Khóa luận Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Ngư phong thi văn tập của Nguyễn Quang Bích
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Ngư phong thi văn tập của Nguyễn Quang Bích", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_gia_tri_noi_dung_va_nghe_thuat_trong_ngu_phong_thi.pdf
Nội dung text: Khóa luận Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Ngư phong thi văn tập của Nguyễn Quang Bích
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN LÝ THỊ TUYẾT GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRONG NGƯ PHONG THI VĂN TẬP CỦA NGUYỄN QUANG BÍCH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI – 2017
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN LÝ THỊ TUYẾT GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRONG NGƯ PHONG THI VĂN TẬP CỦA NGUYỄN QUANG BÍCH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học: ThS. AN THỊ THÚY HÀ NỘI – 2017
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của giảng viên, thạc sĩ An Thị Thúy đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Giá trị nội dung và nghệ thuật trong thơ văn Nguyễn Quang Bích”. Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong bốn năm học nói chung và trong quá trình nghiên cứu khóa luận nói riêng. Mặc dù có nhiều cố gắng song với trình độ và kiến thức còn hạn chế của mình, khóa luận chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành của thầy cô và các bạn sinh viên để khóa luận được hoàn thiện hơn. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 4 năm 2017 Tác giả khóa luận Lý Thị Tuyết
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu của tôi cùng với sự giúp đỡ của các thầy cô trong khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của giảng viên – thạc sĩ An Thị Thúy. Trong quá trình làm khóa luận, tôi có tham khảo những tài liệu có liên quan đã được hệ thống trong mục Tài liệu tham khảo. Khóa luận không có sự trùng lặp với các khóa luận khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng 4 năm 2017 Tác giả khóa luận Lý Thị Tuyết
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 2 3. Mục đích nghiên cứu 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 5. Phương pháp nghiên cứu 4 6. Bố cục khóa luận 5 NỘI DUNG 6 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 6 1.1. Hoàn cảnh lịch sử nửa cuối thế kỉ XIX 6 1.1.1. Phong trào kháng chiến chống Pháp của dân tộc. 6 1.1.2. Phong trào kháng chiến của các sĩ phu văn thân. 8 1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương 11 1.2.1. Cuộc đời 11 1.2.2. Sự nghiệp văn chương 17 1.3. Vị trí thơ văn Nguyễn Quang Bích trong dòng văn học yêu nước nửa cuối thế kỷ XIX 18 Chương 2. GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRONG NGƯ PHONG THI VĂN TẬP CỦA NGUYỄN QUANG BÍCH 20 2.1. Ngư phong thi văn tập nhìn từ góc độ nội dung 20 2.1.1. Tinh thần yêu nước, chống xâm lược 20 2.1.2. Tình cảm gắn bó chân thành với nhân dân lao động 29 2.1.3. Tâm trạng bi phẫn vì hoài bão không thành. 33 2.1.4. Tình yêu thiên nhiên đất nước 39 2.2. Ngư Phong thi văn tập nhìn từ góc độ nghệ thuật 43 2.2.1. Bút pháp hiện thực 43 2.2.2. Bút pháp trữ tình 48 KẾT LUẬN 57 TÀI LIỆU THAM KHẢO 59
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nguyễn Quang Bích là một nhà nho, một văn thân yêu nước tiêu biểu của dân tộc Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX. Trong giai đoạn lịch sử đất nước ta đang chịu sự áp bức đô hộ của thực dân Pháp, nhân dân sống trong khổ cực, đói kém triều đình nhà Nguyễn đứng đầu đất nước nhưng lại nhu nhược, hèn nhát đầu hàng giặc khiến những cuộc đấu tranh của mọi tầng lớp nhân dân diễn ra ở khắp mọi nơi. Nếu ở Nam Kỳ nổi bật lên vai trò lãnh đạo kháng chiến của Nguyễn Hữu Huân, ở Trung Kỳ là Phan Đình Phùng thì ở Bắc kỳ phong trào kháng chiến chống Pháp gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Quang Bích. Ông là một lãnh tụ xuất sắc của phong trào Cần Vương kháng Pháp tại núi rừng Tây Bắc. Những năm tháng chiến đấu gian khổ hào hùng của ông và nghĩa quân đã tạo nên một nét son chói lọi trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nước nhà. Nguyễn Quang Bích không những được lịch sử ghi nhận bởi sự đóng góp của ông với phong trào Cần Vương mà còn được được ghi nhận với những đóng góp cho nền văn học nước nhà. Bên cạnh tư cách một lãnh tụ nghĩa quân lặn lội chống Pháp tại núi rừng Tây Bắc, Nguyễn Quang Bích còn là một nghệ sĩ ngày đêm cầm bút khắc họa cảnh thiên nhiên cũng như cuộc sống của nhân dân tại chính địa bàn mình đã trường kì kháng chiến với tinh thần quyết tử cho dân tộc. Sự tác động từ nhiều yếu tố như thời thế, xuất thân, nền giáo dục, Nguyễn Quang Bích đã cho ra đời tập thơ văn giàu giá trị là Ngư Phong thi văn tập.Với nhiều bài thơ, văn đạt giá trị cả về nội dung và nghệ thuật, tập thơ văn đã góp phần làm nên diện mạo của kho tàng văn học Việt Nam. Đó là những cảm xúc của ông về thời thế, nhân sinh nhìn cảnh sinh tình. 1
- Từ xưa đến nay, thơ ca chính là nơi gửi gắm những tâm sự nỗi lòng, cảm xúc của các thi nhân. Những băn khoăn trăn trở, những niềm vui nỗi buồn thường trực hay sâu kín đều ẩn hiện rõ nét hoặc thoáng qua hoặc ẩn chứa sâu xa trong thơ văn của các thi sĩ.Đằng sau những ngôn từ có vẻ giản đơn hiện lên cả một thế giới nội dung rộng lớn và một tâm hồn nghệ thuật nghệ sĩ sâu sắc. Điều này chúng ta có thể bắt gặp được ở hầu hết sáng tác của các thi nhân Việt Nam nói chung như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Quang Bích cũng không ngoại lệ. Nghiên cứu đề tài “Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Ngư Phong thi văn tập” chính là để độc giả hiểu sâu sắc hơn về nhà thơ Nguyễn Quang Bích nói chung và giá trị nội dung, nghệ thuật của tập thơ nói riêng. Đó chính là lí do để chúng tôi lựa chọn và nghiên cứu đề tài này. 2. Lịch sử vấn đề Nguyễn Quang Bích là một trong những tác giả tiêu biểu, một tri thức Nho học có tên tuổi trong nền văn học dân tộc nửa cuối thế kỉ XIX. Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của thơ văn nói chung và giá trị nội dung, nghệ thuật của tập thơ văn Ngư Phong thi văn tập của Nguyễn Quang Bích nói riêng không phải là nội dung hoàn toàn mới mẻ.Có thể điểm qua một số cuốn sách và công trình nghiên cứu về Nguyễn Quang Bích như sau: Trước hết, trong cuốn Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam(giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX),tác giả đã phát hiện được tâm sự của người có thần sống chết vì nước đồng thời tái hiện được nét chân thực về cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc vào giai đoạn nửa cuối thế kỉ trước trong tập Ngư Phong thi văn tập. Nhiều tác giả trong cuốn “Giáo trình lich sử văn học Việt Nam, tập IVA” đã cho độc giả thấy được Nguyễn Quang Bích là một thi sĩ chân chính. 2
- Thơ văn ông không những ghi chép được một số của cộc kháng chiến ở Tây Bắc cuối thế kỉ trước mà còn truyền lại được những cảm xúc yêu nước lành mạnh còn nhiều khả năng bồi dưỡng cho tình cảm dân tộc hiện nay. Đến năm 1973 Đinh Xuân Lâm đã giới thiệu và chú thích cuốn Thơ văn Nguyễn Quang Bích. Trong cuốn sách này, tác giả đã viết: “Tập Ngư Phong thi văn tập là tiếng nói chân thành, là tâm sự bi đát của một vị văn thân nặng lòng vì nước vì vua trong lúc nước mất nhà tan ” [3;tr24] Tiếp đến là Nguyễn Lộc với cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX. Trong cuốn sách này tác giả khẳng Ngư Phong thi văn tập trước hết là tình cảm của Nguyễn Quang Bích một nhà thơ, đồng thời là một lãnh tụ nghĩa quân Cần Vương, trong những ngày tháng chống giặc gian lao giữa núi rùng ngút ngàn của miền Tây Bắc đất nước. Hay nhiều tác giả trong cuốn “Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỉ XIX (1858-1900)”, cũng đã nói lên được tinh thần quyết tâm kháng chiến, không sợ gian khổ, không sợ hi sinh của nghĩa quân và tác giả, đồng thời cũng nói lên được tình yêu thương đồng cam cộng khổ giữa những người cùng chí hướng, giữ miền núi và miền xuôi trong cuộc đánh giặc cứu nước. Gần đây nhất là Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) với công trình, Nguyễn Quang Bích – Nhà yêu nước, nhà thơ (kỷ yếu). Đây là công trình tập hợp rất nhiều bài viết về Nguyễn Quang Bích của các giáo sư, các nhà nghiên cứu. Chẳng hạn như: “Truyền thống và cách tân trong thơ Nguyễn Quang Bích” (GS Nguyễn Huệ Chi), “Ngư Phong thi văn tập, những vần thơ” “Tâm ngữ tâm” (PGS Trần Thị Băng Thanh) Trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã phần nào nhìn nhận ở góc độ này hay góc độ khác về giá trị nội dung và nghệ thuật trong Ngư Phong thi văn tập của Nguyễn Quanh Bích. Tuy nhiên những bài nghiên cứu trên chưa nhìn nhận một cách tổng thể, hệ thống về giá trị nội dung và 3
- nghệ thuật của tập thơ văn. Kế thừa những khám phá của các bậc tiền nhân đi trước, coi đó là những định hướng tiền đề ban đầu chúng tôi xin mạnh dạn thử phác họa Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Ngư Phong thi văn tập của Nguyễn Quang Bích. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài khóa luận này hướng tới hai mục đích sau: - Tìm hiểu để có cái nhìn toàn diện hơn về giá trị nội dung và nghệ thuật trong tập thơ văn Ngư Phong thi văn tập của Nguyễn Quang Bích. - Nâng cao sự hiểu biết về cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Quang Bích để từ đó thấy được vị trí và vai trò của ông trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX nói riêng và trong nền văn học nước nhà nói chung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Khóa luận sử dụng trích dẫn thơ văn của Nguyễn Quang Bích chủ yếu từ cuốn Thơ văn Nguyễn Quang Bích do Đinh Xuân Lâm giới thiệu, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1973. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Như tên đề tài đã xác định khóa luận tập trung tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật trong tập thơ văn Ngư Phong thi văn tập của Nguyễn Quang Bích. 5. Phương pháp nghiên cứu Tìm hiểu vấn đề này chúng tôi sử dụng các phương pháp chính sau: - Phương pháp thống kê, phân loại - Phương pháp hệ thống. - Phương pháp đối chiếu, so sánh. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. 4
- 6. Bố cục khóa luận Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận gồm hai chương: Chương 1: Những vấn đề chung Chương 2: Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Ngư Phong thi văn tập của Nguyễn Quang Bích 5
- NỘI DUNG Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Hoàn cảnh lịch sử nửa cuối thế kỉ XIX 1.1.1. Phong trào kháng chiến chống Pháp của dân tộc Đất nước Việt Nam nhỏ bé nhưng đã phải trải qua biết bao cuộc đấu tranh anh dũng mà hào hùng. Những ngày tháng chịu sự áp bức đô hộ là những ngày tháng gian khổ nhưng rất hào hùng với những chiến công lẫy lừng làm nên trang sử vàng chói lọi trong lịch sử của dân tộc ta. Xưa kia chịu sự áp bức của thực dân phương Bắc có chiến công hiển hách đánh dấu bước chuyển mình lớn của dân tộc với chiến thắng trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền. Từ đó về sau ông cha ta cũng đã lập nên những kì tích đánh thắng giặc phương Bắc với chiến công của Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Từ giữa thế kỉ XIX đến thế kỉ XX cuộc chiến đấu của dân tộc ta vẫn chưa chấm dứt. Kẻ thù của dân tộc ta lúc này không phải quân phương Bắc nữa mà là thực dân Pháp. Từ khi phát súng đầu tiên của thực dân Pháp nổ ra ngày 31-8-1858 tại bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) đã mở màn cho cuộc xâm lược phi nghĩa của chúng đồng thời báo hiệu những chuyển biến lớn trong đời sống đấu tranh của dân tộc. Nhân dân ta với tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất lại một lần nữa trỗi dậy đấu tranh mang tư cách nhân dân của một nước độc lâp tự do quyết chiến với kẻ thù để gìn giữ nền hòa bình tự chủ của tổ quốc. Trong khí thế đấu tranh bừng bừng sôi sục của nhân dân thì triều đình nhà Nguyễn nhu nhược, không dám dựa vào nhân dân kháng Pháp.Lúc đầu họ cũng muốn đấu tranh để giành nền tự chủ cho dân tộc nhưng trước sức mạnh to lớn của thực dân Pháp họ không kháng cự nổi nên đã đầu hàng bọn thực dân, nhượng bộ cho chúng nhiều quyền lợi dân tộc, bán đi một số tỉnh. Bởi lẽ 6
- đó, phong trào đấu tranh lúc này không phải chỉ để chống thực dân Pháp mà còn để chống lại chế độ phong kiến mục rỗng không còn đủ tư cách lãnh đạo, cầm quyền. Lúc này, vai trò của nhân dân lại sáng ngời trên vũ đài chính trị. Chưa phải nhân dân lãnh đạo tất cả các cuộc chống Pháp nhưng họ tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh bền bỉ, gan dạ, tinh thần anh dũng bất khuất, chịu thương chịu khó của dân tộc. Xưa kia người nông dân đi theo chân của các vị tướng như Ngô Quyền, Quang Trung, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, đánh đuổi giặc ngoại xâm. Ngày nay, họ lại cùng với một bộ phận ưu tú của giai cấp phong kiến đứng lên chống Pháp, chặn đứng nguy cơ mất nước dưới gót giày quân xâm lược. Khi tiếng súng của kẻ thù xâm lăng ở của biển Đà Nẵng - phần đất phương Nam xa xôi thì không chỉ nhân dân miền Nam mới đứng lên chống Pháp. Tiếng súng ấy đã khơi dậy lòng phẫn uất căm thù giặc của nhân ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Các cuộc khởi nghĩa nổ ra liên tiếp và rầm rộ chứng tỏ lòng yêu nước sắt son của người dân đất Việt. Tiêu biểu phải kể đến cuộc khởi nghĩa nông dân của Cai Vàng, lời buộc tội triều đình của “Trung nghĩa ca”, đoàn nghĩa quân chống quân xâm lược của thầy trò Phan Văn Nghị tình nguyện vào Nam chống Pháp, cuộc khởi nghĩa của Đoàn Hữu Trưng, của Trần Tấn, Đặng Như Mai nhằm chống lại triều đình phong kiến và chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp Những cuộc khởi nghĩa nổ ra càng thể hiện rõ tấm lòng yêu nước và ngọn lửa đấu tranh chống giặc ngoại xâm ngùn ngụt trỗi dậy trong lòng nhân dân. Những cuộc đấu tranh ấy đã gây ra tổn thất lớn cho thực dân Pháp và bọn tay sai triều đình nhà Nguyễn khiến cho chúng phải trả giá đắt trên mỗi mảnh đất chúng cướp hoặc bước chân giày xéo lên. Phong trào đấu tranh của nhân dân vô cùng anh dũng, hào hùng nhưng tình thế của đất nước vẫn không thể cứu vãn được. Chiến tranh của thực dân 7
- Pháp ở Việt Nam là chiến tranh phi nghĩa nhưng do sự nhu nhược của triều đình nhà Nguyễn tại Huế nên chúng đã giành được một số thắng lợi đánh dấu bằng những hàng ước mà triều đình nhà Nguyễn kí với chúng: Hàng ước năm 1862 nhường ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và đảo Côn Lôn cho Pháp. Điều ước và thương ước 1874 nhường toàn bộ Nam kì cho thực dân Pháp. Hai hàng ước 1883 và 1884 thì công nhận nền đô hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Thực dân Pháp đã dần dần quàng ách thống trị lên nước ta. Lúc đó nước ta trở thành một đất nước xã hội giao thời – xã hội nửa thực dân nửa phong kiến, kiểu xã hội ngày càng rõ nét vào những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. 1.1.2. Phong trào kháng chiến của các sĩ phu văn thân Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân ta đã tiến hành một cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại kẻ thù. Trong làn sóng ấy phải kể đến phong trào đấu tranh của các sĩ phu văn thân. Thực dân Pháp xâm lăng đã làm cho hàng ngũ phong kiến bị phân hóa ra nhiều thành phần. Ngoài triều đình Huế bù nhìn mê muội, ngoài bọn địa chủ phong kiến hám lợi cầu vinh thì vẫn còn rất đông các trí thức phong kiến ý thức được trách nhiệm của mình với dân với nước. Tuy nhiên trong hàng ngũ sĩ phu văn thân, thái độ của họ với thời cuộc là không hẳn giống nhau. Trước hiện thực tăm tối của xã hội , khi mâu thuẫn của dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và phong kiến đã lên đến đỉnh điểm thì một số người vẫn cúi đầu an phận. Ý thức hệ phong kiến cơ bản chi phối lẽ sống của họ: tư tưởng trung quân giờ đây đã không còn hợp thời theo đúng nghĩa của nó bởi người đứng đầu đất nước là triều đình nhà Nguyễn đã không còn đủ tư cách lãnh đạo. Một số sĩ phu khác thì thiếu nghị lực, họ đi tìm qua khứ trong ẩn dật, trong ưu tư mơ ước được trở lại thời thịnh của phong kiến ngày xưa. Có người bày tỏ thái độ bất mãn trước cảnh chế độ phong kiến suy 8
- tàn và thực dân Pháp thống trị nhưng họ lại không hành động mặt khác bên họ vẫn có những sĩ phu ý thức được trách nhiệm của mình và tỉnh táo trước thời cuộc. Bắt nguồn từ truyền thống yêu nước của dân tộc, họ tin tưởng vào lực lượng nhân dân, đứng lên cầm súng giết giặc, lãnh đạo cuộc kháng chiến đem đến nhiều chiến công. Tiêu biểu cho cuộc đấu tranh ấy là phong trào Cần Vương được nổ ra bởi lời hiệu triệu, từ chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi. Phong trào rầm rộ từ Bình Định, Quảng Bình ra đến Hưng Yên, Thái Bình, Tây Bắc và kéo dài đến hết thế kỉ XIX. Các văn thân sĩ phu không chỉ đấu tranh chống Pháp bằng vũ khí, bằng bạo lực mà còn đấu tranh bằng chính ngòi bút của mình. Tấm lòng yêu nước thương dân và căm thù giặc còn thể hiện rõ nét qua những trang thơ như của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, một trong những sĩ phu văn thân thời bấy giờ phải kể đến là Nguyễn Quang Bích. Khi nói đến cuộc đời hi sinh chiến đấu ngoan cường của các chiến sĩ Cần Vương người ta thấy nổi bật một Nguyễn Quang Bích, một Tống Duy Tân, một Phan Đình Phùng để lại cho thế hệ sau tấm gương rực rỡ về sự hi sinh cho độc lập tự do của tổ quốc, về khí phách hiên ngang bất khuất, hành động xả thân cho việc nước của một trí thức dân tộc chân chính trước kẻ thù. Với riêng Nguyễn Quang Bích ông là một nhà trí thức phong kiến, một nhà thơ, một nhà quân sự, nhà chính trị, ngoại giao. Trải qua những bước thăng trầm của cuộc đời, với thực tế sống và chiến đấu ông đã trở thành người chỉ huy cao nhất của trung tâm kháng chiến vùng Bắc Kì cuối thế kỉ XIX. Cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp rất gian khổ, hoàn cảnh lịch sử xã hội lại vô cùng phức tạp nhưng ông vẫn cùng các chiến hưu của mình như Đề Kiều, Đốc Ngữ, Nguyễn Văn Giáp đứng ra gánh vác việc lớn. Nguyễn Quang Bích là hiện thân của tinh thần yêu nước thương dân tư tưởng của ông đã vượt ra khỏi tư tưởng của lễ giáo Nho gia, ông khước từ địa vị một viên quan triều 9
- đình để cùng nghĩa quân lập căn cứ địa chống Pháp nơi núi rừng hẻo lánh. Trong những ngày làm tuần phủ Hưng Hóa từ năm 1867 trở điNguyễn Quang Bích đã góp phần lớn vào việc giữ an ninh trật tự cho vùng biên giới phía Bắc. Ông đã thể hiện tri thức quân sự của mình khi nhìn thấy nhà Thanh sẽ kết cấu với Pháp, đó là lối tư duy mang tính dự báo rất cao. Tầm nhìn quân sự của Nguyễn Quang Bích còn thể hiện ở việc lựa chọn căn cứ kháng chiến lâu dài chống Pháp từ Hưng Hóa đến địa bàn hiểm trở Cẩm Khê(Vĩnh Phú),ở Tiên Động rồi cuối cùng là châu Văn Chấn (Nghĩa Lộ) một địa bàn có vị trí quân sự, chính trị và kinh tế vững chắc. Ông còn biết dựa vào nhân dân (Đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số) được nhân dân tin yêu, đùm bọc và che chở. Ông còn rất tài tình trong việc dùng người, ngoài trợ thủ đắc lực của ông như Đốc Ngữ, Đề Kiều, Nguyễn Văn Giáp căn cứ địa của ông là nơi tập trung thu hút sự chú ý và ủng hộ của các nghĩa quân khác. Chính điều đó tạo nên sức mạnh to lớn để tiến hành kháng chiến lâu dài. Với những sách lược chính trị, ngoại giao như tranh thủ sự giúp đỡ của nhà Thanh, kiên quyết kháng Pháp cũng như việc sử dụng các chiến thuật quân sự cho thấy Nguyễn Quang Bích là nhà quân sự đại tài. Ngoài tài quân sự ông còn có tài thơ văn, với tập Ngư Phong thi văn tập lắng đọng, giàu cảm xúc Nguyễn Quang Bích đã bộc lộ rất rõ suy nghĩ của mình với cuộc kháng chiến chống Pháp. Từ những điều trên đây, chúng ta có thể nhận thấy vai trò, vị trí và sự ảnh hưởng quan trọng của Nguyễn Quang Bích với cuộc khánh chiến chống Pháp. Bởi thế dưới ngọn cờ lãnh đạo xuất sắc của ông, dù cuộc kháng chiến chống Pháp không thắng lợi trọn vẹn nhưng nó đã chứng tỏ rằng lòng yêu nước, căm thù giặc là truyền thống quí báu của dân tộc, truyền thống ấy còn nối tiếp từ thế hệ này đến thế hệ khác tạo nên một sức mạnh khổng lồ đem đến những thắng lợi và kết quả triệt để hơn ở giai đoạn sau. 10
- 1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương 1.2.1. Cuộc đời Nguyễn Quang Bích, tự Hàm Huy, hiệu Ngư Phong, ông sinh ngày 8 tháng 4 năm Nhâm Thìn (7-5-1832). Sinh ra và lớn lên ở làng Trình Phố, huyện Trực Định, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định nay thuộc tỉnh Thái Bình nên Nguyễn Quang Bích rất am hiểu về con người và mảnh đất nơi đây. Trình Phố là ngôi làng đồng ruộng nhiều, cư dân đông đúc do gần vùng biển úng lụt mất mùa liên miên nên cuộc sống của người dân nơi đây đói nghèo thiếu thốn trăm bề. Tuy nhiên đây cũng là một trong những miền quê tiêu biểu của Việt Nam với truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất đấu tranh bảo vệ dân tộc. Trong làn sóng lịch sử dân tôc sôi động khoảng cuối thế kỉ XIX trở đi, tên tuổi của những người con ưu tú của quê hương Trình Phố nổi bật lên như Ngô Đức Trạch, Bùi Viện, Ngô Quang Đoan, nhưng tiêu biểu nhất là tên tuổi của Hoàng giáp Nguyễn Quang Bích. Suốt thời gian làm quan, ông được nhân dân các địa phương rất yêu mến thường gọi ông là “Hoạt phật” (Phật sống). Đó là cả một tấm lòng ái mộ của nhân dân đối với một người suốt đời chăm lo đến đời sống của quần chúng. Những năm tháng làm quan trong sạch và ân đức đó đã báo trước cho những hành động cao đẹp của ông về sau khi đất nước bị quân thù xâm lược. Với làng Trình Phố, Nguyễn Quang Bích đã thực sự gắn bó và để lại rất nhiều ân nghĩa. Đức tài, cách đối nhân xử thế của dòng họ ông nói chung và của bản thân ông nói riêng đã ngấm sâu vào trong gốc rễ làng Trình và ăn sâu vào trong hồn người nơi đây. Trước cảnh nhân dân mất mùa, đói khổ Nguyễn Quang Bích đã lo lắng trăn trở mong muốn thực hiên được ước nguyện giúp dân ấm no hạnh phúc. Trong khoảng thời gian về chịu tang cha ông đã thực hiện được ước nguyện của mình, xây Văn Chỉ cho làng, mở trường dạy học, 11
- xẻ sông, đắp cống, mở ra một cuộc sống mới cho người dân làng Trình Phố. Cũng chính vì ông có nhiều ân nghĩa với mảnh đất và con người nơi đây nên đã khiến cho nhân dân làng Trình đủ sức mạnh theo ông lên tận Hưng Hóa để đánh giết giặc và khi ông mất làng Trình Phố đã cùng gia đình ông gánh chịu những tổn thất lớn lao trong lòng cũng như sự trả thù dã man của chính quyền thực dân Pháp. Có một điều chắc chắn, Nguyễn Quang Bích xứng đáng là niềm tự hào của nhân dân làng Trình Phố, xứng đáng với lời ngợi ca đẹp đẽ mà quê hương đã dành tặng ông: “Chỉ Trụ thiên thu tiêu Việt quốc, Danh môn bách thế biểu Trình Giang.” Nghĩa là: “Cột trụ ngàn năm nên ấđ t Việt, Danh thơm muôn thuở rạng làng Trình.” Có thể nói quê hương là một trong những yếu tố quan trọng góp phần hình thành nên nhân cách Nguyễn quang Bích nhưng yếu tố tiên quyết để hình thành nên nhân cách đáng kính trọng đó phải kể đến dòng dõi gia đình. Tổ tiên Nguyễn Quang Bích vốn là dòng họ Ngô (Bởi vậy có nhiều học giả gọi ông là Ngô Quang Bích). Họ Ngô từ thế kỉ XV xuất xứ từ Đồng Phang đã lan rộng ra địa bàn toàn quốc và trở thành một dòng họ lớn sản sinh ra nhiều văn thân võ tướng có tiếng. Tổ tiên ông có Ngô Kinh, Ngô Từ cũng có công lớn với Lê Khoáng, Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Thân phụ Nguyễn Quang Bích là Ngô Quang Lưu vốn có sức khỏe, làm ăn chăm chỉ, tiết kiệm nên sớm trở thành một trung nông khá giả của làng Trình Phố xưa. Ông luôn chỉ bảo cho con cháu những điều hay lẽ phải, là một 12
- tấm gương về đức tính lao động cần cù, sinh hoạt giản dị, ăn ở nhân đức tình nghĩa với láng giềng, cho con cái về sau. Thân mẫu Nguyễn Quang Bích là một người phụ nữ tần tảo hết lòng với chồng con. Đức tính tốt từ thân phụ và thân mẫu đã trở thành những định hướng lớn trong tư tưởng của Nguyễn Quang Bích và có ảnh hưởng lớn đến hành động của ông sau này. Không chỉ thế, góp phần quan trọng vào quá trình hình thành nhân cách để tạo nên sự nghiệp của Nguyễn Quang Bích còn phải kể đến kết quả của sự dạy dỗ bởi các thầy dạy học lúc bấy giờ. Người thầy khai tâm cho Nguyễn Quang Bích là cụ tú tài Nguyễn Ôn Hòa, một nho sĩ có tiếng người làng Hành Thiện, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Nhờ sự ân cần chỉ bảo của người thầy mẫu mực này nên Nguyễn Quang Bích đã sớm phát huy được tư chất thông minh, hiếu học và tinh thần lập chí từ nhỏ. Khi học lên cao ông lại tìm được một người thầy học có tiếng tăm về đức độ, văn tài tiến sĩ Đốc học Doãn Khuê, người xã Song Lãng, huyện Vũ Thư. Người thầy cao quý không chỉ truyền dạy cho Nguyễn Quang Bích tinh thần học tập, nghiên cứu nghiêm túc, coi trong việc tiếp thu những tinh hoa của kho tàng văn hóa Việt Nam và văn hóa phương Đông mà còn ảnh hưởng sâu sắc tới ông về tinh thần yêu nước, về đạo đức trong sáng mang tính truyền thống của dân tộc. Trong “Bài ca đối sánh thi đình” của mình, Nguyễn Quang Bích đã khẳng định: Ông đã hình thành nhân cách con người trí thức của mình trước khi bước vào con đường tấn thân. Sau này, sau những năm tháng kháng chiến ở Tây Bắc với tư cách là thủ lĩnh của nghĩa quân, Nguyễn quang Bích đã hình thành nên nhân cách con người trí tuệ của mình. Trong 13
- ông có sự nhất quán giữa việc học và hành, giữa tư tưởng và hành động, đạt đến sự viên mãn trong các mối quan hệ ứng xử. Như vậy, nhân cách của Nguyễn Quang Bích được hình thành trong cả một quá trình dài dưới sự tác động của nhiều yếu tố. Với những điều kiện tiền đề thuận lợi kết hợp với sự cố gắng nỗ lực của bản thân tưởng rằng đường công danh sẽ rạng rỡ với ông thế nhưng cũng giống như Trần Tế Xương Nguyễn Quang Bích thi đỗ rất muộn. Năm Mậu Ngọ (1858) lúc đã 27 tuổi ông mới đậu tú tài. Tiếp sau đó, năm Tân Dậu (1861) ông đỗ cử nhân và được bổ làm giáo thụ phủ Trường Khánh (Ninh Bình). Được một năm thì ông cáo quan về quê để tang cha và dạy học.Con đường quan lộ của Nguyễn Quang Bích chỉ thực sự rạng rỡ vào năm 1869 khi ông đỗ nhị giáp tiến sĩ lúc 38 tuổi và được bổ làm tri phủ Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Sau đó, ông lần lượt giữ các chức án sát Sơn Tây, Tế tửu Quốc Tử Giám tại kinh đô Huế, án sát Bình Định. Trong thời gian đó triều đình mở doanh điền ở Hưng Hóa, ông lại được cử làm chánh sứ sơn phòng rồi kiêm luôn chức tuần phủ Hưng Hóa. Mảnh đất Hưng Hóa cũng là nơi Nguyễn Quang Bích bắt đầu tham gia vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc. Sau khi buộc triều đình Huế kí hàng ước vào ngày 25/8/1883 xác định quyền bảo hộ của Pháp ở Việt Nam thì đến tháng 3/1884 thì hầu hết Bắc kì đã lọt vào tay giặc Pháp. Một số căn cứ quan yếu đã mất, chỉ còn Hưng Hóa và thực dân Pháp đang chuẩn bị tấn công để mở rộng phạm vi xâm lược ra cả nước. Tuần phủ kiêm trấn thủ Hưng Hóa lúc đó là Nguyễn Quang Bích lúc đó đã phải chỉ đạo trực tiếp việc giữ thành. Sau khi thành Hưng Hóa thất thủ ông đã thu thập quân binh dời về Cẩm Khê (Phú thọ) và định cố thủ lâu dài ở đây lặp căn cứ chống Pháp. Nghĩa quân đã tự củng cố lục lượng cùng với nghĩa quân từ nhiều nơi khác đến đã tạo nên một sức mạnh cả về thế và lực. Quân Pháp nhiều lần đem 14
- binh đến đánh hưng đều thất bại trước sự đồng tâm đoàn kết quyết chiến của nghĩa quân nơi đây, đặc biệt là sự lãnh đạo của nhà cầm quyên Nguyễn Quang Bích. Ngày 13/7/1885 vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương kêu gọi văn thân sĩ phu và nhân dân cả nước đứng dậy chống Pháp cứu nước. Tôn Thất Thuyết thừa mệnh vua xuống dụ khai phục nguyên hàm và thăng chức cho văn thần võ tướng ngoài Bắc. Nguyễn Quang Bích được vua Hàm Nghi sai sứ ra phong Lễ bộ thượng thư sung hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần nước Thuần – Trung cho phép quan văn từ tham tần, quan võ từ đề đốc trở xuống được quyền “Liệu nghi thực dụng” đồng thời ông được ủy viện cầm quốc thư sang triều Thanh cầu viện. Nguyễn Qung Bích đã hoàn thành xuất sắc công việc được giao ông được vua Hàm Nghi ban khen và phụ chinh đại thần Tôn Thất Thuyết làm thơ kỉ niệm. Vào năm 1886 vua Hàm Nghi lại một lần nữa cử Nguyễn Quang Bích đi Vân Nam, cùng đi với ông có Chu Lăng Thực, tự Thiết Nhai, hiệu Ngọa Hổ người tỉnh Hồ Nam Trung Quốc, người thứ hai là Nguyễn Khê Ông người làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt tỉnh Sơn Tây, lĩnh chức án sát sứ tỉnh Sơn Tây sung tần tướng quân vụ. Cũng trong thời gian này từ tháng 6 đến tháng 11 năm 1886, giặc Pháp hai lần liên tục tấn công căn cứ nhưng không có kết quả. Phong trào kháng Pháp ở nhiều nơi lại nổ ra mạnh mẽ. Giữa lúc này thì Nguyễn Quang Bích từ Trung Quốc về nước và cho nghĩa quân đóng ở hạt Thiên Chấn (châu Văn Chấn). Được sự viện trợ của tổng đốc Vân Quý là Sầm Dục Anh cùng sự góp sức của nhiều nghĩa quân khác, đặc biệt là đồng bào dân tộc miền núi nên thanh thế của nghĩa quân tăng lên rất nhanh. Tất cả các cuộc đấu tranh chống phá của thực dân Pháp đều vô hiệu. Đàn áp không được thực dân Pháp dở chiêu trò dụ dỗ nhưng Nguyễn Quang Bích kiên quyết cự tuyệt thề chết không 15
- hàng. Với lời lẽ ôn hòa mà đanh thép, Nguyễn Quang Bích đã thể hiện rõ quan điểm và bản lĩnh của mình trước quân thù, đó cũng chính là ý chí bất khuất của dân tộc Việt Nam bất chấp sức mạnh của quân xâm lược. Đến tháng 10 năm Đinh Hợi (11/1887) do quân Pháp ập đến bất ngờ nên Nguyễn Quang Bích và hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp phải chia tay nhau lánh vào nhà đồng bào Mèo quanh vùng. Khi quân giặc rút lui ông trở về căn cứ thì Nguyễn Văn Giáp đã bị bệnh chết. Vô cùng thương tiếc người đồng chí có khí tiết hào hùng ông đã làm một bài văn tế thống thiết ca tụng công ơn của hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp. Tháng 3 năm Mậu Tí (4/1888), Pháp tấn công lần hai, do bất ngờ và bị động nên nghĩa quân đã không chống đỡ nổi phải rút về Phù An, sau khi địch rút mới trở về vị trí cũ. Thực dân Pháp lại tiến hành bao vây phong tỏa, cuối cùng Nguyễn Quang Bích dời trụ sở đến khu núi Tôn Sơn, châu Yên Lập.Tuy nhiên đến giai đoạn này thì sức khỏe của ông ngày càng sa sút vì đau ốm liên miên. Tháng 11/1889 Nguyễn Quang Bích truyền lệnh cho tướng sĩ chuẩn bị một cuộc tấn công lớn vào đầu năm thì đến ngày 5/1/1891 ông bị bệnh nặng và mất tại căn cứ của nghĩa quân (mất vào năm 1889 hoặc 1890). Thi hài của ông được binh sĩ trân trọng chôn cất trên ngọn núi Tôn Sơn biểu dương ý chí bất khuất, tinh thần yêu nước của một văn thân đồng thời là tinh thần của cả một dân tộc anh hùng. Nguyễn Quang Bích từ trần, nghĩa quân không có người lãnh đạo nên lần lượt tan rã. Tuy các chiến sĩ như Đề Kiều, đốc ngữ Đề Dị, Đề Thành còn tiếp tục sự nghiệp rạng rỡ của ông làm cho quân Pháp thất điên bát đảo trong nhiều năm nhưng về cơ bản phong trào đã thất bại. Như vậy hoàn cảnh lịch sử và gia đình đã có tác động rất lớn đến cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Quang Bích nói chung và sự nghiệp thơ văn nói riêng. 16
- 1.2.2. Sự nghiệp văn chương Trong thời gian lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp ở Tây Bắc từ 1885 đến 1889, ông đã sáng tác được một tập thơ văn giàu giá trị đó là Ngư Phong thi văn tập gồm 97 bài thơ chữ Hán phần lớn theo các thể thơ Đường luật ngoài ra ông còn có các bài văn(3 bài văn tế), câu đối(4 bài), liễn điếu viếng các đồng đội tử trận, và thư trả lời quân Pháp với lời lẽ khẳng khái, ý chí quyết hi sinh vì độc lập, dân tộc . Có thể nói Ngư Phong thi văn tập là tiếng nói chân thành, là tấm lòng yêu nước sắt son của nhà thơ Ngư Phong. Xúc cảm trước quân dân chiến đấu gian khổ, căm hờn với giặc Pháp tham tàn, với lũ Việt gian bán nước và có nhiều lúc rung cảm trước cảnh rừng núi Tây Bắc tươi đẹp nên Nguyễn Quang Bích đã cho ra đời tập thơ giàu giá trị này. Qua tập thơ, con người Nguyễn Quang Bích hiện lên một cách chân thực nhất, hình ảnh một vị lãnh tụ, một thi sĩ yêu nước hiện lên đậm nét qua từng trang thơ. Đồng thời tập thơ còn miêu tả nhiều nét chân thực về cuộc chống Pháp của nghĩa quân Tây Bắc. Với giá trị nội dung và nghệ thuật sâu sắc Nguyễn Quang Bích đã tái hiện lại cho người đọc không gian và con người nơi núi rừng Tây Bắc. Qua đó ta có thể thấy được hiện thân của một vị lãnh tụ cách mạng hết lòng vì nước vì dân. Từ đó ta có thể khẳng định Ngư Phong thi văn tập đã làm cho tên tuổi Nguyễn Quang Bích rực sáng trên văn đàn, đặc biệt là trong dòng văn học yêu nước cuối thế kỉ XIX. Tập thơ văn đã góp phần làm cho nền thơ ca dân tộc trở nên phong phú hơn. 17
- 1.3. Vị trí thơ văn Nguyễn Quang Bích trong dòng văn học yêu nước nửa cuối thế kỷ XIX Là một lãnh tụ của phong trào Cần Vương kháng Pháp Nguyễn Quang Bích được nhắc đến nhiều vơi vai trò, vị trí của một danh nhân lịch sử cùng với những tên tuổi như: Nguyễn Hữu Huân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Đình Chiểu, thơ văn của ông chưa thực được tiếp cận và nghiên cứu nhiều. Có công lớn trong việc giới thiệu nhà thơ Nguyễn Quang Bích với người đọc chính là nhóm tác giả Kiều Hữu Hỷ, Lã Xuân Mai, Nguyễn Xuân Bách, Nguyễn Bỉnh Khôi, Đinh Xuân Lâm với công trình Thơ văn Nguyễn Quang Bích được xuất bản lần đầu vào năm 1961 và được tái bản lại vào năm 1973. Đây là công trình biên soạn, tập hợp khá đầy đủ thơ văn Nguyễn Quang Bích trong đó có 97 bài thơ cùng với một số bài văn tế và thư trả lời quân Pháp. Trong cuốn này Đinh Xuân Lâm đã giới thiệu khá đầy đủ những nét về cuộc đời, con người cũng như sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Quang Bích và đánh giá cao tinh thần yêu nước của ông trong tập Ngư Phong thi văn tập bởi tư tưởng của nó được bắt nguồn từ sâu trong truyền thống vĩ đại không có gì quý hơn độc lập tự do của dân tộc. Trong bài viết của tác giả Bùi Văn Nguyên trong bộ Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam xuất bản năm 1964 đã khẳng định được đúng đắn vị trí của thơ văn Nguyễn Quang Bích trong dòng văn học yêu nước cận đại Việt Nam. Giáo sư cho rằng: “Sự kết hợp giữa nhà yêu nước và tâm hồn thi nhân đã giúp Nguyễn Quang Bích bộc lộ được tâm hồn của một cô thần sống chết vì nước đồng thời ghi lại được những nét chân thật về cuộc kháng chiến chống Pháp của nghĩa quân, về thiên nhiên vùng Tây Bắc Bùi Văn Nguyên trong bộ Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam đã tiếp cận với hình ảnh con người Nguyễn Quang Bích trong thơ. Ông cho rằng đó là con người tự an ủi mình trên bước đường gập ghềnh gian nan, hiểm trở, là người đi 18
- nhiều, thích nói nhiều về nỗi buồn hơn là niềm vui.Trong giai đoạn kháng Pháp người sáng tác thơ văn yêu nước chống Pháp có nhiều, người nào cũng đáng kính phục nhưng người đã truyền lại cho ta hơi sống nóng hổi của một thời đại chống Pháp đã qua thì chỉ có một số ít mà Nguyễn Quang Bích là một trong số đó. Hầu hết những tác giả tìm hiểu về thơ văn Nguyễn Quang Bích chỉ tìm hiểu về tiếng nói yêu nước chứ chưa đi sâu vào giá trị văn chương mà Ngư Phong thi văn tập có được. Năm 1988 nhân việc nhà nước ta công nhận di tích lịch sử phần mộ và từ đương Nguyễn Quang Bích tại quê hương Tiền Hải, Thái Bình đã tổ chức buổi hội thảo khoa học về ông. Cuộc hội thảo đã tập trung nhiều về vấn đề khẳng định vị trí của ông trong tư cách một lãnh tụ Cần Vương còn thơ văn của ông chưa được họi thảo đi sâu. Đến năm 1991 trong lễ kỉ niệm và hội thảo khoa học tròn một trăm năm mất của Nguyễn Quang Bích tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám thì thơ văn của Nguyễn Quang Bích mới được tìm hiểu ở nhiều phương diện. Nhìn chung qua những bài viết điểm qua bên trên đã cố gắng tìm cách lí giải những đóng góp riêng của Nguyễn Quang Bích so với các nhà văn yêu nước cùng thời với ông. Tuy nhiên tất cả mới là những ý kiến bước đầu về con người và thơ văn Nguyễn Quang Bích. Thế giới nội dung và nghệ thuật trong thơ Nguyễn Quang Bích vẫn còn nhiều điều mới mẻ cho đến nay và chưa được nghiên cứu một cách thỏa đáng dù vị trí và đóng góp của thơ văn ông trong nền văn học yêu nước thời chống Pháp là đáng kể. 19
- Chương 2. GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRONG NGƯ PHONG THI VĂN TẬP CỦA NGUYỄN QUANG BÍCH 2.1. Ngư phong thi văn tập nhìn từ phương nội dung 2.1.1. Tinh thần yêu nước, chống xâm lược Là một lãnh tụ xuất sắc trong phong trào Cần Vương, suốt cuộc đời thăng trầm của mình Nguyễn Quang Bích luôn giữ gìn và phấn đấu để trở thành một trí thức chân chính. Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược, quàng ách thống trị lên đất nước ta thì Nguyễn Quang Bích quyết theo phe chủ chiến, không đội trời chung với giặc. Ông bước tiếp theo con đường của những tấm gương sáng đi trước như: Phan Văn Nghị, Trương Định, Nguyễn Đình Chiểu, Ông đã sống trong những năm tháng đầy khí phách, cùng với nhân dân từ Bắc chí Nam lấy thiện chống ác, lấy cái vinh chống cái nhục, biểu thị thái độ dứt khoát kháng chiến giữ nước đến cùng. Nguyễn Quang Bích lên án gay gắt những kẻ mang tri thức mà làm hại đến non sông xã tắc, chà đạp lên chân lí và chính nghĩa, vạch mặt bè lũ bên ngoài giả cách ở ẩn giữ mình còn bên trong thì giao thông với giặc cướp nước để tiền đầy túi: “Hiện nay ở trên đời, biết bao nhiêu người tham lam đắm đuối, chạy vạy luồn cúi dưới lũ hôi tanh để kiếm cơm áo; lại có người bên ngoài thời giả cách lùi bước, ẩn mình, mà bên trong thời bí mật cùng quân giặc giao thông để kiếm cho đầy túi.” ( Văn tế tán tương Nguyễn Khê Ông). Ở Nguyễn Quang Bích cũng như nhiều nhà Nho yêu nước khác tình yêu đất nước là một điều rất đỗi thiêng liêng, nó được hình thành không chỉ từ trong nhận thức mà còn được xác định bởi tinh thần trách nhiệm của bản thân. Với ông tinh thần yêu nước đã trở thành trách nhiệm trong cả cuộc đời của mình. 20
- Trong bài thơ đầu tiên của tập “Ngư Phong thi văn tập” là “Sơn hành lộ tự ủy” (Đi đường núi tự an ủi) Nguyễn Quang Bích đã tự xác định cho mình nghĩa vụ cao cả ấy: Kỳ thu mạc phạ lộ hành nan, Đồ báo dư sinh thệ thốn nan. Đầu thượng quân thân thiên nhật chiếu, Giang sơn đáo xứ hộ bình an. (Sơn hành lộ tự ủy) Dịch thơ: Gập ghềnh nào sợ bước gian nan, Cứu nước thân già dạ sắt son. Trung hiếu trên đầu trời chiếu rọi, Giang sơn che chở được bình an. (Đi đường núi tự an ủi) Bài thơ như lời trần tình sâu sắc của người chí sĩ yêu nước cũng chính là tiếng nổ đầu tiên báo hiệu cho cuộc đời vừa chiến đấu vừa làm thơ của ông. Trong thâm tâm Nguyễn Quang Bích ông hết lòng mong mỏi đất nước được thái bình, non sông thoát khỏi sự giày xéo của giặc dù bao khó khăn, gập ghềnh. Khi giặc bước chân tới xâm lược đất nước nỗi băn khoăn trăn trở thôi thúc ông một cách mãnh liệt trong việc cứu nước. Ông luôn tin rằng những điều mình làm có trời chiếu rọi và ông sẽ nhận được sự bình an trong những bước đi của mình. Lòng băn khoăn trăn trở trong sự nghiệp cứu nước đã từng xuất hiện trong nhiều sáng của các nhà thơ trung đại trong đó Nguyễn Trãi là một điển hình tiêu biểu nhất: “Bui một tấc long ưu ái cũ Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông” (Thuật hứng- bài 5) 21
- “Bui có lòng trung với hiếu Mài chăng khuyết, nhuôm chăng đen.” (Thuật hứng bài 24) Giờ đây, phẳng phất trên những trang thơ của Nguyễn Quang Bích, tinh thần ấy lại một lần cháy lên. Ông nhấn mạnh đến ân nghĩa của vua và sự đền đáp của kẻ sĩ như một điều tất yếu phải làm: Ngưu xa dẫn tải vị vi bì Bố phụ lao lao khởi bất tri. Nhàn dưỡng ân thâm tư báo thiết, Giã tằng cốt tướng tự tiền di. (Ngư Phong họa thi V) Dịch thơ: Vận tải xe trâu chửa mỏi mình, Gian lao lưng nặng biết nhưng đành. Ân sâu nuôi dưỡng lòng lo báo, Cốt tướng xưa kia vẫn bẩm sinh. (Thơ họa của Ngư Phong V) Tuy ở trong thời đại Nguyễn Quang Bích nghĩa vua tôi chẳng còn thiêng liêng như ngày trước bởi sự xâm lăng của thực dân Pháp khiến cho triều nhà Nguyễn tan đàn xẻ nghé, không còn nhận được sự tin cậy của thần dân. Nhưng riêng Nguyễn Quang Bích vẫn còn trọn nghĩa vua tôi, ông vẫn thực hiện những nhiệm vụ, chiếu chỉ vua Hàm Nghi ban một cách cẩn trọng và thấu đáo. Nghĩa vua tôi ấy không phải là những tình nghĩa cá nhân tầm thường mà nó thực chất trở thành nghĩa vụ của ông với nhân dân đất nước. Ông cảm nhận một các rõ ràng và sâu sắc khi đất nước phải hứng chịu những mất mát do giặc mang đến, thấu đáo nỗi đau của chính bản thân và nhân dân khi đất nước có nguy cơ bị giày xéo, vùi dập: 22
- Giang sơn cử mục hồn như tạc Phong vũ thương tâm chỉ tự sầu (Di trú Văn Chấn Thượng Bằng La) Dịch thơ: Nước non liếc mắt còn như cũ, Mưa gió thương tâm chửa ngớt sầu. (Dời chỗ ở đến Thượng Bằng La, châu Văn Chấn) Như một lời khẳng định quyền dân tộc, khẳng định cho bờ cõi đất nước, là bản tuyên ngôn đầu tiên nhất của dân tộc Việt Nam, tác giả của bài thơ “Nam quốc sơn hà” khẳng định rằng: Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. (Nam quốc sơn hà) Dịch thơ: Sông núi nước Nam vua Nam ở, Rành rạch định phận tại sách trời. (Sông núi nước Nam) Tiếp nối tác giả đi trước, Nguyễn Quang Bích cũng vô cùng tự hào về truyền thống vẻ vang mà dân tộc ta đã từng có mà khẳng định: Nam vương định phận đế vương châu Tiền sử chiêu chiêu vũ liệt ưu (Ngư Phong họa thi I) Dịch thơ: Non sông trời định cõi Nam bang Võ liệt ghi truyền vẫn vẻ vang. (Thơ họa của ngư Phong I) 23
- Chính vì vậy mà tư tưởng tình cảm của ông luôn luôn gắn chặt với vận mệnh đất nước, với tiền đồ của Tổ quốc nên ông càng rất thù bọn giặc cướp nước và càng thấy có trách nhiệm với xã tắc non sông. Ông quan niệm đã là kẻ sĩ thì suốt cuộc đời không lúc nào được rời khỏi trách nhiệm: Vị hữu quyên ai năng báo quốc, Khả kham bôn thoán cận toàn thân. (Tống quy nhân, cảm tác) Dịch thơ: Chưa chút mảy may đền nợ nước, Lòng nào trốn tránh vẹn riêng thân. (Tiễn người về, cảm tác) Ý thức cứu nước bắt nguồn từ tấm lòng yêu nước chân thành luôn chất chứa trong ông khiến ông không hướng vào bản thân mà hướng vào đất nước, sẵn sàng hi sinh cái riêng vì đất nước lầm than: Cảm tác hương quan nhi nữ niệm, Bức viên đồ bản chúa tâm ưu. (Đối hữu nhân diện đàm) Dịch thơ: Việc nước lòng vua đương bối rối, Phần riêng nhà cửa dám lo âu. (Giáp mặt bạn nói chuyện) Trên con dường đánh giặc ông đang buồn bực và băn khoăn trong suy nghĩ nhưng chợt nhận được tin thắng trận của nghĩa quân thì nỗi băn khoăn buồn bực ấy trong phút chốc tan biến đi thay vào đó là một tâm hồn dạt dào đầy hứng khởi: Gia Nguyên tiệp hỉ liên thời đáo, Thập giải phiên đầu mã tự phi. (Văn Dụ Phong tiệp báo) 24
- Dịch thơ: Gia Nguyên thắng trận tin đồn đến Mười giải phiên đầu phóng ngựa báo (Nghe tin thắng trận ở Dụ Phong) Xây dựng lực lượng bên trong, tập hợp nghĩa quân tiến hành đấu tranh vũ trang là niềm quan tâm lớn nhất nhưng Nguyễn Quang Bích cũng như tất cả các văn thân yêu nước chống Pháp hồi đó đều muốn tranh thủ sự giúp đỡ ở bên ngoài.Ông đặt nhiều hi vọng vào việc cầu viện Trung Hoa, vì vậy cứ mỗi khi nhận được thư Tôn Thất Thuyết gửi về là khi đó ông lại thấy đầy niềm vui tin tưởng: Tối thị hóa cơ hồi chuyển xứ Hỉ tâm bất tận nhạn thanh sơ (Ngư Phong họa thi, VII) Dịch thơ: Đấy cũng cơ trời xoay chuyển lại, Mừng nghe chim nhạn mới đưa tin. (Thơ họa của Ngư Phong, VII) Ông phấn khởi sung sướng biết bao khi được người giúp đỡ trong công cuộc giết giặc cứu nước: Phong kiếm chính khan xung đẩu diễm, Bằng dao phiên tác tỉ nam bồi. (Ngư Phong họa thi, VI) Dịch thơ: Thanh kiếm Phong thành tia sáng dội, Chim bằng Nam hải cánh đang bay. (Thơ hoại của Ngư Phong, VI) 25
- Nỗi phấn khởi, niềm sung sướng đó còn xuất hiện cả trong giấc ngủ, trong cơn chiêm bao của vị nho tướng khi thấy mình đang lặn lội phất cờ cứu nước trong địa lợi, nhân hòa với một tấm lòng nhân nghĩa sục sôi như tuổi trẻ. Lòng yêu nước của Nguyễn Quang Bích gắn liền với tình yêu đồng chí nồng nàn và lòng căm thù giặc sâu sắc. Ở Nguyễn Quang Bích tình yêu thương đồng chí trước hết được bộc lộ ra ngoài bằng một lòng tin tưởng sắt đá vào chí khí và tài đức, một mối cảm phục sâu xa vào những hành động sáng ngời chính nghĩa của các bạn chiến đấu. Tặng Nguyễn Khê Ông người bạn chiến đi sứ ông đã có bài thơ đĩnh đạc, trang trọng: Bất nhục toàn tư quốc sĩ tài, Khả liên tiền độ miệt trần ai. (Tặng Nguyễn Khê Ông thi) Dịch thơ: Thế nước trông vào bậc sứ tài, Thương thay lăn lộn buổi trần ai. (Thơ tặng Nguyễn Khê Ông) Khi nói tới hành động hy sinh tiết liệt của Nguyễn Cao, Nguyễn Quang Bích cho ra những lời thơ tràn đầy hùng khí, bi tráng đồng thời nêu lên được khí tiết anh hùng của Nguyễn Cao: Lâm guy kiến tiết tự thung dung, Tu đối thâu sinh ngữ cánh hùng. Mạ khẩu vị năng đương nhất tử, Dịch trường thí vấn thục phi trung? Giải nguyên thanh gái văn chương ngoại, Bất hủ tinh linh vũ trụ trung. 26
- Bao điển thượng tu tha nhật sự Tranh vanh nghĩa liệt thất cuồng nhung. (Khốc tán lý Cách Pha Nguyễn công tuẫn tiết) Dịch thơ: Nguy nan xử trí vẫn ung dung, Ghê kẻ tham sinh giọng nói hùng. Mắng giặc người xưa tròn phận chết, Moi long ông cũng ỏt gan trung. Biết bao thanh giá ngoài khoa bảng, Còn mãi tinh thần khoảng núi sông. Quân giặc đứng trông đều hoảng sợ, Mai rày nước sẽ biểu dương ông. (Khóc ông Nguyễn Cao tán lý quân vụ, tuẫn tiết) Trong cuộc chiến đấu ác liệt viết quân thù không thể tránh khỏi những tổn thương mất mát về của và người. Một số bạn chiến đấu cũng vắng dần: người hi sinh trong trận đánh, người bỏ mình trên các nẻo đường miền sơn cước, người phải chia tay đi nghĩa vụ, Dù trong bất kể trường hợp nào thì Nguyễn Quang Bích cũng dành cho ộm t tình cảm chân thành gắn bó. Với những người yêu nước bất khuất vì đại nghĩa Nguyễn Quang Bích dành cho họ những lẽ vô cùng thương mến: Bôn bá phong trần nhân, Thâm lâm chướng vụ chưng. Khê trùng huyết chinh y, Phan nhai duyên mộc đẳng. Thiên tỉ vô định cư, Tiểu liêu giá sạn bằng. (Vũ trụ đại khí số) 27
- Dịch thơ: Còn người chạy về để cần vương, Lam chướng rừng xanh thấu cốt tủy. Sâu vắt hút máu áo đỏ hoen, Bám đá vin cây leo trèo lên. Đêm ngày chỗ ở không cố định, Chỉ có lều tranh cùng cỏ phên. (Khí số lớn của trời đất) Còn mối tình với người đã hi sinh thì thật tha thiết. Trong bài văn tế người bạn chiến đấu thân cận nhất là Nguyễn Văn Giáp, Nguyễn Quang Bích ngậm ngùi đau xót: Phi cảm bi công, Thế lộ không ai. (Khốc hiệp đốc quân vụ Nguyễn đại thần văn) Dịch thơ: Kẻ còn người mất, Ngao ngán sự đời. (Văn khóc hiệp đốc quân sự nhà Nguyễn) Ông lại khóc Chu Thiết Nhai, một người bạn Trung Quốc với nhiều dòng tâm huyết tràn đầy nỗi lòng thương yêu khôn xiết đồng thời đây cũng là những lời bộc bạch mối hận thù giặc nghìn đời: Thùy tri khứ lộ khước du du, Nhất biệt hoàn di bách cảm hiu. Lữ xá tha hương như thử nhật, Vị quân hàm hận độc thiên thu. (Điếu Thiết Nhai) 28
- Dịch thơ: Đường đi ai biết nỗi chơi vơi, Một thuở chia ly vạn ngậm ngùi. Ngán nỗi ngày nay nơi đất khách, Vì anh ôm hận đến muôn đời. (Viếng ông Chu Thiết Nhai) Tình cảm của Nguyễn Quang Bích với những người bạn chiến đấu là một mối tình chân thành xuất phát từ lòng yêu nước và chí căm thù giặc. Đó là tình cảm của những người: Như kim ý chí tương kỳ xứ, Quỷ ác hoàn tu tận lực trừ. (Tiễn Ninh Bình Nguyễn tán tương hồi Nam) Dịch thơ: Bằng nay ý chí cùng nhau hẹn, Quỷ ác lo toan hết sức trừ. (Tiễn ông tán tương họ Nguyễn tỉnh Ninh Bình về Nam) Tình cảm của ông với dân với nước được thể hiện một cách giản dị nhưng lại vô cùng chân thành, nó đã tạo nên trong ông một khí thế đấu tranh bất khuất một lòng dạ sắt đá căm phẫn giặc ngoại xâm và bè lũ bán nước đến tận cùng. 2.1.2 Tình cảm gắn bó chân thành với nhân dân lao động Trong những năm hoạt động của Nguyễn Quang Bích ở Tây Bắc, ruộng lúa, nương ngô, đồi sắn tốt tươi, làng bản chất phác đã khơi lên một thứ tình cảm vô cùng chân thành trong ông. Tình cảm ấy bắt nguồn từ những điều nhỏ bé trong cuộc sống hàng ngày, là sự chia bùi sẻ ngọt với nhân dân. 29
- Thấy cảnh nhân dân Chiêu Tấn yên ổn làm ăn, dù rất đơn sơ nhưng ông cũng kịp ghi lại trên trang thơ của mình một cách hào hứng tràn đầy sự chân tình: Gia cư linh lạc bất thành thôn, Thủy lãng hòa cao áp lũng viên. Khước thị nông nhân vi lực thiểu, Khái điền nghênh thủy bộ vân côn. (Kiến Chiêu Tấn hòa) Dịch thơ: Rải rác nhà dân ở những nơi Phủ bờ sóng lúa tốt bời bời Nông dân công sức không là mấy Tưới ruộng xong rồi lại nghỉ ngơi. (Thấy ruộng lúa xứ Chiêu Tấn) Đằng sau những nét miêu tả đơn sơ nhưng người đọc cũng dễ nhận thấy niềm vui sướng của đồng bào khi mùa màng tươi tốt cũng chính là niềm vui của người lãnh đạo suốt đời vì nước vì dân. Trước những ruộng lúa xanh tươi, nương ngô bát ngát, Nguyễn Quang Bích đã vui những nỗi vui lành mạnh của người nông dân trước thành quả của công sức lao động: Hảo nhị Nùng Dao sinh lý dụ, Thử lương lĩnh thượng chính bông bông. (Quảng Lăng đạo trung) Dịch thơ: Nùng Dao đời sống thêm sung túc, Ngô lúa trên đồi đã nở bông. (Trên đường Quảng Lăng) 30
- Dường như thành quả lao động về tay nhân dân đã tiếp thêm sức mạnh cho ông, khiến ông càng quyết tâm chiến đấu với giặc hơn để nhân dân luôn được hưởng cuộc sống thanh bình, ấm no, hạnh phúc. Ngòi bút của ông vô cùng nặng tình trìu mến khi chấm phá về cảnh sinh hoạt của đồng bào miền núi. Khi thấy cảnh nhân dân trồng trọt được mùa màng tươi tốt cảm xúc của ông được xen lẫn bởi niềm vui và tự hào: Sơn điên xứ xứ dũng tuyền ba, Biến tháp sơn yêu nhất vọng hòa. Hạn thực địa nghi lương mạch tú, Thủy canh lũng nhiễu áo bình pha. (Đăng Thái Bình sơn) Dịch thơ: Trên núi nơi nơi nước suối trào, Lúa trồng sườn núi thấp rồi cao. Đất khô chất hợp kê cùng bắp, Ruộng nước bờ cao vũng ớt i ao (Lên núi Thái Bình) Không chỉ dừng ngòi bút của mình trong việc miêu tả cảnh sinh hoạt của đồng bào mà Nguyễn Quang Bích còn rất quan tâm đến phong tục tập quán. Ông hiểu rằng phong tục là một thứ không thẻ thiếu của đồng bào nơi đây và chính phong tục đã giúp cho cuộc sống của người dân nơi đây tươi vui và ý nghĩa: Bất sự nghi văn tồn cổ chất, Tương vong tác tức miệt cơ hàn. (Miêu dân hậu nghinh đệ gia cảm tác) 31
- Dịch thơ: Tục xưa còn giữ không văn sức, Đời sống tươi vui rất dễ dàng. (Được dân Mèo tiếp đón về nhà cảm tác) Điều đáng chú ý hơn cả là trong quá trình thâm nhập cuộc sống của đồng bào miền núi, ông đã nhận thức được đúng đắn giá trị của lao động. Dù đất đai chẳng được trù phú, màu mỡ như những miền đất khác nhưng con người ở nơi đây chưa bao giờ ngơi nghỉ việc lao động sáng tạo để cuộc sống đủ đầy hơn: Thử địa cao du tiển, Mưu sinh đoạt hóa quyền. (Đăng Thái Bình sơn) Dịch thơ: Đất đai không màu mỡ, Mưu sinh cướp hóa quyền. (Lên núi Thái Bình) Đồng bào Mèo không chỉ lao động cần cù mà còn hết sức sáng tạo bởi họ không chỉ sản xuất ra lương thực mà họ còn sản xuất ra cả giấy viết dù bước đầu chưa thực sự được đẹp như giấy miền xuôi nhưng nó đã đánh dấu một bước phát triển của đồng bào nơi đây: Sắc tế vị năng trung thổ hảo Chất kiên hoàn khải viễn lai thùy (Kiến Miêu dân chỉ) Dịch thơ: Đẹp màu kém giấy mạn xuôi đây, Nhưng được dùng lâu cũng ạl i dày. (Thấy giấy của dân Mèo) 32
- Những tình cảm gắn bó và chân thành đó chỉ có thể hình thành và phát triển trong quá trình sinh hoạt với nhân dân, đồng cam cộng khổ với nhân dân trong suốt những tháng ngày gian nan chiến đấu với quân thù.Và tình cảm ấy chỉ thực sự xuất hiện trong trái tim một con người cao cả, tận tụy vì nước quên mình. Bởi vậy nên Nguyễn Quang Bích dù có đi tới đâu cũng được nhân dân ái mộ, tin tưởng. 2.1.3 Tâm trạng bi phẫn vì hoài bão không thành Đọc Ngư Phong thi văn tập ta thấy tâm trạng buồn là khuynh hướng cảm xúc chủ đạo. Đó là khi về đêm nghe tiếng côn trùng rên rỉ, tiếng mưa rơi, tiếng nước suối chảy hay tâm trạng khi ngồi trên mỏm đá mà trông ra không gian khắp chốn vô hạn. Có khi lại là nỗi niềm riêng tư : Nhớ ngày giỗ cha nơi đất khách, sinh nhật cảm tác, tiễn bạn ngậm ngùi nhớ quê xa, Song những nỗi niềm đó không nhiều, nó chỉ nằm ở khía cạnh nào đó trong suy nghĩ của ông bởi nguyên nhân chính tạo nên nỗi sầu trong thơ ông, một nỗi buồn sâu sắc, không thể khuây giải đó là tâm trạng bi phẫn vì hoài bão không thành. Ông là văn thân nặng lòng với nước nhưng vẫn không tránh được khỏi tâm lý bất lực trước sự tàn bạo của quân thù. Có lẽ chính vì vậy mà trong suốt cuộc kháng chiến dù thường trực một tấm lòng và ý chí quyết tâm cứu nước mà tâm trạng của tác giả Ngư Phong vẫn không vui. Khác với các nhà thơ Nam Bộ làm thơ để ca ngợi trực tiếp cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc, họ lấy mục đích dùng ngòi bút để đánh giặc làm chủ đạo. Còn Nguyễn Quang Bích thì khác, ông làm thơ cốt để giãi bày nỗi lòng với trời đất và hậu thế, vì vậy mọi tình cảm của ông đều được bộc lộ hết sức tự do. Ông thể hiện mối sầu của mình qua âm thanh tượng trưng là tiếng khóc của trẻ con trong bài thơ Nhi đề: Si trĩ ninh tri phụ bách ưu, Đề hào nhật dạ thả hưu hưu. 33
- Nhân sinh kỷ đáo vong tình phẩm, Nan đắc vong tình hựu bội sầu. (Nhi đề) Dịch thơ: Thơ bé nào hay nỗi của cha, Ngày đêm kêu khóc tiếng oa oa. Người đời ai dễ quên tình nhỉ, Vì khó quên tình mới xót xa. (Trẻ khóc) Nhạc sầu trải dài thấm đượm trên thơ ông như một điệp khúc thân quen, sầu trong mưa gió, mưa gió trong sầu: Phong vũ thương tâm chỉ tự sầu, Phong phong vũ vũ sử nhân sầu. Dịch thơ: Phong vũ thương tâm chửa ngớt sầu, Mưa mưa gió gió khiến người sầu. Qua sông lớn nhìn thấy cảnh nước chảy thuyền trôi lòng dạ ông chợt ngổn ngang trăm mối: Cổ cổn hồng lưu chú hải nam, Nhất bồng phi hạ đáo gia am. Như kim hồi thủ thiên biên ngoạc, Trường sử chinh nhân vạn bất kham. (Quá Thao hà thượng lưu cảm tác) Dịch thơ: Nước đổ theo dòng xuống biển xa, Cánh buồm thuận gió đến nơi nhà. Giờ đây ngoảnh lại chân trời ngó, 34
- Khiến kẻ chinh nhân dạ xót xa. (Qua thượng lưu sông Thao, cảm tác) Trong chặng đường đi của mình ông bắt gặp nhiều cảnh trời mưa rồi sinh tâm trạng buồn hay một mình xem suối, một mình ngắm mưa, ngắm tiết trời không trăng cũng đủ làm tâm trạng ông se sắt lại không nguôi. Ta sẽ hiểu được rõ hơn nỗi buồn chất chứa trong lòng nhà thơ khi đọc được những vần thơ ông viết lúc uống rượu một mình, nỗi buồn dường như len lỏi vào từng chén rượu, nhà thơ uống rượu như uống những giọt sầu: Nhật gian lưỡng thứ mạn trì bôi, Túy hậu mang mang bạch phát đồi. Đồng sự chư quân vô kiến tiếu, Kỷ đa ưu uất cửu trường hồi. (Độc chước) Dịch thơ: Hai lần cất chén mỗi ngày thường, Say ngất mơ màng mái tóc sương. Đồng sự xin đừng cười bạn lão, Lòng đau chín khúc nát như tương. (Uống rượu một mình) Hay khi tiễn biệt những người bạn chiến đấu lòng Nguyễn Quang Bích nặng trĩu sự cô đơn buồn vắng: Quy nhân dao tống sầu thiêm bội, Độc lập tà dương thính đỗ quyên. (Tống quy nhân) Dịch thơ: Tiễn tống người về sầu gấp bội, Đừng nghe tiếng cuốc bóng chiều tây. (Tiễn người về) 35
- Có lẽ hình ảnh người ở lại cùng với tiếng cuốc kêu chiều tà sẽ ám ảnh người đọc nỗi sầu không ngớt của Ngư Phong. Với một lòng yêu nước nồng nàn, một lòng căm thù giặc sâu sắc Nguyễn Quang Bích đã toàn tâm toàn ý tích cực đóng góp công sức của mình vào phong trào kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Ông tích cực đi cầu viện nhà Thanh để xin quân, xin vũ khí, sử dụng những tướng giỏi quen mạc trận và những phương thức mới để tiêu diệt kẻ thù thế nhưng những điều ông mong đợi đã không đến, dù có chiến đấu, có nhiều thắng lợi khiến quân thù khiếp vía nhưng nó cũng khong đủ làm cho phong trào thóat khỏi vòng vây của sự bế tắc. Dường như Nguyễn Quang Bích đã dự cảm được trước sự thất bại của con đường mình đã chọn nên ông băn khoăn tự hỏi: Nhất độ kinh qua nhất độ sầu, Thao thao giang thủy trướng hồng lưu. Vị nặng thử nhật quy châu phóng, Hựu thả hành gian ngại khứ lưu. (Tái quá Hồng giang thủy chướng bất năng độ) Dịch thơ: Một lượt qua đi một lượt sầu, Nước sông cuồn cuộn đỏ ngầu ngầu. Lần này chưa dễ thuyền về bến, Hai ngả đi về biết định đâu. (Lại đi qua sông Hồng nước to không sang được) Tuy vậy nhưng Nguyễn Quang Bích chưa từng bỏ cuộc, ông vẫn kiên trì, quyết tâm tìm phương sách chiến đấu với giặc mặc dù cũng có khi ông cảm thấy cô đơn không nơi chia sẻ, trút bầu tâm sự: Bi quan độc tự khốc thanh thôn, 36
- Cảm ngã trần duyên vị liễu côn (căn). (Độc Chu Thiết Nhai khíp trung giản hữu thư cảm tác) Dịch thơ: Nức nở thương ai khó nuốt sầu, Với đời còn vướng nợ duyên sâu. (Đọc thư Chu Thiết Nhai gửi bạn còn lại trong tráp, cảm tác) Có những khi tâm trạng buồn của Nguyễn Quang Bích khiến ông “muốn về”: Bán sinh sự nghiệp tổng thành hư, Thập cá hoài trung cửa bất hư. An đắc thái bình như tạc phật, Quy lai nhất thất độc tàn thư. (Tư quy) Dịch thơ: Nửa đời sự nghiệp vẫn thành không, Mười việc trong lòng chín chửa xong. Ước được thái bình như thuở trước, Về nhà sách cũ ọđ c thong dong. (Mong về) Dù có ước mong được trở về nhưng Nguyễn Quang Bích vẫn không hề có ý định từ bỏ con đường chiến đấu. Ông hiểu rằng mơ ước của mình chỉ là vô vọng bởi cái thuở thái bình ngày xưa đâu còn, ông không thể trở về để làm một tri thức nho học thong dong đọc sách mỗi ngày được nữa. Ông hiểu mình phải ở lại để đảm nhiệm vai trò của một vị tướng quân thao lược, tiếp tục lãnh đạo phong trào Cần Vương kháng chiến. Nguyễn Quang Bích có bao điều lo lắng trăn trở thế nhưng trong mười việc có tới chín việc chưa xong, cho nên nếu hiểu được tâm sự ấy của ông thì ta sẽ thấy được nỗi buồn chất chứa trong 37
- tâm hồn ông như thế nào. Nó dường như là một nỗi buồn ngao ngán khi người mất kẻ còn: Kẻ còn người mất, Ngao ngán sự đời. (Văn tế hiệp đốc quân sự đại thần họ Nguyễn) Như vậy tâm sự mang màu sắc bi kịch của Ngư Phong chính là cái mâu thuẫn dai dẳng đeo bám suốt cuộc đời ông, một con người có lòng yêu nước sắt son, ý thức căm thù giặc mạnh mẽ nhưng lại cảm thấy bất lực trước kẻ thù. Chiều sâu trong tâm trạng bi phẫn ấy chính là cái chí chưa thành. Qua việc tìm hiểu thời đại và con người Nguyễn Quang Bích ta có thể thấy rằng nguyên nhân dẫn đến bi kịch của ông là do sự hạn chế nghiệt ngã của giai cấp của thời đại. Vốn xuất thân dòng dõi làm quan nên Nguyễn Quang Bích cũng phần nào thấm nhuần được trong mình ý thức hệ phong kiến “Trung với vua”. Thế nhưng lúc này, xã hội phong kiến lại bước vào thời buổi xế chiều của sự khủng hoảng suy tàn, hàng loạt phong trào khởi nghĩa của nông dân nổ ra để xoa bỏ chế độ phong kiến mục nát, không còn hợp thời. Giữa lúc đó thực dân Pháp lại nổ súng xâm lược ở cửa biển Đà Nẵng bắt đầu cuộc xâm lược nước ta, khiến thực trạng đất nước vốn khủng hoảng lại càng khủng hoảng hơn. Lúc này dân tộc ta nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc Trước tình hình đó người đứng đầu nhà nước là triều đình Huế lại tỏ ra nhu nhược nhượng bộ cho giặc chỉ cốt để giữ vững cái ngai vàng đã mục rỗng. Bởi thế mà triều đình nhà Nguyễn không còn xứng đáng là bậc minh quân để nhân dân tin tưởng, bảo vệ. Là một trung thần nhưng Nguyễn Quang Bích không phụng sự triều đình một cách mù quáng. Ông vẫn giữ cho mình phẩm chất cao quý của một 38
- nhà Nho luôn trung quân ái quốc bằng chứng tiêu biểu là trong cuộc đời mình ông đã nhiều lần đi xứ sang Trung Quốc theo chiếu chỉ của vua Hàm Nghi Còn về tình cảm thì trong suốt thời gian kháng chiến Nguyễn Quang Bích luôn dành cho nhân dân một thứ tình cảm chân thành nhưng ông lại chưa nhận ra được sức mạnh của họ để tập hợp lại trở thành một lực lượng hùng hậu cho nghĩa quân. Ông chưa thấy được sức mạnh của quần chúng, chưa tin tưởng vào tinh thần chiến đấu của quần chúng. Ông chỉ biết dựa vào một số bạn chiến và lực lượng do nhà Thanh viện trợ. Bởi thế khi nhà Thanh rút quân về, một số bạn chiến hi sinh thì tâm trạng bi quan trong ông trỗi dậy. Tất cả những điều nói trên đã tạo thành tâm sự bi đát trong tâm hồn Nguyễn Quang Bích và đó cũng là tâm trạng chung của các văn thân, sĩ phu yêu nước chống Pháp thời bấy giờ. Như vậy ta có thể hiểu tâm sự mang màu sắc bi phẫn trong Ngư Phong thi văn tập của Nguyễn Quang Bích chính là cái chí chưa thành nhưng chưa từng mất trong ông. Dẫu trong tập thơ khuynh hướng buồn là chủ yếu nhưng đọng lại trong tâm hồn độc giả là niềm xúc động chân thành trước một tấm gương luôn trăn trở vì dân vì nước và có trách nhiệm với cuộc đời. 2.1.4 Tình yêu thiên nhiên đất nước Lòng yêu nước của Nguyễn Quang Bích không chỉ được thể hiện ở tình yêu nhân dân, lòng căm thù giặc, mà còn được thể hiện trong tình yêu thiên nhiên. Thiên nhiên trong thơ của Nguyễn Quang Bích là sông Hồng nước đỏ, sông Thao cuồn cuộn màu mưa, là núi cao ngất nghìn trùng, là khe suối khuất khúc rải rác đó đây khắp vùng Tây Bắc bao la. Đặc biệt dưới ngòi bút của Nguyễn Quang Bích thiên nhiên Tây Bắc hiện lên với với những màu sắc độc đáo, những hương vị riêng biệt của nó. Trong Ngư Phong thi văn tập hình ảnh một hòn lèn, một khúc suối hay một dòng thác được hiện lên một cách hùng 39
- vĩ, hiểm trở, sừng sững, dồn dập với những âm thanh lồng lộng của gió, ào ạt của nước đổ. Tất cả các hình tượng và âm thanh đó được Nguyễn Quang Bích phối hợp một cách chặt chẽ để nói lên những tình cảm chân thành của mình. Khi đi qua một dòng thác, cảnh thiên nhiên được ông phác ra một cách hùng vĩ: Ba trung vạn thạch tự toàn ngoan, Thạch kích ba xung nhất hãi quan. (Quá Điền Phong đại than) Dịch thơ: Trong dòng sóng cuộn đá chênh vênh, Sóng vỗ nhô lên ngó rợn kinh. (Qua thác lớn xứ Điền Phong) Nước suối trong cùng với tiếng nước chảy gầm như tiếng sấm tạo nên một sức mạnh vô cùng vô tận: Dũng như lôi phí nhật bôn thoan, Thanh lự băng hồ thấu ngọc hàn. (Tọa thượng thạch quan tuyền) Dịch thơ: Vang như sấm động chảy đùng đùng, Trong như băng tuyết đỏ theo dòng. (Ngồi trên xem đá suối) Từ không gian của những dòng chảy trắng xóa Nguyễn Quang Bích tiếp tục hướng ngòi bút của mình đến tả cảnh núi non hùng vĩ, đó là hình ảnh núi đột khởi chọc thủng chín tầng mây: Thạch phong nhất thốc sổ thiên trượng, Thiên ngoại thiều nghiêu tước bất thành. (Hoài Lai đạo trung) 40
- Dịch thơ: Non xanh một ngọn cao ngàn trượng, Ngất ngửa ngang trời đẽo chẳng nên. (Trên đường Hoài Lai) Việc miểu tả thiên nhiên hoang sơ nhưng rất hùng vĩ dường như đã bồi dưỡng thêm ngọn lửa tin tưởng, củng cố thêm tình yêu và nỗi quyết tâm trong lòng của nhà văn thân yêu nước Nguyễn Quang Bích. Đôi khi một mình một ngựa leo lên núi ngắn nhìn địa thế để làm căn cứ mai phục chiến đấu với giặc, trước cảnh thiên nhiên cao rộng, Nguyễn Quang Bích tự thấy mình vĩ đại với ý chí diệt thù cứu nước: Đồng tâm sơn khả di, Ninh vấn lộ hành lao. (Đăng Thái Bình sơn) Dịch thơ: Đồng tâm chắc hẳn dời trong núi, Đường sá lo chi bước gập ghềnh. (Lên núi Thái Bình) Những bước đi gian khó gặp ghềnh, những trận thế hiểm trở của thiên nhiên mang đến chẳng những không làm cho Nguyễn Quang Bích nhụt chí, nản lòng mà còn làm cho sự quyết tâm của ông lên đến tận cùng. Điều đó được thể hiện rất rõ khi ông đi qua thác Chiến Than, một thác lớn trên sông Đà: Đà thủy tố chau ngại trách than, Chiến Than hựu thị thập phần nan. Thủy thanh bào háo thiên ngưu hống, Thạch duẩn lân tuân vạn giáp toàn. Xà trận uyên diên vu ngạn chử, 41
- Hùng sư ẩn hiện điệp cương loan. (Quá Chiến Than) Dịch thơ: Thuyền ngược sông Đà thác khó lên, Chiến Than thác ấy khó khăn thêm. Nước gieo sùng sục như trâu giống, Đá mọc lô xô tựa mũi tên. Trận thế rắn bò sông uốn khúc, Đoàn quân gấu dữ núi như nêm. (Qua thác Chiến Than) Trước hình ảnh oai linh của núi non, trước màu xanh um tùm của rừng thẳm và bóng mây vờn trên đỉnh núi là hình ảnh người lữ khách với con thuyền trôi giữa dòng sông: Thôi ngôi vạn nhận tiếp huyền khung, Thạch cốt lăng lăng thảo thụ tùng. Nhất phiến cô vân hoành lĩnh thượng, Bán sinh ky khách tọa châu trung. (Hoài Lai đạo trung) Dịch nghĩa: Nghìn non cao vút sát tầng không, Cây cối um tùm, đá chập chồng. Bóng đám cô vân trên đỉnh núi, Thuyền người lữ khách giữa dòng sông. (Trên đường Hoài Lai) Với cách miêu tả của Nguyễn Quang Bích người đọc có thể cảm nhận được thiên nhiên dường như đang ôm sát lấy nhau, cây ôm lấy núi, đá bám sát với rừng. Hơn thế Nguyễn Quang bích còn thật tài tình trong việc lấy thiên 42
- nhiên để nói lên con người mình khi ông đang hướng ngòi bút của mình lên tận tít trên non cao thì ông lại rút ngòi bút xuống dưới tả bóng người lữ khách dưới dòng sông. Con người hiện lên trong bức tranh thiên nhiên tuy nhỏ bé nhưng lại hết sức kiên cường và chính cảnh thiên nhiên ấy khiến cho mọi suy nghĩ, mệt mỏi tan biến hết: Rồi ra chốc lát tiêu tan hết, Có lẽ rồng thiêng cuốn nẻo xa. (Trên đường Hoài Lai) Những lời tâm sự chân thành, những cảm xúc sâu sắc trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, to lớn đã nói lên tấm lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Nguyễn Quang Bích. Ông đã từng trần tình rằng ông chẳng có khiếu làm thơ nhưng vì nhìn cảnh mà sinh tình, bởi thế mà trong những áng thơ của mình lời lẽ của ông rất dung dị, dễ hiểu nhưng mang tinh thần yêu nước vô cùng sâu nặng, là bầu tâm sự khảng khái trước cảnh đất nước chịu sự giày xéo của giặc ngoại xâm. 2.2. Ngư Phong thi văn tập nhìn từ phương diện nghệ thuật 2.2.1. Bút pháp hiện thực Cuộc đời hoạt động chống Pháp bôn ba trên khắp điạ bàn Tây Bắc kéo dài sáu năm hay những chuyến đi gian khổ và ròng rã sang Trung Quốc cầu viện đã tạo cơ hội cho Nguyễn Quang Bích sống giữa thiên nhiên mĩ lệ và hùng vĩ của Tổ quốc. Đồng thời cuộc đời đó đã giúp ông được chung sống cùng đồng bào thiểu số với những phong tục thuần phác và tập quán đẹp đẽ. Nhất là ở đó đã tạo điều kiện cho ông sống sâu sắc nỗi tâm sự u uất và xót xa của những nhà văn thân yêu nước nhưng thấy mình bất lực và linh cảm thất bại đến cùng. 43
- Nguyễn Quang Bích sáng tác được nhiều thơ văn trong quá trình hoạt động cách mạng, thơ văn ông sáng tác ra bất kì ở đâu, vào lúc nào cũng bao hàm một tiếng lòng chân tình trước những cảnh tượng trước mắt hay bên mình: Túy hậu cam miên sạ chuyển tinh, Hô đồng vấn lậu nguyệt tam canh. Lam gian bào háo tòng thiên há, Bất biện tuyền thanh vị hữu thanh. (Sơn Lương trú thứ) Dịch thơ: Tỉnh rượu sau khi ngủ đã vừa, Đồng hồ hỏi trẻ bóng trăng thưa. Trong rừng sầm sập vang trời chuyển, Tiếng suối hay là lại tiếng mưa. (Ở trọ xứ Sơn Lương) Nội dung hiện thực trong thơ ông mặc dù còn bị hạn chế bởi ý thức hệ phong kiến nhưng lại được biểu hiện bằng một hình thức nghệ thuật khá sinh động nên đã tác động khá sâu sắc đến độc giả. Tuy sáng tác bằng chữ Hán nhưng thơ văn của Nguyễn Quang Bích bắt nguồn từ những tư tưởng và tình cảm lớn lao, chân chính của thời đại, của nhân dân mà hình thức của nó không mang tính chất công thức nên nó không bị khô khan mà trái lại chứa chan thi vị và sinh khí. Thiên nhiên hùng tráng hiện lên với những hình khối to lớn, sắc cạnh hòa trộn trong âm thanh của thác đổ, của chim kêu chứ không còn là những cảnh “Ngư, tiều, canh, mục” được thi vị một cách gượng gạo: Tuấn lĩnh thiên trùng lập, Nhiễu khê như thành hào. Loạn thạch tích khê tâm, 44
- Nhất vũ thành ba đào. (Đại Lịch đạo trung, ngộ vũ) Dịch thơ: Núi cao ngất nghì trùng, Khe chảy lượn bao vòng. Lòng khe đá lởm chởm, Mưa xuống sóng đùng đùng. (Gặp mua trên đương Đại Lịch) Hay cảnh thác lớn xứ Điền Phong: Lưỡng ngạn cao sơn bạc Hán vân, Thôi ngôi loạn thạch chướng giang phần. Nộ hào nhật dạ như lôi phí, Tương đối châu trung ngữ bất văn. (Quá Điền Phong đại than) Dịch thơ: Ven sông núi dựng sát mây cao, Đá mọc lòng sông kể siết bao. Nước dội ngày đêm như sấm động, Trong thuyền trò chuyện khó nghe sao. (Qua thác lớn xứ Điền Phong) Thơ văn Nguyễn Quang Bích thường phối hợp khéo léo giữa hai yếu tố thiên nhiên và con người. Thiên nhiên ở đây thường là những nét chấm phá rất đạt, con người ở đây là những người sống thật và xúc động chân thành trước thiên nhiên. Cảnh và tình trong thơ vì vậy mà lúc vui vẻ, lúc vui buồn, khi lạc quan tin tưởng, lúc bi quan tiêu cực bao giờ cũng gắn bó thành một khối thống nhất. Tây Bắc oai hùng với núi rừng trùng điệp, khe suối thăm thẳm, đồi sắn nghiêng nghiêng, ruộng ngô xanh mượt, nhà sàn cheo leo, 45
- dưới con mắt tinh tế của nhà thơ đã được hiện lên với những nét riêng biệt và màu sắc phong phú. Và điều đặc biệt là thiên nhiên trong thơ Nguyễn Quang Bích hiện thực nhưng lại vô cùng sinh động, giàu tính thơ và đậm tình người. Cảnh trong Ngư Phong thi văn tập luôn đi liền với cái tình: Liệu sầu cảnh lý nhân như mộng, Dục ẩm hồ trung tửu bất đa. Dao vọng tự liên hoàn tự thán, Bạch vân thâm xứ kỷ sơn gia. (Man động vũ ậh u cảm tác) Dịch thơ: Cảnh gợi trăm sầu như giấc mộng, Uống vừa ba chén đã hồ không. Nhìn xa than thở thương mình nhỉ, Mây trắng bao nhà khuất ở trong. (Trên động Mán, sau cơn mưa cảm tác) Để biểu hiện đầy đủ và sâu sắc cảnh trên tình, nhà thơ đã sử dụng vốn ngôn ngữ rất phong phú, khi thì trang nhã cổ kính: Nam thiên định phận đế vương châu, Tiền sử chiêu chiêu võ liệt ưu. (Ngư Phong họa thi I) Dịch thơ: Non sông trời định cõi Nam bang, Võ liệt ghi truyền vẫn vẻ vang. (Thơ họa của Ngư Phong I) Có lúc lại đơn giản, mộc mạc như lời ăn tiếng nói của người nông dân cần cù lao động: 46
- Thê cư tuyền hạ tiểu liêu an, Nhứ túc dinh dư tử phụ hoan. (Túc Dao xá) Dịch thơ: Ở yên bên suối túp lều, Vợ con thóc sẵn bông nhiều hả hê. (Nghỉ ở nhà người Dao) Nhờ vậy mà chúng ta có cái hứng thú được thưởng thức rất nhiều bài thơ đạt đến trình độ trong sáng, súc tích có thể so sánh được với những bài thơ Đường giá trị: Vạn thạch lâm giang chướng thủy phần, Nghi nhân độc chướng tọa tà huân. Bất kham sầu thậm ngưng mâu xứ, Kỷ kiếm sơn trung đậu bạch vân. (Tọa thạch độc chước) Dịch thơ: Ghềnh đá bên bờ chặn nước sông, Chỗ ngồi uống rượu rất ung dung. Trông ra cảnh tượng sầu vô hạn, Mây trắng bao quanh núi mấy trùng. (Ngồi trên đá uống rượu một mình) Cũng phải khẳng định rằng, chính vì tình cảm của nhà thơ vô cùng phong phú cho nên trong thực tế sáng tác mọi thể thơ văn đều đã được khai thác triệt để. Bên cạnh những bài thất ngôn tứ tuyệt và bát cú súc tích là những bài ngũ ngôn trường thiên phóng khoáng, những bài văn tế thống thiết và những câu đối đầy tình ưu ái. Nhờ đó thơ văn Nguyễn Quang Bích đã làm 47
- phong phú thêm cho kho tàng văn học dân tộc nhiều mặt, xứng đáng được xếp vào vị trí cao trong trào lưu văn chương yếu nước chống Pháp. 2.2.2. Bút pháp trữ tình Đọc Ngư Phong thi văn tập chúng ta thấy Nguyễn Quang Bích có một tâm hồn nghệ sĩ khá sâu sắc. Tình nghệ sĩ đã chan hòa với tình non nước một cách ấn tượng: Thử tình hợp giữ giang sơn cộng, Vi bả giang sơn túy nhất trường. (Dạ vũ) Dịch thơ: Tình ta chung với tình non nước, Rót cả vào trong một chén vàng. (Mưa đêm) Những cảm xúc của thi sĩ Ngư Phong đều thấm đượm cảm xúc khiến nó gần gũi và chân thành như những trang nhật kí của cuộc đời nhà thơ: chuyện đi đường vất vả, chuyện ngủ trọ bên đường, chuyện chạy giặc, chuyện tiếc thương những người bạn chiến đấu hi sinh, chuyện nhớ cha mẹ, Những đề tài này tưởng chừng như đơn giản nhưng lại làm nên sự đa dạng và đặc biệt trong tập thơ của ông. Giữa Ngư Phong thi văn tập và Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh người đọc có thể thấy được những điểm chung cả về chủ đề lẫn tư tưởng. Tấm lòng ưu thời mẫn thế, quyết tâm đánh giặc vì vận mệnh của đất nước, của nhân dân hiện lên làm xúc động bao trái tim con người đất Việt. Chỉ có một tâm hồn nghệ sĩ và sống hòa hợp với miền núi tây Bắc như Nguyễn Quang Bích mới có thể cảm nhận được hết vẻ đẹp độc đáo của sự vật và miêu tả nó một cách ý nhị nhưng vô cùng tinh tế như vậy. Chẳng hạn xóm nhà cửa rải rác trên non, suối khe “đôi nhánh cửa ngoài” trong Miêu dân hậu nghinh đề gia, cảm tác, hay trong Sơn gia, trong Biên tục, một rẫy lúa tươi tốt 48
- trong Thấy lúa ở Chiêu Tấn, Trên đường Mã Điếm, một cảnh trại, một ánh chiều buồn, một tiếng nước vỗ sóng thuyền trong Đến trạiThanh Bình hạt Thuận Châu, một con suối cô đơn, một đường mòn vắng vẻ. Điều đặc biệt và đáng quý trong thơ ông là luôn sử dụng những sự vật có ý nghĩa biểu trưng cao hay nói đúng hơn là ông đã thổi hồn vào cho những sự vật ấy khiến nó trở nên sinh động lạ thường. Mượn tiếng ve sầu kêu ông diễn tả cảnh sống của nghĩa quân những ngày kháng chiến gian khổ mà trong sạch: Thu điếu thê thân khởi ái cao, Bất kham nê thấp hạ bồng cao. Triêu triêu ấm lộ phù thanh chất, Thời thổ nguyên âm đối ảnh hào. (Văn thiền) Dịch thơ: Đâu phải ưa cao đậu ngọn cây, Không quen bùn thấp cỏ tranh đầy. Uống sương buổi sáng thêm thanh chất, Nhìn tiếng kêu vang dội tiêng bay. (Nghe tiếng ve sầu) Thấy chim đa đa trong núi cứ ra rả một câu: “Đi không được” nhà thơ giật mình kinh hãi: Trường kiến sơn trung “hành bất hành”, Ná kham thính nhĩ, bội tâm kinh. Nhĩ thân tuy tiểu thanh hoàn lệ, Nhược vị hành nhân tố bất bình. (Kiến giá cô) Dịch thơ: Tiếng gáy rừng sâu bước gập ghềnh, 49
- Tai nghe chán nản giục lòng kinh. Thân mày tuy bé nhưng kêu lớn, Kêu hộ người đi nỗi bất bình. (Thấy chim đa đa) Phải chăng chim đa đa kêu to tỏ giùm nỗi bất bình của người chinh nhân trước cảnh đất nước bị giày xéo. Hay khi gặp hoa huệ tác giả lại khẳng định lòng ngay thẳng son sắt vì nước vì dân của mình: Trực cán hảo tòng thiên tế lập, Tố tâm nhất điểm tuyệt trần ai. (Vinh hoa huệ) Dịch thơ: Sừng sững giữa trời thân thẳng tắp, Phau phau lòng chẳng bợn trần ai. (Vinh hoa huệ) Như vậy tác giả đã rất chú ý đi vào sự vật rồi từ sự vật nói lên nỗi lòng của mình có nghĩa là lòng thơ luôn chứa chan tình cảm sâu kín, đó là nét đặc sắc đáng quý trong thơ của Nguyễn Quang Bích. Khi miêu tả thiên nhiên Tây Bắc, tâm hồn thi sĩ Ngư Phong có những rung cảm tuyệt vời, trái tim nghệ sĩ của ông thấm nhuần vào cảnh vật làm cho cảnh vật trở nên sinh động và tráng lệ. Thơ viết về thiên nhiên xưa nay không hiếm, nếu ở giai đoạn trước các nhà thơ viết về thiên nhiên bằng bút pháp ước lệ có sẵn như mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông hay ngư, tiều, canh, mục, gắn với tên tuổi của các thi sĩ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, thì đến giai đoạn văn học này thiên nhiên đã được miêu tả với những nét riêng biệt cụ thể. 50
- Đặc biệt bằng bút pháp tả cảnh, tả tình uyển chuyển, Nguyễn Quang Bích là một trong những người đầu tiên mang đến cho văn học một vẻ đẹp hùng vĩ, tuyệt vời của núi rừng Tây Bắc. Cảnh Tây Bắc hiện lên vừa chân thực vừa thấm đượm chất thơ trữ tình sâu sắc. Phải có một trái tim nghệ sĩ nhạy cảm nhà thơ mới ghi lại được nét linh động của sự vật, phải có một tâm hồn chan hòa với cảnh vật thì nhà thơ mới thấy được vẻ phấn khởi của núi rừng Tây Bắc chào vừng đông vừa hé sáng: Tuyệt điên hiểu phát nghinh tân thự, Bán lĩnh tuyền phi nhạ phún long. (Sơn hành) Dịch thơ Núi chào bóng hé vừng dương sáng, Suối ngỡ rồng phun ngon nước bay. (Đi đường núi) Chỉ với hai câu thơ mà Nguyễn quang Bích đã đặc tả được vẻ đẹp rực rỡ dưới ánh nắng ban mai của núi rừng Tây Bắc. Buổi chiều bóng tà đổ xuống được tác giả khắc họa lại với tất cả những nét sinh động rộn ràng, hối hả và sự sống vẫn tràn trề: Uyển chuyển diên diên vạn lĩnh vi, Gian lưu xuyên kích thạch ngân ky. Tà dương ỷ trạo liêu nhân cấp, Hửu điểu đề hoan lộng thúy vi. (Khai hóa đạo trung) Dịch thơ: Núi non khuất khúc chạy bao quanh, Nước chảy xuyên ngang đá giữa ghềnh. Dưới bóng tà dương thuyền trở gấp, 51
- Chim về cất tiếng đón rừng xanh. (Trên đường khai hóa) Mỗi cảnh vật Tây Bắc hiện lên đều mang dáng dấp riêng nhưng trong thơ của ông thiên nhiên được nói đến nhiều nhất là cảnh núi cao, thác dữ, dòng suối quanh co, Những dịp nằm ở lữ xá, tác giả đã lắng lòng nghe giọt mưa đêm nhỏ giọt, từng dòng suối róc rách tạo nên một bản hòa âm ngân mãi trong tim người nghệ sĩ: Ngũ dạ canh tàn miến bất đắc, Thiềm thanh thê trích hựu tuyền. (Ngộ vũ cư sơn dân sạn ốc) Dịch thơ: Năm canh tràn trọc nằm không ngủ, Giọt nước thềm kêu, tiếng suối reo. (Gặp mưa không đi được, nắn lại nhà sàn của dân miền núi) Đôi mắt nhạy cảm tinh tường của nhà thơ nhìn sâu được vẻ đẹp sáng trong như ngọc của nước suối nơi đầu xa cuồn cuộn giữa trời như tiếng sấm gầm vang: Dũng như lôi phí nhật bôn thoan, Thanh tự băng hồ thấu ngọc hàn. Loạn thạch khả năng nhân tọa ổn, Thùy lâm lão thụ ủy giang can. (Tọa thạch thượng quan tuyền) Dịch thơ: Vang như sấm dậy chảy đùng đùng, Ngọc dồi băng nhỗn một vẻ trong. Lởm chởm đá cao ngồi được vững, Bóng nghiêng cổ thụ rợp bờ sông. (Ngồi trên đá xem suối) 52
- Trong Ngư Phong thi văn tập còn có nhiều bức tranh khá hoàn chỉnh với vẻ đẹp vừa thơ mộng vừa dữ dội ví như trong bài Đại lịch ngộ trung đạo vũ quang cảnh rừng núi trong cơn mưa nguồn hiện lên hết sức sinh động: Tuấn lĩnh thiên trùng lập, Nhiễu khê như thành hào. Loạn thạch tích khê tâm, Nhất vũ thành ba đào. Quan giả câu hãi ngục, Bôn đằng có thiên thao. Tài gian tệc sắc khai, Thủy lạc sơn chính cao. (Đại lịch ngộ trung đạo vũ) Dịch thơ: Núi cao ngất nghìn trùng, Khe chảy lượn bao vòng. Lòng khe đá lởm chởm, Mưa xuống sóng đùng đùng. Người xem đều kinh sợ, Ngang trời nước mênh mông. Chôc lát trời đã tạnh, Nước cạn núi chập chồng. (Gặp mưa trên đường Đại Lịch) Chỉ qua tám câu ngũ ngôn nhưng vẻ đẹp trùng điệp, hùng vĩ và tráng lệ của núi rừng Tây Bắc hiện lên đậm nét. Đó là ộm t vẻ đẹp độc đáo và vô cùng quyến rũ được miêu tả qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ, tạo cho người đọc một cảm giác muốn khám phá và muốn một lần được đặt chân lên miền Tây Bắc thưởng thức. 53
- Nước reo sùng sục như nghìn con trâu đang rống, đá mọc lô xô như hàng loạt những mũi tên, sông uốn khúc tựa như thế trận rắn bò, còn núi mọc như nêm hệt đoàn quân gấu dữ, Tác giả sử dụng biện pháp so sánh một cách đồng loạt để miêu tả sự hùng vĩ của con thác Chiến Than: Thủy thanh bào háo thiên ngưu hống, Thạch duẫn lân tuân vạn giáp toàn. Xà trận uyên diên vu ngạn chử, Hùng sư ẩn hiện điệp cương loan. (Quá Chiến Than) Dịch thơ: Nước reo sùng sục như trâu rống, Đá mọc lô xô tựa mũi tên. Trận thế rắn bò sông uốn khúc, Đoàn quân gấu dữ núi như nêm. (Qua thác Chiến Than) Cách miêu tả thác Chiến Than hùng vĩ gợi ta liên tưởng ngay đến ngòi bút miêu tả con sông đà trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân với một vẻ đẹp hùng vĩ mà không thiếu sự mềm mại, uyển chuyển. Viết về vẻ đẹp kì vĩ trác tuyệt của thiên nhiên, ngòi bút của Nguyễn Quang Bích trở nên linh hoạt đến lạ thường, dường như nét đặc sắc của thiên nhiên Tây Bắc đã nâng tâm hồn ông lên ngang cái hùng vĩ ấy khiến ông thấy sảng khoái và gắn bó hơn với thiên nhiên, con người và miền đất nơi đây. Đặc biệt đọc Hoài Lai đạo trung ta mới thấy hết được tài nghệ của Nguyễn Quang Bích khi miêu tả thiên nhiên, nét đồ sộ hùng tráng kết hợp với nét tinh tế tỉ mỉ: Hà giang giang thượng tố châu hành, Giang gian lưỡng ngạn như thạch thành. 54
- Thạch phong nhất thốc thổ thiên trượng, Thiên ngoại thiều nghiêu tước bất thành. Thạch cốt thủng lập vô thụ xứ, Tuyệt đính tê phan lộ vô cứ. Hoặc tự công nhân nê tố nhiên, Tiêm trác phủ cân bình thiết cứ. Hạ biên đại thạch hám giang phủ, Kì trung động tịch thân dĩ ảo. Châu nhân tuần châu phan thạch hành, Sơn thượng thạch tuyền như cấp vũ (Hoài Lai đạo trung) Dịch thơ: Thuyền ở sông Hoài nước ngược lên, Giữa dòng ghềnh đá dựng hai bên. Non xanh một ngọn cao ngàn trượng, Ngất ngưởng ngang trời đẽo chẳng nên. Vách đá đứng sững cây cối thưa, Không chỗ vin trèo đã khó chưa? Chỗ tựa thờ nề đà đắp sẵn, Chỗ như búa đẽo chỗ như cưa. Đá nghiêng bên sông như người cúi, Có hang rộng rãi sâu và tối. Thuyền đi nhởn nha vịn đá lên, Nước suối chảy xuống như mưa dội. (Trên đường Hoài Lai) Sáu năm dài sống giữa núi rừng Tây Bắc, chịu đựng biết bao gian lao khổ cực trước áp lực của quan thù nhưng trước thiên nhiên tâm hồn Nguyễn Quang Bích vẫn mở rộng để giao hòa cùng vạn vật và từ đó những bài thơ trữ 55
- tình của ông đã ra đời. Trong cách miêu tả của Nguyễn Quang Bích thiên nhiên Tây bắc là cảnh non nước hữu tình chứ không phải là cảnh rừng thiêng nước độc, bức tranh thiên nhiên cũng phần nào tô đậm lên chân dung của ông, một tâm hồn thi sĩ dạt dào. Không chỉ miêu tả thiên nhiên, ngòi bút của Nguyễn Quang Bích cũng vô cùng giàu chất trữ tình trong cách miêu tả tinh thần và khí tiết của Nguyễn Văn Giáp: Khí tiết của Ngài, Sừng sững núi đồi. Tinh linh của Ngài, Sáng rực trên trời. (Văn tế hiệp đốc quân sự đại thần nhà Nguyễn) Hay khi nói về tấm lòng của Chu Thiết Nhai giọng văn cũng trìu ếm n, thân thương xen lẫn cảm kích: “Nhớ anh xưa, học vấn dồi dào, tấm lòng khảng khái, gặp lúc nước tôi sấm mây chuyển động, mà anh không lấy việc trèo non lặn suối, đi lại khó khăn làm ngại, cùng tôi theo đuổi đã gần một năm nay, đấy là sự cảm thông trong đám thanh khí xui nên như thế.” (Văn tế hiệp đốc quân sự đại thần họ Nguyễn). Bởi tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, con người của Nguyễn Quang Bích là vô cùng vô tận nên những sáng tác của ông mang đậm chất trữ tình. Qua sáng tác của Nguyễn Quang Bích cả về thơ và văn ta mới thấy được tài năng của ông được bộc lộ rõ. ằĐ ng sau ngòi bút chấm phá hiện thực về cuộc sống, trữ tình về thiên nhiên và con người ta mới thấy thấp thoáng hiện lên chân dung của một vị lãnh đạo với biết bao những tâm trạng lo toan, buồn vương suốt đời cống hiến nghĩa tình cho dân cho nước. Việc tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật trong thơ ông cũng phần nào giúp ta thấm thía được nỗi lòng yêu nước của các văn thân sĩ phu cùng thời. 56
- KẾT LUẬN Qua việc tìm hiểu và phân tích ở trên chúng ta đã phần nào thấy được một cách khá toàn diện về giá trị nội dung cũng như giá trị nghệ thuật trong Ngư Phong thi văn tập của Nguyễn Quang Bích. Ở tập thơ văn này con người Ngư Phong hiện lên rất chân thực với tất cả phẩm chất đáng quý của một vị chiến tướng, một nhà Nho tri thức đồng thời là một nhà thơ có tâm hồn nghệ sĩ. Trước hết, ông là hiện thân của một tinh thần yêu nước vô cùng nồng nàn, mạnh mẽ. Điều đó được minh chứng khi thực dân Pháp đến xâm lược nước ta, đại bộ phận phong kiến cúi đầu hàng chỉ có Nguyễn Quang Bích và một số sĩ phu yêu nước ý thức được trách nhiệm với đất nước. Ông đã tập hợp với những người có cùng chí hướng tập hợp quân binh lập căn cứ chiến đấu kháng Pháp. Có thể nói, ý thức cứu nước đã ngấm sâu trong máu thịt ông, nó trở thành lí tưởng cao đẹp để suốt đời ông gìn giữ, phấn đấu. Trải qua biết bao khó khăn, gian khổ với những thăng trầm của cuộc sống nơi núi rừng hẻo lánh Nguyễn Quang Bích đã thực sự trở thành vị danh tướng tài ba, lỗi lạc, là linh hồn bất tử trong phong trào kháng Pháp ở núi rừng Tây Bắc. Bên cạnh hình ảnh một con người bất khuất kiên cường Ngư Phong thi văn tập còn in đậm hình ảnh Nguyễn Quang Bích một con người có tấm long nhân ái bao la, có tinh thần nhân văn cao cả. Vì việc chung ông phải gác lại những chuyện cá nhân nhưng từ trong sâu thẳm trái tim ông vẫn ngập tràn tình yêu thương dành cho gia đình, bạn bè, đồng chí, Chữ trung hiếu nhân nghĩa dường như đã vẹn toàn trong tâm hồn con người đáng kính ấy. Tập thơ văn còn giúp chúng ta hiểu Nguyễn Quang Bích có một tâm hồn rất mực thi sĩ. Những sáng tác của ông không chỉ giàu tính hiện thực mà còn đậm chất trữ tình. Tất cả những trang thơ của ông đều hướng về thiên 57
- nhiên và con người nơi núi rừng Tây Bắc, từ những tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim đôn hậu. Tập thơ văn đã đưa Nguyễn Quang Bích đi từ ranh giới của một vị lãnh đạo tài ba sang ranh giới của một thi sĩ chân chính. Hầu hết trong Ngư Phong thi văn tập còn ẩn chứa một tâm trạng buồn không thể che giấu của của một con người có ý chí hoài bão lớn nhưng lại không thành công được. Dù phong trào kháng Pháp ở núi rừng Tây Bắc thất bại bởi hạn chế giai cấp và thời đại bấy giờ nhưng niềm tâm sự mang màu sắc bi kịch của ông vẫn là nỗi ám ảnh trong tâm trí người đọc. Như vậy, Ngư Phong thi văn tập quả là tiếng lòng của nhà thơ, là nơi Nguyễn Quang Bích gửi gắm biết bao tâm tư, tình cảm, là nơi ông được tự do trải lòng mình với bạn đọc. Bởi vậy tập thơ văn không chỉ mang giá trị to lớn trong nền văn học yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX mà còn góp phần làm phong phú hơn kho tàng văn học dân tộc. 58
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (1994), Nguyễn Quang Bích – Nhà yêu nước, nhà thơ, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội 2. Đinh Xuân Lâm (1973), Thơ văn Nguyễn Quang Bích, Nhà xuất bản văn học, Hà Nội 3. Nguyễn Lộc (1976),Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đến hết thếkỉ XIX, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, 1976 4. Bùi Văn Nguyên (1964) Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, Nhà xuất bản văn học, Hà Nội 5. Nhiều tác giả (1965), Giáo trình lich sử văn học Việt Nam, tập IVA, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội 6. Nhiều tác giả (1976), Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỉ XIX (1858-1900) Nhà xuất bản văn học, Hà Nội 59