Khóa luận Hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay

pdf 80 trang thiennha21 16/04/2022 3852
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_hoat_dong_bao_ton_va_phat_huy_cac_gia_tri_cua_lang.pdf

Nội dung text: Khóa luận Hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ ====== VŨ THỊ LUYẾN HOẠT ĐỘNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ CỦA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Triết học HÀ NỘI - 2019
  2. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ ====== VŨ THỊ LUYẾN HOẠT ĐỘNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ CỦA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Triết học Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. Trần Thị Hồng Loan HÀ NỘI - 2019
  3. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện khóa luận, ngoài sự cố gắng của bản thân, em đã nhận được sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè. Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất tới TS. Trần Thị Hồng Loan - người cô đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này. Em xin bày tỏ lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục Chính trị cùng các thầy cô giáo trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giảng dạy, chỉ bảo em trong suốt thời gian qua. Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình cũng như bạn bè đã góp ý, ủng hộ em hoàn thành khóa luận này. Trong quá trình nghiên cứu, với điều kiện hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân nên khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự góp ý, chỉ bảo của quý thầy cô cũng như các bạn sinh viên. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2019 Ngƣời thực hiện Vũ Thị Luyến
  4. LỜI CAM ĐOAN Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của TS. Trần Thị Hồng Loan. Tôi xin cam đoan rằng: Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi và các số liệu trong khóa luận là trung thực. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng 5 năm 2019 Ngƣời thực hiện Vũ Thị Luyến
  5. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ BQLDT&DT: Ban quản lý di tích và di tích CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa CN: Công nghiệp DN: Doanh nghiệp DSVH: Di sản văn hóa DTLS: Di tích lịch sử HTX: Hợp tác xã KHKT: Khoa học kĩ thuật NN: Nông nghiệp PTNT: Phát triển nông thôn TP: Thành phố TTCN: Tiểu thủ công nghiệp TM – DV: Thương mại - dịch vụ UBND: Ủy ban nhân dân XD: Xây dựng
  6. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ CỦA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 7 1.1. Các khái niệm cơ bản 7 1.2. Một số giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội cần được bảo tồn và phát huy 21 1.3. Sự cần thiết phải bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội 25 1.4. Những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng tới hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội 31 Chương 2. THỰC TRẠNG MỘT SỐ GIÁ TRỊ CầN ĐƯỢC BẢO TÔN VÀ PHÁT HUY CỦA CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG 37 2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và đặc điểm hình thành có sự ảnh hưởng đến công tác bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội 37 2.2. Thực trạng một số giá trị cần được bảo tồn và phát huy của các làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội 39 2.3. Nguyên nhân của thực trạng 49 Chương 3. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC VÀ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ CỦA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở HUYỆN PHÚ XUYÊN, 52 THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 52 3.1. Một số nguyên tắc trong việc đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội 52
  7. 3.2. Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội 56 KẾT LUẬN 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 71
  8. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, Việt Nam mang trong mình một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc trong đó thấm nhuần nền văn hóa nông nghiệp, nông thôn. Thực tế lịch sử hình thành và phát triển nông thôn Việt Nam luôn gắn liền với các làng nghề, ngành nghề truyền thống cùng với các sản phẩm đa dạng của nó tạo nên sắc thái riêng của nền kinh tế và văn hóa dân tộc. Từ những đặc trưng về kinh tế - văn hóa - xã hội, tâm lý, tập quán và những điều kiện tự nhiên thuận lợi nên Việt Nam đã tồn tại hàng trăm làng nghề truyền thống với bề dày lịch sử. Làng nghề truyền thống là nơi lưu giữ và phát triển tinh hoa văn hóa của dân tộc với những kĩ năng truyền từ đời này sang đời khác và mỗi làng nghề là một kho báu trong đó lưu giữ một khối lượng đáng kể những tinh hoa văn hóa của dân tộc, nhất là tinh hoa văn hóa cổ truyền. Trong đó, việc hình thành, tồn tại và phát triển các làng nghề truyền thống là một phần không thể thiếu trong tính đa dạng của làng xã Việt Nam. Làng nghề luôn mang trong mình hai yếu tố cơ bản là truyền thống văn hóa và truyền thống nghề nghiệp, hai yếu tố ấy hòa quyện không tách rời nhau đã tạo nên văn hóa làng nghề. Văn hóa làng nghề là sự kết tinh, hội tụ các tập quán xã hội, nghi lễ, lễ hội; tri thức dân gian; nghề thủ công truyền thống của cộng đồng, là sắc thái riêng của từng động cồng, nhóm người ở trong mỗi cộng đồng đó. Phát triển làng nghề không những tạo động lực trực tiếp giải quyết việc làm, sử dụng hợp lý, có hiệu quả lao động ở nông thôn mà còn giúp bảo tồn, duy trì, và phát triển được nhiều ngành nghề truyền thống của dân tộc, tạo điều kiện phát triển đội ngũ nghệ nhân, thợ giỏi, bảo lưu và giữ gìn văn hóa dân tộc. Phú Xuyên là vùng đất nổi tiếng với ít nhất 15 làng nghề thủ công truyền thống (Danh mục di sản văn hóa phi vật thể Hà Nội, 2016) trong đó có các làng nghề đặc biệt nổi tiếng như: làng nghề mây tre đan xã Phú Túc, làng nghề khảm trai Chuyên Mỹ, làng nghề sơn mài thôn Bối Khê, Làng nghề may comple veston xã Vân Từ, Làng nghề Tò he Xuân La, Làng nghề da giầy xã Phú Yên, Làng nghề mộc 1
  9. Đại Nghiệp, Đồng Phố xã Tân Dân, Làng thêu Đại Đồng, Làng nghề bánh kẹo Cổ Hoàng, Các làng nghề với những sản phẩm sáng tạo văn hóa độc đáo có từ lâu đời được trao truyền tồn tại và phát triển cho đến tận ngày nay. Cùng với sự phát triển của đất nước trong những năm gần đây, các làng nghề truyền thống xưa dần thay đổi theo hướng mở rộng, phát triển kinh tế, các sản phẩm ngày một nhiều lên về số lượng, mẫu mã, loại hình. Nhưng tỷ lệ nghịch với sự phát triển kinh tế xã hội là sự mai một của một số giá trị văn hóa cốt lõi tạo nên văn hóa làng nghề. Nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo tồn văn hóa làng nghề như là những di sản văn hóa phi vật thể của làng xã, địa phương và quốc gia, tôi quan tâm đến vấn đề này và mong muốn được thực hiện đề tài nghiên cứu để qua đó góp phần vào việc bảo tồn những giá trị văn hóa làng nghề đó. Vì vậy, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Các làng nghề thủ công truyền thống ở huyện Phú Xuyên dù đã có lịch sử mấy trăm năm thế nhưng phải thừa nhận rằng, mức độ quan tâm của các nhà chuyên môn cũng như sự đầu tư cho việc nghiên cứu để có thể đưa ra những công trình và những đầu sách mang tính chuyên sâu hay giáo trình giảng dạy thì hầu như chưa có, nếu có thì chỉ là những bài viết lẻ tẻ mang tính giới thiệu và quảng bá về nghề và làng nghề mà không hề có một hệ thống nhất định nào. Tuy nhiên mấy năm trở lại đây đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu hơn về làng nghề thủ công truyền thống như: Làng nghề, phố nghề Thăng Long - Hà Nội (2000) của tác giả Trần Quốc Vượng và Đỗ Thị Hảo đã đề cập đến các vấn đề liên quan của làng nghề thủ công, vị trí làng nghề trong diễn trình lịch sử Việt Nam và một số quan điểm phát triển làng nghề mới trong đó có nghề mây tre đan như sau: + Duy trì hình thức sản xuất theo hộ gia đình vẫn là phương thức hiệu quả nhất với nghề thủ công mây tre đan nói riêng và nghề thủ công nói chung. + Tác giả nêu ra một loạt khó khăn cho các làng nghề trong đó có mây tre đan. 2
  10. + Hoàn thiện thể chế chính sách, tạo lập môi trường cho nghề thủ công phát triển là vấn đề cấp bách cần thực hiện sớm. Thúc đẩy du lịch làng nghề, khôi phục phát triển các giá trị làng nghề trong đó có mây tre đan. Đưa ra các giải pháp đi đôi với bảo vệ môi trường như vấn đề xử lý rác thải [28] Cuốn“Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá”của tác giả Mai Thế Hởn, nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội 2003 chú tâm nghiên cứu về làng nghề truyền thống trước thách thức phát triển nhanh chóng của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.[11] Trên Tạp chí Di sản văn hoá số 4 (2003) tác giả Lê Thị Minh Lý có bài viết “Làng nghề và việc bảo tồn các giá trị văn hoá phi vật thể”ở đó tác giả đã nêu lên được tầm quan trọng trong việc gìn giữ và bảo tồn các giá trị văn hoá vốn là di sản của dân tộc, như việc lưu truyền bí quyết nghề nghiệp trong phạm vi làng xã hay những giá trị tinh thần đậm nét được phản ánh qua các tập tục, tín ngưỡng Những tư liệu viết về văn hoá làng nghề nhìn chung rất đa dạng và phong phú qua đó thấy được bức tranh toàn cảnh về lịch sử cũng như tình hình các làng nghề truyền thống ở nước ta hiện nay. Ngoài những công trình nghiên cứu có tính chất thống kê, khái quát về các ngành nghề thủ công thì đã có những khuyên khảo viết về một làng nghề cụ thể như Quê gốm Bát Tràng; làng Đại Bái gò đồng của tác giả Đỗ Thị Hảo. hai chuyên khảo này đã viết khá toàn diện từ phong tục tập quán tín ngưỡng thờ tổ nghề, lễ hội làng nghề đến diện mạo cảnh quan làng nghề, quy trình sản xuất và đặc trưng sản phẩm của làng nghề.[15, tr 68-71] Năm 2013, Tạp chí Doanh nghiệp và thương mại online có đăng bài “Đến với nghề mây tre đan Lưu Thượng xã Phú Túc”của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Lan [13,tr33-38]. Với cách tiếp cận văn hoá, tác giả bài viết đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản của nghệ thuật tạo ra sản phẩm mây tre. Trong đó tác giả đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu để thấy được người dân tại đây đã biết sáng tạo ra những sản phẩm độc đáo từ nguyên liệu thô sơ như cỏ mọc hoang, rồi qua quá trình phát triển họ đã biết kết hợp nhiều nguyên liệu khác như: sợi cói, bèo tây, mây, tre, giang Trên Tạp chí của Bộ xây dựng (2010) có bài viết “Đặc sắc làng nghề mây tre đan ở Hà Nội”trong đó có viết về làng nghề mây tre đan Phú Túc những năm gần đây việc 3
  11. xuất khẩu sản phẩm ra thị trường quốc tế đã có những chuyển biến mạnh mẽ. Hơn nữa làng nghề còn là nơi thu hút số lượng lao động lớn và có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn nét văn hoá truyền thống để từ đó có tiền đề phát triển thành điểm du lịch văn hoá làng nghề.[13] Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều chú trọng đến nghề và làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, chứ chưa có công trình chuyên khảo nào nghiên cứu về bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá, giá trị di sản của các làng nghề thủ công truyền thống ở huyện Phú Xuyên. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu nêu trên là cơ sở nền tảng, tư liệu quan trọng không chỉ giúp tôi định hướng mà còn có thể kế thừa, tiếp thu trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài. Thông qua nghiên cứu chuyên sâu về đề tài tôi hy vọng góp một phần nào đó vào công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá cho sản phẩm thủ công truyền thống mang nhiều công sức và tâm huyết của người dân nơi đây trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội, đề xuất một số biện pháp chủ yếu nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở địa phương này trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nội dung khóa luận cần thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau: Một là, nghiên cứu lý luận về bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. Hai là, nghiên cứu thực trạng các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội hiện nay và nguyên nhân của thực trạng. Ba là, đề xuất một số biện pháp chủ yếu nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. 4
  12. 4. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. 5. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: đề tài tập trung nghiên cứu các giá trị văn hóa, giá trị lịch sử và giá trị kinh tế của một số làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. - Phạm vi không gian: Địa bàn khảo sát ở một số làng nghề truyền thống, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. - Phạm vi thời gian: từ năm 2011 đến năm 2018. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp điền dã, khảo sát thực tế: khảo sát cảnh quan một số làng nghề, lễ hội làng nghề, các sản phẩm đặc trưng, các cơ sở sản xuất, Phương pháp phỏng vấn: phỏng vấn cán bộ huyện Phú Xuyên và các nghệ nhân, thợ nghề, học viên, khách tham quan, để tìm hiểu thông tin, số liệu liên quan đến thực trạng các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. Phương pháp lôgic - lịch sử và phương pháp phân tích - tổng hợp, so sánh, : từ các nguồn ấn phẩm, sách báo, tạp chí, khoá luận, phân tích tổng hợp để lấy các thông tin cần thiết kết hợp với kết quả điền dã từ đó hình thành đề mục viết luận văn. 7. Ý nghĩa của khóa luận Khóa luận nhằm làm rõ sự vận dụng quan điểm toàn diện trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống huyện Phú Xuyên, Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, đề xuất những biện pháp nhằm khắc phục những thiếu sót trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị tại các làng nghề Phú Xuyên. Ngoài ra, khóa luận còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập của sinh viên Khoa Giáo dục chính trị và các khoa, ngành có liên quan. 8. Kết cấu của khoá luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Khoá luận bao gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về bảo tồn và phát huy các giá trị 5
  13. của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. Chương 2: Thực trạng một số giá trị cần được bảo tồn và phát huy của các làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội hiện nay và nguyên nhân của thực trạng Chương 3: Một số nguyên tắc và biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. 6
  14. Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ CỦA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm Bảo tồn * Bảo tồn nguyên vẹn Trước đây đã từng có quan niệm bảo tồn nguyên vẹn, bảo tồn văn hóa được hiểu là các nỗ lực nhằm bảo vệ, gìn giữ sản phẩm văn hóa (vốn được chắt lọc, chưng cất, được thử thách qua nhiều bước thăng trầm của lịch sử) và không gian tồn tại của nó theo dạng thức vốn có. Nghĩa là, những sản phẩm của quá khứ nên được bảo vệ một cách nguyên vẹn như nó vốn có, cố gắng phục hồi nguyên gốc các di sản văn hóa vật chất và tinh thần cũng như cố gắng cách ly di sản khỏi môi trường xã hội đương đại. Song vấn đề đặt ra, văn hóa luôn gắn bó với đời sống con người, với môi trường xã hội trong sự vận động của nó, nhất là di sản văn hóa phi vật thể. Chính vì vậy mà quan điểm bảo tồn nguyên vẹn sẽ không phải là cách tiếp cận của trường hợp nghiên cứu này. Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Liêm có bài viết “Bảo tồn và phát huy” hay “kế thừa và phát triển” văn hoá dân tộc trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” được in trong cuốn kỷ yếu hội thảo 60 năm đề cương văn hoá Việt Nam (1943-2013) có nêu ra quan điểm: “Bảo tồn” là giữ lại, không để bị mất đi, không thể bị thay đổi, biến hoá hay biến thái Như vậy, trong nội hàm của thuật ngữ này, không có khái niệm “cải biến”, “nâng cao” hoặc “phát triển”. Hơn nữa, khi nói đối tượng bảo tồn “phải được nhìn là tinh hoa”, chúng ta đã khẳng định giá trị đích thực và khả năng tồn tại theo thời gian, dưới nhiều thể trạng và hình thức khác nhau của đối tượng được bảo tồn”.[13, tr.269]. * Bảo tồn trên cơ sở kế thừa Bảo tồn trên cơ sở kế thừa những giá trị độc đáo của quá khứ dường như là một xu thế khá phổ biến trong giới học giả hiện nay khi bàn đến giá di sản văn hoá 7
  15. nói chung và quản lý di sản văn hoá nói riêng. Quan điểm này dựa trên cơ sở mỗi di sản văn hoá cần phải thực hiện nhiệm vụ lịch sử của mình ở một thời gian và không gian cụ thể. Khi giá trị di sản văn hoá ấy tồn tại ở không gian và thời gian hiện tại, di sản văn hoá ấy cần phát huy giá trị văn hoá - xã hội phù hợp với xã hội hiện nay và phải loại bỏ đi những gì không phù hợp với xã hội ấy. Tuy nhiên khi bàn về quan điểm này, nhà nghiên cứu văn hóa Ashworth đã nêu ra những đặc điểm cơ bản của bảo tồn trên cơ sở kế thừa như sau: Không chỉ những đồ tạo tác hay những toà nhà mà cả các bộ sưu tập và các di sản khác cũng được bảo tồn dựa vào kế thừa; Các tiêu chí lựa chọn không phụ thuộc vào bản chất bên trong của di sản mà còn phụ thuộc vào những yếu tố nằm bên ngoài, không thuộc về bản chất của di sản; Bảo tồn trên quan điểm kế thừa quan tâm không chỉ đến hình thức mà còn quan tâm đến cả các chức năng của di sản. [1, tr.176-177] * Ngoài hai quan điểm phổ biến trên, trong quan điểm về bảo tồn còn có Quan điểm bảo tồn để phát triển “Những người theo quan điểm này không bận tâm tới việc tranh cãi nên bảo tồn y nguyên như thế nào, nên kế thừa cái gì từ quá khứ, mà đặt trọng tâm vào việc làm thế nào để di sản sống và phát huy được tác dụng trong bối cảnh đương đại. Nếu như quan điểm truyền thống cho rằng độ chân thực (hay tính xác thực) của di sản là cốt lõi của di sản và phải làm thế nào đề đảm bảo kế thừa được sự chân thực đó, thì quan điểm bảo tồn phát triển lại đánh giá thấp vai trò của tính chân thực này. Người ta cho rằng chân thực hay không không phải là một giá trị khách quan, mà nó được đo bằng trải nghiệm. Theo quan điểm này, đối với việc bảo tồn các giá trị làng nghề truyền thống không có mục đích nào được coi là duy nhất, là tốt thượng, là hoàn toàn đúng trong mọi trường hợp”. Từ các giá trị văn hóa truyền thống mang tính đa nghĩa, nhiều mục đích và không ổn định theo thời gian. Đây chính là cách bảo tồn trong phát triển mà một số nhà hoạt động văn hóa đã thực hiện đối với một số loại hình di sản phi vật thể như tổ chức lễ hội như một sự kiện văn hóa, khai thác các diễn xướng dân gian, tổ chức các Festival văn hóa. Ta thấy điểm mạnh của mô hình này là tạo nên sức hấp dẫn 8
  16. đối với công chúng đương đại, tạo nên tính sinh động, độc đáo của di sản, tiếp thêm nguồn sinh khí cho di sản. Tuy nhiên, mặt trái của nó là dễ sa vào tình trạng sân khấu hóa, thương mại hóa di sản dẫn đến tình trạng tầm thường hóa, thậm chí giải thiêng hóa di sản như đã từng xảy ra đối với trình diễn cồng chiêng Tây Nguyên, trình diễn nhạc cung đình Huế, trình diễn ca trù phục vụ khách du lịch. 1.1.2. Khái niệm Phát huy Phát huy trên cơ sở sàng lọc, duy trì và làm phong phú thêm những nét đẹp văn hóa vốn có. Phát huy giá trị văn hóa là những hành động hướng đích nhằm đưa sản phẩm văn hóa vào trong thực tiễn xã hội, trở thành tiềm năng và nội lực góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, mang lại những lợi ích vật chất và tinh thần cho con người. Phát huy giá trị văn hóa - đó là những hành động hướng đích nhằm đưa giá trị văn hóa vào trong thực tiễn xã hội với tư cách vừa là môi trường an toàn để bảo tồn và làm giàu các giá trị văn hóa, vừa là năng lực nội sinh và tiềm năng mang lại những lợi ích về vật chất và tinh thần cho con người, góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội. Phát huy các giá trị di sản văn hóa phải biết kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của đời trước để lại, làm cho các giá trị của di sản văn hóa thấm sâu, lan tỏa vào đời sống cộng đồng xã hội. “Xét về bản chất, mỗi di tích hay mọi sinh hoạt nghệ thuật, lễ hội, tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục tập quán, lối sống nếp sống, hoặc các tri thức dân gian về ngành nghề thủ công, y học, ẩm thực, tất cả đều là những giá trị tồn tại dưới những dạng vật chất cụ thể ẩn chứa phía sau những hoạt động hoặc kết quả của các hoạt động tinh thần của con người trong mọi mối quan hệ với tự nhiên, với xã hội và với chính bản thân mình”. Những giá trị ấy chính là cái “hồn”, một nơi thể hiện rõ nhất những thành tựu, trình độ và bản sắc văn hóa của một cộng đồng tại một không gian và ở một thời gian nhất định. Từ những tích lũy trong quá khứ, qua trường kỳ lịch sử các giá trị đó có thể trở thành một bộ phận quan trọng hợp thành vốn di sản văn hóa quý báu của dân tộc và có thể là của cả nhân loại. Vì vậy, phát huy các giá trị di sản văn 9
  17. hóa phải biết kế thừa có chọn lọc phần “hồn”ấy, sáng tạo thêm, làm cho nó thấm sâu, lan tỏa vào đời sống cộng đồng để cộng đồng nhận diện được giá trị, biết trân trọng những giá trị ấy và tránh có cái nhìn phiến diện và khơi lòng tự hào để chung tay vào bảo tồn di sản văn hóa của địa phương, của dân tộc và của cả nhân loại. Phát huy giá trị di sản văn hóa là để phát triển kinh tế và phát huy là phải biết kế thừa những tinh hoa của đời trước để lại. Những giá trị đó chính là sự đúc kết kinh nghiệm từ thực tiễn, nếu chúng phù hợp với thời đại mới thì cần được phát huy, nếu chúng lạc hậu, lỗi thời thì phải bỏ đi, đồng thời phải biết sáng tạo thêm những cái mới trên nền tảng những cái truyền thống để vừa làm giàu thêm bản sắc văn hóa, góp phần đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của cư dân đương đại đồng thời cũng là cơ hội để tạo ra thêm nhiều sản phẩm du lịch đặc trưng giúp phát triển kinh tế bền vững cho địa phương. Phát huy các giá trị văn hóa làng nghề truyền thống phải biết mở rộng giao lưu văn hóa để làm giàu thêm bản sắc văn hóa và làm thăng hoa giá trị văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa. Lịch sử xưa và nay không có nền văn hóa nào tự thân phát triển bằng sự “đóng kín”mà muốn phát triển phải luôn được bồi đắp bởi nhiều nền văn hóa khác. Do đó, việc giao lưu, mở rộng văn hóa để làm giàu thêm bản sắc văn hóa, đồng thời làm thăng hoa và lan tỏa văn hóa của mình đến khắp nơi luôn là khuynh hướng của mọi cộng đồng, mọi dân tộc, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Tuy nhiên, giao lưu, tiếp nhận những luồng văn hóa khác là cần thiết nhưng tiếp nhận những cái gì và biến đổi như thế nào để không đánh mất đi giá trị văn hóa của địa phương là việc không dễ dàng. Trong truyền thống làng nghề ở huyện Phú Xuyên các giá trị văn hóa làng nghề luôn có sự giao lưu, tiếp biến văn hóa được thể hiện rất rõ nét. Các nền văn hóa Trung Hoa, Chămpa, phương Tây đã từng hội tụ tại các làng nghề Phú Xuyên, nhưng chúng không áp đặt đến văn hóa làng nghề truyền thống của người dân Phú Xuyên, nó được biến đổi và hòa cùng vào văn hóa của người dân nơi đây, tạo thành một văn hóa làng nghề đặc trưng riêng biệt cho huyện Phú Xuyên. Tuy nhiên, trong 10
  18. quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên cần phải làm cho văn hoá các làng nghề trong huyện thăng hoa hơn nữa trong nền văn hoá dân tộc và lan toả ra thế giới. Xung quanh vấn đề phát huy di sản văn hoá phi vật thể cũng đặt ra nhiều vấn đề. Song điều quan trọng hơn cả đối với việc phát huy những di sản văn hoá phi vật thể nói chung và giá trị văn hoá làng nghề nói riêng là làm sao khơi dậy được ý thức của cộng đồng, niềm tự hào của cộng đồng về di sản văn hoá phi vật thể, để di sản văn hoá ấy sống trong cộng đồng đúng như bản chất của nó. Trong công tác phát huy, vấn đề luôn được đặt ra đó là truyền dạy, tuyên truyền, giáo dục trong cộng đồng, nhất là thế hệ trẻ có những hiểu biết về làng nghề với những giá trị văn hoá truyền thống của nó. Chính đây là cây cầu để chúng ta đưa những giá trị văn hoá làng nghề với cộng đồng và hơn thế cộng đồng chính là môi trường không chỉ sản sinh ra văn hoá làng nghề, mà còn là nơi tốt nhất bảo tồn, làm giàu thêm và phát huy nó trong đời sống xã hội. 1.1.3. Khái niệm Giá trị Giá trị trước hết là một một phạm trù triết học, chỉ sự đánh giá những thành quả lao động sáng tạo vật chất và tinh thần của con người. Nó có tác dụng định hướng, đánh giá và điều chỉnh các hoạt động của xã hội nhằm vươn tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp, thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Thuật ngữ “Giá trị”(values) có thể quy chiếu vào những mối quan tâm (interests), những thích thú (duties) trách nhiệm tinh thần (moral obligations), những ước muốn (desires), những đòi hỏi (wants), những nhu cầu(needs), những ác cảm (aversions), những lôi cuốn (attractions) và nhiều hình thái khác nữa của định hướng lựa chọn (Pepper, 1958, tr.7). Nói cách khác giá trị có mặt trong thế giới rộng lớn và đa dạng của hành vi lựa chọn, hoàn toàn có thể cho rằng hành vi theo phản xạ không biểu hiện các giá trị hay sự đánh giá: từ cái nháy mắt bất thần tới cái phản xạ bánh chè hay bất cứ quá trình sinh hóa nào trong cơ thể con người, đều không tạo ra hành vi giá trị. Tuy nhiên, bất kỳ định nghĩa mô tả nào cũng có thể xác định đầy đủ phạm vi và tính đa dạng của những hiện tượng giá trị được thừa nhận. 11
  19. Một khái niệm giá trị có nội hàm rộng, có thuận lợi là hướng sự chú ý vào những yếu tố giá trị có thể có trong mọi hành vi, tránh những yếu tố tự động hay bản năng nghiêm trọng nhất. Một định nghĩa hẹp có ưu điểm là giản đơn và xác định, nhưng có thể dẫn đến sai lầm nếu những hiện tượng bị gạt bỏ không được xem xét thông qua những khái niệm có liên hệ chặt chẽ với ý niệm “giá trị”. Một trong những định nghĩa được chấp nhận rộng rãi hơn trong các tài liệu khoa học xã hội là coi giá trị như những quan niệm về cái đáng mong muốn (desirable) ảnh hưởng tới hành vi lựa chọn. Trong định nghĩa hẹp này có sự phân biệt giữa cái được mong muốn và cái đáng mong muốn, chúng được xem như ngang hàng với cái mà chúng ta phải mong muốn. Đây là một cách nhìn giá trị đã được xã hội hóa cao, nó loại trừ, chẳng hạn, những giá trị thuần túy mang tính hưởng lạc. Trong cách nhìn rộng hơn, thì bất cứ cái gì tốt hay xấu đều là giá trị hay giá trị là điều quan tâm của một chủ thể là con người. Dường như mọi giá trị đều chứa đựng một số yếu tố nhận thức (mặc dù một số định nghĩa không hàm chứa điều này), chúng có tính chất lựa chọn hay hướng dẫn và chúng bao gồm một số yếu tố tình cảm. Các giá trị được sử dụng như là những tiêu chuẩn cho sự chọn lựa khi hành động. Khi đã được nhận thức một cách công khai và đầy đủ nhất, các giá trị trở thành những tiêu chuẩn cho sự phán xét, sự ưa thích và lựa chọn. Bản chất và ý nghĩa bao quát của giá trị là tính nhân văn. Chức năng cơ bản nhất của giá trị là định hướng, đánh giá và điều chỉnh các hoạt động của cá nhân và cộng đồng. Giá trị gắn liền với nhu cầu con người. Ta thấy nhu cầu của con người rất phong phú, đa dạng và được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Chính nhu cầu là động cơ thúc đẩy mạnh mẽ hành động của con người, giúp con người tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần to lớn. Đó là phẩm chất cơ bản cần phải có để đảm bảo con đường sống, chỉ đạo mọi hoàn cảnh thực tiễn. Có những giá trị có thể định lượng bởi một giá, nhưng cũng có những giá trị không thể định giá - vô giá: lòng yêu nước, tình yêu tình bạn, các tác phẩm nghệ thuật, Những hành động của con người vì nhu cầu và thỏa mãn nhu cầu trong quá trình tồn tại của mình ẩn chứa các giá trị văn hóa. Giá trị văn hóa là sự đánh giá mang tính cộng đồng đối với những hiện tượng, sản phẩm văn hóa do con người tạo ra trong bối cảnh xã hội nhất định. Những giá 12
  20. trị đó được coi là tốt đẹp, là có ích, đáp ứng nhu cầu của con người trong mọi thời đại. Một khi những giá trị đó hình thành và được định hình thì nó có tác dụng chi phối những nhận thức, quan niệm, hành vi, tình cảm của con người trong mỗi cộng đồng ấy. Giá trị văn hóa về thực chất là sự khẳng định của con người đối với sự tồn tại vật chất và tinh thần trong đời sống xã hội, quan hệ, trật tự của mình, hành vi, thái độ của mình, khích lệ con người sống và phát triển theo thang giá trị mà cộng đồng xã hội tôn vinh. Bên cạnh những giá trị tổng quát (yêu nước, cộng đồng, cần cù, hiếu học, gắn bó huyết thống và làng bản) còn tồn tại giá trị bộ phận. Giá trị này được thể hiện trong từng lĩnh vực hoạt động của con người như: trong khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên, trong ăn uống, đi lại, phong tục tập quán, lễ hội Những giá trị bộ phận không phải là những thực thể riêng biệt mà chúng góp phần chung đúc nên các giá trị văn hóa tổng quát và ngược lại. 1.1.4. Khái niệm Làng nghề Quan điểm thứ nhất: theo giáo sư Trần Quốc Vượng có viết thì “làng nghề là một làng tuy vẫn còn trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhưng cũng có một số nghề phụ khác như đan lát, gốm sứ, làm tương song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường (cơ cấu tổ chức), có ông trùm, ông cả cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Làng nghề sống chủ yếu bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt hàng thủ công, những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm mặt hàng và có quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng rộng xung quanh và với thị trường đô thị và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra cả nước ngoài”(kỷ yếu hội thảo quốc tế “bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống việt nam”tháng 8/1996. [27, tr.38-39]. Quan điểm thứ hai: “Làng nghề là một thiết chế kinh tế - xã hội ở nông thôn, được cấu thành bởi hai yếu tố là làng và nghề, làng nghề đó tồn tại trong một không gian nhất định trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chủ yếu, giữa họ có những mối liên kết về kinh tế, xã hội và văn hóa”. 13
  21. Quan điểm thứ ba: “Làng nghề là một thực thể vật chất và tinh thần được tồn tại cố định về mặt địa lý, ổn định về nghề nghiệp hay một nhóm các nghề có mối liên hệ mật thiết với nhau để làm ra một sản phẩm, có bề dày lịch sử và được tồn tại lưu truyền trong dân gian”. Về mặt pháp lý, tại Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ quy đinh, theo đó có thể hiểu: Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau. Tác giả Lưu Tuyết Vân trong bài viết “Một số vấn đề về làng nghề ở nước ta hiện nay” đã nêu ra quan niệm về làng nghề như sau: Làng nghề là một làng có nghề tiểu thủ công đã từng tồn tại trong lịch sử hoặc một thời gian nhất định, có sản phẩm hàng hoá nổi tiếng hoặc có khối lượng hàng hoá lớn có vai trò nhất định đối với thị trường trong nước và quốc tế, có số đông người trong làng cùng làm một hoặc nhiều nghề, dân làng sống chủ yếu bằng các nghề đó. Còn các làng nghề truyền thống trước hết phải là một làng nghề, nhưng phải có lịch sử tồn tại lâu dài, đến nay vẫn sản xuất một hoặc nhiều mặt hàng có giá trị trên thị trường trong nước và quốc tế. Khi bàn về làng nghề tác giả đã quan tâm đến ba đặc điểm cơ bản của làng nghề: 1/ Sản phẩm và việc tiêu dùng sản phẩm của làng nghề tại thị trường trong nước và quốc tế. 2/ Số lượng những người tham gia làm nghề so với tỷ trọng số lượng người dân trong làng. 3/ Làng có lịch sử hình thành và tồn tại lâu dài. Khi bàn về làng nghề truyền thống, tác giả nhấn mạnh hai vấn đề chính, thứ nhất là lịch sử tồn tại lâu đời, thứ hai là về sản phẩm nổi tiếng trên thị trường trong nước và quốc tế.” [24, tr.64]. Theo tác giả Phạm Côn Sơn có viết trong cuốn “Làng nghề truyền thống Việt Nam”thì làng nghề theo ông được định nghĩa như sau: “Làng nghề là một đơn vị 14
  22. hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, kỉ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng và làng nghề không những là làng sống chuyên nghề mà cũng hàm ý là những người cùng nghề sống hợp quần để phát triển công ăn việc làm. Cơ sở vững chắc của các làng nghề là sự vừa làm ăn tập thể, vừa phát triển kinh tế, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc và các cá biệt của địa phương” [20, tr11]. Tác giả Trương Minh Hằng đưa ra quan niệm của mình về làng nghề như sau: “Làng nghề gắn liền với các vùng nông nghiệp và người nông dân làm nghề thủ công để giải quyết hợp lý sức lao động dư thừa được cơ cấu theo đặc trưng nông nghiệp là mùa vụ một làng có nghề, đời sống của người dân ổn định và được nâng cao so với các làng thuần nông. Nghề thủ công từ vị trí chỉ là nghề phụ được tổ chức và thực thi vào những khi nông nhàn, rồi về sau nhiều nghề trở thành nguồn thu nhập chính của làng Ở một góc độ nào đó, làng nghề còn mang tính chất của một làng buôn” [9, tr.20-21]. Theo quan niệm trên cần quan tâm đến một số vấn đề cơ bản như sau: người dân trong làng nghề có đời sống ổn định và phần nào được nâng cao hơn so với các làng thuần nông. Nghề thủ công trong lịch sử có thể từ vị trí chỉ là nghề phụ, sau đó trở thành nguồn thu nhập chính của làng. Làng nghề còn mang tính chất là một làng buôn. Nhận định này xuất phát từ thực tiễn khách quan, bởi trên thực tế người dân làng nghề sẽ phải mua các nguồn nguyên liệu để sản xuất hàng hoá và tổ chức tiêu thụ sản phẩm ở các thị trường trong vùng phụ cận của làng nghề. Chính đây là đặc trưng để tạo điều kiện cho làng nghề mở rộng ra bên ngoài thị trường. 1.1.5. Khái niệm Truyền thống Truyền thống là quá trình liên tục trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, để tiến tới điều chỉnh hành vi và thái độ phù hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân, của nhóm, của cộng đồng xã hội. Truyền thống là quá trình chia sẻ, trao đổi hai chiều, diễn ra liên tục giữa chủ thể truyền thống và đối tượng truyền thống và quá trình chia sẻ, trao đổi hai chiều ấy có thể được hình dung qua nguyên tắc bình thông nhau. 15
  23. Truyền thống đó là những tập tục, thói quen và nói chung là những kinh nghiệm xã hội được hình thành từ lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ của con người, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác và có nhiều cấp độ khác nhau. Có truyền thống gia đình, truyền thống của từng địa phương, đơn vị, truyền thống cách mạng, truyền thống dân tộc. Nguyên tắc chung của việc giữ gìn và phát huy truyền thống là phải bảo đảm sự kế thừa biện chứng với 4 nội dung: + “Một là, loại bỏ những yếu tố tiêu cực, phản tiến bộ của quá khứ “(tập tục lạc hậu, tàn dư tư tưởng phong kiến, tâm lý sản xuất nhỏ ). + “Hai là, giữ lại những yếu tố tích cực, tiến bộ” (tinh thần yêu nước, lao động cần cù sáng tạo, tinh thần nhân đạo cao cả ). + “Ba là, ngay cả các yếu tố tích cực, tiến bộ đó cũng không giữ lại nguyên xi, mà phải được cải biến cho phù hợp với điều kiện mới, hoàn cảnh mới”. + “Bốn là, các thế hệ mới phải sáng tạo ra những yếu tố hoàn toàn mới mà các thế hệ cha anh hoặc không có khả năng, hoặc không có điều kiện để thực hiện”. 1.1.6. Khái niệm Làng nghề truyền thống Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18 tháng 2 năm 2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, trang 108 quy định rõ tiêu chí, thủ tục về việc công nhận làng nghề truyền thống, làng nghề, nghề truyền thống: 1. Có tối thiểu 30% số hộ hoặc 50% số lao động làm nghề trong huyện. 2. Có tỷ trọng sản xuất từ ngành nghề công nghiệp, xây dựng, tiểu thủ công nghiệp tối thiệu 50% tổng giá trị sản xuất của làng trong năm. 3. Hoạt động kinh doanh ổn định, tối thiểu 02 năm liền tính đến thời điểm công nhận. 4. Chấp hành đúng đắn các đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, các quy định của chính quyền địa phương. 5. Tiêu chí công nhận làng nghề truyền thống: làng nghề truyền thống phải đạt các tiêu chí công nhận làng nghề theo quy định và có tối thiểu 30% số hộ hoặc 50% số lao động làm nghề truyền thống.[5, tr.108] Tác giả Bùi Văn Vượng cho rằng: “Làng nghề truyền thống là làng cổ truyền làm nghề thủ công. Ở đấy không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ 16
  24. công. Người thợ thủ công nhiều trường hợp cũng đồng thời làm nghề nông (nôngdân). Nhưng yêu cầu chuyên môn hoá đã tạo thành những thợ chuyên sản xuất hàng truyền thống ngay tại làng của mình.”[25, tr.23]. Theo tác giả làng nghề truyền thống phải là một làng có truyền thống lịch sử lâu đời (có thể từ trước năm 1945), có nhiều thợ giỏi và chính họ vừa làm nghề, lại vừa tham gia sản xuất nông nghiệp. Nhưng sản phẩm của những người thợ giỏi đã tạo nên bản sắc của làng nghề nổi tiếng trong và ngoài nước. Nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng cho rằng: “Làng nghề là làng ấy, tuy có trồng trọt theo lối thủ công và chăn nuôi (gà, lợn, trâu ) làm một số nghề phụ khác (thêu, đan lát ) song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có ông trùm, ông phó cả cùng một số thợ và phó thợ đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” sống chủ yếu bằng nghề đó và sản xuất ra những hàng thủ công, những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng hoá và có quan hệ tiếp thị với thị trường là vùng mở rộng xung quanh với thị trường đô thị, thủ đô và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra nước ngoài” [29, tr101]. Ta thấy các làng nghề thủ công truyền thống là trung tâm sản xuất hàng thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề mang tính lâu đời, được truyền đi truyền lại qua các thế hệ, có sự liên kết hỗ trợ trong sản xuất, cũng như bán sản phẩm theo kiểu phường hội, hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí là bán lẻ, họ có cùng tổ nghề, các thành viên luôn có ý thức tuân theo những hương ước, chế độ, gia tộc, cùng phường nghề trong quá trình lịch sử phát triển đã hình thành nghề ngay trên đơn vị cư trú trong xóm của họ. Làng nghề thủ công truyền thống thường có đại đa số hoặc số lượng lớn dân cư làm nghề cổ truyền, thậm chí là 100% dân cư làm nghề thủ công hoặc một vài dòng họ chuyên làm nghề lâu đời, kiểu cha truyền con nối. Tuy nhiên sản phẩm của họ không những ứng dụng cao mà còn là sản phẩm độc đáo, ấn tượng, tinh xảo. 17
  25. Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ngày nay. Làng nghề thực sự là đơn vị kinh tế tiểu thủ công nghiệp có vai trò tác động tích cực rất lớn đến đời sống kinh tế của người dân. 1.1.7. Khái niệm Giá trị của làng nghề truyền thống Giá trị làng nghề truyền thống là sự đánh giá mang tính cộng đồng đối với những hiện tượng, sản phẩm văn hóa do con người tạo ra trong bối cảnh xã hội nhất định. Những giá trị đó được coi là tốt đẹp, là có ích, đáp ứng nhu cầu của con người trong mọi thời đại. Một khi những giá trị đó hình thành và được định hình thì nó có tác dụng chi phối những nhận thức, quan niệm, hành vi, tình cảm của con người trong mỗi cộng đồng ấy. Giá trị làng nghề truyền thống về thực chất là sự khẳng định của con người đối với sự tồn tại vật chất và tinh thần trong đời sống xã hội, quan hệ, trật tự của mình, hành vi, thái độ của mình, khích lệ con người sống và phát triển theo thang giá trị mà cộng đồng xã hội tôn vinh. Giá trị làng nghề truyền thống bao gồm những giá trị về kinh tế, lịch sử và văn hóa- xã hội. Nước ta với một nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, do đặc thù hoạt động theo mùa vụ nên đã tạo ra khoảng thời gian nông nhàn cho những người nông dân. Do nhu cầu sinh hoạt hàng ngày cần có các vật dụng cho nên những người nông dân đã sử dụng thời gian nông nhàn của mình để làm ra các sản phẩm. Lúc đầu nó chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của chính bản thân họ. Sau đó, nó được đem đi trao đổi, buôn bán. Dần dần, hoạt động trao đổi tăng và có nhiều trường hợp đưa lại nguồn lợi nhiều hơn so với nghề làm nông nghiệp. Việc sản xuất những sản phẩm dần được phát triển và chuyên môn hóa. Xuất hiện những làng có thu nhập từ nghề thủ công chiếm tỷ trọng cao hơn nghề nông nghiệp. Thông qua đó thu nhập của những người nông dân ở địa phương đồng thời là thợ thủ công của những làng này trội hơn của những người nông dân ở những làng thuần nông. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà người thợ thủ công thoát ly khỏi nghề làm nông nghiệp. Những sản phẩm nông nghiệp luôn là sự đảm bảo, ổn định cần thiết cho họ. 18
  26. Từ sự tăng trưởng kinh tế làng nghề đã tạo điều kiện cho cộng đồng cư dân có điều kiện xây dựng những công trình tín ngưỡng, tôn giáo quy mô lớn, có giá trị nghệ thuật cao và trong các làng nghề, cùng với việc hình thành đội ngũ thợ thủ công sản xuất tại chỗ cũng xuất hiện những nhóm người đi ra ngoài buôn bán và hành nghề ở xa. Đã hình thành nên những hội, phường buôn. Cho dù buôn đâu, bán đâu, những người này vẫn có những mối liên hệ chặt chẽ với những người làng. Họ xây những nơi thờ vọng Tổ nghề ngay tại nơi sinh sống, buôn bán hàng ngày và bên cạnh đó, họ cũng đóng góp nhiều cho việc xây dựng các công trình công cộng, hỗ trợ tổ chức các hoạt động cộng đồng tại làng. Những lễ hội được tổ chức rầm rộ hơn, dài ngày hơn, nhiều hoạt động hơn. Các sinh hoạt mang tính cộng đồng đa dạng và phong phú này không chỉ thắt chặt mối quan hệ giữa dân làng với những người đi buôn, bán ở xa mà còn giúp cho người dân trong làng liên kết chặt chẽ hơn. Ngoài đặc trưng chung của làng là nơi cộng cảm, cộng cư, trong làng nghề thủ công truyền thống còn là nơi cộng nghề (nơi của những người cùng làm chung nghề). Những người thợ thủ công liên kết với nhau qua các phường, hội. Họ liên kết lại, ngoài việc cùng chia sẻ các công việc liên quan đến nghề thì đó cũng là một sự hợp lực quan trọng, cần thiết và hữu ích để tạo nên sức mạnh chung của làng nghề. Các tổ chức này cũng chính là nơi để giải quyết những mối bất hòa, xung đột trong quá trình cùng làm nghề, buôn bán. Việc hình thành các tổ chức như phường hội cũng góp phần vào việc củng cố, ổn định các mối quan hệ làng xã góp phần vào việc tạo ra sức mạnh tập thể. Đó là tiền đề quan trọng để các thành viên dễ ràng giải quyết những vấn đề tập thể có liên quan tới lợi ích của cả cộng đồng, từng hộ kinh tế gia đình và các thành viên. Văn hóa làng nghề chính là hệ thống những giá trị hình thành qua bao đời trong toàn bộ các hoạt động đó, và đến lượt mình, nó cũng chính là công cụ, là phương tiện tổ chức và duy trì toàn bộ các hoạt động này. Nó đi vào ký ức người Việt Nam bằng hàng loạt những giá trị vật chất và tinh thần rất gần gũi. Thế giới đầy mầu sắc của văn hóa làng được quy ước thành lệ làng đúc kết trong hương ước làng, bộc lộ một cách phong phú qua hội làng. Tất cả chắt lọc lại, tạo nên bản sắc 19
  27. văn hóa làng, mà trong đó tính cộng đồng làng và tính tự trị của làng là những giá trị nổi trội nhất. Bên cạnh đó còn là các phẩm chất quan trọng khác như: tính ưa hài hòa, khuynh hướng thiên về âm tính (mà tính trọng tình, hay tình làng là một biểu hiện của nó), tính tổng hợp và tính linh hoạt. Đến nay đã trải qua các thời kỳ lịch sử của dân tộc, văn hóa làng Việt đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình và sau lũy tre làng, bên giếng làng, dưới mái đình làng, trong bầu không khí thân thương của những ngày hội làng, mọi người sống với nhau nặng tình nặng nghĩa, giúp đỡ nhau lúc tắt lửa tối đèn. Quan hệ láng giềng ràng buộc con người trong nếp sống làng, xã có kỷ cương, trong sáng và thanh cao. Văn hoá làng được sản sinh từ các làng tụ cư cổ truyền ở nông thôn của người Việt. Từ khi xuất hiện làng của người Việt cổ cũng là lúc xuất hiện văn hoá làng, bởi vì văn hoá là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần, cộng đồng dân cư sáng tạo ra trong quá trình tồn tại và phát triển. Đó là những phong tục, tập quán, lối sống, nếp sống, tín ngưỡng, tôn giáo, ma chay, cưới xin Thứ hai là văn hóa làng nghề, Trong cuốn “Từ điển Bách khoa Văn hoá học”của A.A.Radugin xuất bản vào những năm 90 của thế kỷ XX có định nghĩa về thủ công mỹ nghệ dân gian như sau: “Thủ công mỹ nghệ dân gian là một bộ phận quan trọng của nền văn hoá dân gian, dựa trên sáng tạo tập thể phát triển truyền thống văn hoá tại địa phương” [1, tr.521]. Trong công trình “Văn hoá dân gian trong các nghề”của tác giả Robert MsCart đăng trong tác phẩm “Một số thuật ngữ đương đại”của hai tác giả Ngô Đức Thịnh và Frank Proschan đã nêu ra quan niệm về nghề thủ công: “Các khía cạnh biểu cảm của nơi làm việc với sự chú trọng đến đặc biệt đến các chuyện kể, kĩ xảo và nghi lễ được biết đến bằng cách không chính thức và được trao truyền từ thế hệ người lao động này đến thế hệ người lao động khác ” [20, tr.393]. Nghề thủ công Việt Nam gắn liền với làng xã nên việc định dạng thuật ngữ làng nghề là điều tất yếu. Văn hoá làng nghề bao gồm văn hoá làng và văn hoá nghề trong đó văn hoá làng, là nền tảng còn văn hoá nghề được coi là nhân tố quyết định 20
  28. cho sự hình thành nên đặc trưng của văn hoá làng nghề. Các yếu tố cấu thành văn hoá làng gồm: Cơ cấu tổ chức, diện mạo làng xã văn hoá vật thể gồm: đình, đền, miếu, chùa, nhà thờ họ, nhà ở; văn hoá phi vật thể: luật tục, phong tục tập quán, ứng xử giữa xóm làng, lễ hội, tín ngưỡng dân gian Các yếu tố cấu thành văn hoá nghề: thợ thủ công đặt trong mối quan hệ với nghề nghiệp với làng xóm, gia đình, dòng họ ; phường hội nghề, bí quyết và quy trình nghề, tín ngưỡng thờ tổ nghề, tập tục riêng biệt của tổ nghề. 1.2. Một số giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội cần đƣợc bảo tồn và phát huy 1.2.1. Các giá trị văn hóa Trong bản tuyên bố chung tại hội nghị quốc tế ở Mexico do UNESCO chủ trì họp từ 26/7 đến 6/8/1982, người ta chấp nhận một quan niệm văn hóa như sau: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng” [39]. Ở Việt Nam từ quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng - toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”[10, tr.431] đến nội hàm khái niệm văn hóa mà hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương khóa VIII xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy tự phát triển kinh tế - xã hội”[7, tr.54-55]. Giá trị văn hóa ở các làng nghề truyền thống huyện Phú Xuyên từ khi được hình thành trải qua các thời kỳ : thời kỳ phong kiến, thời kỳ chống thực dân Pháp, thời kỳ chống Mỹ, thời kỳ đất nước đổi mới cha ông ta đã gìn giữ và phát huy đến ngày nay, các giá trị văn hóa với đặc trưng là trí tuệ, năng lực sáng tạo, khát vọng 21
  29. nhân văn của con người huyện Phú Xuyên được thể hiện trong hoạt động sống của cá nhân, cộng đồng người trong huyện như: ăn mặc, đi lại, ở, giao tiếp xã hội, giáo dục tập quán tín ngưỡng, văn hóa làng nghề của huyện Phú Xuyên còn thể hiện rất rõ trong quá trình lao động sản xuất tại từng địa phương mỗi làng nghề khác nhau. Mỗi một sản phẩm được ra đời và mỗi một mẫu mã được thiết kế ra cũng thể hiện một nét văn hóa đặc sắc riêng biệt tạo nên các giá trị văn hóa riêng của huyện Phú Xuyên. Các giá trị văn hóa ở huyện Phú Xuyên còn được thể hiện rõ nét qua các lễ hội như: lễ hội truyền thống làng Mai Trang xã Minh Tân, lễ hội nặn tò he thôn Xuân La xã Phượng Dực, lễ hội mây tre đan ở xã Phú Túc Giá trị văn hóa là những thành tựu của một cá nhân hay một dân tộc đã đạt được trong quan hệ với thiên nhiên, với xã hội và trong sự phát triển bản thân mình; nói tới giá trị văn hóa cũng là nói tới thái độ, trách nhiệm, những quy tắc ứng xử của mỗi người trong quan hệ của bản thân với gia đình với xã hội với thiên nhiên; nói tới giá trị văn hóa cũng là nối tới những biểu tượng của chân- thiện- mỹ của những người dân huyện Phú Xuyên. Phú Xuyên là mảnh đất nằm ở phía Nam Thành phố Hà Nội - Thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phú Xuyên có vinh hạnh được sinh ra trong cái nôi của nền văn minh Đồng bằng sông Hồng. Vùng đất cổ xứ Đoài, trấn Sơn Nam xưa. Cho nên còn lưu giữ được những nét văn hóa cổ truyền của dân tộc nói chung và của Kinh đô Thăng Long nói riêng. “Từ trống đồng Hoàng Hạ (xã Văn Hoàng) hiện đang trưng bày tại bảo tàng, đây là loại trống cổ của cả nước, chế tác từ thế kỷ thứ VII trước Công nguyên. Rồi 8 ngôi mộ thuyền tìm thấy ở Châu Can ngày 15/9/1974. Đó là cách mai táng từ thời các Vua Hùng (Cắt một đoạn gỗ to xẻ đôi, khoét rỗng giữa, đặt người chết vào, chằng buộc kỹ đem chôn. Cùng những ngôi mộ tìm thấy ở Xuân La (xã Phượng Dực) mà trong đó đồ tùy táng là những mũi tên bằng đồng”. Trong kho tàng Di sản Văn hóa của huyện Phú Xuyên, không thể không kể đến những Lễ hội cổ truyền nổi tiếng như hội đánh gậy ở Thượng Liễu (xã Tân Dân), hội vật cầu, Hội chạy lợn ở Trại Diền (xã Hồng Thái), Hội rước nước ở Cát Bi (xã Thụy Phú) 22
  30. Ngoài ra, nhân dân Phú Xuyên còn lưu giữ được những chứng tích phi vật thể rất có giá trị như "Hò cửa đình và múa hát bài bông”ở làng Phú Nhiêu (xã Quang Trung). Nghề nặn tò he ở thôn Xuân La (xã Phượng Dực) và hát ca trù ở Chanh Thôn xã Văn Nhân). Ba nơi trên đều được Trung ương Hội Văn Nghệ dân gian Việt Nam công nhận là Địa chí Văn Nghệ dân gian. Đồng thời phong danh hiệu cho các bậc nghệ nhân này. Các làng nghề truyền thống như: Khảm trai sơn mài Chuyên Mỹ, Giầy da Phú Yên, Cỏ tế Phú Túc, mộc Tân Dân, may Vân Từ Phú Xuyên thực sự xứng danh là một vùng Văn hóa đậm đà góp thêm phần làm phong phú đa dạng vào sự phát triển văn hóa của đất nước. 1.2.2. Các giá trị lịch sử Làng nghề truyền thống huyện Phú Xuyên Từ năm 2011, huyện Phú Xuyên chọn ngày 26/10 hằng năm là ngày vinh danh làng nghề của huyện, từ đó đến nay Lễ hội đã tổ chức thành công 5 lần (2 năm quy mô cấp huyện, 3 năm quy mô cấp xã). Năm 2017, Lễ hội tiếp tục được tổ chức quy mô cấp huyện. Sở dĩ huyện thường niên tổ chức Lễ hội vinh danh làng nghề là nhằm tri ân những bậc tiền nhân đã có công truyền nghề. Khuyến khích sự phát triển và tạo cơ hội để quảng bá, tiếp thị, mở rộng thị trường, xây dựng thương hiệu sản phẩm của làng nghề; Biểu dương, khen thưởng, động viên, ghi nhận các tổ chức, cá nhân trên địa bàn huyện có thành tích trong việc đóng góp lữu giữ, xây dựng, phát triển nghề, làng nghề. Bên cạnh đó, Lễ hội còn khẳng định vai trò, vị trí của làng nghề đối với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, xây dựng nông thôn mới của huyện. Đồng thời củng cố, nâng cao giá trị văn hóa, lịch sử của các làng nghề và vị thế mảnh đất, con người Phú Xuyên. “Đồng thời với 101 di tích văn hóa được các cấp công nhận và xếp hạng, đình thôn Giẽ Hạ (Kiến trúc đời Lê Chính Hòa – 1686) đã được xếp hạng cấp quốc gia. Theo Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng đã ghi trong cuốn "Theo dòng lịch sử” NXB -VHTT-Hà Nội-1999 tại trang 374 rằng: "Đình Giẽ Hạ cực kỳ hoành tráng và hiếm quý. Một trong mười ngôi đình còn sót lại đến nay". Rồi bia chùa Diên Phúc, 4 bia đá thời Lê ở cổng đình Giẽ Hạ, trong đó có bia Lê Phúc Thái - 1647 - đứng 23
  31. trên lưng rùa, giống như 82 bia đá ở Văn Miếu - đã được UNESCO công nhận là di sản Văn hóa thế giới”.[26]. “Đình Mai Xá ở xã Quang Lãng, Phú Xuyên Hà Nội thờ Lục vị đại vương, họ Nguyễn tên Vật, Lôi, Quảng, Quán, Linh, Lặc công giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân”.[40]. “Đình Sảo Thượng ở xã Quang Lãng, Phú Xuyên [40] Hà Nội thờ Nguyễn Vật - hiệu Hiển Vật đại vương có công giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân. Đặc biệt, Đạo quân của ông Nguyễn Vật đã tiến về Trường Châu đánh thắng sứ quân Trần Hồ”. “Phú Xuyên còn là một trong những huyện có nhiều tướng nhất trong cả nước: Có tới 9 vị tướng trong một huyện. Đó là: Thượng tướng Phùng Thế Tài, Trung tướng Nguyễn Phúc Thanh, Trung tướng Nguyễn Đức Soát, Trung tướng Nguyễn Đức Sơn, Thiếu tướng Nguyễn Đình Ngọc, Thiếu tướng Hoàng Văn Hoặc, Thiếu tướng Mai Văn Lý, Thiếu tướng Phùng Thế Quảng và Thiếu tướng Nguyễn Kim Cách. Cựu phó thủ tướng Vũ Khoan, ông tổ nghề báo Nguyễn Văn Vĩnh ở Phượng Dực, Tiến sĩ Tạ Đăng Vọng, thủy tổ họ tạ ở Nam Quất Ông Lê bạch hồng,cựu thứ trưởng, Tổng giám đốc bảo hiểm Việt Nam quê ở làng Đào Xá”. 1.2.3. Các giá trị kinh tế Phú Xuyên là huyện có nhiều nghề và nhiều làng nghề truyền thống lâu đời. Nhằm tôn vinh Tổ nghề, tri ân các bậc tiền nhân đã có công tạo dựng nghề và truyền nghề cho các thế hệ con cháu, từ năm 2011 huyện lấy ngày 26 tháng 10 hằng năm là “Ngày vinh danh làng nghề truyền thống huyện Phú Xuyên”. Năm 2011, 2014, 2017 tổ chức Lễ hội vinh danh làng nghề truyền thống cấp huyện; năm 2012, 2013, 2016 tổ chức Lễ hội vinh danh làng nghề cấp xã (Khảm trai, sơn mài Chuyên Mỹ, Da giầy Phú Yên, Cỏ tế Phú Túc). Toàn huyện có 156/156 làng, cụm dân cư có nghề, chiếm 100%, có 78 làng nghề được duy trì và phát triển mạnh; 40 làng nghề đã được UBND thành phố Hà Nội công nhận làng nghề truyền thống. Tiêu biểu là các làng nghề khảm trai (xã Chuyên Mỹ), mây tre đan (xã Phú Túc), chế biến lâm sản, nông sản, thực phẩm, dệt may (xã Vân Từ), cơ khí (thị trấn Phú Minh), dệt lưới chã (xã Quang Trung), da giầy (xã Phú Yên), đồ mộc (xã Văn Nhân, Tân Dân), sản 24
  32. xuất hương (xã Văn Hoàng), bánh kẹo (xã Hoàng Long) Đứng thứ 3/30 quận, huyện của Thủ đô về số làng có nghề.[35] “Số hộ sản xuất TTCN năm 2017: có 24.500 hộ; Số lao động sản xuất TTCN là 39.939 chiếm 37,3 %; Giá trị sản xuất TTCN làng nghề ước đạt 4.550,00 tỷ đồng; Thu nhập bình quân của lao động làm nghề đạt 52 triệu đồng/năm. Có 385 công ty, doanh nghiệp; 06 HTX công nghiệp; 08 tổ chức, quỹ tín dụng; 03 hiệp hội sản xuất, kinh doanh liên quan về sản xuất TTCN, làng nghề”.[35] "Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Phú Xuyên giai đoạn 2008 - 2017 đạt 5,36% năm. Tổng giá trị sản xuất năm 2017 cao gấp 5,56 lần so với năm 2008, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. " - Chánh Văn phòng UBND huyện Phú Xuyên Trương Đại Dương.[32] “Định hướng phát triển kinh tế của huyện Phú Xuyên theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Phú Xuyên lần thứ XXIII đã đề ra đó là: Cơ cấu kinh tế: CN-TTCN- XD chiếm 40%; NN chiếm 26%; TM-DV chiếm 34%. Thu ngân sách tăng 15% trở lên. Xây dựng một nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá ổn định, bền vững, tạo nên giá trị sản xuất cao trên một ha canh tác để cung cấp lương thực, thực phẩm cho thành phố. Tập trung xây dựng khu công nghiệp phụ trợ phía Nam Thủ đô Hà Nội với quy mô khoảng 500 ha, Phát triển tiểu thủ công nghiệp đặc biệt là các nghề truyền thống của địa phương để giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân”. 1.3. Sự cần thiết phải bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội * “Các làng nghề ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội vẫn còn lưu giữ nhiều giá trị có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương” “Phú Xuyên được coi là một trong những mảnh đất vàng cho du lịch làng nghề, bởi nơi đây tập trung nhiều làng nghề nổi tiếng nhất của Hà Nội hiện nay. Nhiều làng nghề được hình thành từ rất lâu đời, cách đây hàng vài trăm năm như: làng nghề khảm trai Chuyên Mỹ có từ thế kỷ XI; nặn Tò he ở Xuân La xã Phượng Dực có cách đây 300 năm; nghề đan cỏ tế ở xã Phú Túc ” 25
  33. “Các làng nghề ở huyện Phú Xuyên ngày càng phát triển cùng với sự phát triển công nghiệp hóa của đất nước đã tạo ra những giá trị kinh tế giúp cho người dân ở địa bàn huyện Phú Xuyên có công ăn việc làm giảm thiểu tình trạng thất nghiệp, các mặt hàng không những được trao đổi buôn bán trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài, bên cạnh những giá trị về kinh tế các làng nghề truyền thống huyện Phú Xuyên còn đem lại những giá trị văn hóa đặc trưng của làng nghề tạo nên sự phong phú, đa dạng góp phần thúc đẩy sự phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước”. Các làng nghề truyền thống ở huyện Phú xuyên đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung ở huyện Phú Xuyên. Những năm gần đây, các làng nghề đã tạo ra sản phẩm, mẫu mã đa dạng, mang đậm nét văn hóa riêng biệt, tìm được thị trường ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng Một số sản phẩm mây giang đan được xuất khẩu sang các nước trên thế giới như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản Phát huy thế mạnh là huyện có nhiều làng nghề để quảng bá giới thiệu sản phẩm, mang lại hiệu quả kinh tế bền vững, thực hiện Nghị quyết Đảng bộ huyện khóa XXIV (nhiệm kỳ 2015 - 2020), Huyện ủy Phú Xuyên đã ban hành Chương trình số 05-CTr/HU về phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch giai đoạn 2015 - 2020. Từ đây, UBND huyện đã tích cực phối hợp với các sở, ngành triển khai xây dựng thương hiệu và tuyến du lịch cho các làng nghề. "Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Phú Xuyên giai đoạn 2008 - 2017 đạt 5,36% năm. Tổng giá trị sản xuất năm 2017 cao gấp 5,56 lần so với năm 2008, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. “(Chánh Văn phòng UBND huyện Phú Xuyên Trương Đại Dương).[32] “Tính đến nay, huyện có 156/156 làng, cụm dân cư làm nghề, chiếm 100%, có 78 làng nghề được duy trì và phát triển. Trong đó, có 9 làng khảm trai, 10 làng đan cỏ tế, 10 làng sản xuất đồ mộc, 12 làng may mặc và làm giày; 40 thôn được TP công nhận làng nghề; 497 công ty, DN, 6 HTX công nghiệp, 3 hiệp hội hoạt động sản xuất, kinh doanh liên quan đến sản xuất tiểu thủ công nghiệp (TTCN), làng nghề. Hiện, toàn huyện có 24.500 hộ sản xuất TTCN, với 39.939 lao động, chiếm 37,3%. Giá trị sản xuất TTCN làng nghề ước đạt 4.550 tỷ đồng, thu nhập bình quân lao động làm nghề đạt 52 triệu đồng/năm. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các 26
  34. DN, làng nghề ngày một phát triển góp phần giải quyết việc làm, thúc đẩy phát triển kinh tế.” [35] “Cùng với quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế là quá trình phát huy thế mạnh du lịch. Trưởng phòng Kinh tế huyện Phú Xuyên Nguyễn Hữu Chi phấn khởi cho biết: Thời gian qua, sản xuất công nghiệp - xây dựng từng bước tăng trưởng mạnh mẽ, tỷ trọng ngành trong cơ cấu kinh tế tăng từ 51% năm 2008 lên 66,05% năm 2017. Tính đến giữa năm 2018, số làng nghề của huyện tăng 32 làng so với năm 2008. Trong đó, số làng được công nhận làng nghề truyền thống tăng từ 37 làng năm 2008 lên 43 làng năm 2018. Số lượng làng nghề ngày một tăng đã giúp giải quyết việc làm cho lao động trong các làng nghề và vùng phụ cận. Nhờ có làng nghề, đời sống Nhân dân được cải thiện, đẩy lùi số hộ nghèo, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội.”[32] Chủ tịch UBND huyện Phú Xuyên Nguyễn Ngọc Sơn chia sẻ, thời gian qua, UBND huyện cùng các cơ quan, Doanh nghiệp gấp rút hoàn thiện đưa vào hoạt động khu công nghiệp hỗ trợ Nam Hà Nội rộng gần 80ha và 3 cụm công nghiệp làng nghề xã Đại Thắng, Phú Túc, Phú Yên. Cùng với đó, 11 xã đã bố trí được 227,78ha đất để quy hoạch thêm 19 cụm công nghiệp làng nghề. Đây được coi là tiền đề quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế và du lịch làng nghề. “Nhờ có sự quan tâm của thành phố và huyện trong việc đầu tư vào du lịch làng nghề giúp số lượng khách du lịch đến tham quan, mua sắm tại làng nghề ngày một tăng. Từ năm 2016 đến nay, toàn huyện đã thu hút trên 300 đoàn khách trong và ngoài nước với gần 6.000 lượt người đến tham quan, mua sắm các sản phẩm làng nghề”.[32] “Bên cạnh đó các làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên còn góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động ở nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo: Người nông dân tham gia sản xuất nông nghiệp thường theo mùa vụ nên thường xuyên có những thời gian nhàn rỗi dẫn đến dư thừa sức lao động. Trong lúc nhàn rỗi, người nông dân có thể tham gia vào sản xuất các sản phẩm truyền thống. Không những sức lao động sẽ được sử dụng triệt để mà việc sản xuất còn tăng thu nhập cho các hộ gia đình, đảm bảo cuộc sống. Đặc biệt, các ngành 27
  35. nghề truyền thống không kén chọn nên có thể sử dụng lao động với độ tuổi rất phong phú. Có thể là người già, trẻ em và cả người khuyết tật. Chính vì thế, làng nghề truyền thống đã, đang và sẽ giải quyết vấn đề việc làm cho rất nhiều người, giảm bớt gánh nặng cho nhà nước”. Bên cạnh việc thúc đẩy kinh tế phát triển thì cùng với đó là sự phát triển của văn hóa, xã hội. “Theo Bà Phạm Hải Hoa - Bí thư Huyện ủy Phú Xuyên: Năm 2017, với sự quyết liệt trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành, huyện Phú Xuyên đã đạt được những kết quả quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội. Tổng giá trị sản xuất đạt trên 8.000 tỷ đồng (bằng 102,1% kế hoạch đề ra); Trong đó: Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản là 1.604,3 tỷ đồng (đạt 100,5% kế hoạch, tăng 3,16% so với năm 2016). Giá trị sản xuất Công nghiệp - Xây dựng 4.861,4 tỷ đồng (đạt 102,2% kế hoạch, tăng 9% so với năm 2016). Giá trị sản xuất Thương mại - Dịch vụ là 1560.01 tỷ đồng (đạt 103,7% kế hoạch, tăng 7,8% so với năm 2016). Tốc độ tăng trưởng kinh tế cả năm đạt 7,2%, vượt kế hoạch đề ra (từ 6,5-7,0%).”[37] “Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tính đến ngày 30/11/2017 là: 172 tỷ đồng (đạt 162% so với dự toán thành phố Hà Nội giao 172/106 tỷ đồng; đạt 107,5% so với dự toán HĐND huyện giao 172/160 tỷ đồng). Trong năm 2017, trên địa bàn huyện Phú Xuyên có 5 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; Có 7 trường công lập đạt chuẩn quốc gia và có 04 xã hoàn thành Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Đời sống văn hóa xã hội của người dân được đáp ứng và ngày càng được nâng cao.” [37] * Việc bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội góp phần quan trọng vào công tác bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở nước ta nói chung. Từ đó, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. “Đánh giá về tiềm năng phát triển du lịch làng nghề ở huyện Phú Xuyên, ông Nguyễn Xuân Hoản - đại diện Sở Nông nghiệp và PTNT Hà Nội - cho biết: “Việc phát triển du lịch làng nghề sẽ khai thác được giá trị văn hoá của nghề, làng nghề và 28
  36. hỗ trợ phát triển sản xuất, quảng bá thương hiệu, tăng cường khả năng tiêu thụ sản phẩm theo hướng “xuất khẩu tại chỗ”thông qua chào bán sản phẩm cho khách du lịch đến địa phương”.[38]. Và rõ ràng, trên thực tế, các làng nghề ở Phú Xuyên ngoài các sản phẩm truyền thống, còn có rất nhiều tiềm năng về du lịch gắn liền với giá trị về cảnh quan, sinh thái, di tích văn hoá đình, chùa, ẩm thực và các làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên không những đem lại những giá trị văn hóa lịch sử mà còn mang lại những giá trị kinh tế nhằm phát triển kinh tế làng nghề góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước.” “Phát huy các giá trị làng nghề truyền thống kết hợp với mở rộng giao lưu văn hóa đã làm giàu thêm bản sắc văn hóa và làm thăng hoa giá trị văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa.” “Từ xưa đến nay không có nền văn hóa nào tự thân phát triển bằng sự “đóng kín” mà muốn phát triển phải luôn được bồi đắp bởi nhiều nền văn hóa khác. Vì vậy, việc giao lưu, mở rộng văn hóa đã làm giàu thêm bản sắc văn hóa, đồng thời làm thăng hoa và lan tỏa văn hóa của mình đến khắp nơi luôn là khuynh hướng của mọi cộng đồng, mọi dân tộc, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.” * Các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội hiện nay đang có nguy cơ bị mai một do tác động của nền kinh tế thị trường và do việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang bùng nổ, với sự mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại sự đa dạng sản phẩm của các làng nghề truyền thống của huyện Phú Xuyên không chỉ buôn bán trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài và chịu sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường. “Tuy nhiên ngày nay, việc giữ được những nghề truyền thống là vô cùng khó khăn, khi có thầy giỏi, nhưng trò lại hiếm, và để có thể học nghề rồi trở thành một nghệ nhân còn là một con đường dài hơn nữa. Nhiều nghề truyền thống đang dần bị mai một, nhiều làng nghề truyền thống dần bị mất đi, hoạt động đơn lẻ. Nó kéo theo việc mất đi giá trị kinh tế có đóng góp không nhỏ trong sự phát triển kinh tế đất 29
  37. nước, trong việc quảng bá hình ảnh của Việt Nam bởi mảnh đất vàng cho du lịch làng nghề truyền thống huyện Phú Xuyên một trong những nét đẹp truyền thống, văn hóa truyền thống của người Việt. Vì vậy, việc tìm biện pháp để bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống là cần thiết ” “Trong thời kì hội nhập quốc tế, chuyển dần sang nền kinh tế thị trường, công nghiệp hóa hiện đại hóa, các làng nghề truyền thống đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách. Có hai nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này. Nguyên nhân khách quan là do sản phẩm làng nghề làm ra không có thị trường tiêu thụ. Thay vì sử dụng những sản phẩm thủ công, khách hàng sẽ ưu tiên lựa chọn những sản phẩm công nghiệp có giá thành rẻ và nhiều mẫu mã hơn. Nguyên nhân chủ quan phát triển từ chính bên trong các làng nghề truyền thống. Số thợ làng nghề, các nghệ nhân đã ở tuổi “xưa nay hiếm”, còn lớp trẻ chưa thật sự có tình yêu với nghề truyền thống. Chính vì vậy, trước biến cố của thời gian, nhiều làng nghề đang có nguy cơ bị xóa sổ. Ví dụ như làng nghề khảm trai truyền thống xã chuyên mỹ đặc biệt là ở thôn Thượng phát triển mạnh mẽ làng nghề trong giai đoạn năm 2002 đến năm 2010 trong thôn chiếm đến hơn 95% hộ gia đình làm nghề khảm trai truyền thống, Tuy nhiên trong giai đoạn mấy năm gần đây từ năm 2015 đến năm 2019 thì trong thôn đã giảm đi số lượng hộ gia đình làm nghề truyền thống chỉ còn đến 70%. Tiếp đến là làng nghề đan võng thôn Thao Nội đã giảm từ 90% hộ gia đình theo nghề xuống còn 65%. Làng nghề đan tơ lưới thôn Thao Ngoại cũng giảm đáng kể và không còn phát triển mạnh.” “Một số làng nghề truyền thống cần được tạo điều kiện để góp phần bảo tồn và phát triển như: Làng nghề đan võng thôn Thao Nội (xã Sơn Hà, huyện Phú Xuyên); Làng nghề đan tơ lưới thôn Thao Ngoại (xã Sơn Hà, huyện Phú Xuyên); Làng nghề đan guột tế thôn Trung Lập (xã Trí Trung, huyện Phú Xuyên); Làng nghề thêu Đại Đồng (Thị trấn Phú Xuyên, huyện Phú Xuyên), làng nghề khảm trai truyền thống (thôn ngọ, xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên) ” “Nhà nước, chính quyền địa phương cần phải có những biện pháp hỗ trợ để quy hoạch và phát triển làng nghề. Bên cạnh đó, chính bản thân các làng nghề cần 30
  38. phải có những bước thay đổi về mẫu mã, tích cực quảng bá thương hiệu, để giúp làng nghề tồn tại trong thời kì đổi mới và cả sau này.” 1.4. Những yếu tố chủ yếu ảnh hƣởng tới hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội 1.4.1. Các văn bản, chính sách đối với hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống “Chính sách của nhà nước ảnh hưởng lớn tới sự tồn tại phát triển của làng nghề. Trong một thời gian dài trước đây (mà chúng ta thường gọi trước đổi mới), chúng ta phủ nhận các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Chính vì vậy hoạt động sản xuất kinh doanh trong làng nghề đều là hợp tác, tập thể với chế độ ăn chia quân bình cho các lao động khoẻ, yếu già trẻ, làm nhiều, ít, tích cức hay không tích cực đều ngang nhau. Trên thực tế chính sách này không kích thích được sự phát triển kinh tế nói chung và kinh tế làng nghề nói riêng. Nhận thấy những hạn chế trong đường lối chính sách phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới mà quan trọng nhất là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Trong sự đổi mới này Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế (như kinh tế hộ, kinh tế tư nhân ). Chính sách kinh tế mới đã phù hợp với mong muốn của nhân dân và thời kỳ mới nên đã thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế. Các làng nghề có điều kiện thuận lợi để khôi phục và phát triển.” “Từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), đặc biệt sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (1988) với chính sách kinh tế nhiều thành phần, hộ gia đình được công nhận là chủ thể kinh tế thì các làng nghề phát triển mạnh mẽ.” “Sau những năm 1990, mô hình kinh tế thị trường và chính sách mở cửa, đặc biệt quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện mở rộng thị trường cho làng nghề, đồng thời còn làm cho làng nghề phải cạnh tranh với nhiều loại sản phẩm trên thị trường.” “Nhờ có các văn bản chính sách của Nhà nước về hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống huyện Phú Xuyên đã góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động ở nông thôn, góp phần xóa đói giảm 31
  39. nghèo: người nông dân có thể tham gia vào sản xuất các sản phẩm truyền thống. Không những sức lao động sẽ được sử dụng triệt để mà việc sản xuất còn tăng thu nhập cho các hộ gia đình, đảm bảo cuộc sống. Đặc biệt, các ngành nghề truyền thống không kén chọn nên có thể sử dụng lao động với độ tuổi rất phong phú. Có thể là người già, trẻ em và cả người khuyết tật. Chính vì thế, làng nghề truyền thống đã, đang và sẽ giải quyết vấn đề việc làm cho rất nhiều người, giảm bớt gánh nặng cho nhà nước đồng thời đời sống xã hội của người dân được cải thiện và nâng cao cũng góp phần thúc đẩy hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống trong huyện.” 1.4.2. Sự nhận thức và trình độ tay nghề của con người tham gia vào quá trình sản xuất ở các làng nghề truyền thống Các làng nghề ở Phú Xuyên là kết hợp giữa làm ruộng với nghề thủ công lúc nông nhàn nhưng mỗi người thợ thủ công đều trân trọng giá trị làng nghề, họ luôn nhắc nhở con cháu phải sống chết với nghề, vì với họ nghề của mình như hơi thở, như một nét truyền thống văn hóa không thể nào thiếu. Dù đã có những lúc trong lịch sử, do những biến động xã hội mà nghề phải trải qua những thăng trầm biến cố tưởng như không thể gượng nổi nhưng với lòng yêu nghề, những người thợ thủ công làng nghề Phú Xuyên đã gìn giữ được nét văn hóa làng nghề cho đến tận ngày nay, điều này thể hiện rõ nhất thông qua lịch sử trăm năm tồn tại và phát triển của các làng nghề nơi đây. Trân trọng các giá trị làng nghề còn được thể hiện ở việc người dân huyện Phú Xuyên từ lâu đời đã có những thiết chế tôn vinh các nghệ nhân trong làng có công lưu giữ và truyền dạy những bí quyết nghề gia truyền bằng hình thức ghi công vào gia phả của làng nghề. Ứng xử của những người làm nghề tại Phú Xuyên với xã hội đầu tiên được thể hiện ở chữ tín trong kinh doanh. Dân ta có câu: “Một lần bất tín, vạn lần bất tin”. Ví dụ như hương ước của làng nghề mây tre đan Phú Túc ghi rõ: Người nào làm đồ giả để lừa người khác, gây sự bất tín thì phải phạt thật nặng, đem đánh đòn và xóa tên khỏi phường nghề. Điều này chứng tỏ chữ tín luôn được dân làng nghề Phú Túc nói riêng cũng như các làng nghề ở huyện Phú Xuyên rất coi trọng, nhưng chữ tín của 32
  40. người thợ thủ công không chỉ dừng lại ở sự coi trọng mà còn chính là đạo đức nghề nghiệp và trình độ của người thợ. Chữ tín cũng như trình độ tay nghề đối với người dân làng nghề được đánh giá qua chất lượng sản phẩm, bởi thời gian giao hàng, quan hệ khách hàng, bạn hàng, quan hệ giữa một bên là cung cấp nguyên nhiên liệu, một bên là người sản xuất và những người làm thuê. Tất cả những yếu tố này được thể hiện rõ nhất qua số lượng sản phẩm tiêu thụ và chất lượng sản phẩm. Số lượng sản phẩm bao nhiêu và chất lượng sản phẩm bao nhiêu thể hiện uy tín của làng. Muốn giữ uy tín thì phải có sản phẩm tốt, muốn làm được như vậy thì người thợ thủ công phải tỉ mẩn trong từng công đoạn, từ việc chọn lựa nguyên liệu cho đến khâu thành phẩm. Chính vì vậy trong làm ăn thì chữ tín được đặt lên hàng đầu, chữ tín nó thể hiện ở trình độ nhận thức của người làm nghề cao hay thấp và nó cũng thể hiện một phần trình độ tay nghề của người nghệ nhân và hai yếu tố này cũng góp phần thúc đẩy quá trình bảo tồn và phát huy các giá trị làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên. 1.4.3. Chất lượng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và lưu thông các sản phẩm ở làng nghề truyền thống “Cơ sở hạ tầng ở các làng nghề nói riêng còn nghèo nàn, có nhiều cản trở sự phát triển các làng nghề. Mặc dù hiện nay hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống điện phần nào đáp ứng được nhu cầu cho các làng nghề tuy nhiên đang còn nhiều bất cập, giao thông còn khó khăn, ách tắc do vậy việc giao lưu kinh tế phát triển, thị trường tiêu thụ sản phẩm không chỉ ở địa phương mà còn vươn tới thị trường gặp nhiều cản trở hơn nữa nguồn nguyên liệu phải vận chuyển từ các nơi xa về thì hệ thống giao thông quyết định trực tiếp chi phí hạ giá thành.” “Hệ thống cung cấp điện nước tốt, giá rẻ không qua các đơn vị quản lý trung gian, sẽ giúp làng nghề sản xuất liên tục, giảm chi phí, tăng năng suất, đảm bảo chất lượng sản phẩm. Tiếp theo, hệ thống dịch vụ thông tin tốt sẽ giúp các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề nắm bắt kịp thời những thông tin về nhu cầu, giá cả, mẫu mã, chất lượng, thị hiếu để có sự điều chỉnh kịp thời nhanh nhạy, đáp ứng yêu cầu thị trường. Khi chất lượng cơ sở hạ tầng được cải thiện và nâng cao thì mọi 33
  41. khâu trong hoạt động sản xuất đều diễn ra thuận lợi và góp phần thúc đẩy hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên.” 1.4.4. Chất lượng các yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất các sản phẩm truyền thống 1.4.4.1. Vốn đầu tư “Vốn quyết định có tổ chức sản xuất hay không, vốn quyết định quy mô sản xuất của các chủ thể sản xuất kinh doanh trong làng nghề. Hiện nay, các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề phải có lượng vốn lớn để đầu tư công nghệ, đổi mới trang thiết bị ở một số công đoạn sản xuất phù hợp để thay thế lao động thủ công, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu mở rộng thị trường.” “Về quy mô vốn tại các hộ gia đình làng nghề truyền thống không thể so sánh với các cơ sở sản xuất trong các lĩnh vực khác. Mặt khác khối lượng vốn còn phụ thuộc vào ngành nghề sản xuất. Các làng nghề trên địa bàn huyện Phú Xuyên đòi hỏi vốn lớn như các làng nghề sản xuất đồ gỗ, giày da vì chi phí nguyên liệu cũng như công đoạn sản xuất phức tạp hơn. Ngược lại một số làng nghề sản xuất không đòi hỏi vốn đầu tư nhiều như: mây tre đan, thêu ren ” “Cơ cấu nguồn vốn tại các làng nghề bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Về thu hút vốn đầu tư nước ngoài có thể nói ở làng nghề là rất ít, còn nguồn vốn trong nước bao gồm: Vốn tự có là nguồn vốn của các chủ thể sản xuất kinh doanh trong làng nghề được tích lũy lại, nguồn vốn này quá nhỏ bé so với nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất hay đổi mới trang bị kỹ thuật, nó chiếm khoảng trên 90% tổng số vốn đầu tư của các chủ thể sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn tín dụng phi chính bao gồm vốn vay mượn trong gia đình, dòng họ, bạn bè người thân. Nguồn vốn tín dụng chính thức vay từ các quỹ tín dụng địa phương, ngân hàng thương mại, tuy nhiên do thủ tục cho vay phức tạp, lượng vốn cho vay còn ít, thời gian vay ngắn nên thực tế hiệu quả của nguồn vốn này còn thấp so với nhu cầu. Hiện nay có một số làng nghề còn được nhận một khoản vốn vay ưu đãi được trích ra từ các chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo, vốn của các tổ chức xã hội, đoàn thể.” 34
  42. 1.4.4.2. Chất lượng nguyên, vật liệu “Cũng như bất kỳ quá trình sản xuất, khối lượng, chủng loại nguyên vật liệu và khoảng cách giữa nguồn cung cấp nguyên liệu có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, giá thành, lợi nhuận của các doanh nghiệp. Nguồn nguyên liệu chính tại địa phương trong nước, đây chính là lợi thế của làng nghề. Thị trường nguyên liệu không chính thức, phương thức thanh toán do hai bên tự thỏa thuận, phụ thuộc thời vụ do tư thương cung cấp nên giá cả lên xuống theo mùa. Sử dụng nguyên liệu đa dạng hoặc thay thế sẽ là xu hướng cần được quan tâm để làng nghề phát triển của huyện Phú Xuyên.” “Nguyên vật liệu luôn gắn liền với sản phẩm và chất lượng sản phẩm. chất lượng của nguyên liệu có tốt thì sản phẩn mới có chất lượng cao. Tuy vậy giá cả của nguyên vật liệu phải hợp lý bảo đảm cho sản phẩm và kinh doanh có lãi thì mới được chấp nhận. Để đáp ứng đa dạng nhu cầu tiêu dùng cần đa dạng nguyên liệu sử dụng, có như vậy sản xuất kinh doanh mới đạt hiệu quả cao.” Bên cạnh nguồn nguyên liệu trong nước thì cũng có một số nguyên liệu phải nhập từ nước ngoài ví dụ như nguyên liệu về trai ốc phải nhập từ Trung Quốc về Việt Nam để phục vụ cho quá trình sản xuất của các làng nghề khảm trai truyền thống xã Chuyên Mỹ và để sản xuất ra một sản phẩm mẫu mã đẹp, chất lượng tốt thì phải khắt khe ngay từ khâu chọn nguyên vật liệu. Nguyên vật liệu có chất lượng cao thì sẽ tạo ra được sản phẩm có chất lượng tốt đáp ứng được nhu cầu của khách hàng cả về mẫu mã và chất lượng sản phẩm từ đó tạo nên uy tín của người thợ, người kinh doanh làng nghề. 1.4.5. Phong tục, tập quán truyền thống của địa phương “Mỗi vùng miền lại có những phong tục tập quán của riêng mình và huyện Phú Xuyên cũng vậy. Trong những ngày lễ tết, họ lại làm ra những sản phẩm cho chính họ, những sản phẩm này được nhiều người biết đến và tiêu dùng chúng. Những người có khả năng kinh doanh đã sản xuất ra để bán và hình thành làng nghề ví dụ như: sản phẩm tranh khảm trai của xã Chuyên Mỹ; sản phẩm mây tre đan của xã Phú Túc; sản phẩm tranh thêu của thị trấn Đại Đồng, sản phẩm giày da Phú Yên ” 35
  43. “Thực tế cho thấy các làng nghề tồn tại, phát triển được do có sự kế tục của đời con, đời cháu, nghề được bậc tiền bối truyền cho lớp hậu sinh bằng miệng, những bí quyết nghề nghiệp trong làng nghề được giữ bí mật khắt khe. Điều này không tránh khỏi sự thất truyền vì một nguyên nhân nào đó. Tóm lại nhân tố truyền thống có ảnh hưởng quyết định đến sự hưng vong của làng nghề. Lưu giữ và phát huy được những yếu tố truyền thống nó là sức mạnh nội sinh và nhờ đó hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên được diễn ra thuận lợi và đạt kết quả cao.” 36
  44. Chƣơng 2 THỰC TRẠNG MỘT SỐ GIÁ TRỊ CầN ĐƢỢC BẢO TÔN VÀ PHÁT HUY CỦA CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG 2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và đặc điểm hình thành có sự ảnh hƣởng đến công tác bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội 2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội “Huyện Phú Xuyên là đơn vị hành chính của Thủ đô, nằm ở phía Nam thành phố Hà Nội, cách trung tâm Thủ đô 40km; phía Bắc giáp huyện Thường Tín; phía Nam giáp huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam; phía Đông giáp sông Hồng và huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên; phía Tây giáp huyện Ứng Hòa, Hà Nội.” “Với diện tích đất tự nhiên 17.104,6ha; trong đó, đất canh tác trồng trọt là 11.329,9ha chiếm 66,24%; đất ở 1.120,9ha chiếm 6,95%; đất chuyên dùng chiếm 3.235,9ha chiếm 18,92%; còn lại là đất chưa sử dụng. Trước đây Phú Xuyên là vùng đất trũng, có cốt đất thấp so với một số đơn vị lân cận, phía Đông cao hơn phía Tây, nên về mùa mưa bão hay bị ngập úng, lụt lội. Một số xã giáp sông Hồng có đất pha cát, còn gọi là đất màu, diện tích khoảng 2000ha.” [36] “Trên địa bàn huyện có trên 30km sông chảy qua đó là sông Hồng, sông Nhuệ, sông Duy Tiên, sông Lương, sông Vân Đình. Phú Xuyên cũng có hệ thống giao thông rất thuận lợi, có tuyến đường sắt Bắc-Nam dài gần 12km chạy qua, tuyến đường thủy sông Hồng dài 17km, tuyến đường cao tốc Pháp Vân-Cầu Giẽ dài 7km, điểm đầu đường Cầu Giẽ-Ninh Bình, đường Quốc lộ 1A dài 12km trên địa bàn huyện, đó là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế-xã hội của Phú Xuyên.” “Hệ thống thủy lợi phục vụ tưới tiêu được sử dụng kết hợp đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp, có 43 trạm bơm trực tiếp đổ nước ra sông Nhuệ tiêu úng cho các xã phía Tây; trạm bơm Khai Thái công suất 25000m3/giờ, bơm nước ra sông Hồng tiêu úng cho diện tích 4.200ha phía Đông, ngoài ra có trạm bơm Thụy Phú lấy nước sông Hồng để cấp nước tưới cho các xã miền Đông.” 37
  45. “Phú Xuyên có dân số gần 20 vạn người, tỷ lệ người lao động trong khu vực sản xuất nông nghiệp chiếm 60% tổng số lao động; bình quân mỗi năm tăng thêm khoảng 2000 lao động.” “Về giáo dục-đào tạo: trên địa bàn huyện có một trường trung cấp nghề và một trường Cao đẳng nghề, hàng năm đào tạo khoảng trên 1000 học viên với các ngành nghề đa dạng, phong phú.” “Về y tế: có 01 bệnh viện cấp huyện nay đang được nâng cấp thành bệnh viện tuyến vùng, giải quyết ngày một tốt hơn nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân.” “Về kinh tế: Phú Xuyên có tiềm năng đất đai trù phú và nguồn lao động dồi dào. Về nông nghiệp, miền Đông huyện chiếm 17,4% diện tích đất canh tác, là vùng đất bãi phù sa màu mỡ, thuận lợi cho phát triển hoa màu, cây công nghiệp, chăn nuôi; miền Tây huyện với hơn 60% diện tích canh tác là vựa lúa quan trọng của Thủ đô, có khả năng lớn về nuôi cá nước ngọt, các loại gia cầm, gia súc.” 2.1.2. Đặc điểm hình thành các làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội “Phú Xuyên là huyện nằm ở phía Nam Thành phố Hà Nội - Thủ đô nước CHXHCN Việt Nam. Phú Xuyên có vinh hạnh được sinh ra trong cái nôi của nền văn minh Đồng bằng sông Hồng. Vùng đất cổ xứ Đoài, trấn Sơn Nam xưa. Cho nên còn lưu giữ được những nét văn hóa cổ truyền của dân tộc nói chung và của Kinh đô Thăng Long nói riêng.” “Cùng với quy hoạch chung của thành phố và quy hoạch vùng, từ năm 2015 và những năm tiếp theo, Phú Xuyên trở thành chuỗi đô thị vệ tinh quan trọng kết nối với đô thị trung tâm. Mặt khác, nếu được tiếp nhận các trường đại học, các bệnh viện lớn, các công trình văn hóa, thể thao và du lịch chuyển dịch từ nội thành sẽ tạo ra diện mạo mới cho Phú Xuyên phát triển nhanh, bền vững trong tiến trình đổi mới đất nước.” “Phú Xuyên, con sông giàu có mà tổ tiên xưa chọn chữ đặt tên này là mảnh đất trù phú, từ thiên nhiên, thổ nhưỡng, địa lý, địa hình đến con người và văn hóa nơi đây tất cả đều lôi cuốn, hấp dẫn các nhà đầu tư, đối tác trong và ngoài nước. Đây là mảnh đất hứa hẹn tiềm năng phát triển cho những ai biết tìm về.” 38
  46. “Chính vì vậy, Phú Xuyên cũng là cái nôi của rất nhiều làng nghề nổi tiếng như: giày da Phú Yên, may mặc Vân Từ, khảm trai Chuyên Mỹ, đồ gỗ Tân Dân, Văn Nhân, cơ kim khí Đại Thắng được bày bán ở nhiều các quận nội thành Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều địa phương khác trên cả nước. Sản phẩm mây tre đan, cỏ tế Phú Túc được xuất khẩu sang thị trường các nước Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ. Kinh tế từ tiểu thủ công nghiệp đã góp phần giải quyết việc làm tại chỗ, tăng thu nhập cho người nông dân, ổn định tình hình chính trị ở cơ sở. Đến nay, trên địa bàn huyện có 37 làng được công nhận làng nghề theo tiêu chí cấp thành phố trong số 98/138 làng của toàn huyện có nghề (bằng 71%). Sản phẩm của các nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống đã có chỗ đứng trên thị trường trong nước và thế giới.” 2.2. Thực trạng một số giá trị cần đƣợc bảo tồn và phát huy của các làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội 2.2.1. Thực trạng các giá trị văn hóa “Có thể nói lịch sử phát triển của văn hoá làng nghề luôn gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Trước tiên làng nghề là phương thức sản xuất truyền thống có bề dày lịch sử lâu đời, là nơi hội tụ và kết tinh những nét văn hoá truyền thống đặc trưng của Việt Nam.” “Mỗi làng nghề có một nét lịch sử về nguồn gốc hình thành và phát triển tạo nên bản sắc văn hoá riêng của mỗi làng nghề. Nhiều làng nghề đã nổi bật lên trong lịch sử văn hoá, văn minh của Việt Nam. Văn hoá làng nghề ở huyện Phú Xuyên còn thể hiện nét văn hoá qua hoạt động lễ hội, hoạt động mua bán sản phẩm và phong cảnh của làng nghề, các hoạt động lễ hội thụ hưởng thành quả lao động sau một năm làm việc vất vả hay hoạt động giỗ tổ bày tỏ sự tri ân đến ông tổ của làng nghề hàng năm là những hoạt động mang đậm nét văn hoá, thu hút nhiều người quan tâm.” “Bên cạnh đó, những mối quan hệ truyền thống, tương trợ lẫn nhau giữa những người sản xuất ở làng nghề và các hoạt động mua bán phường hội hàng ngày tạo nên bản sắc riêng của các làng nghề. Cảnh quan của làng nghề huyện Phú Xuyên với hình ảnh cây đa, bến nước sân đình và chùa chiền cũng thể hiện nét văn hoá đặc trưng của mỗi làng nghề.” 39
  47. “Xét về góc độ vai trò của văn hoá làng nghề ở huyện Phú Xuyên đối với phát triển kinh tế - xã hội thì chúng ta rõ ràng nhận thấy rằng làng nghề không chỉ là nơi sản xuất hàng hoá mà còn là môi trường phát triển văn hoá- kinh tế - xã hội, đồng thời là chiếc nôi của công nghệ truyền thống. Những nét văn hoá này từ lâu không thể thiếu và làm phong phú văn hoá của Việt Nam, nhiều làng nghề đã đi vào thơ ca, được đề cập trong các tác phẩm văn học - lịch sử. Ngành nghề truyền thống đặc biệt là các nghề thủ công truyền thống chính là di sản qúi giá mà ông cha ta đã tạo lập để lại cho thế hệ sau.” “Làng nghề huyện Phú Xuyên là môi trường bảo tồn và lưu giữ những bí quyết, tinh hoa nghề truyền thống từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo nên những lớp nghệ nhân tài năng của làng nghề. Làng nghề ở huyện Phú Xuyên còn gắn với văn hoá bởi sản phẩm làng nghề đa dạng, phổ biến và gần gũi với sinh hoạt thường ngày của người dân như: Mây tre, thêu, gốm sứ, gỗ mỹ nghệ, khảm trai ốc truyền thống, giày da Mỗi sản phẩm làng nghề phản ánh sinh động sinh hoạt của dân cư, những phong cảnh, phong tụ tập quán hay sự kiện nổi bật của Việt Nam.” “Bên cạnh việc quan tâm phát triển làng nghề, Phú Xuyên đặc biệt chú trọng bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống. Những lễ giỗ Tổ nghề, tôn vinh nghệ nhân, các lễ hội văn hóa dân gian được tổ chức hằng năm. Đình thờ tổ nghề, các di tích lịch sử - văn hóa được tôn tạo; các loại hình nghệ thuật truyền thống như hò cửa đình, múa hát bài bông, ca trù, chầu văn được lưu giữ. Sự tinh tế trong kỹ năng làm nghề để tạo ra những sản phẩm hàng hóa chất lượng cao và đầy tính nhân văn, kết tinh của tâm hồn, trí tuệ và đôi bàn tay tài hoa của người thợ thủ công đang tiếp tục được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trên quê hương Phú Xuyên.” “Lĩnh vực văn hóa đạt được những kết quả nhất định như tổ chức đội văn nghệ quần chúng tham gia liên hoan ca múa nhạc “Đảng - Mùa Xuân - Dân tộc” do thành phố tổ chức, đạt giải A toàn đoàn; tổ chức Hội nghị sinh hoạt CLB thơ nhân ngày Thơ Việt Nam lần thứ XVII; phối hợp với các xã tổ chức các hoạt động biểu diễn nghệ thuật nhân kỷ niệm 89 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2019) và Tết Nguyên đán Kỷ Hợi năm 2019.”[36]. 40
  48. “Nhưng xét trên đà phát triển của nền kinh tế thị trường hiện nay, chúng ta cần có cách nhìn nhận thực tế hơn trong mối quan hệ của người dân với xã hội mà trước tiên về mặt huyết thống, dòng họ và hàng xóm láng giềng sẽ có nhiều thay đổi trong tương lai. Trước những thay đổi về cách thức lao động nghề nghiệp, tiêu dùng, những giá trị ứng xử của lối sống truyền thống vẫn còn lưu đậm, đặc biệt là trong cộng đồng làng nghề truyền thống. Nhưng xen vào đã có những biến đổi, tiếp biến không nhẹ trong lối sống hay trong sản xuất phát triển, sản phẩm làng nghề bán ra thị trường nhiều, tính cạnh tranh lớn, các đơn hàng được đặt trên nguyên tắc pháp lý, yếu tố tình cảm bị giảm đi. Sự phát triển của kinh tế thị trường đã dẫn đến sự cạnh tranh giữa các làng nghề, giữa các gia đình trong làng nghề với nhau. Do sản xuất cùng một loại hàng hoá, các gia đình trong làng nghề thường cạnh tranh nhau trong việc thu hút khách hàng, giá cả sản phẩm, các chế độ hậu mãi dó đó nhiều khi đã xảy ra các hành vi ứng xử không lành mạnh trong kinh doanh buôn bán để tranh giành khách hàng. Mặt trái ấy đã ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ ứng xử của hộ gia đình sản xuất theo đó những giá trị văn hóa ứng xử làng nghề cũng giảm đi.” “Nhiều yếu tố tác động đến sự phát triển của làng nghề truyền thống Việt Nam nói chung và làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên nói riêng đã dẫn đến mối quan hệ xã hội, cách ứng xử trong cộng đồng làng xã, giao lưu văn hoá làng nghề đã có nhiều chuyển biến tiêu cực, giá trị văn hoá trong cộng đồng làng xã bị phai mờ như quan hệ làng xóm bị rạn vỡ, tình làng nghĩa xóm có xu hướng bị mờ nhạt, ứng xử văn hoá của một số cá nhân trong làng bị chi phối quá nhiều bởi đồng tiền mà bất chấp tất cả, quan hệ ứng xử trong huyết thống, họ hàng không còn được gắn bó như xưa. Từ thái độ thuận theo tự nhiên để tồn tại thì ngày nay dần chuyển sang khai thác sự ưu đãi của tự nhiên, cải biến tự nhiên theo sự đòi hỏi gấp gáp của con người và mong muốn làm chủ nó một cách vô thức. Do đó con người với sức mạnh của trí tuệ và tính cộng đồng không chỉ dừng ở việc thích ứng và chống đỡ tự nhiên, mà đã chủ động gây ra các hành vi ngược với lẽ thuận mà tự nhiên vốn có.” “Nhận xét và đánh giá thực trạng các giá trị văn hóa ở huyện Phú Xuyên ta thấy. Việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống trong huyện trước tác 41
  49. động của toàn cầu hoá là một xu thế khách quan, đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt trong đời sống văn hóa, xã hội. Xét về lĩnh vực văn hoá, toàn cầu hoá không chỉ tạo ra cơ hội cho huyện Phú Xuyên mở rộng sự giao lưu, hiểu biết và xích lại gần nhau, mà còn đặt những giá trị văn hoá truyền thống của huyện trước nhiều thách thức to lớn. Để giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của huyện, cần: thứ nhất, tăng cường giáo dục truyền thống lịch sử và truyền thống cách mạng của huyện; thứ hai, đẩy mạnh việc giáo dục pháp luật; thứ ba, xác lập bản lĩnh văn hoá Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.” “Thật vậy, những mặt trái, những tác động tiêu cực của toàn cầu hoá đã và đang làm chao đảo nhiều giá trị tinh thần nói chung, nhân cách con người nói riêng. Đặc biệt, một số giá trị đạo đức tốt đẹp, thiêng liêng vốn có vị trí quan trọng trong hệ giá trị văn hoá truyền thống của huyện Phú Xuyên nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung đang có nguy cơ bị mai một và tha hoá. Chẳng hạn, lối sống tình nghĩa, đậm chất nhân văn kiểu “thương người như thể thương thân”, “một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ” vốn là một trong những giá trị đạo đức truyền thống của nền văn hóa làng xã Việt Nam đã từng tồn tại hàng ngàn năm nay đang bị mai một, mờ nhạt dần. Ở không ít nơi, cả thành thị lẫn nông thôn, ngay cả trong huyện Phú Xuyên một bộ phận dân cư đã chịu ảnh hưởng của lối sống ích kỷ, hẹp hòi, lấy lối sống theo kiểu “đèn nhà ai nấy rạng” thay cho lối sống rất “con người” trước đây. Không phải ngẫu nhiên mà có ý kiến cho rằng, đạo đức ở một bộ phận nhân dân, đặc biệt là ở tầng lớp thanh, thiếu niên đang có xu hướng "trượt dốc". Đây thực sự là những tín hiệu “báo động đỏ” trong đời sống đạo đức ở địa bàn huyện Phú Xuyên và ở nước ta hiện nay. Một hệ quả khác mà toàn cầu hoá kinh tế mang lại là thị trường hàng hoá với số lượng lớn, chủng loại đa dạng và giá rẻ Sự thâm nhập tràn lan các loại hàng hoá đa dạng đã tác động mạnh và làm thay đổi tâm lý, nhân cách và lối sống của không ít người dân. Nó vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của con người, vừa kích thích tâm lý tiêu dùng trong mọi tầng lớp xã hội, tạo điều kiện để hình thành lối sống hưởng thụ, xã hội tiêu dùng. Chính điều này đã làm cho một bộ phận không nhỏ trong nhân dân, nhất là tầng lớp thanh niên có tâm lý coi trọng các 42
  50. giá trị vật chất, xem nhẹ các giá trị tinh thần và dẫn đến sự hình thành lối sống hưởng thụ, thực dụng, xa hoa lãng phí, xa lạ với lối sống giản dị, tiết kiệm – những phẩm chất truyền thống quý báu của con người Việt Nam. Cùng với sự xuất hiện của lối sống chạy theo những giá trị vật chất là sự nảy sinh tâm lý hướng ngoại, thích dùng hàng ngoại, coi thường các sản phẩm do chính chúng ta sản xuất, kể cả hàng hoá có chất lượng cao. Điều này không chỉ kìm hãm sự phát triển của các ngành sản xuất trong nền kinh tế nước ta, mà còn tác động một cách tiêu cực đến tư duy và lối sống của nhân dân.” 2.2.2. Thực trạng các giá trị lịch sử “Huyện Phú Xuyên thành phố Hà Nội, mảnh đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa, cách mạng và anh hùng. Đây là một địa phương có truyền thống lịch sử, văn hoá, cách mạng, ở đó còn lưu giữ được nhiều di tích từ thời kỳ tiền - sơ sử đến các di tích của các thời lịch sử sau này. Theo danh mục các di tích đã xếp hạng của tỉnh Hà Tây (cũ) và của thành phố Hà Nội, tính đến tháng 12/2015, toàn huyện có 413 DTLSVH với các loại di tích đa dạng như: Đình, chùa, đền, miếu, cổng làng, văn chỉ, quán, di tích cách mạng, nhà thờ danh nhân, nhà thờ đạo Thiên Chúa giáo . Trong đó có 112 di tích đã được xếp hạng, với 38 di tích cấp quốc gia, 74 di tích cấp tỉnh/thành phố, các di tích còn lại đang tiếp tục làm hồ sơ đề nghị các cấp khảo cứu xếp hạng. Về loại hình di tích ở xã/phường có 03 loại hình: Di tích khảo cổ học, di tích lịch sử và di tích kiến trúc nghệ thuật.” “Về phương diện văn hóa phi vật thể, Phú Xuyên còn lưu giữ được những giá trị như "Hò Cửa Đình và múa hát Bài Bông”ở làng Phú Nhiêu (xã Quang Trung); Nghề nặn Tò he ở thôn Xuân La (xã Phượng Dực) và hát Ca Trù ở thôn Chanh Thôn (xã Văn Nhân). Phú Xuyên còn có các làng nghề truyền thống như: Khảm trai - Sơn mài xã Chuyên Mỹ, nghề Giầy da - xã Phú Yên, nghề đan Cỏ tế - xã Phú Túc, nghề mộc ở xã Tân Dân, xã Văn Nhân, nghề may mặc (may Complet) ở xã Vân Từ Các lễ hội cổ truyền nổi tiếng như: Hội vật lầu (Thị trấn Phú Xuyên), hội đánh gậy ở Thượng Liễu (xã Tân Dân), Hội chạy lợn ở Trại Diền (xã Hồng Thái), Hội rước nước ở Cát Bi (xã Thụy Phú) Theo điều tra của BQL DT&DT thành phố Hà 43
  51. Nội năm 2014 cho biết, tính đến nay ở Phú Xuyên đã có 94 DSVH phi vật thể tại các làng, khu dân cư được thành phố công nhận. Với những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể tiêu biểu như vậy vấn đề bảo tồn và phát huy đã trở thành một nhiệm vụ cấp thiết đặt ra cho các nhà quản lý.” “Trong thời gian qua, công tác quản lý di tích lịch sử văn hóa (DT LSVH) tại huyện Phú Xuyên đã được các cấp và các ngành quan tâm và đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn gặp không ít khó khăn, vướng mắc: Nhiều di tích xuống cấp trầm trọng như: Đình Đa Chất xã Đại Xuyên, đình Cổ Chế xã Phúc Tiến , trong khi đó nguồn kinh phí nhà nước cũng như tại cơ sở các địa phương còn rất hạn hẹp, chế độ cho người trông coi trực tiếp tại di tích chưa có quy định cụ thể của thành phố; tình trạng tự ý xây dựng, tôn tạo và tu bổ (ốp lát gạch hoa, gạch men, bê tông cốt thép ) làm biến dạng di tích đã và đang xảy ra tại một số địa phương trong huyện, đặc biệt là hệ thống các di tích chưa được xếp hạng. Bên cạnh đó, việc tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới các làng, thôn, chưa được quan tâm; việc hưởng ứng tham gia bảo vệ, phát huy giá trị di tích trên địa bàn huyện của người dân còn hạn chế. Vì vậy, hơn bao giờ hết, công tác quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị DTLSVH của huyện Phú Xuyên trong giai đoạn hiện nay cần được tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân; nhu cầu nghiên cứu, tham quan du lịch của khách trong, ngoài nước, tạo nền móng vững bền góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước.” “Phát huy giá trị DTLSVH gồm các hoạt động: Tổ chức tham quan tại di tích; quảng bá di tích trên các phương tiện truyền thông đại chúng; xuất bản các ấn phẩm giới thiệu di tích; đưa di tích đến với ngành công nghiệp du lịch phát huy giá trị di sản văn hóa (DSVH) là một hoạt động nhằm khai thác những giá trị của di sản để phục vụ và đáp ứng nhu cầu của xã hội, góp phần phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, đồng thời góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của nhân dân đối với việc bảo vệ DSVH dân tộc. Phát huy: “làm cho cái hay, cái tốt nhân thêm tác dụng, thúc đẩy tiếp tục nảy nở nhiều hơn”.” 44
  52. “Nhận xét và đáng giá thực trạng các giá trị lịch sử ta thấy với 413 di tích gồm di tích đã được xếp hạng và những di tích chưa xếp hạng; Di tích tập trung dày đặc ở 06 xã như: Hồng Thái, Hoàng Long, Vân Từ, Phú Túc, thị trấn Phú Xuyên, Tân Dân với 186 di tích chiếm trên 45,04% tổng số di tích toàn huyện. Bên cạnh đó, một số xã/thị trấn như thị trấn Phú Minh, Đại Thắng, Minh Tân, Nam Triều, Sơn Hà, Phượng Dực, Hồng Minh, Quang Trung mỗi xã/thị trấn chỉ có 03 - 16 di tích.” “Qua nghiên cứu kết quả tình hình xếp hạng di tích cho thấy, ở huyện Phú Xuyên có nhiều di tích kiến trúc nghệ thuật vào thời Lê đã trùng tu và được xây dựng bổ sung vào thời Nguyễn như: Đình làng Giẽ Thượng Vì vậy, trong quyết định xếp hạng các di tích này được xác định có niên đại vào thời Lê - Nguyễn. Đó là những công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị văn hóa tiêu biểu cần được quan tâm trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích cấp Quốc gia tại vùng đất đang trong quá trình đô thị hoá nhanh như hiện nay.” “Trong những năm qua, huyện Phú Xuyên đã vận dụng và thực hiện tốt Luật Di sản Văn hóa và các văn bản quy phạm pháp luật trong việc bảo vệ và phát huy giá trị DTLSVH. Quá trình thực hiện công tác chuyên môn như: kiểm kê, xếp hạng di tích, nghiên cứu khoa học về di tích; bảo vệ chống vi phạm di tích, tu bổ, tôn tạo di tích; phát huy gía trị di tích. Các hình thức thu hút nguồn lực cho tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích ngày càng được mở rộng và nâng cao hiệu quả. Việc thanh tra, kiểm tra, phát hiện sai phạm và xử lý đơn thư khiếu nại về DTLSVH được thực hiện thường xuyên và nghiêm túc, góp phần hạn chế những vi phạm. Các hình thức đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nhằm nâng cao kiến thức và năng lực quản lý di tích cho lực lượng làm công tác này được chú trọng, góp phần giữ gìn và phát huy giá trị của di tích. Tuyên truyền trong nhân dân pháp luật về DTLSVH; nhờ đó mà các giá trị của các DTLSVH trên địa bàn ngày càng được nâng cao, nhất là trong việc nâng cao nhận thức và giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ hiện nay.” 2.2.3. Thực trạng các giá trị kinh tế “Làng nghề ở huyện Phú Xuyên gắn với giá trị văn hoá và lịch sử của địa phương nên rõ ràng có thể phát triển kinh tế - xã hội như phát triển du lịch làng 45
  53. nghề để thu hút khách du lịch. Du khách muốn đến làng nghề tham quan phong cảnh, nếp sống sinh hoạt và công nghệ sản xuất truyền thống của làng nghề, nhiều du khách muốn đến làng nghề để quan sát những thao tác khéo léo của các nghệ nhân và được tận tay làm ra sản phẩm thủ công truyền thống. Như vậy có thể thấy rằng văn hoá làng nghề ở huyện Phú Xuyên chi phối rất nhiều yếu tố để phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.” “Các làng nghề ở huyện Phú Xuyên tạo ra nhiều sản phẩm, mẫu mã đa dạng, mang đậm nét văn hóa riêng của mỗi làng nghề trong huyện; tạo dựng được thị trường rộng lớn như: Thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và quốc tế như: Nga, Mỹ, Ba Lan, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia, đã giải quyết việc làm cho trên 80% lao động trong các làng nghề và vùng phụ cận, đời sống của nhân dân các làng nghề được cải thiện rõ rệt, số hộ khá và giàu tăng nhanh, số hộ nghèo giảm, nhiều công trình phúc lợi được xây dựng, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế- xã hội của huyện Phú Xuyên.” “Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Phú Xuyên lần thứ XXIV chủ trương giữ vững và phát triển các ngành nghề truyền thống. Huyện ủy ban hành Chương trình số 05-CTr/HU, ngày 08/01/2016 về phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch làng nghề huyện Phú Xuyên giai đoạn 2015 - 2020, đề ra 5 nhiệm vụ trọng tâm, 12 chỉ tiêu chủ yếu, 3 khâu đột phá, trong đó có nhiệm vụ về phát triển tiểu thủ công nghiệp, làng nghề là: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp dịch vụ, tích cực áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất. Tập trung phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch làng nghề; nâng cao chất lượng, hiệu quả về sức cạnh tranh của sản phẩm làng nghề; đảm bảo kinh tế của huyện phát triển bền vững. Để đảm bảo cho làng nghề phát triển, bảo tồn và phát huy các yếu tố truyền thống, sử dụng nhiều lao động tại chỗ, sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước, chú trọng phát triển các sản phẩm thủ công thế mạnh như khảm trai, sơn mài, cỏ tế, da giày; gắn sản xuất làng nghề với hoạt động du lịch văn hóa, lễ hội truyền thống thì ngay lúc này đây, làng nghề Phú Xuyên phải vượt 46