Khóa luận Đánh giá hiệu quả kinh tế mô hình trồng muống thủy canh công nghệ cao trong dự án khởi nghiệp số 1 tại Trung Tâm Ươm Tạo Công Nghệ và Hỗ Trợ Khởi Nghiệp trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Đánh giá hiệu quả kinh tế mô hình trồng muống thủy canh công nghệ cao trong dự án khởi nghiệp số 1 tại Trung Tâm Ươm Tạo Công Nghệ và Hỗ Trợ Khởi Nghiệp trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_danh_gia_hieu_qua_kinh_te_mo_hinh_trong_muong_thuy.pdf
Nội dung text: Khóa luận Đánh giá hiệu quả kinh tế mô hình trồng muống thủy canh công nghệ cao trong dự án khởi nghiệp số 1 tại Trung Tâm Ươm Tạo Công Nghệ và Hỗ Trợ Khởi Nghiệp trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ĐỖ VĂN DIỆM Tên đề tài: “ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ MÔ HÌNH TRỒNG RAU MUỐNG THUỶ CANH CÔNG NGHỆ CAO TRONG DỰ ÁN KHỞI NGHIỆP SỐ 1 TẠI TRUNG TÂM ƯƠM TẠO CÔNG NGHỆ VÀ HỖ TRỢ KHỞI NGHIỆP TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN CHUYỂN GIAO” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Định hướng đề tài : Hướng nghiên cứu Chuyên ngành : Kinh tế nông nghiệp Khoa : Kinh tế & PTNT Khóa học : 2015 - 2019 Thái Nguyên, năm 2019
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ĐỖ VĂN DIỆM Tên đề tài: “ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ MÔ HÌNH TRỒNG RAU MUỐNG THUỶ CANH CÔNG NGHỆ CAO TRONG DỰ ÁN KHỞI NGHIỆP SỐ 1 TẠI TRUNG TÂM ƯƠM TẠO CÔNG NGHỆ VÀ HỖ TRỢ KHỞI NGHIỆP TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN CHUYỂN GIAO” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo : Chính quy Định hướng đề tài : Hướng nghiên cứu Chuyên ngành : Kinh tế nông nghiệp Lớp : K47 - KTNN - N02 Khoa : Kinh tế & PTNT Khóa học : 2015 - 2019 Giảng viên hướng dẫn : ThS. Vũ Thị Hải Anh Thái Nguyên, năm 2019
- i LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, đến nay tôi đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp đại học với đề tài: “Đánh giá hiệu quả kinh tế mô hình rau muống thủy canh công nghệ cao trong dự án khởi nghiệp số 1 tại Trung Tâm Ươm Tạo Công Nghệ và Hỗ Trợ Khởi Nghiệp Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên chuyển giao’’. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Kinh Tế và PTNT trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên đã tận tình dạy bảo, giúp đỡ và định hướng cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu khoa học. Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo Th.s Vũ Thị Hải Anh - Bộ môn kinh tế chung - Khoa Kinh Tế và PTNT - trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo phó hiệu trưởng Nguyễn Thế Hùng, thầy giáo Th.s Hà Việt Long - khoa nông học, và các thầy cô trong Trung Tâm Ươm Tạo Công Nghệ và Hỗ Trợ Khởi Nghiệp - Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập và nghiên cứu đề tài. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn tất cả các tập thể, cá nhân, bạn bè và người thân đã quan tâm giúp đỡ, động viên và khích lệ tôi trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Thái Nguyên, tháng 3 năm 2019 Sinh viên Đỗ Văn Diệm
- ii DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Diễn giải AVRDC Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Rau Châu Á HTX Hợp tác xã RTC Rau thủy canh RAT Rau an toàn ĐVDT Đơn vị diện tích FAO Tổ chức Nông lương quốc tế DN Doanh nghiệp BVTV Bảo vệ thực vật CNC Công nghệ cao GS.TS Giáo sư- Tiến sĩ HQKT Hiệu quả kinh tế HQ Hiệu quả Th.S Thạc sĩ TS Tiến sĩ PTNT Phát triển nông thôn T.X Thị xã T.P Thành phố NFT Kỹ thuật thủy canh tuần hoàn TNHH Trách nhiệm hữu hạn TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh UBND Uỷ ban nhân dân
- iii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 4.1: Tình hình sử dụng đất đai của Thành Phố Thái Nguyên năm 2017 39 Bảng 4.2: Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu đã đạt được của Thành phố Thái Nguyên 2016 - 2017 41 Bảng 4.3: Diện tích, năng suất, sản lượng rau của tỉnh Thái Nguyên năm 2017 45 Bảng 4.4: Lý do trồng RTC của các hộ điều tra năm 2018 47 Bảng 4.5: Diện tích RTC của các hộ điều tra (n=20) 48 Bảng 4.6: Tình hình tiêu thụ RTC tại Thái Nguyên năm 2018 50 Bảng 4.7: Ý kiến về chất lượng RTC của các hộ điều tra 51 Bảng 4.8: Chi phí trồng 1 vụ của 16 giàn rau muống thủy canh 53 Bảng 4.9: Chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế của rau muống thủy canh trên 16 giàn của nhà kính trường đại học nông lâm Thái Nguyên tại thời điểm hòa vốn 56 Bảng 4.10: Chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế của rau muống thủy canh trên 16 giàn của nhà kính trường đại học nông lâm Thái Nguyên 56
- iv DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 4.1. Bản đồ hành chính thành phố thái nguyên 36
- v MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN i DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT ii DANH MỤC CÁC BẢNG iii DANH MỤC CÁC HÌNH iv MỤC LỤC v Phần 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2 1.2.1. Mục tiêu chung 2 1.2.2. Mục tiêu cụ thể 2 1.3. Ý nghĩa của đề tài 3 1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và khoa học 3 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 3 Phần 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4 2.1. Cơ sở lý luận 4 2.1.1. Các lý thuyết về đánh giá 4 2.1.2. Hiệu quả kinh tế 6 2.1.3. Các loại hiệu quả 10 2.1.4. Giới thiệu chung về thủy canh 10 2.1.5. Giới thiệu chung về cây rau muống 17 2.2. Cơ sở thực tiễn 18 2.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ rau trên thế giới và ở Việt Nam 18 2.2.2. Tình hình sản xuất và ứng dụng kỹ thuật thủy canh trong nước và thế giới 23 2.2.3. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng kỹ thuật thủy canh ở Việt Nam 26 Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 30 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 30 3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 30 3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 30 3.2. Nội dung nghiên cứu 30 3.3. Phương pháp nghiên cứu 30
- vi 3.3.1. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 30 3.3.2. Phương pháp thu thập số liệu 31 3.4. Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu 32 3.4.1. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả kinh tế 32 3.4.2. Các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất rau thủy canh 32 3.4.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất rau thủy canh 34 3.4.4. Chi phí và lợi nhuận trên một đơn vị diện tích 35 Phần 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 36 4.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 36 4.1.1. Đặc điểm tự nhiên của thành phố Thái Nguyên 36 4.1.2. Tài nguyên thiên nhiên 37 4.1.3. Đặc điểm về kinh tế - xã hội 40 4.2. Đánh giá thực trạng sản xuất RTC tại tỉnh Thái Nguyên 44 4.2.1. Tình hình sản xuất rau và rau thủy canh trên địa bàn 44 4.2.2. Thị trường tiêu thụ RTC khi trồng rau của các hộ 49 4.3. Đánh giá hiệu quả kinh tế của sản xuất rau muống thủy canh tại nhà kính do trung tâm Ươm Tạo trên địa bàn Tỉnh Thái Nguyên 52 4.3.1. Hiệu quả kinh tế của rau thủy canh 52 4.3.2. Hiệu quả về mặt xã hội 58 4.3.3. Hiệu quả về mặt môi trường 58 4.4. Những thuận lợi và khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ ảnh hưởng tới sự phát triển rau thủy canh tại tỉnh Thái Nguyên 58 4.4.1. Đối với mô hình nhà kính Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên 58 4.5. Đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh phát triển sản xuất rau thủy canh, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người trồng rau 59 Phần 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 61 5.1. Kết luận 61 5.2. Kiến nghị 61 TÀI LIỆU THAM KHẢO 63 PHỤ LỤC
- 1 Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài An toàn thực phẩm hiện đang là vấn nạn của xã hội, trong quá trình sản xuất, nhiều nhà nông đã lạm dụng hóa chất, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật. Những thông tin hằng ngày về ngộ độc thực phẩm mà một phần nguyên nhân là do dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, kim loại nặng trên các loại rau, quả đã gây ra sự lo lắng trong cộng đồng. Có thời điểm người tiêu dùng chọn rau quả theo tiêu chí rất ngược đời là có sâu hoặc lá rau không có vẻ tươi mơn mởn. Chính vì nhu cầu rau sạch, rau an toàn rất lớn nên nhiều hợp tác xã, cơ sở sản xuất rau an toàn ra đời nhưng mới chỉ đáp ứng được một phần Thủy canh cây trồng - trồng rau không cần đất, không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, không gây ô nhiễm môi trường, sản phẩm sạch tươi ngon và an toàn với người tiêu dùng. Kỹ thuật thủy canh là một trong những kỹ thuật tiến bộ của nghề làm vườn hiện đại. Chọn lựa môi trường thích hợp cho cây phát triển bằng việc sử dụng những chất thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của cây tránh được sự phát triển của cỏ dại, côn trùng và bệnh tật lây nhiễm từ đất. Công nghệ thuỷ canh đã và đang được ứng dụng ở nhiều nước để cung cấp thực phẩm cho con người đặc biệt khi tình hình dân số ngày càng tăng mà đất trồng thì ngày càng bị thu hẹp và bị ô nhiễm như hiện nay. Hiện nay sản xuất rau sạch bằng công nghệ thủy canh đã được áp dụng rộng rãi trên thế giới như ở Nhật Bản, Isreal, các nước Châu Âu. Tại Việt Nam, mặc dù được đánh giá rất cao, tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam, việc ứng dụng kỹ thật thuỷ canh trong sản xuất rau sạch cũng đã bắt đầu phát triển. Việt Nam thì trong vài năm gần đây mới triển khai sản xuất mô hình trồng rau thủy canh (RTC) tuy nhiên ban đầu được phát triển ở khu vực miền nam, như là TP HCM, Đà Lạt, Huế, Nha Trang và mới xuất hiện ra Hà Nội, và các tỉnh khác như Thái Nguyên thì còn rất mới mẻ, mới chính thức bắt đầu từ năm 2018. Đây là một khởi sắc mới cho tỉnh nhà trong phát triển sản xuất nông nghiệp công nghệ cao (CNC), bởi vì phương pháp này hạn chế được những nhược điểm mà phương pháp trồng rau truyền thống đang gặp phải. Cho nên là thủy canh hiện nay vẫn là một
- 2 trong những phương pháp tối ưu nhất, mang lại hiệu quả nhất trong sản xuất rau an toàn (RAT) với nhiều ưu điểm nổi bật như: Không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (thuốc hóa học, thuốc trừ sâu), cây vẫn sinh trưởng tốt bình thường. Không dùng chất tăng trưởng có hại cho người sử dụng (dung dịch là nước và các chất dinh dưỡng muối khoáng). Giảm tình trạng ô nhiễm môi trường ở các vùng nông thôn khi lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật. Không phải mất thời gian chăm sóc như tưới rau, làm cỏ, tiết kiệm thời gian cho người trồng. Trồng rau không dùng đất nên không sợ các loại sán, sâu bệnh khác có trong đất, không tốn nhiều diện tích có thể trồng ở nhiều địa hình khác nhau, đơn giản chăm sóc dễ. Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên là một trong những trường có đội ngũ thầy cô được đào tạo chuyên sâu về nông nghiệp CNC tại các nước phát triển về nông nghiệp trên thế giới và hiện đang có ngành đào tạo về nông nghiệp CNC nên nhà trường đã tạo dựng nên một địa chỉ tin cậy tiên phong ứng dụng công nghệ này từ tháng 1 năm 2018 do Trung tâm ươm tạo và hỗ trợ khởi nghiệp số 1 của Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên ứng phụ trách với thí điểm ban đầu là mô hình trồng rau muống. Chính vì thế mà chúng tôi đã được tham gia thực hiện dự án và nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả kinh tế mô hình trồng muống thủy canh công nghệ cao trong dự án khởi nghiệp số 1 tại Trung Tâm Ươm Tạo Công Nghệ và Hỗ Trợ Khởi Nghiệp trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên’’. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1. Mục tiêu chung Đánh giá hiệu quả mô hình trồng rau muống thủy canh trong nhà kính tại trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên. Từ đó, đưa ra một số giải pháp phát triển sản xuất mô hình trồng rau muống nói riêng và các loại rau ăn lá và rau ăn quả nói chung, góp phần mở rộng chuyển giao nông nghiệp CNC tới các hộ gia đình, hợp tác xã, trang trại, doanh nghiệp và các sở khoa học công nghệ trong tỉnh và các tỉnh trong khu vực miền Bắc. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể - Góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến khóa luận.
- 3 - Tìm hiểu thực trạng sản xuất và tiêu thụ rau an toàn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. - Đánh giá được hiệu quả mô hình sản xuất rau muống thủy canh tại nhà kính trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên. - Đánh giá những thuận lợi, khó khăn khi triển khai mô hình sản xuất rau muống thủy canh tại nhà kính. - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của mô hình trồng rau muống thuỷ canh trong nhà kính và trong thực tiễn sản xuất nói riêng và mô hình trồng các loại rau ăn lá và rau ăn quả phù hợp khác, đặc biệt là các loại rau trái vụ, rau gia vị và rau có giá trị kinh tế cao. 1.3. Ý nghĩa của đề tài 1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và khoa học Quá trình thực tập tốt nghiệp giúp cho sinh viên có điều kiện tiếp cận với thực tế, giúp sinh viên củng cố thêm những kiến thức, kỹ năng đã học. Đồng thời có cơ hội vận dụng chúng vào sản xuất thực tế. Góp phần thu thập dữ liệu về thực tiễn sản xuất, là tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu có liên quan. Biết cách thực hiện một đề tài khoa học và hoàn thành một khóa luận. Nghiên cứu đề tài giúp sinh viên củng cố lại những kiến thức cơ bản và những kiến thức đào tạo chuyên môn trong quá trình học tập trong nhà trường, đồng thời tạo điều kiện cho sinh viên có cơ hội tiếp cận với những kiến thức ngoài thực tế. 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn Có cái nhìn tổng thể về trồng rau Công Nghệ Cao trong nhà kính. Rút ra được những kinh nghiệm và số liệu để có kế hoạch phát triển những năm tiếp theo, là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu khoa học có liên quan. Làm cơ sở cho việc tham khảo, chuyển giao công nghệ trồng rau thủy canh tại khu vực thành phố Thái Nguyên và các tỉnh trong cả nước. Mang đến cho người dân cái nhìn mới cụ thể hơn về kỹ thuật trồng rau thủy canh và những ưu điểm nổi bật của công nghệ trồng rau thủy canh.
- 4 Phần 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Các lý thuyết về đánh giá 2.1.1.1. Khái niệm đánh giá Đánh giá là nhìn nhận và phân tích toàn bộ quá trình triển khai thực hiện, các kết quả thực hiện cũng như hiệu quả thực tế đạt được trong mối quan hệ với nhiều yếu tố, so sánh với mục tiêu ban đầu [8]. Đánh giá để khẳng định những gì đã thực hiện bằng nguồn lực của gia đình, thôn bản và những hỗ trợ từ bên ngoài với những gì thực sự đã đạt được. Trong đánh giá quá trình sản xuất người ta có thể hiểu như sau: - Là quá trình thu thập và phân tích thông tin để khẳng định: + Liệu mô hình có đạt được các kết quả và tác động hay không? + Mức độ đạt được so với mục tiêu thông qua các hoạt động đã chỉ ra. - Đánh giá sử dụng các phương pháp để điều tra một cách có hệ thống các kết quả và hiệu quả của hoạt động sản xuất. Đồng thời phân tích những vấn đề có thể làm chậm tiến độ thực hiện sản xuất nếu như các vấn đề này không được giải quyết kịp thời. - Trong quá trình đánh giá yêu cầu phải lập kế hoạch chi tiết và có khoa học, lấy mẫu theo phương pháp thống kê. - Việc đánh giá sẽ tiến hành đo đếm định kỳ theo giai đoạn - Việc đánh giá sẽ tập trung vào các chỉ số kết quả và đánh giá tác động [8]. 2.1.1.2. Các loại đánh giá Đánh giá có nhiều loại khác nhau. Phạm vi ở đây có thể sắp xếp thành 2 loại chính như sau: * Đánh giá tiền khả thi/khả thi Đánh giá tiền khả thi là đánh giá tính khả thi của hoạt động hay sản xuất, để xem xét liệu hoạt động hay sản xuất có thể thực hiện được hay không trong điều kiện cụ thể nhất định. Loại đánh giá này thường do tổ chức tài trợ thực hiện. Tổ
- 5 chức tài trợ sẽ phân tích các khả năng thực hiện hay hoạt động để làm căn cứ cho phê duyệt xem hoạt động sản xuất có được đưa vào thực hiện hay không? [8]. * Đánh giá thực hiện - Đánh giá định kỳ: Là đánh giá từng giai đoạn thực hiện, có thể là đánh giá toàn bộ các công việc trong một giai đoạn, nhưng cũng có thể đánh giá từng công việc ở từng giai đoạn nhất định. Nhìn chung đánh giá định kỳ thường áp dụng cho dài hạn. Tùy theo hoạt động sản xuất mà có thể định ra các khoảng thời gian để đánh giá định kỳ, có thể là ba tháng, sáu tháng hay một năm một lần. Mục đích của đánh giá định kỳ là tìm ra những điểm mạnh, yếu, những khó khăn, thuận lợi trong một thời kỳ nhất định để có những thay đổi hay điều chỉnh phù hợp cho những giai đoạn tiếp theo. [8]. - Đánh giá cuối kỳ: Là đánh giá cuối cùng khi kết thúc hoạt động. Đây là đánh giá toàn diện tất cả các hoạt động và kết quả của sản xuất. Mục đích của đánh giá cuối kỳ nhằm nhìn nhận lại toàn bộ quá trình thực hiện. Những thế mạnh, điểm yếu, những thành công và hạn chế, nguyên nhân của từng vấn đề, đưa ra những bài học cần phải rút kinh nghiệm và điều chỉnh cho sản xuất hay hoạt động khác phù hợp hơn. [8]. - Đánh giá tiến độ thực hiện: Là việc xem xét thời gian thực tế triển khai thực hiện các nội dung hay nói cách khác là xét xem hoạt động có đúng thời gian dự định hay không, nhanh hay chậm thế nào . - Đánh giá tình hình chi tiêu tài chính: Là xem xét lại việc sử dụng kinh phí chi tiêu có đúng theo nguyên tắc đã được quy định hay không để có điều chỉnh và rút kinh nghiệm. - Đánh giá về tổ chức thực hiện: Đánh giá về việc tổ chức phối hợp thực hiện giữa các thành phần tham gia, xem xét và phân tích công tác tổ chức, cách phối hợp các thành phần tham gia. Ngoài ra có thể xem xét việc phối kết hợp giữa các mô hình hay hoạt động trên cùng một địa bàn và hiệu quả của sự phối hợp đó [8]. - Đánh giá kỹ thuật: Là xem xét lại các kỹ thuật mà sản xuất đã đưa vào có phải là mới không, quá trình thực hiện các khâu kỹ thuật có đảm bảo theo đúng quy trình kỹ thuật đã đặt ra không.
- 6 - Đánh giá mức độ ảnh hưởng của môi trường: Hiện nay vấn đề môi trường là một vấn đề bức xúc của toàn cầu, vì vậy chúng ta cần phải quan tâm đến vấn đề môi trường. - Đánh giá khả năng mở rộng: Là quá trình xem xét kết quả sản xuất có thể áp dụng rộng rãi, đại trà hay không, nếu có áp dụng thì cần điều kiện gì không [8]. 2.1.2. Hiệu quả kinh tế 2.1.2.1. Khái niệm hiệu quả kinh tế Hiệu quả kinh tế (HQKT) là một phạm trù kinh tế chung nhất có liên quan trực tiếp đến nền sản xuất hàng hoá cùng rất nhiều các phạm trù và các quy luật kinh tế khác. Có nhiều quan niệm khác nhau về hiệu quả kinh tế. Khi đề cập đến hiệu quả các tác giả Farrell (1950), Schuhz (1964), Rizzo (1979), Đỗ Kim Chung (1997) (Phạm Vân Đình, 1997) đều thống nhất cần phân biệt rõ ba khái niệm cơ bản là hiệu quả kĩ thuật, hiệu quả phân bổ nguồn lực và hiệu quả kinh tế. Đó là khả năng thu được kết quả sản xuất tối đa với việc sử dụng các yếu tố đầu vào theo những tỉ lệ nhất định. Theo Farrell chỉ đạt được HQKT khi và chỉ khi đạt được hiệu quả kĩ thuật và cả hiệu quả phân bổ (David Colman, 1994). Tiêu chuẩn để đánh giá HQKT là cơ sở để lựa chọn những chỉ tiêu kinh tế phù hợp nhằm đánh giá chất lượng của việc sử dụng nguồn lực [2]. Nền sản xuất của chế độ xã hội chủ nghĩa phát triển luôn vì mục đích thoả mãn ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và văn hoá của mỗi thành viên trong xã hội. Mức độ thoả mãn này về mặt kinh tế rõ ràng phụ thuộc đáng kể vào khối lượng cơ cấu và giá trị sử dụng các sản phẩm và dịch vụ được cung cấp cũng như sự phù hợp của nó với nhu cầu của xã hội. Tiêu chuẩn cơ bản của sự lựa chọn các quyết định kinh tế sản xuất, trong điều kiện đó phải dựa vào hiệu quả kinh tế của sự phát triển [2]. Khái niệm HQKT mang tính chất tương đối về không gian và thời gian, phụ thuộc vào trình độ phát triển về kinh tế, xã hội, đặc điểm lịch sử và truyền thống cũng như những điều kiện tự nhiên của mỗi quốc gia, mỗi địa phương và vùng lãnh thổ ảnh hưởng bởi sự phát triển của khoa học và công nghệ, sự phát triển và biến động của nền kinh tế trong nước và quốc tế, sự thay đổi về nhu cầu và thị hiếu
- 7 người tiêu dùng. HQKT không phải là mục đích cuối cùng của sản xuất mà phải đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần cho toàn xã hội [2]. Khái niệm về hiệu quả sản xuất không chỉ đề cập đến kinh tế tài chính mà còn gắn với hiệu quả xã hội và môi trường. Mục đích của hoạt động sản xuất kinh doanh là “sinh lời - lợi nhuận” (Lê Trọng, 1995). Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế mới chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì không nên đơn giản hoá coi lợi nhuận như là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá HQKT. Các nhà khoa học kinh tế đều thống nhất quan điểm đánh giá HQKT phải dựa trên cả ba mặt: kinh tế, xã hội, môi trường [2]. Cơ sở cho sự phát triển xã hội là tăng lên không ngừng của lực lượng vật chất. Phát triển kinh tế có hiệu quả tăng khả năng tích luỹ và tiêu dùng, tạo điều kiện cho việc nâng cao trình độ văn hoá, khoa học, chăm sóc sức khoẻ, bảo vệ môi trường sinh thái, an ninh quốc phòng giải quyết tốt những vấn đề xã hội chẳng những là mục tiêu mà còn là động lực phát triển lâu dài nền kinh tế quốc dân [2]. 2.1.1.2. Hiệu quả kỹ thuật Theo Nguyễn Tiến Mạnh (1995), hiệu quả kỹ thuật được hiểu là trình độ kỹ thuật của người sản xuất trong việc sử dụng các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất. Hiệu quả kỹ thuật được xác định bằng tỷ số giữa năng suất thực tế đạt được của người sản xuất so với mức năng suất cao nhất có thể đạt được tại mỗi mức đầu vào nhất định trong điều kiện công nghệ sản xuất và giá cả các yếu tố đầu vào, đầu ra không đổi. Hiệu quả kỹ thuật được áp dụng phổ biến trong kinh tế vi mô để xem xét tình hình sử dụng nguồn lực cụ thể. Hiệu quả này liên quan đến phương diện vật chất của sản xuất đem lại cho bao nhiêu đơn vị sản xuất. Hiệu quả kỹ thuật thường được phản ánh trong mối quan hệ về hàm sản xuất: Q=f(X1, X2 Xn ). Nó liên quan đến phương diện của sản xuất. Nó phụ thuộc nhiều vào bản chất kỹ thuật, trình độ công nghệ sản xuất, khoa học kỹ thuật được áp dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh, kỹ năng của người sản xuất trong quá trình sản xuất.
- 8 2.1.1.3. Hiệu quả phân bổ Theo Nguyễn Tiến Mạnh (1995), hiệu quả phân bổ là chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả trong yếu tố sản xuất và giá đầu vào, được tính để phản ánh giá trị sản phẩm thu thêm trên một đồng chi phí thêm về đầu vào hay nguồn lực. Thực chất của hiệu quả phân bổ là hiệu quả kỹ thuật có tính đến các yếu tố về giá của yếu tố đầu ra, vì thế nó còn được gọi là hiệu quả giá. Việc xác định hiệu quả này giống như các điều kiện về lý thuyết biên để tối đa hoá lợi nhuận, điều đó có nghĩa là giá trị biên của sản phẩm phải tính bằng giá trị chi phí biên của nguồn lực sử dụng vào sản xuất. Vì vậy khi nhấn mạnh HQKT cần phải đồng thời quan tâm đến giải quyết những vấn đề xã hội và môi trường, tạo nên môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh, môi trường sinh thái phát triển bền vững. 2.1.1.4. Quan điểm đánh giá hiệu quả kinh tế của sự phát triển kinh tế sản xuất Phạm trù HQKT xuất hiện trong các văn bản pháp quy vào năm 1920. Khi đó người ta mới chỉ nói đến HQKT của vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Đến nay đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về HQKT và nó trở thành một phạm trù rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Tiêu chuẩn để đánh giá HQKT sản xuất là vấn đề phức tạp và có nhiều ý kiến chưa thống nhất. Tuy nhiên, có thể tóm tắt theo 3 quan điểm sau: * HQKT theo hệ thống quan điểm thứ nhất cho rằng HQKT được xác định bởi tỉ số giữa kết quả thu được (như các nguồn lực, vật lực, tiền vốn ) và chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó. Theo quan điểm này HQKT được thể hiện qua công thức sau: Kết quả thu được Q HQKT = ≈ H = Chi phí bỏ ra C Ưu điểm: Phản ánh rõ việc sử dụng nguồn lực thể hiện thông qua chi phí sản xuất. Nhược điểm: Không phản ánh được quy mô của HQKT, có thể trong thực tiễn tỉ lệ có đạt cao, song mức độ đạt được không đáng kể do lượng tuyệt đối nhỏ và lợi ích kinh doanh mang lại không nhiều. Theo quan điểm này cũng chưa phân tích được sự tác động, sự ảnh hưởng của các yếu tố nguồn lực tự nhiên.
- 9 * HQKT theo hệ thống quan đểm thứ hai cho rằng HQKT được đo bằng hiệu số giữa giá trị sản xuất đạt được và lượng chi phí bỏ ra để đạt được hiệu quả đó. Theo quan điểm này mà thể hiện dưới dạng công thức tính của nó đó là: HQKT = Kết quả thu được - Chi phí bỏ ra ≈ H = Q - C Ở đây nó phản ánh quy mô HQKT song chưa rõ rệt và chưa phản ánh hết mong muốn của nhà sản xuất kinh doanh, chưa xác định được năng suất lao động xã hội và khả năng cung cấp sản phẩm cho xã hội của các cơ sở sản xuất có lợi nhuận như nhau. * HQKT hệ thống quan điểm thứ ba cho rằng khác với hai quan điểm trên, trước hết phải xem xét HQKT trong thành phần biến động giữa chi phí và kết quả sản xuất. HQKT được biểu hiện bằng tỷ số giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí, hay còn là quan hệ tỷ số giữa kết quả bổ sung và chi phí bổ sung. Theo quan điểm này được thể hiện qua công thức sau: Phần tăng thêm về kết quả thu được HQKT = ≈ H = ∆Q/∆C Phần tăng thêm chi phí Có nghĩa là so sánh giữa hai kỳ về chất lượng kết quả, chi phí (mỗi loại cây, con trên một vụ/diện tích ) nhưng vẫn chưa đầy đủ bởi vì trong thực tiễn kết quả sản xuất đạt được luôn là hệ quả của chi phí có sẵn cộng với chi phí bổ sung mà ở mức chi phí có sẵn khác nhau thì hiệu quả kinh tế của chi phí bổ sung cũng khác nhau. Tóm lại, các quan điểm về HQKT cuối cùng đều có chung một quan điểm đó là sự so sánh giữa: Toàn bộ yếu tố đầu vào và toàn bộ yếu tố đầu ra Phần tăng thêm tuyệt đối (hoặc tương đối) của yếu tố đầu ra. Một phương án, một giải pháp HQKT cao là phải đạt tương quan tương đối tối ưu giữa kết quả đem lại và chi phí đầu tư. Việc xác định HQKT phải xem xét đầy đủ các mối quan hệ giữa hai đại lượng trên và thấy được tiêu chuẩn của HQKT là tối đa hoá kết quả và tối thiểu hoá chi phí trong điều kiện nguồn lực có hạn nhất định.
- 10 2.1.3. Các loại hiệu quả * Hiệu quả sản xuất Hiệu quả sản xuất là khái niệm biểu thị hiệu quả của một thì trường trong việc sản xuất ra các sản phẩm với chi phí dài hạn thấp nhất bằng công nghệ hiện có. Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loạt hàng hoá mà không cắt giảm một loạt sản lượng hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của nó. * Hiệu quả xã hội Hiệu quả xã hội của bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh, bất kỳ mô hình nào thì đó chính là khả năng làm việc thường xuyên, tạo cơ hội cho mọi người dân trong vùng đều có việc làm và từ đó tăng nguồn thu nhập. Không ngừng nâng cao mức sống cả về vật chất lẫn tinh thần, trên cơ sở đó thực hiện công bằng xã hội [5]. * Hiệu quả môi trường Hiệu quả môi trường trong sản xuất nông nghiệp phải đảm bảo cho môi trường sinh thái ngày càng được bảo vê ̣và cải thiện phát triển nông, nghiệp nông thôn bền vững. Có nghĩa là phát triển liên tục trên cơ sở khai thác hợp lý các nguồn lực để đáp ứng nhu cầu hiện tại và bảo tồn chúng cho các thế hê ̣tương lai [5]. 2.1.4. Giới thiệu chung về thủy canh 2.1.4.1. Khái niệm về thủy canh Thuỷ canh (hydroponic) là kỹ thuật trồng thực vật trong dung dịch dinh dưỡng. Bí quyết của kỹ thuật này là cung cấp đủ và đúng lúc cho cây trồng các nguyên tố khoáng cần thiết. Cung cấp đầy đủ dinh dưỡng, bảo đảm đủ ánh sáng, CO2 cho quá trình quang hợp, O2 cho quá trình hô hấp, cây trồng có thể phát triển khỏe mạnh theo ý muốn của người trồng. Công nghệ hydroponis đã được nghiên cứu từ thế kỷ XVII. Ðến nay, công nghệ này đã hoàn thiện, hướng đến những nông sản sạch, xanh, không ô nhiễm. Với quy mô gia đình nhỏ lẻ, những chậu hoa hay rau xanh có thể phát triển mạnh mẽ không cần đất nơi góc sân thượng, lan can, bậu cửa. Với quy mô thương mại, những nhà kính trồng hoa, rau, củ, quả phát triển sạch, năng suất cao, chủ động, đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn an toàn vì không bị ảnh hưởng của những nguồn ô nhiễm từ đất. Không những vậy, vì trồng không cần
- 11 đất nên có thể chia không gian thành nhiều tầng để nhân đôi, nhân ba diện tích sản xuất [3]. * Lợi ích của trồng cây bằng phương pháp thủy canh - Không cần đất, chỉ cần không gian để đặt hộp dụng cụ trồng, do vậy có thể triển khai ở những vùng đất cằn cỗi như hải đảo, vùng núi xa xôi, cũng như tại gia đình trên sân thượng, balcon. Không phải làm đất, không có cỏ dại, không cần tưới. Trồng được nhiều vụ không phải sử dụng thuốc trừ sâu bệnh và các hóa chất độc hại khác. - Năng suất cao, vì có thể trồng liên tục - Sản phẩm hoàn toàn sạch, đồng nhất, giàu dinh dưỡng và tươi ngon. - Không tích lũy chất độc, không gây ô nhiễm môi trường. - Không đòi hỏi lao động nặng nhọc, người già, trẻ em đều có thể tham gia hiệu quả. * Hạn chế của kỹ thuật thủy canh - Chi phí đầu tư ban đầu cho hệ thống cao, thời gian thu hồi vốn lâu. - Yêu cầu trình độ kỹ thuật cao: Khi sử dụng kỹ thuật thủy canh yêu cầu người thực hiện phải có kiến thức về sinh lý cây trồng, về hóa học và kỹ thuật trồng trọt cao hơn vì tính đệm hóa trong dung dịch dinh dưỡng thấp hơn trong đất, nên việc sử dụng quá liều một chất dinh dưỡng nào đó có thể gây hại thậm chí có thể dẫn đến chết cây [9],[26]. Mỗi loại rau có yêu cầu về mặt dinh dưỡng khác nhau, chính vì vậy mà việc nghiên cứu từng loại dinh dưỡng phù hợp với từng loại rau gặp nhiều khó khăn, việc pha chế dung dịnh dinh dưỡng đối với người trồng rau lại càng khó khăn, nên người trồng rau phải mua dung dịch dinh dưỡng của người sản xuất với giá thành cao, ảnh hưởng đến chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. - Sâu hại và dịch bệnh có thể lây lan một cách nhanh chóng: Canh tác thuỷ canh tuy đã giảm được rất nhiều về mặt số lượng các nguồn bệnh mà ở địa canh thường gặp phải, nhưng vấn đề bệnh cây trong kỹ thuật thuỷ canh vẫn xảy ra và thỉnh thoảng tổn thất do bệnh gây ra còn lớn hơn nhiều so với địa canh vì trong không khí luôn tồn tại mầm bệnh khi có điều kiện thuận lợi nó sẽ sinh sôi nảy nở. Khi mầm bệnh đã xuất hiện thì trong thời gian rất ngắn chúng đã có mặt ở toàn bộ
- 12 hệ thống, đặc biệt càng nhanh với các hệ thống kín hoặc dùng lại dung dịch dinh dưỡng [25]. 2.1.4.2. Lý luận về trồng cây trong dung dịch dinh dưỡng Từ xưa người ta đã thấy được vai trò của nước đối với đời sống sinh vật nói chung và thực vật nói riêng. “Không có nước là không có sự sống”. Theo Hoàng Minh Tấn, Nguyễn Quang Thạch và Trần Văn Phẩm (2000) [11] thì nước là một trong những thành phần cấu tạo nên keo nguyên sinh, thành phần của vật chất tươi trong cây bao gồm 80-95% nước. Mọi quá trình trao đổi chất trong cơ thể đều cần có nước tham gia. Nước lá môi trường vận chuyển của các chất và tham gia vào các phản ứng hóa sinh để tạo chất khử mang năng lượng lớn dùng để khử CO2 trong cơ thể thực vật. Bên cạnh đó, nước còn ảnh hưởng gián tiếp đến quang hợp như làm giảm nhiệt độ mặt lá, đóng mở khí khổng Tuy nhiên, nhu cầu nước của cây nhiều hay ít còn phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của cây. Cùng với nước thì các chất khoáng cũng có vai trò quan trọng đối với hoạt động sống của cây. Khi nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng của cây từ 1849 đến 1856, Salm - Horstmar đã chứng minh được rằng cây lúa mạch muốn sinh trưởng, phát triển bình thường phải cần đến những nguyên tố cơ bản như N, P, S, Ca, K, Mg, Si, Mn. Năm 1938, Sachs và Knop đã phát hiện rằng để cây trồng sinh trưởng và phát triển bình thường cần phải có 16 nguyên tố cơ bản là C, H, O, N, P, K, Ca, Mg, S, Fe, Cu, Mn, Zn, Mo, Bo, Cl. [9]. Từ đó, các ông đã đề xuất phương pháp trồng cây trong dung dịch. Trong 16 nguyên tố cơ bản kể trên thì có 3 nguyên tố H, C, O cây lấy chủ yếu từ khí cácbonnic và nước, 13 nguyên tố còn lại cây phải lấy từ đất là chính. Như vậy, cơ sở khoa học của kỹ thuật thủy canh là dựa vào bản chất sinh trưởng, phát triển của cây trồng phụ thuộc vào muối khoáng, ánh sáng, sự lưu thông không khí mà không phụ thuộc vào môi trường trồng cây có đất hay không. Cho nên chúng ta có thể trồng cây mà không cần dùng đất, chỉ cần đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về dinh dưỡng. 2.1.4.3. Khái niệm công nghệ cao Công nghệ cao (CNC) là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; được tích hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất,
- 13 dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất, dịch vụ hiện có. Hiện nay, Nhà nước đang tập trung đầu tư phát triển CNC trong 4 lĩnh vực chủ yếu là: 1) Công nghệ thông tin; 2) Công nghệ sinh học; 3) Công nghệ vật liệu mới và 4) Công nghệ tự động hóa. - Hoạt động công nghệ cao: là hoạt động nghiên cứu, phát triển, tìm kiếm, chuyển giao, ứng dụng công nghệ cao; đào tạo nhân lực CNC; ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp CNC; sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công nghệ cao; phát triển nông nghiệp CNC. - Sản phẩm công nghệ cao: là sản phẩm do CNC tạo ra, có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường. - Trình độ CNC: Có thể phân thành 4 mức độ: Công nghệ hiện đại, công nghệ tiên tiến, công nghệ trung bình tiên tiến, công nghệ trung bình. Trong đó, công nghệ hiện đại là công nghệ đã phối hợp, sử dụng các thành tựu của công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới [24]. 2.1.4.4. Quy trình sản xuất giữa rau thường và thủy camh * Rau thường Hầu hết việc sản xuất rau truyền thống dựa trên kinh nghiệm trồng rau từ nhiều năm, người dân vẫn dùng các loại phân bón và thuốc hóa học một cách quá mức, không theo quy định, những loại thuốc có độc tố cao, thời gian cách ly ngắn do vậy mà dư lượng thuốc BVTV trong rau cao. Hơn nữa điều kiện sản xuất như đất, nước không sạch chứa nhiều kim loại nặng, một số sử dụng phân tươi để tưới rau Đây là những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ngộ độc. Thời gian gần đây người dân đã ý thức hơn tuy nhiên một số vẫn vì mục đích kinh tế mà rau vẫn không đảm bảo an toàn. * Rau thuỷ canh - Chi phí, giá thành: Nếu đầu tư bài bản thì phương pháp trồng rau thủy canh sẽ có giá thành cao hơn. Tuy nhiên, về lâu dài và nếu tính giá thành/sản phẩm thì phương pháp thủy canh có thể cho giá sản phẩm khá tối ưu. Tốn kém nhất trong phương pháp trồng rau là đầu tư các vật liệu và dụng cụ ban đầu.
- 14 - Về dinh dưỡng: Trong phương pháp thủy canh, cây trồng cần dinh dưỡng nhiều hay ít trong từng giai đoạn đều được cung cấp đủ theo nhu cầu. Đủ hay thiếu dinh dưỡng đều có thể điều chỉnh ngay. - Về diện tích trồng: Mô hình trồng rau thủy canh trên cùng một diện tích trồng như thổ canh thì diện tích canh tác được nhiều hơn. Thủy canh thích hợp với điều kiện canh tác chật chội như trồng trên sân thượng, ban công nhà phố. - Về sâu bệnh: Trồng bằng phương pháp thủy canh thì ít sâu bệnh hơn hẳn so với phương pháp trồng thông thường. Nếu trồng trong nhà kính và khử trùng thường xuyên thì gần như không có sâu bệnh. - Về công chăm sóc: Về cơ bản thì trồng bằng phương pháp thổ canh nhàn hơn tuy nhiên, nếu đủ điều kiện thích hợp thì trồng bằng phương pháp thủy canh hoàn toàn đơn giản và tiết kiệm thời gian. Do vậy, công chăm sóc cũng giảm đáng kể. - Về tốc độ phát triển: Cây trồng bằng phương pháp thủy canh thường phát triển nhanh hơn từ 30- 50% so với trồng bằng phương pháp truyền thống. Cây lớn nhanh nhưng không bị dư lượng hóa học trên cây trồng, đảm bảo an toàn. Đối với các cây rau quả ngắn ngày, phương pháp thủy canh cho năng suất cao trong một thời gian canh tác ngắn. 2.1.4.5. Các loại hình thủy canh Căn cứ vào đặc điểm sử dụng dung dịch dinh dưỡng có thể chia thành hai hệ thống thủy canh như sau: * Hệ thống thủy canh tĩnh: Ở hệ thống này, một hoặc toàn bộ rễ cây được nhúng liên tục trong dung dịch dinh dưỡng là hệ thống mà trong quá trình trồng cây, dung dịch dinh dưỡng không chuyển động. Hệ thống này có ưu điểm là không phải đầu tư chi phí thiết bị làm chuyển động dung dịch nên giá thành thấp hơn, nhưng hạn chế là thường thiếu ôxy trong dung dịch và dễ sinh ra chua gây ngộ độc cho cây. * Hệ thống thủy canh động: Đây là loại hệ thống mà trong quá trình trồng cây, dung dịch dinh dưỡng có sự chuyển động; chi phí cao hơn nhưng cây trồng
- 15 không bị thiếu oxy. Các hệ thống thủy canh động hoạt động trên nguyên lý thủy triều, sục khí, tưới nhỏ giọt. Hệ thống thủy canh này chia làm hai loại như sau: - Thủy canh mở là hệ thống thủy canh động mà trong đó dung dịch dinh dưỡng không có sự tuần hoàn trở lại, gây lãng phí dung dịch. - Thủy canh kín là hệ thống thủy canh động mà trong đó dung dịch dinh dưỡng có sự tuần hoàn trở lại nhờ một hệ thống bơm hút dung dịch dinh dưỡng từ bể chứa [9]. 2.1.4.6. Vị trí, vai trò của cây rau đối với đời sống kinh tế - xã hội Rau xanh là loại thực phẩm thiết yếu của cuộc sống, nó cung cấp phần lớn các khoáng chất và vitamin, góp phần cân bằng dinh dưỡng trong bữa ăn hàng ngày của con người. Đồng thời, rau là cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao, là mặt hàng xuất khẩu quan trọng của nhiều nước trên thế giới. Cây rau được sử dụng và trồng từ khi loài người mới xuất hiện. Từ xa xưa người Ai Cập cổ đại và người Hy Lạp đã trồng và sử dụng bắp cải như là nguồn lương thực chính của họ. Theo FAO (2006) [21], nhiều nước trên thế giới trồng rất nhiều chủng loại rau với diện tích rất lớn. Tại các nước phát triển tỷ lệ cây rau so với cây lương thực là 2/1, còn các nước đang phát triển tỷ lệ này là 1/2 [21]. Rau xanh không chỉ cung cấp một lượng dinh dưỡng nhất định, đặc biệt là khoáng chất và các loại vitamin trong khẩu phần ăn hàng ngày mà còn cung cấp cellulose giúp cho cơ thể tiêu hóa thức ăn, đào thải nhanh colesterolle và các chất có hại khác ra khỏi cơ thể, rau xanh còn là nguồn dược liệu quý cho cuộc sống của con người. So sánh thành phần dinh dưỡng của cây rau và cây ngũ cốc, A.F.M.Sharfuddin và M.A.Sididque (1985) cho biết rau có hàm lượng vitamin, các khoáng chất cao hơn lúa mì và lúa nước rất nhiều lần. Trong khẩu phần ăn hằng ngày rau cung cấp khoảng 95 - 99% nguồn vitamin A, 60 - 70% nguồn vitaminh B và gần 100% nguồn vitamin C. Các loại vitamin có trong rau như: Vitamin A, B1, B2, C, E, PP có tác dụng quan trọng trong quá trình phát triển của cơ thể. Nếu ăn uống lâu ngày thiếu rau xanh thường xuất hiện các triệu chứng như da khô, mắt mờ, quáng gà dothiếu vitamin A, chảy máu chân răng, tay chân mỏi mệt do thiếu vitamin C, Thiếu vitamin sẽ giảm sức dẻo dai, hiệu suất làm việc sút kém, bệnh tật dễ phát sinh, khi mắc bệnh chữa lâu lành. Trong hoạt động hằng ngày, mỗi
- 16 người đều cần một lượng vitamin nhất định, cùng các chất khoáng trong rau chủ yếu như K, Mg, Ca, Fe, vi lượng là những chất rất cần thiết. Một số loại rau còn được sử dụng như những cây dược liệu quý như: Tỏi, Gừng, Nghệ, Tía tô, Hành tây, Rau xanh còn là loại cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao, thời gian sinh trưởng ngắn, có khả năng trồng nhiều vụ trong năm và có khả năng thích ứng với nhiều vùng sinh thái khác nhau. Do đó, rau được coi là loại cây trồng chủ lực trong việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng xóa đói giảm nghèo cho nông dân Việt Nam. Theo Báo cáo điều tra của Viện Kinh tế Nông nghiệp Việt Nam năm 1996 tại 4 tỉnh, thành gồm Hà Nội, Hà Tây, Nam Định và Thái Bình cho thấy tổng thu nhập trên 1 ha trồng ngô là 3.333.000 đồng, bắp cải là 11.743.000 đồng, dưa chuột là 23.532.000 đồng [15]. Những năm gần đây cho thấy nghề trồng rau không chỉ đáp ứng nhu cầu sản xuất rau xanh trong nước cho công nghiệp chế biến mà còn cho xuất khẩu. Hiện nay, tổng kinh ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam tăng 30 triệu USD/năm (2008: 430 triệu USD, 2009: 470 triệu USD, 2010: 471,5 triệu USD, tăng 7,4% so với năm 2009), trong đó, rau chiếm khoảng 40% [17]. 2.1.4.7. Nguyên nhân gây ô nhiễm sản phẩm Hàm lượng Nitrat quá cao là hậu quả của bón phân hoá học, đặc biệt là bón đạm quá liều lượng hoặc bón phân đạm không đúng lúc, gần thời gian thu hoạch. Cây hấp thụ đạm và các chất qua bộ rễ, tổng hợp thành các chất dinh dưỡng tích luỹ trong các bộ phận của cây nhưng trước khi chuyển hoá thành các chất dinh dưỡng, đã tồn tại trong cây dưới dạng Nitrat. Trong cơ thể người lượng Nitrat cao có thể tác dụng với Amin thành chất gây ung thư gọi là Nittrosmin. Theo tổ chức WTO thế giới quy định lượng Nitrat trong rau không vượt quá 300 mg/kg rau tươi. Mỹ cho rằng lượng đó còn phụ thuộc vào lượng rau. Tồn dư kim loại nặng trong sản phẩm rau: Các kim loại nặng tiềm ẩn trong đất trồng hoặc từ nguồn nước từ thành phố và khu công nghiệp chuyển trực tiếp qua nước tưới được rau hấp thụ. Sự lạm dụng quá mức thuốc BVTV dùng để trừ sâu bệnh, cỏ dại cùng với phân bón các loại (đạm, lân, kali ) đã làm các chất rửa trôi, xuống mương, ao, hồ thâm nhập vào các mạch nước ngầm gây ô nhiễm, bón phân cũng nhiều làm tăng hàm lượng Camidi trong đất vào trong sản phẩm rau. Một số tấn Supe lân chứa từ 50 - 70 gam Camidi.
- 17 Dư lượng hoá chất BVTV Khi phun thuốc sâu, trừ bệnh và thuốc BVTV sẽ tạo thành một lớp mỏng trên bề mặt cây trồng và một lớp chất lắng và dư lượng ban đầu của thuốc. Sản phẩm rau sẽ gây ngộ độc cho người, gia súc khi: - Thu hoạch gần thời gian phun thuốc, không đảm bảo thời gian cách ly, thuốc chưa phân huỷ hết. - Các loại thuốc có ngộ độc cao và phân huỷ chậm, các loại thuốc đã bị cấm hoặc hạn chế sử dụng như Monitor, Uwofaox Vi sinh vật gây bệnh và ký sinh trùng đường ruột Trong phân chuồng, phân bắc chứa hai loại có chứa trứng giun và một số vi sinh gây bệnh như E.coli, Salmonella. Việc sử dụng nước phân tưới cho rau, đặc biệt là rau gia vị, rau ăn sống là hình thức truyền tải trứng giun và các yếu tố gây bệnh nguy hiểm đến tính mạng như bệnh ỉa chảy, giun móc [6]. 2.1.5. Giới thiệu chung về cây rau muống Rau muống có tên khoa học là Ipomoea aquatica Forsk, thuộc họ Khoai lang Convolvulaceae. Lá rau muống hình tam giác hay hình mũi tên, hoa trắng hoặc tím, quả nang chứa 4 hạt có lông màu hung. Rau muống có nguồn gốc nhiệt đới châu Á, khu vực Nam và Đông Nam Á, nhiệt đới châu Phi, Trung Á, Nam Mỹ và châu Đại Dương. Rau muống là cây ngắn ngày, sinh trưởng nhanh, cho năng suất cao, sống được ở nhiệt độ cao và đủ ánh sáng. Có thể trồng rau muống trên nhiều loại đất: đất sét, đất cát, đất pha cát, đất ẩm giàu mùn hoặc đất được bón phân hữu cơ, có độ pH= 5,3 – 6,0. Phân loại: Rau muống có thể chia làm 2 loại: - Rau muống nước: được trồng hoặc mọc tại nơi nhiều nước, ẩm ướt, thậm chí sống tốt khi kết thành 1 bè và thả trôi trên kênh mương hay hồ. Loại này thân to, cuống thường có màu đỏ, mọng, luộc ngon hơn xào hay ăn sống. - Rau muống cạn, trồng trên luống đất, cần không nhiều nước, thân thường trắng xanh, nhỏ. Loại thứ hai thường thích hợp với xào hoặc có thể ăn sống.
- 18 2.2. Cơ sở thực tiễn 2.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ rau trên thế giới và ở Việt Nam 2.2.1.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ rau trên thế giới Theo thống kê của FAO (2008) [22]: Năm 1980, toàn thế giới sản xuất được 375 triệu tấn rau, năm 1990 là 441 triệu tấn, năm 1997 là 596,6 triệu tấn và năm 2001 đã lên tới 678 triệu tấn. Chỉ riêng cải cải bắp và cà chua sản lượng tương ứng là 50,7 triệu tấn và 88,2 triệu tấn với năng suất tương ứng 24,4 tấn/ha. Lượng tiêu thụ rau bình quân theo đầu người là 110 kg/người/năm. Tuy nhiên, trình độ phát triển nghề trồng rau của các nước không giống nhau. Theo K.U Ah med và M.shajahan (1991) cho biết nếu tính sản lượng theo đầu người ở các nước phát triển sản lượng cao hơn hẳn các nước đang phát triển, các nước phát triển tỷ lệ cây rau so với cây lương thực là 2/1, trong khi ở các nước đang phát triển là 1/2. Châu Á có sản lượng rau hàng năm đạt khoảng 400 triệu tấn với mức tăng trưởng 3% (khoảng 5 triệu tấn/năm), mức tiêu dùng rau của các nước Châu Á là 84 kg/người/năm. Trong số các nước đang phát triển thì Trung Quốc có sản lượng cao nhất đạt 70 triệu tấn/năm, Ấn Độ đứng thứ 2 với sản lượng rau hàng năm là 65 triệu tấn. Ngoài mức tăng về sản lượng hàng năm thì chất lượng ngày càng được quan tâm. Nhiều tiến bộ kỹ thuật được áp dụng để hạn chế các tồn dư trong sản phẩm rau (hàm lượng NO3, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, hàm lượng kim loại nặng có hại cho sức khoẻ con người) như: kỹ thuật trồng rau không dùng đất, trồng trong dung dịch, trồng cây trong điều kiện có che chắn; Sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật an toàn cho đất, bảo vệ môi trường. Rau được tiêu thụ ở tất cả các nước trên thế giới. Theo FAO (2006) nhu cầu tiêu thụ rau, quả trên thế giới tăng 3,6%/năm. Nhưng mức cung cấp chỉ có tăng 2,8%. Rau được dùng kết hợp với các loại hoa quả thực phẩm rất tốt cho sức khỏe con người, do đó nhu cầu tiêu thụ rau ngày càng tăng. Theo dự báo nhu cầu tiêu thụ rau quả trên thế giới sẽ tăng 5%/năm, Nhật Bản tiêu thụ rau quả nhiều nhất trên thế giới, mỗi năm Nhật bản tiêu thụ 17 triệu tấn rau các loại, bình quân mỗi người tiêu thụ 100 kg/năm, xu hướng tiêu thụ rau gần đây chủ yếu là các loại rau tự nhiên và có lợi cho sức khỏe là những loại rau giàu vitamin. Trung bình trên thế giới mỗi người tiêu thụ 154 – 172 g/ngày [21].
- 19 Theo FAO (2006) tiêu thụ rau và hoa quả tươi của Anh là 79,6 kg/người/năm. Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ do tác động của các yếu tố như sự thay đổi cơ cấu dân số, thị hiếu tiêu dùng và thu nhập dân cư, tiêu thụ nhiều loại rau đã tăng mạnh trong những năm qua [21]. 2.2.1.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ rau ở Việt Nam Việt Nam có lịch sử trồng rau từ lâu đời. Từ thời Vua Hùng, người ta đã phát hiện rau bầu bí trong vườn của gia đình. Theo sử sách thì rau được nhập vào nước ta từ đầu thế kỷ thứ X. Năm 1721 - 1783, Lê Quý Đôn đã tiến hành tổng kết các vùng phân bố rau. Năm 1029, nước ta đã tiến hành trồng thử rau cải trắng và khoai tây, như vậy nghề trồng rau nước ta ra đời từ rất sớm. Những năm trước đây, do nền kinh tế tự túc kéo dài, nghề trồng rau nước ta rất manh mún, chủng loại rau nghèo; diện tích và sản lượng rất thấp so với tiềm năng đất đai, khí hậu của Việt Nam. Hiện nay, chúng ta có khoảng 70 loài thực vật được sử dụng làm rau hoặc chế biến thành rau; rau trồng có khoảng hơn 30 loại, trong đó, có khoảng 15 loại chủ lực, trong số này có hơn 80% là rau ăn lá. Theo số liệu thống kê từ năm 1967 cho tới nay, sản xuất rau không ngừng tăng nhanh đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (2007 – 2010) cho thấy: ba năm 2007-2010, diện tích, năng suất và sản lượng rau tăng dần. Năm 2007, diện tích cả nước là 706.479 ha, năng suất 15,69 tấn/ha, sản lượng 11.084.655 tấn; năm 2008 diện tích tăng lên 722.580 ha, năng suất 15,93 tấn/ha, sản lượng 11.510.77 tấn; năm 2009, diện tích tăng lên 735.335 ha, năng suất 16,12 tấn/ha, sản lượng 11.885.067 tấn. Riêng miền Bắc diện tích rau có xu hướng giảm. Năm 2007, diện tích là 335.497 ha, năng suất 14,60 tấn/ha, sản lượng 4.899.834 tấn; năm 2009, diện tích giảm xuống còn 330.578 ha, năng suất 14,99 tấn/ha, sản lượng 4.956.667 tấn. Đặc biệt vùng Đồng bằng Sông Hồng diện tích giảm do tốc độ đô thị hoá tăng mạnh, nhưng về năng suất và sản lượng đã tăng hàng năm do trình độ và kỹ thuật canh tác phát triển. Năm 2007, diện tích là 160.747 ha, năng suất 18,64 tấn/ha, sản lượng 2.996.443 tấn; năm 2009, diện tích giảm xuống còn 142.505 ha, năng suất 19,88 tấn/ha, sản lượng 2.832.753 tấn.
- 20 Các tỉnh miền Nam có xu hướng tăng lên. Năm 2007, diện tích là 370.644 ha, năng suất 20,14 tấn/ha, sản lượng 6.194.730 tấn; năm 2009, diện tích tăng lên 404.757 ha, năng suất 17,11 tấn/ha, sản lượng 6.928.400 tấn. Ở Việt Nam, rau được tiêu thụ hầu hết ở các hộ gia đình. Theo số liệu điều tra của Viên Nghiên cứu Rau Quả (2002) có 100% hộ gia đình tiêu thụ rau. Tính từ năm 1993 – 1998, rau được tiêu thụ rộng rãi nhất là rau muống (95% số hộ tiêu thụ), sau đó là cà chua 88%. Năm 1998 – 2002, rau tiêu thụ chủ yếu là đậu đỗ, bắp cải, su hào, mức tiêu thụ rau tăng 10%/năm [14]. Bình quân tiêu thụ rau của người Việt Nam là 54 kg/người/năm. Giá trị tiêu thụ rau hàng năm (bao gồm giá trị tự trồng) là 126.000 đồng/người hoặc 529.000 đồng/hộ (chiếm khoảng 4% tổng chi phí tiêu dùng). Trong một khảo sát gần đây của Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam về sản xuất và thương mại hàng hóa rau cho thấy: Tổng lượng rau tiêu thụ bình quân đầu người tăng hơn 2 lần so với 10 năm qua. Xu hướng tiêu thụ rau của người Việt Nam cũng có nhiều thay đổi. Mức tiêu thụ rau theo đầu người sẽ tăng khoảng một nửa so với mức tăng của thu nhập, năm 2010 đạt mức tiêu thụ bình quân 140 kg/người/năm. Rau xanh vấn giữ vị trí quan trọng trong bữa ăn hàng ngày và mức tiêu thụ ngày càng lớn, nhưng được đánh giá mang lại nhiều rủi ro cho người tiêu dùng do chất lượng rau ở nhiều nơi không đảm bảo. Vì thế, mục tiêu của ngành sản xuất rau quả hiện nay là đáp ứng nhu cầu rau có chất lượng cao cho người tiêu dùng nhất là các vùng tập trung đông dân cư [18]. 2.2.1.3. Tình hình sản xuất rau an toàn trái vụ ở Việt Nam Trong 10 năm trở lại đây, các cơ quan nghiên cứu trong nước, các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp nông nghiệp đã tổ chức nghiên cứu, thử nghiệm nhiều kỹ thuật sản xuất rau an toàn, rau hữu cơ, kết hợp trồng rau trái vụ tăng hiệu quả sản xuất, tăng chất lượng sản phẩm cho xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Trong đó, có khá nhiều nghiên cứu về kỹ thuật thủy canh với 2 hệ thống thủy canh là: hệ thống thủy canh tĩnh và hệ thống thủy canh động. Giới thiệu một số mô hình sản xuất thử nghiệm, như sau [13]. * Tại Hà Nội: Một khu nông nghiệp công nghệ cao được khởi công tháng 4/2002 đã hoàn thành và đi vào hoạt động tháng 9/2004. Vốn đầu tư 24 tỷ đồng (1,5 triệu USD), trong đó 50% vốn ngân sách thành phố và 50% vốn cơ quan chủ quản.
- 21 Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Nội. Khu này được xây dựng trên diện tích 7,5 ha với 5.500 m2 trồng dưa chuột, cà chua, ớt ngọt; 2.000m2 trồng hoa, các giống đều được nhập từ ISAREL. Với tiến bộ mới về giống, quy trình chăm bón, hệ thống dinh dưỡng khoáng tự động, ánh sáng và nhiệt độ được điều chỉnh, năng suất cây trồng ở đây đạt khá cao và việc sản xuất bước đầu được xem là hiệu quả. Các giống cà chua trồng trong nhà kính công nghệ cao ISAREL đều là các giống cà chua chịu nhiệt, có khả năng cho năng suất cao và chất lượng tốt. Năng suất đạt cao nhất là giống quả to (226,5 tấn/ha), tiếp đến giống quả nhỡ và thấp nhất là giống quả bi (82,5 tấn/ha). Các giống dưa chuột được trồng trong nhà kính ISAREL đều là giống chọn tạo thích hợp trồng trong nhà, là giống có tỉ lệ đậu quả cao, có khả năng cho năng suất cao. Vụ xuân hè đạt năng suất 78- 116 tấn/ha, vụ thu đông đạt 74 tạ/ha. Chất lượng dưa chuột đều đạt tiêu chuẩn rau an toàn. Năng suất của các giống ớt ngọt trài vụ không cao (chỉ đạt từ 50 đến 120 tấn/ha). Sản phẩm ớt ngọt đạt tiêu chuẩn rau an toàn. Thành phố Hà Nội đã hình thành các mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới trong sản xuất rau an toàn tại Vĩnh Tuy, Lĩnh Nam, (Thanh Trì), Vân Nội (Đông Anh) đã xuất hiện nhiều trang trại ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất rau và hoa. Năm 2002, toàn thành phố có 54 quầy bán rau an toàn, thực phẩm sạch. Hiện nay, thành phố đang xây dựng các dự án nông nghiệp công nghệ cao. Mô hình rau, hoa chất lượng cao ở huyện Từ Liêm 16 ha; mô hình nông nghiệp công nghệ cao Nam Hồng (Đông Anh) 30 ha, ở Kim Sơn (Gia Lâm) 15 ha [18]. * Tại thành phố Hồ Chí Minh: Một khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao cũng đã được phê duyệt với quy mô 100 ha. Tại đây, sẽ có khu sản xuất rau bằng phương pháp thủy canh, trồng trên giá thể không đất, nuôi trồng các loại lan, sản xuất nấm. Từ năm 2000 đến nay, tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp ngày càng cao hơn. Năm 2001 là 3,7%, năm 2002 đạt 4,7% và năm nay tăng vọt lên đến 9,1%. Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa tiêu chí công nghệ cao vào nông nghiệp bằng việc xây dựng một khu nông nghiệp áp dụng các công nghệ tiên tiến với hơn 100 ha đất tại huyện Củ Chi. Trong đó, tập trung phát triển mô hình trồng rau bằng kỹ thuật thuỷ canh (hydropnics), màng dinh dưỡng (deep pond & flooting board technology) và canh tác trên giá thể không đất; công nghệ nuôi cấy mô (tissue culture) cho rau,
- 22 hoa, lan, cây cảnh, cây ăn trái ; ứng dụng chất điều hoà sinh trưởng thực vật (plant regulators) trong điều khiển cây trồng; ứng dụng công nghệ gene; sản xuất nấm và các chế phẩm vi sinh [13]. * Tại Hải Phòng: Dự án được triển khai thực hiện tại xã Mỹ Đức, huyện An Lão với tổng đầu tư 22,5 tỷ đồng. Cơ quan chủ trì là Trung tâm Phát triển lâm nghiệp Hải Phòng. Khu nông - lâm nghiệp công nghệ cao Hải Phòng đã xây dựng các phân khu chức năng như: khu bảo tồn cây ăn quả đầu dòng và vườn ươm cây giống; khu sản xuất giá thể; khu nhà lưới sản xuất cây cảnh. Hiện nay, các khu nhà lưới, nhà kính sản xuất rau và hóa đã hoạt động và cho sản phẩm được 2-3 vụ. Năng suất cà chua, dưa chuột đạt 200-350 tấn/ha/năm, hoa hồng cũng đạt 200-300 bông/m2. * Tại Vĩnh Phúc: đã triển khai dự án rau an toàn với 130 ha ở 16 xã thuộc huyện Mê Linh, với 9000 hộ nông dân; sản lượng 2,5 vạn tấn/năm, với công thức 5 cấm trong rau sạch, 3 chỉ tiêu an toàn (dư lượng N03, thuốc sâu, vi sinh vật gây bệnh) [13]. * Tại Nghệ An: đã xây dựng mô hình sản xuất rau trong nhà lưới rộng 0,75 ha ở Đông Vĩnh, thành phố Vinh, tổng thu 150 triệu/ha/năm với lợi nhuận 75 triệu đồng [13]. * Tại Quảng Trị: Diện tích rau trồng rau vụ trái chỉ chiếm diện tích 500 ha, trong đó tập trung ở các vùng đất tốt, chủ động tưới tiêu, gần nơi tiêu thụ như vùng chuyên canh rau Đông Giang, Đông Thanh, Gio Phong, Nại Cửu, Đạo Đầu, Tuy nhiên, điều kiện thời tiết khắc nghiệt nên sản xuất gặp nhiều khó khăn. Quảng Trị đã tiến hành thử nghiệm mô hình trồng rau trái vụ trong nhà lưới ở Triệu Giang, với 4 hộ tham gia, diện tích 200m2/hộ, đất trồng rau thuộc loại đất cát ven biển và đất phù sa, tiến hành trồng rau an toàn và trái vụ trong nhà lưới, chủng loại rau trồng là rau ăn lá (xà lách, mồng tơi, rau má, rau dền) và rau mầm. Kết mô hình thử nghiệm, trong 5 tháng mùa khô cho thấy: Tổng lãi ròng thu được sau 5 tháng trồng rau trên diện tích 200 m2 là hơn 4.7 triệu/hộ, sau khi trừ chi phí làm nhà lưới, các hộ còn lãi từ 1,8 - 2,0 triệu đồng [9].
- 23 2.2.2. Tình hình sản xuất và ứng dụng kỹ thuật thủy canh trong nước và thế giới 2.2.2.1. Kết quả nghiên cứu về dung dịch dinh dưỡng để trồng cây bằng kỹ thuật thủy canh trên thế giới Dung dịch dinh dưỡng để trồng cây bằng kĩ thật thuỷ canh được nghiên cứu cùng với sự ra đời của kỹ thuật thuỷ canh. Sau khi các nhà khoa học xác định được sự sinh trưởng của cây trồng sẽ không bình thường nếu thiếu 1 trong 16 nguyên tố hoá học sau: C, H, O, N, P, K, Ca, Mg, S, Fe, Cu, Mn, Zn, Mo, B, Cl; hàng loạt các dung dịch dinh dưỡng để nuôi trồng cây bằng kỹ thuật thuỷ canh được các nhà khoa học đưa ra. Dung dịch dinh dưỡng đầu tiên được sử dụng để nuôi cây là của nhà sinh lý thực vật Knop (từ giữa thế kỷ 19). Dung dịch Knop có đặc điểm là thành phần rất đơn giản, chỉ gồm 6 loại muối vô cơ, trong đó chứa các nguyên tố đa và trung lượng, không có các nguyên tố vi lượng. Do vậy, khả năng sinh trưởng của cây trồng trong dung dịch này không được tốt. Sau dung dịch Knop là các dung dịch dinh dưỡng phổ biến để nuôi trồng thực vật bậc cao. Các nhà khoa học còn nghiên cứu các dung dịch dinh dưỡng riêng cho một số loài cây trồng lúa của Axan, dung dịch đểồng lúa của Axan, dung dịch đểtrồng củ cải đường của Belouxov, dung dịch để trồng cà chua của Kitxon,dung dịch để trồng chè của Khaan và Xcurea, dung dịch để trồng táo của Mori , dung dịch của Winsor (1973) để trồng cà chua [9]. Carbonell và cộng sự (1994) nhận xét: có Asen trong dung dịch dinh dưỡng làm tăng sự hấp thụ Fe và giảm sự hấp thụ Bo, Cu, Mn, Zn [19]. Carbonell và cộng sự (Mỹ - 1994), còn nghiên cứu ảnh hưởng của nguyên tốasen đến hàm lượng các nguyên tố vi lượng trong cây cà chua được trồng trong thuỷ canh và kết luận: Có asen trong dung dịch dinh dưỡng làm tăng sự hấp thu sắt và giảm sự hấp thu B, Cu, Mn, Zn, tức là asen gây nên sự phá huỷ cấu trúc cây [19]. 2.2.2.2. Kết quả nghiên cứu về sâu bệnh hại trong kỹ thuật thủy canh trên thế giới Trong môi trường dung dịch dinh dưỡng, khi một cây xuất hiện bệnh thì khả năng lan truyền bệnh rất nhanh, nhất là ở hệ thống thủy canh động. Vấn đề này đã và đang được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Price và Fox (1986) đã thấy Etridiazole và Furalaxyl có khả năng ngăn chặn được nấm Pythium hại cây dưa chuột trong hệ thống thủy canh nhưng theo quy luật. Khi Stanghellini
- 24 và Rasmussen (1994) nghiên cứu về bệnh cây và các giải pháp loại trừ bệnh đối với kỹ thuật thủy canh đã nhận xét bệnh ở rễ là một trong những hạn chế chính đối với sản lượng tối đa tiềm tang đối với bất cứ loại cây trồng nào. Một số biện pháp kiểm soát bệnh trong kỹ thuật thủy canh: - Biện pháp cơ học và canh tác: vệ sinh hệ thống thủy canh là biện pháp 28 phòng bệnh có hiệu quả; khi bệnh đã xuất hiện, cần xử lý dung dịch dinh dưỡng. Có nhiều biện pháp xử lý dụng dịch dinh dưỡng như lọc dung dịch, dùng sóng siêu âm, ozon hóa, chiếu tia cực tím để khử hoạt tính nhiệt. - Biện pháp hóa học: khử trùng giá thể trước khi sử dụng; bổ sung các loại thuốc diệt nấm, các biocides, các chất có hoạt tính bề mặt vào dung dịch dinh dưỡng; phun hóa chất khi bệnh mới xuất hiện để phòng trừ bệnh cũng có hiệu quả. 2.2.2.3. Tình hình phát triển kỹ thuật thủy canh trên thế giới Theo tài liệu của Trung tâm Thông tin Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm trồng trọt không dùng đất trong nghề làm vườn (1992) [9]. Trên thế giới xuất hiện nhiều kết quả nghiên cứu và triển khai các kỹ thuật trồng cây không dùng đất trên các đối tượng rau ăn lá và ăn quả. Sau khi hệ thống thủy canh trong nước sâu của Gericke được đề xuất năm 1930, hàng loạt các cơ sở trồng thương mại đã ra đời như: cơ sở trồng cây Hydroponic của Mỹ ở Nhật trước kia đã sử dụng kỹ thuật trồng cây trên giá thể trơ có dung dịch dinh dưỡng hồi lưu để sản xuất rau xanh. Năm 1940, diên tích trồng thuỷ canh của toàn thế giới xung quanh khoảng 10 ha, năm 1970 đã lên tới 300 ha và đến năm 1980 đã lên tới 6000 ha (Donnan, 1998). Năm 2001, diện tích trồng thuỷ canh ở giữa 20.000 - 25.000 ha và giá trị sản xuất từ 6 - 8 tỷ USD (Hassan estimate bas on Carruthers 1999 pro-rata for additional production data). Năm 1989, ở Ashby Massachu chetts (Hoa Kỳ) có cơ sở HydroHarvert sản xuất rau quanh năm với diện tích 3.400 m2 trong đó có 69% diện tích trồng rau diếp, 13% trồng cải xong, 13% trồng hoa cắt và 5% dùng vào các mục đích thí nghiêm khác. Năm 1994, ở Mỹ có khoảng 220 ha rau trồng trong nhà kính, trong đó có 75% trồng không dùng đất và trồng trong dung dịch. Các loại rau trồng chủ yếu là cà chua, dưa chuột, rau diếp, ớt Năm 1991, chỉ riêng Bắc Âu có hơn 4.000 ha rau trồng trong dung dịch. Hiện nay, trên thế giới có nhiều nước sử dụng hệ thống trồng
- 25 cây không dùng đất, bằng nhiều kỹ thuật và dung dịch khác. Có cả dung dịch vô cơ và dung dịch hữu cơ đảm bảo sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng cao. Công nghệ sản xuất thuỷ canh lớn nhất trên thế giới là Hà Lan (10.000 ha), Tây Ban Nha (4.000 ha), Canada (2.000 ha), Nhật (1.000 ha), New Zealand (550 ha), Anh (460 ha), Mỹ (400 ha) và Italy (400 ha). Trong vòng 20 năm (1980 đến 2001), diện tích trồng thuỷ canh của thế giới đã tăng gấp 5lần từ 5.000 ha lên 25.000 ha. * Hà Lan là nước dẫn đầu về sản xuất rau bằng công nghệ thuỷ canh trên thế giới với 13.000 ha và thu hút lao động khoảng 40.000 người. Giá trị sản xuất thuỷ canh chiếm 50 % giá trị sản xuất rau và quảở quốc gia này. Hà Lan sản xuất nhiều nhất là rau ăn quả như ớt, cà chua, dưa chuột và là mặt hàng chính để cho xuất khẩu. Sau đó là các loại hoa cắt như hoa Hồng, gerbera, caration xuất khẩu thương mại ở nhiều nước trên thế giới. * Ở Tây Ban Nha, công nghệ thuỷ canh đã bắt đầu phát triển nhanh chóng với diện tích nhà lưới hiện nay là 30.000 ha và hơn 20% của tổng diện tích trồng theo phương pháp thuỷ canh. * Ở Canada, đã phát triển và mở rộng tổng diện tích sản xuất nông nghiệp áp dụng công nghệ thủy canh từ 100 ha vào năm 1987 đến 2.000 ha năm 2001 với công nghệ thuỷ canh Rockwool, perlite và NFT cho sản xuất cà chua, dưa chuột và ớt. Hơn 50 % của cà chua và ớt và 25% của dưa chuột sản xuất bằng công nghệ thuỷ canh và xuất khẩu sang Mỹ. Thuỷ canh là phương pháp phổ biến trồng rau trong nhà kính ở Canada năm 1988, trồng rau trong nhà lưới bằng công nghệ thuỷ canh đã đóng góp ¼ tổng giá trị sản xuất rau của Canada bằng khoảng 1,4 tỷ USD. * Ở Nhật Bản, kỹ thuật trồng cây trong dung dịch được sử dụng chủ yếu để trồng rau, năng suất cà chua đạt từ 130 - 140 tấn/ha/năm, dưa leo 250 tấn/ha/năm hiện nay ở Nhật ngoài các hệ thống trồng thủy canh cây cà chua, dưa leo, dâu tây còn sử dụng các hệ thống trồng cây khác như hệ thống khí canh, kỹ thuật trồng cây trên màng mỏng dinh dưỡng NFT máng trượt trồng các loại rau ăn lá và rau cao cấp. Sản xuất thuỷ canh ở Nhật Bản có sự kết hợp rất cao với công nghệ chế biến thực phẩm. Phần lớn sản phẩm thủy canh được phục vụ cho ngành chế biến thực phẩm, một phần nhỏ sử dụng cho bán lẻ.
- 26 Tại New Zeland, chuyên sản xuất các loại sản phẩm nông nghiệp trong nhà lưới, mới đây không lâu đã sản xuất thuỷ canh, cây ăn quả, rau và hoa cắt. Hiện tại thì tất cả các nhà lưới ở New Zeland đều trồng thuỷ canh và định hướng cho xuất khẩu. Chính phủ New Zeland đã có nhiều chính sách khuyến khích phát triển công nghệ này, nhất là ở ven khu công nghiệp, ngoại ô ven đô thị lớn. * Tại Anh, người ta xây dựng hệ thống (NFT) trồng cây trên màng mỏng dinh dưỡng chuyên sản xuất cà chua với diện tích 8,1 ha (mật độ 22.230 cây/ha). * Tại Đài Loan, kỹ thuật trồng cây trong dung dịch được sử dụng rộng rãi để trồng các loại rau. Chủ yếu là sử dụng hệ thống trồng cây trong dung dịch không tuần hoàn của AVRDC. 2.2.3. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng kỹ thuật thủy canh ở Việt Nam 2.2.3.1. Kết quả nghiên cứu về dung dịch dưỡng để trồng cây bằng kỹ thuật thủy canh ở Việt Nam Ở Việt Nam, khi kỹ thuật thuỷ canh bắt đầu được nghiên cứu thì dung dịch dinh dưỡng chủ yếu nhập từ Đài Loan. Để chủ động về dinh dưỡng đã có một số tác giả nghiên cứu về dung dịch dinh dưỡng để trồng cây bằng kỹ thuật thuỷ canh như: Công ty Phân bón Sông Gianh đã pha chế được dung dịch dinh dưỡng thủy canh Thăng Long để trồng các loại rau ăn lá và ăn quả. Nguyễn Thị Dần (1998), đã khảo nghiệm dung dịch này và kết luận dung dịch dinh dưỡng Thăng Long không thua kém gì so với dung dịch dinh dưỡng của Đài Loan đối với rau ăn lá, hoa và quả về năng suất, chất lượng rau, hoa và quả. Đặc biệt, ớt ngọt trồng trong dung dịch này cho năng suất cao hơn 72,8% so với dung dịch Đài Loan. Giá thành sử dụng của dung dịch này thấp hơn 46,3% do giá dinh dưỡng chỉ bằng 1/3 giá dung dịch nhập từ Đài Loan [1]. Năm 1996, Nguyễn Khắc Thái Sơn và Nguyễn Quang Thạch đã sử dụng 8 loại dung dịch trong đó có 4 loại được sử dụng nguyên bản là dung dịch nhập từ Đài Loan (đ/c), dung dịch FAO, dung dịch Knop, dung dịch I Mai và 4 loại dung dịch được cải tiến từ 4 dung dịch nguyên bản trên. Qua theo dõi ảnh hưởng của chúng tới sự sinh trưởng của rau cải xanh và quá trình sinh trưởng, phát triển, năng suất của cà chua cho thấy: Tất cả 7 dung dịch tự pha chế và cải tiến đều cho năng suất cải xanh thấp hơn, trong đó có dung dịch FAO cho năng suất cải xanh cao nhất đạt
- 27 76,8% so với sử dụng dung dịch nhập từ Đài Loan. Tuy nhiên, đối với quá trình sinh trưởng, phát triển và năng suất của cà chua thì có tới 4 trong 7 dung dịch tác giả tự pha chế và cải tiến cho năng suất cao hơn; đặc biệt là dung dịch Knop cải tiến bằng cách bổ sung thêm vi lượng và sắt của Đài Loan đã cho năng suất cà chua đạt 5,69 kg/m2 vượt 82,37% so với sử dụng dung dịch nhập từ Đài Loan [4]. Nguyễn Quang Thạch và cộng sự (1998) đã tự pha chế 2 dung dịch dinh dưỡng (NC1 và NC2) để trồng thử nghiệm với một số loại rau ăn lá và kết luận: Cả 2 dung dịch mà hoàn toàn chủ động pha chế là NC1 và NC2 đều cho sản phẩm rau xà lách và rau cải có chất lượng tương đương, năng suất đạt được từ 70 – 90 % so với cùng loại rau trồng bằng dung dịch nhập từ AVRDC; nhưng giá 2 dung dịch tự chế chỉ bằng 1/3 nên giá thành rau đã giảm được 22 – 27% so với sử dụng dinh dưỡng nhập từ AVRDC [12]. Vũ Quang Sáng (2000), đã nghiên cứu cải tiến dung dịch FAO và Knop có bằng cách bổ sung vi lượng đối với sự sinh trưởng, phát triển và năng suất của cà chua VR2 và XH2 kết luận: Chủ động được việc pha chế dung dịch FAO và Knop cộng với vi lượng để trồng cà chua bằng kỹ thuật thuỷ canh, không cần điều chỉnh pH mà chỉ cần bổ sung dung dịch dinh dưỡng khi cây ra hoa. Năng suất và chất lượng quả cà chua trồng trên 2 dung dịch này tốt và giá thành hạ hơn so với sử dụng dung dịch dinh dưỡng nhập từ AVRDC [7]. 2.2.3.2. Kết quả nghiên cứu về sâu bệnh hại trong trồng cây bằng kỹ thuật thủy canh ở Việt Nam Viện Công nghệ Sinh học (2011) nghiên cứu và sử dụng chế phẩm sinh học từ vi khuẩn đối kháng để kiểm soát nấm hại cây trồng cho thấy: Điều kiện trong nhà lưới, cây rau diếp bị gây nhiễm bởi nấm R. solani, sau đó được xử lý với tế bào Burkholderia, Bacillus và Pseudomonas. Kết quả cho thấy nấm R. solani bị kiểm soát 75% so với lô rau không được xử lý với tế bào. Đặc biệt sinh khối tươi và khô, số lượng lá/cây của lô thí nghiệm được xử lý cao hơn so với lô không được xử lý (P < 0,05) . Trên cây cà chua bị gây nhiễm bởi nấm F. oxysporum, sau đó được xử lý với tế bào của Burkholderia và Bacillus. Nấm F. oxysporum bị kiểm soát 67% đến 75%. Sinh khối tươi, khô của cây cà chua, số lượng lá/cây, chiều cao cây ở lô thí nghiệm cao hơn so với lô không được xử lý (P < 0,05). Như vậy, tếbào chủng
- 28 Burkholderia, Bacillus không những kiểm soát hiệu quả nấm bệnh R.solani và F. oxysporum mà còn có ảnh hưởng tích cực đến sinh trưởng và phát triển của rau diếp, khoai tây trong nhà lưới. Hơn nữa, đối với lô thí nghiệm được xử lý với tế bào cũng như dịch ngoại bào của chủng vi khuẩn đối kháng, mật độ và chủng loại vi sinh vật hữu ích trong đất xung quanh bộ rễ của cà chua, rau diếp không bị giảm so với đối chứng. 2.2.3.4. Kết quả nghiên cứu sản xuất rau ăn lá trái vụ bằng công nghệ thủy canh ở Việt Nam Viện Nghiên cứu Rau Quả (2007) đã tiến hành nghiên cứu ứng dụng công nghệ thủy canh tuần hoàn để sản xuất rau ăn lá trái vụ trong 2 năm từ năm 2007 – 2008 với 4 loài rau (xà lách, cải xanh, cần tây và rau muống). Kết quả thu được một số giống rau phù hợp trồng trái vụ trong dung dịch thuỷ canh tuần hoàn. Đồng thời, kết luận rằng rau ăn lá được trồng trái vụ bằng kỹ thuật thủy canh tuần hoàn đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh an toàn thực phẩm [16]. Viện Nghiên cứu Rau quả (2009) tiến hành nghiên cứu lựa chọn các công thức giá thể phù hợp cho xà lách, cải xanh và cần tây để trồng trái vụ trên hệ thống thủy canh tuần hoàn, trong đó giá thể của Viện Thổ nhưỡng Nông hóa làm đối chứng (giá thể gốc) và một số công thức giá thể khác được phối trộn theo những tỷ lệ nhất định giữa giá thể gốc, trấu hun và vụn xơ dừa. Kết quả nghiên cứu cho thấy, giá thể phối trộn giữa 50% giá thể gốc + 50% vụn xơ dừa làm giá đỡ trồng cây bằng kỹ thuật thủy canh tuần hoàn trong điều kiện trái vụ cho kết quả tốt nhất đối với các loại rau tham gia thí nghiệm và cho sản phẩm rau an toàn [16]. Viện Nghiên cứu Rau Quả (2010) đã tiến hành xây dựng mô hình sản xuất đối với một số loại rau ăn lá (cải xanh, xà lách và cần tây) trái vụ bằng công nghệ thủy canh tuần hoàn trong nhà lưới. Kết quả cho thấy các giống rau có khả năng thích ứng với công nghệ thủy canh tuần hoàn, rút ngắn thời gian sinh trưởng và cho năng suất cao hơn so với trên nền đất từ 1,3 đến 1,4 lần. Tuy nhiên, với chi phí ban đầu khá cao, nên việc ứng dụng công nghệ này vào sản xuất đại trà cần có những nghiên cứu để hạ chi phí ban đầu từ đó giảm giá thành sản phẩm [16]. Phần tổng quan tại liệu đã cho thấy bức tranh khái quát về tình hình nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thủy canh trong sản xuất các sản phẩm nông nghiệp,
- 29 nhất là những ưu điểm, hạn chế và sự vượt trội của kỹ thuật này trong sản xuất rau xanh ở những nơi có điều kiện sản xuất khó khăn. Trong điều kiện miền Bắc Việt Nam, tại các vùng sản xuất rau tập trung, chuyên canh ven đô thị và khu công nghiệp, công nghệ này sẽ góp phần hỗ trợ cho việc cung cấp một phần rau xanh an toàn, quanh năm tại đây. Qua tổng quan tài liệu cho thấy, đã có nhiều địa phương, doanh nghiệp ở nước ta, nhất là trong điều kiện miền Bắc thì các tỉnh như Hà Nội, Hải Phòng cũng đã nhập khẩu thiết bị và ứng dụng kỹ thuật này vào sản xuất nhưng chưa mang lại kết quả như mong muốn do giá thành nhập khẩu vật tư cao, giá thành sản phẩm thấp. Do đó, để phát triển công nghệ này đòi hỏi cần có các nghiên cứu chi tiết những kỹ thuật phù hợp với điều kiện đầu tư và ứng dụng của người trồng rau nước ta. Tuy nhiên, qua phần tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước cho thấy, đã có một số nghiên cứu về trồng cây thủy canh, nhưng chưa có nghiên cứu tổng thể nào về kỹ thuật thủy canh cho cây rau ăn lá mà mới chỉ đề cập đến từng kỹ thuật riêng lẻ, từng loại cây trồng, từng loại dung dịch, loại giá thể, nhưng mới chỉ tập trung vào khảo nghiệm các loại dung dịch và giá thể sẵn có nhập ngoại hay của các viện nghiên cứu , nhất là chưa có nghiên cứu nào tổng thể và riêng đối với các loài rau ăn lá trái vụ trong điều kiện khí hậu miền Bắc Việt Nam. Để khắc phục những hạn chế đó, chúng tôi đã triển khai nghiên cứu Đề tài này nhằm góp phần xây dựng quy trình kĩ thuật, đưa ra các khuyến cáo cho các nhà sản xuất, góp phần đáp ứng các yêu cầu của ngành sản xuất rau.
- 30 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là hiệu quả kinh tế mô hình trồng rau muống thủy canh trong nhà kính của trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên. 3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 3.1.2.1. Phạm vi về không gian Khoá luận được thực hiện tại nhà kính của Trung Tâm Ươm Tạo Công Nghệ và Hỗ Trợ Khởi Nghiệp của Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên. 3.1.2.2. Phạm vi về thời gian Thời gian thực hiện khóa luận: từ 13/08/2018 đến 23/12/2018. 3.2. Nội dung nghiên cứu - Tìm hiểu điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tại TP Thái Nguyên. - Tìm hiểu tình hình sản xuất rau và rau thủy canh trên thành phố Thái Nguyên. - Đánh giá thực trạng sản xuất rau nói chung và sản xuất rau an toàn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. - Đánh giá hiệu quả kinh tế về sản xuất rau muống thủy canh tại nhà kính trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. - Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình sản xuất và tiêu thụ rau thủy canh tại nhà kính trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên và trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. - Đề xuất một số giải pháp nhằm phổ triển mô hình sản xuất RTC tới các hộ, DN, HTX và chuyển giao công nghệ tới các tỉnh lân cận, đồng thời tiếp tục thử nghiệm thành công các loại rau, quả khó tính nhưng mang lại giá trị cao (quả dâu tây) đáp ứng nhu cầu trong nước và tiến tới xuất khẩu. 3.3. Phương pháp nghiên cứu 3.3.1. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu - Từ các nguồn số liệu điều tra thu thập được trên địa bàn nghiên cứu, tiến hành tổng hợp và phân tích.
- 31 - Xử lý định tính, định lượng dựa trên phần mềm xử lý số liệu excel. + Phương pháp so sánh Là phương pháp được áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Dùng để so sánh các yếu tố định lượng hoặc định tính, so sánh các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế, xã hội đã được lượng hóa có cùng nội dung, tính chất tương tự để xác định mức độ biến động của các nội dung. Sử dụng phương pháp này ta tiến hành lập bảng để xét mức độ biến động tăng giảm của các chỉ tiêu theo thời gian, dùng số tuyệt đối, tương đối, số bình quân chung để xem xét. So sánh là những phương pháp so sánh cơ bản của phân tích thống kê. Nếu không so sánh thì dù sự thực có được khẳng định, ta cũng không có thể kết luận được. Sử dụng phương pháp so sánh phân tích để thấy được sự khác nhau trong sản xuất của từng hộ. + Phương pháp phân tích đánh giá tổng hợp Sau khi tiến hành thu thập được các số liệu cần thiết cho các khía cạnh nghiên cứu của đề tài, tiến hành đánh giá và tổng hợp để thấy được bản chất của biến động đó. + Phương pháp chuyên gia Tham khảo ý kiến chuyên môn của các cán bộ có trình độ và chuyên môn cao. Những cán bộ quản lý có kinh nghiệm để tìm hiểu về các vấn đề: Chất lượng sản phẩm, kỹ thuật chăm sóc, tình hình dịch bệnh, năng suất, thị trường tiêu thụ và những định hướng phát triển diện tích, năng suất và chất lượng rau an toàn trong thời gian tới. 3.3.2. Phương pháp thu thập số liệu + Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp - Thu thập số liệu từ các công trình khoa học, các báo cáo tổng kết, các văn bản, sách, báo chí, các nghị định, chỉ thị, nghị quyết, các chính sách của Nhà nước có liên quan đến phát triển mô hình trồng RTC. - Sử dụng số liệu tại chính quyền địa phương, thống kê của UBND tỉnh Thái Nguyên để có số liệu cần thống kê.
- 32 + Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp Với những thông tin như diện tích, năng suất, sản lượng, các khoản chi phí, giá tiêu thụ và một số thông tin có liên quan để tính ra hiệu quả kinh tế của việc trồng RTC. Trong phạm vi nghiên cứu, khóa luận sử dụng phương pháp PRA vào thu thập thông tin với các công cụ sau: - Quan sát trực tiếp: Quan sát trực tiếp được vận hành trong kỹ thuật PRA là quan sát một cách có hệ thống các sự vật, sự kiện với các mối quan hệ trong một bối cảnh nào đó, Trong phạm vi khóa luận, tôi quan sát thực tế đặc điểm địa bàn, tình hình sản xuất RTC của nhà kính. 3.4. Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu 3.4.1. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả kinh tế + Các chỉ tiêu phản ánh mô hình sản xuất RTC của tổng thể nhà lưới thủy canh - Diện tích gieo trồng, diện tích gieo trồng bình quân/m2. - Mức đầu tư vốn cố định, vốn lưu động cho sản xuất và cho một ĐVDT trồng trọt. + Chỉ tiêu giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích Là toàn bộ của cải vật chất và các dịch vụ được tạo ra trên một đơn vị diện tích trong một vụ. ∑ 푃푖푄푖 ̅̅̅̅= ∑ 푆 Trong đó: Pi: Là đơn giá sản phẩm thứ i; Qi: Là khối lượng sản phẩm thứ i trên cùng một đơn vị diện tích; S: Là diện tích gieo trồng. 3.4.2. Các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất rau thủy canh Theo hệ thống tài khoản quốc gia SNA, chúng ta có các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất sau: - Giá trị sản xuất GO: (Grossoutput): Là giá tính bằng tiền của toàn bộ các loại sản phẩm vật chất và dịch vụ lao động nông nghiệp được tạo ra tính trên một đơn vị diện tích trong thời gian một năm hay một chu kì sản xuất.
- 33 Cách tính: n Qi.Pi Cách tính: GO = i l Trong đó: Qi: Là khối lượng sản phẩm thứ i. Pi: Là đơn giá sản phẩm thứ i. i: Là số lượng chủng loại sản phẩm. - Chi phí sản xuất: là toàn bộ chi phí được sử dụng vào quá trình sản xuất sản phẩm. Bao gồm chi phí trung gian và chi phí về lao động gia đình. Trong đó, chi phí trung gian (IC): là bộ phận cấu thành giá trị sản xuất bao gồm những chi phí vật chất và dịch vụ cho sản xuất (không kể khấu hao). n Ci.Pj IC = i l Trong đó: Cj: Số lượng đầu vào thứ j được sử dụng. Pj: Đơn giá đầu vào thứ j. Ví dụ: Chi phí vật chất trong sản xuất rau đó là các yếu tố đầu vào như: giống cây trồng, phân bón, các loại thu Chi phí dịch vụ trong sản xuất rau như: công lao động thuê ngoài, dịch vụ vận chuyển, thủy lợi - Giá trị gia tăng (VA): là một trong những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng phản ánh kết quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất của các ngành thành phần kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong một thời kì nhất định. Đó là nguồn gốc của mọi khoản thu nhập, sự giàu có và phồn vinh xã hội. Nó không chỉ biểu hiện hiệu quả của sản xuất theo chiều rộng mà còn là một trong những cơ sở quan trọng để tính các chỉ tiêu kinh tế khác. Được xác định bằng các công thức sau: VA = GO - IC - Thu nhập hỗn hợp (MI): là phần thu nhập (gồm cả công lao động và lãi) nằm trong giá trị sản xuất sau khi đã trừ đi chi phí trung gian, khấu hao tài sản cố định (TSCĐ), thuế.
- 34 Được xác định bởi công thức sau: MI = VA - khấu hao TSCĐ - thuế, phí, lệ phí phải nộp - Khấu hao TSCĐ (chi phí cố định): là phần giá trị của tài sản cố định bị hao mòn trong quá trình sản xuất. - Lợi nhuận (LN): là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí của một quá trình sản xuất. 3.4.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất rau thủy canh Theo hệ thống tài khoản quốc gia SNA, chúng ta có các nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất sau: - Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của vốn đầu tư: + GO/IC: Giá trị sản xuất trên chi phí trung gian, chỉ tiêu này phản ánh một đồng chi phí trung gian có thể tạo ra được bao nhiêu đồng giá trị sản xuất trong kỳ sản xuất. + VA/IC: Giá trị gia tăng trên chi phí trung gian, chỉ tiêu này phản ánh một đồng chi phí trung gian có thể tạo ra được bao nhiêu đồng giá trị gia tăng trong kỳ sản xuất. + MI/IC: Thu nhập hỗn hợp trên chi phí trung gian, chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí trung gian có thể tạo ra được bao nhiêu đồng thu nhập hỗn hợp trong kỳ sản xuất. + LN/IC: Lợi nhuận trên chi phí trung gian, chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí trung gian có thể tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ sản xuất. - Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sức lao động: + GO/lao động (LĐ): Giá trị sản xuất trên lao động, chỉ tiêu này phản ánh một lao động có thể tạo ra được bao nhiêu đồng giá trị sản xuất trong kỳ sản xuất. + VA/LĐ: Giá trị gia tăng trên lao động, chỉ tiêu này phản ánh một lao động có thể tạo ra được bao nhiêu đồng giá trị gia tăng trong kỳ sản xuất. + MI/LĐ: Thu nhập hỗn hợp trên lao động, chỉ tiêu này phản ánh một lao động có thể tạo ra được bao nhiêu đồng thu nhập hỗn hợp trong kỳ sản xuất. + LN/LĐ: Lợi nhuận trên lao động, chỉ tiêu này phản ánh một lao động có thể tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ sản xuất.
- 35 3.4.4. Chi phí và lợi nhuận trên một đơn vị diện tích Chi phí trung gian trên một đơn vị diện tích: Là toàn bộ chi phí vật chất thường xuyên và dịch vụ được sử dụng trong quá trình sản xuất trên một đơn vị diện tích. Ví dụ: Giống, dinh dưỡng, cước vận chuyển, thuê lao động ngoài Chỉ tiêu này cho biết các chi phí biến đổi mà các hộ phải bỏ ra để sản xuất rau, giúp tính toán lợi nhuận và hiệu quả kinh tế rau trồng. Mà không cần xét đến sự khác biệt trong quy mô sản xuất của mỗi hộ. ∑ 푪풊 푰푪̅̅̅ = ∑ 푺 Trong đó: Ci: Là chi phí thứ i; S: Là diện tích gieo trồng; 3.4.5. Lợi nhuận bình quân Lợi nhuận bình quân là toàn bộ lãi thu được trên một đơn vị diện tích sau khi đã trừ triết khấu tất cả các loại chi phí. 푷풓̅̅̅̅ = 푮푶̅̅̅̅ - 푰푪̅̅̅ Trong đó: ̅̅̅: Tổng chi (nghìn đồng): Tính tất cả các khoản chi thực tế cho việc sản suất rau như: giá thể, giống, dinh dưỡng, khấu hao hệ thống, nhà lưới, điện ̅̅̅̅: Tổng thu (nghìn đồng) = Năng suất thực thu x giá bán 푃 ̅̅̅: Lợi nhuận bình quân (nghìn đồng) = Tổng thu - Tổng chi phí
- 36 Phần 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 4.1.1. Đặc điểm tự nhiên của thành phố Thái Nguyên 4.1.1.1. Vị trí địa lý, địa hình Thành phố Thái Nguyên là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Thái Nguyên, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học - kỹ thuật, y tế, du lịch, dịch vụ của tỉnh Thái Nguyên và vùng trung du miền núi phía Bắc; trung tâm vùng trung du, miền núi Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội 80 km. Tổng diện tích tự nhiên 222,93 km². Phía Bắc giáp huyện Đồng Hỷ và huyện Phú Lương; Phía Đông giáp thành phố Sông Công; Phía Tây giáp huyện Đại Từ; Phía Nam giáp huyện Phú Bình. Với vị trí địa lý trên, thành phố Thái Nguyên có rất nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội không chỉ trong hiện tại mà cả tương lai, nhất là trong các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và trở thành một đô thị trung tâm của khu vực vùng trung du miền núi Bắc Bộ. Hình 4.1. Bản đồ hành chính thành phố thái nguyên (Nguồn: UBND tỉnh Thái Nguyên)
- 37 4.1.1.2. Khí hậu, thuỷ văn - Đặc điểm khí hậu Thành phố Thái Nguyên mang những nét chung của khí hậu vùng Đông Bắc Việt Nam, thuộc miền nhiệt đới, gió mùa có mùa đông lạnh giá ít mưa, mùa hè nóng ẩm mưa nhiều. Do đặc điểm địa hình của vùng đã tạo cho khí hậu của thành phố có những nét riêng biệt. Tổng số giờ nắng trung bình năm khoảng 1.617 giờ. Nhiệt độ cao tuyệt đối 39,5°C, nhiệt độ trung bình cao nhất trong năm vào tháng 7 là 28,5°C, thấp nhất là và tháng 1 là 15,5°C, lượng mưa trung bình hàng năm 2.025,3mm lượng mưa phân bố không đều theo không gian và thời gian, có chênh lệch lớn giữa mùa mưa và mùa khô,về mùa mưa cường độ lớn, lượng mưa chiếm 80% tổng lượng mưa trong năm. Thành phố có độ ẩm không khí cao, độ ẩm trung bình năm là 82%. Mùa hè từ tháng 4 đến tháng 10 gió Đông Nam chiếm ưu thế tuyệt đối, nóng ẩm mưa nhiều. Mùa đông tháng 11 đến tháng 3, gió Đông Bắc chiếm ưu thế, lượng mưa ít thời tiết khô hanh. - Ảnh hưởng của khí hậu tới sản xuất Nhìn chung, điều kiện khí hậu của tỉnh Thái Nguyên tương đối thuận lợi cho việc phát triển một hệ sinh thái đa dạng và bền vững, có giá trị đối với Nông-Lâm nghiệp. Tuy vậy, vào mùa mưa với lượng mưa tập trung lớn nên thường sảy ra lũ quét ở một số triền đồi núi và lũ lụt ở số khu vực dọc theo lưu vực sông Cầu và sông Công. 4.1.2. Tài nguyên thiên nhiên Thành phố Thái Nguyên có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú. - Tài nguyên đất: so với diện tích đất tự nhiên thì tổng diện tích đất phù sa không được bồi hàng năm với độ trung tính ít chua là 3.125,35ha, chiếm 17,65% so với tổng diện tích tự nhiên; đất phù sa không được bồi hàng năm, chua, gây yếu,có 100,19ha, chiếm 0,75% tổng diện tích đất tự nhiên được phân bổ chủ yếu ở phường Phú Xá; đất phù sa ít được bồi hàng năm trung tính ít chua có 379,84ha, chiếm 2,35% tổng diện tích đất tự nhiên; đất (Pcb1) bạc màu phát triển trên phù sa cũ có sản lượng feralit trên nền cơ giới nhẹ có 271,3ha, chiếm 1,53%; đất (Pcb2) bạc màu
- 38 phát triển trên phù sa cũ có sản lượng feralit trên nền cơ giới nặng có 545,6ha, chiếm 3,08% - Tài nguyên rừng: Rừng ở Thái Nguyên chủ yếu là rừng nhân tạo và rừng trồng theo chương trình 327, vùng chè Tân Cương cùng với các loại cây trồng của nhân dân như cây nhãn, vải, quýt, chanh Cây lương thực chủ yếu là cây lúa nước, ngô, đậu thích hợp và phát triển ở những vùng đất bằng trên các loại đất phù sa, đất mới phát triển, đất glây trung tính ít chua. - Tài nguyên khoáng sản: 2 tuyến sông lớn chảy qua (sông Cầu và sông Công), do đó cung cấp cho thành phố một lượng cát, sỏi phục vụ xây dựng khá lớn, đủ đáp ứng nhu cầu xây dựng cho toàn thành phố. Thành phố nằm trong vùng sinh khoáng đông Bắc Việt Nam, thuộc vành đai sinh khoáng Thái Bình Dương. Mỏ than nội địa Khánh Hoà thuộc xã Phúc Hà có trữ lượng than rất lớn. - Nguồn nước: hai bên bờ sông của khu vực Đồng Bẩm, Túc Duyên có lượng nước ngầm phong phú
- 39 Bảng 4.1: Tình hình sử dụng đất đai của Thành Phố Thái Nguyên năm 2017 Tổng Diện tích Cơ cấu STT Chỉ tiêu Mã (ha) (%) Tổng diện tích tự nhiên 353.318,91 100,0 1 Đất Nông Nghiệp NNP 294.011,32 83,21 1.1 Đất sản xuất Nông Nghiệp SXN 108.074,64 30,59 1.2 Đất trồng cây hàng năm CHN 63.794,05 18,06 1.3 Đất trồng lúa LUC 47.008,61 13,30 1.4 Đất cỏ dùng vào chăn nuôi COC 168,65 0,05 1.5 Đất trồng cây lâu năm CLN 44.280,63 12,53 1.6 Đất trồng cây hàng năm khác HNK 16.616,79 4,70 1.7 Đất lâm nghiệp (có rừng) LNP 181.436,79 51,35 1.8 Rừng sản xuất RSX 110.633,30 31,31 1.9 Rừng phòng hộ RPH 35.237,54 9,97 1.10 Rừng đặc rụng RDD 35.565,68 10,07 1.11 Đất nuôi trông thủy sản NTS 4.373,16 1,24 1.12 Đất làm muối LM - - 1.13 Đất Nông nghiệp khác NK 126,96 0,04 2 Đất Phi Nông nghiệp PNN 45.637,80 12,92 2.1 Đất ở OTC 13.682,29 3,87 2.2 Đất ở đô thị ODT 1.838,91 0,52 2.3 Đất ở nông thôn ONT 11.843,38 3,35 2.4 Đất chuyên dung CDG 21.345,00 6,04 2.5 Đất trụ sở cơ quan,công trình sự nghiệp CTS 228,38 0,06 2.6 Đất quốc phòng, an ninh CQP 3.054,47 0,86 2.7 Đất sản xuất, kinh doanh Nông Nghiệp CSK 4.360,18 1,23 2.8 Đất có mục đích công cộng CCC 13.701,97 3,88 2.9 Đất tôn giáo, tín ngưỡng TTN 107,17 0,03 2.10 Đất nghĩa trang, nghĩa địa NTD 818,92 0,23 2.11 Đất sông suối và mặt nước chuyên dung SMN 9.637,20 2,73 2.12 Đất phi nông nghiệp khác PNK 47,22 0,01 3 Đất chưa sử dụng CSD 13.669,79 3,87 3.1 Đất bằng chưa sử dụng BCS 1.592,54 0,45 3.2 Đất đồi núi chưa sử dụng DCS 4.423,67 1,25 3.3 Núi đá không có rừng cây NKR 7.653,58 2,17 (Nguồn: Sở TN&MT tỉnh Thái Nguyên, 2017)
- 40 4.1.3. Đặc điểm về kinh tế - xã hội 4.1.3.1. Điều kiện kinh tế Năm 2017, thành phố Thái Nguyên đạt các chỉ tiêu kinh tế như sau: Tốc độ tăng trưởng của các ngành sản xuất năm 2017 đạt 15,5%. Trong đó: Giá trị sản xuất ngành dịch vụ đạt 15.130 tỷ đồng, tăng 18,1%; Giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng đạt 38.903 tỷ đồng, tăng 15%; Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp đạt 1.202 tỷ đồng, tăng 5%; Giá trị sản xuất công nghiệp địa phương (theo giá so sánh 2010) năm 2016 ước đạt 6.300 tỷ đồng, vượt 1,6% so với kế hoạch; Thu ngân sách: năm 2017 đạt 2.500 tỷ đồng. 8 tháng đầu năm 2017, thành phố đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế 15,1%. GDP bình quân đầu người đạt 80 triệu đồng/người/năm. Thu ngân sách 8 tháng đầu năm 2017 ước đạt 1.900 tỷ đồng. Tổng số vốn đầu tư đăng ký trên 30 nghìn tỷ đồng [22]. Trong 6 tháng đầu năm 2018, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) trên địa bàn ước đạt 9,85%, trong đó khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 12,17%; nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 3,4%; khu vực dịch vụ và thuế sản phẩm tăng 6,6%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2017 đạt 68 triệu đồng, gấp 1,3 lần năm 2015, cao hơn mức bình quân chung của cả nước. Tổng nguồn lực đầu tư tiếp tục tăng trưởng, trong hai năm 2016, 2017 đạt hơn 103 nghìn tỷ đồng (Nghị quyết Đại hội đặt ra cho cả nhiệm kỳ là 108 nghìn tỷ đồng). Thu ngân sách: năm 2015 thu đạt hơn 7.300 tỷ đồng; năm 2016 thu đạt hơn 9.600 tỷ đồng; năm 2017 thu đạt 12.643 tỷ đồng (vượt 40,3% so với kế hoạch; vượt hơn 3.600 tỷ đồng so với năm 2016; vượt hơn 5.300 tỷ đồng so với đầu nhiệm kỳ); sáu tháng đầu năm 2018 ước đạt 7.050 tỷ đồng, bằng 53,8% dự toán năm, tăng 5,5% so với cùng kỳ; phấn đấu tỉnh Thái Nguyên có thể tự cân đối thu - chi ngân sách trước năm 2020. Môi trường đầu tư của tỉnh bảo đảm công khai, minh bạch. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh có sự đảo chiều ngoạn mục. Thành phố Thái Nguyên nằm trong vùng phát triển kinh tế năng động của tỉnh Thái Nguyên (bao gồm TP Sông Công và TX Phổ Yên), là trung tâm công nghiệp lâu đời với trung tâm công nghiệp Gang Thép. Ngoài ra thành phố còn có tiềm năng lớn để phát triển du lịch, với Hồ Núi Cốc, các di tích lịch sử, cách mạng. Thành phố Thái Nguyên có đội ngũ cán bộ, công nhân có kinh nghiệm, năng lực, trình độ cao và đội ngũ sinh viên tốt nghiệp hàng năm từ các trường Đại học,
- 41 chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật trên địa bàn, đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố. Bảng 4.2: Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu đã đạt được của Thành phố Thái Nguyên 2016 - 2017 Năm Tốc độ tăng (%) Chỉ tiêu 2016/2015 2017/2016 Tổng số 6,21 12,6 Nông, lâm nghiệp và thủy sản 1,36 3,32 Công nghiệp và xây dựng 7,57 17,3 Dịch vụ 6,98 7,23 Thuế sản phẩm 6,38 7,23 (Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên 2016,2017) 4.1.3.2. Điều kiện xã hội + Giao thông: Thành phố Thái Nguyên cách thủ đô Hà Nội 80 km và cách sân bay quốc tế Nội Bài 50 km. Ngoài ra thành phố còn là cửa ngõ đi các tỉnh Đông Bắc như: Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn. + Đường bộ: Thành phố Thái Nguyên là một đầu mút giao thông với 4 đường Quốc lộ và 1 tuyến cao tốc, 1 tuyến tiền cao tốc đi qua gồm: Quốc lộ 3 (đi Hà Nội về phía Nam, đi Bắc Kạn về phía Bắc), Quốc lộ 37 (đi Tuyên Quang về phía Tây, đi Bắc Giang về phía Đông), Quốc lộ 17 (đi Hà Nội, qua Bắc Giang, Bắc Ninh), Quốc lộ 1B (đi Lạng Sơn), cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên (nối vào tuyến tránh đi vòng qua thành phố, không vào trung tâm, đấu nối với các tuyến đường vào trung tâm tại 3 nút giao là Tân Lập, Đán và Tân Long), tiền cao tốc Thái Nguyên - Chợ Mới (Bắc Kạn). Thành phố hiện đã xây dựng và đưa vào sử dụng Bến xe khách trung tâm thành phố thay cho bến xe cũ đã quá tải. Đây cũng được xem như là bến xe lớn và hiện đại nhất khu vực phía Bắc, với hệ thống quản lý giám sát xe ra vào hoàn toàn tự động bằng thẻ từ. Bến xe cũ nằm trong trung tâm thành phố hiện được giao cho tập đoàn Vingroup để triển khai dự án trung tâm thương mại. Thành phố đang triển khai xây dựng thêm Bến xe phía Bắc đặt tại phường Tân Long, và Bến xe phía Nam tại phường Tích Lương.
- 42 + Đường sắt: Thành phố Thái Nguyên có 2 hệ thống đường sắt chính: Hà Nội - Quan Triều và Lưu Xá - Kép, ngoài ra còn có tuyến Quan Triều - Núi Hồng chuyên dùng để chở khoáng sản. Hiện nay, một ngày có 2 chuyến tàu xuất phát từ Thái Nguyên đi Hà Nội. + Đường sông: Hệ thống đường sông nội thủy hiện không còn được sử dụng do các sông thường có mức nước nông nhất là vào mùa đông. Trong tương lai tuyến sông Cầu qua thành phố sẽ được khai thác phục vụ du lịch. + Đường không: Trong lịch sử, thành phố có Sân bay Đồng Bẩm, là sân bay quân sự. Tuy nhiên sân bay này hiện đang bị bỏ hoang và không được sử dụng. + Hệ thống điện: Nguồn cung cấp điện cho thành phố Thái Nguyên hiện nay là nguồn điện lưới quốc gia với hệ thống đường dây cao thế 110kV và 220kV thông qua đường hạ thế xuống 35kV - 12kV - 6kV/380V/220V; 95% các đường phố chính đó có đèn chiếu sáng ban đêm. + Hệ thống nước sinh hoạt: Thành phố hiện có hai nhà máy nước là nhà máy nước Thái Nguyên và nhà máy nước Tích Lương với tổng công suất là 40.000m3/ngày, đêm. Đảm bảo cung cấp nước sạch phục vụ cho sinh hoạt ở mức 100lit/người/ngày. Đến nay có tới 93% số hộ khu vực nội thành được cấp nước sinh hoạt. + Hệ thống thông tin liên lạc và truyền thông: Thành phố có 1 tổng đài điện tử và nhiều tổng đài khu vực. Mạng lưới viễn thông di động đã và đang được đầu tư đồng bộ hoàn chỉnh, trên địa bàn thành phố đã được phủ sóng và khai thác dịch vụ thông tin di động bởi 6 mạng di động: Vinaphone, Mobifone, Viettel, Gmobile, Vietnamobile và Sfone. + Trường học: Thành phố Thái Nguyên là đơn vị hành chính đông dân nhất của tỉnh Thái Nguyên, cho nên số lượng các trường trung học phổ thông cũng đặc biệt nhiều hơn so với các thành phố, thị xã, các huyện khác với 11 trường THPT công lập, 3 trường THPT dân lập và tư thục, cùng 2 trường phổ thông thuộc khối công an, quân đội. Từ ngày 18/8/2017, theo nghị quyết của Thường vụ Quốc hội, xã Sơn Cẩm (huyện Phú Lương), thị trấn Chùa Hang (huyện Đồng Hỷ), cùng 3 xã khác được sáp nhập về thành phố. Theo đó, 2 trường THPT Khánh Hòa (nằm trên địa bàn xã Sơn Cẩm) và THPT Đồng Hỷ (nằm trên địa bàn thị trấn Chùa Hang) cũng thuộc địa bàn thành phố Thái Nguyên.
- 43 * Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội - Thuận lợi: Thành phố Thái Nguyên có vị trí địa lý thuận lợi cho giao lưu phát triển, có hệ thống giao thông đường sắt, đường bộ, đường thủy khá hoàn chỉnh, gần thủ đô Hà Nội, thuận tiện giao lưu, buôn bán, có điều kiện phát triển công nghiệp, dịch vụ thương mại, giáo dục đào tạo, y tế và đô thị hóa. Đất đai tương đối màu mỡ cùng với chế độ khí hậu, thời tiết ôn hòa là cơ sở cho việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trên một đơn vị diện tích. Tình hình kinh tế có bước tiến mạnh mẽ, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tiềm năng từ các thành phần kinh tế bước đầu được huy động. Thành phố tập trung nhiều xí nghiệp, công ty, các trường đại học, cao đẳng với số lượng sinh viên rất đông nên là một thị trường tiêu thụ RAT lớn. Trình độ dân trí của người dân được nâng cao, có kinh nghiệm và trình độ thâm canh nông nghiệp, có khả năng ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Có truyền thống trồng RAT như mô hình tại tổ 23 phường Túc Duyên, HTX gồm 30 hộ tham gia với tổng diện tích là 2ha. Các hộ tham gia được hỗ trợ kỹ thuật thông qua tập huấn, hỗ trợ một phần phân bón hữu cơ, thuốc BVTV sinh học, bẫy bả côn trùng và 100% chi phí phân tích mẫu và chứng nhận chất lượng. Sau khi nghiệm thu dự án, đã có 30 hộ được cấp giấy chứng nhận là hộ sản xuất RAT cho 05 loại rau chính. Với truyền thống này nghề trồng rau đã trở thành nghề truyền thống tại địa phương, góp phần đem lại sự no ấm, đầy đủ cho người dân trong vùng nhiều năm qua. Hiện trên địa bàn phường Túc Duyên - TP Thái Nguyên, người dân ở đây trồng rau có thể đáp ứng cho nhu cầu quanh năm của thị trường thành phố. Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH nông nghiệp, người dân ở đây đang đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để tăng hiệu quả kinh tế. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cũng đã định hướng và tạo mọi điều kiện để người dân được tiếp cận khoa học kỹ thuật, các dự án phát triển rau của Trung ương và địa phương, nguồn vốn chính sách để ổn định sản xuất.
- 44 Tại Túc Duyên đã hình thành và phát triển một vùng chuyên canh trồng rau hiệu quả. Tuy nhiên, hiện nay, hoạt động này đa số vẫn còn mang tính tự phát, người dân vẫn tự chủ trong tất cả các khâu từ lựa chọn loại cây đến tiêu thụ. Và đặc biệt, khâu bảo quản để các sản phẩm giữ được chất lượng vẫn là khâu yếu nhất mà bản thân người nông dân khó có thể chủ động làm được. Tình hình kinh tế có bước tiến mạnh mẽ, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tiềm năng từ các thành phần kinh tế bước đầu được huy động Thành phố tập trung nhiều xí nghiệp, công ty, các trường đại học, cao đẳng với số lượng sinh viên rất đông nên là một thị trường tiêu thụ RAT lớn Trình độ dân trí của người dân được nâng cao, có kinh nghiệm và trình độ thâm canh nông nghiệp, có khả năng ứng dụng những tiến bộ KHKT vào sản xuất. - Khó khăn: Địa hình đồi núi nhiều nên việc giải phóng mặt bằng trở nên khó khăn. Tình hình đô thị hóa diễn ra mạnh dẫn đến ô nhiễm môi trường ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống của người dân. Tỷ lệ gia tăng dân số tương đối cao đã gây sức ép không nhỏ đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố. Hệ thống thủy lợi chịu ảnh hưởng trực tiếp từ quá trình đô thị hóa nên khả năng tưới tiêu còn gặp khó khăn. Để khắc phục những khó khăn trên thì việc xây dựng mô hình trồng rau quả an toàn với công nghệ hiện đại là hết sức cần thiết đối với tỉnh Thái Nguyên. 4.2. Đánh giá thực trạng sản xuất RTC tại tỉnh Thái Nguyên 4.2.1. Tình hình sản xuất rau và rau thủy canh trên địa bàn Thái Nguyên là tỉnh có tiềm năng phát triển các loại rau, thêm vào đó, thị trường tiêu thụ rộng mở vì ngoài nhu cầu tiêu thụ của người dân, trên địa bàn còn có nhiều khu công nghiệp, trường đại học, cao đẳng. Hiện nay, trung bình mỗi năm, toàn tỉnh trồng được trên 12.000ha rau các loại, sản lượng đạt khoảng 300 tấn, tập trung ở các địa phương: Xã Đông Cao (T.X Phổ Yên); xã Nhã Lộng (Phú Bình); thị trấn Hùng Sơn (Đại Từ); các phường Túc Duyên, Đồng Bẩm (T.P Thái Nguyên) Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ rau xanh với số lượng rất lớn trên địa bàn, tỉnh ta vẫn đang phải nhập các loại rau từ nơi khác, điều muốn nói ở đây là rau nhập
- 45 phần lớn từ trung quốc, không kiểm soát được nguồn gốc, cũng như chất lượng rau. Thành phố Thái Nguyên là Thành phố công nghiệp có tổng diện tích tự nhiên 18.970,48 ha, với dân số khoảng 33 vạn người. Bên cạnh đó là các cơ quan xí nghiệp của trung ương, với các trường đại học, cao đẳng, trung cấp dạy nghề. Đây là thị trường lớn để tiêu thụ nông sản đặc biệt là rau xanh. Thành phố đã tiến hành quy hoạch và từng bước xây dựng các mô hình sản xuất rau thủy canh ở một số xã, phường. Bảng 4.3: Diện tích, năng suất, sản lượng rau của tỉnh Thái Nguyên năm 2017 Chỉ tiêu ĐVT Rau thường Rau thủy canh Tổng Diện tích canh tác Ha 1.698 50 1.748 Năng suất TB Tấn/ha 21 25 46 Sản lượng Tấn 35.658 1.250 36.908 (Nguồn: UBND tỉnh Thái Nguyên, 2017) Đối với thị trường rau Túc Duyên ở TP Thái Nguyên qua các năm gần đây cho thấy sản lượng RAT giảm, nguyên nhân: - Do thời tiết khí hậu không thuận lợi nên phát sinh nhiều sâu bệnh. - Do kỹ thuật canh tác chưa đúng theo quy định vẫn sử dụng thuốc BVTV làm cho chất lượng rau không đảm bảo về chất lượng. Sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP có chi phí lớn hơn so với sản xuất theo phương thức thông thường, năng suất lại giảm, khiến giá thành sản phẩm tăng lên. Trong khi đó, sự khác biệt giữa rau sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP với rau làm theo lối truyền thống rất khó nhận biết bằng mắt thường. “Theo thầy Nguyễn Thế Hùng Phó hiệu trưởng trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên cho biết: Sản xuất rau thủy canh có chi phí lớn hơn so với cách trồng rau an toàn ở ngoài đất, nhưng đổi lại đảm bảo an toàn về chất lượng và dinh dưỡng của rau.” Do vậy trồng rau thủy canh là sự lựa chọn đang được đặt lên hàng đầu về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, Trồng được nhiều vụ, thời gian mỗi vụ dài hơn, có thể trồng trái vụ, không phải làm đất, không có cỏ dại, không cần tưới, không phải sử dụng thuốc trừ sâu bệnh và các hóa chất độc hại khác, năng suất cao vì có thể trồng liên tục, sản phẩm hoàn toàn sạch, đồng nhất. Giàu dinh dưỡng và
- 46 tươi ngon, không tích lũy chất độc, không gây ô nhiễm môi trường, không đòi hỏi lao động nặng nhọc, người già trẻ em đều có thể tham gia hiệu quả. Trong thực tế trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên là đơn vị tiên phong triển khai mô hình trồng 16 giàn ban đầu là rau muống thủy canh trong nhà kính, và hiện nay đã thử nghiệm thành công thêm nhiều loại rau khác nhau ngoài rau muống ra như rau cải các loại, rau húng, tía tô, rau, xà lách, mùi, cần tây, hành, hẹ “Theo Th.s Hà Việt Long cán bộ phụ trách kỹ thuật rau thủy canh (giảng viên phụ trách giảng dạy môn học Công nghệ cao) cho biết: Trồng rau thủy canh vừa tiết kiệm không gian, thời gian và thích hợp với nhà phố, chung cư. Cách ly với nguồn sâu bệnh, nước ô nhiễm, tránh độc tố, thuốc trừ sâu. Mô hình thủy canh thiết kế có thể trồng được nhiều loại rau ăn lá, ăn quả cùng một lúc trên một giàn và đặc biệt không bị ảnh hưởng nhiều bởi khí hậu. Đảm bảo nguồn Rau sạch – Dinh dưỡng – Tươi ngon cho từng bữa ăn của gia đình bạn. Nhất là gia đình có con nhỏ, Đảm bảo Tuyệt đối Không Thuốc trừ sâu – Không hóa chất. Hoàn toàn tự động không phải tốn công chăm sóc. Bảo vệ con người và môi trường vì không sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc kích thích. Thiết kế nơi trồng rau linh hoạt, phù hợp với diện tích, không gian chật hẹp của chung cư, nhà phố ở các thành phố lớn.” Và hiện nay mô hình đã được trung tâm chuyển giao tới rất nhiều hộ gia đình, HTX, trang trại và các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, phần lớn trong số họ đang có nhu cầu nhân rộng, mở rộng mô hình và kinh doanh theo nhu cầu của người tiêu dùng mong muốn có cuộc sống chất lượng hơn nên họ chấp nhận trả giá cao hơn để có sản phẩm sạch phục vụ gia đình. Đây là dấu hiệu ban đầu thấy được nhu cầu của người dân về rau sạch ngày một cao và trách nhiệm của các chuyên gia nông nghiệp trường Đại học Nông lâm trong phát triển nông nghiệp CNC. Dưới đây là kết quả lấy ý kiến khảo sát của nhóm sinh viên thực tập và cán bộ chuyển giao kỹ thuật về lý do trồng RTC của 20 hộ trồng rau theo mô hình RTC trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên:
- 47 Bảng 4.4: Lý do trồng RTC của các hộ điều tra năm 2018 Diễn giải Số hộ Tỷ lệ (%) Nhu cầu trồng RTC tại nhà 5 25 Thử nghiệm phương pháp trồng rau CNC mới 4 20 Sở thích trồng cây, tạo khuôn viên đẹp và thư giãn 3 15 Theo bạn bè, hàng xóm 2 10 Nhu cầu kinh doanh 2 10 Sản xuất theo đơn đặt hàng của DN (Fujji fruit) 3 15 Lý do khác: 1 5 (Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả, 2018) Nhìn chung, các hộ trồng RTC chủ yếu là xuất phát từ nhu cầu thật sự cần thiết về rau sạch được trồng tại nhà do thực trạng rau hiện nay đang sử dụng rất nhiều chất kích thích, gây nên tình trạng ngộ độc thực phẩm. Ngoài ra, các hộ được phổ biến kiến thức về trồng RTC an toàn, thấy được các ưu điểm của phương pháp này nên đã trồng rau để thử nghiệm và khi nghe bạn bè giới thiệu thì một số hộ cũng đã trồng theo. Bên cạnh đó cũng có một số hộ có sở thích trồng cây, muốn tạo cho khuôn viên quanh nhà đẹp đẽ và có thể thư giãn sau mỗi ngày làm việc mệt mỏi nên cũng trồng RTC. Còn một số lý do khác: Nhu cầu kinh doanh, sản xuất theo đơn đặt hàng của Doanh nghiệp, họ cũng trồng RTC nhưng tỷ lệ không nhiều. Theo TS. Nguyễn Văn Tảo - hiệu trưởng trường Đại học Công nghệ thông tin & truyền thông Thái Nguyên cho biết: “Thái Nguyên có truyền thống trồng rau từ lâu đời, song phụ thuộc nhiều vào thời tiết, mùa vụ. Tìm hiểu, được biết nhiều nước trên thế giới và cả Việt Nam đã thành công nhờ trồng rau thủy canh trong nhà lưới, nhà kính theo công nghệ Israel, mỗi năm có thể trồng 12 -15 lứa, năng suất cao, chất lượng đảm bảo. Canh tác theo phương thức này mặc dù đòi hỏi chi phí lớn hơn, nhưng tôi muốn ở đây là yếu tố chất lượng, bảo vệ môi trường sinh thái, tiếp cận công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp và quan trọng hơn là đảm bảo nhu cầu rau sạch hàng ngày vì gia đình tôi có người già và trẻ em . Chúng tôi đã áp dụng công nghệ này được gần 1 năm nay, do diện tích đất nhà tôi hẹp nên chúng tôi đã được tư vấn áp dụng trồng trên sân thượng và đến nay tôi thực sự rất hài lòng về phương pháp trồng RTC và rất cảm ơn các chuyên gia nông nghiệp trường ĐHNL Thái Nguyên đã chuyển giao, tư vấn và hỗ trợ kỹ thuật rất nhanh, nhiệt tình, chu đáo và hiệu quả trong thời gian qua.”
- 48 Diện tích RTC của các hộ điều tra năm 2018 được thể hiện dưới bảng 4.5 như sau: Bảng 4.5: Diện tích RTC của các hộ điều tra (n=20) Số hộ trồng Cơ cấu Diện tích Loại rau (hộ) (%) BQ/hộ (퐦 ) Cải mơ 20 100,0 12 Cải xanh 14 66,67 7,5 Cải mèo 10 50 9 Cải ngồng 12 60 7 Mướp hương 15 75 8 Mướp đắng 15 75 8 Cà chua 18 90 10 Dưa leo 10 50 9 Dưa lưới 6 30 9 Cải cúc 10 50 10 Rau muống 20 100,0 12 Mồng tơi 11 55 6 Rau đay 5 25 6 Rau dền 8 40 7 Húng quế 11 55 6 Cần tây 10 50 3 Tỏi tây 10 50 3 Hành lá 12 60 3 Xà lách 14 70 7 Mùi tàu 7 35 3 Rau mùi tía 11 55 4 Hẹ 4 20 3 Rau, quả khác: Diếp cá, Răm, lá lốt, dưa 4 20 6 lưới, dâu tây, ớt . (Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả, 2018)