn lại là nỗi đau, là hi sinh, mất mát không thể đắp bù, nó bám chặt và ám ảnh cuộc đời ngƣời lính, ngƣời phụ nữ và đặc biệt là trẻ em. 2.2.1. Số phận người lính Chiến tranh đi qua gần một nửa thế kỉ. Sự hiện diện của chiến tranh ở bề mặt khốc liệt nhất đã lùi xa nhƣng lại trở nên âm thầm và giằng xé ở nơi sâu thẳm nhất trong lòng ngƣời. Bởi vì chiến tranh sẽ không bao giờ mất đi trong kí ức dù con ngƣời đang sống trong thời hậu chiến. Sự thật về chiến tranh hôm nay đƣợc nhìn lại là một sự thật đã trải qua những năm tháng day dứt, trăn trở trong tâm hồn nhà văn, hơn thế nữa nó là sự nếm trải của ngƣời trong cuộc. Bởi thế, trƣớc hết chiến tranh hiện lên qua số phận của ngƣời lính. Xuất phát từ nhận thức khách quan của thế hệ hậu chiến, coi chiến tranh không chỉ có chiến thắng, có hào quang mà nó còn tác động sâu sắc đến đời sống con ngƣời, Nguyễn Trí Huân đã đặt nhân vật ngƣời lính của mình trong mối quan hệ chặt chẽ với hiện thực trong và sau chiến tranh để thấy đƣợc sự 28
  34. ảnh hƣởng của nó. Cảm hứng sáng tác của Nguyễn Trí Huân đã hƣớng đến ngƣời lính - Những con ngƣời mang số phận bi kịch. Ngay ở thời điểm cuộc chiến tranh ác liệt đang diễn ra, những ngƣời tham chiến cũng mang nặng những buồn đau. Đó là sĩ quan ngụy trong Năm 1975 họ đã sống như thế. Chiến tranh đã cƣớp đi thời thanh xuân đầy ý nghĩa của hắn. Hắn thƣờng xuyên rơi vào trạng thái đau đớn vì nhận ra “mình không sống được tuổi trẻ”, sống qua tuổi trẻ nhƣ “ăn phải một thứ trái cây đắng”. Trang nhật ký trƣớc khi chết đã ghi lại suy nghĩ chân thực nhất của hắn khi còn là lính ngụy. Ở đây binh lính chiến đấu chẳng vì một lý tƣởng cao đẹp nào, với họ, bệnh viện, về phép và giải ngũ là ba cõi thiên đƣờng họ mong mỏi đƣợc dừng chân. Ngay khi đặt chân vào quân ngũ, ngƣời lính ngụy đã cảm thấy những ngày tháng đau khổ trƣớc mắt chính thức bắt đầu. Sự kéo dài chiến tranh chỉ khiến hắn thêm mệt mỏi, ngã quỵ. Suy nghĩ của sỹ quan ngụy đã vẽ ra cuộc sống đầy chết chóc, giả trá, thiếu thốn đủ đƣờng và cô đơn đến mức nảy sinh ý định tự sát trong hắn. Lúc phiền muộn, chán chƣờng, hắn trốn khỏi căn cứ tìm sự khỏa lấp trong rƣợu mạnh và nhà chứa. Theo ngụy là một sự phi lý mà ngƣời sỹ quan này buộc phải chấp nhận và làm nô lệ suốt cuộc đời. Bi kịch trong tâm hồn ngƣời lính ngụy là bi kịch của cả thế hệ theo địch “bị chiến tranh hủy hoại, đang thối rữa trong cái guồng máy khổng lồ không sao cứu vãn được” [16, 27]. Khép lại tấn bi kịch ấy là cái chết trƣớc ngày những trận đánh dồn dập xảy ra quanh khu vực Du Tự bởi một viên đạn xuyên qua lƣng và trổ ra đằng ngực. Những dòng nhật ký của sỹ quan ngụy đặt đầu tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế tuy ngắn ngủi nhƣng đủ để ngƣời đọc hình dung về số phận của những ngƣời lính và cho thấy cách nhìn mới mẻ của Nguyễn Trí Huân về thân phận con ngƣời trong chiến tranh, từ phía bên kia chiến tuyến. 29
  35. Còn ở phía bên này, những ngƣời lính chiến đấu vì lý tƣởng cao cả, vì khát khao hòa bình mạnh mẽ nhƣng nhiều lúc họ cũng phải chịu chung số phận đầy bi kịch. Đó là tấn bi kịch của ngƣời lính với chằng chịt thƣơng tích về thể xác và tinh thần. Trên khắp các mặt trận trong tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế, nhà văn phác họa không ít những số phận vô cùng trái ngang khi họ có những ngƣời ruột thịt đi theo giặc nhƣ Phán, Duật Không chỉ đau xót vì chính ngƣời thân yêu của mình đứng trong hàng ngũ địch mà hơn thế nữa, những ngƣời lính còn phải giáp mặt với ngƣời thân ngay trên các chiến tuyến. Giữa cuộc chiến tranh tƣơng tàn ấy, tình cảm gia đình đã bị biến thành mối thù địch, bị đem ra thử thách bằng súng đạn. Bề ngoài, Phán, Duật dửng dƣng khi đồng đội nhắc đến anh, em mình bao nhiêu thì trong lòng họ đau xót, giằng xé bấy nhiêu. Trƣờng hợp của Phán, của Duật chỉ là một trong nhiều cảnh ngộ tƣơng tự của chiến tranh đƣợc Nguyễn Trí Huân nhắc đến trong tiểu thuyết. Nếu nhƣ chiến tranh tạo ra cuộc hội ngộ đầy bất ngờ giữa cha và con Khâm thì chính chiến tranh lại đẩy anh em Duật, Phán vào cuộc đối đầu sinh tử ngoài ý muốn và buộc phải dùng đến tiểu liên, lựu đạn tiêu diệt nhau. Để cho ngƣời lính đối mặt với cuộc thử thách tinh thần căng thẳng ấy, nhà văn đã đặt ra vấn đề số phận con ngƣời trong chiến tranh với những ngang trái, bi kịch. Không đau đớn vì phải đối mặt với chính ngƣời thân của mình trong chiến trận nhƣng số phận hàng loạt những ngƣời nhƣ Quy, Thêm, Dũng (Chim én bay); Thƣ, Thức, Mạc (Năm 1975, họ đã sống như thế) cũng đầy bất hạnh. Quy, Thƣ và Dũng đều phải đau đớn chứng kiến cái chết thảm khốc của ngƣời thân ngay từ khi còn rất nhỏ. Còn với Thức, không ai hiểu gì về cuộc đời anh, bởi mới năm tuổi, Thức đã bị ném ra đƣờng lang thang kiếm ăn ở các bến tàu, bãi rác và các nhà ga, xe lửa. Anh là ngƣời duy nhất không còn quê quán, không gia đình. Xót xa hơn là trƣờng hợp của Phúc và Thoại. Năm 30
  36. 1972, Thoại bị bọn lính pháo bắt trong một trận tập kích. Đánh chán, chúng cột chị vào nòng pháo kéo đi càn. Đến lúc vào bệnh viện, chị gãy chân phải nhƣng bác sĩ quân y lại cắt cụt chân trái. Tàn dƣ của thƣơng tích đó lại đến giữa giờ khắc đám cƣới vội vàng trong bom đạn khiến Thoại lên cơn co giật. Đằng sau hình ảnh ngƣời lính sẵn sàng xông pha nơi trận mạc, đối đầu với cái chết là vô vàn những cuộc đời bi thảm. Mỗi ngƣời lính có một số phận, cảnh ngộ riêng song không ai không phải trải qua hoặc đối mặt với những tấn bi kịch lớn trong cuộc đời. Mỗi con ngƣời đều chịu sự tác động của hoàn cảnh chiến tranh. Một trong những tác động dễ nhận thấy của chiến tranh là nó quyết định sự sống – cái chết của ngƣời lính. Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã kết thúc thắng lợi nhƣng đổi lại, nó đã cƣớp đi sinh mệnh không biết bao nhiêu con ngƣời. Không né tránh cái chết nơi chiến trận cũng là một cách phác họa số phận của ngƣời lính trong chiến tranh. Cái chết bi thƣơng của Mạc, Nhã (Năm 1975 họ đã sống như thế), của Dũng, Thêm (Chim én bay) cùng vô số những con ngƣời vô danh khác đƣợc nhắc đến nhiều lần trong tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân và để lại hững ám ảnh mạnh mẽ nơi bạn đọc. Và rồi chiến tranh qua đi, nhiều ngƣời lính may mắn sống sót trở về trong chiến thắng. Tƣởng nhƣ cuộc sống thời bình sẽ mở ra cho họ tƣơng lai tƣơi sáng, hạnh phúc để bù đắp lại những năm tháng tăm tối trong bom đạn. Nhƣng bi thƣơng thay họ lại phải đƣơng đầu với những thử thách mới và đau đớn hơn là phải sống suốt quãng đời còn lại trong những tàn tích của chiến tranh. Một kiểu nhân vật mới xuất hiện trong tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân, đó là con ngƣời mang bi kịch hậu chiến của kẻ chiến thắng. Bóng dáng con ngƣời bi kịch của thời đại hậu chiến ẩn hiện và đọng lại rõ nét trong cuộc đời những ngƣời lính của đội Chim én năm xƣa trong Chim én bay. Cũng giống nhƣ Hai Hùng (Ăn mày dĩ vãng), Kiên (Nỗi buồn chiến tranh), Quy đã vƣợt 31
  37. qua cái chết trong đầy rẫy bom đạn nhƣng không một chút thanh thản trong cuộc sống hòa bình. Không giây phút nào của hiện tại mà chị không nguôi day dứt về quá khứ đã qua, nơi những thành tích đánh giặc của ngƣời nữ chiến sĩ anh hùng đƣợc cả xã hội tôn vinh, trọng nể nhƣng với riêng chị, mỗi chiến thắng luôn là một ám ảnh lớn. Bi kịch lớn trong cuộc đời Quy bắt đầu từ cái chết bất đắc kì tử của cha, anh Dƣơng và chị Hảo, tiếp nối khi Quy bị hai tên dân vệ tại hội đồng xã thay nhau hãm hiếp trong lúc chị còn đang ở tuổi vị thành niên. Nó vắt từ quá khứ sang hiện tại, từ lúc chiến tranh cho đến thời bình. Tuổi thơ Quy đánh dấu những tháng ngày đen tối khi liên tiếp phải chứng kiến sự ra đi của tất cả ngƣời thân trong gia đình. Những cái chết thảm khốc đó gieo vào lòng chị sức ám ảnh ghê gớm, để đến sau này, mỗi lần nhớ lại, chị nhƣ phải sống thêm một lần nữa “cái giây phút ánh nắng chợt lóe sáng trên chiếc khuyên ở ngón tay áp út trên bàn tay của người anh trai và những đám bụi trên đôi mắt mở trừng trừng của chị Hảo” [15, 19]. Đau đớn hơn, bốn năm lê lết hết nhà lao này đến nhà lao khác đã biến Quy thành một cô gái không còn khả năng làm một ngƣời phụ nữ bình thƣờng cũng nhƣ khả năng làm mẹ. Đòn tra tấn thâm độc của hai tên dân vệ đã ngấm sâu vào cơ thể chị và nó lớn dần cùng bao hận thù muốn đƣợc trút bỏ trong suốt quãng đời tham gia đội Chim én sau này. Cuộc tra tấn ấy không chỉ gây đau đớn về mặt thể xác mà nó mãi mãi gieo vào lòng chị những ám ảnh ghê gớm. Khi sống những phút giây cuối cùng trên giƣờng bệnh, trƣớc mắt chị lại hiện lên hai thằng dân vệ trần truồng ở phòng giam của hội đồng xã. Mấy ai thấu hiểu đƣợc cuộc đời ngƣời phụ nữ anh hùng, một đại biểu Quốc hội đƣợc trọng vọng ấy lại phải gánh chịu những đớn đau về thể xác và tâm hồn đến vậy. Ám ảnh về những vết thƣơng trên thân thể khiến chị nhất định không chịu đi bệnh viện, vì chị biết, một khi đã bƣớc vào phòng khám chị sẽ buộc phải nằm điều trị, vì trong cái cơ thể xộc 32
  38. xệch của chị không hiếm gì bệnh tật. Chiến tranh vĩnh viễn qua đi nhƣng không gì có thể hàn gắn đƣợc nỗi bất hạnh của ngƣời lính ấy. Miêu tả một ngƣời lính anh hùng nhƣng trong Chim én bay, nhân vật Quy đã để lại ấn tƣợng trong lòng độc giả trƣớc hết và sâu đậm nhất với tƣ cách là một nạn nhân của chiến tranh. Tuy nhiên, những đau đớn về thể xác chƣa là gì nếu đem so sánh với những bi kịch về mặt tinh thần. Một mặt, Quy phải sống suốt quãng đời còn lại trong cảnh cô đơn, không ngƣời thân thích, không nơi nƣơng tựa, không tình yêu, trong khát khao chính đáng của ngƣời phụ nữ muốn đƣợc làm vợ, làm mẹ. Mặt khác, Quy còn luôn day dứt với quá khứ, với chính chiến công của mình. Chính vì thế, chị mong muốn gặp gỡ, giúp đỡ những ngƣời con, ngƣời vợ của tên ác ôn Hai Đích, giám Tuân nhƣ là một sự cứu rỗi cho tâm hồn chƣa lúc nào thanh thản của chị kể từ khi bom đạn đã lặng xuống. Sau những day dứt đeo đẳng suốt quãng đời còn lại với ám ảnh chƣa bao giờ dứt về vết thƣơng chiến tranh để lại, về chiến công của ngƣời lính anh hùng đƣợc lập nên trên nỗi đau của bao số phận con ngƣời khác, cuộc đời Quy đã khép lại bằng cái chết không bình yên. Quy ra đi khi tình yêu mới đã đến với chị dù chỉ là một lời hẹn ƣớc. Chị mang theo nỗi lòng ngổn ngang về quá khứ và hiện tại vào cõi trƣờng sinh với tâm trạng “thoát khỏi căn phòng chật hẹp của bệnh viện và đang bay lang thang như những đám mây màu trắng tinh khiết. Những đám mây báo trước những điềm lành dữ trên quê hương chị. Dường như chị đang hòa nhập vào bầy chim én không biết từ đầu bỗng ùa ra đen đặc trên bầu trời” [15, 198]. Cái chết đến với chị chậm chạp và tàn nhẫn bởi Quy mới chỉ sống đƣợc một phần của cuộc đời mà lẽ ra chị đáng đƣợc sống nhiều hơn thế. Vậy là kết thúc số phận bi kịch của một đời ngƣời – “bi kịch lòng thương yêu và sự trắc ẩn”, bi kịch của “những ánh hào 33
  39. quang quá khứ cùng với những tổn thương không thể bù đắp về tinh thần và thể xác đã vây kín mọi lối thoát cho cuộc đời chị” [11]. Lần đầu tiên trong tiểu thuyết chiến tranh, ngƣời lính đƣợc nhìn sâu vào trong ký ức, đƣợc soi chiếu ở góc khuất lấp nhất của tâm hồn. Và trên hết, ngƣời lính đã đƣợc Nguyễn Trí Huân và các nhà văn cùng thời khai thác ở khía cạnh con ngƣời cá nhân, là những nạn nhân của chiến tranh. Chân dung những ngƣời lính mang đầy thƣơng tật về thể xác, bi kịch về tâm hồn đặt ra vấn đề nhức nhối của con ngƣời sau chiến tranh. Ở đó, chiến tranh là một “nghịch lý”, bởi không đâu nhƣ ở đây, ngƣời lính trở về trong tƣ thế chiến thắng nhƣng lại mang “nỗi buồn được sống sót”. Nếu không chất chứa một tấm lòng thấm đẫm tình ngƣời thì Nguyễn Trí Huân không thể thấu hiểu và cảm thông sâu sắc cho bi kịch “trớ trêu” của ngƣời lính đến vậy. Và nếu không xuất phát từ một ngòi bút đầy tính nhân văn tác giả cũng không thể viết nên những trang văn buồn thƣơng và xót xa đến thế. Trong thế giới nhân vật của tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân, không chỉ có những ngƣời lính phải gánh chịu bi kịch mà còn những thế hệ vĩnh viễn gửi lại một phần xƣơng thịt của mình trên chiến trƣờng để cho Tổ quốc đƣợc nảy mầm bình yên. Thông qua những nhân vật của mình, Nguyễn Trí Huân đã gióng một hồi chuông cảnh tỉnh mọi ngƣời hãy biết quan tâm, chia sẻ với nỗi đau của những ngƣời lính. Bởi họ sẵn sàng đánh đổi tất cả sự sống, tuổi xuân để đem lại hòa bình độc lập cho quê hƣơng đất nƣớc Việt Nam. Những hi sinh mất mát của họ không gì sánh nổi, vì thế cần lắm một sự tri ân để sƣởi ấm những tâm hồn cô độc, lẻ loi giữa chiến trƣờng “không tiếng súng” ngày hôm nay. 2.2.2. Số phận người phụ nữ Phụ nữ luôn là một đối tƣợng đặc biệt trong nghệ thuật, nơi hội tụ tƣ tƣởng nhân văn của các nghệ sỹ. Ngay ở hoàn cảnh bình thƣờng họ đã là những ngƣời nhạy cảm, yếu đuối và dễ bị tổn thƣơng nói gì đến hoàn cảnh bất 34
  40. thƣờng. Thế mà phụ nữ Việt Nam đã phải chịu nỗi đau chung của dân tộc trong suốt mấy chục năm chiến tranh đằng đẵng, tất yếu, họ trở thành hiện thân của những mất mát đau thƣơng. Chiến tranh đi qua nhƣng rất nhiều ngƣời không thể tìm đƣợc tình yêu và một mái ấm gia đình. Đó là bi kịch lớn nhất đối với ngƣời phụ nữ ở thời binh lửa. Trong Chim én bay, nhân vật trung tâm là Quy – một ngƣời phụ nữ đã phải chịu quá nhiều sự đau thƣơng, mất mát trong chiến tranh. Chị đã bị chiến tranh cƣớp đi tất cả: tuổi thơ, gia đình, bạn bè, tình yêu. Cuộc đời của chị là khuôn mặt dị dạng và gớm ghiếc của chiến tranh. Khuôn mặt với những vết thƣơng muôn đời không thể lành lại đƣợc. Trẻ em và phụ nữ luôn là những con ngƣời chịu nhiều thiệt thòi nhất trong các cuộc chiến tranh. Quy trong Chim én bay của Nguyễn Trí Huân vừa là trẻ em lại cũng vừa là phụ nữ. Ở chị tập trung tất cả những mất mát và thiệt thòi do chiến tranh gây ra mà con ngƣời ta chẳng bao giờ có thể tƣởng tƣợng đƣợc mức độ nghiệt ngã của nó. Lần lƣợt mất anh, mất chị và mất cha; chƣa tròn 15 tuổi chiến tranh đã biến chị trở thành ngƣời đàn bà. Chị mất cả cuộc đời con gái khi chƣa kịp trở thành thiếu nữ. Rồi chiến tranh cũng cƣớp đi quyền làm mẹ thiêng liêng và vô tình đẩy chị rơi vào bi kịch của tình yêu. Anh Cƣờng, ngƣời chị đã dành những nhịp đập đầu tiên của trái tim mình. Trong những tháng ngày bom đạn, anh là nguồn sống, là chỗ dựa tinh thần lớn lao của chị. Vậy mà sau chiến tranh, cuộc đoàn tụ, sum họp giữa chị và anh đã sớm rơi vào đau khổ bởi anh không đủ can đảm để chia sẻ những mất mát của chị, anh cần một đứa con mà chị thì không thể. Dù đau đớn tột cùng, dù cảm thấy “có một cái gì đấy đang đứt rời ra trong cơ thể của mình ” [15, 19] chị vẫn can đảm nói lời chia tay với anh, để rồi tiếp tục sống lặng lẽ, cô đơn với tình yêu luôn cháy bỏng, khao khát. Ám ảnh chiến tranh khiến chị đau đớn nhƣng có lẽ những khát vọng cuộc sống bình thƣờng của 35
  41. một ngƣời vợ, ngƣời mẹ còn khiến chị đau đớn hơn gấp bội “nhiều đêm chị để đèn ngủ đến sáng mở radio thật to cho đỡ trống trải”, đến nhà anh “lòng chị se lại khi gặp hai chiếc gối trắng đặt bên nhau trên chiếc giường gỗ mới” [15, 42], đớn đau hơn “những đêm thao thức với khát vọng bình thường của người phụ nữ chưa hề được làm vợ, làm mẹ, chị đã sống bằng mộng mị với Dũng tỉnh dậy, người chị trở nên phờ phạc chị vội vã chạy lao ra ngoài cố trấn tĩnh cho thật tỉnh táo” [15, 95]. Và còn gì tàn nhẫn khi trái tim chị vẫn dành cho anh mà anh đã thuộc về một ngƣời khác “người chị tê dại, cái ước muốn được chia sẻ, được thỏa mãn đột ngột đốt cháy trái tim chị chị ôm riết lấy anh, cảm thấy đau thắt nơi ngực bởi một sự mất mát” [15, 95]. Chiến tranh đã hủy hoại cả cuộc đời của chị, phạt ngang những ƣớc mơ, khát vọng bình dị, để rồi khi nhắm mắt xuôi tay lòng chị cũng chẳng hề đƣợc bình yên. Cùng với hình tƣợng nhân vật Quy, Chim én bay cũng khắc họa thành công số phận nhân vật Năm - vợ kẻ phản bội. Cùng với vợ Hai Đích, đây có thể xem là số phận điển hình hội tụ đầy đủ nỗi thống khổ và tủi nhục. Chị Năm trƣớc kia cũng một thời là du kích, dũng cảm và nhiệt huyết nhƣ những cô gái trong đội Chim én. Nhƣng từ ngày chồng chị ra hồi chánh, cuộc sống địa ngục của chị bắt đầu. Chị điên dại để quên đi ánh mắt căm hờn, miệt thị của dân làng. Ghê tởm với trƣớc những tội ác của chồng mình nhƣng chị không đủ can đảm để đƣa con đi nơi khác nên đành phải sống cuộc đời cam chịu. Ngƣời đời đánh đồng chị với ngƣời chồng phản bội nhƣng không, trong chị vẫn một lòng hƣớng về cách mạng. Trong cuộc tập kích giết giám Tuân, thiếu chút nữa Quy đã nằm gọn trong tay bọn chúng nhƣng chính chị đã cứu sống Quy trong gang tấc. Chiến tranh đã lùi vào dĩ vãng, những tƣởng chị và các con sẽ đƣợc sống cuộc đời bình yên trên mảnh đất quê hƣơng nhƣng dƣờng nhƣ hiện thực đời sống đầy sóng ngầm và gió xoáy không cho những ƣớc mơ bình dị của chị 36
  42. đƣợc toại nguyện. Ngƣời ta chặn mọi con đƣờng sống của gia đình chị. Con chị đi học thì bị ngƣời ta khinh rẻ. Chỉ ở trong hoàn cảnh của chị ngƣời ta mới hiểu đƣợc nỗi lòng của một ngƣời mẹ khi biết con mình suốt đời phải mang tiếng là con của một tên ác ôn, một tên phản bội. Ngƣời đọc đau đớn khi nhận ra rằng xƣa dù chiến tranh bom đạn nhƣng chị vẫn đƣợc sống bên các con nhƣng nay, khi đất nƣớc hòa bình thì chính những định kiến cay nghiệt lại đẩy chị xuống vực thẳm. Có thể nói, ngƣời phụ nữ trong tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân không chỉ là nạn nhân của chiến tranh mà còn là bị giam hãm trong cái lồng sắt của những định kiến xã hội. Và vƣợt lên tất cả, Nguyễn Trí Huân đã dành cho họ tấm lòng cảm thông sâu sắc. Móng vuốt sắc nhọn của chiến tranh đã len lỏi và cào xé biết bao mảnh đời phụ nữ khiến họ phải sống trong bi kịch. Tuy không đƣợc khắc họa rõ nét nhƣng những nhân vật nhƣ mẹ Dũng nhỏ, mẹ Quy là minh chứng cho sự tàn nhẫn của chiến tranh. Ngƣời đọc không biết mẹ Dũng nhỏ trông ra sao, chỉ biết đến bà qua những lời kể: Dũng nhỏ ra nhập đội Chim én rồi từ đó mẹ em bị bọn ác ôn bắt giam và tra tấn dã man. Hay nhƣ mẹ của Quy, bà chết vì một quả pháo hạm bắn vu vơ từ ngoài vào. Qủa thật, chiến tranh nhƣ một trò đùa! Dù đƣợc nhà văn dồn tâm xây dựng hay chỉ hiện ra qua lời thoại của nhân vật thì những ngƣời phụ nữ này đều bị chiến tranh lôi tuột vào vòng xoáy và biến họ trở thành nạn nhân. Có thể thấy, chiến tranh không chỉ gây ra cảnh chia lìa, chết chóc cho những ngƣời tham chiến mà vô tình nó còn gián tiếp tác động đến số phận của những ngƣời bên lề cuộc chiến ấy. 2.2.3. Số phận trẻ em Lịch sử dân tộc Việt Nam thế kỷ XX trải qua ba mƣơi năm chiến tranh, hơn bao giờ hết số phận trẻ em trở thành đáng thƣơng nhất. Trong hệ thống các nhân vật số phận, Nguyễn Trí Huân xây dựng rất thành công số phận đầy 37
  43. bất hạnh của trẻ em. Chiến tranh đi qua để lại cả vinh quang và cay đắng. Bên cạnh niềm vui chiến thắng, cái giá phải trả cho cuộc chiến tranh là số phận trẻ em. Vẫn biết “trẻ em như búp trên cành” cần đƣợc yêu thƣơng và bao bọc. Thế nhƣng, điều đó chỉ đúng với đất nƣớc hòa bình, trong khi Việt Nam phải đối mặt với cuộc chiến tranh trƣờng kì, lúc này nhiệm vụ giải phóng dân tộc là quan trọng nhất. Do đó, trẻ em vô tình đã bị cuốn vào guồng quay đạn lửa. Chiến tranh đã cƣớp đi những ngƣời thân yêu trong gia đình, để lại trong các em ám ảnh về “một cánh tay của anh văng trên bờ rào”, về “những đám bụi trên đôi mắt còn mở trừng trừng” của chị hay hoang mang không biết bố mẹ em còn sống hay đã chết. Cha mẹ mất, các em bơ vơ côi cút, không ai chăm sóc, các em “dơ bẩn và ốm gầy, giống như những nhành cây khô chập lại và khoác lên mình những mảnh áo rách rưới, hôi hám” (Năm 1975, họ đã sống như thế). Hình ảnh Thêm khóc thút thít không biết làm gì khi em bắt đầu là con gái ám ảnh tâm trí bao ngƣời đọc. Bởi em không còn mẹ, không còn ai bảo em phải làm gì. Anh Cƣờng nhìn em ái ngại vì anh đâu là mẹ, là cô, là chị, anh không biết phải xử trí ra sao. Chắc rằng nếu mẹ còn, mẹ sẽ chỉ em nên làm gì. Những đứa trẻ trong chiến tranh nhƣ Quy, Thêm, Dũng buộc phải lớn nhanh trƣớc tuổi bởi mối thù đè nặng trong tim; nghiệt ngã, đau đớn hơn khi những đứa trẻ ấy buộc phải “bức bối và liều lĩnh đến quyết liệt trong hành động, dữ dằn đến khác thường trong ý chí thuần thục đến kinh ngạc trong việc sử dụng súng đạn”. Quy - cô bé mới chỉ 11 tuổi, bản tính vốn nhút nhát, mỗi lần thấy anh trai thản nhiên bóp chết một con gà hay cắt tiết một con vịt em đều nhắm mắt lại, quay đi và suốt bữa ăn không hề thấy ngon miệng. Ấy vậy mà chiến tranh đã khiến em thay đổi, em bình thản nã súng vào Hai Đích, giám Tuân vào những kẻ nợ dân, bán nƣớc. Chính kẻ thù đã đẩy em vào hoàn cảnh ấy, biến em từ một bé gái chƣa đến 15 tuổi đã phải cầm lấy cây 38
  44. súng. Những nhân vật có tên hay không tên đều đƣợc Nguyễn Trí Huân miêu tả ở khả năng đánh giặc, “đánh bình tĩnh, đánh ra đánh”: “Hai cậu bé đã đến rất gần chiếc xe. Cậu đi trước chợt thọc tay vô túi lấy ra một trái nổ ( ). Nó chưa kịp nói gì thêm thì một tiếng nổ đã dội lên từ chiếc Jeép ( ). Cậu đi sau quay quắt theo chiếc xe, rút từ trong bụng ra khẩu Ru-lô nã liên tiếp vào đầu thằng Sang rồi cả cả hai vọt biến vào con hẻm trước mặt” (Chim én bay). Các em khiến ngƣời ta phải thốt lên “thời này trẻ con cũng giết người, thật dễ sợ”. Nhƣng đừng trách các em, hãy trách chiến tranh, chính chiến tranh mới đang hủy hoại cuộc đời các em. Những kẻ thù độc ác, phi nhân tính khiến các em chƣa trở thành con gái đã thành ngƣời đàn bà, để rồi các em vĩnh viễn mất đi khả năng làm mẹ. Và chỉ một ƣớc mơ “Bao giờ hòa bình tao phải ăn một chầu bánh ít cho thiệt đã” (Chim én bay) cũng không bao giờ trở thành hiện thực. Đối với Quy, Thêm, Dũng, Dũng nhỏ chiến tranh đã xé nát tuổi thơ và những hạnh phúc bình dị của các em. Không dừng lại ở việc khám phá số phận của trẻ em trong chiến tranh, Nguyễn Trí Huân còn đi sâu khám phá số phận của trẻ em thời hậu chiến. Đó là những đứa trẻ tội nghiệp con kẻ phản bội. Cậu bé út con giám Tuân, “thằng bé có mái tóc mềm, vàng hoe. Sống mũi cao và đôi mắt thật linh lợi” (Chim én bay), thế nhƣng em chƣa bao giờ đƣợc hƣởng một cuộc sống bình yên bởi cha em là một kẻ ác ôn. Hàng ngày em phải hứng bao gạch đá và những câu đay nghiến “nó là con thằng ác ôn”, “cha nó đã treo cổ cha cháu”, “cha nó đã đáp mẹ cháu xuống giếng”, “cha nó cột anh cháu sau xe GMC” (Chim én bay). Không ai chịu ngồi cùng bàn với em, sách vở em thì toàn mực vẽ bậy. Chƣa ai nói với em một câu dịu dàng, bởi thế câu nói nhẹ nhàng “cháu không có lỗi gì cả” của Quy nhƣ làm những tủi hờn trong em trực trào. Em không có lỗi. Em hoàn toàn xứng đáng đƣợc sống một cuộc đời đúng nghĩa. 39
  45. Nhƣ vậy, tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân đã đề cập một cách sâu sắc hình ảnh trẻ em với số phận đầy cay đắng, bất hạnh. Cuộc đời của Quy, của con giám Tuân, Hai Đích; cái chết của Thêm, Dũng và của vô vàn em bé trên đất nƣớc Việt Nam là bằng chứng tố cáo chiến tranh tàn bạo. Nguyễn Trí Huân đã nói tất cả số phận trẻ em bằng một tiếng nói cảm thông, chia sẻ của ngƣời trong cuộc, bằng chính những lo âu lớn lao, và khắc khoải về con ngƣời mà ông hết lòng yêu thƣơng và gắn bó. Tiểu Kết: Trong dòng chảy chung của tiểu thuyết hậu chiến, tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân đã thể hiện một cách nhìn chân thực, xác thiết về cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nƣớc, giữa lúc căng thẳng và ác liệt nhất; đồng thời đi sâu khám phá số phận ngƣời lính, ngƣời phụ nữ và trẻ em. Có thể khẳng định Nguyễn Trí Huân đã có những đóng góp to lớn đối với tiểu thuyết viết về chiến tranh trong bối cảnh hậu chiến. 40
  46. CHƢƠNG 3 HIỆN THỰC CHIẾN TRANH VÀ SỐ PHẬN CON NGƢỜI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN TRÍ HUÂN - NHÌN TỪ HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT 3.1. Nghệ thuật kể chuyện Là đặc trƣng nổi bật của thể loại tự sự so với kịch và trữ tình, nghệ thuật kể chuyện giúp nhà văn xây dựng chỉnh thể nghệ thuật, đồng thời tạo nên phong cách riêng của nhà văn. Đây là cách nhà văn trần thuật, tổ chức ra thế giới nghệ thuật của tác phẩm tự sự. Hay nói khác đi, nghệ thuật kể chuyện chính là việc lựa chọn ngôi kể, giọng kể hay điểm nhìn trần thuật cho tác phẩm. Trong tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân, ba yếu tố trên đƣợc nhà văn lựa chọn và gia công nhằm phản ánh hiện thực và số phận con ngƣời một cách chân thực và khách quan. Khảo sát hai tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế và Chim én bay, có thể thấy nhà văn khai thác tối đa lối kể chuyện theo ngôi thứ ba. Ngƣời kể chuyện giấu mình, không nhân danh một nhân vật nào trong tiểu thuyết để kể. Chính vì vậy, ngƣời kể chuyện có thể thỏa sức tự do trong việc xâu chuỗi các sự kiện và có một khoảng cách thích hợp để quan sát và tỉnh táo bình luận. Trong Năm 1975, họ đã sống như thế, với ngôi kể thứ ba, ngƣời kể chuyện đã cùng lúc vừa kể lại diễn biến của các trận đánh diễn ra ở vùng đất Bình Định khoảng từ đầu tháng 3 năm 1975 đến 30 tháng 4 năm 1975, vừa miêu tả về hình ảnh những ngƣời lính có mặt trong tác phẩm ấy. Các trận đánh nảy lửa ở đồi Du Tự, điểm cao 174, trận địa pháo trên Chóp Chơ 1, Chóp Chơ 2 và những cuộc hành quân tập kết, những lần di chuyển lực lƣợng đƣợc ngƣời kể chuyện miêu tả và thuật lại rõ ràng qua những mốc thời gian cụ thể, chính xác. Đặc biệt, với các nhân vật nhƣ Thăng, Thƣ, Thiết, 41
  47. Mạc, Nhã, Phác, Khâm ngƣời kể chuyện không chỉ đơn thuần kể về họ qua ngoại hình, hành động mà còn thâm nhập vào đời sống tâm lý để miêu tả tâm trạng của họ. Cách kể chuyện đó giúp ngƣời kể chuyện gây dựng lòng tin nơi bạn đọc. Với Chim én bay, số phận bi kịch của ngƣời lính đã đƣợc nhà văn truyền tải chân thực và đầy ám ảnh bằng ngôi kể thứ ba. Nhân vật Quy đƣợc kể từ những ngày đầu năm 1980 trở về sau chiến tranh với niềm trăn trở tìm lại gia đình ác ôn năm xƣa, xem vợ con chúng hiện đang sống ra sao sau đó lại quay ngƣợc thời gian kể về mùa đông năm 1960, về những cái chết lần lƣợt diễn ra trong gia đình Quy, về hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh lúc bấy giờ “năm của những trận pháo bầy, của B.52 rải thảm, của hàng trăm chiếc trực thăng cùng cất cánh một lúc” và việc Quy trở thành đội viên đội Chim én. Hay đang trần thuật về cuộc viếng thăm lần thứ nhất của Quy đến nhà tên giám Tuân thì ngƣời kể chuyện lại ngƣợc về quá khứ kể lại chuyện quy bị bắt, bị hãm hiếp rồi đƣợc cứu thoát ra sao. Chọn ngôi kể thứ ba nhƣng ngƣời kể chuyện trong Chim én bay không kể theo cách kể truyền thống mà thâm nhập vào nhân vật để dẫn dắt câu chuyện và soi chiếu mọi sự việc dƣới cái nhìn của nhân vật, từ đó có đƣợc tầm nhìn bao quát, xuyên hiện tại, hồi tƣởng quá khứ Cái chết ám ảnh nơi chiến trƣờng đƣợc tác giả đặc tả rõ nét qua lời kể của ngƣời kể chuyện: “Sau lưng họ, một người nằm, chân thò ra phía cửa hầm, đầu đã bị đất trên nắp hầm phủ kín, đôi bàn chân to lên một cách kì dị”, “Lúc này, bọn giặc lại tràn đến, chúng nó trút đạn xối xả lên người Trung, anh nằm trên mặt đồi, miệng như còn nở một nụ cười chế giễu” (Năm 1975, họ đã sống như thế). Đối với cuộc sống hậu chiến, ngƣời kể chuyện thiên phản ánh qua lời kể của nhân vật. Bởi hiện thực qua cảm nhận của chính ngƣời trong cuộc sẽ chân thực và sống động hơn bao giờ hết: “Từ lâu lắm rồi, không ai đến nhà 42
  48. tôi. Người quen thì xa lánh, ngại liên quan, còn cán bộ chỉ đến để hành hạ” (Chim én bay). . Bên cạnh việc khai thác ƣu điểm của ngôi kể thứ ba, ngƣời viết còn sử dụng nhiều điểm nhìn đan xen. Mỗi điểm nhìn là một ý thức độc lập, qua đó, sự vật, con ngƣời đƣợc nhận thức từ nhiều phía. Trong Chim én bay, trƣớc bức xúc của Quy về sự phân biệt đối xử với ngƣời thân của những tên ác ôn trong quá khứ Cƣờng cho rằng: “Mỗi giai đoạn có đặc điểm riêng, có những việc cần làm của nó. Cái gì mình chưa làm ở giai đoạn trước, giai đoạn này đã có thể làm. Đừng vì một hoàn cảnh cụ thể mà dẫn tới những suy diễn không chính xác” [15, 176]. Hay trong Năm 1975, họ đã sống như thế, Mạc chê lớp tân binh từ miền Bắc mới bổ sung vào đơn vị là già, Thức đã phản đối: họ trẻ hơn lớp mình, lớp cậu nhiều lắm chứ. Trẻ về ngƣời, về cách suy nghĩ. Lớp chiến sĩ này họ trƣởng thành nhanh chóng và quan tâm đến tất cả chuyện lớn nhỏ. Đặc biệt trong việc khám phá và phản ánh số phận con ngƣời, nhà văn biến hóa linh hoạt với lối kể chuyện sinh động. Khi thì kể lại với giọng điệu chua xót: “Một cánh tay của anh văng lên bờ rào. Ở ngón áp út vẫn còn đeo một chiếc nhẫn nhỏ, chiếc khuyên chợt lóe sáng khi có ánh mặt trời đột ngột rơi xuống” (Chim én bay). Khi thì kể bằng giọng kể của một con ngƣời từng trải: “Nó cũng cùng ăn, cùng uống như con trai ông. Cũng cười đùa vâng dạ. Vậy mà bỗng dưng nó trở thành độc ác như một con quỷ. Cái gì đã biến đổi nó như vậy, cái gì?”. Cũng có lúc, nhà văn lại lắng đọng bằng giọng kể đầy triết lí: “Phải chăng luật đời là như vậy và người ta đang sống như vậy. Họ không hiểu, nếu cái vòng luẩn quẩn này cứ quay mãi thì tội ác sẽ không bao giờ chấm dứt, và công bằng mà con người từng khao khát sẽ chẳng bao giờ có cả” (Chim én bay). 43
  49. Có thể nói, cùng với ngôn ngữ, giọng điệu, nghệ thuật kể chuyện đã góp phần không nhỏ trong việc thể hiện một cách chân thực và rõ nét về số phận con ngƣời và hiện thực chiến tranh. 3.2. Ngôn ngữ Ngôn ngữ của tiểu thuyết không thuần túy là một thứ vỏ bọc bên ngoài mà nó còn là “ngôi nhà” để cho thế giới tiểu thuyết tồn tại. Ngôn ngữ và nội dung tồn tại song song, không thể tách rời. Bakhtin đã chỉ ra rằng, với tiểu thuyết “tác giả không chỉ mô tả cái ngôn ngữ ấy mà còn nói bằng ngôn ngữ ấy”. So với thơ ca, ngôn ngữ tiểu thuyết có phạm vi hoạt động tự do và linh hoạt hơn. Trong tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân, hiện thực chiến trƣờng khốc liệt cùng với hiện thực đời thƣờng đầy ám ảnh và số phận những ngƣời lính, ngƣời phụ nữ và trẻ em, tất cả đƣợc nhà văn thể hiện bằng ngôn ngữ đời thƣờng, đậm tính khẩu ngữ, thông tục. Điều này đƣợc thể hiện qua ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ ngƣời kể chuyện. Ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết thể hiện chủ yếu qua ngôn ngữ đối thoại và độc thoại. Nếu nhƣ trong Năm 1975, họ đã sống như thế các nhân vật xuất hiện thƣờng xuyên qua đối thoại thì đến Chim én bay, nhân vật lại thể hiện chủ yếu qua độc thoại. Dù đối thoại hay độc thoại thì một điểm dễ dàng nhận thấy là Nguyễn Trí Huân đã khám phá và phản ánh hiện thực, con ngƣời bằng ngôn ngữ nhân vật đƣợc đời thƣờng hóa đến mức gần nhất. Nhà văn đã đƣa vào tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế ngôn từ suồng sã, tự nhiên với nhiều khẩu ngữ, từ địa phƣơng đặc trƣng của ngƣời miền Trung. Kiểu ngôn ngữ này xuất hiện với độ đậm đặc trong mỗi lời đối thoại giữa các nhân vật, cả khi giữa trận mạc hay trong giây phút nghỉ ngơi giữa các trận đánh: “Nó bốc phét đấy! Vừa buổi trưa, một tay lái tăng, đội mũ da rất hách, đề chìa tay xin thuốc mình. Tay ấy nói có lên giời vẫn cứ nhớ 44
  50. thuốc lào”; “Trung đoàn mới điện cho biết địch trên cầu có hai đại đội chứ đếch phải một” ; “Cậu nào hút thuốc phải không? Có dập ngay không thì bảo. Nó táng cho quả pháo rồi tha hồ mà khiêng. Dập ngay!”. Thậm chí, có những kiểu đối đáp bỗ bã, văng tục cũng thƣờng xuyên đƣợc nhà văn ghi lại: “Có bố mày cũng không nhìn thấy” (Năm 1975, họ đã sống như thế); “Đ.m thằng chó có thần bảo mạng không bằng” (Chim én bay). Ở tiểu thuyết Chim én bay, hầu hết ngôn ngữ đối thoại trong truyện đều sử dụng cách xƣng hô, lời ăn, tiếng nói địa phƣơng của ngƣời Bình Định nói riêng và ngƣời Nam Trung Bộ nói chung. Ngƣời đọc bắt gặp hàng loạt các từ nhƣ “ổng”, “ni”, “nghe”, “tui” trong lời thoại của nhân vật. “Mấy ổng ở trên cứ hối thúc, mặc chi vẫn chưa diệt được nó. Nẫu đâu có thấu cái khó của tụi mình” . Sự xuất hiện của ngôn ngữ đời thƣờng góp phần đƣa tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân lại gần với độc giả và đặc biệt là tạo đƣợc tính chân thực cho tác phẩm. Ở đây, chiến trƣờng không phải lúc nào cũng ác liệt, cũng hừng hực khí thế “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” mà còn có những giây phút đớn hèn của ngƣời chiến sĩ: “Lát sau, một bóng đen, cao dong dỏng, lom khom đi về phía Thăng, ngồi xuống. - Ông tên gì?- cái bóng đen cao cao, còn rất trẻ hỏi - Thăng - Tân binh phải không? - Vâng - Trận đầu ông thấy thế nào? - Có hơi sợ - Thăng đáp thật thà, má nóng bừng bừng vì ngượng - Có cậu ướt mèm cả quần - Anh chiến sĩ ở dưới hầm chui lên góp chuyện. Anh ta cười, hàm răng như bám đầy đất” [16, 213]. Những lời hỏi - đáp rất ngắn gọn, pha chút hài hƣớc cho ngƣời đọc thấy đƣợc suy nghĩ, tâm trạng nhút nhát, run sợ của ngƣời lính lần đầu giáp mặt 45
  51. với kẻ thù. Phải chăng, quãng thời gian sống trong quân ngũ đã giúp Nguyễn Trí Huân trải nghiệm và góp nhặt lời ăn tiếng nói của ngƣời lính làm nguồn tƣ liệu phong phú cho ngôn ngữ tiểu thuyết của mình. Cũng là tâm lý của một tân binh lần đầu xông pha nơi trận mạc, nhƣng nhà văn còn để cho nhân vật độc thoại với chính mình: “Đồ hèn nhát! – Một tiếng quát khe khẽ trong đầu Thăng - chết thì thôi chứ không được luống cuống”, “Nhiều người biết đến chỗ đó thế nào cũng chết nhưng họ chẳng ngần ngại gì hết, tại sao thế nhỉ? Trong họ có cái gì khác với mình đâu”, “Thương mẹ quá, nhưng biết làm sao được. Mình phải trả thù cho bố” [16, 212-214]. Vừa nhƣ là thừa nhận, vừa tự nhủ, lại vừa lo lắng, trăn trở cứ rối bời trong tâm trí Thăng, lúc nó phát ra thành lời nói, lúc nó lại miên man trong dòng suy nghĩ. Khắc họa con ngƣời và hiện thực chiến tranh qua ngôn ngữ đối thoại và độc thoại, nhà văn vừa tạo nên sự chân thực, sinh động cho tác phẩm, vừa tạo đƣợc sự đồng cảm nơi bạn đọc. Ngôn ngữ độc thoại còn xuất hiện nhiều lần trong tiểu thuyết Chim én bay khi miêu tả số phận nhân vật Quy. Những lúc phân vân, do dự trƣớc kẻ thù hay day dứt khi gặp lại vợ con kẻ thù mình đã giết là dòng suy nghĩ trong tâm trí chị thoát ra thành tiếng độc thoại: “Một thoáng ngần ngại vụt đến với chị. Nhưng nó liền tan biến ngay khi chị nghĩ đến thằng giám Tuân. Hắn là một tên phản bội, cần phải giết hắn. Nếu không hắn sẽ giết chết chị, giết chết những người khác. Ý nghĩ này đến với chị vừa quyết liệt, vừa dứt khoát” [15,98]. Nhà văn không tách riêng dòng độc thoại của nhân vật mà đặt chúng đan xen giữa ngôn ngữ trần thuật. Do đó tâm trạng của Quy, một mặt đƣợc soi chiếu từ góc nhìn khách quan, một mặt lại đƣợc thể hiện qua tiếng nói chủ quan của nhân vật, bởi sự đan xen giữa ngôn ngữ trần thuật và dòng độc thoại của nhân vật. 46
  52. Sau này, khi trở về với đời thƣờng trong tƣ thế của ngƣời nữ anh hùng, chị không còn bị rơi vào cảm giác chênh vênh giữa sự sống và cái chết nhƣ những năm xƣa nhƣng trăn trở thì không lúc nào khôn nguôi. Chị tìm gặp lại vợ con Giám Tuân với ý định giúp đỡ họ nhƣng mọi ngƣời trong xã đã không đứng về phía chị, điển hình là chú Tƣ, bí thƣ Đảng ủy xã cho rằng vợ Giám Tuân chỉ giả vờ điên. Điều đó đã khiến chị thêm day dứt: “Ông bảo chị ta giả đò điên. Điều đó có đúng không? Tại sao chị ta lại giả đò? Chị nhớ tới lời nói xấc xược của thằng bé. Chị không sợ bị trả thù, nhưng phải tìm cách ngăn chặn khi điều đó hãy còn chưa muộn” [15, 146]. Ngôn ngữ độc thoại đã truyền tải sâu sắc nỗi đau, nỗi day dứt của ngƣời lính thời bình. Nỗi đau đó âm ỉ theo năm tháng, nó hiện diện hàng ngày, hàng giờ khiến ngƣời lính rơi vào trạng thái tự vấn lƣơng tâm, nhận thức lại chân giá trị của chiến tranh. Cùng với ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ ngƣời kể chuyện trong tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân cũng góp phần khắc họa chân thực số phận con ngƣời và hiện thực chiến tranh. Do vẫn chịu ảnh hƣởng của tƣ duy sử thi từ tiểu thuyết chiến tranh trƣớc 1975, thêm vào đó sáng tác vẫn lấy bối cảnh chính là nơi chinh chiến đầy bom đạn nên ngôn ngữ tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân sử dụng đậm đặc các từ ngữ chuyên ngành. Có lẽ những năm tháng trải nghiệm cuộc đời quân ngũ, là ngƣời trong cuộc, trực tiếp chiến đấu cùng với đơn vị nên ngôn ngữ tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân đã đạt đến độ chính xác và sinh động. Nhờ vậy, những từ ngữ nhƣ: “đại liên”, “lựu đạn”, “pháo cốt”, “khẩu ĐK2”, “khẩu 12 ly 8”, “đạn B40”, “nốc lave”, “đạn AR15” , kết hợp với các kí hiệu nhƣ: “D3”, “L.19”, “cao điểm 174”, “A.37” đã góp phần tái hiện bức tranh chiến trƣờng đầy mƣa bom, bão đạn. Đặc biệt, để tạo ấn tƣợng về không khí gấp gáp, khẩn trƣơng cuộc chiến tranh tiến sát đến ngày chiến thắng nhà văn đã sử một loạt từ chỉ thời gian chính xác nhƣ: “5 giờ kém 15 ngày mồng 2 tháng 3”, “15 phút”, “hồi bảy ba”, 47
  53. “ngày 28 tháng 2”, “mùa đông năm 1969”, “nửa giờ”, “hơn một giờ”, “5 giờ sáng”, “7 giờ tối” Ngoài ra, tác giả còn kết hợp linh hoạt cùng các tính từ, động từ mạnh nhƣ: “đạn vít”, “mưa xối”, “xẻng bập ngọt vào lòng đất”, “ánh sáng một chiếc đèn pin quất qua, quất lại”, “pháo thúc”, “ngẩng phắt lên”, “đỏ loét”, “vụt đến” , nhất là trong những đoạn văn miêu tả cảnh bom đạn, tác giả đã sử dụng hàng loạt các từ tƣợng thanh để tạo ấn tƣợng cho độc giả về âm vang của bom đạn, về sự khốc liệt nơi chiến trƣờng: “những tiếng rít tiếp theo bám đuôi nhau, nhập vào nhau và lát sau chỉ còn nghe tiếng đạn nổ choáng óc, mảnh đạn rít vè vè, rơi lịch bịch xuống quanh hầm chỉ huy của Thiết”, “Đạn nổ choang choác, veo véo ở xung quanh. Lửa sáng lên, không khí như đặc lại, đầy mùi thuốc súng và mùi cát khô” [16, 202]. Không né tránh, không giản lƣợc mà trái lại, tác giả còn ghi lại chân thực nhất không gian chiến trƣờng ở vào thời điểm ác liệt nhất của cuộc chiến qua cảm nhận của chính ngƣời trong cuộc. Ngay cả với cái chết, nhà văn cũng miêu tả bằng những từ ngữ rất chân thực làm cho ngƣời đọc cảm giác nhƣ cái chết của con ngƣời trong chiến tranh đang ở rất gần, chỉ đâu đó quanh đây thôi, tàn khốc và đau đớn: “Thiết nằm nghiêng, người không còn một mảnh vải. Máu vẫn rỉ ra trên lớp băng quấn gần kín mông và đùi bên phải ( ). Đôi môi câu ta rộp lên những vết vải trắng, khô khốc như muối đọng” [16, 95], hay “máu chảy ra ướt đẫm lưng áo, đông đặc lại. Anh thở khò khò. Một chiếc bong bóng đỏ ngầu cứ phồng lên, xẹp xuống theo nhịp thở trên mũi ( ). Một thằng trở mình, rên khe khẽ. Máu vẫn đổ ra chầm chậm trên mặt nó” [16, 158]. Có thể nói, những trang tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân đã khắc họa chân thực chiến tranh khốc liệt và những bi kịch của con ngƣời. Luôn quan niệm văn chƣơng không phải là trò chơi sang trọng, không cần phải làm dáng, phải kiểu cách, mà văn chƣơng là đời sống, là máu và nƣớc mắt, là món nợ cần phải trả giá, là những điều cần phải nói thay cho 48
  54. những ngƣời không trở về sau chiến tranh nên Nguyễn Trí Huân sử dụng ngôn ngữ đời thƣờng gần gũi để tái hiện hiện thực đầy phức tạp và khám phá, thể hiện những số phận bi kịch đầy ám ảnh của con ngƣời thời hậu chiến. Đã bao thế hệ đi qua, nhƣng đến nay, niềm yêu mến và trân trọng của bạn đọc đối với những trang văn tâm huyết của Nguyễn Trí Huân vẫn còn vẹn nguyên. 3.3. Giọng điệu Giọng điệu là một trong những phƣơng diện nghệ thuật quan trọng của tiểu thuyết góp phần truyền tải nội dung, tƣ tƣởng của tác phẩm đến bạn đọc. Tiểu thuyết sau 1975 đã chuyển dần từ giọng điệu trang trọng, ngợi ca, tự hào sang tỉnh táo, khách quan; có khi lạnh lùng, nghiệt ngã, có khi xót xa, thƣơng cảm, có khi lại suy tƣ, triết lý và trào lộng, giễu nhại. Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa:“Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của các tác phẩm văn học.” [12, 135], là “thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn, qui định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [12, 134]. Trong Giáo trình dẫn luận thi pháp học, GS. Trần Đình Sử khẳng định: “Giọng điệu giúp ta nhận ra tác giả. Có điều giọng điệu ở đây không đơn giản là một tín hiệu âm thanh có âm sắc đặc thù để nhận ra người nói, mà là một giọng điệu mang nội dung tình cảm, thái độ ứng xử trước các hiện tượng đời sống”. Nhƣ vậy, giọng điệu chính là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, cùng với phạm trù nghệ thuật khác, giọng điệu góp phần không nhỏ tạo nên sự thành công và bản sắc riêng cho nhà văn. Trong tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân, nổi bật là giọng điệu hào sảng, trầm hùng và chiêm nghiệm suy tƣ, hai giọng điệu này đã hỗ trợ nhà văn trong việc lột tả hiện thực và con ngƣời trong tác phẩm. 49
  55. Nằm trong xu hƣớng chung của tiểu thuyết ra đời ngay sau chiến thắng nhƣ Nắng đồng bằng của Chu Lai, Thung lũng thử thách của Thái Bá Lợi, âm hƣởng sử thi hào sảng, trầm hùng vẫn là giọng điệu chính xuyên suốt tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế. Giọng điệu này đƣợc nhà văn thể hiện qua một loạt câu văn ngắn nối tiếp nhau, nó làm toát lên không khí gấp gáp, khẩn trƣơng của chiến trƣờng: “Đột nhiên pháo ngừng hẳn. Chúng nó sắp lên rồi”, “chuẩn bị đi”, “đừng run”, “súng nổ”, “đông quá, rút thôi”, “lựu đạn nổ” Đặc biệt, càng về cuối tác phẩm, không khí tấp nập trên khắp các mặt trận đang tiến về giải phóng Sài Gòn cũng hiện rõ. Tác giả đã phác họa khung cảnh các cánh rừng cao su phía đông và phía tây Sài Gòn, các quân đoàn, binh chủng đang lắng nghe điện của Bộ chính trị quyết định mở chiến dịch Sài Gòn “Đó là những ngày vui sướng và hào hùng nhất trong lịch sử giữ nước của dân tộc. Người, xe như nối thêm, dài bất tận trên các ngả đường đổ về Sài Gòn. Bộ đội vừa hành quân vừa hát. Những hành khúc về Bác Hồ, về đất nước, khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc lập tự do” chưa bao giờ vang lên đầy hào khí và nghiêm trang như thế” [16, 288]. Trong không khí tƣng bừng, phấn khởi đó, một tƣơng lai tƣơi sáng đang dần mở ra trƣớc mắt tiểu đoàn trƣởng Mạc với những đàn chim tự do bay lƣợn, với ƣớc mơ trở về với ngành kiến trúc để xây dựng bao thành phố, làng mạc vừa sụp đổ. Đến khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, bao trùm không gian tiểu thuyết là hình ảnh cờ bay rợp đỏ trƣớc hiên nhà, ngọn cây, bãi biển. Suốt ngày, thanh niên, học sinh, mặc đồng phục, đeo băng đỏ đi diễu hành ngoài đƣờng, tay vỗ miệng hát “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng ”. Đất nƣớc lật sang một trang sử mới và ngay sau chiến thắng, mọi ngƣời lại hối hả bƣớc vào công việc khôi phục và xây dựng cuộc sống mới. Giọng điệu hào sảng, trầm hùng đã giúp ngƣời đọc cảm nhận rõ niềm hân hoan, tự hào về chiến thắng lịch sử của dân tộc. Giọng điệu này xuyên suốt Năm 1975, họ đã sống như thế khiến cho tiểu 50
  56. thuyết gần gũi với các tác phẩm viết về chiến tranh trƣớc đó. Bởi thế, dù viết sau 1975, nhƣng tiểu thuyết này vẫn còn nằm trong quỹ đạo của tiểu thuyết chiến tranh với âm hƣởng sử thi là mạch nguồn cảm hứng chính. Cùng với giọng điệu hào sảng, trầm hùng, giọng điệu trầm tƣ, suy ngẫm cũng đƣợc nhà văn khai thác triệt để nhằm đƣa ra những quan niệm về chiến tranh và số phận con ngƣời. Nếu Chu Lai coi chiến tranh là “Ngày nào cũng nhìn thấy người chết, ngày nào cũng chôn người chết mà chưa đến lượt mình”. Bảo Ninh định nghĩa chiến tranh: “Làm đổ máu mình, đổ máu người, hàng đọi máu, sông máu”. Khuất Quang Thụy rút ra quy luật về chiến tranh “Mình giội bom xuống đầu họ thì họ lại tìm cách xả đạn vào đầu mình”, thì Nguyễn Trí Huân quan niệm chiến tranh là: “Cái không bình thường đã trở nên bình thường” [15, 15] và “Hình như chiến tranh buộc con người phải sống nhanh hơn, gấp hơn những gì còn lâu họ mới có” [15, 131]. Tác giả đặc biệt chú trọng đến tính chất phi lí, bất ngờ của chiến tranh “Riêng đối với cái ngẫu nhiên trong chiến tranh, cái ngẫu nhiên đã trở thành số mệnh thì không một ai có thể hi vọng tìm thấy bài học nào cả” [15, 100]. Số phận bi kịch của nhân vật Quy, Dũng, Thêm trong Chim én bay; của Mạc, Nhã, Thƣ trong Năm 1975, họ đã sống như thế đã trở thành minh chứng rõ nhất cho những quan niệm về chiến tranh của Nguyễn Trí Huân. Trong Năm 1975, họ đã sống như thế, chiến tranh và số phận ngƣời lính đã đƣợc nhà văn khắc họa thông qua một giọng văn đầy suy tƣ: “Chiến tranh cần thiết hay vô ích? Nó nâng cao con người hay hủy hoại con người. Thật ra, cho đến giờ phút này, ta cũng không thể đưa ra một kết luận nào chắc chắn” [16, 8]. Day dứt của tên sĩ quan ngụy đã phản ánh sự khủng hoảng niềm tin, lý tƣởng vào quân đội ngụy. Dù ở hai chiến tuyến khác nhau nhƣng giống nhƣ Quy, trong suy nghĩ của ngƣời sĩ quan ngụy, cuộc chiến tranh đầy rẫy sự phi lí. Chiến tranh đang dần hủy hoại họ mà thôi. 51
  57. Rải rác khắp các trang tiểu thuyết Chim én bay, khi nhắc tới con ngƣời, ngƣời đọc cũng bắt gặp giọng văn đầy triết lí, thâm trầm: “Đối với con người, không gì gây đổ vỡ khủng khiếp hơn sự phản bội”, “Trong cuộc sống con người có rất nhiều điều đáng ghi xương khắc cốt”, “Con người không thể chết khi niềm hi vọng sống vẫn le lói, thắp sáng trong cơ thể họ”, “Hình như khi đã trải qua những gì kinh khủng nhất, con người trở nên lì lợm, bất chấp tất cả”. Đôi lúc nhà văn muốn đi tìm căn nguyên của những hiện tƣợng trong xã hội mà con ngƣời hàng ngày phải đối mặt “Tại sao nỗi cô đơn, cái chết luôn rình rập đối với những con người tốt” hay bi kịch “để thỏa mãn những nhu cầu bình thường” con ngƣời lại “trở nên hết sức độc ác”. Trung thành với lối viết bộc lộ tính ngƣời, giọng văn chứa đầy trăn trở, suy tƣ đã giúp nhà văn xây dựng thành công nhân vật Quy - một ngƣời phụ nữ với số phận bi kịch. Gấp sách lại, ngƣời đọc vẫn luôn ám ảnh bởi “toàn bộ tập sách đang tồn tại như một cái cấu hỏi lớn đối với những ai là con người đang sống trên thế gian này”[14]. Giọng văn hào sảng, trầm hùng giúp nhà văn lột tả cái không khí khẩn trƣơng nơi chiến trƣờng đầy bom đạn rồi sau đó là hát lên khúc ca mừng chiến thắng. Trong khi đó, giọng điệu trầm tƣ, suy ngẫm lại giúp nhà văn phản ánh cuộc sống đời thƣờng với đủ mọi cung bậc và xây dựng những con ngƣời với số phận riêng. Có thể nói, đây là sự kết hợp hoàn hảo để Nguyễn Trí Huân thể hiện quan niệm về hiện thực và con ngƣời trên những trang tiểu thuyết của mình. Tiểu kết: Đứng trƣớc yêu cầu của văn học, của thời đại, Nguyễn Trí Huân cũng nhƣ nhiều nhà văn hậu chiến khác đã nỗ lực không ngừng khi tiếp tục “đào xới” mảng đề tài chiến tranh. Sự thay đổi quan niệm về con ngƣời và hiện thực cũng đòi hỏi nhà văn đổi mới cách thức phản ánh. Dẫu chƣa thật nổi bật song giữa các nhà văn viết về chiến tranh sau chiến tranh ngƣời đọc vẫn nhận ra Nguyễn Trí Huân với “giọng văn đôn hậu, cẩn trọng trong từng cảnh huống, thậm chí trong từng câu, từng chữ”[4]. 52
  58. KẾT LUẬN Chiến tranh ngày càng lùi xa, nỗi đau tinh thần, thể xác theo năm tháng sẽ phần nào nguôi ngoai, nhƣng hồi ức về nó chẳng thể nào chấm dứt. Văn học chính là cuốn phim tuyệt vời ghi lại dấu ấn của thời vinh quang, hào hùng nhƣng không kém phần khốc liệt, đau thƣơng của dân tộc. Viết về chiến tranh và số phận con ngƣời vẫn là niềm thôi thúc và là nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật đối với nhiều thế hệ cầm bút hôm nay và mai sau. Trong kháng chiến, các tác phẩm viết về chiến tranh và ngƣời lính đã kịp thời động viên, cổ vũ cả dân tộc cùng nhau quyết chiến với kẻ thù góp phần xứng đáng vào chiến thắng chung của đất nƣớc. Những sáng tác đó tạo nên một mảng văn học có vị thế riêng, đáng tự hào trong nền văn học cách mạng. Chiến tranh đi qua nhƣng những năm tháng khói lửa vẫn là một ám ảnh, sự trăn trở và khao khát tìm kiếm của nhiều tác giả. Các sáng tác thời kì hậu chiến, mà tiêu biểu là tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân, tính sử thi vẫn còn nhƣng không phải là mạch chủ đạo mà thay vào đó là khuynh hƣớng thể hiện chiến tranh và khám phá số phận con ngƣời ở góc nhìn thế sự, đời tƣ. Mặt sau chiến tranh, hiện thực chiến trƣờng và đời thƣờng cùng số phận ngƣời lính, phụ nữ và trẻ em đƣợc Nguyễn Trí Huân nhìn nhận một cách thấu đáo, bởi ông thấu hiểu rằng tác phẩm ra đời lúc này không phải để chiêm ngƣỡng, ca ngợi mà để tìm ra những lý giải, nói đƣợc những góc khuất chƣa có điều kiện đƣợc nói tới. Trong dòng chảy chung của tiểu thuyết hậu chiến, tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân đã thể hiện cách nhìn chân thực, xác thiết về cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nƣớc. Nhà văn đã dồn bút lực của mình để dựng lại cho hậu thế bối cảnh của hiện thực đời sống xã hội Việt Nam trong những năm tháng trong và sau chiến tranh, đồng thời đi sâu phản ánh những bi kịch mà con ngƣời phải đối mặt. Chiến tranh trong sáng tác của Nguyễn Trí Huân hiện lên ở cả hai 53