Khóa luận Chất thơ trong truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh

pdf 62 trang thiennha21 16/04/2022 6010
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Chất thơ trong truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_chat_tho_trong_truyen_dai_cua_nguyen_nhat_anh.pdf

Nội dung text: Khóa luận Chất thơ trong truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN TRỊNH THỊ MAI HƢƠNG CHẤT THƠ TRONG TRUYỆN DÀI CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI, 2017
  2. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN TRỊNH THỊ MAI HƢƠNG CHẤT THƠ TRONG TRUYỆN DÀI CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH HÀ NỘI, 2017
  3. LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh - giảng viên khoa Ngữ văn, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình làm khóa luận tốt nghiệp. Em xin cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc biệt là các thầy, cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam đã cung cấp kiến thức về văn học và tạo điều kiện tốt nhất để em có thể thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Để hoàn thành khóa luận này em cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của gia đình, bạn bè, những ngƣời thân là điểm tựa vững chắc để em hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập và nghiên cứu. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 4 năm 2017 Sinh viên Trịnh Thị Mai Hƣơng
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dƣới sự hƣớng dẫn của TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong khóa luận này là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào khác. Những tài liệu phục vụ cho việc nhận xét, đánh giá đƣợc chính tác giả thu thập từ những nguồn khác nhau có ghi trong phần tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất kì sự sai lệch nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm! Hà Nội, tháng 4 năm 2017 Sinh viên Trịnh Thị Mai Hƣơng
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 3 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 5 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 6 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 6 6. Đóng góp của khoá luận 6 7. Bố cục của khoá luận 6 NỘI DUNG 7 CHƢƠNG 1: CHẤT THƠ VÀ CHẤT THƠ TRONG VĂN XUÔI 7 1.1. Quan niệm về thơ và chất thơ 7 1.2. Chất thơ trong văn xuôi 10 1.3. Tác giả Nguyễn Nhật Ánh và thể loại truyện dài 14 CHƢƠNG 2: CÁC PHƢƠNG DIỆN BIỂU HIỆN CHẤT THƠ TRONG TRUYỆN DÀI CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH 19 2.1. Nhan đề giàu chất thơ 19 2.2. Cốt truyện tâm lý 23 2.3. Nhân vật với đời sống cảm xúc cảm giác 30 2.4. Không gian nghệ thuật khơi gợi cảm xúc 36 2.5. Ngôn ngữ đậm chất thơ 40 2.5.1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhạc điệu 40 2.5.2. Ngôn ngữ thơ đƣợc chêm xen vào mạch văn xuôi 44 2.6. Giọng điệu đậm chất trữ tình 46 2.6.1. Giọng điệu trữ tình ngọt ngào 47 2.6.2. Giọng điệu triết lí, chiêm nghiệm 51 KẾT LUẬN 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Khi nhắc đến chất thơ, chúng ta vẫn thƣờng cho rằng đó là một thuộc tính chỉ riêng thơ mới có. Tuy nhiên, trên thực tế, có thể tìm thấy chất thơ trong cả những loại hình văn học khác nhƣ văn xuôi hay kịch. Ngoài ra, chất thơ còn xuất hiện trong các loại hình nghệ thuật khác nhƣ âm nhạc, hội hoạ, sân khấu Chất thơ biểu hiện ở cái đẹp của ngôn ngữ và âm điệu, cái đẹp của cảm xúc và ý tƣởng, của những khoảnh khắc tâm trạng và nó chính là sự miêu tả, khắc hoạ và thể hiện nghệ thuật trong sự giàu đƣợm ý thơ. Theo K.Pauxtôpxki: “Văn xuôi là sợi cốt, còn thơ là sợi ngang. Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi không chứa đựng chất thơ sẽ trở thành thô thiển, thành một thứ chủ nghĩa tự nhiên không cánh, không thúc gọi, không dẫn dắt ta đi đâu cả ”. Có thể ý kiến này chƣa thực sự xác đáng nhƣng không thể phủ nhận rằng, trong sáng tác văn học nghệ thuật, chất thơ đƣợc xem nhƣ là một đặc tính quan trọng đem lại sự cuốn hút kì diệu cho hình tƣợng nghệ thuật và tác phẩm. Chính vì vậy chất thơ trong các tác phẩm văn xuôi cũng trở thành đề tài của nhiều bài viết và công trình nghiên cứu văn học: Chất thơ trong Vang bóng một thời của GS. Đỗ Đức Hiểu, Chất thơ trong truyện ngắn Cánh đồng bất tận của PGS.TS. Đào Duy Hiệp, Chất thơ trong Và khi tro bụi của Đoàn Minh Phượng Có thể nói, chất thơ không chỉ giữ vai trò quan trọng trong sáng tác văn học nghệ thuật mà còn có giá trị không nhỏ trong cuộc sống. Những áng văn xuôi đƣợc tạo nên từ những hình ảnh đẹp, giàu sức biểu cảm, từ những ngôn từ mang tính nhạc điệu có thể giúp chúng ta xua tan đi bao nhiêu lo toan, mệt mỏi của cuộc sống thƣờng nhật, vƣợt lên tất cả để vƣơn tới những ƣớc mơ, hoài bão của mình Nhƣng cũng có thể nó đơn giản chỉ là khiến ta cảm thấy cuộc sống này êm ả và thanh bình hơn. 1
  7. Ở Việt Nam, trong vài chục năm trở lại đây, Nguyễn Nhật Ánh đã không còn là cái tên xa lạ đối với bạn đọc, đặc biệt là những bạn đọc yêu thích truyện viết cho tuổi mới lớn. Mỗi tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh đều tạo nên những cơn sốt đối với những bạn đọc tuổi hoa trên toàn quốc. Nguyễn Nhật Ánh đƣợc biết đến là nhà văn của thiếu nhi và tuổi mới lớn. Bên cạnh những truyện ngắn và hai bộ truyện Kính vạn hoa (45 tập) và bộ Chuyện xứ Lang Biang (28 tập), ông còn có những truyện dài – một thể loại sáng tác nổi bật hơn cả của nhà văn, với các tác phẩm nhƣ: Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Mắt biếc, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Cô gái đến từ hôm qua, Đi qua hoa cúc Chính những cuốn truyện viết cho tuổi mới lớn đầy ắp những cung bậc cảm xúc đã tạo nên “hiện tƣợng Nguyễn Nhật Ánh” trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Ông cũng đạt đƣợc nhiều thành công ở thể loại này: năm 1990, truyện dài Chú bé rắc rối đƣợc Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trao giải thƣởng Văn học trẻ hạng A. Năm 1995, ông đƣợc bình chọn là nhà văn đƣợc yêu thích nhất trong 20 năm (1975-1995) qua cuộc trƣng cầu ý kiến bạn đọc về các gƣơng mặt trẻ tiêu biểu trên mọi lĩnh vực của Thành Đoàn thành phố Hồ Chí Minh và báo Tuổi Trẻ. Năm 2008, Nguyễn Nhật Ánh xuất bản truyện dài có tên Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, tác phẩm đã đƣợc báo Lao động bình chọn là tác phẩm hay nhất năm 2008 và đoạt giải thƣởng văn học ASEAN năm 2010. Những giải thƣởng đó không chỉ khẳng định tài năng, vị trí và những đóng góp của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh cho nền văn học Việt Nam mà còn góp phần khẳng định vị thế của văn học nƣớc nhà trong khu vực và trên thế giới. Góp một phần không nhỏ trong những thành công ấy chính là những trang văn đậm chất thơ - một nét phong cách nổi bật của Nguyễn Nhật Ánh, chạm đến trái tim và để lại ấn tƣợng sâu sắc trong lòng mỗi độc giả. 2
  8. Đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về Nguyễn Nhật Ánh và các sáng tác của ông, song phần lớn chủ yếu đi vào nghiên cứu về cảm hứng tuổi thơ và thế giới nhân vật trong các tác phẩm đó. Vì vậy có thể thấy, tìm hiểu về chất thơ trong truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh là một cánh cửa còn bỏ ngỏ. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn Chất thơ trong truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh làm đề tài nghiên cứu cho khoá luận của mình. Chúng tôi mong muốn có một hƣớng tiếp cận mới với cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về vấn đề chất thơ trong truyện dài của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. 2. Lịch sử vấn đề Với lối viết giản dị, trong sáng mà chân thật gần gũi, hầu hết các sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh đều đƣợc bạn đọc đón nhận nồng nhiệt. Trong nhiều năm qua đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về các tác phẩm của ông. Ở giáo trình Văn học hiện đại Việt Nam tập 2 (NXB Đại học Sƣ phạm), Lã Thị Bắc Lý trong phần viết về Văn học thiếu nhi từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phần nào đánh giá đƣợc tài năng cũng nhƣ những thành công của Nguyễn Nhật Ánh. Mặc dù đó là cái nhìn khái quát nhất về mảng văn học viết cho thiếu nhi giai đoạn sau cách mạng, nhƣng Lã Thị Bắc Lí đã đề cập đến những sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh nhƣ là một hiện tƣợng của giai đoạn này. Tác giả đã đánh giá cao tài năng của Nguyễn Nhật Ánh qua thành công của hai bộ truyện Kính vạn hoa và Chuyện xứ Lang-bi-ang cùng nhiều truyện dài xuất sắc khác nhƣ Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Còn chút gì để nhớ, Cô gái đến từ hôm qua, Mắt biếc Có thể nói, nếu nhƣ ai quan tâm đến Nguyễn Nhật Ánh sẽ không bỏ qua cuốn sách Nguyễn Nhật Ánh - hoàng tử bé trong thế giới tuổi thơ do Lê 3
  9. Minh Quốc biên soạn (NXB Kim Đồng giới thiệu năm 2012). Cuốn sách là tập hợp khá đầy đủ thông tin về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Nhật Ánh. Đồng thời, cuốn sách còn đƣa đến nhiều bài viết dƣới góc nhìn khác nhau của đồng nghiệp, của báo chí trong và ngoài nƣớc về Nguyễn Nhật Ánh và tác phẩm của ông, đặc biệt là những sáng tác cho tuổi mới lớn. Trong công trình Bách khoa toàn thư văn học thiếu nhi Việt Nam do hai tác giả Vân Thanh và Nguyên An biên soạn, ở tập 1, phần Tổng quan, hai tác giả đã sƣu tầm và giới thiệu một loạt bài viết về văn học thiếu nhi Việt Nam, trong đó có nhiều bài viết đề cập đến Nguyễn Nhật Ánh và các tác phẩm của ông. Tiêu biểu là bài viết của các tác giả: Lã Thị Bắc Lý, Nguyễn Hƣơng Giang, Vân Thanh, Văn Hồng, Lê Phƣơng Liên, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Thu Việt Trong bài viết Truyện viết cho thiếu nhi sau 1975: diện mạo và quá trình phát triển Lã Thị Bắc Lý đã có nhiều đoạn giới thiệu, phân tích khái quát giá trị tác phẩm Kính vạn hoa. Tác giả Nguyễn Thị Hƣơng Giang đã dành cả bài viết Người nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ để nói về Nguyễn Nhật Ánh và một loạt các tác phẩm của ông nhƣ: Cô gái đến từ hôm qua, Bàn có năm chỗ ngồi, Chú bé rắc rối, Thiên thần nhỏ của tôi, Hạ đỏ, Bong bóng lên trời Bên cạnh các giáo trình và chuyên luận trên còn phải kể đến các luận văn nghiên cứu về Nguyễn Nhật Ánh nhƣ: Thế giới trẻ thơ qua cách nhìn của Nguyễn Nhật Ánh trong bộ truyện Kính vạn hoa (Luận văn thạc sỹ Ngữ văn của Phan Thị Bền, 2005, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội). Trong luận văn này, tác giả đi sâu vào nghiên cứu bộ truyện Kính vạn hoa trên cả hai phƣơng diện nội dung và nghệ thuật dƣới góc nhìn thế giới trẻ thơ. Tuy mới chỉ khảo sát trong một bộ truyện nhƣng luận văn này đã mở ra hƣớng tiếp cận cho một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn. 4
  10. Tác giả Vũ Thị Hƣơng đã mở rộng đối tƣợng nghiên cứu với đề tài Thế giới nghệ thuật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh (Luận văn thạc sỹ khoa học Ngữ văn, 2009, Trƣờng đại học Sƣ phạm Hà Nội). Công trình nghiên cứu này đã phần nào làm nổi bật đƣợc đặc điểm của thế giới trẻ cũng nhƣ thành công nghệ thuật nổi bật về cốt truyện, ngôn ngữ và không gian, thời gian trong ba tác phẩm của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Nhân dịp sinh nhật lần thứ 60 của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh (ngày 16/9/2015), Trung tâm ngôn ngữ và Văn học - Nghệ thuật trẻ em (Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội) đã tổ chức hội thảo “Nguyễn Nhật Ánh - Hành trình chinh phục tuổi thơ”. Hơn 40 tham luận của các nhà nghiên cứu - phê bình văn học, nhà văn, nhà giáo và học sinh trên toàn quốc đã khẳng định Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn xuất sắc của văn học thiếu nhi Việt Nam cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI. Nhìn chung, qua khảo sát chúng tôi nhận thấy, nhiều bài viết và công trình nghiên cứu tập trung khẳng định đóng góp cũng nhƣ những thành công của Nguyễn Nhật Ánh. Tuy nhiên, hầu hết mới chỉ nghiên cứu trên các phƣơng diện nhƣ nhân vật, cốt truyện hay đi vào nghiên cứu riêng một tác phẩm cụ thể mà chƣa có bài viết nào đi sâu vào tìm hiểu chất thơ đƣợc thể hiện trong hàng loạt truyện dài của ông. Do đó, trên cơ sở thành tựu và kinh nghiệm của những ngƣời đi trƣớc, trong khóa luận này chúng tôi đi sâu vào làm rõ chất thơ trong truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh, nhằm cung cấp thêm một hƣớng tiếp cận mới cho độc giả, góp phần nhìn nhận, đánh giá tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh một cách toàn diện hơn. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Thực hiện đề tài khóa luận, chúng tôi muốn tập trung làm rõ Chất thơ trong truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh. Từ đó, góp thêm tiếng nói khẳng định tài năng cũng nhƣ đóng góp của nhà văn đối với nền văn đƣơng đại nói chung cũng nhƣ mảng văn học viết cho thiếu nhi nói riêng. 5
  11. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của khoá luận là một số truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh, cụ thể là các truyện: Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Ngồi khóc trên cây, Trại hoa vàng, Mắt biếc, Đi qua hoa cúc, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh. Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là Chất thơ trong truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh. Cụ thể là các phƣơng diện: nhan đề, cốt truyện, nhân vật, không gian nghệ thuật, ngôn ngữ, giọng điệu. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong khoá luận này, chúng tôi sử dụng chủ yếu những phƣơng pháp nghiên cứu sau: Phƣơng pháp hệ thống Phƣơng pháp so sánh Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp 6. Đóng góp của khoá luận Khoá luận tiếp tục ghi nhận sáng tạo độc đáo trong tƣ duy nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh ở phƣơng diện chất thơ trong truyện dài của ông. 7. Bố cục của khoá luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của khoá luận đƣợc triển khai theo hai chƣơng: Chƣơng 1: Chất thơ và chất thơ trong văn xuôi Chƣơng 2: Các phƣơng diện biểu hiện chất thơ trong truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh 6
  12. NỘI DUNG CHƢƠNG 1 CHẤT THƠ VÀ CHẤT THƠ TRONG VĂN XUÔI 1.1. Quan niệm về thơ và chất thơ Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Thơ là hình thức phản ánh văn học, phản ánh cuộc sống thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu” [11, tr.309]. Bàn về thơ, Sóng Hồng cho rằng, thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi, ngƣời làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong lòng. Thơ là tình cảm và lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm và lí trí ấy đƣợc diễn đạt bằng những hình tƣợng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng và vang lên nhạc điệu khác thƣờng. Thơ thiên về biểu hiện cảm xúc, thƣờng hàm súc cô đọng, ngôn ngữ có nhịp điệu. Cũng trên cơ sở này, các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Chất thơ chỉ những sáng tác văn học (bằng văn xuôi hoặc văn vần) giàu cảm xúc, nội dung cô đọng, ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhịp điệu” [11, tr.131]. Chất thơ là điều kiện cơ bản của thơ, không có chất thơ thì không thể có thơ hay. Thơ là một trong những hình thái văn học đầu tiên của loài ngƣời. Ở nhiều dân tộc, trong một thời gian tƣơng đối dài, từ thế kỉ XVIII trở về trƣớc, nói đến thơ ca là nói đến văn học. Tuỳ theo yêu cầu nghiên cứu, có thể chia thơ theo những tiêu chí khác nhau. Dựa trên phƣơng thức phản ánh, có thể chia thơ thành: Thơ tự sự và Thơ trữ tình. Dựa vào thể luật có thể chia thơ thành: Thơ cách luật và Thơ tự do. Xét về gieo vần có thể chia thành: Thơ có vần và Thơ không vần. Cũng có khi ngƣời ta phân loại theo thời đại 7
  13. nhƣ: thơ Đƣờng, thơ Tống, thơ Lý - Trần. Ngoài ra có thể phân loại theo nội dung nhƣ: thơ tình yêu, thơ chính trị, thơ đời thƣờng Chất thơ là khái niệm rộng hơn thơ, chất thơ không chỉ có ở thơ mà còn có ở cả văn xuôi. Chất thơ chính là ý vị trữ tình, là sự thi vị gợi lên từ chính hình ảnh, ngôn từ của tác phẩm. Nó có sức gợi, sức lan toả rất lớn, tác động vào tâm hồn ngƣời đọc, tạo những khoái cảm kì lạ. Không những thế, nói đến chất thơ là nói đến tính cảm xúc và cái đẹp. Hơn thế nữa, cái đẹp có sức cảm hoá con ngƣời. Chất thơ gắn với tính trữ tình bay bổng. Chất thơ còn là những ý nghĩa nằm ở ngoài lời, ở những khoảng lặng của ngôn từ cho nên nó mang tính mơ hồ mà chúng ta chủ yếu cảm nhận bằng tâm hồn và bằng sự liên tƣởng. Hoài Nam từng viết: “Chất thơ của bài thơ nằm trong một cái đích rất mơ hồ nhưng lại rất cụ thể, nó mơ hồ ở chỗ nó tan biến vào từng câu thơ, nó chảy ra bàng bạc trong từng tác phẩm nhưng nó cụ thể ở chỗ nó tụ lại ở một điểm ngời sáng nào đó làm cho cái bàng bạc trải rộng kia lấp lánh lên. “Điểm ngời sáng” là nơi gặp gỡ của tất cả các câu thơ, ý thơ, nơi ngã ba, ngã bảy tỏa đi các câu thơ, đối với người làm thơ là nơi cảm xúc gặp gỡ, đối với người đọc thơ là nơi cảm xúc tỏa đi. Người làm thơ mà không bắt nổi các cảm xúc tinh tế và trải rộng đi nhiều hướng của mình khi tụ lại một điểm thì người đọc thơ cứ phải đuổi bắt chất thơ bàng bạc và chập chờn và phải sống trong trạng thái chờ đợi vô vọng, phải chịu đựng một bước hẫng hụt trong thi ca” [17, tr.9]. Nói về các nhân tố tạo nên chất thơ, Hà Minh Đức viết: “Chất thơ là một phẩm chất tổng hợp được tạo nên từ nhiều nhân tố. Những nhân tố này có thể có trong nội dung của các thể loại khác, nhưng ở thơ biểu hiện tập trung hơn cả, và được hoà hợp, liên kết một cách vững chắc để tạo nên những phẩm chất mới” [10, tr.36]. Theo ông, chất thơ gắn liền với sự 8
  14. rung động và cảm xúc trực tiếp. Thơ là ở tấm lòng, nhƣng cũng chính là cuộc sống, thơ gắn liền với trí tƣởng tƣợng và cái đẹp. Xét trên phƣơng diện mỹ học, chất thơ đƣợc xem là cái đẹp của tâm hồn, của cuộc sống, và cao hơn nữa là cuộc sống với một lí tƣởng đẹp. Xét trên phƣơng diện cảm hứng, chất thơ gắn liền với cảm hứng bay bổng lãng mạn. Xét trên phƣơng diện ngôn ngữ, chất thơ gắn liền với tính nhạc của lời văn. Trong thơ, sự việc đâu cần nhà thơ kể lại, chỉ cần miêu tả hình dáng mà sự việc đã tƣờng, chất thơ của cuộc sống đã đƣợc gợi ra. Ngƣời đọc thông qua sự gợi dẫn của hình ảnh, ngôn từ trong thơ mà có liên tƣởng, những phiêu diêu trong cảm xúc, đồng thời bắt gặp những cái hay, cái đẹp, cái ý nghĩa của tình ngƣời của chất ngƣời ủ kín bên trong. Rõ ràng, thơ không diễn giải tƣờng tận chất muối mặn của cuộc đời ra sao, không diễn thuyết tình ngƣời cao đẹp nhƣ thế nào, cảnh vật nên thơ cũng không do thi sĩ sắp đặt, mời gọi bạn đọc thƣởng ngoạn mà chủ yếu là sự tƣơng hợp giữa hình ảnh thơ và điệu hồn cảm nhận của ngƣời thƣởng thức. Nói khác đi, chất thơ là do sức gợi của ý nghĩa chính lời thơ và hình ảnh thơ. Bản thân lời và hình ảnh ấy chƣa thể có thơ nếu không có sự cảm nhận từ phía bạn đọc. Vậy nên, chất thơ cũng chính là cảm xúc, tình cảm thẩm mĩ bật lên từ chính ngƣời thƣởng thức. Nói khác đi chất thơ là do sức gợi của ý nghĩa, từ chính lời thơ và hình ảnh thơ. Bản thân lời và hình ảnh ấy chƣa thể có chất thơ nếu không có sự cảm nhận từ phía bạn đọc. Vậy nên chất thơ cũng chính là cảm xúc, tình cảm thẩm mĩ bật lên từ chính ngƣời thƣởng thức. Chất thơ xuất phát từ lời, hình ảnh mang hình ảnh chủ quan của thi sĩ và bản thân chất thơ có sức gợi, sức lan toả rất lớn tạo nên những rung động tâm hồn, những xúc cảm thẩm mĩ từ phía ngƣời tiếp nhận. Thuật ngữ “chất thơ” nghiêng về tính nội dung, cảm xúc. Nó hƣớng con ngƣời tới cái đẹp, an 9
  15. ủi và nuôi dƣỡng niềm tin vào cái đẹp, làm cho tâm hồn con ngƣời tránh đƣợc sự khô cằn, chai sạn, nghèo tƣởng tƣợng. Nhƣ vậy, chất thơ là phạm trù giá trị, một yếu tố làm nên phong cách văn chƣơng của một tác giả, một khuynh hƣớng hay một thời đại văn học. Nó chứa đựng thái độ với cái đẹp, tiêu chuẩn về cái đẹp và biến đổi cùng với thời gian. Qua sự biểu hiện chất thơ có thể thấy quan niệm, thái độ, tình cảm của nhà văn, rộng hơn là thị hiếu thẩm mĩ của một thời đại, một dân tộc. Chất thơ là phƣơng thức nổi bật của phƣơng thức trữ tình. 1.2. Chất thơ trong văn xuôi Nghiên cứu chất thơ trong văn xuôi, xét trên một phƣơng diện nào đó, gắn liền với việc thừa nhận hiện tƣợng giao thoa thể loại nhƣ một thực tế hiển nhiên. Đã nghiên cứu chất văn xuôi trong thơ thì cũng có thể nghiên cứu chất thơ trong văn xuôi. Tìm chất thơ trong văn xuôi chính là tìm những đặc tính vốn làm nên đặc thù của thể loại thơ, đƣợc văn xuôi tiếp nhận nhằm làm giàu có thêm cho sự biểu đạt của văn xuôi, thuận theo một tâm thế nhìn, một kiểu cảm thụ đặc biệt về thế giới và gắn với những đối tƣợng miêu tả cũng có nhiều nét đặc biệt. Mỗi khi ta gặp trong tác phẩm văn xuôi một sự ƣu tiên cho việc biểu hiện tâm tình chủ quan của nghệ sĩ, một chiều hƣớng miêu tả nghiêng về nắm bắt những nét tinh lọc của thế giới, tâm hồn, một thái độ tôn sùng tính lí tƣởng, một sự thích thú đẽo gọt câu văn theo hƣớng đề cao sự ám gợi và tính hài hoà của mọi yếu tố ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp là khi ta có thể nói tới cái gọi là chất thơ. Quả là có một giao ƣớc ngầm nhƣ thế hình thành trong đời sống văn học, trên cả hai lĩnh vực sáng tác và cảm thụ, dẫu biết rằng thơ cũng có ba bảy lối và không phải loại thơ nào cũng đề cao sự ngọt ngào và có thái độ thành kính trƣớc những gì đƣợc gọi là lí tƣởng. 10
  16. Trong một tác phẩm văn xuôi thì chủ đề, tƣ tƣởng, cốt truyện luôn là những yếu tố quan trọng, thu hút sự chú ý của độc giả. Thế nhƣng tất cả yếu tố ấy đôi khi chỉ là cái sƣờn, cái khung để tạo nên tác phẩm mà thôi. Trong quá trình thƣởng thức tác phẩm, độc giả sẽ không khó khăn gì để nắm bắt đƣợc chúng. Bên cạnh chúng lại có một yếu tố khác cũng chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong tác phẩm. Đó chính là cái hồn của tác phẩm đƣợc ẩn giấu trong từng câu từng chữ. Và cái hồn đó chính là chất thơ. Khi nói đến thơ và văn xuôi, ngƣời ta thƣờng nghĩ rằng chúng là hai thể loại văn học phân chia theo tiêu chí sau: thơ nằm trong phƣơng thức trữ tình, tái hiện cuộc sống thông qua bộc lộ chủ quan. Tuy nhiên, việc phân chia thể loại chỉ mang tính chất tƣơng đối. Bởi vì đặc trƣng của thể loại này không có nghĩa là đối lập hoàn toàn với thể loại khác mà nó chỉ biểu hiện ở nét tập trung nổi bật. Và trong bản thân các tác phẩm văn học, nhiều khi ranh giới giữa các thể loại không rõ ràng, nhiều khi bị “nhoè” đi vì hiện tƣợng giao thoa. Yếu tố quan trọng hàng đầu để tạo ra chất thơ trong thơ chính là sự rung động trong tâm hồn nghệ sĩ. Khi đứng trƣớc một hiện tƣợng, sự việc nào đó, ngƣời nghệ sĩ bỗng thấy cảm xúc trào dâng dạt dào, điều đó thôi thúc họ cầm bút sáng tác. Nếu không có cảm xúc và đƣợc bắt nguồn từ cảm xúc thì sáng tác đó cũng chỉ là những con chữ, những trang viết vô hồn mà thôi. Tâm hồn ngƣời nghệ sĩ thƣờng rất nhạy cảm với mọi vấn đề của cuộc sống, từ đó họ thổi cái hơi lãng mạn trữ tình vào và làm sống động những sự vật, hiện tƣợng vốn dĩ rất bình thƣờng. Sức sống bên trong tâm hồn ngƣời nghệ sĩ có một cái gì đó say sƣa, rạo rực, tha thiết tin yêu đã in dấu lên mọi cảnh vật, mọi cảnh sắc mà nhà văn miêu tả. Nó làm cho cảnh vật ấy sôi động hẳn lên, rung lên, vang lên những cung bậc mạnh mẽ. Cái ngọn lửa từ bên trong ấy có thể làm nên chất thơ, chất trữ tình đằm 11
  17. thắm. Nguồn gốc sâu xa này có khi đƣợc tác giả chăm bón, nuôi dƣỡng từ rất lâu, nhƣng cũng có khi nó xuất hiện một cách đột ngột mà chính tác giả cũng không ngờ tới. Những khi xúc cảm khởi phát ở trong lòng, nó thôi thúc nhà văn phải cầm bút để trải lòng ra với độc giả. “Chất thơ là chìa khoá để mở ra một cái gì đó trước đây vẫn còn bị phong kín” [16, tr.505]. Chất thơ của cuộc đời rất phong phú và đa dạng, nó luôn luôn ƣu đãi con ngƣời, chỉ có điều con ngƣời ta không phải ai cũng thấy đƣợc, nắm bắt để diễn tả và thƣởng thức nó. Các nhà văn có tâm huyết thƣờng đi sâu vào khai thác và chiếm lĩnh một cách tối đa chất thơ của cuộc đời để trả lại cho đời. Nhờ có họ mà ngƣời đời mới luôn luôn đƣợc thƣởng thức những điều tuyệt diệu.“Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời” [20, tr.48]. Hình tƣợng của chất thơ là hình tƣợng của cảm xúc, vì vậy sự chân thực về mặt tình cảm quyết định rất lớn đến giá trị của hình tƣợng thơ. Ở trong chất thơ, cảm xúc và suy nghĩ luôn kết hợp chuyển hoá lẫn nhau trong quá trình phát triển của hình tƣợng. Nếu nhƣ cảm xúc là cội nguồn đầu tiên thì suy nghĩ là “thao tác” tiếp theo tạo nên tầng khái quát cho hình tƣợng thơ. Chất thơ trong văn xuôi là sự phản ánh trực tiếp những tình cảm, những tâm trạng cá nhân. Khi đọc những tác phẩm khác nhau của những tác giả khác nhau, ta cảm nhận đƣợc tình cảm của họ dàn trải trên những trang văn cũng khác nhau. Vì vậy, có thể dựa vào chất thơ, sự biểu hiện của chất thơ mà nắm bắt đƣợc tình cảm, cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ của nhà văn. Có ngƣời bộc lộ cảm xúc một cách kín đáo, lặng lẽ, có ngƣời lại bộc lộ một cách trực tiếp, sôi nổi, mãnh liệt. Tình cảm, cảm xúc của nhà văn nhiều khi cũng muôn hình muôn vẻ. Có khi là nỗi niềm cảm thƣơng man mác trƣớc những cuộc đời thầm lặng, có khi là những âm thanh, những màu sắc riêng nói lên sự sôi nổi, vui vẻ, hồn hậu, lạc quan 12
  18. trƣớc cuộc đời đầy mồ hôi và nƣớc mắt. Điều cốt yếu của mỗi nhà văn vẫn là sự bộc bạch, biểu lộ một cách sâu kín những điều thiêng liêng nhất đang diễn ra trong tâm hồn họ. Có nhƣ vậy, tác phẩm của họ mới nảy ra chất thơ. Có thể khẳng định rằng, chất thơ luôn phụ thuộc vào sự rung cảm của những cảm xúc trong tâm hồn ngƣời nghệ sĩ. Khi cảm xúc đến độ tràn đầy thì xuất hiện chất thơ. Chất thơ là sự tinh tuý của cái đẹp. Nếu coi tình cảm và cảm xúc là cái gốc của thơ thì “Cái đẹp là địa hạt hợp pháp của thơ ca” (Etgapo). Điều đó cũng dễ hiểu bởi tâm hồn con ngƣời thƣờng hay rung động trƣớc cái đẹp. Cái đẹp là mối quan tâm, là mục đích tìm kiếm của các nhà văn. Rồi sau đó lại biểu hiện nó, phản ánh nó lên những trang giấy của mình. Quá trình sáng tác của các nhà văn có thể gọi là quá trình đi từ cảm xúc đến việc mô tả cái đẹp “Lòng như nhật nguyệt thì thơ cũng như ánh sáng nhật nguyệt” (Ngô Giang Điệp). Tâm hồn ngƣời sáng tác trong sáng thì chất thơ sinh ra cũng trong sáng nhƣ ánh sáng của vầng trăng soi vậy. Tất cả đã tạo nên cái đẹp trong văn xuôi. Cái đẹp thƣờng đƣợc tiếp nhận trên phƣơng diện là một sắc thái thẩm mĩ để tạo nên âm hƣởng chủ đạo cho các tác phẩm văn xuôi có chất thơ. Tóm lại, chất thơ là sự thể hiện cái đẹp. Cái đẹp ấy có khi là vẻ đẹp của thiên nhiên có khi lại là sự thể hiện vẻ đẹp của con ngƣời. Chất thơ có sức cảm hoá con ngƣời. Ở chất thơ có sức giao cảm hết sức tinh tế nên đó là phƣơng tiện để truyền cảm và có sức cảm hoá mạnh mẽ. Chất thơ dù là sản phẩm tinh thần của riêng tác giả nhƣng thông qua chất thơ, độc giả có thể cảm nhận đƣợc những tình cảm, cảm xúc mà nhà văn trải qua và đang diễn tả lại. Khi đó, tâm hồn hàng nghìn, hàng vạn độc giả sẽ hoà cùng một nhịp với con tim tác giả. Nói cách khác, tiếng nói trong lòng tác giả khi ấy đã tìm thấy đƣợc sự đồng điệu trong tâm hồn độc giả. Thi nhân xƣa có câu 13
  19. “Thi dĩ ngôn chí”, thơ là để nói lên suy nghĩ, ý chí của mình. Quan niệm này đã có chỗ tiến bộ, coi thơ là sản phẩm tinh thần gắn liền với chủ thể sáng tạo. Nhƣng thực chất, ngoài việc dùng thơ để bày tỏ tình cảm với nhau thì ngƣời xƣa còn dùng thơ nhƣ một thứ công cụ để họ diễn tả những thứ mà họ nhìn thấy, nghe thấy, cảm nhận thấy và những gì mình suy nghĩ một cách rất khách quan. Qua đó, độc giả sẽ tự mình chiêm nghiệm và đúc rút ra những điều bổ ích chứ không phải bằng sự áp đặt. Chất thơ ngoài khả năng giao cảm, còn đạt đến một ý nghĩa nhân văn nào đó. Ý nghĩa ấy có thể giúp con ngƣời hƣớng tới sự hoàn thiện trong nhân cách. Trong cuộc sống, chúng ta thƣờng gặp nhiều khó khăn, trắc trở, sẽ có những khi chúng ta nản lòng hay mềm yếu trƣớc những cám dỗ. Khi ấy, chất thơ và những giá trị nhân văn mà những tác phẩm văn học sẽ tiếp thêm cho ta sức mạnh, đứng vững trên đƣờng đời và luôn giữ cho mình một tâm hồn trong sạch. Chất thơ đem đến cho ta những phút giây thƣ thái, thoải mái, bình yên, khiến lòng ta lắng lại, quên đi những vất vả, lo toan xô bồ của cuộc sống. Chất thơ còn đem đến cho con ngƣời niềm tin yêu vào con ngƣời và cuộc đời. Nguyễn Nhật Ánh đã đem chất thơ đến cho những tác phẩm của mình, đƣa ngƣời đọc vào một thế giới trong sáng, tƣơi đẹp với đầy đủ những cung bậc cảm xúc, khiến lòng ngƣời thêm trong sạch và giàu yêu thƣơng hơn 1.3. Tác giả Nguyễn Nhật Ánh và thể loại truyện dài Nguyễn Nhật Ánh sinh ngày 7-5-1955. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1991). Ông có nhiều bút danh nhƣ Anh Bồ Câu, Chu Đình Ngạn, Đinh Phƣơng Sóc, Sóc Phƣơng Đông Nguyên quán tại xã Bình Quế, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, tuổi thơ gắn bó với gia đình, làng xóm quê hƣơng đã nuôi dƣỡng tâm hồn 14
  20. nhà văn. Tình yêu cùng nỗi nhớ quê hƣơng da diết, khắc khoải, day dứt cứ trở đi trở lại trong các sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh. Chính những kỉ niệm tuổi thơ phong phú, đẹp đẽ đã trở thành chất xúc tác, là một nguồn cảm hứng dồi dào cho Nguyễn Nhật Ánh chuyên tâm sáng tác những tác phẩm cho thiếu nhi và cho tuổi mới lớn. Nguyễn Nhật Ánh khẳng định: có một đứa trẻ con luôn tồn tại trong ông ngay cả khi ông đã bƣớc sang tuổi ngũ tuần. Chính “đứa trẻ con” trong tâm hồn ông lúc nào cũng thôi thúc nhà văn viết nên những trang truyện dành riêng cho lứa tuổi này. Nguyễn Nhật Ánh ngoài đời là một con ngƣời tƣơi vui, dí dỏm, một ngƣời thân thiện và yêu thƣơng trẻ nhỏ. Nguyễn Nhật Ánh cũng có thời gian làm thầy giáo. Dù chỉ hai năm ngắn ngủi, nhƣng những kiến thức, kĩ năng nghiệp vụ sƣ phạm cùng những kinh nghiệm thực tế đã giúp nhà văn hiểu và gần gũi với học trò hơn. Nhà văn nắm bắt rất nhanh nhạy những vấn đề bức xúc trong cuộc sống hiện tại, nhất là trong cuộc sống của bọn trẻ và đƣa vào tác phẩm nhƣ một yếu tố dẫn dắt và kích thích trí tò mò của ngƣời đọc. Nguyễn Nhật Ánh còn là một nhà văn có trách nhiệm và có tâm huyết về nghề viết văn. Để có vốn hiểu biết phong phú về thế giới học trò, nhà văn đã sƣu tầm các loại sách giáo khoa từ lớp 1 đến lớp 12 để đọc, đăng kí lớp học tiếng Anh mỗi tối để có cơ hội quan sát, nắm bắt tâm tình của tuổi học trò. Ông sáng tác trƣớc hết là vì đam mê, do sự thôi thúc của tâm hồn chứ không phải vì mục đích mƣu sinh hay mƣu cầu danh tiếng. Ông không đặt cho văn chƣơng những trọng trách quá nặng nề, tác phẩm có thành công hay không là do cái tài, cái tâm của mỗi nhà văn chứ không phải do ý đồ khiên cƣỡng. Quan niệm nhƣ vậy nên Nguyễn Nhật Ánh viết một cách thong dong, viết để bƣớc vào một thế giới không có sự phiền muộn của cuộc sống đời thƣờng. Nguyễn Nhật Ánh cho rằng, tác phẩm văn học thiếu 15
  21. nhi chủ yếu là những tác phẩm viết cho thiếu nhi chứ không phải viết về thiếu nhi. Đó phải là những tác phẩm vừa đảm bảo đƣợc tính thẩm mỹ, hợp với gu mĩ cảm của trẻ em lại vừa có tính giáo dục. Ông luôn tâm niệm, nhà văn viết cho thiếu nhi bao giờ cũng đồng thời là nhà giáo dục. Cho đến nay, Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn viết cho thiếu nhi có nhiều đầu sách nhất Việt Nam. Không chỉ nhiều về số lƣợng, tác phẩm của ông còn nhận đƣợc nhiều giải thƣởng cao quý và nhận đƣợc sự đón đọc nồng nhiệt từ độc giả. Với hơn 20 truyện dài, cùng lối viết chân thực, mộc mạc, nhà văn đi sâu khai thác nhiều mặt trong đời sống của tuổi học trò ở các lứa tuổi khác nhau, từ trẻ nhỏ cho đến tuổi mới lớn. Nếu nhƣ viết cho tuổi mới lớn là những rung động đầu đời thì khi viết cho tuổi cấp hai, Nguyễn Nhật Ánh lại đi sâu vào khai thác chuyện trƣờng lớp, bài vở, mối quan hệ với thầy cô và bạn bè. Với tài năng quan sát tinh tế, giọng điệu dí dỏm, mỗi truyện của Nguyễn Nhật Ánh đều làm lạ hoá cái thế giới hằng ngày quen thuộc. Đọc truyện Nguyễn Nhật Ánh ai cũng thấy mình trong đó. Với những truyện dài nhƣ: Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Ngồi khóc trên cây, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Còn chút gì để nhớ Nguyễn Nhật Ánh đã trở thành cái tên quen thuộc không chỉ với tuổi học trò mà còn với nhiều độc giả ở những độ tuổi khác nhau. Trẻ em có một thế giới riêng mà ngƣời lớn không phải ai cũng hiểu đƣợc, mặc dù ai cũng từng là trẻ nhỏ. Vì vậy, viết truyện cho thiếu nhi là một điều không hề đơn giản. Thiếu nhi Việt Nam yêu mến và chấp nhận Nguyễn Nhật Ánh vì ông hiểu những câu chuyện của chúng và kể về chúng. Thái Phan Vàng Anh từng nhận xét: “Chúng tôi gọi Nguyễn Nhật Ánh là người kể chuyện của thiếu nhi với hàm ý rằng Nguyễn Nhật Ánh là tác giả của những câu chuyện viết về thiếu nhi, dành cho thiếu nhi, khi 16
  22. anh đóng vai người kể chuyện toàn tri, hay thậm chí khi anh hoá thân thành những vai kể khác. Bởi với thiếu nhi, việc ai thực sự là chủ thể trần thuật trong truyện không quan trọng bằng ai mới là người đem lại những truyện kể ấy. Với thiếu nhi, Nguyễn Nhật Ánh như là nàng Scheherazade trong Nghìn lẻ một đêm cùng những câu truyện bất tận” [2]. Nhà nghiên cứu văn học thiếu nhi Vân Thanh cũng từng nhận xét về truyện của Nguyễn Nhật Ánh: “Truyện của Nguyễn Nhật Ánh có khả năng đi vào lòng người bởi tình cảm nồng hậu của tác giả đối với các lứa tuổi trẻ thơ mà anh luôn yêu quý và tôn trọng” [19]. Truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh không có cấu trúc phức tạp. Do viết cho thiếu nhi nên nội dung kể đƣợc chú ý hơn cách kể. Nguyễn Nhật Ánh cũng hiếm khi tạo ra những vai kể khác thƣờng. Nhà văn thƣờng chọn cách kể từ ngôi thứ nhất khiến cho câu chuyện mang tính chất hồi ức (Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Trại hoa vàng ). Dù ở vai kể nào thì ta đều thấy đƣợc hình tƣợng của chính tác giả Nguyễn Nhật Ánh. Tác giả nhƣ đã hoá thân vào thế giới trẻ thơ, nhìn vạn vật bằng cái nhìn trẻ thơ và thuật lại những câu chuyện ấy một cách khéo léo. Tác giả Nguyễn Thụy Anh cảm thấy tuổi thơ của mình và bạn bè mình cũng nhƣ thế hệ sau sẽ luôn đồng hành cùng kí ức trong mỗi cuốn truyện của Nguyễn Nhật Ánh: “Mỗi cuốn truyện là một tuổi thơ trọn vẹn, lần nào cũng như bắt đầu lại từ đầu, với những kí ức lung linh hoa lá và những trải nghiệm khóc cười rất thật, tưởng chừng không có bóng dáng của “hư cấu văn học”. Cũng vì thế mà khó xác định nhà văn viết cho thế hệ nào, thời đại nào. Có cảm tưởng, người đọc sau trăm năm nữa vẫn sẽ có một Nguyễn Nhật Ánh đồng hành với kí ức tuổi thơ của mình như thế này mà thôi” [1]. Truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh là một mảng sáng tác tiêu biểu trong sáng tác của ông. Phần lớn truyện dài của ông viết cho tuổi mới lớn 17
  23. với những kỉ niệm tuổi học trò, những rung cảm đầu đời của những anh chàng học sinh cấp ba mê văn chƣơng, yêu nghệ thuật, đa sầu, đa cảm. Đó là những trang văn trữ tình đầy chất thơ và cũng không kém phần hóm hỉnh, nhà văn đã đem đến cho ngƣời đọc những cảm nhận tƣơi mới về cái đẹp của tuổi hoa niên. 18
  24. CHƢƠNG 2 CÁC PHƢƠNG DIỆN BIỂU HIỆN CHẤT THƠ TRONG TRUYỆN DÀI CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH 2.1. Nhan đề giàu chất thơ Trong các yếu tố góp phần làm nên tác phẩm, nhan đề giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Nhan đề là “chìa khoá nghệ thuật” giúp ngƣời đọc mở ra cánh cửa để bƣớc vào thế giới của tác phẩm văn học; giúp độc giả nhận biết đƣợc đề tài, chủ đề của tác phẩm, nhờ đó cũng định hƣớng đƣợc cách tiếp cận tác phẩm một cách đúng và phù hợp nhất. Hơn thế, nhan đề tƣơng ứng với ý tƣởng và dự đồ sáng tác của nhà văn. Những ý tƣởng đó chợt loé lên và thôi thúc nhà văn cầm bút, nó trở thành cái tứ của truyện, thúc đẩy nhà văn tìm kiếm, suy ngẫm, liên tƣởng, chi phối mạnh mẽ đến việc tổ chức thế giới nghệ thuật. Vì vậy, nhan đề mang dụng ý nghệ thuật, tƣ tƣởng mà nhà văn muốn truyền tải đến bạn đọc. Nhan đề trong truyện dài của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh thƣờng thi vị, giàu hình ảnh có sức gợi lớn nhƣ: Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Mắt biếc, Trại hoa vàng, Đi qua hoa cúc, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Còn chút gì để nhớ Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ là nhan đề truyện đƣợc Nguyễn Nhật Ánh lấy cảm hứng từ bài thơ Билет в детство (tạm dịch: Vé đi tuổi thơ) của Robert Ivanovich Rozhdestvensky. Tác phẩm gồm những mẩu chuyện nhỏ xoay quanh bốn đứa trẻ trong cùng một khu xóm là thằng cu Mùi, thằng Hải cò, con Tủn và con Tí sún. Truyện đƣợc kể dƣới hình thức kể song song của cu Mùi lúc bé và nhận xét, đánh giá của nhà văn Mùi khi ở tuổi ngũ tuần. Ai lớn lên cũng đều có tuổi thơ, dù nó tƣơi đẹp hay đắng cay. Tuổi thơ là một miền kí ức gắn với những tháng ngày thơ ấu của mỗi con ngƣời - tháng ngày ta vẫn là những đứa trẻ vô ƣu vô nghĩ. Rồi năm tháng qua đi, ai 19
  25. cũng phải lớn lên, rồi hối hả với công việc, với những lo toan cho cuộc sống mƣu sinh. Một ngày chúng ta chợt nhận ra mình không còn là một đứa trẻ và khao khát sống lại những ngày tháng đó để quên đi những muộn phiền, toan tính của cuộc sống xô bồ ngoài kia. Nhƣng thời gian đã trôi đi không bao giờ trở lại. Chúng ta chỉ có thể sống lại những năm tháng tuổi thơ qua những hồi ức, qua những kỉ niệm tƣơi đẹp. Đó chính là chiếc vé đƣa chúng ta về với tuổi thơ, về với miền kí ức trong tâm tƣởng. Nguyễn Nhật Ánh đã viết: “Chiếc vé đi tuổi thơ đó, bạn cứ giữ kĩ trong túi áo, vì không có người soát vé trên chuyến tàu đặc biệt này. Bạn có thể trở về thăm lại thời thơ ấu của mình bất cứ lúc nào, hay nói khác đi, khi bạn nhận ra rằng thỉnh thoảng tắm mình trong dòng sông trong trẻo của tuổi thơ sẽ giúp bạn gột rửa những bụi bặm của thế giới người lớn một cách diệu kỳ” [3, tr.208]. Cuốn truyện cũng nhƣ một tấm vé giúp chúng ta bƣớc lên con tàu trở về với thế giới tuổi thơ. Bởi vậy nhà văn từng nói rằng ông viết cuốn sách này không dành cho trẻ em mà viết cho những ai từng là trẻ em. Nhan đề truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh đôi khi không cần phải khái quát nội dung toàn bộ câu chuyện, có thể chỉ là một chi tiết nhỏ trong truyện nhƣng lại mang một ý nghĩa sâu sắc, đậm chất thơ và chất nhân văn. Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh là một truyện dài có nhan đề nhƣ vậy. Truyện là lời kể của nhân vật “tôi” tức nhân vật Thiều. Mƣợn giọng kể của “tôi”, qua lăng kính trẻ thơ, Nguyễn Nhật Ánh vẽ một bức tranh về thân phận con ngƣời trong kiếp sống cơ cực. Đó là chuyện gia đình Thiều, gia đình Mận, hay bố con ông Tám Tàng, những con ngƣời phải trải qua những biến cố trong cuộc sống. Họ rơi vào những hoàn cảnh ngặt nhèo, khốn khổ, có lúc tƣởng chừng nhƣ bế tắc. Họ bận rộn, chật vật với chuyện mƣu sinh, chống chọi với bệnh tật và những tai họa không dƣng ập đến Những phận ngƣời khốn khổ tƣởng nhƣ cứ mãi sống trong nghèo đói, trong bệnh 20
  26. tật, bế tắc, cùng quẫn lại có thể tìm đƣợc lối ra. Mọi khó khăn cuối cùng rồi cũng qua đi, họ vƣợt lên tất cả, tìm cho mình động lực và niềm vui, tin yêu vào con ngƣời và cuộc sống. Kết thúc tốt đẹp đó có đƣợc tất cả nhờ vào nghị lực và bằng hai chữ có sức nặng mang tên “tình thƣơng”. Có nhiều ý kiến cho rằng nhan đề Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh là một nhan đề không có ý nghĩa, chỉ lấy một chi tiết nhỏ không đặc sắc trong truyện để đặt tên cho tác phẩm, nó cũng không bao quát đƣợc toàn bộ nội dung tác phẩm nhƣ vai trò của những nhan đề mà chúng ta thƣờng thấy. Tuy nhiên, suy nghĩ một cách thấu đáo, có thể thấy đây là một nhan đề rất nên thơ. Nó mang ý nghĩa là qua những khó khăn, sóng gió, cuộc sống lại mở ra cho con ngƣời những tia hy vọng mới. “Cỏ dưới chân nó xanh biêng biếc nhưng ánh mắt tôi vẫn bắt gặp những cánh hoa vàng li ti đang kín đáo nở trong nách lá và điều đó cho tôi cảm giác rằng mùa hè khắc nghiệt sắp sửa trôi qua” [8, tr.376]. Những bông hoa vàng đó dù bé nhỏ nhƣng lại mang đến cho tâm hồn con ngƣời những tia hy vọng lớn lao, nó tƣợng trƣng cho những điều tốt đẹp, may mắn đang chờ đợi nhân vật “tôi” và những con ngƣời khốn khổ kia ở một ngày mai tƣơi sáng hơn. Đi qua hoa cúc cũng là một truyện có nhan đề đậm chất thơ. Truyện kể về mối tình đầu của Trƣờng, một chàng trai mới lớn với một cô gái hơn mình hai tuổi. Chị Ngà yêu hoa cúc, Trƣờng thích chị Ngà, vì vậy mà cậu yêu ngƣời cũng yêu cả hoa. Hoa cúc nhƣ chứng nhân cho tình cảm thầm kín, trong sáng mà tha thiết Trƣờng dành cho chị. Nhƣng đó chỉ là tình cảm đơn thuần từ một phía, chỉ có Trƣờng yêu thầm chị còn chị Ngà chỉ coi Trƣờng nhƣ một đứa em trai. Mối tình đầu lại là mối tình đơn phƣơng, nhƣng nếu chị Ngà chỉ không yêu nó thôi thì nó đã không đau khổ đến thế. Điều làm nó đau khổ nhất đó chính là việc chị yêu một ngƣời đàn ông khác, một kẻ đã có gia đình mà vẫn lừa gạt tình cảm của một cô gái mới lớn, ngây thơ nhƣ chị. 21
  27. Càng đau đớn, xót xa hơn khi Trƣờng phải chứng kiến chị Ngà ngày một héo hon khi trót dại mang trong mình đứa con của kẻ tệ bạc kia, và khi không thể chấp nhận sự thật chị đã gieo mình xuống suối để tự vẫn. Nỗi đau mất mát trƣớc sự ra đi của chị Ngà khiến Trƣờng thôi thúc trong đầu một ý nghĩ ra đi, phải rời khỏi nơi chứa những kỉ niệm đau thƣơng, mất mát mà nó không muốn ngoảnh đầu nhìn lại. Trƣờng không dám đợi khi ngƣời ta vớt chị Ngà lên, nó muốn hình ảnh đẹp đẽ của chị không bị méo mó, vẫn vẹn nguyên nhƣ thuở đầu nó gặp chị. Trƣờng rời quê, rời bỏ dãy hoa cúc trƣớc sân nhƣ rời bỏ chính mối tình đầu của mình, nó muốn đi thật xa, thật lâu để quên đi nỗi đau kia. Đi qua hoa cúc chính là Trƣờng đi qua những rung động đầu đời, đi qua những giấc mơ tƣơi đẹp mà nó từng có. Giấc mơ càng đẹp thì đến khi mộng vỡ lại càng khổ đau, nó ra đi để lại hoa cúc, để lại những tháng năm tuổi thơ với hình bóng chị Ngà - mối tình đầu mà nó chẳng thể quên. Nhan đề truyện lãng mạn nhƣ một câu thơ mà cũng thật ý nghĩa, nó để lại ấn tƣợng sâu sắc trong lòng độc giả chính bởi nét lãng mạn ấy. Chất thơ cũng thể hiện một cách rõ rệt trong nhan đề truyện dài Mắt biếc. Truyện kể về cuộc đời của nhân vật chính tên Ngạn. Lớn lên cùng với Ngạn là cô bạn hàng xóm tên Hà Lan có đôi mắt tuyệt đẹp. Tình cảm trẻ thơ dần biến thành tình yêu thầm lặng của Ngạn dành cho Hà Lan. Đến khi lớn hơn một chút, cả hai phải rời làng lên thành phố học. Trong khi tấm lòng của Ngạn luôn hƣớng về Hà Lan và về làng thì Hà Lan lại không cƣỡng lại đƣợc những cám dỗ của cuộc sống xa hoa nơi đô thị và ngã vào vòng tay của Dũng. Hà Lan mang thai nhƣng bị Dũng ruồng bỏ, đành gửi con về quê cho mẹ chăm sóc (đứa bé tên là Trà Long). Tuy hiểu rõ tình yêu của Ngạn dành cho mình nhƣng Hà Lan vẫn không đáp lại vì hai ngƣời có lối sống hoàn toàn khác nhau. Ngạn đã hết lòng yêu thƣơng và chăm sóc cho Trà Long. Trà Long lớn lên, trở thành cô giáo làng và rất yêu mến Ngạn, hai ngƣời 22
  28. luôn quấn quýt bên nhau. Trong khi ai cũng nghĩ rằng Trà Long sẽ là sự tiếp nối những gì mà Hà Lan đã bỏ dở trong đời Ngạn thì Ngạn lại nhận ra rằng Trà Long chỉ là cái bóng của Hà Lan mà thôi, vì vậy anh đã quyết định ra đi. Trở đi trở lại trong truyện là hình ảnh đôi mắt Hà Lan, đôi mắt đã khiến cả cuộc đời Ngạn phải sống trong mối tình đơn phƣơng đau khổ. Ngạn luôn mơ về đôi mắt ấy, mơ về những tháng ngày Hà Lan vẫn còn là một cô bé ngây thơ với đôi mắt biếc, là ngƣời mà Ngạn luôn yêu thƣơng chở che, bảo vệ trong suốt những tháng năm học trò và cả sau này. Dù cho Hà Lan đã thay đổi, đã không còn là cô bé đáng yêu ngày nào, nhƣng đôi mắt đó vẫn khiến trái tim anh xao xuyến, nó gợi lại tình yêu chƣa bao giờ tắt trong trái tim anh. Nhan đề Mắt biếc nhƣ tƣợng trƣng cho mối tình đơn phƣơng đầy khắc khoải, đau đớn của một chàng trai si tình. Dẫu biết không thể có đƣợc tình yêu đó nhƣng không thể dứt bỏ, đôi mắt ngƣời thƣơng luôn ám ảnh, luôn hiện hữu trong trái tim Ngạn, để rồi cả cuộc đời anh không thể yêu thêm một ai khác. Nhan đề truyện gợi cho chúng ta những ấn tƣợng về một nỗi buồn mênh mang, thăm thẳm, mà khi gấp cuốn truyện lại rồi, nỗi buồn đó dƣờng nhƣ vẫn treo lơ lửng, nó cũng ám ảnh ta nhƣ chính đôi mắt đã ám ảnh Ngạn suốt cuộc đời. Phần lớn các truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh đều có những tựa đề mang đậm chất thơ, gây ấn tƣợng mạnh mẽ với độc giả. Có thể kể thêm một số tác phẩm nhƣ: Còn chút gì để nhớ, Bong bóng lên trời, Lá nằm trong lá, Cô gái đến từ hôm qua, Bảy bước tới mùa hè 2.2. Cốt truyện tâm lý Trong tác phẩm tự sự, cốt truyện là một trong những phƣơng diện nghệ thuật đặc biệt quan trọng, thể hiện rõ tài năng, phong cách và quan điểm nghệ thuật của mỗi nhà văn. Các nhà nghiên cứu cho rằng: “Cốt truyện là hình thức sơ đẳng nhất của truyện; là cái lõi diễn biến của truyện từ khi 23
  29. xảy ra đến khi kết thúc” [13, tr.303-304]; “là hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch” [11, tr.99]. “Cốt truyện là một hiện tượng phức tạp. Trong thực tế văn học, cốt truyện của các tác phẩm hết sức đa dạng, kết tinh truyền thống dân tộc, phản ánh những thành tựu văn học của mỗi thời kì lịch sử, thể hiện phong cách, tài năng nghệ thuật của nhà văn. Cốt truyện như toàn bộ các biến cố, sự kiện được nhà văn kể ra, là cái mà người đọc có thể đem kể lại” [18, tr.100-101]. Nhƣng cũng có khi cốt truyện không chú ý nhiều đến sự kiện mà chủ yếu hƣớng đến miêu tả nội tâm, miêu tả thế giới cảm giác của con ngƣời về cuộc sống Kiểu truyện này chỉ có một vài sự việc còn lại là những cảm nhận, cảm giác, hồi ức, liên tƣởng và độc thoại nội tâm của nhân vật, nếu có sự kiện thì sự kiện chỉ đóng vai trò khơi gợi cho dòng chảy tâm lí, bộc lộ suy nghĩ của nhân vật về thế giới xung quanh. Kiểu cốt truyện nhƣ vậy đƣợc gọi là cốt truyện tâm lí. Truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh là kiểu truyện nhƣ vậy. Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ là dòng hồi ức của nhân vật “tôi” hay chính là của nhà văn Mùi về những năm tháng tuổi thơ của mình. Truyện là những hồi ức chắp vá lại, không rõ thời gian cụ thể, chỉ biết là khi đó cu Mùi lên tám tuổi. Cũng chính vì đó là những hồi ức nên có thể thứ tự thực của nó đã bị xáo trộn. Nhƣng vì đó là những mẩu chuyện nhỏ không có liên quan mật thiết tới nhau nên thứ tự có bị đảo lộn cũng không ảnh hƣởng đến nội dung truyện. Từ những mẩu chuyện nhỏ trong cuộc sống hàng ngày của bốn đứa trẻ: Tí sún, Hải cò, Tủn và cu Mùi qua cảm nhận của cu Mùi, chúng ta hiểu đƣợc phần nào suy nghĩ và tâm lí của trẻ nhỏ, thấy đƣợc thế giới thông 24
  30. qua lăng kính trẻ thơ. Ở đó mọi việc không gì là không thể, chỉ cần có trí tƣởng tƣợng mà thôi. Lũ trẻ không thích những gì đã quen thuộc sáo mòn, chúng thích làm mới, thích xáo trộn và làm trái ý ngƣời lớn. Chúng cho rằng làm nhƣ vậy có thể chứng tỏ đƣợc giá trị riêng của bản thân. Vì vậy, chúng quyết định “đặt tên cho thế giới”. Chúng gọi con chó là bàn ủi, cái miệng là cánh tay, đi ngủ là đi chợ, chiếc cặp là cái giếng, ti vi là quạt máy Và hơn thế, chúng tự đặt cho mình những cái tên mới: Hải cò là “cảnh sát trƣởng”, Tí sún là “nàng Bạch Tuyết”, Tủn là “tiếp viên hàng không”, còn cu Mùi là “thầy hiệu trƣởng”. Và ngay cả khi ngƣời lớn biết chuyện, cấm chúng không đƣợc làm vậy, chúng vẫn nghĩ: “Họ cấm chúng tôi có thể vì họ ghen tị chăng?” [3, tr.58]. Trẻ con vẫn thƣờng học đòi, bắt chƣớc làm theo những việc làm của ngƣời lớn, cũng vì vậy mà cu Mùi có đƣợc bài học nhớ đời. Vì học đòi theo chú Nhiên, cu Mùi mƣợn điện thoại của chú và nhắn tin cho con Tủn (vào máy điện thoại của mẹ Tủn). Tin nhắn đầu tiên: “Chiều nay chúng ta đi dạo một chút chăng? Buồn ơi là sầu”, đến tin nhắn thứ hai vẫn trót lọt: “Chiều nay chúng ta lai rai một chút chăng? Buồn ơi là sầu”. Và mọi việc vẫn suôn sẻ cho đến tin nhắn thứ ba thì tai họa ập đến: “Chiều nay chúng ta lên giường một chút chăng? Buồn ơi là sầu”. Và kết quả là “chiều đó chỉ có mình tôi lên giường. Tôi leo lên giường nằm sấp xuống cho ba tôi đét roi vào mông” [3, tr.80]. Chỉ vì tính trẻ con hay học đòi bắt chƣớc ngƣời lớn và cu Mùi lại chƣa đủ hiểu hết những nội dung tin nhắn của chú Nhiên với cô Linh nên cu cậu mới lĩnh hậu quả là trận đòn của bố. Rồi thì biết bao nhiêu câu chuyện khác trong cuộc sống thƣờng nhật của lũ trẻ đƣợc tái hiện đầy đủ qua hồi ức của nhà văn Mùi. Từ những trò chơi quen thuộc nhƣ đóng làm vợ chồng hay truy tìm kho báu và rồi kết quả là phá nát cả khu vƣờn của nhà Hải cò cho đến việc làm những chuyện ngƣợc đời nhƣ thay vì ăn cơm bằng 25
  31. bát thì cu Mùi ăn cơm bằng thau, không uống nƣớc bằng ly mà uống bằng chai Và khi lớn lên nhà văn Mùi hiểu rằng “trẻ con trở chứng là thứ đầy rẫy trên trái đất này”. Rồi lũ trẻ còn lập ra những phiên tòa để kết tội bố mẹ và qua đó cũng thể hiện ƣớc muốn của chúng về sự công bằng giữa ngƣời lớn và trẻ nhỏ. Những mẩu chuyện tƣởng chừng nhƣ vụn vặt ấy lại chính là phƣơng tiện đắc lực để nhà văn nói lên những tâm tƣ, suy nghĩ lí giải cho những hành động của trẻ nhỏ. Nguyễn Nhật Ánh am hiểu trẻ nhỏ hơn ai hết. Một phần vì ông cũng từng trải qua một tuổi thơ nhƣ vậy, phần vì ông yêu quý và gần gũi trẻ con, thấu hiểu tâm tƣ tình cảm và cách nghĩ của chúng. Trẻ con thời nào cũng vậy, chúng có cái nhìn riêng về thế giới, chúng có những cách hiểu và hành động thật khó lí giải, nhƣng chúng ta chỉ cần hiểu rằng vì chúng là trẻ con và trẻ con là nhƣ vậy. Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh cũng là một truyện có cốt truyện tâm lí. Truyện bao gồm nhiều câu chuyện nhỏ xoay quanh cuộc sống của các nhân vật Thiều, Mận, Tƣờng qua cái nhìn của nhân vật Thiều. Tất cả những câu chuyện, những sự việc đó đều đƣợc đánh giá qua cảm nhận của Thiều. Bằng cách kể lại những câu chuyện nhỏ về những con ngƣời, những số phận éo le bất hạnh, Thiều không chỉ thể hiện đƣợc sự đánh giá của mình mà còn thể hiện đƣợc tình cảm với từng nhân vật. Qua đó chúng ta cũng có những cái nhìn khái quát về các nhân vật và mỗi nhân vật lại để lại những ấn tƣợng riêng rõ nét. Nguyễn Nhật Ánh đặt nhân vật của mình vào các tình huống khác nhau, mục đích chính là giúp nhân vật bộc lộ tính cách, tình cảm, suy nghĩ, đây cũng chính là thành công lớn trong việc xây dựng tính cách nhân vật của nhà văn. Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh gồm nhiều mẩu chuyện nhỏ, những lát cắt cuộc sống của các nhân vật hiện lên qua lời kể của nhân vật Thiều. Qua những sự việc xảy ra trong truyện, qua những suy nghĩ và hành 26
  32. động của Thiều, ta có thể thấy Thiều là một cậu bé sống nội tâm, đôi lúc còn nóng vội, có những hành động và lời nói thiếu suy nghĩ nhƣng bản chất vẫn là một ngƣời tốt bụng, biết quan tâm và yêu thƣơng mọi ngƣời. Sau những hành động và lời nói khiến ngƣời khác tổn thƣơng, Thiều luôn cảm thấy có lỗi và tự trách mình. Cậu cũng dành rất nhiều tình cảm và quan tâm đến Mận khi gia đình cô bé xảy ra biến cố. Chính trong những hoàn cảnh ấy, Thiều bộc lộ đƣợc đầy đủ tính cách, tâm lí của tuổi mới lớn đầy phức tạp và mâu thuẫn. Đọc truyện, chắc hẳn chúng ta không thể quên cậu bé Tƣờng, một cậu bé tốt bụng và lƣơng thiện. Tƣờng còn nhỏ nhƣng luôn có những suy nghĩ đúng đắn, luôn hiểu chuyện và luôn nghĩ cho ngƣời khác. Là em nhƣng Tƣờng luôn là ngƣời phải nhƣờng nhịn, luôn ngƣỡng mộ và nghe lời Thiều. Mặc dù bị Thiều đánh nằm liệt giƣờng, Tƣờng không những không trách mà còn tìm cách bảo vệ anh khỏi những trận đòn roi của bố, nhận hết lỗi về mình. Những lời nói và hành động của Tƣờng nhiều lần đã khiến Thiều cảm thấy hổ thẹn. Tƣờng còn rất mê đọc truyện, nó luôn tin có nàng công chúa xuất hiện nhƣ trong truyện cổ tích. Nguyễn Nhật Ánh đã để cho Tƣờng gặp đƣợc nàng công chúa nhƣ trong mơ ƣớc của nó. Chính niềm tin ngây thơ nhƣng mãnh liệt của Tƣờng vào sự tồn tại của công chúa đã khiến Tƣờng có thêm niềm tin và sức mạnh để vƣợt lên trên bệnh tật. Đến khi phát hiện ra sự thật là không có nàng công chúa nào cả mà đó chính là cái Nhi con ông Tám Tàng, những Tƣởng Tƣờng sẽ thất vọng lắm, nhƣng ngƣợc lại, Tƣờng chỉ buồn vì cảnh ngộ của Nhi, nó lại càng thƣơng cô bé hơn. “Thằng Tường vẫn thích gặp công chúa, dù nó đã biết công chúa là con Nhi con ông Tám Tàng. Điều đó làm tôi ngạc nhiên một cách cảm động” [8, tr.352]. Tƣờng không chỉ lƣơng thiện mà nó còn rất dũng cảm. Khi Nhi bị bọn trẻ trong xóm trêu ghẹo, Tƣờng đã đứng ra bảo cô bé với vẻ mặt và giọng nói toát lên sự nâng 27
  33. niu, che chở của một phò mã thực thụ. Tƣờng biết tình trạng của Nhi, dù Thiều không kể cho Tƣờng tỉ mỉ câu chuyện về gia đình ông Tám Tàng nhƣng nó vẫn biết hành xử một cách đúng mực nhƣ một đứa trẻ hiểu chuyện. Chỉ qua lời kể của nhân vật Thiều nhƣng bằng những lời nói và hành động của mình, Tƣờng đã cho chúng ta thấy đƣợc bản tính hiền lành, tốt bụng và dũng cảm của cậu bé. Đặt nhân vật của mình vào những tình huống nhƣ vậy, Nguyễn Nhật Ánh đi sâu vào khắc họa những biến chuyển tinh tế trong cảm xúc, tâm lí của từng nhân vật để thấy đƣợc sự nhạy cảm trong tâm hồn của các nhân vật mới lớn. Ngồi khóc trên cây xoay quanh mối tình của hai nhân vật Đông và Rùa. Đó là một chuyện tình éo le, trắc trở. Nhà văn đặt nhân vật vào nhiều tình huống khác nhau, có khi đƣa nhân vật lên tới đỉnh cao của hạnh phúc nhƣng cũng có khi là tận cùng của đau khổ. Qua mỗi tình huống, qua cách nghĩ cách cảm của nhân vật ta hiểu đƣợc tâm lí cũng nhƣ con ngƣời Đông - một chàng trai đa sầu đa cảm, mang những mộng mơ của tuổi mới lớn. Cốt truyện tập trung khắc họa tâm lí nhân vật, bởi vậy, đọc truyện ta có cảm giác bị cuốn theo những dòng cảm xúc ấy. Mỗi tình huống, mỗi chặng của câu chuyện lại đem đến cho ta những xúc cảm khác nhau, độc giả đƣợc trải nghiệm những khó khăn, thử thách, hạnh phúc và buồn khổ nhƣ chính nhân vật. Đây là câu chuyện mà Nguyễn Nhật Ánh đặt nhân vật của mình vào nhiều tình huống, hoàn cảnh éo le nhất nhƣng chính nhƣ vậy mới làm toát lên chất thơ độc đáo trong sáng tác của ông, góp phần làm nên thành công cho truyện. Cốt truyện tâm lí cũng là yếu tố làm nên thành công cho truyện dài Mắt biếc. Cốt truyện là những diễn biến tâm trạng nhân vật Ngạn trong mối tình đơn phƣơng của mình. Tình yêu Ngạn dành cho Hà Lan ngày một lớn, ngay cả khi biết Hà Lan đã thay đổi và không hề yêu mình, Ngạn vẫn không 28
  34. thể quên đi. Anh nguyện bảo vệ, chở che cho Hà Lan, tình nguyện chăm sóc đứa con của cô và vẫn luôn chờ đợi cô. Sau gần hai mƣơi năm, những tƣởng Ngạn đã quên đƣợc Hà Lan và bắt đầu một tình yêu mới với Trà Long (con gái Hà Lan) nhƣng một ngày Ngạn chua xót nhận ra Hà Lan vẫn luôn ở trong trái tim anh. Ngạn lựa chọn ra đi, anh không muốn tiếp tục để rồi lại làm tổn thƣơng Trà Long bởi anh biết cô bé chỉ là hình bóng của Hà Lan. Cốt truyện vẫn xoay quanh một mối tình đơn phƣơng nhƣ khá nhiều truyện khác của Nguyễn Nhật Ánh, tuy nhiên điều đáng chú ý ở đây đó là cách nhà văn thể hiện tâm trạng nhân vật với những cảm xúc khác nhau mà chủ yếu là sự đau khổ, dằn vặt về một mối tình không thành. Ngạn luôn hết mình vì tình yêu dù biết sẽ không bao giờ có đƣợc Hà Lan, cũng chính vì vậy mà anh chìm trong đau khổ, hình bóng Hà Lan cứ đeo đẳng, hằn in trong trái tim anh. Những tƣởng thời gian sẽ làm cho vết thƣơng xƣa lành lại nhƣng Ngạn một lần nữa nhận ra Hà Lan vẫn mãi ở đó, là ngƣời con gái mà cả đời anh không thể quên. Chúng ta lần theo từng cảm xúc của Ngạn, thấu hiểu và đồng cảm cho nỗi đau tình yêu của nhân vật. Nguyễn Nhật Ánh đã thể hiện một cách tinh tế và vô cùng khéo léo những cảm xúc bên trong tâm hồn Ngạn nhƣ thể chính nhà văn đã và đang cảm nhận nỗi đau ấy. Truyện tập trung thể hiện những biến đổi sâu sắc trong tình cảm và cảm xúc của nhân vật, từ khi Ngạn còn là cậu bé 5 tuổi cho đến khi trở thành một ngƣời đàn ông gần bốn mƣơi tuổi. Chính vì vậy, đọc truyện, chúng ta thƣờng bị hấp dẫn bởi tâm lí của nhân vật hơn là chú ý đến diễn biến của các sự việc. Có thể nói, cốt truyện có một vai trò không nhỏ đối với việc sáng tạo nên chất thơ trong truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh. Đó là những yếu tố, những dấu hiệu đầu tiên để ngƣời đọc nhận diện chất thơ qua mỗi trang truyện của ông. 29
  35. 2.3. Nhân vật với đời sống cảm xúc cảm giác “Nhân vật văn học là khái niệm dùng để chỉ hình tượng các cá thể con người trong tác phẩm văn học - cái đã được nhà văn nhận thức, tái tạo, thực hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ” [16, tr.114]. Tƣ tƣởng và ý đồ sáng tạo của tác giả phần nào đƣợc gửi gắm thông qua các nhân vật trong sáng tác của mình. Nhân vật là đứa con tinh thần của nhà văn. Số phận của tác phẩm thƣờng nhờ vào cách xây dựng hệ thống nhân vật của nhà văn. Nhân vật trong truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh là những con ngƣời có tâm hồn nhạy cảm, giàu triết lí, suy tƣ và dễ dàng xúc động trƣớc cuộc sống. Nguyễn Nhật Ánh để nhân vật của mình tự cảm nhận về cuộc sống, về con ngƣời, do đó nhân vật của ông luôn mang dấu ấn của nhân vật trữ tình. Ông chuyển điểm nhìn vào nội tâm nhân vật để nhìn nhận vạn vật xung quanh và cảm nhận cuộc sống đầy chất thơ. Trong truyện dài Mắt biếc, ta gặp một chàng trai đa sầu đa cảm. Truyện đã đƣa ta theo suốt quá trình trƣởng thành của Ngạn. Ngay từ khi còn là một cậu bé, Ngạn đã có những cái nhìn rất riêng về cuộc sống của mình, mặc dù đó là những suy nghĩ rất ngây thơ của trẻ nhỏ. Ngạn là một cậu bé hiếu động và những trò đùa nghịch luôn khiến cậu phải chịu những trận đòn của ba. Sau những trận đòn, cậu thƣờng đứng khóc ở đầu hè và nghĩ về cách làm cho ba phải hối hận vì đã đánh đòn mình: “Những lúc đó, tôi thường ao ước mình đột ngột chết đi để ba tôi phải hối hận vì đã đánh tôi, để mẹ tôi phải hối hận vì không dám can ba và cả bà tôi nữa, bà sẽ vô cùng khổ tâm vì đã trót đi dạo trong một buổi tối quan trọng như vậy Tôi chỉ chết chừng năm ngày thôi. Lúc ba mẹ tôi, ông bà tôi và những người thân khóc khô hết nước mắt thì tôi sẽ sống dậy trước sự hân hoan chào đón của mọi người. Lúc đó mọi người sẽ chen lấn, giành giật nhau để ôm lấy tôi ” 30
  36. [6, tr.11]. Đó là những hờn giận của tuổi nhỏ. Lớn hơn một chút, Ngạn theo học lớp thầy Phu và quen Hà Lan, mặc dù mới 5 - 6 tuổi nhƣng cậu đã bắt đầu có những rung động trƣớc cô bạn gái xinh đẹp của mình. “Nét duyên dáng của Hà Lan hoàn toàn bẩm sinh, nó không hề ý thức về những cử chỉ mềm mại và kiểu cách của mình. Ngược lại tôi luôn luôn tò mò và thích thú quan sát những động tác “dễ ghét” của nó” [6, tr.24]. Từ nhỏ Ngạn và Hà Lan đã quấn quýt bên nhau, cũng vì vậy mà Ngạn càng thêm yêu mến Hà Lan, cậu tình nguyện làm theo mọi ý thích của cô bé, sẵn sàng chịu đòn, chịu phạt để bảo vệ Hà Lan. Có lần Hà Lan bị thằng Hoà con trai thầy Phu bắt nạt, Ngạn đã không ngần ngại mà xông vào “tống cho nó một quả vào bụng” và dù kết quả là bị thầy Phu phạt đánh vào tay và nhảy cóc mƣời vòng sân nhƣng Ngạn không hối hận vì hành động của mình. Ngạn luôn dành cho Hà Lan những ƣu ái, cậu có thể đánh nhau để giành thị cho Hà Lan, đi bắt nhái cho thầy Cải thì luôn chia cho Hà Lan một nửa, đôi khi là phần hơn. Biết Hà Lan thích đánh trống, Ngạn đã phải ẩu đả với lũ bạn đến sứt đầu mẻ trán để giành lấy cái dùi đánh trống. Ngạn luôn chiều theo ý Hà Lan, khi cô bé nói muốn có những cái trứng chim sẻ, cậu đã trèo lên mái nhà lấy chúng xuống dù nhiều lần ngã u trán. “Suốt những tháng năm thơ ấu đi bên Hà Lan, tôi đã biết bao lần vào sinh ra tử, người đầy thương tích” [6, tr.51]. Khi ra trƣờng huyện học lớp 6, Ngạn và Hà Lan không còn thân nhau nhƣ trƣớc. Dù học chung một trƣờng nhƣng ở trƣờng Hà Lan chỉ chơi với đám con gái, Ngạn cảm thấy mình bị bỏ rơi. “Suốt quãng đời trung học, Hà Lan ngày nào cũng ngồi lẫn trong những tà áo trắng dưới gốc cây dương liễu, bỏ mặc tôi với những buồn vui không người bày tỏ, những ước mơ xa vời và những trận đánh nhau ngày càng hiếm hoi nhưng không thiếu những 31
  37. vết bầm đáng giá, luôn luôn hoài vọng bàn tay chăm sóc năm nào” [6, tr.60]. Đến năm lớp tám, Hà Lan lớn phổng phao, Ngạn mặc cảm không dám đến gần Hà Lan vì thấy mình còn thấp bé hơn cả Hà Lan. Năm lớp chín là năm mà Ngạn sống trong nhiều niềm vui: “Năm lớp chín là một năm tuyệt vời. Cuộc sống như một trang sách mới mẻ, kỳ thú và luôn luôn mời gọi. Mỗi ngày trong tim tôi đều nở một nụ hồng tươi thắm” [6, tr.86]. Ngạn khao khát bộc bạch tình cảm của mình và chỉ biết gửi gắm tình cảm đó vào những bản nhạc tình do chính tay mình viết. Lên lớp mƣời, cả hai cùng ra thành phố học nhƣng Hà Lan ra trƣớc còn Ngạn ra sau. Ra thành phố, Ngạn lạ lẫm, không quen và nhớ làng Đo Đo da diết. Ngạn với Hà Lan ngày một xa cách, và đến khi biết Hà Lan yêu Dũng, Ngạn mới nhận ra mình yêu Hà Lan đến nhƣờng nào. Ngạn thấy mình giống nhƣ một con dã tràng xe cát, ấp ủ tình yêu và chờ đợi nhƣng cuối cùng mọi thứ đổ vỡ và Ngạn phải đau đớn chấp nhận sự thật. “Tôi không tự đánh lừa mình nữa. Tôi hiểu điều gì đang xảy ra và cố đón nhận bằng một thái độ bình tĩnh như đón nhận vết thương của số phận” [6, tr.125]. Tâm trạng của Ngạn trong khoảng thời gian này đƣợc Nguyễn Nhật Ánh khắc họa khá rõ nét, những đau đớn, mẫu thuẫn trong cảm xúc của nhân vật đƣợc tác giả thể hiện một cách đầy đủ và tinh tế. Ngạn đau đớn, dằn lòng cố quên kỉ niệm, quên đi Hà Lan nhƣng không đƣợc. Ta cũng nhận thấy sự mâu thuẫn giằng xé trong cảm xúc tình cảm cũng nhƣ hành động của Ngạn. Khi Hà Lan tìm Ngạn và khóc vì Dũng có ngƣời mới, Ngạn lại có một cảm giác thích thú kì lạ và chính anh cũng cảm thấy hổ thẹn vì điều đó. “Tôi còn tìm thấy trong mối tình đổ vỡ của Hà Lan một khoái cảm thầm kín khác, ích kỉ hơn và hèn mọn hơn” [6, tr.133]. Có lẽ đó cũng là điều hết sức bình thƣờng, bởi trong tình yêu ngƣời ta thƣờng trở nên ích kỉ. Nhƣng khi bình tĩnh lại, sự phấn 32
  38. khích ban đầu qua đi, Ngạn lại không thể cầm lòng trƣớc nỗi đau khổ của Hà Lan. “Tôi yêu nó và tôi không đang tâm nhìn nó khổ sở” [6, tr.134]. Cuối cùng, Ngạn đã có cuộc nói chuyện và ẩu đả với Dũng, kết quả là Ngạn không thể đến trƣờng trong cả một tuần lễ Ngạn chẳng thể quên Hà Lan, vẫn chờ đợi và hy vọng một ngày Hà Lan trở về là Hà Lan của những ngày tháng trƣớc đó. Biết tin Hà Lan mang bầu với Dũng, Ngạn đau đớn, bàng hoàng, anh không trách mà chỉ xót thƣơng, đồng cảm với cô. “Tôi ngồi bên canh Hà Lan suốt một buổi chiều, an ủi nó bằng sự lặng thinh dịu dàng và chia sẻ. Tôi mong sự cảm thông của tôi sẽ giúp nó đỡ phần nào trống vắng. Tôi muốn làm ngọn thu phong biết mấy, để thổi tan đi bóng mây u ám đang bắt đầu sẫm màu trong mắt biếc kia” [6, tr.158-159]. Ngạn là một chàng trai đa sầu đa cảm, mang nét tính cách của một nghệ sĩ, dễ mủi lòng và không dễ dàng dứt bỏ yêu thƣơng. Khi đã trở thành một ông giáo làng, Ngạn vẫn chẳng thể yêu thêm một ai, trong trái tim anh vẫn chỉ có hình bóng một ngƣời con gái. Lí trí bảo rằng phải quên đi, nhƣng con tim lại không cho phép anh làm nhƣ vậy, những hồi ức đẹp sẽ vẫn sống mãi, đôi mắt biếc thuở nào vẫn gim chặt trong trái tim anh. Chính vì vậy mà Ngạn yêu thƣơng, chăm sóc cho Trà Long, anh tìm lại hình bóng Hà Lan xƣa ở cô bé này và chính sự gần gũi đó khiến Trà Long cũng yêu mến anh, dành cho anh thứ tình cảm đặc biệt. Ngạn cứ ngỡ anh lại đƣợc yêu một lần nữa, tình yêu hạnh phúc sẽ mỉm cƣời với anh. Những chính trong thời khắc vui vẻ, đẹp đẽ ấy, anh nhận ra đó không phải là tình yêu, mà Trà Long chỉ nhƣ cái bóng của Hà Lan, một lần nữa làm sống dậy tình yêu năm nào trong anh mà thôi. Và sự thật là ngƣời con gái anh yêu chỉ có Hà Lan. “Tôi đã tê tái hiểu ra mối tình tôi với Trà Long chẳng qua chỉ là sự nối dài mối tình tôi với Hà Lan qua một hình bóng khác” [6, tr.231-232]. Dù vô cùng thƣơng Trà Long nhƣng Ngạn vẫn chọn ra đi, vì anh biết mình chẳng thể dành cô bé một tình yêu 33
  39. trọn vẹn và nhƣ vậy là có lỗi với Trà Long rất nhiều. Quyết định nhƣ vậy, hẳn trong lòng Ngạn đã có sự đấu tranh gay gắt trƣớc việc lựa chọn ra đi hay ở lại, tiếp tục hay chấm dứt mối tình với Trà Long. Và cuối cùng chàng trai bất hạnh đó vẫn chẳng thể có đƣợc hạnh phúc sau khi đã dành nửa đời mình để giữ trọn yêu thƣơng Có thể thấy, câu chuyện luôn bám sát dòng cảm xúc, tâm trạng của nhân vật Ngạn. Nhân vật có một đời sống cảm xúc vô cùng phong phú, Ngạn yêu mà không đƣợc yêu vì vậy anh trải qua mọi cung bậc cảm xúc. Từ hạnh phúc, hy vọng cho đến khổ đau, day dứt và nỗi tuyệt vọng vô bờ. Nguyễn Nhật Ánh đã lột tả những trạng thái cảm xúc đó một cách đầy đủ chân thực và vô cùng tinh tế. Trong truyện Ngồi khóc trên cây, ta cũng đƣợc đi theo dòng chảy tâm trạng của nhân vật Đông: Từ khi gặp con Rùa với những ấn tƣợng ban đầu cho đến khi Đông nhận ra mình thực sự đã bị cô bé làm cho rung động để rồi Đông rơi vào hết cung bậc cảm xúc này đến cung bậc cảm xúc khác; từ đau đớn, tuyệt vọng khi biết mình mắc căn bệnh hiểm nghèo và không thể có với con Rùa mối quan hệ tình cảm nam nữ bởi thứ gọi là huyết thống, cho đến niềm vui sƣớng tột cùng khi biết rằng mọi việc đều là nhầm lẫn. “Còn hơn cả niềm vui, đó là niềm hạnh phúc vô bờ bến của người vừa leo lên khỏi hố sâu của nỗi tuyệt vọng khốn cùng tôi đã đi từ địa ngục đến thiên đường chỉ trong một buổi sáng và từ chỗ oán trách tôi đã bắt gặp trong đầu mình những lời cảm ơn số phận” [7, tr.300]. Nhƣng những phút giây hạnh phúc lại chẳng kéo dài. Khi Đông tìm về để báo tin vui, để bù đắp cho con Rùa sau những tháng ngày xa nhớ thì cũng là lúc cậu nhận đƣợc tin con Rùa không còn nữa, nó đã bị dòng sông Kiếp Bạc cuốn trôi. Đông có cảm tƣởng nhƣ cả bầu trời sụp đổ trƣớc mắt, cậu chẳng thể chấp nhận sự thật quá tàn nhẫn đó. Đông đau đớn, héo hon vì thƣơng nhớ, vì nỗi khổ đau mà số phận 34
  40. gieo giắc lên mình và con Rùa, ông trời nhƣ đang đem số phận của con ngƣời ra làm trò đùa, dắt con ngƣời từ địa ngục lên thiên đƣờng rồi lại có thể đẩy con ngƣời ta xuống sâu hơn cả nơi vừa mới thoát khỏi: “ nhưng bây giờ tôi chua xót hiểu ra rằng số phận đã lừa tôi, đã vờ làm cho tôi tin rằng lưỡi rìu định mệnh sẽ không bao giờ chém hai lần vào cùng một vết thương để cuối cùng tung ra một cú đánh úp khiến tôi ngã quỵ ” [7, tr.305]. Đông cứ nhƣ vậy, niềm vui chƣa đƣợc bao lâu lại phải rơi vào nỗi đau đớn, tuyệt vọng không gì có thể bù đắp. Nhƣng nếu đó là sự trêu đùa của số phận thì Đông vẫn muốn đó chỉ là một trò đùa, rằng đó không phải là sự thật và rằng con Rùa vẫn sống. Cuối cùng thì điều đó đã trở thành hiện thực, Đông lại có thể thấy con Rùa, nó vẫn bình an, nó không chết mà chỉ bị thƣơng và nó vẫn ở đây, nó vẫn giữ lời hứa là đợi Đông trở về. “Trong nhiều phút liền, trái tim tôi chạy đua với đủ thứ cảm xúc. Kinh ngạc, hân hoan, nghi ngờ, hạnh phúc, mừng mừng tủi tủi, tất cả cùng một lúc ùa vào tôi khiến tôi như người say sóng” [7, tr.340]. “Cuộc sống của tôi những ngày qua bị số phận nhốt trong hầm tối, bây giờ nắp hầm đột ngột mở ra, khiến tôi như con thú bị phường săn rọi đèn, choáng váng, ngẩn ngơ, ý nghĩ trong đầu lúc tan chảy ra, lúc đông cứng lại rồi lại tan ra ” [7, tr.340]. Tất cả những cảm xúc của nhân vật Đông đƣợc Nguyễn Nhật Ánh lột tả chi tiết và giàu hình ảnh, khiến cho độc giả thấu hiểu, đồng cảm với những tình cảm, xúc cảm ấy. Nguyễn Nhật Ánh để cho nhân vật của mình trải nghiệm tất cả các cung bậc cảm xúc trong tình yêu, đẩy nhân vật vào những hoàn cảnh éo le để nhân vật bộc lộ tình cảm của mình một cách chân thành và đầy đủ nhất. Xây dựng những nhân vật với đời sống tình cảm, cảm xúc phong phú, Nguyễn Nhật Ánh khẳng định đƣợc tài năng của mình trong việc miêu tả tâm lí nhân vật. Tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân viết: “Tuổi trẻ trong Nguyễn Nhật Ánh còn hiện lên với nhiều tâm thế khác. Ở vào giai đoạn giao 35
  41. thời, hay giai đoạn “không trọng lượng”, nhân vật của anh thường buồn, mơ mộng hơn là hục hặc, phát phách, yêu thương nhiều hơn bất bình. ( ) Nhưng phần lớn họ đều tìm cách sống chung hòa bình với nỗi buồn, nỗi buồn chắc là không chóng phai mà chỉ làm cho con người trưởng thành và phong phú thêm lên Anh nắm bắt rất tinh những trạng thái mong manh, niềm vui nỗi buồn thoảng qua của tuổi mới lớn nhưng chưa thật chín muồi diễn ra một nỗi đau sâu” [21]. Qua mỗi trang văn của Nguyễn Nhật Ánh, bạn đọc thấy nổi lên những nhân vật với đời sống nội tâm phong phú với nhiều cung bậc cảm xúc. Có thể nói đây là một phƣơng diện quan trọng góp phần làm nên chất thơ trong truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh. 2.4. Không gian nghệ thuật khơi gợi cảm xúc Không gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật, là phƣơng thức tồn tại và triển khai thế giới nghệ thuật. Nếu thế giới nghệ thuật là cái nhìn thì không gian nghệ thuật mở ra một điểm nhìn. Không gian ấy có thể rộng mênh mông, có thể eo hẹp. Không gian nghệ thuật là hiện tƣợng ƣớc lệ mang ý nghĩa cảm xúc, tình cảm. Không gian trong truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh là phông nền để nhân vật bộc lộ tình cảm, cảm xúc, tâm trạng của mình trƣớc cuộc sống. Trong truyện Ngồi khóc trên cây, không gian có sự dịch chuyển từ không gian làng quê, cụ thể là làng Đo Đo - quê hƣơng của nhân vật tôi sang không gian thành phố, nơi diễn ra cuộc sống hiện tại của nhân vật. Mở đầu truyện là không gian làng quê: “Chiều rớt nắng trên ngọn sầu đông, nắng rơi xuống rất dày nhưng bị các nhánh lá cản lại trên cao. Vô số nắng nằm trên ngọn cây Mùa hạ sông Kiếp Bạc khô cạn, lòng sông phơi những tảng đá đen, bây giờ đã mượt rêu xanh” [7, tr.9]. Đây là không gian đặc trƣng của làng quê yên tĩnh, trong lành và tinh khôi. Không gian ấy đã mở ra trong tâm 36
  42. tƣởng nhân vật những kỉ niệm về tuổi thơ, nơi đầy ắp những niềm vui và nỗi buồn: “Tôi nhìn ra sông nắng và bất giác mỉm cười. Câu chuyện xưa khiến tôi tự nhiên thấy nao nao khó tả” [7, tr.13]. Không gian ấy vừa là không gian khách quan vừa là không gian chủ quan qua lời kể của nhân vật “tôi”, cho thấy tình cảm của nhân vật với làng quê, cũng nhƣ tình cảm của nhân vật “tôi” với những nhân vật khác trong ngôi làng. Bên cạnh đó, không gian khu rừng cũng xuất hiện dày đặc trong truyện. Khu rừng đƣợc miêu tả rất tỉ mỉ: “Từ xa tôi đã có thể nhìn thấy cánh rừng bắt đầu từ con hẻm luồn giữa những ngọn đồi rợp lá xanh. Những thân cây gần nhất có màu xanh nhưng tôi không thể nói như thế về những cây cối nằm sâu trong rừng. Ở giữa quãng rừng, rừng như phát sáng, những hàng cây trông giống những ngọn nến trắng, tôi thấy có khói màu xanh lơ bốc lên” [7, tr.99]. Hang động nơi Rùa và những ngƣời bạn của mình ẩn náu: “Cửa hang trổ ra một nẻo xanh tươi chạy giữa hai sườn núi. Một thung lũng nên thơ với những loại cây thấp và rất nhiều hoa bướm dại, hoa đuôi diều, hoa sao và các bụi cúc ngũ sắc mọc dọc các khe nước nhỏ chảy len lỏi giữa các kẽ đá trước khi róc rách thông mình xuống những chiếc đồng hồ ngập hoa tím nằm rải rác giữa thung” [7, tr.114]. Cảnh vật thiên nhiên hiện ra nhƣ cảnh thần tiên trong các câu chuyện cổ tích: “Không khí thanh bình toả ra từ mỗi gốc cây, ngọn cỏ, từ những cánh đồng bồ công anh bay rợp trời như những vũ công kiêu hãnh khoe chiếc váy trắng tinh trong nắng sáng, từ cách bọn thú nhỏ nô đùa tung tăng trước mắt và cả từ tiếng đạp cánh rì rào của đám bọ dừa. Tiếng châu chấu nhảy tanh tách trong đám cỏ mượt” [7, tr.115]. Mở đầu truyện Trại hoa vàng là một khung cảnh thiên nhiên đẹp và rất đỗi thơ mộng: “Phương đông chỉ mới hửng sáng với những đám mây treo lơ lửng cuối chân trời xa vừa kịp nhuộm hồng Khói lên nghi ngút khiến 37
  43. màn sương buổi sớm chưa kịp tan đã trở nên dày đặc. Trên ngọn hải đường lập lòe hoa đỏ sát hàng rào nhà nhỏ Thảo, lũ chim sẻ chí chách gọi nhau hệt một bọn trẻ lắm mồm” [9, tr.5]. Khung cảnh thiên nhiên vào buổi sớm đƣợc Nguyễn Nhật Ánh khắc họa thật đẹp, gợi lên trong lòng ngƣời đọc không chỉ là cảnh vật lúc bình minh mà còn khiến độc giả cảm nhận đƣợc sự trong trẻo tinh khiết của thiên nhiên đất trời và tâm trạng khoan khoái, dễ chịu của nhân vật khi đón chào một ngày mới. Bên cạnh đó trong truyện Trại hoa vàng, khung cảnh khu vƣờn đầy hoa của Chuẩn cũng đƣợc miêu tả hết sức tƣơi tắn và đầy sức sống: “Bên cạnh những đóa đồng tiền rực rỡ như những ngọn pháo bông, những bông cẩm chướng e ấp một nét đẹp thùy mị, dịu dàng là những bông hồng xinh tươi và quý phái” [9, tr.5]. “Chấm phá trên cái nền vàng mênh mông của khu vườn là những bông cẩm chướng hồng và tía, các đóa đồng tiền màu mào gà và màu cà rốt lẫn những đóa hồng phấn, trắng, đỏ và một vài đóa có màu khói hương” [9, tr.6]. Hình ảnh khu vƣờn đầy hoa và hƣơng sắc hiện lên trƣớc mắt độc giả thật rực rỡ và xinh đẹp: “Giáp Tết hoa e ấp nở. Những cánh hoa he hé thẹn thùng như những cô dâu mới. Lay ơn, thược dược, cẩm chướng, đồng tiền và các loại hoa hồng, hoa cúc dù chưa bung hết cánh đã nhuộm vàng rực cả khu vườn và dẫn dụ lũ bướm tới lui nườm nượp” [9, tr.251]. Nguyễn Nhật Ánh miêu tả thiên nhiên thật sinh động với những hình ảnh so sánh độc đáo, giàu sức gợi, ông không chỉ khiến chúng hiện lên trƣớc mắt ngƣời đọc chân thực và sống động mà còn thổi vào đó chút thơ mộng dƣới con mắt của một ngƣời yêu hoa, yêu thiên nhiên và đặc biệt là đang đắm chìm trong cảm xúc của những rung động đầu đời. Không gian trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh gắn liền với những cung bậc cảm xúc của nhân vật. Trong truyện Mắt biếc, khung cảnh thiên nhiên làng quê đƣợc tác giả khắc họa nhiều lần qua con mắt của nhân vật 38
  44. Ngạn khi Ngạn ở những trạng thái cảm xúc khác nhau. Ngạn và Hà Lan lớn lên bên nhau trong ngôi làng Đo Đo, nơi lƣu giữ biết bao kỉ niệm thời thơ ấu mà Ngạn luôn khao khát đƣợc về lại. Khung cảnh thiên nhiên làng quê mỗi lần đƣợc miêu tả đều gắn liền với tâm trạng, cảm xúc của nhân vật Ngạn. Lần đầu tiên Ngạn đi chơi với Hà Lan là một ngày đầu năm, không khí mùa xuân trong trẻo, tinh khôi khiến một trái tim đang yêu không khỏi thổn thức khi đƣợc đạp xe song song bên nhau. Và rừng sim chính là nơi đôi bạn hay lui tới. Khung cảnh khu rừng lúc này trong con mắt của Ngạn thật đẹp, thật tƣơi vui và tràn đầy sức sống nhƣ chính tâm trạng Ngạn lúc bấy giờ: “Rừng sim mùa xuân phủ đầy lộc non. Ngó chung quanh, toàn một màu tơ biếc” [6, tr.81], “mùa xuân, cây cối tốt tươi, không khí dịu dàng và trong trẻo Trước mặt là một cánh đồng cỏ xanh rì, chạy thoai thoải đổ xuống thung lũng nằm khuất bên kia gò” [6, tr.82]. Hay đó còn là những chiều chủ nhật khi đôi bạn cùng từ trƣờng trở về làng, họ lại cùng nhau vào rừng sim: “Chiều loang nắng, chúng tôi lặng lẽ đi bên nhau, lòng êm đềm và thanh thản” [6, tr.86]. “Ở đó, chúng tôi thơ thẩn giữa màu hoa tím, chơi trò trốn tìm sau các bụi cây và chạy nhảy trên những mô đất tôi không làm sao cưỡng được ý định rủ Hà Lan đi xuyên qua mé rừng bên kia, đứng trầm ngâm trước cánh đồng cỏ xanh để ngắm vẻ huy hoàng của mặt trời đang chìm dần xuống thung lũng mù sương” [6, tr.87]. Có thể thấy, khung cảnh làng quê, đặc biệt là cảnh rừng sim hiện lên thật lãng mạn, nên thơ. Trong tâm trạng vui sƣớng, hân hoan khi đƣợc về làng và hơn thế là đƣợc sánh bƣớc bên ngƣời con gái mà mình thầm thƣơng nhớ, cảnh vật hiện lên qua con mắt của Ngạn càng thơ mộng càng lãng mạn hơn. Nhƣng đó là khi Ngạn đắm chìm trong cảm giác vui say ngây ngất, trong hạnh phúc và niềm hy vọng tràn đầy, còn khi mộng tình yêu tan vỡ, Ngạn chìm trong những tháng ngày đau khổ, khung cảnh thiên nhiên vì thế cũng đƣợm buồn. “Con đường 39
  45. cũ chẳng có gì thay đổi, chạy dọc hai bên đường vẫn những cây bông gòn cao vút, những cây keo tây nơi trú ẩn của những con cánh quýt tuyệt đẹp, những cây sầu đông xơ xác và những hàng rào dâm bụt đỏ chói. Xa hơn nữa là những cánh đồng rập rờn sóng lúa, màu xanh trải dài dến tận lũy tre xa. Cảnh vật vẫn thế, chỉ khác là chiều nay trên con đường về dằng dặc chỉ còn mình tôi lặng lẽ đạp xe đi về” [6, tr.108-109]. Không còn Hà Lan đi bên cạnh mỗi buổi về làng, dù cảnh vật chẳng đổi thay nhƣng có sự đổi thay sâu sắc trong lòng Ngạn: “Tôi lững thững đặt chân lên nhưng lối mòn quen thuộc, nghe tiếng lá khô vỡ dưới gót giày, lòng cứ ngỡ chiều đi xào xạc. Tôi ngồi bên phiến đá năm nào, lạnh một bên vai, chỗ trống một người trong thoáng mắt đã ngập đầy lá rụng” [6, tr.150]. Cảnh vật vẫn vậy, nhƣng dƣờng nhƣ Ngạn chỉ còn thấy ở đó sự xác xơ, mênh mông, cô đơn đến hiu quạnh. Hà Lan ra đi, tình yêu của Ngạn cũng theo đó mà đi mất. Hà Lan không luyến lƣu những kỉ niệm xƣa cũ, chỉ còn Ngạn vẫn ôm mối tình đơn phƣơng đau khổ trở về làng, vùi mình vào những kỉ niệm năm nào để nghe lòng nhói đau, thổn thức trong nhớ thƣơng vô vọng. Nhƣ vậy, có thể thấy, không gian thiên nhiên cảnh vật đã góp phần bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của con ngƣời, hay nói cách khác, chính tâm trạng của con ngƣời đã nhuốm lên cảnh vật, khiến nó cũng mang những trạng thái cảm xúc nhƣ con ngƣời. Nguyễn Nhật Ánh đã sử dụng một cách linh hoạt các yếu tố của không gian nghệ thuật để góp phần lí giải sự vận động tính cách, tình cảm của nhân vật. 2.5. Ngôn ngữ đậm chất thơ 2.5.1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhạc điệu Ngôn ngữ đƣợc văn học sử dụng nhƣ là chất liệu để miêu tả đời sống. Ngƣời nghệ sĩ sử dụng thứ ngôn ngữ của đời sống, trau chuốt nó và đƣa vào các tác phẩm của mình để nó mang lại hiệu quả biểu đạt cao nhất. Nguyễn 40
  46. Nhật Ánh cũng nhƣ bao nhà văn khác, khi đã xác định đƣợc đối tƣợng cảm thụ và phản ánh đối tƣợng ấy vào trong tác phẩm của mình, nhà văn thƣờng lựa chọn cho mình một kĩ thuật viết, một hình thức phù hợp với đối tƣợng ấy. Thành công về ngôn ngữ trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh không phải là sự trau chuốt vốn từ mà chủ yếu là ở chất thơ. Nhận xét về ngôn ngữ truyện của Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Thị Thanh Xuân viết: “Cũng như nhiều nhà văn của thiếu nhi, Nguyễn Nhật Ánh có một thứ ngôn ngữ văn chương chuẩn mực. Ở đó ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ đối thoại và văn tả cảnh thường thể hiện thành những câu ngắn, đơn giản mà vẫn biểu đạt được những sắc thái khác nhau. Đôi khi các trang văn xuôi cũng gần như thơ” [21]. Trong Mắt biếc ta bắt gặp những đoạn văn nhƣ thế này: “Phía sau nhà, luỹ tre xanh suốt ngày kẽo kẹt và trên ngọn tre cao lủng lẳng những tổ chim chào mào, gió thổi rì rào qua kẽ lá và không ngừng phát ra những âm điệu du dương và tuyệt vời. Đằng sau luỹ tre là cánh đồng rập rờn sóng lúa, lúc xanh ngát mạ non lúc chĩu chín bông vàng, mùa cày xới nồng nàn mùi phân bò và mùi đất ải” [6, tr.41]. Đoạn văn sử dụng các từ ngữ giàu sức gợi hình, miêu tả khung cảnh làng quê đẹp mà bình dị, thơ mộng. Dƣới con mắt của Ngạn, không nơi đâu đẹp bằng làng Đo Đo: “Con đường cũ chẳng có gì thay đổi, chạy dọc hai bên đường vẫn những cây bông gòn cao vút, những cây keo tây nơi trú ẩn của những con cánh quýt tuyệt đẹp, những cây sầu đông xơ xác và những hàng rào râm bụt đỏ chói. Xa hơn nữa là những cánh đồng rập rờn sóng lúa, màu xanh trải dài đến tận luỹ tre xa” [6, tr.108]. Qua đó, ta không chỉ thấy vẻ đẹp của quê hƣơng nhân vật “tôi”, mà nhờ vào việc sử dụng ngôn ngữ một cách tài tình của tác giả ta còn thấy tình cảm yêu thƣơng, gắn bó mà “tôi” dành cho ngôi làng Đo Đo. 41
  47. Vẫn bằng lối sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, thiên nhiên đầy chất thơ cũng hiện lên chân thực và sinh động trong truyện dài Ngồi khóc trên cây khi Đông đƣợc ngắm nhìn cảnh vật trong khu rừng. Khi Đông đƣợc Rùa dẫn xuyên qua thác nƣớc, trƣớc mắt cậu mở ra cả một thế giới mới, thế giới hoa cỏ đẹp đến mê ngƣời. “Cửa hang trổ ra một nẻo xanh tươi chạy giữa hai sườn núi. Một thung lũng nên thơ với những loại cây thấp và rất nhiều hoa bướm dại, hoa đuôi diều, hoa sao và các bụi cúc ngũ sắc mọc dọc các khe nước nhỏ chảy len lỏi giữa các kẽ đá trước khi róc rách thông mình xuống những chiếc đồng hồ ngập hoa tím nằm rải rác giữa thung” [7, tr.114]. “Cây bướm bạc khoe những chiếc lá trắng xanh với những đường gân mảnh còn ướt sương đêm nhờ những tàu lá chuối to bản trên quạt giùm hơi nóng. Tôi nhìn những chiếc lá tưởng tượng bàn tay có làn da mỏng đến mức thấy rõ mớ gân xanh và tôi không kìm được ý định sờ tay vào một chiếc lá để ngắm những giọt sương âu sầu rơi xuống” [7, tr.135]. Nguyễn Nhật Ánh sử dụng hàng loạt từ chỉ màu sắc, từ tƣợng hình để miêu tả khung cảnh thiên nhiên. Chính vì vậy, cảnh sắc thiên nhiên nhƣ hiện lên trƣớc mắt ngƣời đọc có hình khối, có màu sắc rự rỡ và tràn trề sức sống. Đó dƣờng nhƣ là cảnh thần tiên trong các câu chuyện cổ tích: “Không khí thanh bình toả ra từ mỗi gốc cây, ngọn cỏ, từ những cánh đồng bồ công anh bay rợp trời như những vũ công kiêu hãnh khoe chiếc váy trắng tinh trong nắng sáng, từ cách bọn thú nhỏ nô đùa tung tăng trước mắt và cả từ tiếng đạp cánh rì rào của đám bọ dừa. Tiếng châu chấu nhảy tanh tách trong đám cỏ mượt” [7, tr.115]. Trong đoạn văn này, Nguyễn Nhật Ánh sử dụng linh hoạt các từ tƣợng thanh, từ tƣợng hình để miêu tả sự vận động, sinh hoạt của sinh vật trong rừng, làm hiện lên trƣớc mắt ngƣời đọc một khung cảnh thiên nhiên nguyên sơ sinh động, đẹp nhƣ tranh vẽ. Không phải chỉ khiến Đông bị choáng ngợp mà nó còn khiến cho độc giả cũng không khỏi xúc động trƣớc cảnh thần tiên đó. 42
  48. Bằng việc sử dụng cách ngắt nhịp, cách lặp cấu trúc câu kết hợp với ngôn ngữ gợi hình gợi cảm, nhà văn đã tạo đƣợc chất thơ trong những dòng văn xuôi, đem lại cho ngƣời đọc cảm giác nhẹ nhàng, du dƣơng. Ta có thể bắt gặp rất nhiều đoạn văn nhƣ vậy trong truyện Mắt biếc. “Tôi làm con cá nhỏ, bơi trong nỗi buồn. Nỗi buồn mênh mông như biển, tôi bơi suốt đêm vẫn chưa ra khỏi. Nhưng tôi vẫn lặng lẽ bơi, ngậm ngùi, cô độc và thỉnh thoảng quẫy mạnh chiếc đuôi dài làm xuất hiện những đốm bọt màu sữa như những ngôi sao nhỏ. Có ngôi sao nào tên gọi Hà Lan?” [6, tr.122-123]. Hay trong đoạn: “Làng tôi không có hoa ti-gôn, chỉ có hoa phượng. Hoa phượng cũng đỏ tươi, cũng giống như tim vỡ. Tình tôi đã vỡ rồi, tôi chẳng sợ. Tôi chỉ sợ tim tôi có mệnh hệ nào, tôi sẽ đi theo bà tôi, đi theo chú Hoan. Tôi sẽ ngủ hoài, ngủ mãi. Tôi sẽ nằm dưới đất sâu, đêm đêm nghe côn trùng rả rích” [6, tr.163]. “Những ngọn nến tình yêu trong lòng tôi không tắt. Dù Hà Lan cứ thổi, thổi hoài. Chúng không tắt, chúng chỉ mờ đi. Chúng cháy lập lòe, kiên trì, buồn bã và đợi mong” [6, tr.151]. Bằng cách sử dụng các điệp từ và nhấn mạnh vào các hình ảnh giàu sức gợi, Nguyễn Nhật Ánh đã giúp nhân vật tôi bộc bạch đƣợc những tâm tƣ, suy nghĩ thầm kín của mình. Câu văn của Nguyễn Nhật Ánh thƣờng có nhiều thanh bằng. Nó gợi lên một nhịp điệu chậm buồn nhƣng có sức lan toả. Đó chính là nhịp điệu của tâm hồn tƣơng quan với môi trƣờng xung quanh. Văn Nguyễn Nhật Ánh giản dị nhƣng giàu sức gợi. Ngôn ngữ truyện của Nguyễn Nhật Ánh giàu cảm xúc. Nó nhƣ nguồn suối mát lay động sâu xa tâm hồn ngƣời đọc. Mỗi câu văn đều chất chứa nỗi lòng và cảm xúc của ngƣời viết dành cho nhân vật của mình. Chính lối văn giàu cảm xúc này đã khiến cho ngƣời đọc có đƣợc sự đồng cảm sâu sắc đối với tình cảnh của mỗi nhân vật. Bằng ngôn ngữ uyển chuyển và linh hoạt truyện của Nguyễn Nhật Ánh không gây cho ngƣời đọc một cảm giác nhàm chán. Nhà văn rất tinh tế khi đi sâu vào tái hiện 43
  49. những biến thái tinh vi trong đời sống nội tâm nhân vật. Văn của Nguyễn Nhật Ánh là thứ văn của sự quan sát bên trong. Đó là thứ văn chƣơng hƣớng nội, đi vào thế giới bên trong với những cảm xúc cảm giác. Ông đặc biệt tinh tế khi diễn tả những rung động bên trong, những cảm giác mong manh, những biến thái tinh vi của tâm hồn trƣớc cảnh vật. Chính ngôn ngữ ấy đã góp phần tạo nên chất thơ cho tác phẩm để rồi nó thấm vào lòng ngƣời đọc và để lại những dƣ vị khó phai. 2.5.2. Ngôn ngữ thơ được chêm xen vào mạch văn xuôi Nguyễn Nhật Ánh không chỉ là một nhà văn, hơn thế còn là một nhà thơ. Tuy không chuyên sáng tác thơ, nhƣng trong những trang truyện của mình, ông vẫn chêm xen vào những dòng thơ, đoạn thơ để góp phần giãi bày tâm trạng của nhân vật. Trong Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, tác giả viết: “Khi tôi biết yêu, những câu thơ đầu tiên của tôi là nhằm chia sẻ điều đó: Từ khi quen em, anh đã biết nỗi buồn Và nỗi buồn cũng biết mặt anh Ngày mai nếu nỗi buồn tìm đến Cũng như là gõ cửa người quen” [3, tr.172-173]. Những câu thơ trên là tâm sự của chàng trai với ngƣời mình yêu rằng “anh” đã quen với nỗi buồn từ khi biết yêu “em” và “anh” không hề sợ điều đó, yêu em anh chấp nhận tất cả. Đó còn là những câu thơ chứa đầy tâm sự của một ngƣời đang yêu mà không cảm nhận đƣợc sự đồng điệu: “Biết đến bao giờ em biết yêu Cho tôi theo với, kéo tôi nhiều Tôi biết tình em e ấp lắm Bên nhau mà xa cách bao nhiêu” [5, tr.156]. 44
  50. Đặc biệt là những bài thơ tình xuất hiện trong truyện Mắt biếc. Đó chính là lời bài hát mà Ngạn đã viết cho Hà Lan, cho mối tình của mình trong những tháng ngày nhớ nhung, đau khổ: “Gửi mùa hè Giữ hộ tôi chút tình yêu Khi chia xa Vẫn nhớ ngày gặp lại Lúc ấy Em có là cô gái Đốt tôi bằng ngọn lửa Của riêng em?” [6, tr.120]. Những lời hát và âm nhạc đã dìu Ngạn qua những buồn khổ của mối tình đơn phƣơng. “Tôi viết những bản tình ca buồn bã và rung chúng lên trên sáu dây đàn để nghe lòng vơi đi sầu nhớ ( ) Ai về qua chỗ người thương Đứng giùm tôi Trước cổng trường ngày xưa Ướt giùm tôi chút trời mưa Để nghe trên tóc Hương vừa bay đi” [6, tr.128]. Đó còn là những vần thơ đầy lo âu về sự chia lìa, xa cách: “Có một ngày Đừng có một ngày Bàn tay không nắm nữa bàn tay Để hai mươi ngón buồn xa vắng Cuộc sống rồi như tiếng thở dài” [6, tr.89]. 45
  51. Nguyễn Nhật Ánh cũng rất khéo léo khi đƣa những lời thơ của các tác giả khác nhƣ Xuân Diệu, Nguyễn Bính vào trong từng truyện để góp phần thể hiện tâm trạng phức tạp của một tâm hồn đang yêu và những khát khao, mong mỏi trong tình yêu. Khi yêu ngƣời ta thƣờng hay ghen và đặc biệt đó là khi ngƣời mình yêu lại đi yêu một ngƣời khác. Trong Mắt biếc, Ngạn tự nhận mình giống với chàng trai cả ghen trong thơ Nguyễn Bính: “Cô nhân tình bé của tôi ơi Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười Những lúc có tôi, và mắt chỉ Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi ( ) Nghĩa là ghen quá đấy mà thôi Thế nghĩa là yêu quá mất rồi Và nghĩa là cô là tất cả Cô là tất cả của riêng tôi” [6, tr.118-119]. Những dòng thơ chứa đầy cảm xúc do chính tác giả viết hay mƣợn lời thơ của các tác giả khác để nói hộ tâm tƣ trong lòng nhân vật đã làm cho những trang văn mƣợt mà hơn giàu cảm xúc hơn. Việc chêm xen ngôn ngữ thơ vào mạch văn xuôi tạo nên chất thơ rất riêng cho truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh. Nó không chỉ thể hiện một cách tinh tế cảm xúc của nhân vật mà còn cho thấy Nguyễn Nhật Ánh là một nhà văn nhạy cảm, giàu cảm xúc và lãng mạn nhƣ một nhà thơ vậy. Chất thơ trong con ngƣời nhà văn dƣờng nhƣ cũng thấm đẫm trong mỗi trang truyện nhờ những vần thơ trữ tình sâu lắng của ông. 2.6. Giọng điệu đậm chất trữ tình Theo Từ điển thuật ngữ văn học, giọng điệu là “Thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể 46
  52. hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ kính trọng hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [11, tr.134]. Giọng điệu là một yếu tố đặc trƣng của hình tƣợng tác giả trong tác phẩm. Nếu nhƣ trong đời sống ta chỉ nghe giọng nói mà nhận ra con ngƣời thì trong văn học, giọng điệu giúp ta nhận ra tác giả. Ngƣời đọc có thể nhận thấy chiều sâu tƣ tƣởng, thái độ, vị thế, phong cách, tài năng cũng nhƣ sở trƣờng ngôn ngữ, cảm hứng sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ thông qua giọng điệu. Chúng tôi nhận thấy, giọng điệu trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh rất đa dạng, có sự chuyển biến rất linh hoạt. Nhƣng trong truyện dài của ông nổi bật lên vẫn là giọng điệu trữ tình ngọt ngào cùng với những chiêm nghiệm sâu lắng đầy chất thơ. 2.6.1. Giọng điệu trữ tình ngọt ngào Truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh thƣờng viết về tuổi hoa niên, gắn với những tình cảm hồn nhiên, trong sáng của tuổi học trò và tình cảm gắn bó, yêu thƣơng quê hƣơng tha thiết. Nguyễn Nhật Ánh thƣờng dùng giọng điệu trữ tình ngọt ngào để diễn tả những cung bậc cảm xúc đó. Ngồi khóc trên cây là truyện dài viết về một mối tình thơ mộng, lãng mạn của lứa tuổi thanh thiếu niên với những rung động đầu đời và giọng điệu trữ tình ngọt ngào là chủ âm. Bằng tình yêu quê hƣơng sâu sắc, cùng tâm hồn của một chàng trai đa sầu, đa cảm, nhân vật “tôi” đã có những cảm nhận vô cùng tinh tế trƣớc những cảnh vật của ngôi làng: “Trời tối dần trên vai, và tôi vừa đi vừa sung sướng, căng ngực mình hít thở mùi vị của buổi chiều. Như một loại cây trái khi chín dần thành đêm, buổi chiều cũng toả ra hương thơm của nó, trong đó có mùi gió, mùi cỏ, mùi lá cây, và phảng phất một thứ hương thơm không thể nhầm của một bụi dạ lí hương mọc kín đáo ở đâu đây, khiến cánh mũi tôi không khỏi phập phồng. Tôi lại nghĩ đến con 47
  53. Rùa khi đá chân vào bụi mắc cỡ bên đường để thấy những chiếc lá khép lại như rèm mi dài của nó” [7, tr.71]. Giọng văn miêu tả thiên nhiên gắn liền với cảm xúc của nhân vật thấm đẫm chất thơ, thể hiện tình cảm sâu sắc của một ngƣời con xa quê lâu ngày trở lại. Đó còn là những trang văn miêu tả tâm trạng mơ màng, bay bổng của một trái tim đang yêu và đƣợc yêu. “Trong những giấc mơ đó, tôi bao giờ cũng có con Rùa ở bên cạnh. Nếu có lúc tôi không nhìn thấy nó chỉ vì nó lạc hướng trong chiều hoặc đi loanh quanh đâu đó sau lưng tôi với một con nhím trong tay hay mớ hoa dại trong gió. Những lúc đó tôi tràn ngập cảm giác bình yên và trái tim tôi như được nhúng vào một niềm yêu thương vô bờ” [7, tr.189]. Ngay cả những lúc rơi vào tình cảnh éo le, những dòng cảm xúc của nhân vật tôi dành cho con Rùa cũng tạo nên dƣ vị ngọt ngào. “Quên những lời vàng ngọc của lí trí, tôi bó tay nó trong tay tôi, nâng niu, che chở như đang sưởi ấm một con chim sẻ ướt mưa, lòng rưng rưng cảm động” [7, tr.223]. Đặc biệt là đoạn văn miêu tả tâm trạng nhân vật tôi khi biết mình không bị ung thƣ máu và không có quan hệ huyết thống với con Rùa. Niềm hạnh phúc nhƣ vỡ oà trong lồng ngực, mọi gánh nặng dƣờng nhƣ đƣợc trút bỏ: “Lần này tôi sẽ nói với nó là tôi thương nó nhiều lắm, thương ơi là thương, sở dĩ lần vừa rồi tôi không dám bộc lộ tình cảm một cách tự nhiên vì tôi tưởng tôi sắp chết đấy thôi” [7, tr.296]. Đó là niềm khao khát đƣợc gặp gỡ đƣợc bày tỏ yêu thƣơng sau bao ngày kìm nén trong đau khổ. Và khi trở về, tâm hồn Đông tràn ngập hạnh phúc: “Tôi lướt qua nắng, qua gió, qua mùa chong chóng của bọn trẻ con trong làng, qua bà mẹ mùa đông, bà chị cánh đồng, qua hờn tủi, buồn đau để cảm nhận một cách rõ rệt tôi đang bỏ sau lưng những ngày ảm đạm. Đón tôi về là yêu thương, là hạnh phúc giấu giữa những bụi chuối dại, dưới bóng cây leo là những lá bướm bạc hứng đầy ánh sáng, là hoa quỳnh anh ươm vàng thềm giếng, là hoa 48
  54. dong riềng nhuộm đỏ bờ sông Kiếp Bạc” [7, tr.298]. Sự hoà quyện của những dòng miêu tả cảm xúc và miêu tả ngoại cảnh đã làm cho giọng văn thấm đẫm chất thơ, ngƣời đọc cảm nhận đƣợc sự yêu đời và những hy vọng của một chàng trai đang sống trong tình yêu. Ta cũng có thể thấy giọng điệu trữ tình ngọt ngào trong truyện Mắt biếc. Đôi mắt Hà Lan luôn khiến trái tim Ngạn phải xao xuyến: “Hồi nhỏ, tôi thích nhìn vào đôi mắt của Hà Lan, soi mình trong đó và vẩn vơ so sánh chúng với những viên bi ve trong suốt, những “viên bi quý tộc” chỉ bọn học trò tiểu học mới dám chơi, còn đối với đám học trò trường thầy Phu chúng tôi - những đứa trẻ chỉ quen với những viên bi làm từ trái mù u phơi khô thì đó chỉ là mơ ước. Lớn lên, đôi mắt của Hà Lan lại gợi tôi nghĩ đến bầu trời và dòng sông, đến những giấc mơ dịu dàng của tình yêu và khi đó tôi không còn đủ can đảm để nhìn lâu vào đôi mắt nó như ngày xưa thơ dại” [6, tr.25]. Đó cũng là cảm nhận của Trƣờng (Đi qua hoa cúc) với những rung cảm của một chàng trai bắt đầu nhận ra mình đã lớn. “Từ trước đến nay tôi chưa gặp ai có đôi mắt đẹp đẽ đến nồng nàn như vậy. Tôi đọc thấy trong đó sự rạng rỡ không che giấu. Tôi cũng đọc thấy trong đó nỗi rộn ràng đến khó tả của trái tim tôi Tôi khẽ nghiêng gàu cho những giọt nước xôn xao rơi ngập ngừng trên hoa vàng lá biếc. Hay đó chính là lòng tôi đang ngẩn ngơ nghiêng xuống mối tình đầu” [4, tr.73]. Giọng điệu trữ tình, ngọt ngào còn đƣợc dùng để nói về những giây phút Ngạn đắm chìm trong niềm hạnh phúc, hân hoan khi đi bên Hà Lan. “Mùa xuân, cây cỏ tốt tươi, không khí dịu dàng và trong trẻo. Tôi đi bên cạnh Hà Lan, lòng bồng bềnh hệt như Lưu Nguyễn lạc Thiên Thai” [6, tr.82]; “Chiều hoang nắng, chúng tôi lặng lẽ đi bên nhau, lòng êm đềm và thanh thản” [6, tr.86]; “Chuyện tình cảm, những bản nhạc đã nói giùm tôi. Chúng nói còn đầy đủ và chân thành hơn là chính tôi nói nhiều. Hà Lan cũng thế, chẳng nhiều lời. 49
  55. Ngôn ngữ của nó là nụ cười và ánh mắt” [6, tr.87]. Giọng văn mềm mại, uyển chuyển diễn tả thật tinh tế cảm giác ấm áp, yên bình của Ngạn khi sánh bƣớc bên Hà Lan và mơ về những tháng ngày tƣơi đẹp. Trong Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ không thiếu những trang văn bay bổng, lãng mạn, giọng văn ngọt ngào lan toả trong từng câu chữ. Đó là khi cậu bé Mùi mơ ƣớc về một thế giới mà ở đó cậu đƣợc sống theo ý thích của mình, ở đó khiến cậu hạnh phúc: “Phiên toà hôm ấy kéo dài khá lâu và kết thúc trong niềm hân hoan của cả bốn đứa tôi. Chúng tôi cảm thấy đã lấy lại được sự công bằng, đã xả được bao nhiêu là ấm ức, đã tưởng tượng được cảnh người lớn chân thành xin lỗi trẻ con về bao nhiêu là khuyết điểm mà nếu trẻ con không vạch ra thì người lớn không bao giờ nhận thấy. Hôm đó chúng tôi như sống trong mơ - một giấc mơ có lẽ mọi trẻ con trên trái đất đều ao ước” [3, tr.161]. Đặc biệt là khi cu Mùi phải chia tay với Tủn khi gia đình cô bé phải chuyển nhà đi nơi khác sống. Cuộc chia tay đó cũng đầy nƣớc mắt, khi những đứa trẻ về cơ bản đã hiểu chia ly là gì. “Tôi ngồi nhìn nó múc từng muỗng chè đưa vô miệng mà muốn khóc” [3, tr.173]; “Khi ăn, con Tủn ăn nhiều hơn tôi gấp ba lần. Và khi khóc, nó khóc nhiều hơn tôi gấp sáu lần. Nước mắt đẫm mặt nó như thể nó đang ngồi dưới mưa. Khóc một hồi, nó liếc tôi, đưa tay quyệt vội lên má rồi vùng chạy ra ngoài” [3, tr.175]. Đó là thứ tình cảm ngây trơ trong trẻo của những đứa trẻ, là tình cảm thƣơng mến mà cu Mùi dành cho cô bạn gái của mình khi mới lên tám tuổi. Tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh là những trang văn đậm chất trữ tình, ngọt ngào, sâu lắng. Tâm trạng của nhân vật cứ thế nhẹ nhàng thấm sâu vào cảm nhận của ngƣời đọc chính nhờ giọng văn nhẹ nhàng mà tinh tế của tác giả. Chính điều đó đã góp phần làm nên thành công cho những trang truyện của ông. 50
  56. 2.6.2. Giọng điệu triết lí, chiêm nghiệm Có thể nói điều đặc biệt hấp dẫn trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh đó chính là những triết lí sống mà nhà văn nêu ra trong mỗi tác phẩm. Song, vì viết cho tuổi mới lớn nên mọi sự chiêm nghiệm, suy tƣ đều đƣợc nhà văn soi chiếu qua lăng kính của tuổi mới lớn. Cũng vì vậy mà những triết lí nhân vật đƣa ra không khô cứng, giáo điều mà nhẹ nhàng thấm thía. Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ có nhiều đoạn văn mang giọng điệu triết lí, chiêm nghiệm. Nguyễn Nhật Ánh mƣợn lời nhà văn Mùi để phát biểu những điều mà ông đã từng hết sức tâm đắc. Đó là những chiêm nghiệm về tình yêu: “Chiếc cằm xinh hay đôi mắt đẹp khiến người đối diện chú ý nhưng nó chỉ đóng vai trò soi đường như ánh đèn pin trong tay người dẫn chỗ trong rạp hát Tình yêu cũng vậy, ấn tượng bề ngoài đáng kể nhưng đáng kể hơn nữa là vẻ bề ngoài đó đang cất giấu điều gì đáng kể đằng sau nó hay không” [3, tr.61]. Hay có thể sự chiêm nghiệm về nỗi buồn: “Tâm hồn con người từ khi sinh ra giống như một mặt hồ phẳng lặng cho đến khi nỗi buồn đầu tiên được cuộc đời ném xuống” [3, tr.181]. Giọng điệu chiêm nghiệm, triết lí xuất hiện ở hầu hết các chƣơng truyện, đến chƣơng cuối ta vẫn thấy sự hiện hữu của nó: “Bạn có thể trở về thăm lại thời thơ ấu của mình bất cứ lúc nào, hay nói khác đi lúc mà bạn nhận ra rằng thỉnh thoảng tắm mình trong dòng sông trong trẻo của tuổi thơ sẽ giúp bạn gột rửa những bụi bặm của thế giới người lớn một cách kì diệu” [3, tr.208]. Đây dƣờng nhƣ là một lời khuyên hết sức chân thành của tác giả dành cho chúng ta. Và nhà văn cũng nói thêm: “Vì vậy, để sống tốt hơn, đôi khi chúng ta phải học làm trẻ con trước khi học làm người lớn ” [3, tr.209]. Bằng giọng điệu này Nguyễn Nhật Ánh đã chia sẻ những tiếng nói, suy ngẫm một đời với bạn đọc, gieo vào lòng ngƣời biết bao suy tƣ, trăn trở về giá trị của cuộc sống. 51
  57. Trong Mắt biếc, Ngạn cũng có rất nhiều triết lí về tình yêu, hay nói cách khác đó cũng chính là những điều mà Nguyễn Nhật Ánh muốn nói. “Điều đáng chán nhất trong tình yêu là khi mình yêu ai, mình không biết họ có biết điều đó hay không. Điều đáng chán thứ nhì là khi mình biết họ biết điều đó rồi thì mình lại không biết họ có yêu lại mình hay không” [6, tr.78]. Đó là những gì mà Ngạn rút ra từ tình yêu đơn phƣơng của mình, và anh nhận ra rằng cả hai điều đó anh đều hội tụ cả. Còn khi Ngạn biết Hà Lan và Dũng đang hẹn hò mà vẫn cố gắng nghĩ khác đi, và tự cấm mình nghĩ vẩn vơ mặc dù anh hiểu hơn ai hết. “Bản chất của tình yêu là hy vọng. Nhiều khi trước một sự thật phũ phàng đã rõ mười mươi, người ta vẫn tìm cách giải quyết theo chiều hướng ít bi quan nhất” [6, tr.123]. Ngạn cố nghĩ rằng hai ngƣời đó đi chơi với nhau vì cùng thích nhảy và việc đi chơi với một ngƣời và yêu một ngƣời là hai chuyện hoàn toàn khác nhau dù trong thâm tâm Ngạn đã hiểu mọi chuyện. Trƣờng trong Đi qua hoa cúc cũng chiêm nghiệm về một miền kí ức đã qua và những hình bóng yêu dấu trong đời: “Ở đời có những sự kiện, những khuôn mặt thoảng qua đời ta như cơn gió tình cờ, chẳng lưu lại điều gì trong kí ức, nhưng cũng có những kí ức khắc sâu vào tâm hồn ta như dao chém vào đá, mãi mãi để lại trong trí não ta một vết hằn mà năm tháng chỉ đánh bóng nó lên chứ không thể làm cho nó phai đi” [4, tr.271]. Có thể nói, sử dụng giọng điệu triết lí, chiêm nghiệm trong các sáng tác của mình, Nguyễn Nhật Ánh đã góp phần hoàn thiện chân dung của tuổi mới lớn. Những suy nghĩ, chiêm nghiệm đó đánh dấu sự trƣởng thành về nhận thức, phải trải nghiệm, cảm nhận và suy ngẫm mới có thể rút ra những triết lí nhƣ vậy. Triết lí mà các nhân vật đƣa ra thƣờng nhẹ nhàng mà thấm thía, phù hợp với lứa tuổi và những trải nghiệm của tuổi mới lớn. 52
  58. Chính vì vậy, chất thơ trong mỗi tác phẩm cũng phần nào đƣợc thể hiện thông qua giọng điệu này. 53
  59. KẾT LUẬN Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn chuyên tâm viết cho thiếu nhi. Bằng lối viết giản dị, dí dỏm, cùng biệt tài nắm bắt tâm lí tuổi mới lớn, nhà văn đã đƣa bạn đọc trở về với thế giới tuổi thơ, với miền kí ức mà mỗi ngƣời đã từng trải qua. Thành công với nhiều thể loại, nhƣng truyện dài là mảng sáng tác Nguyễn Nhật Ánh gặt hái đƣợc nhiều hành công hơn cả. Truyện dài của ông mang đậm chất thơ. Chất thơ trong truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh đƣợc biểu hiện trên nhiều phƣơng diện nhƣ: nhan đề, cốt truyện, không gian nghệ thuật, nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu. Nhan đề trong truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh thƣờng thi vị, giàu hình ảnh có sức gợi lớn. Về cốt truyện, nhà văn không tập trung vào các sự kiện, mà tập trung vào miêu tả tâm lí, diễn biến tâm trạng, cách cảm cách nghĩ của của mỗi nhân vật. Nhân vật trong truyện dài của ông thƣờng là những cô cậu học trò có tâm hồn lãng mạn, giàu triết lí, suy tƣ và dễ dàng xúc động trƣớc cuộc sống. Không gian nghệ thuật trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh rất đa dạng nhƣng chúng đều có một nét chung là rất nên thơ và đậm chất trữ tình lãng mạn. Nguyễn Nhật Ánh đã sử dụng một cách linh hoạt các yếu tố của không gian nghệ thuật để góp phần lí giải sự vận động tính cách, tình cảm của nhân vật. Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện của ông cũng rất đặc biệt. Đó là thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu, đồng thời có sự chêm xen ngôn ngữ thơ vào mạch văn xuôi. Giọng điệu trong truyện dài của ông mang chủ âm là giọng trữ tình tha thiết, có lúc là giọng suy tƣ, chiêm nghiệm sâu lắng đầy chất thơ. Điều đó góp phần khắc sâu thêm ấn tƣợng về chất thơ trong từng trang truyện của ông. Chất thơ tỏa ra từ chính tình yêu thƣơng mà nhà văn dành cho lứa tuổi hồng, dành cho những miền kí ức tƣơi đẹp đã qua của mình. 54
  60. Chính sự chân thành, gần gũi, yêu thƣơng đó đã đƣa những câu chuyện rất đỗi bình dị của ông chạm đến trái tim bạn đọc. Tóm lại, chất thơ là một nét riêng trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh mà không phải tác phẩm nào viết cho thiếu nhi cũng có đƣợc. Chất thơ có khả năng nuôi dƣỡng tâm hồn mỗi con ngƣời, hƣớng con ngƣời đến những giá trị tốt đẹp hơn. Và những câu chuyện của Nguyễn Nhật Ánh đã làm đƣợc điều đó. 55
  61. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thụy Anh (2015), “Nguyễn Nhật Ánh một thái độ sống và viết”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 831), tháng 10. 2. Thái Phan Vàng Anh (2013), “Nguyễn Nhật Ánh, ngƣời kể chuyện của thiếu nhi”, Tạp chí Non nƣớc (số 187) tháng 6. 3. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, NXB Trẻ, TP.HCM. 4. Nguyễn Nhật Ánh (2016), Đi qua hoa cúc, NXB Trẻ, TP.HCM. 5. Nguyễn Nhật Ánh (2016), Hoa hồng xứ khác, NXB Trẻ, TP.HCM. 6. Nguyễn Nhật Ánh (2016), Mắt biếc, NXB Trẻ, TP.HCM. 7. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Ngồi khóc trên cây, NXB Trẻ, TP.HCM. 8. Nguyễn Nhật Ánh (2015) Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, NXB Trẻ, TP.HCM. 9. Nguyễn Nhật Ánh (2016), Trại hoa vàng, NXB Trẻ, TP.HCM. 10. Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB Khoa học xã hội. 11. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ điển thuật ngữ văn học (tái bản lần 2), NXB Giáo dục. 12. Nguyễn Văn Long, Lã Thị Bắc Lý, Trần Đăng Suyền (2012), Văn học Việt Nam hiện đại, tập 2, NXB Đại học Sƣ phạm. 13. Phƣơng Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hoà, Thành Thế Thái Bình (2002), Lí luận văn học (tái bản lần 2), NXB QGHN. 14. Lã Thị Bắc Lý (2000), Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 15. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại - Chân dung và phong cách, NXB Trẻ, TP.HCM.
  62. 16. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Nguyễn Tuân bàn về văn học nghệ thuật, NXB Hội Nhà văn. 17. Hoài Nam (2008), “Thơ và văn xuôi, những kết hợp nghệ thuật”, Báo An ninh thế giới (số 8). 18. Trần Đình Sử (2007), Giáo trình lí luận văn học, tập 2, Tác phẩm và thể loại, NXB Đại học Sƣ phạm. 19. Vân Thanh (1998), “Nguyễn Nhật Ánh - nhà văn thân quý của tuổi thơ”, Tạp chí Văn học (số 146), tháng 6. 20. Nguyễn Bá Thành (1995), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, NXB Văn học. 21. Nguyễn Thị Thanh Xuân (1996), “Đọc văn xuôi Nguyễn Nhật Ánh”, Báo Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh (số 237).