Tóm tắt luận án Tư tưởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt luận án Tư tưởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tom_tat_luan_an_tu_tuong_cua_john_locke_ve_phan_chia_quyen_l.pdf
Nội dung text: Tóm tắt luận án Tư tưởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC TRẦN THỊ THU HƢƠNG TƢ TƢỞNG CỦA JOHN LOCKE VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC TRONG TÁC PHẨM “KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN” VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2016-X NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS. TS Nguyễn Thúy Vân HÀ NỘI, 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận “Tư tưởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu của tôi và được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của Giảng viên – PGS. TS Nguyễn Thúy Vân Hà Nội, ngày tháng năm 2020 Sinh viên Trần Thị Thu Hương
- LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS. TS Nguyễn Thúy Vân, người trực tiếp tận tình hướng dẫn và động viên tinh thần trong suốt quá trình giúp em hoàn thành khóa luận. Em cũng xin cảm ơn các thầy, cô giáo giảng dạy trong Khoa Triết học cũng như các thầy cô trong chuyên ban Logic học và các thầy cô trong trường đã truyền đạt cho em nhiều kiến thức bổ ích để thực hiện khóa luận và trang bị cho mình hành trang vững chắc cho sự nghiệp sau này. Mặc dù đã nỗ lực hết sức để hoàn thành khóa luận này, tuy nhiên với khả năng có hạn nên khóa luận tốt nghiệp của em còn nhiều thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý từ phía thầy cô và các bạn để em tiến bộ hơn nữa trong học tập và nghiên cứu. Bên cạnh đó, dù đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu cũng như sự giúp đỡ nhiệt tình từ các thầy cô và anh chị, nhưng do giới hạn kiến thức và khả năng lý luận của bản thân còn nhiều hạn chế, kính mong nhận được sự góp ý và chỉ dẫn của các thầy cô để khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 23 tháng 06 năm 2020 Sinh viên Trần Thị Thu Hương
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 3 1.Lý do chọn đề tài 3 2.Tình hình nghiên cứu 4 3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 9 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 9 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 10 6. Ý nghĩa của đề tài 10 7. Kết cấu của đề tài 10 CHƢƠNG 1: ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CỦA JOHN LOCKE VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC TRONG TÁC PHẨM “KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN” 12 1.1.Những điều kiện kinh tế - xã hội cho sự hình thành tƣ tƣởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nƣớc 12 1.2. Tiền đề lí luận cho sự hình thành tƣ tƣởng về phân chia quyền lực nhà nƣớc của John Locke 18 1.2.1. Tiền đề tư tưởng 18 1.1.2.Quan niệm của John Locke về bản tính con người và quyền con người25 1.3. Khát quát về cuộc đời, sự nghiệp của John Locke và tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” 31 1.3.1. Cuộc đời và sự nghiệp của John Locke 31 1.3.2.Tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” 33 Kết luận chƣơng 1 36 CHƢƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TƢ TƢỞNG CỦA JOHN LOCKE VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC TRONG TÁC PHẨM “KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN” 38 1
- 2.1. Quan niệm của John Locke về nguồn gốc và đặc điểm của quyền lực nhà nƣớc 38 2.1.1. Về nguồn gốc hình thành quyền lực nhà nước 38 2.1.2. Về đặc điểm của quyền lực nhà nước 42 2.2. Tƣ tƣởng về phân chia quyền lực nhà nƣớc của John Locke 46 2.2.1. Nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước 47 2.2.2. Quan niệm của John Locke về vai trò cụ thể của các bộ phận quyền lực nhà nước 51 2.2.3. Mối quan hệ giữa các bộ phận quyền lực trong bộ máy nhà nước 60 Kết luận chƣơng 2 69 CHƢƠNG 3: GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA TƢ TƢỞNG CỦA JOHN LOCKE VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC TRONG TÁC PHẨM “KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN” ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 72 3.1. Giá trị và hạn chế trong tƣ tƣởng của John Locke về phân chia quyền nhà nƣớc 72 3.1.1. Những giá trị cơ bản trong tư tưởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nước 72 3.1.2.Một số hạn chế chủ yếu trong tư tưởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nước 76 3.2.Ý nghĩa tƣ tƣởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nƣớc đối với việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 77 3.2.1. Quá trình nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 77 3.2.2. Ý nghĩa tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước của John Locke đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 83 Kết luận chƣơng 3 93 KẾT LUẬN 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97 2
- MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài “Mọi quyền lực đều hướng tới tha hóa. Quyền lực tuyệt đối thì tha hóa tuyệt đối”. Câu nói trên của sử gia người Anh – Baron Acton đã trở thành một kết luận đanh thép về bản chất quyền lực. Quyền lực luôn có xu hướng mở rộng và tự tăng cường vai trò của mình. Bất cứ ở đâu có quyền lực thì ở đó xuất hiện xu hướng lạm quyền, chuyên quyền, dù quyền lực ấy thuộc về bất cứ ai . Nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt của xã hội, từ khi ra đời đến nay có rất nhiều nhà tư tưởng đã luôn suy tư, trăn trở tìm hiểu bản chất, quy luật vận động của nhà nước trong lịch sử phát triển của nhân loại để nhằm mục đích tìm cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước sao cho có hiệu quả nhất và ngăn ngừa những mặt hạn chế của nó, hướng đến một mô hình nhà nước lí tưởng, đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của xã hội. Chính bởi lẽ ấy mà ngay từ thời cổ đại, các triết gia đã không ngừng trăn trở và suy tư về cách thức xây dựng một mô hình nhà nước lý tưởng, đem lại hạnh phúc cho con người. Trong dòng chảy lịch sử tư tưởng ấy, John Locke (1632 - 1704) là một trong những tên tuổi nổi bật nhất trong lịch sử tư tưởng phương Tây cận đại thế kỷ XVII. Locke để lại rất nhiều tác phẩm cho hậu thế sau này, trong đó “Khảo luận thứ hai về chính quyền” được coi là một trong những danh tác chính trị thế giới, có giá trị lí luận về khoa học chính trị cũng như triết học và nhiều ngành khoa học xã hội khác, đưa tên tuổi của ông trở thành một nhà tư tưởng chính trị sắc xuất thời kì cận đại ở Tây Âu nói riêng và nhân loại nói chung. Trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”, Locke đã đưa ra kiến giải sâu sắc về nhà nước, trong đó quan niệm của ông về quyền lực nhà nước và sự phân chia quyền lực nhà nước. Mặc dù, chưa đưa ra được khái niệm nhà nước pháp quyền nhưng ở trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” Locke đã trình bày những tư tưởng tiến bộ và cách mạng về phân chia quyền lực nhà nước là cơ sở 3
- nền tảng của nhà nước pháp quyền. Cho tới nay, gần 4 thế kỉ trôi qua, nhưng sức hấp dẫn và lôi cuốn của tác phẩm không bị phai mờ. Những quan niệm của John Locke về sự phân chia quyền lực nhà nước không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà còn ở giá trị hiện thời sâu sắc đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Việt Nam đang đi trên con đường thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền với nhiều thách thức lớn trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, làn sóng cuộc cách mạng công nghệ 4.0, có nhiều những vấn đề thực tiễn đặt ra cần phải giải quyết. Trong những năm qua, Đảng ta lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân cho dân và vì dân, quyền lực nhà nước tập trung thống nhất không phân chia, mà chỉ có sự phân công, phối hợp hoạt động giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, với mục đích đảm bảo hiệu quả hoạt động nhà nước và ngăn ngừa sự lạm quyền. Vì vậy, việc trở lại nghiên cứu những tư tưởng của phương Tây thời kì cận đại với những quan điểm về nhà nước, quyền lực, xã hội công dân, về con người, trong đó có tư tưởng của John Locke có ý nghĩa lý luận quan trọng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Do vậy, với tất cả những lý do trên, tôi chọn “Tư tưởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. 2.Tình hình nghiên cứu Tư tưởng về phân chia quyền lực nhà nước là nội dung thu hút nhiều sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở các lĩnh vực khác nhau. Liên quan đến đề tài khóa luận có thể khái quát công trình nghiên cứu thành hai hướng chính như sau: 4
- Hướng nghiên cứu thứ nhất là nhóm các công trình nghiên cứu đề cập đến tư tưởng triết học của John Locke nói chung và tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” nói riêng Đối với hướng nghiên cứu tập trung vào tư tưởng triết học của John Locke nói chung gồm có nhiều công trình như: + Cuốn Lịch sử triết học do Nguyễn Hữu Vui chủ biên. Trong cuốn sách, tác giả đã trình bày các quan niệm triết học của John Locke nhưng chủ yếu tập trung vào phương diện nhận thức luận, chưa đề cập đến triết học chính trị của Locke. + Giáo trình Lịch sử các học thuyết chính trị do Nguyễn Đăng Dung chủ biên đã trình bày một cách khái quát triết học chính trị của John Locke với những nội dung chủ yếu được khảo sát từ tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”. Các quan niệm của John Locke về pháp quyền tự nhiên, và nhà nước đã được trình bày còn sơ lược và chưa mang tính hệ thống. + Cuốn Đại cương lịch sử triết học phương Tây của TS. Đỗ Minh Hợp, TS. Nguyễn Thanh, TS. Nguyễn Anh Tuấn phân tích khá toàn diện về các quan niệm triết học của John Locke. Tuy nhiên, những quan niệm chính trị - xã hội của J. Locke cũng được các tác giả trình bày và phân tích mang tính hệ thống. Ngoài ra, tư tưởng triết học của Locke nói chung và tư tưởng về nhà nước nói riêng còn được đề cập đến trong các giáo trình như: cuốn Lịch sử triết học phương Tây từ triết học Hy Lạp cổ đại đến triết học cổ điển Đức của Nguyễn Tấn Hùng, Đại cương các tư tưởng và học thuyết chính trị trên thế giới do Nguyễn Thế Nghĩa chủ biên, cuốn Lịch sử triết học phương Tây của Nguyễn Tiến Dũng, cuốn Lịch sử các học thuyết chính trị của Lưu Kiểm Thanh và Phạm Hồng Thái, cuốn Lịch sử tư tưởng chính trị của Học viện hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, cuốn Lịch sử triết học phương Tây của Trần Văn Phòng và 5
- Dương Minh Đức Nhìn chung các công trình trên chủ yếu bàn về quan điểm chính trị, xã hội của John Locke như một phần không thể thiếu trong tư tưởng chính trị cận đại ở phương Tây. Bên cạnh đó, còn rất nhiều công trình nước ngoài viết về John Locke đã được dịch và xuất bản. Trước hết phải kể đến cuốn sách 106 nhà thông thái của P.S.Taranop biên soạn, do TS. Đỗ Minh Hợp dịch, hiệu đính và cho xuất bản năm 2000. Tiếp đến, tác phẩm 100 cuốn sách ảnh hưởng khắp thế giới do Đặng Thục Sinh (chủ biên) xuất bản năm 2002. Trong đó, tác giả đã trình bày khái quát những nội dung chủ yếu trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” của John Locke và cũng đã khẳng định giá trị to lớn của những tư tưởng về quyền con người và nhà nước trong tiến trình phát triển của nhân loại. Tác phẩm Các triết thuyết lớn, của tác giả Folscheid Dominique do Huyền Giang dịch và được xuất bản năm 2003. Trong cuốn sách này, tác giả đã giới thiệu cho bạn đọc sơ lược về tiểu sử cùng học thuyết chính trị của John Locke với hai nội dung chính là trạng thái tự nhiên và khế ước xã hội. Hay như công trình Lịch sử triết học và các luận đề của Samuel Enoch Stumpf, Đỗ Văn Thuấn và Lưu Văn Huy biên dịch xuất bản năm 2004, đã giới thiệu khái quát về cuộc đời, các tác phẩm tiêu biểu và các quan niệm triết học cơ bản là học thuyết về nhận thức và lý thuyết về đạo đức và chính trị của John Locke nhưng mới chỉ dừng ở mức giới thiệu sơ lược, các vấn đề đưa ra còn thiếu sự phân tích. Đối với hướng nghiên cứu tập trung về tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” và tư tưởng của John Locke được thể hiện trong tác phẩm. Ở hướng nghiên cứu này tập trung ở các luận văn, tạp chí, bài báo nghiên cứu gồm có: + Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Thị Dịu (2009) với đề tài “Quan niệm chính trị xã hội của John Locke” với hai nội dung chính quan niệm chính trị và xã hội. Tác giả nghiên cứu làm rõ quan niệm của ông về con người và quyền con 6
- người, cũng như về quyền lực nhà nước và quan niệm của ông về sự giải thể của chính quyền. Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra những kiến giải cụ thể về nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước, cũng chưa chỉ ra được cơ sở hình thành quan niệm về nhà nước. + Luận văn Thạc sỹ của Đinh Thị Hồng Vững (2013) với đề tài, “Quan niệm của John Locke về nhà nước trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền”. Trong tác phẩm tác giả đã trình bày chi tiết cụ thể quan niệm về nhà nước từ nguồn gốc hình thành, mục đích, giới hạn, cũng như sự phân chia quyền lực và giải thể chính quyền. + Luận văn Thạc sỹ của Đặng Thị Loan (2017) với đề tài “Quan niệm của John Locke về sở hữu trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”” và giá trị hiện thời của nó”. Trong luận văn, tác giả đưa ra kiến giải về quan niệm nguồn gốc, bản chất của sở hữu và phương thức bảo đảm quyền tư hữu. Khi nghiên cứu về John Locke chúng ta không thể không nhắc đến nỗ lực của dịch giả Lê Tuấn Huy, đã dịch một cách thành công tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” và được xuất bản vào năm 2007 và tái bản năm 2013. Trong suốt quyển sách này, tác giả đã giới thiệu một cách chi tiết về John Locke, khái quát nội dung tác phẩm và dịch toàn bộ tác phẩm này sang tiếng Việt. Bên cạnh đó, cũng có nhiều tạp chí, bài báo khoa học có liên quan như: Quan niệm của John Locke về quyền sở hữu trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền (2012), Một số tư tưởng triết học chính trị của John Locke: Thực chất và ý nghĩa lịch sử của Đinh Ngọc Thạch (2007), John Locke -Nhà tư tưởng lớn của phong trào khai sáng của Phạm Văn Đức (2008), Quan niệm của John Locke về sự hình thành và bản chất quyền lực nhà nước trên Tạp chí Thông tin chính trị và Locke và Triết lí về con người của Lê Công Sự trên tạp chí con người . 7
- Hướng nghiên cứu thứ hai là những công trình nghiên cứu sâu về tư tưởng phân chia quyền lực của John Locke, bao gồm: + Cuốn Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước của tác giả Nguyễn Thị Hồi được Nxb Tư pháp Hà Nội xuất bản năm 2005. Trong cuốn sách này tác giả đã nghiên cứu tư tưởng phân chia quyền lực trong lịch sử triết học từ Aristotle, Locke, Montesqieu, Rousseau và việc áp dụng tư tưởng phân quyền ở một số nước tiêu biểu trên thế giới. + Cuốn Nhà nước pháp quyền của tác giả Đào Trí Úc được Nxb Đại học quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2015. Cuốn giáo trình này có đi sâu nghiên cứu hệ thống về Nhà nước pháp quyền, phân tích, lý giải khoa học về tính phổ quát và tính quốc gia, dân tộc đặc thù của Nhà nước pháp quyền, khẳng định Nhà nước pháp quyền là phương thức tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước phù hợp với điều kiện và đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam, khái quát những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền, coi đó là yếu tố hợp thành Nhà nước pháp quyền với tính cách là những yêu cầu, đòi hỏi, là hệ thống các nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước; phân tích và khái quát quá trình phát triển của các yếu tố cần và đủ cho việc xác lập và củng cố Nhà nước pháp quyền, từ đó chỉ ra nhu cầu bổ sung, hoàn thiện trong việc đổi mới tổ chức, cơ chế, phương thức hoạt động, cơ sở pháp lý, cho các thiết chế quyền lực Nhà nước và các thiết chế xã hội nhằm đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong cuốn sách tác giả cũng phân tích hệ thống quá hình thành và phát triển của tư tưởng Nhà nước pháp quyền từ cổ đại đến hiện đại cơ bản và hệ thống, trong đó phân tích hệ thống tư tưởng phân quyền của John Locke. 8
- Các tài liệu đã đưa ra những luận giải rất logic và rõ ràng khái quát về toàn bộ tư tưởng của John Locke nói chung, cũng như quan điểm chính trị nói riêng, trong đó có quan niệm sự hình thành xã hội công dân, về quyền lực nhà nước, tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước. Tuy vậy, có thể nói, việc đi sâu nghiên cứu quan niệm của John Locke về sự phân chia quyền quyền lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” vẫn cần phải nghiên cứu sâu hơn để làm rõ những nội dung tư tưởng căn bản cũng như ý nghĩa của tư tưởng đó đối với xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. 3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Đề tài làm rõ một số tư tưởng cơ bản về phân chia quyền lực nhà nước của John Locke trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”, từ đó làm rõ ý nghĩa của những tư tưởng đó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích trên, khóa luận tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau: + Phân tích những điều kiện, tiền đề tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng về phân chia quyền lực nhà nước của John Locke và giới thiệu khái quát về tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”. + Phân tích một số quan điểm cơ bản của John Locke về phân chia quyền lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”. + Đánh giá những giá trị và hạn chế trong quan niệm của ông về phân chia quyền lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” và chỉ ra ý nghĩa của nó trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 9
- - Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và dựa vào phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin trong nghiên cứu lịch sử triết học; đồng thời kế thừa, tham khảo có chọn lọc các công trình của các nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài. - Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp của phép biện chứng duy vật trong việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng. Cụ thể là, phương pháp lôgíc kết hợp với phương pháp lịch sử, phân tích và tổng hợp, khái quát hoá và so sánh 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm của J. Locke về phân chia quyền lực nhà nước và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay - Phạm vi nghiên cứu: Với những mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu trên, nên khóa luận tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản của quan niệm về sự phân quyền nhà nước của John Locke trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” và những nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam từ đổi mới đến nay. 6. Ý nghĩa của đề tài Đề tài góp phần vào việc làm sáng tỏ quan niệm về sự phân quyền nhà nước của John Locke trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”, trên cơ sở đó giúp người nghiên cứu và học tập có những đánh giá khách quan hơn về công lao của John Locke đối với lịch sử tư tưởng chính trị nhân loại và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. 7. Kết cấu của đề tài 10
- Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3 chương, 7 tiết. 11
- CHƢƠNG I: ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CỦA JOHN LOCKE VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC TRONG TÁC PHẨM “KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN” 1.1.Những điều kiện kinh tế - xã hội cho sự hình thành tƣ tƣởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nƣớc Tây Âu từ thế kỉ XV – XVII có những chuyển biến phức tạp và sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự xuất hiện một loạt các công trường thủ công, các thành thị và trung tâm thương mại lớn ở khắp các nước ven Địa Trung Hải, nhất là Ý, sau đó là Anh, Pháp. Bằng việc một loạt các phát minh kỹ thuật mới như máy kéo sợi, máy in, công nghiệp dệt, luyện kim, thuốc súng, đã thay thế nền kinh tế tự nhiên kém phát triển bằng một nền sản xuất công trường thủ công đem lại năng suất lao động cao hơn gắn với việc nhiều công cụ lao động được cải tiến và hoàn thiện. Các cuộc phát kiến địa lý như tìm ra châu Mỹ và các con đường đến vùng đất mới cùng với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp đã tạo nên những tiền đề trực tiếp cho một thời kỳ mới tạo điều kiện phát triển cho nền sản xuất theo hướng tư bản chủ nghĩa. Nhờ đó thị trường trao đổi hàng hóa giữa các nước ngày càng mở rộng, các cuộc giao lưu Đông – Tây được tăng cường. Những mầm mống tư bản chủ nghĩa đầu tiên đã xuất hiện và phát triển trong lòng xã hội phong kiến. Đồng thời, sự phân hóa giai cấp ở Tây Âu thời kì này càng rõ rệt, đó sự nảy sinh hai giai cấp mới: tư sản và vô sản. Tầng lớp tư sản xuất hiện gồm chủ xưởng công trường, xưởng thợ, chủ thuyền buôn có vai trò và vị trí trong nền kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Hàng loạt nông dân di cư từ nông thôn ra thành phố, trở thành người làm thuê cho các công xưởng, họ là giai cấp vô sản phải bán sức lao động cho nhà tư bản. Các tầng lớp xã hội trên đại diện cho nền sản xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ phong kiến. 12
- Nền kinh tế tư bản thay thế cho sản xuất phong kiến, nhưng kiến trúc thượng tầng của xã hội châu Âu lúc này vẫn là chế độ phong kiến lạc hậu kìm hãm sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa. Mặc dù nắm trong tay tiềm lực kinh tế nhưng giai cấp tư sản không có chút địa vị chính trị nào, không có điều kiện tự do phát triển sản xuất, vẫn phải phụ thuộc vào chế độ phong kiến, vào giai cấp quý tộc, địa chủ lúc này đã trở nên lạc hậu. Do đó, để có thể tự do phát triển sản xuất, tự do buôn bán giai cấp tư sản cần phải lật đổ chế độ phong kiến, giành quyền lực chính trị. Chính vì thế, Tây Âu thời kì này đánh dấu hàng loạt những cuộc cách mạng tư sản nổ ra, tiêu biểu như cách mạng tư sản năm 1566 ở Hà Lan, cách mạng tư sản Anh năm 1642, cách mạng tư sản Pháp năm 1789 Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành phương thức sản xuất thống trị trở thành một xu thế của lịch sử mà không gì có thể ngăn cản nổi. Đồng thời, giai đoạn này là giai đoạn phong trào văn hoá Phục hưng và cận đại phát triển lên đến đỉnh cao vào thế kỷ XVI và lan mạnh ra khắp các nước tạo thành một cao trào rộng lớn làm biến đổi sâu sắc xã hội, tư tưởng khôi phục lại những giá trị văn hóa tinh hoa của thời kỳ cổ đại ở Tây Âu, vừa đã thổi bùng lên những khát vọng giải phóng con người và quyền con người, cụ thể là thoát khỏi sự kìm kẹp của nhà thờ với những điều luật khắt khe. Những biến đổi sâu sắc và phức tạp ở Tây Âu trên tất cả các lĩnh vực của toàn bộ đời sống xã hội thời kì này đã tác động mạnh mẽ đến điều kiện kinh tế, xã hội và chính trị nước Anh thế kỉ XVII. Chính những biến chuyển mạnh mẽ của nước Anh nói riêng và cả Tây Âu nói chung trong cuộc đấu tranh gay gắt giữa tư bản và phong kiến đã làm xuất hiện những tiền đề trực tiếp cho sự ra đời của quan niệm triết học chính trị của John Locke. Về kinh tế, nước Anh thế kỉ XVII là một trong những cường quốc ở châu Âu với sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp và thương nghiệp. Từ cuối thế kỷ XVI, các ngành công nghiệp ở Anh đã phát triển rất mạnh. Những phát minh 13
- mới về kỹ thuật, nhất là những hình thức mới trong lao động đã tạo ra năng suất lao động ngày một cao, thay đổi căn bản cách thức sản xuất chủ yếu bằng lao động thủ công sang sử dụng máy móc và từng bước hình thành cơ cấu công nghiệp hoàn chỉnh, từ sản xuất quy mô nhỏ lên quy mô lớn với sự xuất hiện các khu công nghiệp. Đặc biệt là ngành nghiệp sản xuất len dạ cung cấp một lương hàng xuất khẩu chiếm 80% toàn bộ hàng xuất khẩu ở Anh. Đây là thời kỳ các phường hội trung cổ ở Anh đến thế kỷ XVII đã đi đến chỗ tan rã. Công trường thủ công với nền sản xuất quy mô lớn xuất hiện thay thế cho các phường hội trung cổ. Các chủ thủ công nghiệp ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế, họ trở thành giai tầng mới nắm giữ sức mạnh kinh tế - giai cấp tư sản, thợ thủ công trở thành lao động làm thuê trong các công trường thủ công, phải lệ thuộc vào nhà tư sản. Thương nghiệp của Anh trong thời kỳ này cũng có bước phát triển vượt bậc trên thị trường thế giới. Thương nhân mở rộng buôn bán trên khắp châu Âu, thông qua những con đường hàng hải mới tìm được trong các cuộc phát kiến địa lý mở rộng thị trường buôn bán từ biển Ban Tích sang tận châu Phi, châu Á và cả châu Mỹ. Các công ty buôn bán lớn lần lượt xuất hiện như công ty Đông Ấn của Anh thành lập năm 1600 Đầu thế kỉ XVII, nước Anh mặc dù đạt được một số thành tựu về công thương nghiêp nhưng vẫn là một nước nông nghiệp. Để có được lợi nhuận, giai cấp tư sản không từ một thủ đoạn nào để tước đoạt ruộng đất của nông dân . Do sự phát triển của ngành công nghiệp len dạ ngày càng lớn mạnh nên nghề nuôi cừu càng phát triển. Địa chủ lúc này không thỏa mãn với thu nhập từ địa tô nông dân nộp cho, muốn chuyển hướng kinh doanh sang trồng cỏ nuôi cừu. Do đó, giới địa chủ Anh đã tước đoạt ruộng đất của nông dân đang cày cấy và đất đai công xã thành của mình. Biến ruộng đất thành những cánh đồng trồng cỏ hoặc tự mình kinh doanh nuôi cừu hoặc nuôi cừu thuê. Nông dân mất ruộng đất, nhà cửa. Họ trở thành những người không có bất cứ cái gì cả, không có một tài sản nào khác ngoài chính thân thể của mình và đem bán chính sức lao động của 14
- mình để kiếm sống, bạo lực của kẻ cường quyền đã tách người nông dân ra khỏi tư liệu sản xuất từ đây trong xã hội xuất hiện một giai cấp mới đó là giai cấp vô sản. Đó là thảm cảnh cừu ăn thịt người mà Thomas More đã đặc tả trong tác phẩm Utopia. Tất cả đó nói lên sự xâm nhập mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản vào nông thôn và làm chuyển biến kinh tế nông nghiệp phong kiến ở Anh thành kinh tế nông nghiệp tư bản chủ nghĩa. Những chuyển biến về kinh tế tất yếu kéo theo những biến đổi sâu sắc trong lòng xã hội nước Anh. Các tầng lớp trong xã hội nước Anh có sự phân hóa và mâu thuẫn sâu sắc. Bên cạnh mâu thuẫn cũ tồn tại lâu đời giữa nông dân với giai cấp phong kiến, trong lòng xã hội nước Anh còn xuất hiện nhiều mâu thuẫn mới. Thứ nhất, đó là mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc mới với tầng lớp cũ tộc cũ. Tầng lớp quý tộc cũ là tầng lớp có địa vị cao trong xã hội, có nhiều đặc quyền đặc lợi hơn, ra sức bảo vệ và ủng hộ chế độ quân chủ chuyên chế. Trong khi đó, tầng lớp quý tộc mới, tức quý tộc đã tư sản hóa, có quyền lợi gắn chặt giai cấp tư sản không chỉ thu địa tô mà phần lớn lợi nhuận là từ sản xuất công thương nghiệp. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản đã vươn lên trở thành một lực lượng có tiềm lực kinh tế mạnh trong xã hội ở Anh, nhưng họ lại không có chút quyền lực và địa vị chính trị nào. Nền quân chủ chuyên chế với những thể chế bảo thủ, can thiệp quan liêu vào toàn bộ đời sống, trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của của lực lượng sản xuất mới, đại diện là giai cấp tư sản. Chính bởi vậy, một tất yếu là dẫn đến những xung đột về mặt chính trị, giai cấp tư sản luôn không khoan nhượng, luôn muốn đấu tranh để giành lấy địa vị chính trị từ tay giai cấp phong kiến. Thứ hai, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với nhân dân lao động. Họ là những người lao động nghèo bị cướp hết ruộng đất, biến họ trở thành người vô 15
- sản. Họ buộc phải bán sức lao động của mình cho nhà tư bản và các nhà quý tộc mới để nhận lấy tiền công rẻ mạt. Bị bóc lột nặng nề với 2 tầng xiềng xích nên họ luôn mang trong mình mâu thuẫn với giai cấp tư sản và phong kiến. Ở thế kỉ XVII, tình hình chính trị nước Anh có nhiều biến động. Đến giữa thế kỷ XVII, nước Anh vẫn là một quốc gia phong kiến quân chủ chuyên chế. Vua nắm trong tay mọi cơ quan quyền lực của đất nước. Giữa thế kỷ XVII, chuyển biến sâu sắc trong cơ cấu nghị viện, khi các quý tộc mới dần chiếm vị trí của các quý tộc cũ trong Viện thứ dân, dẫn đến xung đột ngày một trầm trọng giữa nhà vua và nghị viện trong việc tranh giành quyền lực. Trong lúc đó, Charles I âm mưu phục hồi chế độ phong kiến và lợi dụng những tranh chấp trong Nghị viện để tiến hành cuộc phản kích, dẫn đến cuộc nội chiến lần thứ hai bùng nổ năm 1648. Cromwell tập hợp quần chúng nhân dân và giai cấp tư sản, quý tộc mới chống lại chế độ phong kiến nhằm thủ tiêu vương quyền, xóa bỏ hình thức cha truyền con nối những năm 50 của thế kỷ XVII. Cuộc cách mạng thành công, phe cách mạng thắng lợi và việc xử tử Charles I đánh dấu một bước tiến mới của cách mạng và thiết lập nền bảo hộ của Oliver Cromwell. Sau khi Cromwell mất, chế độ bảo hộ cũng bị sụp đổ theo và được thay thế bằng sự phục hồi của vương triều Charles II với việc quay trở về với nền quân chủ, viện quý tộc và giáo hội. Điều này đe dọa số phận của tầng lớp tư sản và quý tộc mới. Nước Anh lúc này lại tiếp tục có những xung đột gay gắt giữa nhà vua và nghị viện, những tranh cãi kéo dài về vấn đề tôn giáo và chính trị, khiến nghị viện cứ được triệu tập lại giải tán rất nhiều lần trong những năm 1660 - 1688. Sau khi Charles II mất, James II lên nắm quyền từ 1685 - 1688 với ý đồ xác lậpvương quyền phong kiến, thi hành nhiều chính sách như cho các quý tộc 16
- lớn theo Thiên Chúa giáo quay trở lại tham gia chính quyền để củng cố thế lực phong kiến, ra lệnh thu thuế mà không đợi triệu tập nghị viện, bãi bỏ luật “Bảo đảm thân thể” Do đó giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc mới tìm cách lật đổ bằng việc dựa vào William III là quốc trưởng Hà Lan và là chồng của công nương Marry II. Vua James II bị trục xuất khỏi nước Anh và ngôi vị được trao cho William III và vợ, cùng với đó là việc chuyển từ chế độ quân chủ chuyên chế sang chế độ quân chủ lập hiến. Quyền lực tối cao được chuyển từ tay nhà vua sang quý tộc mới và tư sản, làm thay đổi căn bản thể chế chính trị nước Anh. Lịch sử gọi cuộc chính biến 1688 - 1689 là cuộc “Cách mạng vinh quang”. Bên cạnh những mâu thuẫn về mặt chính trị, những cuộc xung đột tôn giáo giữa người Anh giáo, người Tin lành và người Công giáo đã đẩy nước Anh vào những cuộc nội chiến kéo dài. Những điều kiện kinh tế, xã hội nước Anh đã ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng của John Locke và đó là lí do trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền ông sử dụng nhiều điển tích tôn giáo trong quan niệm của mình. Cuộc cách mạng tư sản Anh là một sự kiện lịch sử quan trọng không chỉ trong lịch sử nước Anh mà cả lịch sử thế giới. Nó đã đập tan nền quân chủ phong kiến, thiết lập chế độ tư bản chủ nghĩa mở đường cho sức sản xuất phát triển. Cuộc Cách mạng vinh quang đã thay đổi chính thể nước Anh một cách hòa bình, đem lại tự do cho giai cấp tư sản, quý tộc và toàn thể nhân dân Anh. Tuy nhiên, cuộc cách mạng tư sản Anh là cuộc cách mạng không triệt để, bởi thực chất của cuộc cách mạng này là sự thỏa hiệp giai cấp giữa tư sản, quý tộc mới với giai cấp phong kiến để bảo vệ quyền lợi và địa vị của mình. Sau khi cách mạng giành thắng lợi, vấn đề ruộng đất cho nông dân vẫn không được giải quyết. Liên minh giữa giai cấp tư sản và quý tộc mới vừa chống lại chế độ phong kiến vừa chống lại quần chúng nhân dân. Sở dĩ có sự thỏa hiệp như vậy là vì giai cấp tư sản trong thời kỳ này chưa đủ lớn mạnh để lấn át hoàn toàn giai 17
- cấp phong kiến dẫn đến tư tưởng đấu tranh không triệt để. Thực tiễn này ảnh hưởng rất nhiều đến tư tưởng của Locke khi đề cao nhà nước dân chủ nhưng ông lại cho rằng nhà nước lý tưởng nhất phải là nhà nước quân chủ lập hiến. Trước bối cảnh nước Anh nói trên, không chỉ là một nhân chứng lịch sử, hơn nữa còn tham dự vào các sự kiện chính trị đó, đặc biệt là cuộc cách mạng vinh quang 1689, lịch sử nước Anh thế kỉ XVII đã ảnh hưởng trực tiếp tới quan niệm chính trị của John Locke. Quan niệm đó được phản ánh đậm nét trong tác phẩm tiêu biểu của ông, đó là tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”. 1.2. Tiền đề lí luận cho sự hình thành tƣ tƣởng về phân chia quyền lực nhà nƣớc của John Locke Tư tưởng của Locke về phân chia quyền lực nhà nước không chỉ xuất phát trực tiếp từ bối cảnh lịch sử nước Anh thế kỉ XVII, mà còn ra đời dựa trên sự kế thừa tư tưởng phương Tây từ thời cổ đại, tư tưởng về bản tính con người và quyền tự nhiên cơ bản của con người của chính bản thân Locke. 1.2.1. Tiền đề tƣ tƣởng Tư tưởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nước ra đời không chỉ xuất phát trực tiếp từ bối cảnh xã hội mà còn ra đời dựa trên kế thừa những tư tưởng của các nhà triết học Tây Âu trước đó. Đó là lí tưởng về mô hình nhà nước lí tưởng, trong đó đề cao vai trò tối thượng của luật pháp. Luật pháp chính là quyền lực nhà nước cao nhất mà bất kì nhà nước lí tưởng nào muốn hướng đến, bởi pháp luật quy định quyền, nghĩa vụ của con người trong xã hội. Luật pháp thể hiện quyền lực hợp pháp buộc mọi người phải tuân theo. Đó là ý tưởng về việc phải phân chia quyền lực nhà nước thành các bộ phận để thực thi nhiệm vụ và hoạt động có hiệu quả. Ở phương Tây cổ đại, tư tưởng phân chia quyền lực lần đầu tiên được xuất hiện trong tác phẩm “Chính trị luận” của Aristotle (384 – 322 TCN) . Aristotle cho rằng để đảm bảo sự công bằng trong dân chúng, và có được những 18
- đạo luật công bằng thì nhà nước phải được tổ chức có quy củ, để có sự quy củ này thì mọi nhà nước đều phải có 3 bộ phận. Trong tác phẩm “ Chính trị luận”, ông viết “Phần thứ nhất, chịu trách nhiệm nghiên cứu, thảo luận và quyết nghị về những vấn đề công cộng. Phần thứ hai, là phần tử chịu trách nhiệm về hệ thống viên chức chính quyền - những ai đủ tiêu chuẩn, những giới hạn của thẩm quyền chính trị, và cách thức bổ nhiệm viên chức chính quyền, cuối cùng là bộ phận chịu trách nhiệm về quyền tư pháp” [1, 240] Về bộ phận thứ nhất, cơ quan nghị quyết hay còn gọi là Hội đồng nhân dân được ông chỉ rõ các chức năng là: “phần tử hay cơ quan bình nghị có thẩm quyền trên những vấn đề chiến tranh hay hòa bình, liên kết đồng minh, thông qua luật pháp, ấn định tội tử hình hay lưu đày biệt xứ, tịch thu tài sản, bầu cử quan chức, và kiểm soát của quan lại” [1, 247]. Nói như ngôn ngữ hiện nay thì cơ quan nghị quyết nắm quyền lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của một quốc gia. Số lượng, cách thức lựa chọn các thành viên và quyền hạn của Hội nghị công dân có liên quan tới hình thức nhà nước: ở chế độ dân chủ mọi công dân đều được tham gia Hội nghị nhân dân và có quyền quyết định mọi vấn đề trọng yếu của đất nước; chế độ đầu sỏ chính trị thì chỉ một số công dân đặc biệt mới được tham gia quyết định các vấn đề nhà nước; còn trong chế độ quý tộc thì một bộ phận quyết định vấn đề này, trong khi một bộ phận khác quyết định những vấn đề khác Về bộ phận thứ hai, ông gọi là cơ quan chính quyền để chỉ những bộ phận thực thi pháp luật trong nhà nước, ngày nay chúng ta gọi đó là cơ quan hành pháp. Aristotle cho rằng cần có cơ quan để chăm lo cho từng việc cụ thể trong nhà nước: quản lý kinh tế, lao động, quản lý đường xá, nhà cửa, quản lý đất đai, quân đội Nhưng cần có một cơ quan cao nhất, có quyền chỉ huy toàn bộ nhân dân với tư cách như là người đứng đầu nhà nước. Theo ông, trong chế độ dân chủ, các pháp quan được chọn ra từ trong toàn thể nhân dân, trong chế độ đầu sỏ 19
- chính trị thì được chọn ra từ một đẳng cấp đặc biệt, còn trong chế độ quý tộc thì một số pháp quan được chọn ra từ nhân dân, và một số khác được chọn ra từ những đẳng cấp trên trong xã hội. Về cơ quan tư pháp, Aristotle chia ra rất nhiều loại, có 8 loại tòa án khác nhau, tuỳ theo tính chất và đặc điểm các vụ việc mà toà án đó chuyên giải quyết. Về cách thức lựa chọn các thẩm phán, ông cũng chỉ ra nhiều dạng tuỳ theo hình thức nhà nước. Việc mọi công dân đều có thể trở thành thẩm phán là đặc điểm của nhà nước dân chủ. Còn nếu chỉ có một số công dân thuộc những đẳng cấp nhất định mới có thể trở thành thẩm phán thì đó là cách thức của chế độ đầu sỏ chính trị. Còn nếu tuỳ theo từng vụ việc cụ thể mà chọn thẩm phán trong nhân dân hay trong những người đặc biệt là biểu hiện của chế độ quý tộc. Aristotle nhấn mạnh đến tính tối cao của pháp luật trong một nhà nước được tổ chức theo đúng nghĩa của nó. Ông cho rằng nhà nước có công bằng hay không đều phải gắn với pháp luật, chỉ có pháp luật mới là tiêu chuẩn để điều chỉnh cho mọi hoạt động trong xã hội. Dù là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên đề cập tới vấn đề phân chia quyền lực, nhưng tư tưởng này của Aristotle vẫn chưa chứa đựng quan điểm phân chia quyền lực theo tinh thần của thuyết phân chia quyền lực hiện đại, tuy nhiên ông mới chỉ dừng lại ở mô tả bộ máy nhà nước mà chưa đi sâu, chỉ ra mối liên hệ giữa các cơ quan nhà nước, cũng như chưa chỉ được ra nguyên nhân phải chia quyền lực nhà nước thành các nhánh quyền lực như vậy. Tuy nhiên, đây là những tiền đề tư tưởng rất quan trọng để John Locke kế thừa và phát triển cho cho tư tưởng về phân chia quyền lực trong nhà nước của mình sau này. Sau Aristotle, Polybe và Ciceron cũng thể hiện tư tưởng về phân chia quyền lực. Theo Polybe (200 -120 TCN), một nhà nước được tổ chức một cách hợp lí là nhà nước hỗn hợp của ba chính quyền – ba thế lực chính trị: chính quyền của nhà vua, chính quyền của quý tộc và chính quyền nhân dân. Theo đó, 20
- tương ứng với ba quyền: quyền hành pháp thuộc về tay nhà vua, quyền lập pháp thuộc về viện nguyên lão của giới quý tộc và quyền tư pháp thuộc về sự phán xét của nhân dân. Ông cũng chỉ ra cách thức thực hiện quyền lực, mối quan hệ, sự tác động giữa các chính quyền với nhau. Còn đối với Cicero (106 – 43TCN), trong tác phẩm “Đối thoại” ông cho rằng một phần quyền lực nhà nước phải được phân chia và trao cho quyền uy của những người chiếm hàng đầu, còn một số công việc khác phải dành cho nhân dân giải quyết và phán xét. Như vậy, tư tưởng phân chia quyền lực của các nhà triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại chủ yếu tập trung thể hiện: Một là mô tả các cơ quan của bộ máy nhà nước mà chưa đi sâu vào mối liên hệ giữa chúng và chưa chỉ được ra nguyên nhân phải chia quyền lực nhà nước thành các cơ quan như vây. Hai là sự phân biệt hay kết hợp giữa các phương thức cai trị mà chưa phải là sự phân chia các nhánh quyền lực nhà nước. Tiếp theo thời kì Hy Lạp – Lã Mã cổ đại, thời kì Trung cổ kéo dài hằng trăm năm dưới sự thống trị của vương quyền và thần quyền. Trong đó, chế độ thần quyền luôn chiếm ưu thế, tòa án giáo hội là cơ quan xét xử cao nhất và giáo lý tôn giáo luôn ngự trị trong đời sống người dân. Đây là thời kì nổi bật sự thống trị của nhà thờ và tôn giáo. Nhà thờ vừa chiếm hữu tài sản, vừa nắm toàn bộ quyền lực chính trị và pháp luật. Nhà nước đồng nhất với nhà thờ, bởi nhà thờ là một tổ chứ tập quyền hùng mạnh, thống trị về tinh thần và chính trị. Vì vậy, tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước thời kì này bị hạn chế và không được đề cao. Sang đến thời kì Phục hưng, châu Âu tràn ngập những biến cố lịch sử. Trong thời kỳ này, không chỉ phục hồi giá trị văn hóa của thời kỳ cổ đại mà còn gạt bỏ những giáo lý của nhà thờ ra khỏi đời sống của con người, đề cập quyền cơ bản của con người, quyền tự do, quyền công dân, đòi tách nhà nước ra khỏi 21
- nhà thờ. Tư tưởng chống lại tư tưởng chuyên chế và thần quyền, xã hội xuất hiện nhu cầu cần phải tăng cường quyền lực nhà nước đảm bảo quyền tự nhiên của con người. Vì thế, đây là thời kì mà thuyết pháp quyền tự nhiên trở nên rộng rãi. Lý thuyết pháp quyền tự nhiên thời kì Phục hưng và cận đại có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng về tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước của John Locke. Những người theo thuyết pháp quyền tự nhiên, một mặt cho rằng sự điều hành xã hội phải dựa trên tự nhiên và pháp luật, phải tôn trọng quyền tự do, bình đẳng của con người. Mặt khác, họ đưa ra nguyên tắc tất cả mọi người kể cả vua chúa cho đến thần dân đều phải tuân theo pháp luật. Nói chung, đó là tư tưởng về quyền tư nhiên của con người cần được pháp luật bảo vệ. Đó là ý tưởng đề cao một nhánh quyền lực quan trọng của nhà nước, và các cơ quan trong nhà nước trong việc đề ra và thực thi pháp luật. Lý thuyết pháp quyền tự nhiên ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Locke về tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước. Bởi trên cơ sở kế thừa và tiếp thu và phát triển quan điểm những nhà triết học đó quyền tự nhiên của con người là quyền chính đáng, vốn có, không ai có thể xâm phạm đến đã đưa Locke đến với suy tư và trăn trở về mô hình tổ chức nhà nước với luật pháp như thế nào để bảo vệ cho quyền tự nhiên của con người không bị xâm phạm. Đầu tiên, phải kể đến Hugo Grotius (1583 - 1645), nhà luật học nổi tiếng người Hà Lan có vai trò to lớn trong việc giải thoát lý luận nhà nước và pháp luật khỏi sự bảo hộ của thần học và chủ nghĩa kinh viện trung đại, trong tác phẩm xuất sắc nhất của mình, được viết khi ông đang phải sống lưu vong ở Pháp - “Bàn về pháp luật của chiến tranh và hoà bình” (1625), đã đưa ra các luận điểm nổi tiếng của pháp luật tự nhiên. Theo Grotius, pháp luật cũng như nhà nước, bắt nguồn từ trần gian chứ không phải bắt nguồn từ Thượng Đế, pháp luật tự nhiên và pháp luật thực định cùng tồn tại song song. Pháp luật tự nhiên là thứ pháp luật ra đời trước, có nguồn gốc từ bản chất của con người, là kết tinh trí tuệ 22
- của con người. Theo ông, sự giữ mình trước tài sản của người khác, trách nhiệm thực hiện lời hứa, sự bồi thường thiệt hại do mình gây ra, sự trừng trị thích đáng kẻ phạm tội là những chỉ định của pháp luật tự nhiên. Thứ pháp luật thực định được xác lập theo ý chí con người do nhà nước ban hành phải hoàn toàn phù hợp với những nguyên tắc của pháp luật tự nhiên. Grotius chỉ ra rằng pháp luật phong kiến hiện hành là thứ pháp luật trái với bản chất và lý trí của con người, nên ông nêu cao đòi hỏi phải có một thứ pháp luật mới phù hợp với các luật của tự nhiên đảm bảo cho các quyền tự nhiên của con người. Tiếp đến, lý thuyết pháp quyền tự nhiên của nhà triết học Hà Lan Baruch Spinoza (1632 - 1677) cũng ảnh hưởng tới tư tưởng phân quyền của Locke. Spinoza tuy không đi sâu nghiên cứu về pháp luật mà chỉ chú trọng tới vấn đề nhà nước, nhưng những quan điểm về nhà nước của ông lại biểu hiện tính chất pháp quyền tự nhiên một cách sâu sắc. Theo ông, một nhà nước hoàn hảo là một nhà nước dân chủ mà pháp luật bảo đảm cho quyền lợi và sự tự do thực sự của con người: con người không những được quyền sống, quyền tồn tại mà còn được hưởng những quyền tất yếu nhằm thoả mãn lợi ích của họ. Hơn thế, pháp luật còn phải đảm bảo ngăn ngừa những nhà lãnh đạo không thể xâm phạm đến sở hữu, an toàn và tự do của những người dân. Spinoza đã chỉ ra những quyền cơ bản và tự nhiên của con người, cũng như mối liên hệ phụ thuộc của pháp luật thực định với các quyền ấy. Một triết gia có tầm quan trọng ảnh hưởng lớn đến Lock mà chúng ta không thể không nhắc đến, đó chính là Thomas Hobbes. Ông là nhà triết học duy vật người Anh và là người ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng của John Locke về trạng thái tự nhiên, trạng thái dân sự kế ước xã hội và các quyền cơ bản của con người. Theo Hobbes thì nhà nước, con người và quyền con người hoàn toàn không phải là sản phẩm của Thượng đế mà nó là kết quả của chính hoạt động 23
- thực tiễn của con người. Hobbes khẳng định rằng tự do, bình đẳng, sở hữu là các quyền tự nhiên cơ bản của con người Hobbes có những phân tích khá sâu sắc xã hội con người thành hai trạng thái, đó là trạng thái tự nhiên và trạng thái xã hội công dân. Hobbes cho rằng trong trạng thái tự nhiên con người có tự do ý chí, có thể làm bất cứ điều gì họ muốn trong khuôn khổ và sức lực của họ cho phép, đồng thời con người có tài sản riêng của mình. Trong trạng thái tự nhiên, mọi cái đều là tuyệt đối như tự do tuyệt đối, ham thích tuyệt đối song do bản tính con người là độc ác “con người là động vật ranh ma hơn cả chó sói, gấu và rắn”, cùng với bản tính ích kỷ, ai cũng có nhu cầu, mong muốn riêng có lợi cho bản thân mình nên đã dẫn con người đến chỗ xâm phạm tới các quyền của người khác, tranh giành quyền lợi của người khác. Trong xã hội, ai có sức mạnh là những người có quyền. Trong trạng thái tự nhiên, xã hội không có đạo đức, không có luật lệ chung, chỉ có luật lệ của kẻ mạnh. Chính vì điều này đã đẩy loài người vào cuộc chiến tranh của tất cả chống lại tất cả, cuộc đấu tranh ấy không giải quyết được nhu cầu của mỗi bản thân con người mà còn đẩy con người vào nguy cơ huỷ diệt. Hobbes cho rằng, trong trạng thái tự nhiên, con người càng tự do, bình đẳng bao nhiêu thì con người càng bất hạnh bấy nhiêu. Vì khi đó, tự do của con người không bị giới hạn, con người có thể làm bất cứ điều gì mình muốn kể cả xâm phạm đến tự do của người khác. Bên cạnh bản tính là ích kỷ, con người còn lo sợ về cái chết của mình nên họ ước mong trạng thái hòa bình và ổn định. Họ nhận thấy rằng nếu cứ tiếp tục trạng thái chiến tranh chống lại nhau thì những các quyền cơ bản sẽ mất đi và bị đe dọa đến mạng sống. Chính những điều trên đã giúp cho những con người cùng bắt tay chung nhau, thoả thuận với nhau và lập thành khế ước xã hội, và cũng chính từ khế ước xã hội này mà nhà nước hay công cụ để bảo vệ quyền con ra đời người ra đời. Một bản khế ước xã hội được 24
- xây dựng trên cơ sở đồng thuận chung của mọi người để đảm bảo sinh mạng và các quyền tự nhiên của con người. Với khế ước xã hội, con người đã chuyển hẳn từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái xã hội công dân, ở đó con người được sống yên ổn hơn và các quyền cơ bản của con người được đảm bảo hơn. Trạng thái xã hội công dân thay thế trạng thái tự nhiên, xuất phát từ ý thức về sự tồn vong của con người. Nhà nước ra đời như kết quả sự thỏa thuận giữa người với người, trên cơ sở tin cậy nhau. Nhà nước là sự thỏa thuận chung theo khế ước do nhân dân lập ra, không phải từ do thượng đế sáng tạo nên. Khi đi đến một khế ước xã hội, mọi người đã tự chủ và tự nguyện trao quyền của mình cho người cầm quyền và đặt hết ý chí vào người đại diện đó. Do vậy, người cầm quyền sẽ là hiện thân đại diện cho ý chí thống nhất giữa chúa tể và nhân dân, buộc người dân phải thận trọng hơn trong những hành động của mình, kiểm soát hành động đó không để đi quá xa so với trong trạng thái tự nhiên. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và tất cả mọi người phải phục tùng nhà nước một cách tuyệt đối, thông qua tuân thủ pháp luật, quyền lực của nhà nước là bất biến. Các tư tưởng về quyền tự nhiên và khế ước xã hội của Hobbes ảnh hưởng tới John Lcke về quyền tự nhiên và tư tưởng về tổ chức quyền lực đảm bảo quyền con người. 1.1.2.Quan niệm của John Locke về bản tính con ngƣời và quyền con ngƣời Quan niệm của Locke về phân chia quyền lực nhà nước không những kế thừa tư tưởng của những người đi trước mà còn xuất phát từ chính quan niệm về bản tính con người và quyền con người của ông. Quan niệm về con người được Locke tập trung trình bày trong tác phẩm “Kinh nghiệm về nhận thức của con người” được ông viết năm 1689. Các triết gia trước đưa ra những quan niệm khác nhau về con người. Aristotle đưa ra quan niệm “Bẩm sinh, con người là đông vật chính trị”, Protagore lại cho rằng “con người là thước đo của vạn vật”. Thomas Hobbes quan niệm con người sinh ra vốn tự do nhưng bản tính con người là ích kỷ, ai cũng có nhu cầu, khát vọng 25
- riêng nên đẩy họ vào trạng thái chiến tranh và hỗn loạn. Trên cơ sở tiếp thu quan điểm của những nhà triết học trước đó, Locke khẳng định một trong các tính quy định bản tính con người là lý tính. Lý tính hay lý trí là bản tính vốn có của con người, là một trong các tính quy định bản tính người. Locke lại cho rằng lý tính là một trong các tính quan trọng quy định bản tính người của con người. Trong tác phẩm “Kinh nghiệm nhận thức của con người” ông viết: “Lý tính đặt con người lên cao hơn mọi thực thể có cảm tính còn lại và đem lại cho con người mọi ưu thế và sự thống trị của nó đối với chúng” [trích theo 39, 31]. Như vậy, chính lý tính là cái phân biệt con người với các thực thể khác. Mặc dù khẳng định lý tính là bản tính của con người song John Locke cho rằng năng lực lý tính của con người không phải ngay từ khi sinh ra đã có, mà đó là kết quả của một quá trình nhận thức lâu dài. Ông phê phán học thuyết “ý niệm bẩm sinh” của Descartes khi thừa nhận sự tồn tại của những tư tưởng bẩm sinh của con người và nguồn gốc của những tư tưởng đó là do Thượng đế ban tặng. Locke cho rằng con người có lý tính và tự do tích cực tự hình thành mình. Nếu như Descartes thừa nhận tư tưởng bẩm sinh, lý trí của con người là do thượng đế ban tặng, con người thụ động có được lý trí, thì Locke đưa ra “nguyên lý Tabularasa” – tấm bảng sạch. Theo quan niệm của Locke, linh hồn con người lúc mới sinh ra giống như một tờ giấy trắng, một tấm bảng sạch, chưa có tri thức, nhưng nhờ quá trình con người tự do tích cực hoạt động, thông qua những kinh nghiệm thu được từ cuộc sống, con người ghi lại những ký hiệu, ý niệm trên đó và hình thành lý trí, tức là đã hình thành lý tính của bản thân. Như vậy, lý tính của con người có được xuất phát từ kinh nghiệm. Kinh nghiệm là cơ sở của tri thức chúng ta, “ mọi tri thức đều dựa trên kinh nghiệm” [ trích theo 38, 289]. Kinh nghiệm từng người là cơ sở hình thành nhân cách của mỗi người, vì quá trình tham gia hoạt động xã hội với vị trí vai trò khác nhau và mỗi người có mức độ tích cực khác nhau trong các hoạt động, trong quá trình đúc rút kinh nghiệm nên lý tính của mỗi người là khác nhau. Như vậy, theo Locke chính lý 26
- tính là cái làm nên bản chất người của từng người, là cái phân biệt giữa mọi người với nhau, phân biệt con người với thực thể khác. Không chỉ đưa ra quan niệm về bản tính con người, Locke còn đi đến khẳng định quyền tự nhiên cơ bản và thiêng liêng nhất của con người. Theo ông, trong trạng thái tự nhiên, con người có được đầy đủ các quyền tự nhiên như: quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền sở hữu. Trong đó, bình đẳng được coi là quyền cơ bản đầu tiên của con người “Không có gì hiển nhiên hơn là những sinh vật của cùng một loài và một hạng, được sinh ra một cách ngẫu nhiên với cùng những thuận lợi tự nhiên, sử dụng cùng những năng lực, cũng phải là những sinh vật bình đẳng với nhau mà không có sự lệ thuộc hay khuất phục” [20, 33]. Quyền tự nhiên thứ hai của con người mà Locke khẳng đinh là quyền tự do hoàn hảo “là sự tự do trước bất kỳ quyền lực cao hơn nào nơi trần thế và không chịu sự chi phối của ý chí hay thẩm quyền lập pháp, mà chỉ có luật tự nhiên dùng làm quy tắc cho họ” [20, 57]. Con người có quyền tự do vô hạn do đó có thể làm bất cứ điều gì mình muốn trong khuôn khổ giới hạn của luật tự nhiên mà không phải xin phép hay phụ thuộc vào bất kỳ ý chí của một ai khác. Quyền tự do của con người, là tự do trước bất kỳ quyền lực cao hơn nào nơi trần thế mà chỉ chịu sự chi phối luật tự nhiên, luật tự nhiên dùng làm quy tắc cho họ. Con người có quyền tự do lựa chọn hành động của mình, nhưng dưới quy tắc của luật tự nhiên và lí trí con người nhận ra rằng họ không có quyền cướp bóc, giết hại hay xâm hại đến tự do của những người khác và chính bản thân anh ta. Chính lý trí đã đặt ra giới hạn cho con người trong việc sử dụng quyền tự do của mình làm sao vẫn thỏa mãn được bản thân nhưng không xâm hại đến quyền tự do của những người khác. Mọi người sinh ra đều bình đẳng do vậy muốn người khác tôn trọng bản thân mình thì ta cũng phải tôn trọng người khác bởi “Mỗi người, do ràng buộc với sự bảo toàn của chính mình người ta còn cần phải bảo toàn cho toàn thể phần loài người còn lại, ở mức độ tối đa có thể, và 27
- không thể lấy đi hay làm suy yếu đi sinh mạng hay những khuynh hướng nhằm bảo toàn sự sống, quyền tự do, thân thể hay tài sản của người khác” [20, 36]. Ngoài quyền tự do và bình đẳng, con người còn có quyền sở hữu. Trong các quyền tự nhiên đó, Locke cho rằng quyền sở hữu là quyền cơ bản nhất. Theo Locke, ngay từ khi con người được sinh ra trên trái đất, thì con người đã có quyền sở hữu. “Tất cả cây trái mà nó tạo ra, thú vật mà nó nuôi ăn, một cách tự nhiên là thuộc chung của cả loài người” [20, 62]. Quyền sở hữu đó là quyền sở hữu chung của tất cả mọi người, không ai có quyền lực riêng với nó. Tất cả những sản vật đó đều được tạo ra từ bàn tay của tự nhiên, do đó theo Locke con người có quyền sở hữu đối với những sản phẩm mà tự nhiên ban tặng khi con người sinh ra. Quyền sở hữu đó là quyền sở hữu chung cho toàn thể mọi người, không một ai có quyền lực riêng đối với nó bởi vì trong trạng thái tự nhiên tất cả mọi người đều bình đẳng, mọi thứ đều là của chung của xã hội, không ai có quyền hạn gì hơn người khác. Ngoài quyền sở hữu chung này, Locke cho rằng mỗi người ngay từ khi sinh ra đã có quyền sở hữu đối với chính thân thể, sức lao động của mình và vì vậy con người có quyền sở hữu đối với những sản phẩm do chính lao động của mình làm ra và không ai có bất kỳ quyền gì đối với sở hữu này ngoài chính anh ta, “lao động của cơ thể anh ta, sản phẩm của đôi tay anh ta - hoàn toàn có thể nói - đích thị là của anh ta” [20, 63]. Bất kể thứ gì trong tự nhiên mà con người dùng sức lao động của mình làm ra nó thì sẽ trở thành sở hữu riêng của cá nhân, mà bất kì ai cũng không được phép xâm phạm tới. Theo Locke, chính lao động đã tách biệt những thứ mà con người lấy từ tự nhiên với cái chung của tự nhiên, lao động đã thêm vào những thứ đó một “cái gì đó hơn là cái mà tự nhiên – người mẹ chung của tất cả - đã làm, và vì thế, chúng trở thành cái thuộc về tư quyền của anh ta” [20, 64]. Như vậy, lao động đã tách quyền sở hữu chung của mọi người với tự nhiên thành quyền sở hữu riêng của cá nhân như Locke khẳng 28
- định “ dù mọi vật được trao tặng chung, nhưng con người, bằng việc là chủ nhân của bản thân và chủ sở hữu của cá nhân mình và của hành động hay lao động của nó, trong tự thân mỗi người vẫn có một nền tảng cao cả cho sở hữu” [20, 82]. Trong quan niệm của Locke, quyền sở hữu chính là quyền tự nhiên của con người, đó là sở hữu mà người ta có đối với cá nhân con người họ và tài sản của họ. Quyền sở hữu của con người có được thông qua lao động tuy nhiên không vì thế anh ta có sự sở hữu một cách vô độ mà phải có hạn mức. Theo Locke, mọi người đều có quyền sở hữu cho bản thân nhưng quyền sở hữu đó phải nằm trong giới hạn cho phép của luật tự nhiên. Con người có quyền chiếm giữ của cải cho riêng mình nhưng những gì anh ta chiếm giữ phải phục vụ cho nhu cầu sử dụng của anh ta, ở mức anh ta có thể sử dụng hết, chứ không phải chiếm giữ vô độ mà không dùng đến để nó bị hư thối. Nếu điều này xảy ra tức là anh ta đã xâm phạm đến phần sở hữu của người khác cũng tức là vi phạm vào luật tự nhiên. Bởi theo Locke, tự nhiên không tạo ra cho con người bất cứ một thứ gì có thể dư thừa, bỏ đi một cách vô ích, “tự nhiên đã sắp đặt hợp lý từ phạm vi của hoạt động lao động của con người và tiện nghi của cuộc sống. Không có sự lao động của một ai là có thể khai khẩn và chiếm giữ tất cả, mà thụ hưởng của anh ta cũng không thể dùng đến hơn một phần nhỏ” [20, 71], sự dư thừa của người này sẽ gây ra sự thiếu thốn cho những người khác như vậy sẽ tạo ra sự bất bình đẳng. Từ đó Locke đưa ra giới hạn của sự chiếm hữu: “Hạn mức này đã được hạn chế sự chiếm hữu của mỗi người đến một tỷ lệ vừa phải, là những gì một người có thể chiếm giữ cho riêng mình mà không gây thiệt hại cho người khác” [20, 71 – 72]. Như vậy, theo Locke tự do, bình đẳng, sở hữu là các quyền tự nhiên cơ bản và thiêng liêng của con người, tồn tại sẵn có trong mỗi cá nhân, bất khả xâ, phạm. Trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” Locke đã chứng 29
- minh các quyền đó là các quyền tự nhiên thiêng liêng bất khả xâm phạm của con người, do mẹ tự nhiên ban tặng cho mỗi người. Tuy nhiên, Locke cho rằng, dù con người có quyền tự do và bình đẳng hoàn hảo trong trạng thái tự nhiên nhưng những quyền đó đều xuất phát từ quyền bảo toàn sinh mạng của con người. Do đó, dù có tự do muốn làm gì theo ý muốn của bản thân nhưng con người không được phép lấy đi sự sống hay xâm phạm tính mạng, thân thể của chính bản thân và của người khác. Bởi ngay trong trạng thái tự nhiên, con người đã có luật tự nhiên, tức luật của lý trí bảo vệ. Và để đảm bảo những quyền đó, con người đã có luật tự nhiên làm cơ sở để điều chỉnh hành vi, mọi người không vượt quá luật tự nhiên làm ảnh hưởng và xâm phạm tới quyền của người khác. Trong quan điểm của Locke thì mọi người sinh ra đều có quyền bảo toàn thân thể, quyền bình đẳng, tự do và quyền sở hữu tài sản mà bất kì ai cũng không được xâm phạm. Đó là những quyền bất biến tự nhiên của con người từ khi sinh ra đã có chứ không phải là từ sự ban phát của nhà nước hay một thế lực chính trị nào khác. Tóm lại, có thể nói rằng, tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước của các triết gia cổ đại và tư tưởng thuyết pháp quyền tự nhiên thời Phục hưng cận đại có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng về phân chia quyền lực của John Locke, đặc biệt, sự kế thừa và tiếp tục phát triển quan điểm pháp quyền tự nhiên, với sự khẳng định giá trị cơ bản của quyền con người: quyền bảo toàn tính mạng, tự do, bình đẳng và sở hữu của John Locke.Chính từ quan niệm về bản tính và quyền tư nhiên của con người là tự nhiên vốn có, không thể bị xâm phạm, Locke đi đến quan niệm về sự phân chia quyền lực nhà nhằm đảm bảo các quyền tự nhiên thiêng liêng và cơ bản của người dân và cuộc sống an toàn và ổn định. 30
- 1.3. Khát quát về cuộc đời, sự nghiệp của John Locke và tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” 1.3.1. Cuộc đời và sự nghiệp của John Locke John Locke là một trong những nhà triết học vĩ đại thế kỉ thứ XVII. Ông sinh ngày 29 tháng 8 năm 1632 trong một gia đình Thanh giáo tại ngôi làng nhỏ Wrington ở Somerset phía tây nam nước Anh. Cha ông là John - một luật sư và giữ chức vụ Trung úy trong quân đội nghị viện trong giai đoạn đầu thời kì nội chiến nước Anh, ủng hộ Quốc hội Anh chống lại vua Charles đệ nhất. Mẹ ông là bà Agnes, bà sinh Locke khi bước vào tuổi 35. Năm 1647, Locke đã được gửi đến học tại Westminster ở London, là trường trung học hàng đầu nước Anh lúc bấy giờ, tại đây ông theo học chuyên ngành ngôn ngữ cổ điển, học tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp. Ông là một học sinh chăm chỉ và chịu khó. Năm 1650, ông nhận được suất học bổng của nhà Vua giúp ông có được hai suất học bổng tại hai trường đại học danh tiếng nước Anh là Oxford và Cambridge. Năm 1652, John Locke học ở trường đại học Oxford nổi tiếng của Anh quốc và đậu thạc sĩ năm 1658. Tại đây, ông say mê nghiên cứu nhiều lĩnh vực khác nhau như ngôn ngữ, toán học, triết học. Năm 1661 tốt nghiệp thạc sĩ và được bổ nhiệm chức danh giảng viên tiếng Hy Lạp, tiếng La Tinh. Không chỉ dừng lại ở địa vị hiện tại mà khát vọng tri thức, lòng say mê. Không dừng lại ở địa vị hiện tại với khát vọng tri thức, lòng say mê khoa học và sự quan tâm đến sức khỏe, trạng thái tâm sinh lý của con người đã dẫn ông đến nghiên cứu y khoa. Locke đã được giới thiệu đến y học và triết lý thực nghiệm đang được theo đuổi tại các trường đại học khác và trong Hội Hoàng gia sau này ông đã trở thành một thành viên trong hiệp hội này. Chính quyết định nghiên cứu y học đã tạo cơ hội cho Locke có cơ hội kết bạn với bác sỹ David Thomas và qua đó ông đã có dịp tiếp xúc với Lord Anthony Ashley Cooper - Huân tước toàn quyền 31
- Carolinas tức Bá tước Shaftesbury, một trong những người giàu nhất nước Anh và giữ vị trí quan trọng trong chính quyền Anh. Có thể nói, Ashley là người có ảnh hưởng mạnh mẽ đến những ý tưởng chính trị của Locke. Huân tước Ashley là một trong những người ủng hộ quan điểm rằng nước Anh sẽ thịnh vượng thông qua thương mại và thuộc địa có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy thương mại. Ashley thuyết phục Charles II thành lập Hội đồng Thương mại và đồn điền để thu thập thông tin về thương mại và thuộc địa, và Locke trở thành thư ký của ban này. Trong thời gian sống và làm việc bên cạnh Ashley, Locke đã bị lôi cuốn bởi những vấn đề chính trị của nước Anh lúc bấy giờ và ông đã nhanh chóng hòa nhập vào những tư tưởng cùng những kế hoạch cấp tiến của Ashley. Với vai trò là một thư ký của Ashley, Locke đã được tham gia góp ý xây dựng các văn bản của hiến pháp cơ bản của Carolinas. Ngoài các vấn đề về thương mại và thuộc địa, Locke đã hỗ trợ đắc lực Ashley trong các cuộc tranh luận về chính sách công cộng khác. Trong giai đoạn từ 1674 – 1688, cuộc đời của John Locke gắn liền với nhiều biến cố thậm chí hiểm nguy đến tính mạng. Cụ thể, trong thời gian từ 1675 - 1679 ông sang Pháp nghiên cứu triết học Descartes và thiết lập mối quan hệ với một số nhà tư tưởng lớn châu Âu lúc bấy giờ. Năm 1681, Bá tước Ashley - người đứng đầu Đảng Quê Hương, lãnh tụ của phe nghị viện chống laị nhà vua Charles II bị kết tội phản quốc. Là bạn thân và thư ký trung thành của Ashley nên Locke tất yếu bị liên lụy. Sợ bị nghi ngờ dính líu đến âm mưu chống lại nhà vua nên ông trốn sang Hà Lan vào năm 1683. Tại đây ông đã viết 2 tác phẩm “Lá thư về lòng khoan dung” và “Kinh nghiệm về nhận thức của con người”, nhanh chóng được độc giả đón nhận và xuất bản năm 1689. Ở Hà Lan ông vẫn tiếp tục hoạt động chính trị và trở thành người lưu vong chính trị. Locke là người cố vấn trực tiếp cho William III và vạch kế hoạch đưa William III lên làm hoàng đế thành công. Sau khi cuộc “Cách mạng vinh quang” năm 1688 giành thắng lợi, Locke đã trở lại Anh trên tàu cùng công nương Mary II và quốc 32
- trưởng William. Năm 1690, John Locke xuất bản cuốn “Hai khảo luận về chính quyền dân sự”.Cuốn sách làm ông nổi tiếng với tư cách là nhà triết học và là một nhà lý thuyết chính trị. Mặc dù trước Locke có nhiều nhà triết học viết về lĩnh vực chính trị nhưng tác phẩm của ông vẫn gây được tiếng vang lớn trong đời sống chính trị nước Anh đương thời, vì tác phẩm này được xuất bản đúng lúc diễn ra những sự kiện chính trị quan trọng ở nước Anh. Năm 1696, Uỷ ban thương mại được phục hồi và Locke đóng một vai trò quan trọng trong sự hồi sinh của nó và đã cống hiến những năm tháng cuối cuộc đời mình cho công việc tại đây. Sau khi nghỉ hưu từ Ban Thương mại năm 1700, Locke về sống tại Oates cho đến khi ông qua đời vào ngày 28- 10 – 1704 do căn bệnh hen suyễn mãn tính ở tuổi 72. Nghiên cứu nhiều lĩnh vực, nhưng thành công lớn ở lĩnh vực chính trị và pháp luật, Locke được xem là một trong những cội nguồn của tri thức của phong trào Khai sáng châu Âu. J. Locke đã để lại nhiều tác phẩm, nhiều công trình nghiên cứu khoa học có giá trị như: Luận về nhận thức con người, (An Essay Concerning Human Understanding, 1689); Thư bàn về sự khoan dung (A Letter Concerning Toleration, 1689); Hai khảo luận về chính quyền (Two Treatises of Government,1689); Một số suy nghĩ về hậu quả của việc hạ thấp tỷ giá và tăng giá trị của tiền tệ (1691); Một số suy nghĩ về giáo dục (Some Thoughts Concerning Education, 1693), Tính hợp lý của Thiên chúa giáo (The Reasonableness of Christianity, 1695); Biện hộ cho tính hợp lý của Kito giáo (1695); Thuyết trình về phép màu của Chúa (xuất bản sau khi J. Locke đã mất); Xem xét ý kiến của Cha Malebranche nhìn thấy tất cả mọi việc nhân danh Chúa (xuất bản sau khi J. Locke đã mất). 1.3.2.Tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” “Khảo luận thứ hai về chính quyền” là tác phẩm nằm trong “Hai khảo luận về chính quyền” (Two Treatises of The Government) của John Locke. 33
- “Khảo luận thứ nhất về chính quyền” hiện chưa được dịch sang tiếng Việt. Trong khảo luận thứ nhất, Locke nhắm đến việc biện bác cách nhìn gia trưởng về thánh quyền của vua chúa được Sir Robert Filmer truyền bá. Locke đã phê phán luận điểm của Filmer khi cho rằng con người tự do mặc nhiên, và mọi chính quyền chân chính đều là nền quân chủ chuyên chế, vua chúa là những người được truyền tiếp từ con người đầu tiên là Adam. “Khảo luận thứ hai về chính quyền” của Locke được cho là viết vào thời điểm xảy ra sự khủng hoảng của dự luật tống xuất anh em quốc vương Jame II. Sự thất bại của bộ luật này đã đưa Locke và những người bạn của mình đến với quan điểm vũ trang. Có thể nói, tác phẩm chính là một sự biện luận chân chính hợp lí về cuộc các mạng tư sản năm 1689. Khảo luận thứ hai về chính quyền được xem là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của chính trị học nhân loại, thể hiện rõ nhất quan điểm của J. Locke về nhà nước, về quyền tự nhiên, về khế ước xã hội và trong đó quan điểm về quyền lực nhà nước là một trong những giá trị cốt lõi của tư tưởng chính trị mang tinh thần Khai sáng. “Khảo luận thứ hai về chính quyền” với tựa phụ là “Luận về nguồn gốc, phạm vi và mục đích chân chính của chính quyền dân sự” được xem là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của chính trị học nhân loại. Tác phẩm là sự tiếp tục dòng chảy của tư tưởng nhân loại về nhà nước và quyền lực nhà nước bắt đầu từ thời Hy Lạp - La Mã cổ đại đến thời Phục hưng, là tiền đề trực tiếp ảnh hưởng đến tư tưởng của trào lưu Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII và được thể hiện rõ nét trong tư duy và hoạt động của các nhà lập pháp hiện đại sau này. Tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” được John Locke chia làm 19 chương tập trung luận giải các luận điểm là nền tảng cơ bản để thiết lập một nhà nước dân sự toàn hảo với một văn phong sáng sủa, đơn giản nhưng rất logic và chặt chẽ. Trong đó, chương 1, Locke đưa ra định nghĩa của mình về 34
- quyền lực chính trị. Ở chương 2 của tác phẩm Locke đưa ra một trạng thái xã hội giả định là trạng thái tự nhiên, một trạng thái giống với xã hội sơ khai nguyên thủy không có nhà nước, chính quyền và cả quan tòa. Từ đó, Locke cho rằng trong một xã hội như vậy, mỗi cá nhân sinh ra đã tự bình đẳng như nhau, đều có quyền thụ hưởng những gì của tự nhiên cũng như quyền tự bảo toàn tính mạng, tự do và những gì là sở hữu của mình, con người sống và hành động tuân theo các quy tắc của luật tự nhiên. Ở chương 3 và 4, Locke xác định trạng thái chiến tranh và trạng thái nô lệ. Trạng thái chiến tranh hình thành khi có người có ý định xâm phạm đến quyền sống của người khác. Khi đó, người này đã tự đặt mình vào trạng thái chiến tranh với người mà cuộc sống bị nhắm lấy đi. Tình trạng nô lệ là trạng thái người ta sống dưới quyền lực độc đoán của người khác, là sự tiếp tục của trạng thái chiến tranh giữa người đi chinh phạt và người thất trận, hoặc có thể là sự cưỡng ép bằng sức mạnh đưa người khác vào vòng lô nệ của mình. Chương 5, bàn về sở hữu là một trong những chương nổi tiếng nhất và quan trọng nhất. Tại đây, Locke đã đưa ra nguồn gốc để xác lập quyền sở hữu và tư hữu, đó là từ lao động, khi mỗi cá nhân hòa trộn sức lao động của mình vào sản phẩm thô của tự nhiên, tức là anh ta đã đánh dấu quyền sở hữu của mình lên nó, như việc ta đi khai hoang một mảnh đất vậy sẽ không có ai xứng đáng hơn ta để trồng trọt trên đó. Từ chương 7 đến chương 15, Locke tập trung vào luận giải về sự khởi đầu cho một xã hội chính trị và xã hội dân sự cùng với mục đích chân chính nhất của nó. Theo đó, mỗi người tự rời bỏ quyền lực tự nhiên của mình để trao vào tay cộng đồng, cộng đồng này có được sự ổn định và bảo đảm dựa trên những luật lệ được cơ quan lập pháp tối cao làm ra, và đây chính là cơ quan quyền lực cao nhất của xã hội công dân. Mục đích chính nhất của chính quyền dân sự là bảo toàn quyền sống, quyền tự do, sức khỏe và sở hữu của nhân dân. Trừng phạt bất kì ai xâm phạm vào luật pháp của cộng đồng đã định ra. 35
- Trong những phần cuối của khảo luận, Locke đưa ra những kiến giải về quyền lực bạo chính và sự biến thể của một chính quyền dân sự chân chính thành quyền chuyên chế tàn bạo. Điều đó dẫn đến giải pháp rằng trong tình cảnh như thế nổi loạn là một hành động công chính. Người dân có quyền hành động với tư cách quyền lực tối cao và tự mình tiếp tục công việc lập pháp hoặc dựng lên một hình thức chính quyền mới. Có thể nói, vấn đề quyền con người và học thuyết về nhà nước là 2 tư tưởng cơ bản của tác phẩm, trong đó tư tưởng của Locke về sự quyền nhà nước là một trong những nội dung mang giá trị cốt lõi. Ta thấy tư tưởng chính trị của Locke thể hiện tinh thần chung xuyên suốt mạch chảy của triết học chính trị thời kỳ XVII - XVIII, đó là quan niệm về các quyền tự nhiên và khế ước xã hội. Kết luận chƣơng 1 Ở thế kỷ XVII ở nước Anh, bối cảnh kinh tế, xã hội và chính trị nước Anh thế kỉ XVII đã có những chuyển biến đáng kể. Trong đó, nổi bật là sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản xâm nhập vào tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế tạo điều kiện cho cuộc cách mạng tư sản Anh diễn ra và dành thắng lợi năm 1689 lật đổ chế độ phong kiến và sự thiết lập chế độ quân chủ lập hiến, tất cả đó ảnh hưởng sâu sắc đến quan niệm chính trị của Locke. Bởi ông không chỉ đóng vai trò như một nhân chứng lịch sử mà còn là người trực tiếp tham gia vào các sự kiện chính trị lúc đó. John Locke là một trong những triết gia, chính trị gia có ảnh hưởng lớn không chỉ đối với riêng nước Anh mà còn đối với lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung. Cả đời ông sống, làm việc và cống hiến cho nhân loại những tư tưởng lớn về triết học, giáo dục, đặc biệt là chính trị với tác phẩm nổi tiếng “Khảo luận thứ hai về chính quyền”. Tư tưởng của Locke về sự phân quyền nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” cùng toàn bộ tư tưởng triết học của ông chính là sản phẩm của bối cảnh lịch sử nước Anh lúc bấy giờ, là sự 36
- phản ánh yêu cầu của giai cấp tư sản muốn vươn lên chống lại chế độ phong kiến giành địa vị thống trị, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Quan niệm về quyền lực và sự phân chia quyền nhà nước của John Locke còn là sự tiếp nối dòng chảy chung của lịch sử tư tưởng nhân loại về nhà nước và quyền lực. 37
- CHƢƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TƢ TƢỞNG CỦA JOHN LOCKE VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC TRONG TÁC PHẨM “KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN” 2.1. Quan niệm của John Locke về nguồn gốc và đặc điểm của quyền lực nhà nƣớc Để hiểu rõ ràng và chặt chẽ bản chất và mục đích trong tư tưởng phân chia quyền lực của Locke, rằng tại sao Locke lại phân chia quyền lực thành ba quyền với nguyên tắc gì, thì chúng ta cần phải tìm hiểu và nghiên cứu quan niệm của ông về nguồn gốc quyền lực nhà nước cũng như đặc điểm của nó. 2.1.1. Về nguồn gốc hình thành quyền lực nhà nƣớc John Locke đã giải thích sự hình thành quyền lực nhà nước trên quan điểm về quyền tự nhiên và khế ước xã hội. Theo đó, cần phải có một khế ước xã hội khi con người đã thoát ra khỏi trạng thái tự nhiên để trở thành con người trong xã hội dân sự. Locke viết: “bằng sự đồng thuận với những người khác để cùng liên kết và hợp nhất trong một cộng đồng vì cuộc sống tiện lợi, an toàn và thanh bình trong sự thụ hưởng một cách đảm bảo đối với sở hữu của họ ” [20, 137]. Quyền lực nhà nước được xác lập từ ý chí chung, trên cở sở sự thỏa thuận tự nguyện. Nguồn gốc hình thành quyền lực nhà nước theo John Locke được xác lập từ ý chí chung. Sự luận giải đó được ông phân tích khá sâu sắc và độc đáo trong quá trình phát triển lịch sử xã hội con người trải qua từ trạng thái tự nhiên tiến đến trạng thái xã hội công dân. Trạng thái tự nhiên theo Locke quan niệm đó là “trạng thái hoàn hảo” bởi trong xã hội, mọi người đều bình đẳng như nhau, chưa có sự khác biệt rõ rệt giữa mọi người về kinh tế, địa vị xã hội và giai cấp, con người đã được hưởng 38
- một cuộc sống bình yên và hạnh phúc trong một thời gian dài, phù hợp với luật tự nhiên. Locke khẳng định bản tính con người là lí tính hay lí trí, và nhờ có lí trí mà con người nhận thức được mình có nghĩa vụ như thế nào trong cộng đồng: “Sự thôi thúc tự nhiên giống nhau đã đưa người ta đến với nhận thức rằng sự yêu thương người khác hơn cả bản thân mình là bổn phận của mình” [20, 34]. Nếu những gì làm cho người khác bị xâm phạm thì cũng giống như chính bản thân họ bị như vậy. Locke đã chỉ ra động lực thúc đẩy hành vi con người là bổn phận và nghĩa vụ của cá nhân. Locke quan niệm trong trạng thái tự nhiên con người đều bình đẳng tuyệt đối và tự do làm bất kì điều mình muốn, nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ chịu sự kiểm soát và chi phối bởi luật tự nhiên cùng với bổn phận và trách nhiệm. Chính luật tự nhiên đã có tác dụng kiểm soát hành động của con người không đi quá giới hạn tự do cho phép, không xâm hại đến tính mạng, tài sản của người khác. Điều này khiến cho trạng thái tự nhiên dù là rất tự do nhưng vẫn có quy tắc và trật tự nhất định chứ không phải là trạng thái hỗn loạn và lộn xộn, bởi nó luôn được luật tự nhiên và nghĩa vụ tự nhiên điều chỉnh. Tuy nhiên, Locke thấy rằng, trạng thái tự nhiên của con người không thể tồn tại lâu dài, sở dĩ vậy là do trong trạng thái tự nhiên cũng là trạng thái chứa nhiều bất cập, đe dọa đến các quyền cơ bản của con người. Locke cho rằng trạng thái tự nhiên còn những bất cập :Thứ nhất, ở đó thiếu vắng luật pháp, là công cụ chung giải quyết tranh chấp giữa mọi người với nhau. Trạng thái tự nhiên vẫn có luật tự nhiên cai quản, nhưng con người hành động tuân theo luật tự nhiên tùy theo cảm nhận, do đó, con người dễ dàng bị thiên lệch vì lợi ích, vì cảm xúc của riêng mình.Thứ hai, trong trạng thái tự nhiên, mỗi người là quan tòa của chính bản thân mình “Mỗi người đều có quyền trừng phạt người vi phạm, và đều là người chấp pháp của luật tự nhiên" [20, 38]. Thứ ba, trong trạng thái tự nhiên 39
- thường thiếu quyền lực để hậu thuẫn và ủng hộ cho bản án đúng đắn đem lại cho nó sự thi hành chính đáng [xem 20, 174 - 175]. Với những bất cập căn bản này nên trong trạng thái tự nhiên trở nên không an toàn và không đảm bảo được các quyền cơ bản “việc thụ hưởng nó rất không chắc chắn và luôn trong tình thế bị xâm lấn từ người khác mọi người đều bình đẳng với anh ta, và bộ phận người nhiều hơn còn lại đó không là những người quan sát nghiêm khắc của bình đẳng và công lý, quyền sở hữu mà anh ta thụ hưởng trong tình trạng này rất không an toàn, rất không đảm bảo” [20, 173]. Điều này đã đẩy loài người vào trạng thái chiến tranh và thù địch, cuộc đấu tranh ấy không những không giải quyết được nhu cầu của mỗi bản thân con người mà còn đẩy con người vào nguy cơ huỷ diệt. Thế nhưng, sự khôn khéo cũng như lý trí của con người đã được thức tỉnh và thể hiện. Dù rằng, trạng thái tự nhiên là một trạng thái hoàn hảo, con người có mọi đặc quyền nhưng không thể kéo dài trạng thái này. Và con người sẵn sàng từ bỏ trạng thái tự nhiên dù tự do nhưng nhiều sự lo sợ và nguy hiểm, để chuyển sang một trạng thái an toàn, thanh bình hơn, các quyền cơ bản của con người được đảm bảo an toàn hơn. Đó chính là xã hội dân sự. "Với tính cách là mỗi người rút khỏi quyền thực thi luật tự nhiên của mình và trao quyền lực đó cho cộng đồng, thì khi đó - và chỉ khi đó, nó là một xã hội chính trị, tức là một xã hội dân sự". [20, 127]. Khi tham gia vào xã hội dân sự, mỗi người sẽ phải từ bỏ hai quyền cơ bản trong trạng thái tự nhiên: đó là quyền thực hiện bất kỳ điều gì mà anh ta muốn sao cho hành động của anh ta không đi quá giới hạn cho phép của luật tự nhiên và thứ hai đó là quyền đi trừng phạt người khác khi họ xâm phạm vào luật này. Sự chuyển giao quyền lực từ trạng thái tự nhiên sang xã hội dân sự là việc trao quyền lực từ quyền lực thực thi luật tự nhiên của mỗi cá nhân thành quyền lực chung của cộng đồng, nói cách khác là ủy quyền và diễn ra trong sự tự nguyện và hòa bình. Locke đòi hỏi sự thỏa thuận này phải đạt được sự thống nhất của đa số nhân dân. Và cơ quan quyền lực mới phải đảm bảo đầy đủ quyền 40
- của con người: "Sự chấp thuận này là điều nhất thiết có để một cơ quan chung vận động thuận chiều, nên nhất thiết là cơ quan đó cần phải vận động trên con đường đi đến nơi có sức mạnh lớn hơn, là nơi của sự chấp thuận của đa số hành động của đa số được coi là hành động của toàn thể, và tất nhiên nó được quyết định, như đã có, bằng luật tự nhiên và lí trí - quyền lực của toàn thể" [20, 138]. Trong xã hội công dân, những quyền mà mỗi con người góp lại gọi là quyền lực tối cao, tức là ý chí chung mà cơ quan đại diện cho quyền lực tối cao ấy là nhà nước. Quyền lực thực thi luật tư nhiên của cá nhân này cùng quyền lực thực thi luật tự nhiên cá nhân khác và quyền lực của nhiều cá nhân trong xã hội đó gộp lại thành quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước không phải tự nhiên mà có, là tổng hợp của sự ủy quyền của mỗi thành viên xã hội, của công dân. Theo ông, quyền lực nhà nước xuất hiện trên cơ sở thỏa thuận bằng một bản khế ước. Khế ước xã hội chính là một giao kèo, thỏa thuận của những cá nhân, con người trong xã hội để cùng tham gia vào một cộng đồng. Khế ước này quy định mọi thành viên trao lại quyền tự nhiên của mình cho cộng đồng, mà hiện thân của nó là nhà nước, để nhận lấy sự bảo vệ của chính nhà nước đó trong vòng trật tự và có tổ chức. Sau khi được ký kết, sức mạnh tập thể, tức là ý chí chung đã được xác lập và chính nhờ có ý chí chung này mà bản ký kết đã lan tỏa ra một sức mạnh phi thường, sức mạnh đó có thể bảo vệ tất cả những ai tham gia ký kết vào bản khế ước đó. Khi lý giải mục đích của việc thiết lập quyền lực nhà nước, Locke khẳng định “bằng sự đồng thuận với những người khác để cùng liên kết và hợp nhất trong một cộng đồng , vì cuộc sống tiện lợi, an toàn và thanh bình, trong sự thụ hưởng một cách đảm bảo đối với sở hữu của họ” [20, 137]. Mục đích con người chuyển sang xã hội dân sự là để tránh những phiền phức mà trạng thái tự nhiên gây ra cho con người và vì cuộc sống tiện lợi, an toàn và thanh bình và đảm bảo quyền sở hữu. Như vậy, theo Locke, mục đích của việc thiết lập quyền lực nhà nước đó là hướng tới đảm bảo quyền và hạnh phúc của nhân dân. Đó cũng chính 41
- là mục tiêu cao nhất và bất biến của mọi chính quyền chân chính. Mục đích hướng tới của việc thiết lập chính quyền không là gì khác ngoài việc bảo đảm cho mọi người dân quyền sống, quyền tự do và quyền sở hữu. Như vậy, Locke khẳng định quyền cá nhân con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và xã hội, nhà nước. Điều đó cho thấy Locke không hi sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích nhà nước mà ông muốn tạo ra một cơ sở chắc chắn hơn cho cá nhân đảm bảo các quyền của mình trong một xã hội có trật tự và tổ chức. Tất cả những điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng một khối quyền lực chung đại diện cho quyền lực của toàn thể nhân dân là quyền lực nhà nước chân chính. Trong xã hội dân sự, con người phục tùng một quyền lực chung vượt lên trên tất cả mọi cá nhân nên nó mang tính công bằng hơn. 2.1.2. Về đặc điểm của quyền lực nhà nƣớc Thứ nhất, quyền lực nhà nước mang tính thống nhất Quyền lực nhà nước với tính cách là quyền lực tối cao là sự thể hiện ý chí chung, ý chí toàn thể nên nguyên tắc là thống nhất, không thể bị phân chia, vì hướng tới lợi ích công, mục tiêu cao nhất bảo toàn hạnh phúc, an toàn, và các quyền cơ bản của toàn thể công dân. Mặc dù, trong cơ chế vận hành và tổ chức quyền lực nhà nước, Locke phân chia quyền lực nhà nước thành ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây chỉ là sự phân chia về mặt hình thức và phương thức hoạt động, đảm bảo cho nhà nước hoạt động một cách hiệu quả và tích cực đảm bảo vai trò của mình trong quản lí và duy trì trật tự xã hội. Cả ba quyền lập pháp, hành pháp,và tư pháp đều hướng tới lợi ích chung của cộng đồng, đều bị chịu sự chi phối của ý chí toàn thể. Do đó, bản chất quyền lực nhà nước vẫn là thống nhất, không bị phân chia. Quyền lực nhà nước được xác lập từ ý chí chung, ra đời trên cơ sở thỏa thuận tự nguyện chuyển giao quyền lực riêng của mỗi cá nhân cho cộng đồng. Khi ra đã nhập vào xã hội dân sự, con người không có quyền từ bỏ, vì nếu từ bỏ, 42
- ý chí tập thể sẽ không tồn tại nữa, nó sẽ trở về với ý chí của mỗi cá nhân, đưa con người trở lại trạng thái tự nhiên. Thứ hai, quyền lực nhà nước mang bản chất phi giai cấp Theo, Locke quyền lực nhà nước được thành lập dựa trên ý chí chung của nhân dân, được kí kết tự nguyện của toàn thể mọi người trên bản một bản kế ước, vì vậy tất yếu nó sẽ bảo vệ lợi ích của tất cả mọi người. Khi tham gia khế ước xã hội, mọi người đã trao cả sự an toàn tính mạng, tự do và tài sản của mình cho xã hội công dân, lúc này nhà nước có trách nhiệm bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội đó. Do vậy, trong quan niệm của Locke, quyền lực nhà nước thuộc về toàn thể nhân dân, không và càng không thể thuộc về bất kì một ai hay một tập đoàn giai cấp thống trị nào . Với Locke, chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước nhất quyết chỉ có thể là nhân dân. Locke luận giải rằng nhà nước là do con người thỏa thuận lập nên bằng khế ước xã hội, bởi vậy quyền lực của nhà nước là quyền lực được người dân ủy thác và phải chịu sự kiểm soát từ nhân dân. Mục đích hoạt động của nhà nước chính là việc bảo đảm một cách tốt nhất quyền lợi của người dân. Locke viết: “Mục đích cao quý và chủ yếu trong việc hợp nhất của con người thành cộng đồng quốc gia và đặt chính họ dưới một chính quyền, là sự bảo toàn đối với sở hữu của họ” [20, 174]. Chính vì vậy, hoạt động của nhà nước không phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ một ai, một tầng lớp, giai cấp nào trong xã hội, mà nhà nước chính là sự đảm bảo cho chủ quyền của nhân dân, trong đó đảm bảo các quyền tự do, bình đẳng và sở hữu. Locke có một cái nhìn rất khác biệt với quan điểm của Mác – Ăngghen về bản chất của quyền lực nhà nước. Mác – Ăngghen quan niệm nhà nước là một tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế thiết lập ra nhằm mục đích bảo vệ trật tự và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác Nhà nước mang bản chất giai cấp và bản chất nhà nước cũng chính là công cụ bạo lực để bảo vệ 43
- quyền lợi và địa vị của giai cấp thống trị. Như vậy, quyền lực nhà nước theo Mác và Ăngghen là quyền lực của giai cấp thống trị Với Locke, nhà nước mang bản chất phi giai cấp, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Sự khác nhau giữa Locke và chủ nghĩa Mác – Lênin về bản chất quyền lực nhà nước xuất phát từ nguồn gốc hình thành. Một bên quyền lực nhà nước đại diện cho ý chí chung của toàn thể nhân dân, một bên đại diện cho ý chí của giai cấp thống trị. Thứ ba, quyền lực nhà nước là quyền lực được ủy quyền từ dân John Locke khẳng định quyền lực nhà nước xuất phát từ ý chí của toàn thể nhân dân. Quyền lực của nhân dân là cơ sở nền tảng cho quyền lực nhà nước. Trong quan hệ với dân, về bản chất nhà nước không có quyền mà thực chất chỉ là thực hiện sự ủy quyền của người dân để đảm bảo lợi ích và các “quyền tự nhiên” của mình khi gia nhập vào xã hội công dân. Người dân ủy quyền cho những người đại diện của mình tham dự vào bộ máy nhà nước thay mặt cho họ giải quyết các tranh chấp, cũng như đảm bảo sự an toàn cũng như tính mạng và tài sản của người dân. Do vậy, người được ủy quyền đại diện cho người dân phải chịu sự chế ước từ người ủy quyền, nhân dân có quyền kiểm tra và giám sát hoạt động của nhà nước. Hơn nữa, Locke khẳng định dân chúng không chuyển giao tất cả quyền tự nhiên của mình cho quyền lực tuyệt đối của nhà nước, họ luôn giữ lại phần cho mình, là cái được đặt ở trong toàn thể cộng đồng, “Cộng đồng vĩnh viễn lưu giữ một quyền lực tối cao để cứu lấy chính mình trước những cố gắng hay mưu đồ của bất kỳ ai” [20, 204]. Trong quá trình hoạt động quyền lực nhà nước có khả năng bị tha hóa, nhà cầm quyền lạm dụng quyền lực cho những mục đích cá nhân, điều này làm thay đổi mục đích ban đầu của việc thiết lập xã hội công dân, đi ngược lại với ý 44
- chí chung và sự ủy quyền của dân chúng. Từ chỗ nhân dân lập ra nhà nước nhằm đảm bảo quyền lợi cho mọi người thì giờ đây, nhà nước lại trở thành công cụ để đàn áp nhân dân, không bảo đảm quyền cơ bản của người dân dẫn đến bất công xã hội. Chính khi đó, người dân có quyền xóa bỏ đi khế ước xã hội cũ và lập nên một khế ước xã hội mới phù hợp với ý chí chung, ủy quyền cho một nhà nước mới tốt hơn, đảm bảo quyền của người dân. Do vậy, nhân dân mới là chủ thể cao nhất nắm mọi quyền lực trong xã hội “quyền lực tối cao được nhân dân đặt vào, nó luôn ở trong họ, và họ có thể thực hiện quyền lực đó khi họ muốn" [20, 208]. Thứ tư, pháp luật là nền tảng của quyền lực nhà nước Sự thỏa thuận tự nguyện đi đến kí kết một bản khế ước xã hội là cơ sở hình thành nhà nước và để nó có thể thực hiện được vai trò quản lí xã hội trật tự và có tổ chức thì phải có pháp luật. Trong xã hội công dân, luật pháp không chỉ đóng vai trò bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ của công dân mà còn là cơ sở làm cho xã hội cộng đồng tồn tại trong vòng trật tự bởi “Nơi nào có luật pháp chấm dứt, nơi đó sự chuyên chế bắt đầu” [20, 264]. Pháp luật chính là công cụ để nhà nước đảm bảo các quyền tự nhiên căn bản của con người và nó cũng chính là công cụ để chống lại sự lạm dụng quyền lực của các nhà quản lý xã hội. Một quốc gia mà thiếu vắng luật pháp thì sẽ chìm trong sự chuyên chế, nhân dân sẽ sống trong trạng thái còn tệ hơn cả trong trạng thái tự nhiên. Lock viết: “Nếu phải từ bỏ trạng thái tự nhiên cho chủ nghĩa độc tài thì tốt hơn là nếp sống theo trạng thái nguyên thủy” [14, 59]. Sở dĩ đó, Locke đã đưa ra một kết luận đầy đanh thép về tính tối thượng của luật pháp trong xã hội dân sự: “Không một ai trong xã hội dân sự có thể được miễn trước pháp luật của nó” [20, 136]. Mọi công dân và thiết chế quyền lực nhà nước phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, 45
- không ai có thể đứng lên trên pháp luật. Luật pháp là tối cao, đại diện cho sức mạnh ý chí chung của tất cả thành viên trong xã hội, bởi mỗi người đã từ bỏ quyền trở thành quan tòa của chính mình chuyển giao quyền lực phán xét cho cộng đồng. Lợi ích chung là cơ sở của luật pháp nền tảng, mang tính tổng quát cho tất cả mọi người. Trong xã hội dân sự, mọi người đều bình đẳng trước sự phán xét của luật pháp. Mục đích của luật pháp theo Locke nhấn mạnh bảo toàn sở hữu ở mức cao nhất và làm cho con người càng trở nên tự do trong trật tự khuôn khổ của luật pháp “mục đích của luật pháp không phải thủ tiêu hay kiềm tỏa tự do, mà là bảo toàn và khuyếch trương nó .[20, 93 – 94]. Locke thấy được rằng, cần phải vạch ra giới hạn giữa quyền lực nhà nước và quyền tự do của công dân. Đối với người dân thì cho phép làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, còn đối với cơ quan nhà nước chỉ được phép làm những gì mà pháp luật quy định. Pháp luật của nhà nước phải hướng đến mục tiêu vì con người, vì quyền con người. Như vậy, trong toàn bộ tác phẩm của mình, Locke khẳng định mạnh mẽ rằng nhân dân mới là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Bởi theo sự luận giải của Locke, nhà nước là do con người thỏa thuận lập nên, do đó, quyền lực của nhà nước không phải là quyền lực tự thân mà là quyền lực được ủy thác và phải chịu sự kiểm soát từ nhân dân. Quyền lực nhà nước ra đời với mục đích vì quyền con người được bảo vệ bởi pháp luật, bảo đảm con người sống trong xã hội an toàn và ổn định. Tổ chức và mọi phương thức hoạt động của quyền lực nhà nước cũng đều phải đảm bảo được mục đích đó. 2.2. Tƣ tƣởng về phân chia quyền lực nhà nƣớc của John Locke Con người từ bỏ trạng thái tự nhiên để chuyển sang xã hội có nhà nước là bởi vì quyền con người ở trong nhà nước có luật pháp điều chỉnh được đảm bảo hơn so với ở trong trạng thái tự nhiên. Chính vì thế, nhà nước phải tổ chức và 46
- vận hành quyền lực theo cách thức nào để hoạt động hiệu quả nhất, để nhân dân ủy quyền nhưng không mất quyền, ủy quyền nhưng không bị lạm quyền? Câu trả lời được John Locke trình bày chi tiết và chặt chẽ trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”. 2.2.1. Nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nƣớc Kế thừa quan điểm về tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước của các bậc tiền bối, John Locke đã có những quan điểm rõ ràng và chặt chẽ về sự phân chia quyền lực nhà nước, đồng thời xác định rõ vị trí và vai trò của mỗi quyền trong xã hội. Với Locke, quyền lực nhà nước là thuộc về nhân dân, mang tính thống nhất và không thể phân chia. Tuy nhiên sự thống nhất theo Locke là thống nhất về ý chí chung. Locke phân chia các bộ phận của quyền lực nhà nước thành các cơ quan quyền lực: lập pháp, hành pháp và liên hiệp. Ba cơ quan này có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng đều nhằm mục đích phục vụ ý chí chung và lợi ích công. Quyền lực nhà nước với tính cách là quyền lực tối cao đại diện cho ý chí chung, mà ý chí chung được tạo nên do mỗi cá nhân rút khỏi quyền thực thi luật tự nhiên chuyển giao cho cộng đồng. Bởi vậy chức năng của quyền lực tối cao là phải đảm bảo cho quyền và lợi ích của mỗi công dân trong xã hội ấy. Vì thế quyền lực tối cao là thống nhất, không thể phân chia. Nếu phân chia quyền lực tối cao trở thành những quyền riêng, do vậy bản chất quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân không còn nữa. Trong quyền lực nhà nước, quyền lực lập pháp được ông coi trọng nhất, các quyền hành pháp, quyền liên hiệp là những bộ phận thi hành, theo như cách nói của ông là chúng chỉ là thuộc cấp của lập pháp. Quan niệm về phân quyền của Locke đã làm sáng tỏ được bản chất dân chủ của nhà nước. Về sự phân chia quyền lực, ông khẳng định: “Cơ quan lập pháp .vì các luật này – vốn luôn được thực hiện trong một thời gian ngắn, nên không cần 47
- thiết là cơ quan lập pháp cần phải luôn luôn hiện diện, Và do có thể có một sự cám dỗ quá lớn trước sự yếu đuối của con người, ở cùng những người có quyền làm luật đó có xu hướng thâu tóm quyền lực nhờ đó có thể miễn trừ cho chính họ khỏi việc tuân thủ đối với luật mà họ làm nên, và rồi đồng bộ hóa pháp luật, cho lợi thế tư riêng của chính họ; từ đó đi đến chỗ có sự tách biệt quyền lợi khỏi phần công cộng còn lại, đối lập với mục đích của chính quyền và xã hội”[20, 199], “vì các luật được làm nên vào một lần và trong một thời gian ngắn mà lại có sức mạnh bất biến và dài lâu, cùng với nhu cầu thực thi trường cửu, tức là thêm vào đó một sự tham dự nữa, do đó, nó nhất thiết phải là một quyền lực luôn hiện diện để quan sát việc thực thi pháp luật đã được làm nên Cơ quan hành pháp và quyền lực lập pháp thường được tách rời nhau”[20, 200]. Locke luận giải quyền lực nhà nước không thể tập trung trong tay bất kỳ một cá nhân nào mà phải có sự tách biệt giữa quyền lập pháp và hành pháp. Bởi vì một khi quyền lập pháp và hành pháp cùng nằm trong tay một người hay một nhóm người thì có thể họ sẽ miễn cho bản thân việc chấp hành luật, thậm chí còn biến luật pháp trở thành công cụ nhằm đạt được mục đích và lợi ích của bản thân mình. Điều đó khiến cho quá trình làm luật và thực thi pháp luật chỉ vì lợi ích của riêng họ mà gạt bỏ lợi ích chung của cộng đồng, lúc này luật pháp không còn đại diện cho toàn thể ý chí của quốc gia mà là công cụ để bảo vệ lợi ích của người nắm quyền. Như vậy, nếu quyền lập pháp và hành pháp đều cùng thuộc về một chủ thể thì sẽ biến quyền lực nhà nước thành sân chơi của riêng họ với tư cách “vừa đá bóng, vừa thổi còi” .Vì thế hai quyền lực này cần được trao cho những bàn tay khác nhau. Đồng thời, Locke cũng nhận thấy một nguyên nhân khác cho việc cần có sự phân chia giữa lập pháp và hành pháp. Cần phải có một cơ quan khác đảm nhiệm quyền thực thi luật pháp vì cơ quan lập pháp là cơ quan không trường trực, không tồn tại thường xuyên, do việc luật làm ra trong thời gian ngắn mà được sử dụng lâu dài vì việc thi hành luật trong đời sống luôn luôn hiện hữu. Luật pháp là công cụ để nhà nước điều tiết các mối quan hệ xã 48
- hội và duy trì, bảo đảm trât tự xã hội, bảo vệ quyền của con người và định hướng phát triển xã hội, vậy nên cần phải có một cơ quan thường trực khác đảm nhiệm việc thi hành pháp luật trong đời sống. Chính vì thế, việc làm luật và thực thi nó trong thực tế phải được giao cho hai cơ quan quyền lực chuyên trách khác nhau đảm nhiệm: Cơ quan lập pháp thực hiện quyền làm luật. Cơ quan hành pháp là thực hiện cũng như giám sát sự thực hiện các đạo luật đã được cơ quan hành pháp ban hành. Về cơ quan hành pháp và quyền liên hiệp, Locke cũng khẳng định quyền lực hành pháp và liên hiệp mặc dù thống nhất với nhau, nhưng thực sự khác biệt về vai trò, chức năng của mỗi quyền. Một quyền đảm bảo quyền thực thi luật bên trong xã hội đó, còn một quyền quản lí đảm bảo an ninh và sự liên quan đến người dân, những lợi ích hay nguy hiểm mà xã hội có thể nhận. Theo Locke, mỗi cơ quan nên giữ đúng vai trò của mình, cơ quan lập pháp thông qua nghị viện ban hành luật pháp, cơ quan hành pháp thi hành những điều khoản của luật vào trong đời sống xã hội, quyền liên hiệp giữ gìn an ninh và lợi ích của các cá nhân cũng như toàn thể cộng đồng trong mối quan hệ bên ngoài với các cá nhân và cộng đồng khác. Cả ba quyền đều hoạt động nhằm mục đích đảm bảo quyền lợi của công dân, đảm bảo sự phát triển của cộng đồng trong an toàn và ổn định phát triển trong hòa bình. Như vậy, ông không chỉ đề cao vai trò của pháp luật mà ông còn đặt nhiệm vụ đó vào từng bộ phận trong hệ thống chính trị. Việc Locke đưa ra quan điểm phân chia quyền lực nhà nước nhằm phản ánh một thực tế trong xã hội nước Anh quyền con người bị xâm phạm nghiêm trọng, và nhu cầu bức thiết phải xóa bỏ quyền lực chuyên chế của nhà vua để đi đến xây dựng một quyền lực chính trị mới mang tính dân chủ và đảm bảo tốt hơn những quyền lợi chính đáng của người dân, có sự kiểm soát. Phân chia 49
- quyền lực cũng tức là nhà nước bị chế ước quyền lực, khi đó quyền lực của nhà nước không còn vô hạn, không còn thuộc về một người. Cơ sở cho việc cần phân chia quyền lực nhà nước không chỉ nằm ở chỗ chống lại sự lạm dụng và giới hạn quyền lực nhà nước mà còn ở chỗ chống lại hành động tùy tiện của các quan chức trong tổ chức bộ máy nhà nước để đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Locke thấy một thực tế là con người có lòng ham muốn quyền lực tuyệt đối, bởi vì khi có quyền lực con người dễ có khả năng buộc người khác phải làm theo những ý muốn đam mê của mình, con người cũng có lúc vì lợi ích cá nhân mà hành động gây tổn hại đến lợi ích của người khác và cộng đồng. Vì thế, theo Locke nếu quyền lực nhà nước không bị hạn chế, không bị kiểm soát thì hậu quả rõ ràng nhất là sự vi phạm các quyền của con người, vì lòng đam mê quyền lực là vô hạn độ với ai nắm nó trong tay. Do vậy, mục đích của việc phân chia quyền lực nhà nước theo Locke là đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân nhằm bảo vệ quyền tư nhiên con người. Locke đưa ra lý thuyết này bởi ông đứng trên quan điểm chủ quyền của nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân chính thông quá thoản thuận lập ra nhà nước và cũng ấn định rằng nhà nước đều phải hướng đến mục đích cao nhất là đảm bảo quyền lợi của người dân sống trong đó. Nhưng người dân không có khả năng và điều kiện giải quyết mọi vấn đề của nhà nước nên buộc phải ủy quyền cho những người đại diện tham dự vào bộ máy nhà nước thay mặt cho họ giải quyết các tranh chấp, cũng như đảm bảo sự an toàn, tính mạng và tài sản của người dân. Do vậy, người được ủy quyền đại diện cho người dân phải chịu sự chế ước từ người ủy quyền, tức nhân dân có quyền kiểm tra và giám sát hoạt động của nhà nước. Khi những người được ủy quyền hành động không đúng với mục đích ban đầu được giao thì người dân có quyền phế truất họ và lựa chọn những người đại diện khác xứng đáng hơn.Bảo toàn quyền tự nhiên của mỗi cá nhân con người trong nhà nước đó là mục đích và cũng là tiêu chí căn bản xác 50
- định giới hạn và phạm vi của nhà nước. Đi quá giới hạn này, chính quyền dễ trở thành chuyên chế, kẻ thù của tự do và là đối tượng của cách mạng. Như vậy, theo Locke tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực là nhằm giới hạn quyền lực nhà nước, hạn chế sự lộng quyền, tham luyến quyền lực và biến chất của nhà nước để đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, thuộc về lợi ích chung của cộng đồng, mà trên hết là quyền tư nhiên cơ bản và thiêng liêng của con người: bảo toàn tính mạng, tự do, bình đẳng và sở hữu của con người. Quyền lực thuộc về nhân dân vừa là nguyên tắc vừa là mục đích của phân chia quyền lực nhà nước. 2.2.2. Quan niệm của John Locke về vai trò cụ thể của các bộ phận quyền lực nhà nƣớc Trong tư tưởng của John locke về phân chia quyền lực nhà nước, ông đề cập đến vai trò và mối quan hệ của các bộ phận quyền lực nhà nước. Locke chưa đưa ra mô hình tam quyền phân lập giữa ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp như ở các nhà tư tưởng sau này, mà ở trong “Khảo luận thứ hai về chính quyền quyền”, Locke phân chia quyền lực thành: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền liên hiệp tương ứng với các cơ quan chuyên trách khác nhau. Về cơ quan lập pháp Theo Locke, một cộng đồng quốc gia thành lập thì việc tiên quyết và nhất quyết cần phải làm là thiết lập cơ quan lập pháp. Locke cho rằng “Luật xác thực đầu tiên và là nền tảng của mọi cộng đồng quốc gia, là việc thiết lập quyền lực của cơ quan lập pháp, cũng như là luật tự nhiên đầu tiên và làm nền tảng để cai quản ngay cả chính cơ quan lập pháp, là sự bảo toàn của xã hội và của mỗi cá thể trong đó” [20, 183]. Cơ quan lập pháp có quyền lực tối cao và được xem là linh hồn trong toàn bộ hệ thống chính trị, là cơ sở để mọi công dân có thể xác định được giới hạn, phạm vi quyền lực của mình. Hơn thế, theo ông “Tùy việc quyền lực lập pháp đặt ở cương vị nào mà hình thức của cộng đồng quốc gia đó 51
- như thế đó” [20, 180]. Trong tư tưởng phân chia quyền lực của Locke, có thể nhận thấy ông đã đồng nhất quyền lực nhà nước với quyền lập pháp. Cơ quan lập pháp là cơ quan duy nhất có quyền ban hành pháp luật. Nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ quan lập pháp, Locke khẳng định: "Cơ quan lập pháp này không những là quyền lực tối cao của cộng đồng quốc gia, mà còn là quyền lực thiêng liêng và không thể hoán đổi một khi cộng đồng đã đặt nó vào cương vị đó; mà cũng không thể có bất kỳ sắc lệnh nào - của bất kỳ cơ quan nào có được sức mạnh và nghĩa vụ của một luật định, khi mà sắc lệnh đó vốn không có sự phê chuẩn của cơ quan lập pháp mà công chúng đã chọn và chỉ định" [20, 199]. Theo Locke, cơ quan lập pháp là cơ quan quyền lực cao nhất, hơn nữa còn là quyền lực thiêng liêng và không thể bị hoán đổi một khi cộng đồng đã đặt nó vào vị trí đó. Bởi cơ quan này chính là quyền lực của nhân dân, do nhân dân chuyển nhượng thông qua khế ước xã hội. Cơ quan quyền lực lập pháp được tạo thành từ những đại biểu do nhân dân lựa chọn và là cơ quan duy nhất có quyền làm ra luật, “cơ quan lập pháp định nên luật pháp của xã hội không bằng gì khác ngoài cái quyền nó có để làm luật cho mọi thành phần ” [20, 205]. Thông qua luật pháp bất kỳ một công dân nào cũng phải thực hiện theo những luật mà cơ quan lập pháp ban hành. Chức năng của cơ quan quyền lực lập pháp, theo Locke “là cơ quan vạch nên đường hướng và sức mạnh của cộng đồng quốc gia” [20, 199]. Điều này thể hiện ở việc làm ra luật và giám sát việc thực thi pháp luật do mình làm ra. Để cơ quan lập pháp trở thành đại diện cho chủ thể quyền lực tối cao thì nó phải đứng trên lập trường ý chí chung của tất cả các thành viên trong xã hội. Bởi sức mạnh mà cơ quan này có được chính là từ sự ủy quyền do nhân dân chuyển giao bằng khế ước xã hội, vậy nên nó bị hạn chế bởi khế ước đó. Vì thế, nó không được vượt qua giới hạn và đi ngược lại lợi ích của nhân dân và nhất quyết không thể là linh hồn của ý chí tùy tiện. Nhân dân thông qua quyền lực 52
- của cơ quan lập pháp để xây dựng lên hệ thống pháp luật, đó là những quy tắc chung cho xã hội, đại diện cho ý chí chung của cộng đồng. Luật pháp do nó ban hành phải hướng đến sự bảo toàn của xã hội và mỗi cá nhân trong đó. Như vậy, cơ quan lập pháp có quyền lực tối cao nhưng bản thân nó cũng bị giới hạn bởi luật pháp. Luận giải cho điều này, Locke viết: “Bởi tất cả quyền lực mà chính quyền có chỉ phục vụ cho lợi ích của xã hội, nên việc nó không được mang tính chuyên quyền và tùy thích cũng ngang với việc nó phải được thực thi bằng các luật được thiết định và ban hành chính thức” [20, 191]. Cũng giống như bất kỳ cơ quan nào khác trong xã hội, cơ quan lập pháp cũng phải chấp hành luật chính mình ban hành, không thể đứng lên trên luật pháp. Nếu Thomas Hobbes đề cao quyền cai trị độc tôn của vị chúa tể Leviathan nắm trong tay quyền lực tối cao, thì với John Locke, quyền lực tối cao được đặt vào cơ quan lập pháp và thuộc về Nghị viện. Nghị viện phải họp định kỳ để thông qua các đạo luật. Tuy nhiên, cơ quan lập pháp có quyền lực tối cao không phải vô hạn mà nó bị giới hạn trong những điều kiện nhất định. Nói về phạm vi của quyền lực cơ quan lập pháp, John Locke đã giải thích cặn kẽ những nguyên tắc giới hạn nhất định. Thứ nhất, cơ quan lập pháp “ không phải mà cũng không thể là quyền lực độc đoán, chuyên chế đặt trên cuộc sống, vận mệnh của nhân dân, vì sự tồn tại của nó chỉ là một quyền lực liên kết các thành viên trong xã hội đã nhường lại cho cá nhân hay một nghị hội đóng vai trò là nhà lập pháp” [20, 185]. Nhân dân trao quyền cho cơ quan lập pháp vì lợi ích chung của xã hội bảo toàn sở hữu và cộng đồng nên mục đích cao nhất của cơ quan này không ngoài mục đích nào khác là phải bảo vệ lợi ích của nhân dân. Chính vì thế, cơ quan này không được chuyên quyền độc đoán, đứng trên nhân dân hay có ý định nô dịch nhân dân. và luật pháp được xây dựng lên không ngoài mục đích gì khác chính là lợi ích của nhân dân. Như vậy, Locke đã đặt ra giới hạn của quyền lực lập pháp đó không gì 53