Tóm tắt luận án Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới cầu đào tạo từ xa ở Việt Nam

pdf 27 trang tranphuong11 27/01/2022 7460
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt luận án Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới cầu đào tạo từ xa ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_phan_tich_cac_nhan_to_anh_huong_toi_cau_dao.pdf

Nội dung text: Tóm tắt luận án Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới cầu đào tạo từ xa ở Việt Nam

  1. Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n ‹ ®Æng v¨n d©n Ph©n tÝch c¸c nh©n tè ¶nh h−ëng tíi cÇu ®µo t¹o tõ xa ë viÖt nam Chuyªn ngµnh: kinh tÕ häc (kinh tÕ häc vi m«) M· sè: 62.31.03.01 Hµ néi, n¨m 2014
  2. C«ng tr×nh ®−îc hoµn thµnh t¹i Tr−êng ®¹i häc Kinh tÕ Quèc d©n Ng−êi h−íng dÉn khoa häc: 1. PGS.ts. Vò kim dòng 2. pgs.TS. T« trung thµnh Ph¶n biÖn 1: PGS.TS. Ph¹m Quý Thä Häc viÖn ChÝnh s¸ch vµ Ph¸t triÓn GS.TS. §ç Kim Chung Ph¶n biÖn 2: GS.TS. NguyÔn Kim Truy ViÖn §¹i häc Më Hµ Néi Ph¶n biÖn 3: PGS.TS. NguyÔn V¨n ¸ng Bé Gi¸o dôc vµ §µo t¹o Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận án cấp Trường họp tại: TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN Vào hồi 16 h 00 ngày 28 tháng 04 năm 2014 Cã thÓ t×m hiÓu luËn ¸n t¹i - Thư viện Quốc gia Việt Nam. - Thư viện Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân.
  3. 1 I. GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. Lý do lựa chọn đề tài Theo Niên giám Thống kê của Tổng cục Thống kê xuất bản năm 2011, nước ta tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo là 16,3%. Trong những năm gần đây, nhiều trường được thành lập, số lượng tăng rất nhanh nhưng vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu được đào tạo. Nếu chỉ dựa vào phương thức đào tạo truyền thống giới hạn bởi khuôn viên nhà trường và những lớp học bị khép kín thì khó có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu đó. Tính đến năm 2012 cả nước ta đã có 21 cơ sở đăng ký đào tạo từ xa, trong đó 17 cơ sở đã được giao chỉ tiêu năm 2012 là 40 400 học viên, 15 cơ sở đã tuyển được học viên với quy mô học viên cả nước năm 2012 là 161 047 học viên. Năm 2009 quy mô học viên theo học là 232 781 học viên, số học viên tốt nghiệp ra trường đến năm 2009 là 159 947 học viên. Theo đề án “Phát triển giáo dục từ xa giai đoạn 2005 - 2010” Chính phủ đã đề ra chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2010 có 300.000 học viên, và đến năm 2020 có 500.000 học viên theo học đào tạo từ xa. Sự phát triển của đào tạo từ xa đã được chi phối bởi triết lý giáo dục rằng, sử dụng tài liệu dạy và học được tiêu chuẩn hóa và chuẩn bị trước để đạt được lợi ích kinh tế do quy mô đem lại. Do đó, đào tạo từ xa là việc sử dụng công nghệ đào tạo cho số đông, về chi phí đầu tư ban đầu tương đối lớn so với loại hình đào tạo trực tiếp, với số lượng người học hiện nay còn thấp, dẫn đến chi phí đào tạo tính trên đầu người học còn cao, tính hiệu quả trong đào tạo từ xa còn thấp. Các công trình nghiên cứu về đào tạo từ xa ở nước ta và các nước trong khu vực hiện nay khá nhiều và phong phú, nhưng chủ yếu tập trung vào lĩnh vực nghiên cứu công nghệ đào tạo, trao đổi đúc rút kinh nghiệm đào tạo từ xa. Việc đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến cầu đào tạo từ xa và lượng hóa được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố và xây dựng hàm cầu đào tạo từ xa, là việc làm cần thiết nhằm đưa ra các khuyến nghị phát triển đào tạo từ xa.
  4. 2 Đó chính là gợi ý cho việc lựa chọn đề tài nghiên cứu:“Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới cầu đào tạo từ xa ở Việt Nam”. 2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án + Đánh giá thực trạng hoạt động đào tạo từ xa của Việt Nam giai đoạn từ 1994 đến nay. + Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới cầu đào tạo từ xa của Việt Nam. + Đề xuất các kiến nghị nhằm phát triển hình thức đào tạo từ xa của Việt Nam. Do vậy đề tài nghiên cứu cần trả lời được câu hỏi: Những nhân tố nào ảnh hưởng tới cầu đào tạo từ xa tại Việt Nam? 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án Nghiên cứu chủ yếu tập trung vào phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến cầu đào tạo từ xa tại Việt Nam đối với bậc học đại học, từ năm 1994, nước ta bắt đầu thực hiện đào tạo từ xa cho đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp ước lượng kinh tế lượng thông qua việc thu thập số liệu sơ cấp và sử dụng mô hình logistic nhị nguyên. Các hệ số trong phương trình hồi quy có thể sử dụng ước lượng các hệ số co giãn (tỷ số chênh) cho từng biến độc lập trong mô hình. Kết hợp với phương pháp hồi quy logistic nhị nguyên, đề tài còn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, so sánh, phân tích. 5. Những đóng góp của luận án - Về mặt phát triển khoa học, nghiên cứu: (i) Phát hiện và thẩm định các nhân tố ảnh hưởng tới cầu đào tạo từ xa và lượng hóa mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, (ii) Xây dựng hàm cầu đào tạo từ xa tại Việt Nam. - Về mặt thực tiễn: Căn cứ vào các nhân tố tác động tới cầu đào tạo từ xa và mối quan hệ giữa chúng đã được nghiên cứu, làm cơ sở đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách đối với phát triển đào tạo từ xa, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam.
  5. 3 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án bao gồm các chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu. Chương 2: Thực trạng đào tạo từ xa tại Việt Nam. Chương 3: Kết quả thực nghiệm ước lượng hàm cầu đào tạo từ xa ở Việt Nam. Chương 4: Ứng dụng kết quả nghiên cứu trong hoạch định chính sách đào tạo từ xa ở Việt Nam. II. NỘI DUNG LUẬN ÁN CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 1.1. Cơ sở lý luận về ước lượng và dự báo cầu đào tạo từ xa + Qua quá trình đào tạo từ xa và đặc điểm đào tạo từ xa, luận án nêu khái niệm: Đào tạo mở và từ xa là một khái niệm xuất phát từ phương pháp đào tạo từ xa hàm thụ trong thời đại công nghiệp. Các hệ thống đào tạo từ xa vẫn giữ vai trò đáp ứng nhu cầu xã hội trong thời kỳ hậu công nghiệp và phát triển theo hướng cho người dân tự hoàn thiện bản thân và đáp ứng nhu cầu cá nhân. Ngoài ra, sự phát triển công nghệ của kỷ nguyên mới đã làm gia tăng nhu cầu đào tạo thường xuyên về nghề nghiệp, và sự thay đổi trong định hướng theo hướng giáo dục thường xuyên đã làm tăng thêm tính mở của khái niệm về học tập suốt đời cho tất cả mọi người. Tiến bộ của công nghệ thông tin và truyền thông làm tăng thêm khả năng tương tác của đào tạo từ xa. Tuy nhiên nhiều quốc gia tập trung vào việc sử dụng các công nghệ tinh vi có thể làm giảm số lượng công chúng tiếp cận với giáo dục. Việc lựa chọn công nghệ và thiết kế các hệ thống học tập phù hợp đóng vai trò quan trọng trong việc xác định mức độ cởi mở của hệ thống đào tạo từ xa. Về lý luận, đào tạo Mở và Từ xa là hệ thống nhằm vượt qua những khó khăn về khoảng cách, nhất thời hay thường xuyên, yếu tố kinh tế, hạn chế cá nhân, với lý tưởng mở cơ hội học tập cho tất cả mọi người.
  6. 4 + Luận án khái quát các nhân tố tác động đến cầu đào tạo từ xa, bao gồm: (i) Tác động của học phí, (ii) Khả năng ứng dụng phương tiện trong đào tạo, (iii) Sự tin tưởng chất lượng đào tạo của người dân và thị trường lao động, (iv) Tâm lý cá nhân, (v) Các quan điểm về việc làm, (vi) Các quan điểm về thị trường lao động trực tiếp ban đầu, (vii) Yếu tố kinh tế đối với người học, (viii) Quan điểm tiêu dùng, sử dụng dịch vụ đào tạo từ xa, (ix) Các chủ đề liên quan đến học và làm việc trước đây, (x) Ảnh hưởng bởi những người quan trọng khác đối với định hướng theo học từ xa của người dân, (xi) Chính sách ưu đãi của nhà nước đối với đào tạo từ xa, (xii) Áp lực của gia đình và xã hội đối với người dân định hướng theo học từ xa, (xiii) Thu nhập của người lao động, (xiv) Thị hiếu của người dân đối với đào tạo từ xa, (xv) Chi phí của các dịch vụ liên quan đến đào tạo từ xa, (xvi) Quy mô dân số, (xvii) Các kỳ vọng của người dân đối với đào tạo từ xa. + Luận án đưa ra trình tự phương pháp nghiên cứu cầu đào tạo từ xa, bao gồm các bước: (i) Quan sát và đo lường, (ii) Xây dựng mô hình, (iii) Kiểm định mô hình. + Luận án thống kê các phương pháp ước lượng cầu đào tạo từ xa, bao gồm phương pháp: (i) Ước lượng cầu đào tạo từ xa bằng co giãn đơn giản, (ii) Ước lượng cầu đào tạo từ xa bằng kinh tế lượng. 1.2. Tổng kết các nghiên cứu liên quan Sự gia tăng cầu đào tạo vào những năm cuối thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, được nhìn nhận như một hiện tượng. Số người theo học đại học tăng nhanh ở những nước phát triển và đang phát triển, trong khi đó, hệ thống giáo dục cũng được mở rộng nhanh chóng nhằm đáp ứng sự gia tăng của cầu (OECD, 1978a). Một trong những nỗ lực đầu tiên để đánh giá và kiểm tra các ảnh hưởng chính lên cầu cá nhân với đào tạo đại học đã được hội đồng Robbins Vương quốc Anh thực hiện. Trong số những ảnh hưởng này, hội đồng Robbin đánh giá các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến cầu đào tạo bao gồm: Nền tảng gia đình, triển vọng công việc và kinh tế kết hợp với các cấp độ giáo dục khác nhau, các thể chế của nhà nước.
  7. 5 Các nghiên cứu sau này về các nhân tố ảnh hưởng đến cầu đào tạo nói chung, coi các nhân tố được chia làm bốn loại chính: Xã hội/ gia đình, tâm lý/cá nhân, kinh tế/ lựa chọn, cấu trúc/ thể chế (OECD, 1978b). Trong các nhân tố xã hội đa dạng được coi như ảnh hưởng đến cầu đào tạo, nhân tố gia đình có thể coi là nhân tố quan trọng nhất. Người ta cho rằng các gia đình có địa vị xã hội cao tạo được môi trường tốt khích lệ con cái của mình học tập tốt hơn (OECD, 1978b). Các nghiên cứu về những tác động của các biến số gia đình lên cầu đào tạo đại học nói chung và đào tạo từ xa nói riêng tại một số các quốc gia đã lặp đi lặp lại một mối liên quan mật thiết quan trọng giữa vị thế gia đình và và sự tham gia đào tạo ở các trường đại học đã được minh chứng với các công trình nghiên cứu của (Guppy và Pendakur, 1989). Trong khi đó, ở Anh, số lượng học sinh học xong phổ thông trung học đăng ký vào học tại các trường đại học thuộc tất cả các loại hình đào tạo trong đó có đào tạo từ xa đã tăng ở tất cả các nhóm xã hội, tầng lớp gia đình có vị thế xã hội cao đã duy trì lợi thế tương đối trong việc chạy đua vào các trường đại học và cao đẳng so với các gia đình tầng lớp thấp hơn (Halsey, 1993). Ảnh hưởng của các biến số xã hội bổ xung lên cầu cá nhân về đào tạo cũng trở thành đề tài điều tra. Các cá nhân như: Giáo viên và các nhà cố vấn nghề nghiệp, các cơ quan tổ chức, các doanh nghiệp sử dụng lao động tác động mạnh mẽ đến cầu đào tạo nói chung và đào tạo từ xa nói riêng. Năm 1970 Mc. Creath nhận ra rằng, trong số những học sinh phổ thông và những người đã có việc làm, các nhà tư vấn nghề nghiệp là những người ít tư vấn cho họ về học tập đại học so với gia đình của họ. Theo học thuyết về khả năng của con người, người học được xem như những thực thể cá nhân kinh tế có cầu về đào tạo từ xa nếu như những lợi ích mà họ kỳ vọng đạt được lớn hơn những chi phí mà người học từ xa sẽ phải gánh chịu trong thời gian theo học, cả về vật chất và tinh thần. Theo kết quả các nghiên cứu của Handa và Scolik (1975), cho rằng số lượng lớn người học đã
  8. 6 ủng hộ học thuyết về khả năng của con người và những lý giải trong học thuyết này về cầu đào tạo nói chung và đào tạo từ xa nói riêng. Cấu trúc, thể chế (các chủ đề liên quan đến học tập và đào tạo trước đây), đã được phát hiện có liên quan mật thiết tới đường hướng theo học đại học. Theo Meyer 1970, những biến số này bao gồm: Uy tín của các trường, các tổ chức đào tạo của người học trước đây đã tham gia, cơ chế sắp xếp học sinh theo năng lực và các thời điểm chuyển tiếp trong hệ thống giáo dục và đào tạo, như ví dụ công trình nghiên cứu của (Yuchtman và Samuel, 1975) và các chương trình đã được học, đào tạo trước đây (Borus và Carpenter, 1984). Trong nghiên cứu “Estimating the Demand for Highter education in the United States, 1965-1995” Cambell và Siegel (1967), đã đo được độ co giãn của học phí và thu nhập bằng cách đánh giá mô hình truyền thống liên quan đến tỷ lệ đăng ký nhập học đối với hai biến số kinh tế về học phí và thu nhập sẵn có. Tóm lại, các công trình nghiên cứu trước đây đã đánh giá và thẩm định được các nhân tố ảnh hưởng đến cầu giáo dục đại học, bao gồm các nhân tố: (i) Tâm lý cá nhân, (ii) Các quan điểm về việc làm, (iii) Các quan điểm về thị trường lao động trực tiếp ban đầu, (iv) Kinh tế, (v) Quan điểm tiêu dùng - sử dụng dịch vụ, (vi) Các chủ đề liên quan đến học và làm việc trước đây, (vii) Ảnh hưởng bởi những người quan trọng khác, (viii) Học phí. 1.3. Kinh nghiệm đào tạo từ xa tại các nước Đông Nam Á và khu vực Nội dung kinh nghiệm đào tạo từ xa tại các nước Đông Nam Á và khu vực, luận án đưa ra kinh nghiệm đào tạo từ xa tại: (i) Đại học Phát thanh Truyền hình Trung Quốc, (ii) Trường Đại học Ảo Pakistan, (iii) Đại học Mở Sukhothai Thammathirat, Thái Lan. Trên cơ sở nghiên cứu đào tạo từ xa của các nước, luận án tóm tắt được chính sách ưu tiên phát triển đào tạo từ xa và những bài học kinh nghiệm của các nước Đông Nam Á và khu vực.
  9. 7 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO TỪ XA TẠI VIỆT NAM 2.1. Thực trạng đào tạo từ xa tại Việt Nam Luận án phân tích đánh giá thực trạng đào tạo từ xa ở Việt Nam từ năm 1994 đến nay, bao gồm các mặt: (i) Phát triển quy mô mạng lưới đào tạo từ xa trong cả nước, (ii) Tổ chức quá trình đào tạo từ xa, (iii) Hợp tác quốc tế trong quá trình đào tạo từ xa. 2.2. Những hạn chế yếu kém Một là, Công nghệ đào tạo: Cho đến nay, học liệu chủ yếu của học viên đào tạo từ xa tại Việt Nam chủ yếu là tài liệu in kết hợp sử dụng một số CD- ROM, băng đĩa, băng hình. Nếu so sánh với tiêu chuẩn của một số nước trong khu vực và quốc tế, hầu hết các loại học liệu do các cơ sở đào tạo từ xa biên soạn chưa thực sự phù hợp với công nghệ đào tạo từ xa. Các cơ sở đào tạo từ xa chưa tập hợp được đội ngũ giáo viên, giảng viên giỏi, các nhà khoa học, các chuyên gia trên nhiều lĩnh vực để tổ chức xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu dùng chung cho một số môn học, đặc biệt là giáo trình, học liệu cho các môn học tự nhiên, kỹ thuật - công nghệ, xây dựng các lớp học “Ảo”, các bài thực hành, thí nghiệm “Ảo”, dẫn đến thời gian học trực tiếp còn nhiều. Các Đài phát thanh, truyền hình của trung ương, địa phương và của các tổ chức truyền thông khác, học viên đào tạo từ xa sử dụng làm phương tiện hỗ trợ học tập chưa đáng kể và chưa hiệu quả trong những thời gian qua. Hai là, Đầu tư cơ sở vật chất cho đào tạo từ xa chưa có đầu tư ban đầu thích đáng cho công nghệ đào tạo từ xa, từ trang thiết bị đến các giáo trình, học liệu, phục vụ cho học viên đào tạo từ xa. Ba là, tổ chức và quản lý quá trình đào tạo từ xa: Một số cơ sở đào tạo từ xa và một số cơ sở tiếp nhận đào tạo từ xa ở địa phương hiện nay chưa có tổ chức hợp lý và đủ mạnh, chưa có quy trình và biện pháp quản lý đào tạo từ xa chặt chẽ. Các cơ sở tiếp nhận chương trình đào tạo từ xa ở địa phương của một số cơ sở phần lớn là do cán bộ của các Sở Giáo dục & Đào tạo kiêm nhiệm, không có bộ máy chuyên trách, địa điểm thuê mượn không ổn định.
  10. 8 Bốn là, quy trình thi, kiểm tra đánh giá có nơi, có lúc chưa đảm bảo tính nghiêm túc, khách quan. Trong điều kiện thực tế hiện nay khi cơ sở vật chất còn thiếu, công nghệ đào tạo chưa được cải tiến, với phương thức xét tuyển đầu vào, với quy chế thi, kiểm tra, thi tốt nghiệp như hiện nay chủ yếu kiểm tra theo hình thức tự luận chưa đáp ứng được quy trình kiểm tra, thi đánh giá theo phương pháp trắc nghiệm khách quan. Năm là, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ và phương pháp sư phạm về đào tạo từ xa cho đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên: Hiện nay tại các cơ sở đào tạo từ xa ở nước ta chủ yếu sử dụng đội ngũ giáo viên giảng dạy hệ chính quy, tại chức, chuyên tu, chưa có nghiệp vụ và phương pháp sư phạm đào tạo từ xa, Đối với đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo từ xa hầu như chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ, chủ yếu là cán bộ quản lý giáo dục từ hệ chính quy và hệ vừa học vừa làm và các hệ khác, kiêm nhiệm công tác quản lý đào tạo từ xa, do vậy việc tư vấn, hướng dẫn, quản lý học viên đào tạo từ xa còn nhiều hạn chế. 2.3. Nguyên nhân của hạn chế yếu kém - Các cơ sở đào tạo từ xa chưa chú trọng đầu tư xây dựng học liệu nghe - nhìn, học liệu điện tử, và thiết bị công nghệ thông tin để chuyển tải các chương trình đào tạo từ xa tới học viên, học liệu hiện nay của học viên đào tạo từ xa chủ yếu là các giáo trình, bài giảng của giáo viên được in sẵn, học liệu hỗ trợ cho học viên tự học, tự nghiên cứu, tự tham khảo trước khi giải đáp môn học còn nhiều hạn chế. - Các cơ sở tiếp nhận chương trình đào tạo từ xa tại các địa phương chưa được trang bị thật đầy đủ học liệu, phương tiện hỗ trợ, đặc biệt là thí nghiệm thực hành cho học viên đào tạo từ xa trước khi có giảng viên hướng dẫn môn học. - Công tác xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên về chuyên môn, nghiệp vụ và phương pháp sư phạm đào tạo từ xa, đặc biệt là phương pháp dạy - học có khoảng cách và thông qua phương tiện kỹ thuật công nghệ thông tin và truyền thông chưa được quan tâm đúng mức, chưa tập huấn bài bản trước khi lên lớp.
  11. 9 - Đối với các giáo trình, học liệu có điều kiện chuẩn bị trước, in ấn chế bản phân phối cho học viên có nội dung tương đồng, chưa có sự phối hợp, liên kết giữa các cơ sở đào tạo từ xa (đặc biệt chia sẻ nguồn học liệu, phát triển công nghệ đào tạo). - Phần đông học viên đào tạo từ xa không có khả năng trang bị điều kiện để tự học ở nhà, chưa có thói quen, chưa rèn luyện phương pháp tự học. - Công tác quản lý từ Trung ương đến cơ sở còn nhiều bất cập. Thiếu hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chặt chẽ để quản lý điều hành các hoạt động đào tạo từ xa. - Đào tạo từ xa tại nước ta thực sự chưa có chính sách đầu tư thích đáng từ các nguồn khác nhau, như Ngân sách Nhà nước tại Trung ương và Địa phương và các nguồn tài trợ khác. 2.4. Những điều kiện thuận lợi đào tạo từ xa ở Việt Nam Đào tạo từ xa ở nước ta hiện nay có một số điểm thuận lợi, đó là: (i) Chính sách của Chính phủ khi bước vào thời kỳ đổi mới, thực hiện chủ trương đa dạng hóa các loại hình đào tạo, (ii) Sự ra đời và du nhập các công nghệ mới từ nước ngoài được đưa vào làm việc, sản xuất tại Việt Nam, ở các ngành, nghề đã tạo nhiều vị trí nghề nghiệp mới, làm gia tăng người dân Việt Nam lựa chọn giáo dục và đào tạo, với nỗ lực tìm kiếm các vị trí nghề nghiệp mới, làm cho nhu cầu đào tạo theo cơ cấu ngành nghề ngày càng đa dạng chiếm một phần quan trọng trong nhu cầu đào tạo nói chung ở Việt Nam, (iii) Chính sách Bình đẳng giới của chính phủ đã đi vào cuộc sống, sự giải phóng từng bước cho người Phụ nữ Việt Nam tham gia vào các lĩnh vực Kinh tế - Xã hội, cũng đóng góp một phần quan trọng với sự gia tăng cầu đào tạo nói chung, và cầu đào tạo từ xa nói riêng trong những năm cuối của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, (iv) Sự gia tăng cầu giáo dục nói chung và cầu giáo dục từ xa nói riêng tại Việt Nam hiện nay, phải kể đến sự thành công của Chính phủ về các Chiến lược Dân số, (v) Từ năm 1986 trở lại đây, Việt Nam đi vào tiến trình “Đổi mới và hội nhập”, xây dựng đất nước, An ninh Chính trị tương đối ổn định, chiến tranh
  12. 10 được đẩy lùi, số lượng thanh niên nhập ngũ giảm đáng kể, (vi) Các nhân tố kinh tế là một ảnh hưởng đáng kể lên cầu đào tạo từ xa thông qua sự khác biệt về thu nhập tiền lương của những người đã tốt nghiệp đại học với những người chưa qua đào tạo, tham gia vào thị trường lao động. CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM ƯỚC LƯỢNG HÀM CẦU ĐÀO TẠO TỪ XA TẠI VIỆT NAM 3.1. Phương pháp nghiên cứu và số liệu Trong nghiên cứu, đề tài sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp định lượng, thu thập số liệu sơ cấp cung cấp cho việc phân tích định lượng, bởi lẽ: (i) Phương pháp nghiên cứu định tính có thể bổ trợ cho nghiên cứu định lượng bằng cách xác định các nhân tố ảnh hưởng đến cầu đào tạo từ xa phù hợp với phương pháp điều tra, (ii) Phương pháp nghiên cứu định lượng có thể hỗ trợ cho nghiên cứu định tính bằng các phát hiện các nhân tố ảnh hưởng đến cầu đào tạo từ xa với một mẫu lớn hơn hay nhận biết các nhóm cần nghiên cứu sâu, (iii) Nghiên cứu định tính giúp giải thích các mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đến cầu đào tạo từ xa được phát hiện trong nghiên cứu định lượng. 3.1.1. Phương pháp nghiên cứu 3.1.1.1. Phương pháp nghiên cứu định tính Phương pháp nghiên cứu định tính là phương pháp thu thập dữ liệu nhằm mô tả và phân tích những đặc điểm của người dân Việt Nam có ảnh hưởng đến cầu đào tạo từ xa. Trong nghiên cứu, tác giả thu thập ý kiến từ một số nhóm đối tượng khác nhau, bao gồm thu thập ý kiến: (i) Các chuyên gia trong lĩnh vực đào tạo từ xa, bằng hệ thống các câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn theo hình thức phỏng vấn sâu và trực tiếp với hình thức phỏng vấn bán cấu trúc, nhằm thu nhận các ý kiến từ các chuyên gia, địa phương được chọn phỏng vấn các chuyên gia đào tạo từ xa tại Hà Nội, Đà Nẵng và Thành Phố Hồ Chí Minh, (ii) Các học viên đang theo học từ xa và người lao động tại Hải Phòng, Nghệ An và
  13. 11 Cần Thơ được thu thập ý kiến thông qua tập trung thảo luận nhóm sau các buổi hướng dẫn giải đáp thắc mắc môn học. 3.1.1.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng a. Lựa chọn mô hình ứng dụng Đối với các mô hình hồi quy mà biến phụ thuộc là biến định tính được lượng hóa theo những giá trị lựa chọn không liên tục, phương pháp bình phương nhỏ nhất, một phương pháp thường được sử dụng trong kinh tế lượng và mô hình hóa sản xuất sẽ không phù hợp. Cho nên các mô hình logistics phi tuyến để lượng hóa các biến số như sự hài lòng, mức độ đồng ý có thể được sử dụng. Trong Kinh tế học, mối quan hệ giữa lượng cầu đối với dịch vụ đào tạo từ xa và các yếu tố ảnh hưởng dưới dạng hàm số tổng quát sau: Yi = α + β Xi + εi Trong đó: Yi là lượng cầu đào tạo từ xa và X là véc tơ các biến giải thích. Đánh giá tác động của các nhân tố kinh tế, xã hội đến lượng cầu đào tạo đại học và sau đại học của người dân ở cộng hòa Síp năm 1998 đã sử dụng mô hình logistics để thực hiện các nghiên cứu thực nghiệm của mô hình cầu đào tạo đại học và sau đại học: Yi = α + β Xi + εi. Trong đó Y là đơn vị của sự lựa chọn, vectơ X thể hiện những biến giải thích cho sự lựa chọn của cá nhân i được phỏng vấn. b. Xây dựng mô hình logistic Trong nghiên cứu này, người được phỏng vấn sẽ trả lời với hai lựa chọn: Có ý định tham gia học phương thức đào tạo từ xa, hay không có ý định theo học từ xa. Do đó mô hình binary logistics được sử dụng với biến phụ thuộc nhận một trong hai giá trị là 0 (cho những phiếu câu hỏi trả lời không tham gia học theo phương thức đào tạo từ xa), hoặc 1 (cho những phiếu câu hỏi trả lời có ý định tham gia học theo phương thức đào tạo từ xa). Các tham số của mô hình sẽ cho biết tác động của các biến độc lập đối với xác suất đồng ý của người dân có định hướng theo học phương thức đào tạo từ xa. Mô hình binary logistics cho nhiều biến độc lập được mô tả như sau: LogP(Yi = 1) / [1- LogP(Yi = 1)] = b0 + bX’i = f(X’i)
  14. 12 Trong đó: - Xi là các véc tơ các biến độc lập. - Y: Mức độ trả lời của người được phỏng vấn, trong đó: (i) Y = 1 với phiếu câu hỏi trả lời “có ý định theo học phương thức đào tạo từ xa”, (ii) Y = 0 với phiếu câu hỏi trả lời “không có ý định theo học phương thức đào tạo từ xa”. - P: Xác suất trả lời của người được phỏng vấn với Y = 1. - i: Số thứ tự của mẫu được phỏng vấn. - b0: Hằng số của mô hình. - b: Véc tơ các tham số tương ứng với các biến giải thích. Để xác định và thẩm định các nhân tố ảnh hưởng tới cầu đào tạo từ xa, nghiên cứu đã thiết kế, xây dựng phiếu câu hỏi. Phiếu câu hỏi được xây dựng dựa trên cơ sở phiếu câu hỏi của các nghiên cứu trước đây, đã được thẩm định và công bố kết quả trên tạp chí quốc tế, nghiên cứu đã tiến hành phát triển, xây dựng, bổ sung phần nội dung phiếu câu hỏi dựa trên kết quả nghiên cứu định tính, nhằm phù hợp với môi trường đào tạo từ xa tại Việt Nam. Phiếu câu hỏi xây dựng, được thông qua giáo viên hướng dẫn và được được tiến hành điều tra thử tại một số điểm đào tạo từ xa tại Hà Nội và những địa phương lân cận như: Bắc Ninh, Hải phòng. Số phiếu câu hỏi điều tra thử, được tổng hợp, phân tích trên phần mềm Statistical Package for the Social Sciences - SPSS, sau đó sửa chữa, chỉnh sửa về mặt nội dung cũng như kỹ thuật. Bước tiếp theo, phiếu câu hỏi được hoàn thiện sau điều tra thử, được tiến hành điều tra trên diện rộng với quy mô lớn. 3.1.2. Nguồn dữ liệu thu thập Nghiên cứu sử dụng phương pháp điều tra chọn mẫu phi xác suất theo đánh giá chủ quan kết hợp với sự thuận tiện trong điều tra. Phiếu câu hỏi được chuyển đến các đối tượng điều tra sau: (i) Người lao động đã tốt nghiệp Phổ thông trung học và một số người lao động đã tốt nghiệp đại học nhưng có nhu cầu đào tạo lại tại các cơ quan tổ chức, doanh nghiệp, (ii) Học sinh lớp 12 hệ bổ túc văn hóa. Quá trình điều tra thông qua phiếu câu hỏi được tiến hành theo hai bước: (i) Giảng viên về các cơ sở đào tạo từ xa tại các địa phương hướng dẫn học viên đang theo học đào tạo từ xa trả lời phiếu câu hỏi, cán bộ tại các cơ sở giáo dục
  15. 13 thường xuyên đảm nhận hướng dẫn học sinh lớp 12 hệ bổ túc văn hóa trả lời phiếu câu hỏi, (ii) Học viên đào tạo từ xa đã được giảng viên hướng dẫn, đảm nhận công việc điều tra tại các cơ quan tổ chức, doanh nghiệp học viên đang công tác và nơi học viên đang sinh sống, hướng dẫn người lao động trả lời phiếu câu hỏi. Trong quá trình điều tra tại cơ sở, học viên thường xuyên liên lạc với giảng viên để được hướng dẫn và giải quyết những vấn đề phát sinh mới. Người trả lời phiếu câu hỏi được giảng viên, học viên đào tạo từ xa chuyển đến tận tay và hướng dẫn trả lời phiếu câu hỏi một cách khách quan, trung thực theo quan điểm của người được trả lời phiếu câu hỏi. Số phiếu câu hỏi đã được điều tra đảm bảo tính đại diện cho: (i) Các miền trong cả nước, (ii) Các địa bàn dân cư thành phố, nông thôn, (iii) Đại diện cho các khu vực Đồng bằng, Miền núi, Hải đảo, (iv) Đại diện cho các khu vực khác nhau của cả nước. Số lượng mẫu điều tra, phỏng vấn tại các điểm thuộc 25 Tỉnh, Thành phố trong cả nước, đảm bảo tối thiểu mỗi điểm điều tra đạt từ 40 mẫu trở lên, Tổng thể mẫu đã được điều tra, phỏng vấn và thu được 2533 mẫu. Thời gian phát phiếu thăm dò được tiến hành từ tháng 7 đến tháng 12 năm 2011. Với số cán bộ về các địa phương thu thập số liệu bằng phiếu câu hỏi, có thâm niên công tác trong lĩnh vực đào tạo từ xa, vì vậy người trả lời phiếu câu hỏi được sự giúp đỡ, hướng dẫn, giải thích tận tình chu đáo, cho nên người trả lời câu hỏi có tinh thần hợp tác và trách nhiệm tương đối cao với cuộc điều tra thăm dò này. Căn cứ vào số liệu thu thập thông qua phiếu điều tra phù hợp với nội dung nghiên cứu. Phiếu câu hỏi đã được điều tra thăm dò, thu thập, được chỉnh sửa dữ liệu thô, làm sạch dữ liệu và được đặt tên cho các biến, gán nhãn cho biến, gán nhãn cho giá trị của biến, định dạng cho biến, ấn định kích cỡ và kiểu cho từng biến, đánh số cho từng phiếu câu hỏi, nghiên cứu sử dụng phần mềm thống kê SPSS 16.0 nhập dữ kiệu vào máy. Mỗi dòng dữ liệu là phần trả lời của một bảng hỏi. 3.1.3. Thước đo biến số Trong phiếu câu hỏi, người trả lời phiếu câu hỏi được yêu cầu chỉ ra rằng bản thân có ý định theo học theo phương thức đào tạo từ xa hay không có ý định, đồng thời nói lên các quan điểm riêng của mình về đào tạo từ xa, và các
  16. 14 thông tin cá nhân quan trọng khác. Phiếu câu hỏi cũng đưa ra 45 câu hỏi liên quan đến những ảnh hưởng tiềm tàng về định hướng giáo dục và nghề nghiệp và 10 câu hỏi về thông tin cá nhân người trả lời phiếu câu hỏi. Cụ thể, phiếu câu hỏi hướng dẫn người trả lời chỉ ra các phương án chọn theo 5 mức điểm tùy từng câu trả lời. Trong đó mức1: Rất không đồng ý, mức2: Không đồng ý, mức3: Bình thường, mức4: Đồng ý, mức5: Rất đồng ý. Các phương án xoay quanh một vài nguồn ảnh hưởng đến các kế hoạch học tập và nghề nghiệp của người trả lời phiếu câu hỏi. 3.1.4. Phương pháp phân tích dữ liệu Phân tích nhân tố được tổng hợp nhằm phân loại các biến số với ảnh hưởng tiềm tàng tới định hướng đào tạo từ xa. Sự tiếp cận theo cách phân tích trong việc phân tích nhân tố là phương pháp kỹ thuật cấu thành chủ yếu. Các nhóm nhân tố được tạo thành, được dùng như các biến giải thích trong phân tích hồi quy logistic với những dự định học tập của người trả lời câu hỏi là biến độc lập. Theo mô hình hồi quy này, giá trị có thể dự báo của biến phụ thuộc được hiểu là xác suất một cá nhân nào đó sẽ chọn một lựa chọn nào đó, khi đặc điểm của người này được đánh giá bằng các giá trị của các biến độc lập. Mô hình hồi quy đã được dùng để điều tra mối liên hệ giữa điểm số của một người trả lời trong những vấn đề đã được nhận định và những đặc điểm cơ sở, và dự định theo học từ xa của người đó. Vì vậy, mô hình giúp đo lường các ảnh hưởng của từng nhân tố và đặc điểm của cầu cá nhân về đào tạo từ xa. 3.2. Kết quả nghiên cứu 3.2.1. Kết quả nghiên cứu định tính Các nhận định đưa ra về các nhân tố ảnh hưởng đến cầu đào tạo từ xa, từ kết quả nghiên cứu định tính bao gồm tổng hợp ý kiến các chuyên gia trong lĩnh vực đào tạo từ xa và kết quả thảo luận nhóm từ học viên đang tham gia đào tạo từ xa, người lao động, đại diện cho ba khu vực: (i) Miền Bắc, (ii) Miền Trung, (iii) Miền Nam, các kết quả tương đối tập trung và thống nhất giữa ba khu vực. Cụ thể là 100% các chuyên gia và các nhóm học viên, người lao động đồng ý với kết quả được tổng hợp: Ngoài 8 nhân tố các tác giả đã nghiên cứu và thẩm định có ảnh
  17. 15 hưởng đến cầu đào tạo đại học nói chung, đối với đào tạo từ xa tại Việt Nam cần bổ sung 4 nhân tố sau: (i) Chính sách ưu đãi của nhà nước đối với đào tạo từ xa, (ii) Nhận định của người dân về khả năng ứng dụng phương tiện trong đào tạo từ xa (iii) Sự tin tưởng chất lượng đào tạo từ xa của người học và thị trường lao động, (iv) Áp lực của gia đình và xã hội đối với đào tạo. 3.2.2. Kết quả nghiên cứu định lượng 3.2.2.1. Mã hóa số liệu Biến phụ thuộc là: Khả năng theo học đào tạo từ xa được xác định dựa trên kết quả trả lời của người trả lời phiếu câu hỏi, biến này nhận giá trị “1” nếu người trả lời phiếu câu hỏi có ý định theo học và nhận giá trị bằng “0” nếu người trả lời bảng hỏi không có ý định theo học đào tạo từ xa. Biến độc lập là: Các nhân tố ảnh hưởng đến định hướng theo học đào tạo từ xa của người được trả lời bảng hỏi. 3.2.2.2. Kết quả phân tích nhân tố ảnh hưởng tới cầu đào tạo từ xa Một tỉ lệ cao 1524/ 2533(60,17%) những người tham gia trả lời phiếu câu hỏi có ý định theo học đào tạo từ xa. Số liệu này có thể được coi là vượt dự báo tỷ lệ người lao động được phỏng vấn trả lời có ý định học theo phương thức đào tạo từ xa. Nguyên nhân chính có thể cho rằng đào tạo từ xa ngày càng thuận tiện và phù hợp hơn so với hình thức đào tạo truyền thống đối với người trưởng thành, học sinh Trung học Phổ thông hệ Bổ túc văn hóa. Tất cả những người có ý định học theo phương thức đào tạo từ xa, và những người không có ý định học theo phương thức đào tạo từ xa đều trả lời đầy đủ các câu hỏi liên quan đến những nguồn lực ảnh hưởng đến định hướng học tập theo phương thức đào tạo từ xa nói trên. Trong bảng 1, các luận điểm trong mỗi nhân tố thể hiện phạm vi bao trùm của chúng thông qua hệ số ảnh hưởng. Ba nhân tố này chỉ có mặt trong 11 trên tổng số 45 luận điểm gốc. Một số luận điểm đã loại bỏ khỏi các nhân tố, vì phạm vi bao trùm thấp (Hệ số ảnh hưởng không lớn) của những luận điểm này trong một vài nhân tố. Các nhân tố được hình thành bởi sự phân loại của các biến số gốc thành các phân lớp - Các phân lớp này được biểu hiện với giá trị của chúng trong bảng 1.
  18. 16 Bảng 1. Các biến số gây ảnh hưởng tới từng yếu tố và hệ số ảnh hưởng Hệ số Các nhân tố Các biến số/Tuyên bố ảnh hưởng Nhân tố 1: Các Sự chuyên môn hóa trong quá trình học, làm việc trước đây 0.901 chủ đề liên đã ảnh hưởng tới kế hoạch theo học khóa học từ xa của tôi. quan đến học Các môn đã được học và quá trình làm việc trước đây đã ảnh 0.901 và làm việc hưởng tới kế hoạch theo học khóa học từ xa của tôi. trước đây. Học theo phương thức từ xa chủ yếu là tự học với tài liệu in 0.717 sẵn có sự hướng dẫn của giảng viên, nên phù hợp với mọi đối tượng trong xã hội. Giảng viên hướng dẫn và giải đáp thắc mắc môn học là rất 0.737 Nhân tố 2: quan trọng và đòi hỏi có chuyên môn cao. Nhận định của Điểm nổi bật của giáo dục từ xa là có nhiều công cụ hỗ trợ 0.733 người dân về học tập như: Phát thanh, truyền hình, internet khả năng ứng Giáo dục từ xa kiếm tìm cách thức để người dân được học 0.787 dụng Phương tập và hưởng lợi từ học tập. tiện trong đào tạo từ xa. Với tài liệu và công cụ hỗ trợ học tập, người theo học từ xa 0.816 có thể tự học bất cứ lúc nào, và ở bất cứ nơi đâu, nên thuận lợi với nhiều người. Học liệu chuẩn bị sẵn, người học từ xa có thể tự chủ quá 0.806 trình học tập với điều kiện riêng của mình. Nhân tố 3: Sự Tôi tin tưởng giáo dục từ xa đạt được những tiêu chí về kiến 0.809 tin tưởng chất thức, kỹ năng do chương trình đào tạo đặt ra đối với người lượng đào tạo học. từ xa của Các nhà tuyển dụng lao động tin tưởng giáo dục từ xa. 0.822 người dân và Tôi theo học giáo dục từ xa là để trang bị cho bản thân kỹ 0.782 thị trường lao năng làm việc hơn là văn bằng. động.
  19. 17 Nhân tố thứ nhất, Cả hai luận điểm trong nhân tố thứ nhất đều liên quan đến ảnh hưởng của các môn học, các chương trình đào tạo trước đây của người lao động, đó là các môn học tại các trường Phổ thông Trung học, Trung cấp Nghề, Cao đẳng. Đặc biệt là chuyên môn công việc đang làm lên các định hướng, kế hoạch học tập đào tạo từ xa của người lao động. Nhân tố thứ hai, Nhận định của người dân về khả năng ứng dụng phương tiện trong đào tạo từ xa, bao gồm: Khả năng ứng dụng và kết hợp các phương tiện khác nhau trong cùng một chương trình giảng dạy. Trong đào tạo từ xa năm thế hệ công nghệ đào tạo từ xa cùng tồn tại, và một chương trình đào tạo từ xa có tất cả các thành phần sau: (i) Tài liệu học tập bao gồm tài liệu in, tài liệu đa phương tiện, tài liệu không in ấn (tài liệu điện tử), tài liệu trực tuyến, (ii) Hỗ trợ học tập bao gồm hỗ trợ trực tiếp, điện thoại, fax, trực tuyến, phát thanh và truyền hình, (iii) Đánh giá học viên, bao gồm giám sát và tự đánh giá, trực tiếp và từ xa. Nhân tố thứ ba, Thể hiện quan điểm của người trả lời phiếu câu hỏi về sự tin tưởng chất lượng đào tạo từ xa hiện nay và góc nhìn của người lao động đối với các tổ chức tuyển dụng lao động trên thị trường. 3.2.2.3. Kết quả phân tích phương sai nhiều nhân tố Để xác định rõ hơn mức cầu đào tạo từ xa ảnh hưởng bởi các nhân tố, cần thực hiện phân tích phương sai đối với các nhân tố. Như vậy, Bảng 2 cho ta thấy rằng nhân tố thứ nhất: Các chủ đề liên quan đến học và làm việc trước đây (F1) có ảnh hưởng tới khả năng theo học đào tạo từ xa (Xác suất ý nghĩa của nhân tố là 0,001). Tương tự, nhân tố thứ hai: Nhận định của người dân về khả năng ứng dụng phương tiện trong đào tạo từ xa (F2) có ảnh hưởng đến khả năng theo học đào tạo từ xa (Xác suất ý nghĩa của nhân tố là 0,03). Nhân tố thứ ba: Sự tin tưởng chất lượng đào tạo từ xa của người dân và thị trường lao động (F3) ảnh hưởng đến khả năng theo học đào tạo từ xa (Xác suất ý nghĩa của nhân tố là 0,009). Các nhân tố còn lại đều có xác suất ý nghĩa lớn hơn 0,05 được loại bỏ.
  20. 18 Bảng 2. Hệ số hồi quy chuẩn, sai số chuẩn và các biến độc lập thống kê Wald. Nhân tố B S.E. Wald df Sig. Exp (B) Các chủ đề liên quan đến việc - .289 .087 11.113 1 .001 .749 làm (F1) Phương tiện trong giáo dục từ - .261 .087 9.105 1 .003 .770 xa (F2) Chất lượng giáo dục từ xa (F3) .225 .087 6.782 1 .009 1.253 Constant -1.407 .090 246.848 1 .000 .245 3.2.2.4. Kết quả phân tích hồi quy logistics Các định hướng đào tạo như một chức năng của các nhân tố được tạo ra và các đặc điểm cơ sở của học viên. Ba biến số đã nói ở trên rút ra từ việc phân tích nhân tố và kết quả kiểm định nhân tố, được dùng như các biến độc lập trong mô hình hồi quy logistic với định hướng đào tạo từ xa của người dân là biến phụ thuộc nhị phân, thể hiện ý định của người trả lời bảng hỏi. Mục đích của việc phân tích là nhằm nhận dạng các nhân tố và các đặc điểm có ảnh hưởng quan trọng lên định hướng đào tạo từ xa. Ba biến độc lập được đưa vào mô hình hồi quy này có một ảnh hưởng quan trọng lên biến phụ thuộc nhị phân, các biến số còn lại có ảnh hưởng không lớn lên biến phụ thuộc nhị phân được loại bỏ. Hệ số mô hình hồi quy binary logistics nên được hiểu là sự thay đổi trong độ co giãn logarit của biến phụ thuộc nhị phân trong mối liên hệ với một đơn vị tăng lên của biến độc lập. Theo những phát hiện này, nếu căn cứ vào“Các chủ đề liên quan đến học và làm việc trước đây” của người dân khuyến khích người dân học từ xa, tăng lên một đơn vị thì log [p/(1-p)] giảm đi 0,289, trong đó p là xác suất tham gia đào tạo từ xa. Hàm ý, định hướng theo học từ xa của người dân phụ thuộc vào thị trường lao động hiện tại, thay vì nền tảng kiến thức đã được học và làm việc trước đây của người lao động. Cho nên đào tạo từ xa cần căn cứ vào nhu cầu thị trường lao động hiện tại làm căn cứ thiết kế được các chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu của người học, theo phương thức đào tạo từ xa.
  21. 19 Qua kết quả tổng hợp và phân tích các luận điểm được trả lời của người được phỏng vấn với các phương án lựa chọn khác nhau, nghiên cứu nhận thấy: (i) Khả năng cung cấp phương tiện đào tạo từ xa tại nước ta đối với người học đào tạo từ xa tự học kết hợp với với giảng viên giải đáp thắc mắc môn học là tương đối hạn chế cũng như chưa thật sự đầy đủ và đa dạng, đáp ứng với nhu cầu khác nhau của người học, (ii) Khả năng tự học của người dân theo học loại hình đào tạo từ xa chưa thực sự tự giác vượt qua mọi khó khăn trong học tập. Vì vậy, việc người học từ xa chủ yếu tự học là chính, với sự hỗ trợ của học liệu và công cụ học tập như hiện nay tại nước ta, việc học bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu của người học là gặp nhiều khó khăn và hạn chế khả năng tự học. Về lý luận, đào tạo từ xa là hệ thống nhằm vượt qua những khó khăn về khoảng cách, nhất thời hay thường xuyên, yếu tố kinh tế, hạn chế cá nhân, với lý tưởng mở cơ hội học tập cho tất cả mọi người bằng việc lựa chọn công nghệ và thiết kế các hệ thống học tập phù hợp đóng vai trò quan trọng trong việc xác định mức độ cởi mở của hệ thống đào tạo từ xa. Sự phát triển phương tiện đào tạo từ xa qua năm thế hệ được thể hiện trong bảng hỏi, kết quả phân tích hồi quy cho biết hệ số co giãn của nhân tố 2 “Nhận định của người dân về khả năng cung cấp phương tiện trong đào tạo từ xa” tại nước ta còn là một khoảng cách lớn giữa thực tế đào tạo và lý luận đào tạo từ xa là: Sử dụng tiến bộ của công nghệ thông tin và truyền thông làm tăng thêm khả năng tương tác của đào tạo từ xa. Khoảng cách này tăng một đơn vị thì log [p/(1-p)] giảm đi 0.261, trong đó p là xác suất tham gia đào tạo từ xa, hàm ý, để khắc phục được khó khăn của người học, các cơ sở đào tạo phải tăng cường ứng dụng phương tiện trong đào tạo. Qua bảng tổng hợp số liệu bảng hỏi các luận điểm thuộc nhân tố 3 và kết quả phân tích logarit cho biết nhân tố “Sự tin tưởng chất lượng đào tạo từ xa của người dân và thị trường lao động” tăng một đơn vị thì log [p/(1-p)] tăng 0,225, trong đó p là xác suất tham gia đào tạo từ xa. Hàm ý chất lượng đào tạo từ xa được đảm bảo, người dân sẽ tin tưởng theo học từ xa. Chất lượng đào tạo nói chung, chất lượng đào tạo từ xa nói riêng là mối quan tâm hàng đầu của người dân cũng như các nhà tuyển dụng lao động.
  22. 20 Dựa trên các phát hiện và kết quả phân tích, ước lượng xác suất số lượng người dân Việt Nam theo đuổi loại hình đào tạo từ xa được tính bằng: -z 1/(1+e ) với: z = (- 1.407) + (-0.289)F1 + (- 0.261)F2 + (0.225)F3. Trong đó F1: Các chủ đề liên quan đến học và làm việc trước đây. F2: Nhận định của người dân về khả năng ứng dụng phương tiện trong đào tạo từ xa. F3: Sự tin tưởng chất lượng đào tạo từ xa của người dân và thị trường lao động. Kiểm tra kết quả hồi quy, nghiên cứu nhận thấy, hầu hết các hệ số đều có dấu hiệu phù hợp và đáng tin cậy về mặt thống kê. Theo đó, việc sử dụng mô hình thu được kết quả dự đoán chính xác các nhân tố ảnh hưởng tới định hướng học từ xa của người dân trong số 2533 người tham gia trả lời phiếu điều tra. 3.3. Liên hệ kết quả nghiên cứu với các nghiên cứu trước đây 3.3.1. Đối với các chủ đề liên quan đến học và việc làm trước đây Người dân Việt Nam có động lực tìm đến và hướng đến đào tạo từ xa với nhu cầu được đào tạo nghề nghiệp thực tiễn trong thực tế cũng như sự kỳ vọng của người học sau khi kết thúc khóa học sẽ tạo dựng được những nghề nghiệp mới, công việc mới có mức thu nhập ổn định hơn là được đào tạo với những nghề nghiệp hay những công việc làm hiện tại. Kết quả nghiên cứu cho biết nếu đào tạo từ xa tại nước ta căn cứ vào “Các chủ đề liên quan đến học và làm việc trước đây” của người lao động để khuyến khích và hướng người dân theo học đào tạo từ xa, tăng lên một đơn vị thì cầu đào tạo từ xa giảm đi một lượng là 0,289, hàm ý các nhà quản lý giáo dục cần khuyến khích, động viên thúc đẩy và tạo điều kiện người dân tiếp cận với đào tạo từ xa như đưa ra những chương trình đào tạo, nghề nghiệp, chuyên ngành, chuyên môn phù hợp với nhu cầu thị trường lao động hiện tại, không nhất thiết những chuyên môn, những nghề nghiệp, những chuyên ngành người lao động đã được học, và đang làm, hơn thế nữa cần hướng cho người học đang đi làm đến những ngành, nghề xã hội đang cần. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Meyer (1970).
  23. 21 3.3.2. Đối với khả năng ứng dụng phương tiện đào tạo từ xa Trong đào tạo từ xa các phương tiện nhằm khắc phục khó khăn của học viên về thời gian, vị trí địa lý, về cường độ học tập, và sự cần thiết phải có quan hệ tương tác hiệu quả với giáo viên tương đối quan trọng được thể hiện trong kết quả điều tra thăm dò, đào tạo từ xa tại nước ta “Nhận định của người dân về khả năng ứng dụng phương tiện trong đào tạo từ xa” hiện nay là rất thấp trước yêu cầu đòi hỏi của người học theo phương thức đào tạo từ xa, hàm ý nếu khả năng cung cấp phương tiện đào tạo từ xa như hiện nay thì lượng cầu đào tạo từ xa giảm đi 0,261 đơn vị. Điều này thể hiện sự khác biệt và tầm quan trọng của phương tiện đào tạo từ xa trước đòi hỏi của người học trong khi có sự giãn cách giữa thày và trò trong quá trình học tập so với đào tạo truyền thống thày và trò có thể trao đổi trên lớp học. Điều này cũng tương đồng với nghiên cứu của Sewart (1984). 3.3.3. Sự tin tưởng chất lượng đào tạo từ xa của người dân và thị trường lao động Một điểm khác nữa, nhu cầu của các nhà tuyển dụng về chất lượng giáo dục ngày càng cao, việc đảm bảo chất lượng đã trở thành mối quan tâm lớn của các nhà quản lý giáo dục, nhà hoạch định chính sách, các giáo viên, và đã trở thành vấn đề cơ bản trong quy hoạch và quản lý giáo dục từ xa (Belawati & Zuhairi, 2007). Kết quả khảo sát thăm dò và phân tích, kiểm định cho biết định hướng theo học theo phương thức đào tạo từ xa của người dân phụ thuộc nhiều vào chất lượng đào tạo từ xa. “Sự tin tưởng chất lượng đào tạo từ xa của người dân và thị trường lao động” được đảm bảo và tăng lên một đơn vị thì cầu đào tạo từ xa tăng lên 0,225 đơn vị, hàm ý các cơ sở đào tạo từ xa cần đảm bảo mức độ chất lượng dự kiến đạt được trong đào tạo và sự tin tưởng của người dân và thị trường lao động, nhằm khích lệ động viên người dân tin tưởng hướng đến đào tạo từ xa. Vì nhu cầu của các nhà tuyển dụng về chất lượng giáo dục ngày càng cao, việc đảm bảo chất lượng đã trở thành mối quan tâm lớn của các nhà quản lý giáo dục, nhà hoạch định chính sách, các giáo viên, và đã trở thành vấn đề cơ bản trong quy hoạch và quản lý giáo dục từ xa (Belawati & Zuhairi, 2007).
  24. 22 CHƯƠNG 4: ỨNG DỤNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRONG HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO TỪ XA Ở VIỆT NAM 4.1. Định hướng phát triển đào tạo từ xa của Đảng và Nhà nước Luận án đưa ra các định hướng phát triển đào tạo từ xa của Đảng và nhà nước, bao gồm: (i) Các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về đào tạo từ xa, (ii) Các nhiệm vụ chủ yếu phát triển đào tạo từ xa và, (iii) Các giải pháp phát triển đào tạo từ xa. 4.2. Khuyến nghị chính sách 4.2.1. Đa dạng hóa các ngành, nghề đào tạo phù hợp với thị trường lao động Hệ thống đào tạo từ xa cần chuyển từ "đào tạo những gì mình có" sang "đào tạo những gì xã hội cần" nhằm thu hẹp khoảng cách giữa cầu đào tạo từ xa và cầu lao động trên thị trường lao động, bởi vì cầu đào tạo từ xa là một bộ phận của cầu đào tạo nói chung, tuy nhiên cầu đào tạo từ xa hiện nay chiếm một tỷ lệ tương đối nhỏ đối với cầu đào tạo nói chung, nhưng tiềm năng cầu đào từ xa hiện nay còn khá lớn, số người trưởng thành đã tham gia thị trường lao động nhưng chưa có cơ hội được đào tạo và đào tạo lại. Hệ thống đào tạo từ xa cần triển khai đồng bộ các giải pháp về chương trình đào tạo, đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, giáo trình. Hình thành cơ quan chuyên trách về đào tạo từ xa theo nhu cầu xã hội nhằm kết nối và theo dõi các hoạt động của học viên sau tốt nghiệp, thông tin về thị trường việc làm cho học viên. Các cơ quan này sẽ là cầu nối các nhà tuyển dụng lao động gặp gỡ, hỗ trợ học viên, gắn kết giữa các hoạt động của nhà trường với các nhà tuyển dụng lao động. Mặt khác, các nhà tuyển dụng lao động và hệ thống đào tạo từ xa trong cả nước cần tăng cường hợp tác trong đào tạo, nghiên cứu thông qua việc ký kết các hợp đồng, thỏa thuận hợp tác. 4.2.2. Tăng cường ứng dụng phương tiện trong đào tạo từ xa Như vậy để tăng cường ứng dụng phương tiện đào tạo từ xa ở nước ta cần tính đến tính tiếp cận và lựa chọn phương tiện đào tạo từ xa, làm cho các học viên đào tạo từ xa cảm thấy rằng, học tập dựa trên công nghệ thông tin, truyền
  25. 23 thông tạo cho người học những quyền lợi đáng kể và tiết kiệm được thời gian, giúp người học đạt hiệu quả hơn, hiểu được nội dung bài học và tìm kiếm thông tin một cách thuận lợi, làm cho quá trình học tập thú vị. Tuy nhiên tỷ lệ cao dân cư Việt Nam sống dưới mức nghèo, không đủ khả năng chi trả cho việc mua các công cụ, máy móc để học tập dựa trên Công nghệ Thông tin và Truyền thông. Thực tiễn chính sách giáo dục hiện tại và quá khứ của Việt Nam đã thừa nhận giá trị của giáo dục trong phát triển xã hội và đã thực hiện miễm học phí cho giáo dục Tiểu học. Tuy nhiên đào tạo đại học còn hữu hạn do thiếu các nguồn lực cần thiết để phục vụ cho tất cả mọi người. Môi trường giáo dục khu vực Châu Á đang dần thay đổi, phương pháp dạy học truyền thống lấy giảng viên làm trung tâm đang nhường chỗ cho môi trường người học làm trung tâm do Công nghệ Thông tin, Truyền thông được tích hợp vào hệ thống, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, truyền thông được cung cấp cho cả người học và người dạy. Việc truy cập là thách thức trước mắt, nhưng ở Việt Nam văn hóa sử dụng Công nghệ Thông tin cho việc học tập đang phát triển trong cả nước và cần thúc đẩy một cách có hệ thống. Nhận thức của người dân Việt Nam và lợi ích của Công nghệ Thông tin, Truyền thông và phương pháp đào tạo từ xa cần phải được nâng lên, khuyến khích đầu tư cho ngày mai bằng nguồn truy cập Giáo dục và Đào tạo thuận lợi và với giá cả phải chăng cả ở nhà và các công sở làm việc, học tập. Đối với những người thiếu các nguồn lực của riêng mình thì có thể truy cập được ở các điểm dịch vụ gần nhà. Như vậy Nhà nước cần xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo giáo viên, nội dung và phát triển cho tất cả 54 dân tộc anh em và cộng đồng xã hội trên cơ sở bình đẳng. Điều này có thể đạt được thông qua việc ứng dụng các phương pháp dựa trên công nghệ thông tin, truyền thông thích hợp cho các nhóm đối tượng người học khác nhau. 4.2.3. Tăng cường đảm bảo chất lượng đào tạo từ xa Hệ thống đào tạo từ xa trong cả nước cần đưa ra quy trình đảm bảo chất lượng, quy trình đó bao gồm: Kế hoạch chiến lược, tầm nhìn và sứ mạng, hệ thống cơ chế để thực hiện. Hệ thống đảm bảo chất lượng được áp dụng bao
  26. 24 gồm: (i) Ban đảm bảo chất lượng, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo các cơ sở đào tạo từ xa. Ban đảm bảo chất lượng có trách nhiệm lập ra khuôn khổ của hệ thống đảm bảo chất lượng của cơ sở đào tạo từ xa, (ii) Xác định và lựa chọn các hoạt động đảm bảo chất lượng: Để thể hiện tính thống nhất cao và sự phối hợp giữa các cơ sở đào tạo từ xa thuộc hệ thống đào tạo từ xa trong cả nước, (iii) Áp dụng hệ thống đảm bảo chất lượng trong điều kiện thực tiễn với điều kiện cơ sở vật chất tại các cơ sở đào tạo từ xa trong cả nước, (vi) Phổ biến chủ trương và chính sách đảm bảo chất lượng cho toàn thể giáo viên, cán bộ nhân viên của cơ sở đào tạo từ xa. Hoạt động này được thiết kế, phổ biến chính sách và có được khuyến nghị để cải tiến, (v) Chuyển biến từ chính sách đảm bảo chất lượng thành công cụ tự đánh giá. Làm cho tất cả các giáo viên, cán bộ công nhân viên thuộc hệ thống đào tạo từ xa hiểu những góc nhìn khác nhau về chất lượng trong cơ sở đào tạo của mình, (vi) Xây dựng cuốn sổ tay đảm bảo chất lượng công việc để hỗ trợ cải tiến liên tục trong hệ thống đào tạo từ xa, hệ thống đào tạo từ xa trong cả nước cần xây dựng văn bản về cơ chế, quy trình, biên tập thành cuốn sổ tay. Những thiết kế như là các tiêu chuẩn tham khảo, liệt kê các hệ thống, thủ tục, các hoạt động của cơ sở đào tạo từ xa và hướng dẫn giáo viên, cán bộ nhân viên trong các hoạt động hàng ngày. Cuốn sổ tay hướng dẫn mô tả tiến trình công việc, tiêu chuẩn hoạt động, dự kiến kết quả, nguồn lực và kỹ năng cần thiết cho mỗi công việc, (vii) Thành lập trung tâm đảm bảo chất lượng, quản lý sự phức tạp và tổng thể triển khai thực hiện đảm bảo chất lượng, (viii) Xây dựng phong trào toàn thể các cơ sở đào tạo từ xa nâng cao nhận thức và triển khai thực hiện đảm bảo chất lượng, (ix) Liên tục đánh giá việc triển khai thực hiện đảm bảo chất lượng. Việc triển khai thực hiện đảm bảo chất lượng có hiệu quả đòi hỏi sự thay đổi đáng kể trong suy nghĩ và văn hóa công sở của mọi người. Đảm bảo chất lượng đòi hỏi tất cả mọi người trong hệ thống đào tạo từ xa đề cao, tôn trọng và áp dụng các biện pháp chất lượng. Thách thức đối với lãnh đạo trong hệ thống đào tạo từ xa là việc quản lý các sáng kiến, thay đổi và đảm bảo rằng văn hóa chất lượng được mọi người thực hiện hàng ngày.
  27. DANH MôC C¸C C¤NG TR×NH NGHI£N CøU 1. Đặng Văn Dân (2008), “Đào tạo từ xa-cơ hội để nâng cao trình độ học vấn cho nhiều người”, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số 129, Hà Nội. 2. Đặng Văn Dân (2008), “Đào tạo từ xa góp phần tạo nguồn nhân lực về quản lý kinh tế-Tài chính cho ngành nông nghiệp trong hội nhập quốc tế”, Tạp chí Rừng và Đời sống, số 10, Hà Nội. 3. Đặng Văn Dân (2008), “Đào tạo từ xa-con đường học tập suốt đời”, Tạp chí Giáo dục, số 188 (Kỳ II), Hà Nội. 4. Đặng Văn Dân (2008), “Công tác “Hướng dẫn và giải đáp thắc mắc môn học” đối với loại hình đào tạo từ xa”, Tạp chí Giáo dục, số 208 (Kỳ II), Hà Nội, (Đồng tác giả). 5. Đặng Văn Dân (2012), “Lịch sử ứng dụng phương tiện trong giáo dục từ xa của các nước khu vưc và thế giới –Liên hệ thực tiễn tại Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số 176 (II), Hà Nội, (Đồng tác giả). 6. Đặng Văn Dân (2012), “Tính tiêp cận và lựa chọn phương tiện giáo dục từ xa tại các nước Nam Á và khu vực: Liên hệ thực tiễn tại Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số 177 (II), Hà Nội, (Đồng tác giả). 7. Đặng Văn Dân (2012), “Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu giáo dục từ xa”, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số đặc biệt tháng 9. 2012, Hà Nội, (Đồng tác giả). 8. Đặng Văn Dân (2012), “Factors influence Demand of Distance Learning in Vietnam”, Proceedings: Southeast Asian Open and Distance Learning In the 21st Century, 9. 2012, Đà Nẵng. 9. Đặng Văn Dân (2013), “Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến cầu đào tạo từ xa tại Việt Nam”, Hội thảo Khoa học Quốc gia Đào tạo và ứng dụng toán học trong kinh tế -Xã hội, 5. 2013, Hà Nội.