Khóa luận Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng, trị bệnh trên đàn lợn nái và lợn con tại trại Nguyễn Xuân Dũng, xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội

pdf 60 trang thiennha21 19/04/2022 4970
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng, trị bệnh trên đàn lợn nái và lợn con tại trại Nguyễn Xuân Dũng, xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_ap_dung_quy_trinh_cham_soc_nuoi_duong_phong_tri_be.pdf

Nội dung text: Khóa luận Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng, trị bệnh trên đàn lợn nái và lợn con tại trại Nguyễn Xuân Dũng, xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HOÀNG THỊ DUYÊN Tên chuyên đề: “ÁP DỤNG QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG, PHÒNG, TRỊ BỆNH TRÊN ĐÀN LỢN NÁI VÀ LỢN CON TẠI TRẠI NGUYỄN XUÂN DŨNG, XÃ KHÁNH THƯỢNG, HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Chăn nuôi Thú y Lớp: K47 - CNTY - N01 Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 - 2019 Giảng viên hướng dẫn: TS.La Văn Công Thái Nguyên, năm 2019
  2. i LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian học tập tại trường và thực tập tại cơ sở, đến nay em đã hoàn thành bản khóa luận tốt nghiệp của mình. Để có được kết quả này ngoài sự nỗ lực của bản thân, em luôn nhận được sự giúp đỡ chu đáo, tận tình của nhà trường, các thầy cô giáo trong khoa Chăn nuôi Thú y, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, ban quản lí trại lợn Nguyễn Xuân Dũng. Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới: Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm khoa cùng toàn thể các thầy giáo, cô giáo trong khoa Chăn nuôi Thú y đã tận tình dạy dỗ dìu dắt em trong suốt quá trình học tập tại trường. Trại lợn Nguyễn Xuân Dũng, xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập, giúp em hoàn thành tốt công việc trong thời gian thực tập tại cơ sở. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo TS. La Văn Công luôn động viên, giúp đỡ và hướng dẫn chỉ bảo em tận tình trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp đại học này. Để góp phần cho việc thực tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp đạt kết quả tốt, em đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ và động viên từ gia đình và bạn bè. Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành trước mọi sự giúp đỡ quý báu đó. Em xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, tháng năm 2019 Sinh viên Hoàng Thị Duyên
  3. ii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1. Chế độ ăn của lợn mẹ chuồng đẻ (kg thức ăn/con) 29 Bảng 3.2. Lịch sát trùng chuồng trại của trại lợn 32 Bảng 3.3. Lịch phòng bệnh cho đàn lợn nái sinh sản và lợn con nuôi tại cơ sở 32 Bảng 4.1. Cơ cấu đàn lợn nuôi tại trại 37 Bảng 4.2. Số lượng lợn nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại qua 6 tháng thực tập 38 Bảng 4.3. Kết quả theo dõi tình hình sinh sản của lợn nái tại trại. 39 Bảng 4.4. Một số chỉ tiêu sinh sản của lợn nái nuôi tại trại 40 Bảng 4.5. Kết quả khử trùng tại cơ sở 42 Bảng 4.6. Kết quả phòng bệnh bằng thuốc và vắc xin cho đàn lợn tại trại 44 Bảng 4.7. Kết quả chẩn đoán bệnh trên đàn lợn nái 44 Bảng 4.8. Kết quả chẩn đoán bệnh cho đàn lợn con tại trại 45 Bảng 4.9. Kết quả điều trị bệnh trên đàn nái sinh sản và lợn con tại trại 46 Bảng 4.10. Kết quả thực hiện các thao tác trên lợn con và lợn nái tại trại 48
  4. iii DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Ý nghĩa CP Charoen Pokphand cs Cộng sự ĐVT Đơn vị tính LMLM Lở mồm long móng Nxb Nhà xuất bản STT Số thứ tự TB Trung bình
  5. iv MỤC LỤC Phần 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục đích và yêu cầu của chuyên đề 1 1.2.1. Mục đích 1 1.2.2. Yêu cầu của chuyên đề 2 Phần 2.TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 3 2.1.1. Điều kiện của trang trại 3 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của trại 4 2.1.3. Cơ sở vật chất của trang trại 4 2.1.4. Tình hình sản xuất của trại 6 2.1.5. Thuận lợi, khó khăn 7 2.2. Tổng quan tài liệu và những kết quả nghiên cứu trong ngoài nước 8 2.2.1. Những hiểu biết về sinh sản của lợn nái 8 2.2.2. Quy trình chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái sinh sản giai đoạn chửa, đẻ, nuôi con 9 2.2.3. Những hiểu biết về phòng và trị bệnh trong chăn nuôi 16 2.2.4. Những hiểu biết về một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái đẻ và nuôi con 20 2.2.5. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 25 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 28 3.1. Đối tượng 28
  6. v 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 28 3.3. Nội dung tiến hành 28 3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện 28 3.4.1. Các chỉ tiêu thực hiện 28 3.4.2. Phương pháp thực hiện 29 3.4.3. Phương pháp tính toán các chỉ tiêu 36 Phần 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 37 4.1. Tình hình chăn nuôi tại trại Nguyễn Xuân Dũng, xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. 37 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn tại trại Nguyễn Xuân Dũng, xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. 38 4.2.1. Số lượng lợn nái được phân công trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng 38 4.2.2. Tình hình sinh sản của lợn nái nuôi tại trại 39 4.2.3. Một số chỉ tiêu sinh sản của lợn nái nuôi tại trại 40 4.3. Kết quả thực hiện quy trình phòng và trị bệnh cho đàn lợn tại trại Nguyễn Xuân Dũng, xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội 41 4.3.1. Thực hiện biện pháp vệ sinh phòng bệnh 41 4.3.2. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn nái và lợn con tại trại bằng thuốc và vắc xin 43 4.3.3. Kết quả chẩn đoán bệnh cho lợn nái và lợn con tại trại 44 4.4. Kết quả thực hiện công tác khác tại cơ sở 47 Phần 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 49 5.1. Kết luận 49 5.2. Đề nghị 50
  7. 1 Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Chăn nuôi là ngành nông nghiệp truyền thống của Việt Nam. Hiện nay, ngành chăn nuôi nước ta đang phát triển mạnh một cách mạnh mẽ, đặc biệt chăn nuôi lợn giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Chăn nuôi lợn cung cấp nguồn thực phẩm dinh dưỡng quan trọng cho con người, cung cấp nguyên liệu cho ngành trồng trọt, chế biến công nghiệp. Cùng với xu hướng phát triển của xã hội thì chăn nuôi lợn cũng chuyển từ loại hình chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ sang chăn nuôi trang trại quy mô lớn, áp dụng các quy trình kỹ thuật công nghệ cao giúp nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Để phát triển hơn nữa ngành chăn nuôi lợn ở nước ta, chăn nuôi lợn nái là một trong những khâu quyết định đến sự thành công trong ngành chăn nuôi lợn. Do khả năng thích nghi của đàn lợn nái ngoại với khí hậu nước ta còn kém nên quy trình trình nuôi dưỡng, chăm sóc và phòng trị bệnh có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao năng suất chăn nuôi. Những năm gần đây, mặc dù công tác chăm sóc, nuôi dưỡng đã được chú trọng, việc phòng chống dịch bệnh cũng được quan tâm hơn, nhưng chăn nuôi vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Xuất phát từ tình hình thực tế trên, được sự đồng ý của Ban chủ nhiệm khoa CNTY - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, cùng với sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn và cơ sở nơi thực tập, em đã thực hiện chuyên đề: “Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng, trị bệnh trên đàn lợn nái và lợn con tại trại Nguyễn Xuân Dũng, xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội ”. 1.2. Mục đích và yêu cầu của chuyên đề 1.2.1. Mục đích - Đánh giá chung tình hình chăn nuôi tại trại.
  8. 2 - Nắm được quy trình chăm sóc nuôi dưỡng, phòng và trị bệnh cho đàn lợn nái sinh sản. - Nắm được các loại thức ăn dành cho lợn nái sinh sản, khẩu phần ăn và cách cho lợn nái ăn qua từng giai đoạn mang thai. - Biết cách phòng và trị bệnh thường xảy ra đối với lợn nái sinh sản của trại. 1.2.2. Yêu cầu của chuyên đề - Đánh giá được tình hình chăn nuôi lợn tại trại Nguyễn Xuân Dũng. - Xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn lợn nái sinh sản của trại và áp dụng được quy trình phòng bệnh cho đàn lợn nái của trại. - Xác định phương pháp chẩn đoán và điều trị bệnh hiệu quả nhất. - Chăm chỉ, học hỏi để năng cao kỹ thuật, tay nghề cho bản thân.
  9. 3 Phần 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập 2.1.1. Điều kiện của trang trại  Vị trí địa lý Trang trại chăn nuôi của ông Nguyễn Xuân Dũng được xây dựng trên địa bàn thôn Hương Canh, xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội với diện tích gần 5 ha. Trang trại được xây dựng năm 2014, là trang trại gia công của công ty CP Việt Nam. Xã Khánh Thượng là một xã miền núi nằm ở sườn Tây núi Ba Vì, với diện tích tự nhiên 2.882,43 ha. Cách trung tâm huyện Ba Vì trên 35 km, cách trung tâm Hà Nội 82 km. Xã có địa bàn giáp ranh với 2 tỉnh (phía Đông Nam giáp tỉnh Hòa Bình, phía Tây cách con sông Đà là tỉnh Phú Thọ), có trục đường giao thông Sơn Tây - Chẹ - Hợp Thịnh - Kỳ Sơn - Hòa Bình đi qua. Dân số có 1.852 hộ với 8.219 nhân khẩu (tính đến 20/7/2011) được phân bổ trên 13 thôn, làng trong xã, gồm 03 dân tộc cùng chung sống là Kinh, Mường, Dao. Trong đó dân tộc Mường chiếm 62% toàn xã. Điều kiện địa lý của xã rất thuận lợi cho việc giao thông, vận chuyển thức ăn, cũng như việc buôn bán, vận chuyển hàng hóa của trại.  Điều kiện khí hậu Huyện Ba Vì nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng nên chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa Đông lạnh. Do đó trại lợn của ông Nguyễn Xuân Dũng cũng chịu ảnh hưởng chung của khí hậu vùng. Với mùa Hè nóng bức với lượng mưa tương đối cao, mùa Đông lạnh và khô. Nằm trong vùng nhiệt đới, Ba Vì quanh năm tiếp nhận được lượng bức xạ mặt trời dồi dào và nhiệt độ cao. Về nhiệt độ: Xã Khánh Thượng thuộc vùng đồng bằng sông Hồng chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 10 với nhiệt độ trung bình 23oC, tháng 6 và tháng 7 có nhiệt độ trung bình cao nhất
  10. 4 là 28,6oC. Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 và kết thúc vào tháng 3 với nhiệt độ xấp xỉ 20oC, tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất 15,8oC. Lượng mưa: Lượng mưa trung bình đạt 1.628 mm/năm, chia thành 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 10, với tổng lượng mưa là 1.478 mm, chiếm khoảng 9% lượng mưa cả năm. Độ ẩm: Độ ẩm không khí trung bình từ 85% đến 87%. Các tháng có độ ẩm thấp là tháng 11 và tháng 12, cao nhất là tháng 7 và tháng 8. Gió: Hướng gió chủ yếu là Đông Bắc và Đông Nam, mùa Đông có gió mùa Đông Bắc lạnh. Tốc độ gió trung bình 3,5 m/s. Mùa Hạ hướng gió chủ yếu là Đông Nam và Nam, tuy nhiên khi có giông, bão vào mùa Hạ có tốc độ gió có thể đạt tới 100 km/h. Trong gió mùa Hạ có thể có gió giật tới tốc độ trên 100 km/h. Bão thường xảy ra từ tháng 7 đến tháng 10. Bão gây ra gió mạnh và mưa lớn gây nên ngập úng ở vùng đất trũng và gây ra sói mòn đất ở vùng đồi, núi làm thiệt hại đến sản xuất kinh tế và con người. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của trại Trại được chia ra làm 2 tổ khác nhau: tổ chuồng bầu và tổ chuồng đẻ. Mỗi tổ thực hiện công việc hàng ngày một cách nghiêm túc và đúng quy định của trại. Bộ máy cơ cấu của trại gồm: - Chủ trại: 01 người. - Quản lý trại: 01 người - Kỹ thuật viên: 02 người - Tổ trưởng (01 chuồng đang mang thai, 01 chuồng đẻ): 02 người. - Công nhân: 10 người. - Cấp dưỡng: 02 người - Sinh viên thực tập: 04 người 2.1.3. Cơ sở vật chất của trang trại Trang trại có tổng diện tích 5 ha bao gồm: Khu chăn nuôi, khu nhà ở, các công trình phụ khác và đất trồng cây xanh, cây ăn quả. Trong đó trang trại được chia làm hai khu chính: khu điều hành và khu chăn nuôi.
  11. 5 Khu điều hành gồm nơi làm việc của quản lý trại và nhà ăn, ở của công nhân, cổng ra vào trại, phòng sinh hoạt ngoài giờ làm của công nhân, nhà ăn các khu phục vụ cho các nhu cầu thiết yếu cho công nhân ngoài giờ làm. Ngoài ra trại còn thiết kế thêm một số khu vui chơi phục vụ nhu cầu giải trí của công nhân. Khu sản xuất gồm: 6 chuồng đẻ, 2 chuồng bầu và 2 chuồng cách ly. Một số công trình phục vụ cho chăn nuôi như: kho cám, kho thuốc, phòng tinh, phòng sát trùng, kho hàn Trong khu chăn nuôi thì gồm 2 phần chính: chuồng đẻ và chuồng bầu. - Hệ thống chuồng đẻ của trại gồm 3 dãy chuồng chính, mỗi dãy chuồng gồm 2 ngăn chuồng có cửa thông với nhau ở cả đầu trên và cuối chuồng. Mỗi ngăn chuồng lại gồm 58 ô chia làm 2 dãy với kích thước mỗi ô là 2,4 × 1,6 m/ô. Trong mỗi ngăn được lắp đặt hệ thống dàn mát ở đầu chuồng và 4 quạt thông gió ở cuối chuồng. Ngoài ra mỗi ngăn còn được lắp đặt thêm cửa sổ và hệ thống chiếu sáng, hệ thống điện. Ngoài 3 chuồng chính, còn có 1 chuồng cai sữa phục vụ cho việc chăm sóc lợn con sau 21 ngày tuổi mà chưa được xuất bán. - Hệ thống chuồng bầu với 2 chuồng chính, trong mỗi chuồng được lắp đặt 560 ô, kích thước 2,4 × 0,65 m/ô. Cũng như chuồng đẻ chuồng bầu cũng có dàn mát, cuối mỗi chuồng có 8 quạt thông gió, ngoài ra trong mỗi chuồng bầu còn có hệ thống làm mát cho lợn bằng nước. Bên cạnh 2 chuồng chính còn có chuồng đực giống có thể nuôi được 20 đực giống, 3 chuồng cách ly dùng để nhốt lợn mới nhập, lợn có dấu hiệu bị bệnh và một phòng tinh. Sau mỗi chuồng đều có đường rãnh thoát nước thải, các đường rãnh này đều thông về một bể chứa nước thải tập trung. Nguồn nước thải rửa chuồng trại, xả gầm đều được xử lý qua hệ thống thoát nước ngầm. Xung quanh trang trại còn trồng nhiều cây ăn quả, hầm biogas để tạo môi trường thân thiện trong chăn nuôi. Nguồn nước được sử dụng trong trại được cung cấp từ hệ thống giếng khoan, nước sau khi được bơm lên 2 bể được xử lý bằng hóa chất. Sau đó được bơm lên một bể ở trên cao, lợi dụng áp lực của nước để đưa nước tới hệ thống cung cấp nước uống,
  12. 6 dàn mát và các vòi nước phục vụ cho công việc vệ sinh. Trong khu sản xuất còn có kho thuốc, phòng tắm sát trùng, nhà giặt và kho cám. Trong khu chăn nuôi, đường đi lại giữa các ô chuồng, các khu đều được đổ bê tông và có hố sát trùng. Khu chuồng nuôi được quản lý nghiêm ngặt. Công nhân trong trại và khách đến thăm quan đều phải đi qua hệ thống sát trùng thay quần áo, đeo khẩu trang, ủng chuyên dụng trước khi vào chuồng. 2.1.4. Tình hình sản xuất của trại * Công tác chăn nuôi Đặc điểm là trại gia công nên nhiệm vụ chính của trại là sản xuất giống thương phẩm, xuất bán cho các trại nuôi lợn thịt. Hiện nay trung bình lợn nái của trại sản xuất được 2 – 2,5 lứa/năm. Số con sơ sinh là 11,10 con/đàn, số con cai sữa: 10,74 con/đàn. Tại trại, lợn con sẽ được nuôi theo mẹ cho đến khoảng 19 đến 21 ngày tuổi, những lợn con chưa đủ khối lượng sẽ được ghép đàn nuôi với những đàn có số ngày tuổi nhỏ hơn, còn những lợn đã quá ngày xuất bán nhưng chưa có đợt sẽ được nhốt sang chuồng cai sữa. Những lợn con này sau đó sẽ được chuyển tới các trang trại nuôi lợn thịt. Trong trại có 18 lợn đực giống Duroc được công ty cung cấp theo nhiều đợt đã được huấn huyện nhằm mục đích khai thác tinh và kích thích sự lên giống của lợn nái. Tinh dịch sau khi được pha loãng trong môi trường sẽ được bảo quản lạnh, mỗi lợn nái sau khi được phát hiện lên giống sẽ được đem đi phối 2 lần. Thức ăn chăn nuôi của trại được công ty CP cung cấp, là loại thức ăn hỗn hợp dùng cho từng loại lợn và các lứa tuổi khác nhau. * Công tác thú y: Đàn lợn tại trại luôn được chăm sóc và phòng bệnh theo kỹ thuật của công ty CP, được giám sát một cách chặt chẽ về mọi mặt. - Công tác vệ sinh: Công nhân trước khi vào chuồng sẽ được tắm và thay đồng phục tại nhà tắm sát trùng. Mọi dụng cụ khi đưa vào khu vực sản xuất đều
  13. 7 được cách ly, phun sát trùng. Định kỳ sẽ có các công nhân làm nhiệm vụ vệ sinh, sát trùng trong chuồng và ngoài chuồng. Các chuồng sau khi xuất hết lợn con sẽ được vệ sinh ngâm tẩy bằng hóa chất, được cách ly trước khi cho lợn nái mới lên đẻ. - Công tác phòng bệnh: Theo lịch của công ty, lợn trong trại sẽ được tiêm phòng vắc xin để phòng một số bệnh thường gặp trên lợn. Từ đó tăng sức đề kháng cho lợn mẹ và lợn con sau sinh, lợn con cũng được tiêm phòng các loại vắc xin theo ngày tuổi. - Công tác trị bệnh: Lợn luôn được theo dõi dám sát của 2 kỹ sư và 2 tổ trưởng, những lợn có biểu hiện bất thường đều sẽ được nhốt riêng các ly theo dõi và có các biện pháp điều trị cũng như xử lý kịp thời. 2.1.5. Thuận lợi, khó khăn * Thuận lợi - Trại nằm xa khu dân cư, ít người đi lại nên ít chịu ảnh hưởng từ bên ngoài. - Thuận tiện trong giao thông, vận chuyển lợn đi các trại nuôi thương phẩm. - Đội ngũ quản lý, cán bộ kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. - Công nhân có tay nghề cao, năng động, nhiệt tình và có trách nhiệm với công việc. - Trại được xây dựng theo mô hình công nghiệp, trang thiết bị hiện đại, do đó rất phù hợp với điều kiện chăn nuôi lợn công nghiệp hiện nay. * Khó khăn - Trại được xây dựng trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết diễn biến phức tạp nên khâu phong trừ dịch bệnh gặp nhiều khó khăn. - Trang trại còn thiếu công nhân chuồng đẻ chỉ có 2 công nhân chủ yếu là sinh viên được phân về trại thực tập. - Số lượng lợn nhiều, lượng nước thải lớn, việc đầu tư công tác xử lý nước thải của trại gặp nhiều khó khăn.
  14. 8 - Trang thiết bị vật tư, hệ thống chăn nuôi còn thiếu chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất. - Dụng cụ và đồ bảo hộ của công nhân còn thiếu và đã cũ. 2.2. Tổng quan tài liệu và những kết quả nghiên cứu trong ngoài nước 2.2.1. Những hiểu biết về sinh sản của lợn nái Theo Nguyễn Quang Linh (2005) [9]: Thời gian chửa của lợn trung bình là 114 ngày, dao động trong vòng từ 113 ngày đến 116 ngày chia làm hai giai đoạn: + Giai đoạn chửa kỳ I: Từ khi phối giống có chửa đến ngày chửa thứ 84. Bào thai phát triển chậm, chỉ chiếm 1/4 khối lượng lợn con sơ sinh. + Giai đoạn chửa kỳ II: Từ ngày 85 đến khi đẻ, bào thai lớn nhanh chiếm 3/4 trọng lượng sơ sinh. Mỗi giai đoạn này đòi hỏi kỹ thuật chăm sóc là khác nhau. Đặc biệt chú ý trong 2 tuần cuối (100 - 114 ngày) dinh dưỡng và chăm sóc phải thật hợp lý. Đây là thời kỳ lợn mẹ cần nhiều chất dinh dưỡng nhất cho sự phát triển của bào thai và sức khỏe của lợn mẹ. Tuy nhiên thể tích bào thai lớn làm giảm lượng thức ăn thu nhận, vì vậy cần phải cho lợn nái ăn nhiều bữa và đảm bảo chất dinh dưỡng. Trong thời kỳ mang thai tính thèm ăn của nái bị giảm xuống, để khắc phục điều này cần chế biến và bảo quản thức ăn thật tốt, kích thích tính ngon miệng cho lợn nái thu nhận thức ăn cao. Giai đoạn này lợn mẹ cần sự yên tĩnh, những tác động kích thích từ bên ngoài dễ dẫn đến hiện tượng đẻ non hay rối loạn sinh lý lợn mẹ, gây khó khăn khi đẻ. Khi thai đã thành thục sẽ được cơ thể mẹ đẩy ra ngoài (trong khoảng 113 - 116 ngày), lợn thường đẻ vào ban đêm, thời gian đẻ trung bình từ 2 - 6 giờ. Nếu sức khoẻ của lợn mẹ và các thai bình thường thì không cần can thiệp nhiều trong khi lợn đẻ. Một số chỉ tiêu đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái - Số con sơ sinh còn sống đến 24h/ lứa đẻ Lợn con mới sinh có thể chia thành 3 dạng dưới đây: Loại thai non: Là loại thai phát triển không hoàn toàn, chết trong thời gian có chửa và trước khi sinh ra.
  15. 9 Loại thai gỗ: Là loại thai chết trong tử cung lợn mẹ lúc 25 - 90 ngày tuổi. Dịch thai và tất cả các dịch trong tế bào tổ chức bào thai được cơ thể mẹ hấp thụ qua niêm mạc tử cung, các tổ chức khác của thai rắn lại, thể tích co nhỏ thành cục màu nâu đen, cứng. Loại đẻ ra còn sống: Trong vòng 24 giờ sau khi sinh, những lợn con không đạt khối lượng sơ sinh trung bình của giống, không phát dục hoàn toàn, dị dạng thì sẽ bị loại thải. Ngoài ra, một số lợn con mới sinh chưa nhanh nhẹn dễ bị lợn mẹ đè chết. Số con chết lúc sơ sinh, số thai non, số thai gỗ là nguyên nhân làm giảm số lượng lợn con sơ sinh sống đến 24 giờ/lứa. - Số con cai sữa/nái/năm Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [16], hiệu quả chăn nuôi lợn nái sinh sản được đánh giá bằng số lợn con cai sữa/nái/năm. Các nhà nghiên cứu tập trung vào vấn đề lợn con chết từ sơ sinh đến cai sữa đã thống kê khoảng 3 – 5% số lợn con chết khi sơ sinh, bao gồm: Lợn chết do lợn mẹ đẻ khó và lợn con chết trong giai đoạn chửa kỳ cuối. Các nguyên nhân chủ yếu lợn con chết trong giai đoạn từ sơ sinh đến cai sữa là bị lợn mẹ đè và không bú được chiếm 50%, nhiễm khuẩn 11,1%, dinh dưỡng kém 8%, di truyền 4,5%, các nguyên nhân khác 26,4%. Do đó, cùng với việc cải tạo điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, tích cực kiểm tra thành tích sinh sản của lợn nái thì khả năng truyền giống của lợn đực rất cần thiết, có ý nghĩa trong công tác giống và thực tiễn sản xuất. 2.2.2. Quy trình chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái sinh sản giai đoạn chửa, đẻ, nuôi con 2.2.2.1. Chế độ dinh dưỡng Yếu tố quan trọng đối với lợn nái mang thai và nuôi con là phải cung cấp đầy đủ số lượng và chất lượng dinh dưỡng cần thiết để có hiệu quả sinh sản cao. Chế độ dinh dưỡng bao gồm: Dinh dưỡng năng lượng, dinh dưỡng protein, ảnh hưởng của khoáng chất, nguyên tố đa vi lượng và ảnh hưởng của vitamin. - Nhu cầu năng lượng Năng lượng không thể thiếu được cho cơ thể mẹ duy trì nuôi thai, tiết sữa, nuôi con. Nhu cầu năng lượng khác nhau tùy thuộc từng giai đoạn. Cần phải đủ nhu
  16. 10 cầu về năng lượng cho lợn nái, tránh cung cấp thừa gây lãng phí thức ăn, giảm giá thành sản phẩm. Nếu thiếu sẽ ảnh hưởng đến sinh lý bình thường của con vật. Năng lượng được cung cấp dưới hai dạng: Gluxit chiếm 70 – 80%, lipid 10 – 13% tổng số năng lượng cung cấp. - Ảnh hưởng của khoáng chất Trong cơ thể lợn khoáng chất chứa 3% trong đó có tới 75% là canxi và photpho, xấp xỉ 25% là natri và kali, cũng có một lượng nhỏ magie, sắt, kẽm, đồng, các nguyên tố khác ở dạng dấu vết. Ví dụ canxi làm ngăn trở việc hấp thu kẽm gây hiện tượng rối loạn ở da, gây sừng hóa. - Ảnh hưởng của vitamin Vitamin cần cho sự chuyển hóa bình thường của mô bào, cho sức khỏe, sinh trưởng và duy trì. Một số vitamin lợn có thể tự tổng hợp để đáp ứng nhu cầu như vitamin B12 và một số loại vitamin lợn hay thiếu cần phải bổ sung (A, D, E). Nếu bổ sung không đúng, thừa hoặc thiếu đều không tốt đối với cơ thể lợn. + Thiếu vitamin A: Lợn nái mang thai dễ xảy thai, đẻ non. + Thiếu vitamin D: Thai kém phát triển, lợn nái dễ bị liệt chân trước và sau khi đẻ. + Thiếu vitamin E: Lợn nái có hiện tượng chết phôi, chết thai, không động dục hoặc chậm động dục. Đặc biệt lợn nái mang thai nếu thiếu vitamin sẽ ảnh hưởng tới khả năng sinh sản. Do vậy dinh dưỡng đầy đủ, khẩu phần ăn hợp lý, đáp ứng được nhu cầu sinh trưởng, phát dục trước và sau khi đẻ, nuôi con, là một trong những biện pháp hữu hiệu để nâng cao năng suất sinh sản, hiệu quả chăn nuôi. - Nhu cầu về protein Protein là thành phần quan trọng trong khẩu phần thức ăn cung cấp cho lợn, là thành phần không thể thay thế được cần thiết trước tiên cho mọi hoạt động trao đổi chất trong cơ thể và tham gia cấu tạo nên các mô của cơ thể. Do protein tham gia vào cấu tạo hoạt động trao đổi chất nên hàng ngày luôn có một lượng nhất định protein mất đi. Trong quá trình đồng hóa và dị hóa của cơ thể thì hàng ngày luôn có
  17. 11 các tế bào sinh trưởng, phát triển, phân chia và các tế bào già cỗi được loại thải ra ngoài. Do đó protein được cung cấp để bù đắp lại phần mất đi và một phần khác xây dựng lên các tế bào mới, tạo sản phẩm chăn nuôi. Tuy nhiên việc cung cấp protein phải đảm bảo đủ về số lượng và cân đối về các thành phần axit amin không thay thế: Lyzine, methionine, histidin, cystein, tryptophan, hay chính xác hơn nhu cầu về protein của lợn chính là nhu cầu về axit amin. Ngoài ra thức ăn phải có giá trị sinh học cao, dễ tiêu hóa, dễ hấp thu. Để đáp ứng tốt các nhu cầu trên cần cho lợn ăn bằng nhiều loại thức ăn. 2.2.1.2. Chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái chửa - Dinh dưỡng lợn nái có chửa Nguyên tắc nuôi lợn nái có chửa: Cho ăn đúng khẩu phần, đảm bảo chất dinh dưỡng, đặc biệt chú ý cho ăn đủ vitamin và khoáng chất. Thiếu khoáng, bộ xương lợn con phát triển kém, lợn nái chửa có nguy cơ bại liệt. Thiếu vitamin, lợn con phát triển chậm, sức sống kém. Không cho ăn quá nhiều tinh bột để chống béo, khó đẻ. + Nhu cầu dinh dưỡng của lợn chửa: Đạm thô 13%, năng lượng trao đổi 2900 kcal/kg thức ăn. + Mức ăn cho lợn nái có chửa (kg thức ăn đã phối trộn/con/ngày). Giai đoạn chửa kì I: Cho ăn thức ăn C18A Với nái hậu bị: 1,6 – 1,8 kg/con/ngày, cho ăn ngày 1 lần Với nái dạ: 2 – 2,2 kg/con/ngày, cho ăn ngày 1 lần Giai đoạn chửa kì II: Từ 85 - 100 ngày cho ăn thức ăn C18A, từ 100 - 114 ngày cho ăn thức ăn C18B. Với nái hậu bị: 2,5 kg/con/ngày, cho ăn ngày 2 lần Với nái dạ: 3 kg/con/ngày, cho ăn ngày 2 lần + Mức ăn cho nái chửa còn tùy thuộc vào thể trạng của nái: Nái quá gầy phải cho ăn thêm thức ăn tinh, nái quá béo phải giảm thức ăn tinh. + Vào mùa đông những ngày nhiệt độ dưới 15oC, lợn nái cần cho ăn thêm 0,2 - 0,3 kg/con/ngày để bù phần năng lượng mất đi do chống rét.
  18. 12 + Không được cho lợn nái chửa ăn thức ăn ẩm, mốc, khô dầu bông, lá đu đủ do dễ gây sảy thai. + Cho lợn uống nước tự do. - Chăm sóc lợn nái chửa + Cho lợn yên tĩnh tuần đầu tiên sau khi phối giống. + Kiểm tra theo dõi lợn có chửa vào ngày thứ 21 và ngày thứ 42 sau khi phối xem có động dục trở lại không. + Tắm: 1 lần/ngày vào những ngày nắng nóng. + Vệ sinh xoa bóp bầu vú trước dự kiến đẻ 10 - 15 ngày để kích thích sữa ra nhiều khi lợn sinh con. Nếu vú bị xây sát hoặc nứt nẻ cần bôi vazolin và kháng sinh chống nhiễm trùng. + Vệ sinh chuồng trại hàng ngày, giữ cho lợn sạch sẽ, ấm áp mùa Đông, thoáng mát mùa Hè. Phun thuốc tiêu độc khử trùng 1 lần 1 tuần. + Không nên tiêm phòng, tẩy giun sán, tắm ghẻ vào tháng chửa đầu và trước đẻ 15 ngày vì do tác động thuốc tẩy làm tăng cơ trơn tử cung rất dễ sảy thai và đẻ non. + Cần ghi chép ngày phối giống để tính toán ngày đẻ và có kế hoạch trực lợn đẻ. 2.2.1.3.Chăm sóc lợn nái đẻ Mục đích chăn nuôi lợn nái đẻ nhằm đảm bảo cho lợn đẻ an toàn, lợn con có tỷ lệ sống cao, lợn mẹ có sức khỏe tốt, đủ khả năng tiết sữa nuôi con, nâng cao chất lượng đàn con. - Quy trình dinh dưỡng Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [16]: Thức ăn dùng cho lợn nái đẻ phải là những thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao, dễ tiêu hóa. Không cho lợn nái ăn thức ăn có hệ số choáng cao gây chèn ép thai sinh ra đẻ non, đẻ khó, hoặc ép thai chết ngạt. Một tuần trước khi lợn đẻ phải căn cứ vào tình trạng sức khỏe cụ thể của lợn nái để có kế hoạch giảm dần lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe tốt thì một tuần trước khi đẻ giảm 1/3 lượng thức ăn, đẻ trước 2 – 3 ngày giảm 1/2 lượng thức
  19. 13 ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe yếu thì không giảm lượng thức ăn mà giảm dung tích của thức ăn bằng cách tăng cường cho ăn các loại thức ăn dễ tiêu hóa. Những ngày lợn đẻ phải căn cứ vào thể trạng của lợn nái, sự phát dục của bầu vú mà quyết định chế độ dinh dưỡng cho hợp lý. Ngày lợn nái cắn ổ đẻ, cho lợn nái ăn ít thức ăn tinh (0,5 kg) hoặc không cho thức ăn tinh nhưng uống nước tự do. Ngày lợn nái đẻ có thể không cho lợn nái ăn mà chỉ có uống nước ấm có pha muối hoặc ăn cháo loãng. Sau khi đẻ 2 - 3 ngày không cho lợn nái ăn nhiều một cách đột ngột mà tăng từ từ đến ngày thứ 4 - 5 thì cho ăn đủ tiêu chuẩn. Thức ăn cần chế biến tốt, dung tích nhỏ, có mùi vị thơm ngon để kích thích tính thèm ăn cho lợn nái. - Quy trình chăm sóc Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [16]: Việc chăm sóc lợn nái mẹ có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và sức khỏe của cả lợn mẹ và lợn con. Cần phải theo dõi thường xuyên sức khỏe lợn mẹ, quan sát bầu vú, thân nhiệt lợn mẹ liên tục trong 3 ngày đầu sau khi đẻ để phát hiện các trường hợp bất thường để có biện pháp xử lý kịp thời. Trước khi lợn đẻ 10 – 15 ngày cần chuẩn bị đầy đủ chuồng nái đẻ. Tẩy rửa vệ sinh, khử trùng toàn bộ ô chuồng, nền chuồng, sàn chuồng dùng cho lợn con và lợn mẹ. Yêu cầu chuồng phải khô ráo, ấm áp, sạch sẽ, có đầy đủ ánh sáng. Sau khi vệ sinh tiêu độc nên để trống chuồng từ 3 – 5 ngày trước khi lợn nái vào đẻ. Trước khi đẻ 1 tuần, cần vệ sinh và tắm cho lợn nái sạch sẽ, lợn nái được lau rửa sạch sẽ đất hoặc phân bám dính trên người, dùng khăn thấm nước xà phòng lau sạch bầu vú và âm hộ. Làm như vậy tránh được nguy cơ lợn con mới sinh bị nhiễm khuẩn do tiếp xúc trực tiếp với lợn mẹ có vi khuẩn gây bệnh. Sau khi vệ sinh sạch sẽ cho lợn nái, chúng ta chuyển nhẹ nhàng từ chuồng bầu sang chuồng nái đẻ để lợn quen dần với chuồng mới. Trong quá trình chăm sóc lợn nái đẻ, công việc cần thiết và rất quan trọng đó là việc chuẩn bị ô úm lợn cho lợn con. Ô úm rất quan trọng đối với lợn con, nó có tác dụng phòng ngừa lợn mẹ đè chết lợn con, đặc biệt những ngày đầu mới sinh lợn con còn yếu ớt, mà lợn mẹ mới đẻ xong sức khỏe còn rất yếu chưa hồi phục. Ô úm tạo điều kiện để khống chế nhiệt độ thích hợp cho lợn con, đặc biệt là lợn con đẻ
  20. 14 vào những tháng mùa Đông. Ngoài ra, ô úm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập ăn sớm cho lợn con (để máng ăn vào ô úm cho lợn con lúc 7 – 10 ngày tuổi) mà không bị lợn mẹ húc đẩy và ăn thức ăn của lợn con. Vào ngày dự kiến đẻ của lợn nái, cần chuẩn bị xong ô úm cho lợn con. Kích thước ô úm: 1,2 x 1,5 m. Ô úm được cọ rửa sạch, phun khử trùng và để trống từ 3 – 5 ngày trước khi đón lợn con sơ sinh. - Những hiểu biết về sinh lý đẻ Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [7], gia súc cái mang thai trong một thời gian nhất định tùy từng loài gia súc, khi bào thai phát triển đầy đủ, dưới tác động của cơ chế thần kinh - thể dịch, con mẹ sẽ xuất hiện những cơn rặn để đẩy bào thai, nhau thai và các sản phẩm trung gian ra ngoài. Đẻ là quá trình đưa thai đã phát triển thành thục theo đường sinh dục của mẹ ra ngoài. Nếu không đủ hai điều kiện trên tức là đẻ không bình thường. Trước khi đẻ, cơ thể mẹ có nhiều thay đổi quan trọng có liên quan tới việc đẩy thai ra ngoài như: Dây chằng xương chậu giãn, gia tăng chiều dài từ 25 - 30% so với bình thường (người ta gọi là hiện tượng sụt mông), nút cổ tử cung loãng ra. Trước khi đẻ từ 12 - 48 giờ thân nhiệt hơi hạ xuống. Cổ tử cung mở, sữa bắt đầu tiết. Ở lợn, sữa đầu là một trong những chỉ tiêu quan trọng để xác định gia súc đẻ: + Trước khi đẻ 3 ngày, hàng vú giữa vắt ra nước trong. + Trước khi đẻ 1 ngày, hàng vú giữa vắt được sữa đầu. + Trước khi đẻ 1/2 ngày, hàng vú trước vắt được sữa đầu. + Trước khi đẻ 2 - 3 giờ, hàng vú sau vắt được sữa đầu. Đẻ là một quá trình sinh lý phức tạp chịu sự điều hòa của cơ chế thần kinh - thể dịch. Khi lợn đẻ toàn thân co bóp, lúc này áp lực bên trong tăng cao đẩy thai ra ngoài. Lợn là một loài đa thai nên đẻ từng con một, cách khoảng 10 - 20 phút đẻ 1 con. Thời gian đẻ của lợn trung bình kéo dài từ 1 - 6 giờ, nếu quá 6 giờ mà thai chưa ra thì cần xem xét để có biện pháp can thiệp ngay. Theo dõi thường xuyên sức
  21. 15 khỏe của lợn mẹ, quan sát bầu vú, thân nhiệt lợn mẹ liên tục trong 3 ngày sau khi đẻ nhằm phát hiện sát nhau, sốt sữa hoặc nhiễm trùng để có biện pháp xử lý kịp thời. 2.2.1.4. Chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái nuôi con Mục đích của chăn nuôi lợn nái nuôi con là áp dụng các biện pháp khoa học để tăng sản lượng sữa mẹ, đảm bảo cho lợn mẹ có sức khỏe tốt. Lợn con sinh trưởng phát triển nhanh, đạt số con sau cai sữa và khối lượng cai sữa cao. Lợn nái nhanh được phối giống trở lại sau khi tách con. - Quy trình nuôi dưỡng Lượng thức ăn cho lợn nái nuôi con cũng đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng và khả năng điều tiết sữa của lợn mẹ, chính vì vậy ta cần phải có một khẩu phần ăn hợp lý và đầy đủ chất dinh dưỡng cho lợn mẹ. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [16], trong quá trình nuôi con, lợn nái được cho ăn như sau: Đối với lợn nái ngoại + Ngày cắn ổ đẻ: Cho lợn nái ăn ít thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (0,5 kg) hoặc không cho ăn, nhưng cho uống nước tự do. + Sau ngày đẻ thứ 1, 2 và 3 cho ăn thức ăn hỗn hợp với lượng thức ăn từ 1 - 2 - 3 kg tương ứng. + Ngày nuôi con thứ 4 đến ngày thứ 7: Cho ăn 4 kg thức ăn hỗn hợp/nái/ngày. + Từ ngày thứ 8 đến cai sữa cho ăn theo công thức Lượng thức ăn/nái/ngày = 2 kg + (số con x 0,35 kg/con). + Số bữa ăn trên ngày: 2 (sáng và chiều). + Nếu lợn mẹ gầy thì cho ăn thêm 0,5 kg, lợn mẹ béo thì giảm 0,5 kg thức ăn/ngày. + Ngoài ra cho lợn nái ăn từ 1 – 2 kg rau xanh/ngày sau bữa ăn tinh (nếu có rau xanh).
  22. 16 + Một ngày trước cai sữa lượng thức ăn của lợn mẹ giảm 20 – 30%. + Ngày cai sữa cho lợn mẹ nhịn ăn, hạn chế uống nước. - Quy trình chăm sóc Vận động tắm nắng là điều kiện tốt giúp cho lợn nái nhanh phục hồi sức khỏe và nâng cao sản lượng sữa của lợn mẹ. Do vậy sau khi đẻ được từ 3 – 7 ngày, trong điều kiện có sân vận động, nếu thời tiết tốt thì có thể cho lợn nái vận động, thời gian vận động lúc đầu là 30 phút/ngày, sau tăng dần số giờ vận động lên. Trong chăn nuôi công nghiệp, hầu hết lợn nái nuôi con bị nhốt trong các cũi đẻ, không được vận động, vì vậy cần phải chú ý đến thành phần dinh dưỡng của thức ăn, đặc biệt các chất khoáng và vitamin. Ngoài ra yêu cầu đối với chuồng trại của lợn nái nuôi con là phải đảm bảo luôn khô ráo, sạch sẽ, không ẩm ướt, vì vậy hàng ngày phải vệ sinh chuồng trại, máng ăn, máng uống sạch sẽ. Chuồng lợn nái nuôi con phải có ô úm lợn con và máng tập ăn sớm cho lợn con. Nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp là 18 – 20oC, độ ẩm 70 – 75%. 2.2.3. Những hiểu biết về phòng và trị bệnh trong chăn nuôi 2.2.3.1. Hiểu biết về phòng bệnh Việc “Phòng bệnh hơn chữa bệnh” nên khâu phòng bệnh được đặt lên hàng đầu, nếu phòng bệnh tốt thì có thể hạn chế hoặc ngăn chặn được bệnh xảy ra. Các biện pháp phòng bệnh tổng hợp được đưa lên hàng đầu, xoay quanh các yếu tố môi trường, mầm bệnh, vật chủ. Do vậy, việc phòng bệnh cũng như trị bệnh phải kết hợp nhiều biện pháp khác nhau. - Phòng bệnh bằng vệ sinh và chăm sóc nuôi dưỡng tốt: Có rất nhiều biện pháp đã được đưa ra áp dụng nhằm kiểm soát các khả năng xảy ra bệnh tật trên đàn lợn. Phần lớn các biện pháp này đều nhằm làm giảm khả năng lan truyền các tác nhân gây bệnh và nâng cao sức đề kháng của đàn lợn. Theo Lê Văn Tạo và cs, (1993) [17], vi khuẩn E. coli gây bệnh ở lợn là vi khuẩn tồn tại trong môi trường, đường tiêu hóa của vật chủ. Khi môi trường quá ô
  23. 17 nhiễm do vệ sinh chuồng trại kém, nước uống thức ăn bị nhiễm vi khuẩn, điều kiện ngoại cảnh thay đổi, lợn giảm sức đề kháng dễ bị cảm nhiễm E. coli, bệnh sẽ nổ ra vì vậy mà khâu vệ sinh, chăm sóc có một ý nghĩa lớn trong phòng bệnh. Trong chăn nuôi việc đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật là điều rất cần thiết, chăm sóc nuôi dưỡng tốt sẽ tạo ra những gia súc khỏe mạnh, có khả năng chống đỡ bệnh tật tốt và ngược lại. Ô chuồng lợn nái cần phải được vệ sinh tiêu độc trước khi vào đẻ. Nhiệt độ trong chuồng phải đảm bảo 27 – 30oC đối với lợn sơ sinh và 28 – 30oC với lợn cai sữa. Chuồng phải luôn khô ráo, không ẩm ướt. Nên dùng các thiết bị sưởi điện hoặc đèn hồng ngoại trong những ngày thời tiết lạnh để phòng bệnh cho lợn con phân trắng mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Theo Trần Văn Phùng và cs 2004 [16], từ 3 - 5 ngày trước dự kiến đẻ, ô chuồng lợn nái đã được cọ rửa sạch, phun khử trùng bằng hóa chất như Crezin 5% hoặc bằng loại hóa chất khác nhằm tiêu độc khử trùng chuồng lợn nái trước khi đẻ. - Vệ sinh chuồng trại và thiết bị chăn nuôi Chuồng trại phải đảm bảo phù hợp với từng đối tượng vật nuôi, thoáng mát mùa Hè, ấm áp mùa Đông, đảm bảo cách ly với môi trường xung quanh. Tẩy uế chuồng trại sau mỗi lứa nuôi bằng phương pháp: Rửa sạch, để khô sau đó phun sát trùng bằng các loại thuốc sát trùng và để trống chuồng ít nhất 15 ngày với vật nuôi thương phẩm, 30 ngày đối với vật nuôi sinh sản. Với những chuồng nuôi lưu cữu hoặc chuồng nuôi có vật nuôi bị bệnh truyền nhiễm, cần phải vệ sinh tổng thể và triệt để: Sau khi đưa hết vật nuôi ra khỏi chuồng, xử lý theo hướng dẫn của cán bộ Thú y, cần phun sát trùng kỹ (pha dung dịch sát trùng và phun theo hướng dẫn khi chống dịch) toàn bộ chuồng nuôi từ mái, các dụng cụ và môi trường xung quanh, để khô và dọn, rửa. Các chất thải rắn trong chăn nuôi cần thu gom để đốt hoặc ủ sinh học; chất thải lỏng, nước rửa chuồng cần thu gom để xử lý, không thải trực tiếp ra môi trường. Cần phun sát trùng 1-2 lần/tuần trong suốt thời gian trống chuồng, ít nhất trong 30 ngày. Các thiết bị, dụng cụ chăn nuôi cần rửa sạch, phơi khô, sát trùng và đưa vào kho bảo quản. Vệ sinh và phun sát trùng xung quanh chuồng nuôi.
  24. 18 - Phòng bệnh bằng vắc xin: Phòng bệnh bằng vắc xin là biện pháp phòng bệnh chủ động có hiệu quả nhất. Vắc xin là một chế phẩm sinh học mà trong đó chứa chính mầm bệnh cần phòng cho một bệnh truyền nhiễm nào đó (mầm bệnh này có thể là vi khuẩn, virus, độc tố hay vật liệu di truyền như RNA, DNA ) đã được làm giảm độc lực hay vô độc bằng các tác nhân vật lý, hóa học, sinh học hay phương pháp sinh học phân tử (vắc xin thế hệ mới - vắc xin công nghệ gen). Lúc đó chúng không còn khả năng gây bệnh cho đối tượng sử dụng, nhưng khi đưa vào cơ thể động vật nó sẽ gây ra đáp ứng miễn dịch làm cho động vật có miễn dịch chống lại sự xâm nhiễm gây bệnh của mầm bệnh tương ứng. Khi đưa vắc xin vào cơ thể vật nuôi, chưa có kháng thể chống bệnh ngay mà phải sau 7 - 21 ngày (tuỳ theo từng loại vắc xin) mới có miễn dịch. 2.2.3.2. Hiểu biết về điều trị bệnh Nguyên tắc để điều trị bệnh là: + Toàn diện: Phải phối hợp nhiều biện pháp như hộ lý, dinh dưỡng, dùng thuốc. + Điều trị sớm trên cơ sở chẩn đoán đúng bệnh để dễ lành bệnh và hạn chế lây lan. + Diệt căn bệnh là chủ yếu kết hợp chữa triệu chứng. + Tiêu diệt mầm bệnh phải đi đôi với tăng cường sức đề kháng của cơ thể, làm cho cơ thể tự nó chống lại mầm bệnh thì bệnh mới chóng khỏi, ít bị tái phát và biến chứng, miễn dịch mới lâu bền. + Phải có quan điểm khi chữa bệnh, chỉ nên chữa những gia súc có thể chữa lành mà không giảm sức kéo và sản phẩm. Nếu chữa kéo dài, tốn kém vượt quá giá trị gia súc thì không nên chữa. + Những bệnh rất nguy hiểm cho người mà không có thuốc chữa thì không nên chữa. Các biện pháp chữa bệnh truyền nhiễm là: + Hộ lý: Cho gia súc ốm nghỉ ngơi, nhốt riêng ở chuồng có điều kiện vệ sinh tốt (thoáng mát, sạch sẽ, yên tĩnh). Theo dõi thân nhiệt, nhịp tim, hô hấp, phân,
  25. 19 nước tiểu. Phát hiện sớm những biến chuyển của bệnh để kịp thời đối phó. Cho gia súc ăn uống thức ăn tốt và thích hợp với tính chất của bệnh. + Dùng kháng huyết thanh: Chủ yếu dùng chữa bệnh đặc hiệu vì vậy thường được dùng trong ổ dịch, chữa cho gia súc đã mắc bệnh. Chữa bệnh bằng kháng huyết thanh là đưa vào cơ thể những kháng thể chuẩn bị sẵn, có tác dụng trung hòa mầm bệnh hoặc độc tố của chúng (huyết thanh kháng độc tố). + Dùng hóa dược: Phần lớn hóa dược được dùng để chữa triệu chứng, một số hóa dược dùng chữa nguyên nhân vì có tác dụng đặc hiệu đến mầm bệnh. Dùng hóa dược chữa bệnh phải tác động mạnh và sớm, vì nhiều loài vi khuẩn có thể thích ứng với liều lượng nhỏ. Chúng có thể chống lại thuốc và tính chất quen thuộc được truyền cho những thế hệ sau. Khi cần, có thể phối hợp nhiều loại hóa dược để tăng hiệu quả điều trị, vì nếu một loại thuốc chưa có tác dụng đến mầm bệnh thì có loại thuốc khác tác dụng tốt hơn. + Dùng kháng sinh: Kháng sinh là những thuốc đặc hiệu có tác dụng ngăn cản sự sinh sản của vi khuẩn hoặc tiêu diệt vi khuẩn. Tuy nhiên sử dụng kháng sinh có thể gây nhiều tai biến do thuốc có tính độc, do phản ứng dị ứng, do một lúc tiêu diệt nhiều vi khuẩn làm giải phóng một lượng lớn độc tố, làm giảm phản ứng miễn dịch của cơ thể. Việc dùng kháng sinh không rõ nguyên nhân còn gây nên hiện tượng kháng thuốc, làm giảm thấp tác dụng chữa bệnh của kháng sinh. Vì vậy, khi dùng thuốc cần theo những nguyên tắc sau đây: - Phải chẩn đoán đúng bệnh để dùng đúng thuốc, dùng sai thuốc sẽ chữa không khỏi bệnh mà làm cho việc chẩn đoán bệnh về sau gặp khó khăn. - Chọn loại kháng sinh có tác dụng tốt nhất đối với mầm bệnh đã xác định. Dùng liều cao ngay từ đầu, những lần sau có thể giảm liều lượng. - Không nên vội vàng thay đổi kháng sinh mà phải chờ một thời gian để phát huy tác dụng của kháng sinh. - Phải dùng phối hợp nhiều loại kháng sinh để làm giảm liều lượng và độc tính của từng loại, làm diện tác động đến vi khuẩn rộng hơn, tăng tác dụng điều trị và hạn chế hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc.
  26. 20 - Phải tăng cường sức đề kháng của cơ thể gia súc như nuôi dưỡng tốt, dùng thêm vitamin, tiêm nước sinh lý 2.2.4. Những hiểu biết về một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái đẻ và nuôi con 2.2.4.1. Bệnh viêm tử cung Theo Nguyễn Văn Thanh và cs (2016) [20] viêm tử cung là một hội chứng thường xuất hiện trên lợn nái sau khi đẻ. Lợn nái viêm tử cung sẽ bị tổn thương lớp niêm mạc. Từ đó gây ảnh hưởng sự tiết Prostagladin F2 và làm rối loạn chu kỳ động dục làm tăng tình trạng chậm sinh và vô sinh. * Nguyên nhân Theo Nguyễn Xuân Bình (2000) [3] bệnh viêm tử cung xảy ra ở những thời gian khác nhau nhưng bệnh xảy ra nhiều nhất vào thời gian sau khi đẻ 1 - 10 ngày. Theo Bilkei (1994) [1], viêm tử cung thường sảy ra trong lúc sinh do nhiễm vi khuẩn E. coli gây dung huyết và các vi khuẩn gram dương. Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [8], bệnh viêm tử cung do vi khuẩn Streptococcus và Colibacilus nhiễm qua cuống rốn của lợn con sang lợn mẹ do đẻ khó, sát nhau, sảy thai hay qua dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng gây xây sát tạo các ổ viêm nhiễm trong tử cung, âm đạo. * Triệu chứng Theo Nguyễn Văn Thanh (2007) [19] khi lợn nái bị viêm, các chỉ tiêu lâm sàng như: thân nhiệt, tần số hô hấp đều tăng. Lợn bị sốt theo quy luật: sáng sốt nhẹ 39 - 39,50C, chiều 40 - 410C. Con vật ăn kém, sản lượng sữa giảm, đôi khi con vật cong lưng rặn. Từ cơ quan sinh dục chảy ra hỗn dịch lẫn nhiều mạch tổ chức, mùi hôi tanh, có màu trắng đục, hồng hay nâu đỏ. Khi nằm lượng dịch chảy ra nhiều hơn. Theo Nguyễn Văn Thanh (2004) [18], tuỳ vào vị trí tác động của quá trình viêm đối với tử cung của lợn nái, người ta chia thành ba thể viêm: viêm nội mạc tử cung, viêm cơ tử cung, viêm tương mạc tử cung. * Hậu quả
  27. 21 Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [7]; Trần Thị Dân (2004) [5], khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau: - Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn đến sảy thai. Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của Progesterone, nhờ vậy phôi có thể bám chặt vào tử cung. Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung tiết nhiều Prostaglandin F2α (PGF2α), PGF2α gây phân huỷ thể vàng ở buồng trứng bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch hoặc thoái hoá các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi đến thể vàng. Thể vàng bị phá huỷ, không tiết Progesterone nữa, do đó hàm lượng Progesterone trong máu sẽ giảm làm cho tính trương lực co của cơ tử cung tăng nên gia súc cái có chửa dễ bị sảy thai. - Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết lưu. - Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn nên lợn con trong giai đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy. Theo Trần Thị Dân (2004) [5], lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại. - Theo Madec và Neva (1995) [11], hiện tượng viêm đường sinh dục âm ỉ kéo dài đặc biệt là viêm tử cung từ lứa đẻ trước đến lần động dục tiếp theo có thể giải thích nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ, từ đó làm giảm năng suất sinh sản. Ông cũng cho biết khi tiến hành nghiên cứu trên đàn lợn nái ở xứ Brơ - ta - nhơ (Pháp) năm 1991 thì phát hiện thấy 15% số lợn nái bị viêm tử cung. - Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi sinh đẻ. Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Mặt khác, viêm tử cung là một trong các nguyên nhân dẫn đến hội chứng MMA (viêm tử cung, viêm vú và mất sữa), từ đó làm cho tỷ lệ lợn con nuôi sống thấp. Đặc biệt, nếu viêm tử cung kèm theo viêm bàng quang thì còn ảnh hưởng tới hoạt động của buồng trứng. * Biện pháp phòng trị - Phòng bệnh
  28. 22 Theo Nguyễn Tài Năng và cs (2016) [14], vệ sinh chuồng trại sạch sẽ một tuần trước khi lợn đẻ, rắc vôi bột hoặc nước vôi 20% sau đó rửa sạch bằng nước sạch, tắm cho lợn trước khi đẻ, vệ sinh sạch sẽ bộ phận sinh dục và bầu vú. Theo Lê Văn Năm (2009) [13], trong khi đỡ đẻ bằng tay phải sát trùng kĩ bằng cồn, xoa trơn tay bằng Vaselin hoặc dầu thực vật. Cho lợn nái chửa thường xuyên vận động, đảm bảo ăn uống đầy đủ, vệ sinh sạch sẽ. Kiểm tra nghiêm ngặt dụng cụ dẫn tinh đúng quy định và không để nhiễm khuẩn. Không sử dụng lợn đực bị viêm đường sinh dục để nhảy trực tiếp hoặc lấy tinh. Phòng bệnh truyền nhiễm Leptosprirosis, Brucellosis . bằng cách dùng vắc xin đúng quy định, đúng thời gian cho đàn lợn sinh sản tránh những trường hợp bị sốt đột ngột gây sẩy thai. Theo Lê Văn Thọ (2017) [24], lợn nái vừa sinh xong tiêm một liều Bio- amox. LA để phòng nhiễm trùng. - Điều trị + Điều trị cục bộ bơm rửa tử cung ngày 1 - 2 lần, mỗi lần 2 - 4 lít nước đun sôi để nguội pha thuốc tím 0,1% hay nước muối sinh lý 0,9%, sau đó bơm hoặc đặt kháng sinh như: penicillin 2 - 3 triệu UI; tetramycine hay sulfanilamid 2 - 5g hoặc Clorazol 4-6 viên vào tử cung để chống viêm. + Điều trị toàn thân tiêm thuốc hạ sốt Analgin 2 - 3 ống/ngày Tiêm kháng sinh Phác đồ 1: Dùng Merriquin tiêm bắp liều 10 - 15 mg/kg TT, liên tục 3 - 4 ngày. Kết hợp tiêm Oxytocin 2ml/con, liên tục 3 - 4 ngày. Phác đồ 2: Dùng RTD-Dipen-strep-LA: Tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch 1 ml/5 - 10 kg TT/ngày, kết hợp tiêm Oxytocin 2m/con liên tục 3 - 4 ngày. Tiêm thuốc giảm viêm: Hydrocortizone, Dectancyl, Prednizolone Tiêm thuốc trợ sức: Vitamin B1, C, B12. Lưu ý khi pha thuốc tiêm Vitamin C không dùng chung với kháng sinh penicillin, sulfamid và vitamin B12 Tiêm thuốc tạo sữa: Thyroxine ngày 1 - 2 ống, liên tiếp 2 - 3 ngày, chỉ dùng khi nhiệt độ cơ thể đã hạ xuống bình thường. 2.2.4.2. Bệnh viêm vú
  29. 23 * Nguyên nhân Trầy xước vú do sàn, nền chuồng nhám, vi trùng xâm nhập qua lỗ đầu vú. Hai loài vi trùng chính gây bệnh là Staphylococcus aureus và Streptococcus agalactiae. Ngoài ra còn các nguyên nhân gây viêm như số con quá ít không bú hết lượng sữa sản xuất, kế phát từ viêm tử cung nặng hoặc do kỹ thuật cạn sữa không hợp lý trong trường hợp cai sữa sớm. Do vệ sinh không đảm bảo, chuồng trại quá nóng hoặc quá lạnh. Do lợn mẹ sát nhau, lợn con khi sinh ra không được bấm răng nanh ngay. Lợn mẹ ăn quá nhiều thức ăn có hàm lượng dinh dưỡng cao làm sữa tiết ra quá nhiều ứ đọng lại trong vú tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập phát triển mạnh mẽ về số lượng và độc lực (Nguyễn Như Pho (2002) [15]). * Triệu chứng Theo Ngô Nhật Thắng (2006) [21], viêm vú thường xuất hiện ở một vài vú nhưng đôi khi cũng lan ra toàn bộ các vú. Vú có màu hồng, sưng đỏ, sờ vào thấy nóng, hơi cứng ấn vào lợn nái có phản ứng đau. Lợn nái giảm ăn, trường hợp nặng thì bỏ ăn, sốt cao 40,5 – 420C kéo dài trong suốt thời gian viêm, sản lượng sữa giảm, lợn nái thường nằm úp đầu vú xuống sàn, ít cho con bú. Lợn con thiếu sữa kêu la chạy vòng quanh lợn mẹ đòi bú, lợn con ỉa chảy, xù lông, gầy sọp, tỷ lệ chết cao 30 - 100% (Lê Hồng Mận, (2002) [12]). Vắt sữa ở những vú bị viêm thấy sữa loãng, trong sữa có những cặn hoặc cục sữa vón lại, xuất hiện những cazein màu vàng, xanh lợn cợn, đôi khi có máu. * Hậu quả Khi bị viêm vú, sản lượng sữa của lợn nái nuôi con giảm, trong sữa có nhiều chất độc, sữa không đủ đáp ứng nhu cầu của lợn con hoặc khi lợn con bú sữa sẽ dẫn đến tiêu chảy, ốm yếu, sức đề kháng giảm, dễ mắc bệnh và trọng lượng cai sữa thấp. Nếu viêm vú nặng dẫn đến huyết nhiễm trùng, huyết nhiễm mủ thì khó điều trị, lợn nái có thể chết. Viêm vú kéo dài dẫn đến teo đầu vú, vú hóa cứng, vú bị hoại tử ảnh hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái ở lứa đẻ sau.
  30. 24 * Điều trị Nếu điều trị hợp lý lợn sẽ khỏi trong vòng 3-5 ngày. Các loại kháng sinh thường dùng: Dufamox 15% LA. INJ, ampicillin, cefalexin, gentamicin, norfloxacin và có thể dùng corticoid để giảm viêm kết hợp với vitamin. Ngoài ra, trong trường hợp nái đẻ bị viêm nặng chúng ta có thể chườm cát nóng kết hợp xoa bóp bầu vú trong lúc đẻ. 2.2.4.3. Lợn nái mất sữa sau khi đẻ * Nguyên nhân Theo Nguyễn Đức Lưu và cs.(2004) [10], bệnh viêm tử cung và viêm vú là hai nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm và mất sữa ở lợn nái nuôi con. Theo Nguyễn Xuân Bình (2000) [3], mất sữa sau khi đẻ là do kế phát từ bệnh viêm tử cung và viêm vú. Do khi bị viêm cơ thể thường sốt cao liên tục 2 - 3 ngày, nước trong máu và trong mô bào bị giảm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất, nhất là quá trình hấp thu chất dinh dưỡng trong đường tiêu hóa bị giảm dần dẫn đến mất sữa, khả năng phục hồi chức năng tiết sữa sẽ bị hạn chế thường xảy ra ở lứa đẻ tiếp theo. * Triệu chứng Khi vắt các vú không thấy sữa chảy ra, vú bị teo lại, nếu viêm thì sưng cứng Lợn con kêu nhiều, gầy yếu. * Biện pháp phòng trị - Phòng bệnh Khẩu phần ăn phải đầy đủ dinh dưỡng. Sau khi đẻ nên cho ăn thức ăn nhiều nước như rau lang, rau muống, bí đao để tăng khả năng sản xuất sữa. Sau khi đẻ phải thụt rửa tử cung bằng thuốc tím 0,1 %, nước muối 0,9%. Nếu bị viêm tử cung hoặc viêm vú phải điều trị triệt để. - Điều trị: nếu do kế phát từ các bệnh thì điều trị bằng kháng sinh như: Dufamox 15% LA.INJ, oxytetracycline, amoxicillin, ceftiofur, Meriquin Đồng thời tiến hành xoa bóp chườm ấm bầu vú. Nếu mất sữa mà bầu vú bị teo lại, cần
  31. 25 nhanh chóng ghép con, tiến hành xoa bóp, chườm ấm bầu vú, tuy nhiên trường hợp này hiệu quả điều trị không cao. 2.2.4.4. Bệnh sát nhau * Nguyên nhân Theo Trịnh Đình Thâu và cs (2010) [23], sau khi đẻ tử cung co bóp yếu trong thời gian mang thai nhất là giai đoạn cuối con vật không được vận động thỏa đáng. Trong thức ăn thiếu các chất khoáng, nhất là Canxi và Phospho. Hoặc tử cung bị sa liệt, con vật quá gầy yếu hoặc quá béo, chửa quá nhiều thai, thai quá to, đẻ khó, nước ối quá nhiều làm tử cung giãn nở quá mức. Do viêm niêm mạc tử cung trước lúc đẻ làm dính nhau với tử cung hoặc nhau chưa ra hết thì người đỡ đẻ đã kéo đứt còn lại một ít sát lại trong tử cung. Do lợn con còn sót lại ở trạng thái nằm sai vị trí làm tắc đường ra của nhau. * Triệu chứng Sau khi đẻ 4 - 5 giờ không thấy nhau ra hoặc không hết là bị sát nhau Lợn nái rặn nhiều, đôi khi bỏ ăn, sốt cao liên tục 40 - 410C trong vòng 1 - 2 ngày, lợn mẹ cắn con, không cho con bú, niêm dịch chảy ra màu đục, lẫn máu. * Điều trị Can thiệp kịp thời ngay khi nái có biểu hiện bệnh, không để quá muộn sẽ gây ra viêm tử cung, can thiệp đúng kỹ thuật, không quá mạnh tay, tránh những tổn thương. Tiêm Oxytoxin để kích thích co bóp tử cung cho nhau còn sát lại đẩy ra ngoài hết. Sau khi nhau thai ra dùng nước muối sinh lý 0,9% để rửa tử cung trong ba ngày liên tục (Trịnh Đình Thâu và cs, (2010) [23]). 2.2.5. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 2.2.5.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước Từ năm 1994 nước ta có chủ trương “nạc hoá đàn lợn” ở các tỉnh phía Bắc, từ đó bắt đầu phát triển chăn nuôi lợn ngoại rộng khắp cả nước. Hai giống lợn Landrace và Yorkshire có khả năng sinh sản tốt, vì vậy được nghiên cứu chọn lọc theo định hướng năng suất sinh sản cao tạo ra con lai (Landrace × Yorkshire) và
  32. 26 (Yorkshire × Landrace). Hiện nay việc lai tạo giống đã sử dụng nhiều ở các trang trại chăn nuôi lợn. Nghiên cứu của Đinh Văn Chỉnh và cs, (1995) [4], cho biết năng suất sinh sản của lợn nái Landrace và Yorkshire nuôi tại Trung tâm Giống gia súc Hà Tây, khối lượng phối giống lần đầu của hai giống này là 99,3 kg và 102 kg, tuổi phối giống lứa đầu của hai giống này là 254,1 ngày và 282,0 ngày, tuổi đẻ lứa đầu 367,0 ngày và 396,3 ngày. Số con đẻ ra còn sống là 8,2 và 8,3 con/ổ; khối lượng sơ sinh/ổ là 9,12 kg và 10,89 kg. Kết quả nghiên cứu về năng suất sinh sản thể hiện ở thông báo Đặng Vũ Bình (1995) [2]: Ở lợn Yorkshire tuổi đẻ lứa đầu 418 ngày tuổi; số con đẻ ra còn sống 9,77 con/ổ; số con lúc 21 ngày tuổi là 8,61 con/ổ. Số con 35 ngày tuổi là 8,15 con/ổ và khối lượng lúc 35 ngày tuổi là 8,09 con. Ở lợn Landrace các chỉ tiêu tương ứng là 9,86 con/ổ, 8,68 con/ổ; 8,22 con/ổ và 8,2 kg. Cũng theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Thắng và cs.(2005) [22], thì năng suất sinh sản của lợn nái lai (Landrace × Yorkshire) phối giống với lợn đực Pietrain và Duroc có số con đẻ ra/ổ lần lượt là 10,6 con và 10,34 con, số con đẻ ra còn sống/ổ tương ứng là 10,34 con và 10,02 con, số con để nuôi/ổ tương ứng là 10,05 con và 9,63 con, số con 21 ngày tuổi/ổ 9,70 con và 9,23 con, khối lượng sơ sinh/ổ tương ứng là 15,46 kg và 14,91 kg, khối lượng cai sữa/ổ tương ứng là 69,94 kg và 67,65 kg. Tại Trung tâm Nghiên cứu lợn Thụy Phương - Viện chăn nuôi Quốc gia, Phùng Thị Vân và cs. (2001) [25], nghiên cứu về đặc điểm sinh trưởng và khả năng sinh sản của lợn nái lai (Yorkshire × Landrace) và (Landrace × Yorkshire) cho biết tuổi phối giống lần đầu là 259,00 ngày và 243,80 ngày; tuổi đẻ lứa đầu 376,20 ngày và 363,00 ngày; số con đẻ ra/ổ lần lượt là 9,44 con và 10,42 con; khối lượng lúc 21 ngày tuổi tuổi/ổ 50,70 và 49,85 kg. 2.2.5.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Trong vài thập niên trở lại đây nhiều nghiên cứu trên thế giới đã áp dụng thành công các thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào lĩnh vực chăn nuôi lợn và đã
  33. 27 đưa năng suất sinh sản của đàn lợn nái lên rất cao. Giống lợn Landrace và Yorkshire, (Landrace × Yorkshire), (Yorkshire × Landrace) được nuôi phổ biến trên thế giới. Đó là nguyên liệu để sản xuất con lai và là nguồn cung cấp giống lợn thương phẩm cho tiêu dùng. Theo Jan Gordon (1997) [28], lai giống trong chăn nuôi lợn đã có từ 50 năm trước, việc sử dụng lai 2, 3 hay 4 giống để sản xuất lợn thịt thương phẩm đã trở nên phổ biến. Theo nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy lợn lai có mức tăng khối lượng tốt và tỷ lệ nạc cao hơn so với lợn thuần. Gerasimov và cs. (1997) [27], cho công thức lai giống (Duroc x Large Black), công thức lai ba giống (Duroc x (Poltava Meat x Russian Large White) có khả năng tăng khối lượng cao và tiêu tốn thức ăn thấp so với các giống khác. Theo tài liệu tập huấn của tập đoàn CP năng suất sinh sản của lợn nái lai (Landrace × Yorkshire) và (Landrace × Yorkshire) tại Thái Lan như sau: + Thời gian từ cai sữa đến phối giống 6,02 ngày + Tỷ lệ đẻ 81,6% + Số lứa đẻ/ nái/ năm là 2,23 lứa + Tổng số con sơ sinh/ lứa là 9,36 con + Số con sơ sinh sống/ nái/ năm là 20,06 con Theo Smith B. B. và cs. (1995) [30], Taylor D. J. và cs. (1995) [31]: tăng cường vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể lợn nái là yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm trùng sau khi sinh. Khi mổ khám những lợn vô sinh đã xác định được nguyên nhân do cơ quan sinh sản là 52,5%; lợn nái đẻ lứa đầu là 32,1%; lợn nái cơ bản có những biến đổi bệnh lý là viêm vòi tử cung có mủ. Theo Urban V. P. và cs. (1983) [32]: Các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung có nguồn gốc từ nước tiểu, các tác giả đã phân lập vi khuẩn từ mẫu nước tiểu lợn nái sắp sinh thường có chứa các vi khuẩn E.coli, Staphylococcus aureus, Streptococcus spp.
  34. 28 Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 3.1. Đối tượng - Lợn nái sinh sản và lợn con tại trại 3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành - Địa điểm: trại chăn nuôi lợn của ông Nguyễn Xuân Dũng, xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội - Thời gian: Từ 18/05/2018 đến 22/11/2018. 3.3. Nội dung tiến hành - Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại chăn nuôi lợn của ông Nguyễn Xuân Dũng, xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội - Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho lợn nái và lợn con nuôi tại trại - Thực hiện công tác phòng và điều trị bệnh cho đàn lợn nái và lợn con nuôi tại trại - Thực hiện một số công tác khác tại trại 3.4. Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện 3.4.1. Các chỉ tiêu thực hiện - Tình hình chăn nuôi tại trang trại chăn nuôi ông Nguyễn Xuân Dũng, xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội - Kết quả thực hiện công việc chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái - Kết quả theo dõi tình hình sinh sản của lợn nái tại cơ sở - Kết quả thực hiện công tác vệ sinh phòng bệnh cho lợn - Kết quả thực hiện công tác chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn
  35. 29 3.4.2. Phương pháp thực hiện 3.4.2.1. Phương pháp đánh giá tình hình chăn nuôi tại trang trại Nguyễn Xuân Dũng, xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Để đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại chúng em tiến hành thu thập thông tin từ trại, kết hợp với kết quả theo dõi tình hình thực tế tại trại trong 6 tháng thực tập. 3.4.2.2. Quy trình thực hiện chăm sóc nuôi dưỡng cho đàn lơn nuôi tại cơ sở Trong thời gian thực tập tại trại em đã trực tiếp chăm sóc lợn nái chuồng đẻ và theo quy trình như sau: Quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái đẻ và nuôi con. Lợn nái chửa được chuyển từ chuồng bầu 2 lên chuồng đẻ trước ngày đẻ dự kiến 7 ngày. Lợn chuyển lên phải được gắn thẻ và ghi đầy đủ thông tin lên bảng kẹp ở đầu mỗi ô chuồng. Trong công tác chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái sinh sản thì khẩu phần ăn rất quan trọng. Khẩu phần ăn của lợn mẹ chuồng đẻ khác với chuồng bầu và được thể hiện như sau: Bảng 3.1. Chế độ ăn của lợn mẹ chuồng đẻ (kg thức ăn/con) Lợn trước khi đẻ Lợn sau khi đẻ Lứa >14 đẻ 3 ngày 2 ngày 1 ngày 1 ngày 2 ngày 3 ngày 4 ngày 5 ngày ngày 1 2 1,2 1 1 2 3 4 5 5 >2 2 1,5 1 1 2 3 4 5 Lợn mẹ ngày cai sữa cho ăn 0,5 Chăm sóc lợn nái trước khi đẻ: Trước khi lợn nái đẻ cần đảm bảo một số điều kiện sau: - Vệ sinh chuồng trại sạch sẽ
  36. 30 - Tắm sát trùng cho lợn nái - Điều chỉnh nhiệt độ trong chuồng: với chuồng chờ đẻ từ 25 – 27 0C là thích hợp nhất. Chuồng đẻ nhiệt độ thích hợp là từ 27 - 28,5 0C. Chuồng cai sữa là 31 – 32 0C Chăm sóc lợn mẹ sau khi đẻ: - Sau khi đẻ lợn mẹ sẽ được tiêm oxytocin + kháng sinh để kháng viêm đồng thời kích thích đẩy nhau thai ra ngoài và tiết sữa. - Ngoài ra lợn mẹ còn được vệ sinh âm hộ sạch sẽ, xịt cồn sát trùng 5 ngày liên tục vào buổi sáng. - Chế độ ăn của lợn mẹ sẽ được tăng dần để phục hồi cơ thể mẹ sau khi sinh và nuôi lợn con. Quy trình chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn con theo mẹ Lợn con sau sinh được uống điện giải và amoxicol liều 1 g/2kgTT kết hợp bôi cồn rốn trong 3 ngày liên tục. + Sau khi đẻ 1 ngày lợn con được tiến hành mài nanh, bấm tai, cắt đuôi đồng thời tiêm sắt và amcoli. + Ngày thứ 3 sau khi sinh lợn con được uống diacoxin 5% 1 ml/con để đặc trị cầu trùng. Nhằm nâng cao khối lượng cai sữa, giảm hao mòn lợn mẹ, tăng sức đề kháng cho lợn con, cần tập ăn sớm lúc 5 ngày tuổi. Cách tập cho lợn con ăn sớm như sau: Đầu tiên cho một ít thức ăn vào trong máng tập ăn để lợn con làm quen dần với thức ăn. Sau khi lợn con đã quen và ăn được, từ từ tăng lượng thức ăn lên. + Lợn con 4 – 5 ngày tuổi tiến hành xử lý viêm rốn, mổ hecni và thiến lợn đực con.
  37. 31 3.4.2.3. Quy trình phòng bệnh cho đàn lợn nái và lợn con tại trại Quy trình vệ sinh chuồng trại hàng ngày - Việc vệ sinh sát trùng chuồng trại có vai trò rất quan trọng trong chăn nuôi. Để góp phần nâng cao chất lượng, năng suất của đàn lợn, trại đã thực hiện lịch trình vệ sinh như sau: - Các kỹ sư, công nhân và sinh viên đều phải đi qua nhà sát trùng, đeo ủng, mặc đồ bảo hộ, đi qua hố sát trùng trước khi vào chuồng. - Khi vào chuồng phải giao ca sạch sẽ, cho lợn mẹ ăn, vệ sinh máng lợn con, chuẩn bị thức ăn cho lợn con. - Hàng ngày tiến hành gom phân, lau hoặc quét vôi sàn lợn con, rắc vôi quét lối đi lại và đường tra cám. - Định kỳ tiến hành phun thuốc sát trùng (2 lần/ngày), quét mạng nhện trong chuồng và xịt gầm. Đối với chuồng bầu: lợn cách ngày đẻ dự kiến khoảng 1 tuần sẽ được tắm chải sạch sẽ rồi được đưa sang chuồng đẻ, ô lợn rời đi sẽ được xịt rửa và phun sát trùng đợi đón lợn mẹ cai sữa. Đối với chuồng đẻ: lợn nái sau khi cai sữa sẽ được chuyển sang chuồng bầu 1. Khi lợn con được xuất bán, các tấm đan chuồng được tháo dỡ rồi ngâm ở bể sát trùng bằng dung dịch NaOH 10%, ngâm trong một ngày, cọ sạch mang phơi khô. Ô chuồng và khung chuồng cũng được cọ sạch bằng dung dịch NaOH pha với nồng độ loãng khoảng 5%. Gầm chuồng được tiêu độc khử trùng sạch sẽ. Để khô rồi tiến hành lắp các tấm đan, sau đó đuổi lợn bầu vào chờ đẻ. Chuồng nuôi được tiêu độc hàng ngày bằng nước sát trùng pha với tỉ lệ 1:1600.
  38. 32 Bảng 3.2. Lịch sát trùng chuồng trại của trại lợn Trong chuồng Ngoài Thứ Chuồng Chuồng Ngoài khu vực Chuồng nái đẻ bầu cách ly chuồng chăn nuôi Chủ Phun khử Phun khử trùng + nhật trùng rắc vôi đi đường Rắc vôi Phun khử trùng + Phun khử Phun khử Phun khử Thứ 2 đường đi rắc vôi đường đi trùng trùng trùng Phun khử trùng + Phun khử Rắc vôi Thứ 3 xịt gầm, xả gầm, trùng đường đi dội vôi. Xả vôi xút Phun khử trùng + Rắc vôi Rắc vôi Thứ 4 gầm rắc vôi đi đường đường đi đường đi Phun khử trùng + quét mạng nhện Thứ 5 Phun ghẻ Phun ghẻ + rắc vôi đi đường Phun khử Phun khử trùng + Phun khử Phun khử Phun khử Thứ 6 trùng rắc vôi đường đi trùng trùng trùng Vệ sinh Phun khử trùng + Vệ sinh tổng Vệ sinh tổng Thứ 7 tổng xịt gầm, xả gầm, chuồng chuồng chuồng dội vôi Ngoài ra trong và ngoài chuồng cần: + Phun thuốc gián, nhện 1 lần/tháng vào ngày 15. + Cọ máng 1 lần/tháng. Quy trình tiêm phòng cho đàn lợn nái nuôi con và lợn con tại trại. Bảng 3.3. Lịch phòng bệnh cho đàn lợn nái sinh sản và lợn con nuôi tại cơ sở Loại lợn Thời điểm phòng bệnh Bệnh được phòng Mang thai tuần thứ 10 Dịch tả Lợn nái Mang thai tuần thứ 12 Lở mồm long móng Trước đẻ 1 tuần Tẩy kí sinh trùng 21 ngày tuổi Hội chứng còi cọc + suyễn Lợn con 28 ngày tuổi Tai xanh 35 ngày tuổi Dịch tả Để đảm bảo sức khoẻ cho đàn lợn nái thì phòng bệnh là khâu không thể thiếu trong quá trình chăn nuôi nhằm ngăn chặn, khống chế dịch bệnh xảy ra tại trại. Để
  39. 33 phòng bệnh trại đã thực hiện tiêm phòng vắc xin, kết hợp với các biện pháp vệ sinh phòng bệnh khác như tiêu độc môi trường chăn nuôi bằng nước sát trùng, dội nước vôi cống rãnh, mặc quần áo bảo hộ 3.4.2.4. Quy trình đỡ đẻ Quy trình đỡ đẻ Chuẩn bị dụng cụ: - Lồng úm, bóng điện, thảm, khăn, xô đựng nước, chổi cọ mông, chổi lau sàn, lưới đỡ nhau. - Khay đỡ đẻ, kéo, bình xịt cồn. Kĩ thuật đỡ đẻ - Trước tiên phải lau mũi và miệng cho hết dịch nhờn để tránh lợn con bị ngạt. - Một tay cầm chắc chân lợn, tay còn lại vuốt hết màng và dịch trên người lợn con rồi dùng khăn lau khô toàn thân lợn đến khô thì thôi. - Cắt rốn: dùng kéo cắt rốn cách rốn 10cm, sát trùng dây rốn và vùng cuống rốn bằng cồn iod. - Cho lợn con vào lồng úm đã cắm bóng úm. - Đợi lợn con khô lông thì cho ra bú. Trước khi cho ra bú cần lau sạch vú lợn mẹ, lót thảm để lợn con bú. - Phải trực liên tục cho đến khi lợn nái đẻ xong hoàn toàn, nhau ra hết, lợn nái trở về trạng thái yên tĩnh và cho con bú. Không can thiệp khi quá trình đẻ của lợn nái diễn ra bình thường, chỉ can thiệp khi lợn nái đẻ khó. Kĩ thuật can thiệt lợn đẻ khó Một số biểu hiện lợn đẻ khó: - Khi lợn đã vỡ nước ối mà lợn mẹ lại không có biểu hiện rặn đẻ hoặc chỉ rặn ra nhiều nước ối. - Lợn rặn đẻ liên tục, bụng và đuôi cong lên do lợn con đã ra đến cổ tử cung nhưng do bào thai quá to hoặc ngôi thai bị ngược nên không ra ngoài được.
  40. 34 - Lợn mẹ đang đẻ sau 30 phút không thấy đẻ tiếp. - Lợn mẹ sau khi đẻ nhiều con rặn đẻ yếu ớt. Cách can thiệp lợn đẻ khó: - Dùng nước sát trùng vệ sinh âm hộ và mông lợn, sát trùng tay, bôi gel bôi trơn. Sau đó đưa tay vào trong tử cung lợn mẹ để kiểm tra, nếu thấy tư thế và chiều hướng của thai không bình thường thì tiến hành xoay, sửa thai và kéo thai ra ngoài. Lưu ý các thao tác phải được thực hiện nhẹ nhàng tránh làm tổn thương cơ quan sinh dục của lợn mẹ. - Sử dụng thuốc cho lợn đẻ khó: Dùng Oxytoxin liều lượng 2 - 5 ml/con. Tùy thuộc vào khối lượng cơ thể lợn mẹ Kĩ thuật cứu lợn con bị ngạt Khi lợn mẹ rặn đẻ yếu lợn con sinh ra rất dễ bị ngạt lúc này ta cần hỗ trợ quá trình hô hấp cho lợn con: - Ta phải đỡ lợn con lên, kiểm tra xem tim còn đập không, nếu tim còn đập thì tiến hành cấp cứu. - Nhanh chóng vuốt sạch dịch nhờn ở mũi, miệng ra, lau sạch nhớt toàn thân và buộc dây rốn cho lợn con. - Sau đó tiến hành thao tác, tay trái cầm lợn con ở vị trí dưới nách, tay phải cầm ở vị trí hõm hông, để lưng lợn con hướng vào trong lòng mình, đầu hơi chúc xuống. sau đó gập mình lợn con khoảng 5 lần để tạo phản ứng kích thích phổi hoạt động. - Tiếp theo tay trái đỡ phần ngực lợn con tay phải vỗ nhẹ vào lưng lợn ở vị trí của phổi khoảng 5 cái. - Cuối cùng dùng 2 tay để lợn con nằm ngửa, sau đó tay trái bóp miệng lợn con, rồi thổi mạnh vào miệng lợn con khoảng 5 lần liên tục. Cứ lặp đi lặp lại việc gập mình, vỗ lưng, thổi hơi như vậy cho đến khi lợn con có thể tự thở được bình thường. Sau đó xịt cồn vào rốn, đặt lợn con vào úm chờ khoẻ lại rồi đem ra cho bú sữa.
  41. 35 3.4.2.5. Công tác chẩn đoán bệnh gặp trên đàn lợn nái và đàn lợn con tại trại Để xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn lợn, tiến hành theo dõi lợn thông qua phương pháp chẩn đoán lâm sàng. Quan sát các biểu hiện như: trạng thái cơ thể, dịch rỉ viêm, phân , tình trạng sức khỏe của lợn con, khả năng vận động, màu phân Từ các triệu chứng thu thập được tiến hành chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn. - Lập sổ theo dõi đàn lợn cần điều tra bằng cách theo dõi, ghi chép những lợn có biểu hiện lâm sàng, triệu chứng lâm sàng 3.4.2.6. Quy trình thực hiện các công tác khác Thực hiện thao tác mài nanh, bấm tai và bấm đuôi: - Mài nanh Mài nanh cho lợn con ở cở sở, không thực hiện ngay khi mới sinh. Lợn con sau khi bú mẹ sức khỏe tốt, cứng cáp hơn được tiến hành mài nanh. Sử dụng máy mài nanh, đây là dụng cụ chuyên dùng, hiệu quả tốt hơn rất nhiều so với sử dụng kìm bấm nanh. Thao tác mài nanh như sau: Bắt lợn con lên sau đó kẹp lợn con vào giữa 2 chân sao cho đầu của lợn con hướng lên trên. Một tay giữ chắc đầu lợn và bóp miệng cho lợn con mở miệng ra, một tay cầm máy, mài nanh dọc theo hàm của lợn con. Khi mài phải cẩn thận, tránh mài vào lưỡi của lợn con, không mài quá sâu làm cho hàm của lợn con chảy máu (tránh vi khuẩn xâm nhập). - Bấm số tai Sử dụng kìm bấm tai. Thao tác bắt lợn con để bấm tai tương tự với cách bắt để mài nanh. Số tai được bấm theo chiều kim đồng hồ, bắt đầu từ mép trên của tai trái, tới mép trên của tai phải, tiếp đến mép dưới của tai phải và kết thúc ở mép dưới của tai trái. Sát trùng bằng cồn iod vào vị trí cắt. - Cắt đuôi Sử dụng kéo cắt đuôi. Cắt ở vị trí cách gốc đuôi 3 cm. Thao tác: Cắm kéo và đợi kéo nóng lên sau đó một tay bắt lợn con lên sao cho đầu của lợn con xuống dưới, một tay cầm kéo và cắt. - Tiêm Fe - Dextran - B12 kết hợp với kháng sinh:
  42. 36 Tiêm cho lợn con khi đủ 3 ngày tuổi với liều lượng 2 ml/con. Nhắc lại lần 2 lúc 10 ngày tuổi. - Thiến lợn đực Lợn đực được thiến từ 5 – 10 ngày tuổi (phụ thuộc vào số lượng lợn đẻ và sức khỏe của lợn con). Dụng cụ thiến gồm: Dao thiến, cồn sát trùng, panh kẹp, bông gòn, khăn vải sạch, xi-lanh và thuốc kháng sinh. Thao tác: Đầu tiên tiêm cho lợn con 1 ml/con kháng sinh (amcoli, amistin). Sau đó người thiến ngồi trên ghế cao và kẹp lợn con vào giữa 2 chân sao cho đầu của lợn con hướng xuống dưới. Một tay nặn, để dịch hoàn nổi rõ, tay còn lại cầm dao rạch hai vết đứt vào chính giữa của mỗi bên dịch hoàn. Dùng 2 tay nặn dịch hoàn ra ngoài rồi lấy panh kẹp thừng dịch hoàn vào giật mạnh để kéo dịch hoàn ra, dùng khăn sạch lau vùng dịch hoàn, sát trùng bằng cồn iod vào vị trí thiến. - Xử lý viêm rốn Nếu rốn bị viêm có kén ta tiêm 1 ml/con thuốc kháng sinh amcoli sau đó ngồi lên trên ghế cao kẹp lợn vào giữa 2 chân, sau đó dùng panh kẹp chặt vào rốn để lấy kén ra ngoài tiếp đó ta sát trùng rốn. 3.4.3. Phương pháp tính toán các chỉ tiêu - Tỉ lệ lợn mắc bệnh: ∑ số lợn mắc bệnh Tỷ lệ lợn mắc bệnh (%) = x 100 ∑ số lợn theo dõi - Tỷ lệ lợn khỏi: ∑ số con khỏi bệnh Tỷ lệ lợn khỏi (%) = x 100 ∑ số con điều trị
  43. 37 Phần 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Tình hình chăn nuôi tại trại Nguyễn Xuân Dũng, xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Tình hình chăn nuôi của đàn lợn nái nuôi tại cơ sở qua 3 năm (2016 – 11/2018) được thể hiện qua bảng 4.1: Bảng 4.1. Cơ cấu đàn lợn nuôi tại trại STT Loại lợn 2016 2017 2018 1 Lợn đực giống 18 16 18 2 Lợn nái sinh sản 1.200 1.150 1.200 3 Lợn nái hậu bị 150 165 160 4 Lợn con 27.500 26.890 27.100 Tổng 28.868 28.221 28.478 (Nguồn: Cán bộ kỹ thuật trại cung cấp) Qua bảng 4.1 số đầu lợn tăng lên cho thấy quy mô chăn nuôi của trại ngày càng phát triển và ổn định. Tuy nhiên về cơ cấu đàn lợn không có sự thay đổi đáng kể: trong đó số lượng lợn đực của trại trong khoảng thời gian này có thay đổi. Đến năm 2018 là 18 con, do nhu cầu sản xuất của trại tăng lên và kèm theo đó là loại thải một số con mắc bệnh và không đạt tiêu chuẩn. Số lợn nái hậu bị từ năm 2017 là 165 nái, tới năm 2018 giảm đi còn 160 nái, theo em nguyên nhân là do số lượng lợn nái hậu bị nhập về trại ít, cùng với số lượng nái hậu bị đủ thể trọng được tiến hành cho lên giống. Hàng tháng vẫn có sự loại thải những con nái sinh sản kém, không đủ tiêu chuẩn, đồng thời đưa những con lợn hậu bị vào sản xuất. nhằm thay thế cho các lợn nái sinh sản không đủ tiêu chuẩn và phải loại thải. Để đáp ứng nhu cầu sản xuất của trại số lượng nái cũng tăng lên đến năm 2018 đạt 1200 nái. Kéo theo đó số lợn con cũng tăng lên đạt 27100 con
  44. 38 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn tại trại Nguyễn Xuân Dũng, xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. 4.2.1. Số lượng lợn nái được phân công trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng Trong quá trình thực tập em được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng chuồng lợn nái đẻ và nuôi con, kết quả thực hiện công tác này được trình bày ở bảng 4.2 Bảng 4.2. Số lượng lợn nái trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng tại trại qua 6 tháng thực tập Nái đẻ, nuôi con Số lợn con đẻ ra Lợn con cai sữa Tháng (con) (con) (con) 6 57 635 613 7 58 648 626 8 55 605 589 9 56 620 597 10 57 638 625 11 56 618 592 Tổng 339 3.764 3.642 Kết quả bảng 4.2 cho ta thấy trong 6 tháng thực tập số lợn nái đẻ, nuôi con và số lợn con em trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là 339 con nái, 3.764 lợn con sinh ra và 3.642 lợn con cai sữa. Từ việc chăm sóc đàn lợn hàng ngày em đã học được quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái sinh sản là phải giữ chuồng trại luôn sạch sẽ, cho lợn nái ăn đúng bữa và đủ lượng thức ăn theo quy định. Lợn nái chửa kỳ cuối, nái đẻ và nuôi con được cho ăn 2 lần/ngày. Ta cần lưu ý các điểm sau: + Cách cho ăn: ăn đúng 2 bữa và ăn theo khẩu phần ăn trên bảng cám đã được chỉnh sửa liên tục theo ngày. + Loại thức ăn theo từng giai đoạn: nái chửa kỳ đầu (tuần 1 -13) sử dụng thức ăn 566, chửa kỳ cuối (tuần 14 – 16) sử dụng thức ăn 567 + Nhu cầu dinh dưỡng trong từng thời kỳ: trước đẻ 3 ngày lượng thức ăn sẽ giảm dần 0,5 kg/con/ngày, sau đẻ lượng thức ăn sẽ tăng dần 1 kg/con/ngày tuỳ thuộc vào giai đoạn mang thai, thể trạng lợn nái, tình trạng sức khoẻ, nhiệt độ môi trường, chất lượng thức ăn
  45. 39 + Khi tắm cho lợn mẹ cần nhốt lợn con vào úm và đợi đến khi sàn khô rồi mới thả lợn con ra. Vì khi tắm cho lợn mẹ sẽ làm ướt sàn lợn con dẫn đến bệnh phân trắng ở lợn con theo mẹ. Đảm bảo chuồng luôn khô ráo, nhiệt độ, độ ẩm thích hợp. Ngoài ra em còn học được cách chăm sóc, nuôi dưỡng lợn con từ sơ sinh đến cai sữa, cần chú ý các công việc sau: khi trộn thức ăn phải trộn thuốc vào nước theo đúng tỷ lệ rồi trộn với cám, máng lợn con phải luôn có thức ăn, sàn phải khô ráo sạch sẽ và nhiệt độ phải thích hợp. Qua đây em đã học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm cho bản thân như: cách chỉnh bảng cám cho lợn mẹ và vệ sinh chuồng đẻ hàng ngày, cách tra thức ăn, 4.2.2. Tình hình sinh sản của lợn nái nuôi tại trại Trong thời gian thực tập tại trại em được phân công chăm sóc, nuôi dưỡng và theo dõi tình hình sinh sản của đàn lợn nái. Kết quả được trình bày ở bảng 4.3 Bảng 4.3. Kết quả theo dõi tình hình sinh sản của lợn nái tại trại. Đẻ bình Tỷ lệ Số con Tỷ lệ Tháng Số con đẻ thường (%) đẻ khó (%) 6 57 56 98,25 1 1,75 7 58 56 96,55 2 3,45 8 55 54 98,18 1 1,82 9 56 54 96,43 2 3,57 10 57 57 100 0 0,00 11 56 54 96,43 2 3,57 Tổng 339 331 97,64 8 2,36 Qua bảng 4.3 cho thấy: Số lượng lợn đẻ trong 6 tháng thực tập là 339 con, số con đẻ bình thường là 331 con và số con đẻ phải can thiệp tại cơ sở là 8 con chiếm tỉ lệ 2,36% là do trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng đã thực hiện đúng quy trình về thức ăn cho lợn nái mang thai và kỹ thuật chăm sóc lợn nái đẻ. Theo em, số lợn nái
  46. 40 đẻ phải can thiệp chủ yếu tập trung nhiều ở nái đẻ lứa đầu, cổ tử cung chưa giãn nở, một số ít là do lợn mẹ trong quá trình mang thai quá béo, ít vận động làm ảnh hưởng đến quá trình đẻ. Ngoài ra trường hợp đẻ khó còn do các nguyên nhân khác như chiều hướng, tư thế của bào thai không bình thường, thai quá to, thai dị hình. Trong quá trình đỡ đẻ cho lợn nái, em rút ra được một số bài học kinh nghiệm đó là: Việc ghi chép chính xác ngày phối giống cho lợn nái là rất quan trọng, sẽ giúp cho người chăn nuôi xác định được thời điểm lợn sắp đẻ để có kế hoạch chuẩn bị các dụng cụ hỗ trợ quá trình đẻ, chuẩn bị ổ úm cho lợn con. Trong thời gian lợn sắp đẻ thì phải thường xuyên theo dõi, quan sát lợn, không nên để lợn tự đẻ vì lợn mẹ có thể sẽ đè con, cắn con hoặc khi lợn mẹ đẻ khó sẽ không kịp thời xử lý. Khi đỡ đẻ cho lợn người thực hiện phải thao tác nhẹ nhàng, khéo léo, để tránh làm tổn thương cơ quan sinh dục của lợn mẹ, toàn bộ dụng cụ, tay của người thực hiện đỡ đẻ phải được sát trùng, người đỡ đẻ cho lợn không được để móng tay dài có thể làm tổn thương cơ quan sinh dục của lợn nái trong quá trình can thiệp đẻ khó. 4.2.3. Một số chỉ tiêu sinh sản của lợn nái nuôi tại trại Để đánh giá chỉ tiêu sinh sản của đàn lợn nái tại trại, em đã tiến hành theo dõi một số chỉ tiêu sinh sản của 339 lợn nái. Kết quả được trình bày ở bảng 4.4 Bảng 4.4. Một số chỉ tiêu sinh sản của lợn nái nuôi tại trại Số con còn Tỷ lệ sống Số lợn Số lợn Số con đẻ sống đến trung Tháng nái đẻ con ra trung cai sữa (trung bình/lứa (con) (con) bình/lứa bình/lứa) (%) 6 57 635 11,14 10,75 96,53 7 58 648 11,17 10,79 96,60 8 55 605 11,00 10,71 97,36 9 56 620 11,07 10,66 96,29 10 57 638 11,19 10,96 97,96 11 56 618 11,03 10,57 95,79 Tổng 339 3764 11,10 10,74 96,76
  47. 41 Trong quá trình thực tập em đã chăm sóc nuôi dưỡng và theo dõi thấy rằng có 339 lợn nái đẻ, số con đẻ ra 3764 con, bình quân 11,10 con/lứa/nái, số con còn sống đến cai sữa là 10,74 con/lứa/nái, tỷ lệ sống trung bình là 96,76%. Trong quá trình nuôi dưỡng từ sau khi đẻ đến 21 ngày số lượng lợn con cai sữa giảm. Có nhiều nguyên nhân là do lợn mẹ đè chết, do loại thải, một số lợn con nhiễm trùng hay mắc bệnh dẫn đến chết. Tại trại, trong 6 tháng theo dõi em thấy lợn con có tỉ lệ sống cao nhất là 97,96% vào tháng 10 và thấp nhất là 95,79 % vào tháng 11. Để có tỷ lệ lợn con cai sữa cao phải chú ý chăm sóc, nuôi dưỡng tốt, nếu nhiệt độ môi trường thấp phải đưa lợn con vào ô úm, không nên để chuồng, sàn chuồng ẩm hơn để tránh lợn con bị tiêu chảy. Nên cho lợn con tập ăn sớm lúc 3 ngày tuổi để kích thích đường tiêu hóa làm quen với thức ăn bổ sung ngoài sữa mẹ và tăng khả năng tăng trọng của lợn. Phải tạo mọi điều kiện thích hợp, tối ưu nhất để lợn con có khả năng phát triển tốt nhất, cần đảm bảo số lượng nhân công trong dãy chuồng đang đẻ để giảm tỷ lệ chết do lợn mẹ đè là 2 người trong 1 chuồng 58 nái đang đẻ và nuôi con. Trong quá trình đỡ đẻ, thiến, mổ hecni phải đảm bảo sát trùng đúng kỹ thuật, đảm bảo tỷ lệ lợn con xuất bán cao, mang lại hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi. 4.3. Kết quả thực hiện quy trình phòng và trị bệnh cho đàn lợn tại trại Nguyễn Xuân Dũng, xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội 4.3.1. Thực hiện biện pháp vệ sinh phòng bệnh Thực hiện phương châm ‘‘Phòng bệnh hơn chữa bệnh’’‚ nên khâu phòng bệnh được đặt lên hàng đầu, nếu phòng bệnh tốt thì có thể hạn chế hoặc ngăn chặn được bệnh xảy ra. Các biện pháp phòng bệnh tổng hợp được đưa lên hàng đầu, xoay quanh các yếu tố môi trường, mầm bệnh, vật chủ. Gồm các khâu dọn phân, rửa chuồng, phun thuốc sát trùng cho chuồng trại và phương tiện vận chuyển, dụng cụ chăn nuôi, máng ăn. Tuỳ thuộc vào điều kiện thời tiết, mùa vụ mà việc vệ sinh chăm sóc có nhiều thay đổi cho phù hợp.
  48. 42 Khử trùng: Chuồng trại có chế độ phun thuốc sát trùng định kỳ và không định kỳ bằng các thuốc sát trùng: Ommicide. Nguồn nước uống: Hệ thống nước sạch được lấy từ suối đầu nguồn về bể lớn rồi được xử lý bằng chlorine với nồng độ khoảng 3 – 5 ppm. Trong quá trình thực tập em đã tham gia vào công tác vệ sinh phòng bệnh. Kết quả được thể hiện qua bảng 4.5: Bảng 4.5. Kết quả khử trùng tại cơ sở Kế hoạch Kết quả thực hiện Nội dung công việc Tỷ lệ (%) (số lần) (số lần) Phun khử trùng 108 90 83,33 Rắc vôi đường đi 108 96 88,89 Tung vôi, xịt gầm, xả gầm 52 46 88,46 Vệ sinh tổng chuồng 108 108 100 Kết quả bảng 4.5 cho thấy: việc vệ sinh, sát trùng hàng ngày luôn được trại quan tâm, và làm thường xuyên hàng ngày, đúng như phương châm “phòng bệnh là chính”. Theo quy định của trại việc vệ sinh chuồng nuôi sẽ được thực hiện hàng ngày và trong 6 tháng thực tập tại trại tôi đã thực hiện được 108 lần (đạt tỷ lệ 100%). Việc rắc vôi đường đi được thực hiện hàng ngày 1 lần/ngày và em đạt 88,89% trên tổng số lần. Việc phun khử trùng định kỳ xung quanh chuồng trại được thực hiện thường xuyên, ở thời điểm giao mùa và thời tiết biến động nhiều trại luôn đẩy mạnh việc phun sát trùng xung quanh khu vực nuôi. Trong 6 tháng, em đã thực hiện được 90 lần trên tổng số 108 lần đạt tỷ lệ 83,33%. Việc tung vôi, xịt gầm, xả gầm khu vực chuồng nuôi được thực hiện 1 – 2 ngày 1 lần, em đã thực hiện được 46 lần trên tổng số 52 lần, đạt tỷ lệ 88,46%.
  49. 43 Tỷ lệ phun sát trùng chuồng trại tại cơ sở là 1/250 và tỷ lệ pha sát trùng vệ sinh là 1/3200. Khi phun khử trùng cần pha đúng tỷ lệ, nếu pha nhiều thì tốn kém, gây tổn thương bề mặt da, nếu pha ít quá thì không đủ liều để tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh. Rắc vôi trong chuồng được em thực hiện hàng ngày. Khi rắc vôi không nên rắc quá nhiều, nên đi từ cuối hường gió lên tránh lợn con bị sặc, người rắc vôi phải đeo găng tay, đi ủng, đeo khẩu trang để đảm bảo sức khỏe. Tung vôi, xịt gầm, xả gầm bằng cách người tung vôi đeo găng tay, đi ủng, đeo khẩu trang để đảm bảo sức khỏe và đi từ cuối hướng gió lên tung một lượng vôi vừa đủ cách chân cột trên 40 cm vào buổi sáng, để đến trưa hoặc đầu giờ chiều xịt gầm, sau khi xịt xong thì xả nước để xả gầm, tung vôi lần 2 nếu cần thiết vào buổi chiều. Vệ sinh tổng chuồng được em thực hiện hàng ngày gồm các công việc như: Quét dọn hành lang đường đi, quét dọn đường cấp thức ăn, lau máng, lau sàn lợn con. Khi rửa máng thì tránh phun nước vào tai của lợn nái. 4.3.2. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn nái và lợn con tại trại bằng thuốc và vắc xin Công tác tiêm phòng luôn được cơ sở đặt lên hàng đầu. Đây là khâu rất quan trọng trong quy trình kỹ thuật, là biện pháp tích cực và bắt buộc để tránh những rủi ro lớn thiệt hại về kinh tế và tránh lây lan dịch bệnh. Tiêm vắc xin giúp cho gia súc tự tạo ra trong cơ thể một sức miễn dịch chủ động chống vi khuẩn xâm nhập, tăng sức đề kháng cho cơ thể. Vì vậy việc tiêm phòng phải được thực hiện nghiêm ngặt, theo đúng lịch qui định nhằm giảm đáng kể thiệt hại về kinh tế khi dịch bệnh xảy ra. Tại cơ sở chăn nuôi công tác phòng bệnh luôn được kiểm soát chặt chẽ nhằm hạn chế đến mức thấp nhất xảy ra dịch bệnh, vì dịch bệnh xảy ra sẽ gây thiệt hại rất lớn đối với hiệu quả chăn nuôi. Chính vì vậy ở trại chăn nuôi công tác phòng bệnh được ưu tiên hàng đầu. Trong thời gian thực tập em đã cùng cán bộ kỹ thuật và công nhân tham gia công tác tiêm phòng cho đàn lợn tại cơ sở. Kết quả tiêm phòng thuốc và vắc xin tại trại:
  50. 44 Bảng 4.6. Kết quả phòng bệnh bằng thuốc và vắc xin cho đàn lợn tại trại Loại lợn Số con được Tỷ lệ An toàn Tiêm vắc-xin phòng bệnh tiêm (%) (%) Tiêm sắt 3764 100 100 Lợn con Cầu trùng (cho uống) 3764 100 100 Tiêm vắc xin dịch tả 338 100 100 Lợn nái (Colapest) Tiêm vắc-xin LMLM 338 100 100 Kết quả bảng 4.6. cho thấy, tỷ lệ tiêm phòng cho lợn nái và lợn con ở trại đều đạt tỷ lệ cao.Trong đó lợn con 3 ngày tuổi được tiêm phòng thiếu máu bằng chế phẩm Fe – dextran – B12, số lượng lợn con 3 ngày tuổi cho uống cầu trùng bằng chế phẩm Diacoxin 5% là 3764 con. Vắc xin LMLM tiêm vào tuần mang thai thứ 12, vắc xin dịch tả lợn được tiêm phòng vào tuần mang thai thứ 10. Để đạt được kết quả cao như trên trại đã tích cực chủ động trong việc thực hiện nghiêm ngặt các quy trình tiêm phòng vắc xin và vệ sinh phòng bệnh. Qua đó chúng em đã học được cách bảo quản, pha vắc xin, kỹ thuật tiêm. 4.3.3. Kết quả chẩn đoán bệnh cho lợn nái và lợn con tại trại 4.3.3.1. Kết quả chẩn đoán bệnh cho lợn nái Trong thời gian thực tập tại trại em đã tham gia vào công tác chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái cùng với các kỹ sư của trại. Bảng 4.7. Kết quả chẩn đoán bệnh trên đàn lợn nái Chỉ tiêu theo dõi Số nái Số nái Tỷ lệ theo dõi mắc bệnh (%) Tên bệnh (con) (con) Bệnh sát nhau 339 40 11,79 Bệnh viêm vú 339 22 6,48 Bệnh viêm tử cung 339 57 16,81 Bệnh bại liệt 339 3 0,88 Kết quả bảng 4.7 cho thấy, Đàn lợn nái của trại thường mắc một số bệnh như: Viêm tử cung, viêm vú, sát nhau.
  51. 45 Trong 339 con lợn nái chăm sóc và nuôi dưỡng có 40 con mắc bệnh sát nhau, 57 con mắc bệnh viêm tử cung, 22 con mắc bệnh viêm vú, 3 con mắc bệnh bại liệt. Trong đó tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái nuôi tại trại cao nhất chiếm 16,81% là do đàn lợn nái ở đây thuộc các dòng nái giống ngoại có năng suất sinh sản cao, nhưng lại chưa thích nghi với điều kiện như nuôi dưỡng, chăm sóc và thời tiết không thuận lợi. Mặt khác, do trong quá trình phối giống cho lợn nái bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo không đúng kỹ thuật đã làm sây sát niêm mạc tử cung, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập phát triển và gây bệnh. Do quá trình can thiệp khi lợn đẻ khó phải sử dụng thủ thuật để móc lấy thai làm cho vi khuẩn từ bên ngoài dễ dàng xâm nhập vào gây viêm. Số lợn nái mắc bệnh viêm vú là 22 con cũng khá cao, tỷ lệ mắc viêm vú là 6,48%, nguyên nhân gây nên bệnh này có thể do kế phát từ các ca lợn nái mắc bệnh viêm tử cung ở thể nặng, vi khuẩn theo máu đến vú gây viêm vú, ngoài ra còn có thể do nền chuồng bẩn hay trong quá trình mài nanh ở lợn con sơ sinh chưa tốt, trong quá trình lợn con bú sữa gây tổn thương đầu núm vú lợn mẹ. Số lợn nái mắc bệnh sát nhau là 40, tỷ lệ mắc sát nhau là 11,79%, nguyên nhân gây nên bệnh này có thể do kế phát từ các ca lợn nái mắc bệnh viêm tử cung ở thể nặng, do cho ăn quá nhiều ở giai đoạn chửa kỳ 2 làm thai to, khó đẻ, do các thao tác đỡ đẻ không đúng làm đứt nhau, sót nhau. Bệnh bại liệt có tỉ lệ mắc thấp 0,88% là do trong quá trình chăm sóc đã cung cấp đủ các chất khoáng và lợn nái sau sinh thường xuyên được gọi dậy cho ăn 2 lần/ngày, lấy phân nên đã tránh được hiện tượng bại liệt sau sinh. 4.3.3.2. Kết quả chẩn đoán bệnh cho lợn con Bảng 4.8. Kết quả chẩn đoán bệnh cho đàn lợn con tại trại Số lượt lợn mắc Tỷ lệ mắc STT Bệnh lợn mắc Số lợn theo dõi (con) (%) 1 Tiêu chảy 3764 1523 40,46 2 Viêm phổi 3764 806 21,41
  52. 46 Qua bảng 4.8 ta thấy lợn con ở trại mắc tiêu chảy cao (1523con) và chiếm tỷ lệ là (40,46%), nguyên nhân là do lợn con mới đẻ ra sức đề kháng còn yếu dễ bị ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài như vi sinh vật xâm hại hay nhiệt độ chuồng nuôi không thích hợp (lạnh quá hay nóng quá) đặc biệt vào những ngày mùa đông nhiệt độ xuống thấp cần phải có ô úm và bóng điện sưởi cho lợn con. Cách khắc phục tốt nhất để hạn chế lợn con mắc tiêu chảy là cho lợn con bú sữa đầu ngay sau khi đẻ và giữ ấm cơ thể cho lợn con. Bên cạnh đó, khi thời tiết lạnh mà lợn con không được giữ ấm sẽ khiến lợn mắc một số bệnh về đường hô hấp như viêm phổi, đó là nguyên nhân làm cho số lợn con mắc bệnh viêm phổi cũng khá cao (806 con). 4.3.3.3. Kết quả điều trị bệnh cho lợn nái và lợn con tại trại Quá trình thực tập tại trại, dưới sự hướng dẫn của kỹ sư trại em đã tham gia điều trị bệnh cho lợn nái mắc bệnh, kết quả được trình bày qua bảng 4.9 Bảng 4.9. Kết quả điều trị bệnh trên đàn nái sinh sản và lợn con tại trại Chỉ tiêu Thời Kết quả Thuốc điều trị, gian Số Loại Đường Số con liều lượng dùng con Tỷ lệ lợn tiêm điều trị Tên thuốc khỏi (%) (con) Bệnh (ngày) (con) Bệnh sát Oxytocin 2ml/con Tiêm 2 40 38 95,00 nhau hitamoxine 1ml/15 kg TT bắp Oxytocin 1ml/con Bệnh Tiêm viêm tử Analgin 1ml/10 kg TT 3 - 4 57 50 87,72 bắp cung Amoxinject LA 1ml/15kg TT Lợn Bệnh Amoxinject LA 1ml/15 kg TT Tiêm nái 3 - 5 22 18 81,81 viêm vú Analgin 1ml/10kg TT bắp Bệnh bại Tiêm Mg –Calcium 60 ml/con 2 - 3 3 2 66,67 liệt bắp Tiêm Amcoli hoặc MD Tiêm Tiêu chảy 1ml/con 3 1523 1456 95,60 Nor 100 bắp Lợn con Viêm Lincoject Tiêm 0,5 ml/con 2 806 792 98,26 phổi MD dexa bắp
  53. 47 Qua bảng 4.9 cho thấy: trong 40 lợn mắc bệnh sát nhau, điều trị khỏi 38 con, chiếm tỷ lệ 95%, 57con mắc bệnh viêm tử cung điều trị khỏi 50 con đạt 87,72%, 22 con mắc bệnh viêm vú điều trị có 18 con khỏi đạt 81,81%, 3 con mắc bệnh bại liệt điều trị khỏi 2 con đạt 66,67%. Các bệnh hay gặp ở lợn nái sinh sản có tỉ lệ khỏi là cao, cao nhất là bệnh sát nhau có tỉ lệ khỏi lên tới 95% và thấp nhất là bệnh bại liệt sau sinh là 66,67%. Bệnh sát nhau có tỉ lệ khỏi bệnh cao là do bệnh dễ phát hiện và chữa trị, con mẹ thường mệt mỏi, bỏ ăn, dịch từ tử cung chảy ra nhiều. Bệnh viêm tử cung có tỷ lệ khỏi là 87,72% do việc chẩn đoán bệnh thường khó khăn hơn, khi phát hiện ra bệnh thì bệnh đã ở thể viêm nặng và điều trị khó khăn hơn. Bệnh bại liệt có tỉ lệ khỏi thấp nhất vì khi lợn đã mắc bệnh khả năng phục hồi cơ xương rất khó, khả năng đi lại, vận động cũng khó khăn, những con bị bại liệt thường bị loét vùng nằm trên sàn chuồng, nếu để lâu lợn mẹ gầy yếu dẫn đến chết. Vì vậy trại đã loại thải những lợn nái này. Lợn con mắc bệnh tiêu chảy cao 1523 con và tỷ lệ điều trị khỏi bệnh là 95,60%, nguyên nhân là do lợn con mới đẻ ra sức đề kháng còn yếu dễ bị ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài như vi sinh vật hay nhiệt độ, độ ẩm chuồng nuôi không thích hợp, lợn mẹ bị bệnh viêm vú không cho lợn con bú cũng dẫn đến lợn con mắc bệnh tiêu chảy. Do thời tiết thay đổi và nhiệt độ trong chuồng thấp lợn con khồng được giữ ấm dẫn đến mắc bệnh viêm phổi cũng khá cao 806 con và tỷ lệ trị khỏi bệnh là 98,26%. Cách khắc phục tốt nhất để hạn chế lợn con mắc tiêu chảy và các bệnh về đường hô hấp là cho lợn con bú sữa đầu ngay sau khi đẻ và giữ ấm cơ thể cho lợn con. 4.4. Kết quả thực hiện công tác khác tại cơ sở Trong quá trình thực tập tại trại ngoài việc chăm sóc cho đàn lợn nái và lợn con được phân công. Em còn tham gia một số công tác khác tại trại. Kết quả được trình bày ở bảng 4.10.
  54. 48 Bảng 4.10. Kết quả thực hiện các thao tác trên lợn con và lợn nái tại trại Số lượng Kết quả Tỷ lệ STT Nội dung (con) (con) (%) 1 Đỡ đẻ cho lợn nái 3764 3764 100 2 Bấm số tai 80 80 100 3 Cắt đuôi 1790 1790 100 4 Xuất lợn con 590 590 100 5 Cho uống cầu trùng 1560 1560 100 6 Thiến lợn con 239 239 100 7 Thụ tinh nhân tạo 60 60 100 Kết quả bảng 4.10 cho thấy: - Xuất bán lợn con, em đã tham gia xuất 590 con, đạt 100%. - Chăm sóc lợn con: Lợn con sau khi sinh ra, ngoài các công việc như lau khô, bấm nanh, cắt đuôi, bấm số tai, cho bú sữa đầu, cần luôn luôn giữ nhiệt độ ổn định phù hợp với lợn con Công việc đỡ đẻ cho lợn được thực hiện là 3764 con lợn con, kết quả đạt an toàn 100%. Công tác cắt đuôi được thực hiện là 1790 con, kết quả đạt 100%. Công tác thiến được thực hiện là 239 con, đạt tỷ lệ là 100%.
  55. 49 Phần 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận Qua 6 tháng thực tập tốt nghiệp tại trại lợn Nguyễn Xuân Dũng, xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, em có một số kết luận như sau: - Về công tác chăn nuôi: Công tác chăn nuôi của trại được thực hiện tốt và đem lại hiểu quả cao. Tỷ lệ sinh (11,10 con/nái/lứa) và tỷ lệ cai sữa (10,74 con/nái/lứa) cao, số lợn con sinh ra là 3.764 con khỏe mạnh tăng trọng nhanh, số con còn sống đến cai sữa là 3.642 con, tỷ lệ nuôi sống đạt 96,76%. Để đạt được kết quả này là sự cố gắng không ngừng trong công việc của cán bộ kỹ thuật và công nhân trong trại. Thực hiện tốt công tác phòng bệnh, vệ sinh chuồng trại. - Về công tác thú y: Công tác vệ sinh phòng bệnh được thực hiện nghiêm túc mọi người trước khi vào khu vực sản xuất đều phải tắm sát trùng và thay đồ bảo hộ. Hành lang giữa các chuồng, trong và ngoài chuồng được rắc vôi bột thường xuyên. Xe cộ trước khi vào trại đều được sát trùng và có thời gian cách ly hợp lý. Thực hiện tốt quy trình phòng và trị bệnh đạt hiệu quả cao trong đó công tác vệ sinh phòng bệnh thực hiện đúng quy trình; công tác phòng bệnh bằng vắc xin được thực hiện triệt để, tỉ lệ tiêm phòng các loại vắc xin cho các đối tượng đạt tỷ lệ 100%. Căn cứ vào kết quả điều tra, theo dõi trong quá trình thực tập tại cơ sở em rút ra kết luận như sau: Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái nuôi tại trại là 16,81%. Tỷ lệ mắc bệnh viêm vú trên đàn lợn nái nuôi tại trại là 6,48%. Tỷ lệ mắc bệnh sát nhau trên đàn lợn nái nuôi tại trại là 11,79%. Tỷ lệ mắc bệnh bại liệt sau sinh trên đàn lợn nái nuôi tại trại là 0,88%.
  56. 50 Kết quả trên cho thấy tỷ lệ mắc bệnh sinh sản trên đàn lợn nái tại trại còn khá cao do đường sinh dục bị tổn thương và viêm nhiễm trong quá trình vệ sinh đôi khi chưa được đảm bảo. 5.2. Đề nghị Xuất phát từ thực tế của trại, qua phân tích đánh giá bằng hiểu biết của mình, em có một số ý kiến nhằm nâng cao hoạt động của trại như sau: - Trại lợn cần thực hiện tốt hơn nữa quy trình vệ sinh phòng bệnh và quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn để giảm tỷ lệ mắc bệnh. - Thực hiện tốt công tác vệ sinh trước, trong và sau khi đẻ và phối giống có thao tác đỡ đẻ khoa học để giảm bớt tỷ lệ mắc các bệnh về đường sinh sản ở lợn nái. - Thực hiện một số các biện pháp để làm hạn chế tỷ lệ nhiễm bệnh trên đàn lợn con như: + Cải tạo điều kiện chuồng trại đảm bảo khí hậu chuồng nuôi thích hợp với từng giai đoạn phát triển của lợn con. + Tiêm chế phẩm Fe - Dextran - B12 10% nhắc lại cho lợn con lúc 10 ngày tuổi. + Nâng cao kỹ thuật đỡ đẻ, cũng như những kỹ thuật chăm sóc lợn con khác cho công nhân. Hướng dẫn công nhân cách phát hiện bệnh trên đàn lợn con.
  57. TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu Tiếng Việt 1. Bilkei (1994), Quản lý lợn nái và lợn cái hậu bị để sinh sản có hiệu quả. 2. Đặng Vũ Bình (1995), “Các tham số thống kê di truyền và chỉ số chọn lọc năng suất sinh sản của lợn nái Yorkshire và Landrace”, Kỷ yếu kết quả nghiên cứu khoa học Khoa Chăn nuôi Thú y (1991 - 1995), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 3. Nguyễn Xuân Bình (2000), Phòng trị bệnh heo nái - heo con - heo thịt, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr 29 - 35. 4. Đinh Văn Chỉnh, Đặng Vũ Bình, Trần Xuân Việt, Vũ Ngọc Sơn (1995), "Năng suất sinh sản của lợn nái Yorkshire và Landrace nuôi tại Trung tâm giống gia súc Hà Tây", Kết quả nghiên cứu khoa học Khoa Chăn nuôi - Thú y (1991 - 1995), Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội 5. Trần Thị Dân (2004), Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, Nxb Nông nghiệp, tp Hồ Chí Minh. 6. Đoàn Thị Kim Dung, Lê Thị Tài (2002), Phòng và trị bệnh lợn nái để sản xuất lợn thịt siêu nạc xuất khẩu, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 7. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Giáo trình sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 8. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (2002), Bệnh phổ biến ở lợn và biện pháp phòng trị, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 9. Nguyễn Quang Linh (2005), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 10. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004), Một số bệnh quan trọng ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 11. Madec, Neva (1995), “Viêm tử cung và chức năng sinh sản của lợn nái”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập 2. 12. Lê Hồng Mận (2002), Chăn nuôi lợn nái sinh sản ở nông hộ, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
  58. 13. Lê Văn Năm (2009), Hướng dẫn điều trị một số bệnh ở gia súc, gia cầm, Nxb Nông nghiệp. 14. Nguyễn Tài Năng, Phạm Đức Chương, Cao Văn, Nguyễn Thị Quyên (2016), Giáo trình Dược lý học thú y, Nxb Đại học Hùng Vương 15. Nguyễn Như Pho (2002), “Ảnh hưởng của một số yếu tố kỹ thuật chăn nuôi đến hội chứng M.M.A và khả năng sinh sản của heo nái”, Luận án Tiến sỹ nông nghiệp, trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh. 16. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 15. Popkov (1999), “Điều trị bệnh viêm tử cung”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, số 5. 17. Lê Văn Tạo, Khương Bích Ngọc, Nguyễn Thị Vui, Đoàn Băng Tâm (1993), ‘‘Nghiên cứu chế tạo vacxin E. coli uống phòng bệnh phân trắng lợn con“, Tạp chí Nông nghiệp thực phẩm, số 9, trang 324 – 325. 18. Nguyễn Văn Thanh (2004), Phòng và trị một số bệnh thường gặp ở gia súc, gia cầm, Nxb Lao động và xã hội. 19. Nguyễn Văn Thanh (2007), “Khảo sát tỷ lệ mắc và thử nghiệm điều trị bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái ngoại nuôi tại vùng Đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí KHKT Thú y, tập 14, số 3. 20. Nguyễn Văn Thanh, Trần Tiến Dũng, Sử Thanh Long, Nguyễn Thị Mai Thơ (2016), Giáo trình bệnh sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 21. Ngô Nhật Thắng (2006), Hướng dẫn chăn nuôi và phòng trị bệnh cho lợn, Nxb Lao động và xã hội, Hà Nội. 22. Nguyễn Văn Thắng, Đặng Vũ Bình (2005), “So sánh khả năng sinh sản của nái lai F1 (LY) phối với đực Duroc và Pietran”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp,Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Tập III số 2, tr. 140 – 143. 23. Trịnh Đình Thâu, Nguyễn Văn Thanh (2010), “Tình hình bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại và các biện pháp phòng trị”, Tạp chí KHKT Thú y, tập 17.
  59. 24. Lê Văn Thọ (2017), “Chăm sóc nái đẻ đúng cách”, Tạp chí Người chăn nuôi, số 30. 25. Phùng Thị Vân, Lê Thị Kim Ngọc, Trần Thị Hồng (2001), “Khảo sát khả năng sinh sản và xác định tuổi loại thải thích hợp với lợn nái Landrace và Yorkshire”, Báo cáo khoa học viện chăn nuôi phần chăn nuôi gia súc 2000 – 2001, tr 96 – 101 II. Tài liệu Tiếng Anh 26. Dzhunelbaev E. T., Kurenkova N. (1998), “Carcass quality of pure breed and cross breed of pigs”, Animal breeding Abstracts, 66 (4), pp. 2573. 27. Gerasimov V. I., Pron E.V. (1997), “The result of 2 and 3 breed crossing of pigs”, Animal breeding Abstracts, 65 (3), pp. 1395. 28. Jan Gordon (1997), Controlled reproduction in pigs, CAB international. 29. Ostrowski A., Blicharski T. (1997), “Effect of different paternal components on meat quality of cross breed of pigs”, Animal breeding Abstracts, 65 (7), pp. 3587. 30. Smith B. B., Martineau, G., Bisaillon A. (1995), “Mammary gland and lactation problems”, In disease of swine, 7th edition, Iowa state university press, pp. 40 - 57. 31. Taylor D. J. (1995), Pig diseases 6th edition, Glasgow university. 32. Urban V. P., Schnur V. I., Grechukhin A. N. (1983), “The metritis, mastitis agalactia syndome of sows as seen on a large pig farm”, Vestnik selskhozyaistvennoinauki, 6, pp. 69 – 7.
  60. PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH THỰC TẬP TẠI TRẠI LỢN Ảnh 1.Đỡ lợn đẻ Ảnh 2. Tra cám cho lợn mẹ Ảnh 3. Phối lợn Ảnh 4.Cho lợn con uống cầu trùng