Triển vọng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010

pdf 81 trang yendo 5140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Triển vọng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_trien_vong_va_giai_phap_day_manh_hoat_dong_du_lich.pdf

Nội dung text: Triển vọng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010

  1. LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Triển vọng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010
  2. MỤC LỤC Trang Lời nói đầu 1 CHƯƠNG I: ĐÔI NÉT KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH VIỆT NAM 3 I. Quá trình hình thành và phát triển Du lịch Việt Nam 3 1. Khái quát về sự ra đời và phát triển của ngành du lịch Việt Nam 3 2. Vị trí và vai trò của du lịch trong nền kinh tế quốc dân 4 II. Tiềm năng du lịch Việt Nam 6 1. Tài nguyên du lịch về mặt thiên nhiên 7 2. Tài nguyên du lịch về mặt nhân văn 10 3. Các di sản thế giới tại Việt Nam 16 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM THỜI GIAN QUA 19 I. Sản phẩm du lịch và chiến lược về du lịch 19 1. Sản phẩm du lịch 19 2. Những chủ trương phát triển du lịch và kết quả thu được trong giai đoạn 1990 đến nay 28 II. Thực trạng của ngành du lịch 34 1. Hiện trạng các cơ sở lưu trú 34 2. Nhân lực phục vụ phát triển ngành du lịch 35 3. Kết cấu hạ tầng phục vụ du lịch 36 4. Một số thành tựu cơ bản của ngành du lịch 39 5. Những yếu kém tồn tại và nguyên nhân 42 1
  3. CHƯƠNG III: TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010 48 I. Triển vọng phát triển du lịch Việt Nam 48 1. Triển vọng phát triển du lịch trên thế giới và khu vực 48 2. Những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển du lịch Việt 49 Nam 3. Chiến lược phát triển Du lịch đến năm 2010 51 II. Các giải pháp phát triển du lịch đến năm 2010 57 1. Các giải pháp cấp nhà nước 58 2. Các giải pháp của ngành du lịch 69 Kết luận 73 Tài liệu tham khảo 2
  4. LỜI NÓI ĐẦU Ngày nay, ở nhiều nước trên thế giới du lịch đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần quan trọng cho thu nhập kinh tế quốc dân, giải quyết nạn thất nghiệp đang có chiều hướng gia tăng. Theo đánh giá của Tổ chức Du lịch thế giới (WTO), trong những năm tới, viễn cảnh của ngành Du lịch toàn cầu nhìn chung rất khả quan. WTO đã dự báo, đến năm 2010, lượng khách du lịch quốc tế trên thế giới sẽ đạt gần một tỷ lượt người, thu nhập xã hội từ du lịch đạt khoảng 900 tỷ USD và sẽ tạo thêm khoảng 150 triệu chỗ làm việc trực tiếp, chủ yếu ở Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó khu vực Đông Nam Á (ASEAN) có vị trí quan trọng, chiếm khoảng 34% lượng khách và 38% du lịch của toàn khu vực. Trong những năm qua, hoạt động Du lịch Việt Nam đã có nhiều khởi sắc và đạt được những tiến bộ vững chắc. Theo Tổng cục Du lịch Việt Nam, năm 2002, đã có khoảng 2,6 triệu khách quốc tế đến Việt Nam, tăng hơn 11% so với năm 2001. Lượng khách nội địa cũng tăng đáng kể với 11.180.000 lượt khách, tăng 4,7% so với 2001. Tổng doanh thu từ du lịch trong năm 2002 của Việt Nam đạt 21.630 tỷ đồng, tăng 5%. Việt Nam vẫn được nhiều báo chí quốc tế bình chọn là "Điểm đến an toàn và thân thiện nhất". Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được, ngành du lịch của nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế trước những yêu cầu mới khi hội nhập du lịch thế giới và khu vực là: trình độ phát triển còn thấp so với các ngành du lịch của nhiều nước trên thế giới và khu vực, trong khi tiềm năng về du lịch ở nước ta lại rất lớn và phong phú hơn so với một số nước khác. Trước sự cạnh tranh khốc liệt của một số nước trong khu vực có ngành du lịch hình thành lâu đời hơn và phát triển ở mức độ cao hơn, cùng với những diễn biến không ngừng của tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới, vấn đề đặt ra cho ngành du lịch là phải xác định những điều kiện và những giải pháp chủ yếu để tập trung mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài nước phục vụ cho yêu cầu phát 3
  5. triển ngành này thành một ngành ngành kinh tế mũi nhọn. Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề thực tiễn phát triển du lịch là điều có ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn "Triển vọng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2010" làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình. Mục đích của luận văn này là tập hợp một cách có hệ thống những thông tin về điều kiện phát triển du lịch của nước ta, thực trạng của ngành du lịch trong những năm gần đây, những chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành kinh tế quan trọng này trong những năm tới, nhằm làm nổi bật hai vấn đề cơ bản là triển vọng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2010. Kết cấu của luận văn gồm ba phần chính như sau: Chương I: Đôi nét khái quát về du lịch Việt Nam Chương II: Thực trạng ngành du lịch Việt Nam thời gian qua Chương III: Triển vọng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động du lịch ở Việt Nam đến năm 2010. 4
  6. CHƯƠNG I: ĐÔI NÉT KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH VIỆT NAM I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM 1. Sự ra đời của ngành du lịch Việt Nam Ngành du lịch Việt Nam đã có quá trình hoạt động từ những năm 1960. Nghị định số 26/CP ngày 9/7/1960 của Chính Phủ về “Thành lập Công ty du lịch Việt Nam” là mốc đánh dấu sự ra đời của ngành du lịch Việt Nam. Ngày 27/6/ 1978, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 282/NQ-QHK6 phê chuẩn việc thành lập Tổng cục Du lịch Việt Nam. Căn cứ vào nghị quyết trên, ngày 23/1/1979, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nghị quyết số 32/CP qui định về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của cơ quan này, trong đó nêu rõ: “Tổng cục Du lịch Việt Nam là cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm thống nhất quản lý Du lịch trong cả nước”. Năm 1990, cơ quan Tổng cục Du lịch Việt Nam được sát nhập vào Bộ Văn hoá, năm 1991 được chuyển sang Bộ Thương mại và được tách ra độc lập tháng 10/1992. Từ một tổ chức duy nhất là Tổng cục Du lịch quản lý và tham gia tổ chức hoạt động du lịch ngày đầu thành lập, cho đến nay, toàn bộ 61 tỉnh thành đều có Sở du lịch hoặc Sở Thương mại - Du lịch làm công tác quản lý du lịch. Nhằm ưu tiên cho phát triển du lịch, năm 1999 Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo về phát triển du lịch do một phó thủ tướng đứng đầu. Từ ngày đầu thành lập, Công ty Du lịch Việt Nam với cơ sở vật chất là một vài khách sạn qui mô 20 phòng, đội ngũ cán bộ và nhân viên là 112 người chưa bao giờ được đào tạo về quản lý và kinh doanh du lịch. Đến nay, trên phạm vi toàn quốc hiện nay có khoảng 1.000 doanh nghiệp du lịch kinh doanh lữ hành, khách sạn, vận chuyển với khoảng 3.050 cơ sở lưu trú và 72,5 nghìn phòng. Số lao động trực tiếp trong ngành du lịch hiện nay lên đến 150 nghìn người. 5
  7. Trong thời kỳ 1960 - 1975, hoạt động du lịch chủ yếu phục vụ các đoàn khách của Đảng và Nhà nước, hoạt động kinh doanh du lịch chiếm một tỷ lệ không đáng kể. Sau năm 1975 cho đến cuối những năm 1980, về cơ bản, hoạt động kinh doanh du lịch vẫn chưa phát triển. Đối tượng phục vụ chính của ngành vẫn là cán bộ của Đảng và Nhà nước, một bộ phận công nhân, viên chức và các đoàn khách từ các nước Đông Âu và Liên Xô cũ. Kể từ những năm đầu của thập kỷ 90, do nền kinh tế đất nước có những chuyển biến nhất định và đời sống nhân dân được cải thiện nên nhu cầu về du lịch trong nước tăng lên. Cùng với những chính sách mở cửa, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam ngày một tăng, nhiều dự án phát triển du lịch được đầu tư bằng nguồn vốn trong và ngoài nước. Đặc biệt trong những năm gần đây, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng không ngừng đã mang lại cho ngân sách nhà nước một lượng ngoại tệ đáng kể. Đối tượng khách quốc tế đến từ khắp các châu lục, nhiều quốc gia khác nhau với mục đích cũng hết sức đa dạng. 2. Vị trí, vai trò của du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam 2.1. Vị trí Ở nhiều nước trên thế giới, du lịch ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nhiều nhà kinh tế trên thế giới đưa ra dự đoán: Thế kỷ 21 là thế kỷ của ngành dịch vụ trong đó du lịch có vai trò hết sức to lớn. Thế giới ngày nay đang diễn ra hai xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế lớn. Xu hướng chuyển từ khu vực sản xuất vật chất sang khu vực dịch vụ diễn ra chủ yếu ở các nước công nghiệp tiên tiến nhất. Trong nền kinh tế của những nước này, tỷ trọng khu vực dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã vượt hơn so với tỷ trọng khu vực sản xuất vật chất, thu hút phần lớn số lao động xã hội. Xu hướng này gắn liền với những điều kiện của một nền kinh tế phát 6
  8. triển cao nhất là do tác động của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão trên toàn cầu. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá diễn ra ở các nước đang phát triển. Trọng tâm của sự chuyển dịch ở đây chủ yếu là trong nội bộ khu vực sản xuất vật chất, theo hướng tăng sản xuất công nghiệp so với nông nghiệp. Quy luật có tính phổ biến của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới hiện nay là: giá trị ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng sản phẩm xã hội. Do vậy, các nhà kinh doanh đi tìm hiệu quả của đồng vốn, thì du lịch là một lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn so với nhiều ngành kinh tế khác, du lịch đem lại tỷ suất lợi nhuận cao, vốn đầu tư vào du lịch tương đối ít so với ngành công nghiệp nặng, giao thông vận tải thu hồi vốn lại nhanh, kỹ thuật cũng không quá phức tạp. Trong thời đại hiện nay, ngành du lịch nhìn chung có sự phát triển nhanh hơn việc xuất khẩu, về giá trị ngành du lịch thế giới chỉ sau xuất khẩu dầu lửa và ôtô. 2.2. Vai trò của ngành du lịch a. Về kinh tế Du lịch phát triển làm tăng thu ngân sách Nhà nước, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho xã hội, thúc đẩy nhiều ngành kinh tế có liên quan phát triển theo. Ở nhiều nước trên thế giới, ngành du lịch phát triển (du lịch quốc tế) đem lại cho ngân sách nguồn thu ngoại tệ lớn. Du lịch là một trong những nguồn thu quan trọng hàng đầu ở nhiều nước. Du lịch không những góp phần tích cực giải quyết việc làm cho người lao động, theo ước tính của Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO) trung bình một phòng khách sạn (1-5 sao) tạo ra 1,3 chỗ làm trực tiếp và 5 chỗ làm gián tiếp, mà còn là nhân tố thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như giao thông, xây dựng, bưu điện, hàng không, nông nghiệp, ngân hàng Ngoài ra, du lịch còn giúp cho 7
  9. du khách biết được tiềm năng kinh tế của các nước, từ đó xây dựng kế hoạch phát triển các mối quan hệ hợp tác kinh tế giữa các nước. b. Về chính trị Du lịch (du lịch quốc tế) giúp cho du khách hiểu biết về đất nước, con người, lịch sử truyền thống dân tộc cũng như nền kinh tế, văn hoá - xã hội của các nước mà họ đến thăm. Trên cơ sở đó, du lịch đã tăng cường tình đoàn kết giữa các dân tộc vì hoà bình và sự phồn vinh của nhân loại. c. Về văn hoá - xã hội Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia trên thế giới có nền văn hoá truyền thống riêng, được tích tụ từ lâu đời. Du lịch là một hình thức quan trọng để các dân tộc giao lưu nền văn hoá với nhau. Những yếu tố văn minh trong nền văn hoá nhân loại càng kích thích phát triển những nét độc đáo của văn hoá dân tộc và văn hoá dân tộc phát triển góp phần làm phong phú, đa dạng nền văn hoá nhân loại. Trong nền kinh tế thị trường, du lịch đóng vai trò quan trọng. Nhiều nước đã đạt được kết quả to lớn về kinh doanh du lịch. Tuy nhiên, khi đánh giá vai trò của một ngành kinh tế trong nền kinh tế thị trường của một đất nước nhất là một ngành có tính dịch vụ như du lịch, thì cần phải xem xét trên mặt kinh tế và xã hội, bởi vì du lịch có mặt "tích cực" và mặt "không tích cực". Đó là, việc kinh doanh du lịch (đặc biệt là du lịch quốc tế) nếu phát triển không đúng hướng có thể gây ra "ô nhiễm" môi trường kinh tế, văn hoá và xã hội, do yếu tố "tiêu cực" từ bên ngoài thâm nhập vào. Do vậy, cần phải có chiến lược phát triển du lịch đúng hướng, vừa phát triển kinh tế, vừa giữ gìn cảnh quan môi trường, lành mạnh quan hệ xã hội và đảm bảo an ninh quốc gia. II. TIỀM NĂNG DU LỊCH VIỆT NAM Tiềm năng du lịch của nước ta phong phú, da dạng có sức thu hút khách cao. Nằm ở vị trí cửa ngõ giao lưu quốc tế, Việt Nam có đủ điều kiện phát triển giao thông cả về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không nối 8
  10. liền Việt Nam với các quốc gia trên thế giới. Tiềm năng của các nguồn tài nguyên du lịch Việt Nam đa dạng, giàu bản sắc cả về thiên nhiên (bãi biển, hang động, nước nóng, suối nước khoáng, đảo, lớp phủ thực vật và thế giới động vật quí hiếm, nhiều cảnh quan tự nhiên độc đáo điển hình ) lẫn nhân văn (các di tích lịch sử, nghệ thuật, những phong tục tập quán, các làng nghề và truyền thống văn hoá đặc sắc của các dân tộc ) đã tạo điều kiện cho chúng ta phát triển được du lịch biển lẫn du lịch núi, du lịch dài ngày và ngắn ngày với nhiều loại hình du lịch khác nhau như tham quan, nghỉ dưỡng, thể thao, nghiên cứu khoa học, hội chợ, hội nghị, festival Tài nguyên du lịch nước ta được phân bố thành từng cụm hình thành các môi trường du lịch điển hình trong toàn quốc. Môi trường du lịch có một sắc thái riêng, tạo nên các tuyến du lịch xuyên quốc gia, không lặp lại giữa vùng này và vùng khác làm nhàm chán khách du lịch. Mặt khác những tài nguyên du lịch này lại nằm gần các đô thị lớn, các cửa khẩu quốc tế quan trọng tạo thuận lợi cho du khách. Nhiều môi trường du lịch của Việt Nam nếu được qui hoạch và đầu tư thích đáng sẽ trở thành những trung tâm du lịch lớn có khả năng cạnh tranh với các nước khác trong vùng và trên thế giới. 1. Tài nguyên du lịch về mặt tự nhiên 1.1. Biển Việt Nam là đất nước của biển cả. Biển Việt Nam cũng là nguồn cung cấp muối cho sinh hoạt, công nghiệp và xuất khẩu. Với 3.260 km bờ biển, Việt Nam có 125 bãi biển trải suốt chiều dài đất nước, trong đó có tới 20 bãi tắm đẹp nổi tiếng như: Trà Cổ, Bãi Cháy (Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hoá), Cửa Lò (Nghệ An), Lăng Cô (Thừa Thiên Huế), Non Nước (Đà Nẵng), Nha Trang (Khánh Hoà), Vũng Tàu (Bà Rịa-Vũng Tàu) Ngoài ra, vùng biển Việt Nam có khoảng 4 nghìn hòn đảo, trong đó riêng vịnh Bắc Bộ đã có 3 nghìn đảo lớn nhỏ. Gần bờ biển Trung Bộ có hàng trăm đảo lớn như Hòn Mê, Hòn Mát, Cồn Cỏ, Cù Lao Chàm, Cù Lao Xanh, Hòn Tre, Phú Quý Xa hơn là các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Cách Vũng Tàu vài 9
  11. chục hải lý có 12 đảo lớn nhỏ lập nên huyện Côn Đảo (thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Ngoài khơi biển Kiên Giang có đảo Phú Quốc, xa hơn là quần đảo Thổ Chu 1.2. Hang động Địa hình hang động thường tạo nên những điểm du lịch hấp dẫn. Kiểu địa hình này chiếm khoảng 50.000 km2 tập trung chủ yếu ở Bắc Bộ, Bắc trung Bộ và một phần nhỏ ở Kiên Giang gồm: - Loại hang động ngập nước: Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, Cát Bà với trên 3.000 hòn đảo, thu hút nhiều khách du lịch. - Loại hang động đồng bằng: Tam Cốc-Bích Động được coi như Hạ Long trên cạn ở Ninh Bình, và các hang động ở Hà Tây, Hoà Bình. - Loại hang động núi: là các khối đá vôi ở Cao Bằng, Bắc Sơn, Kẻ Bàng. . Có hơn 200 hang động rất đa dạng và có độ hang động hoá khác nhau cần được quan tâm khai thác cho ngành du lịch. Hang động trung bình dài 20 - 25m (44,6%), hang dài trên 100 m chiếm 10,7%. 1.3. Núi và rừng Vị trí địa lý cùng với lịch sử phát triển lãnh thổ lâu dài và phức tạp đã tạo cho Việt Nam một hoàn cảnh tự nhiên khá độc đáo. Ba phần tư diện tích đất liền là đồi núi nhưng chủ yếu là đồi núi thấp. Độ cao địa hình dưới 1.000 m (so với mực nước biển) chiếm tới 85%. Núi cao trên 2.000 m chỉ chiếm khoảng 1%. Căn cứ vào lịch sử phát triển của lãnh thổ thì các núi của Việt Nam đều là những núi già được trẻ lại. Trong số những đỉnh núi cao của Việt Nam có đỉnh Phanxipăng (Lào Cai) cao nhất, 3.143 m. Núi non đã tạo nên những vùng cao có khí hậu rất gần với ôn đới, nhiều hang động, ghềnh thác, hồ đầm phá, nhiều điểm nghỉ dưỡng và danh lam thắng cảnh như: Sa Pa (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Đà Lạt (Lâm Đồng), núi Bà Đen (Tây Ninh) ; động Tam Thanh (Lạng Sơn), động Từ Thức (Thanh Hoá), động Phong Nha (Quảng Bình) ; thác Bản Giốc (Cao Bằng), hồ Ba Bể (Bắc 10
  12. Kạn), hồ thuỷ điện Sông Đà (Hoà Bình), hồ thuỷ điện Trị An (Đồng Nai), hồ thuỷ điện Yaly (Kon Tum), hồ Thác Bà (Yên Bái) Rừng của Việt Nam có nhiều loại cây gỗ quý: đinh, lim, sến, táu, cẩm lai, gụ, trắc, pơ mu Tính chung, các loài thực vật bậc cao có tới 12.000 loài. Cây dược liệu có tới 1.500 loài. Lâm sản khác có nấm hương, mộc nhĩ, mật ong Về động vật, ước tính ở Việt Nam có 1.000 loài chim, 300 loài thú, 300 loài bò sát và ếch nhái, chưa kể các loài côn trùng. Ngoài những loài động vật thường gặp như hươu, nai, sơn dương, gấu, khỉ còn có những loài quý hiếm như tê giác, hổ, voi, bò rừng, sao la, công, trĩ, gà lôi đỏ Việt Nam có những khu rừng quốc gia nổi tiếng với những bộ sưu tập phong phú về động thực vật nhiệt đới những vùng tràm chim và sân chim nổi tiếng thu hút hàng ngàn khách du lịch đến từ khắp mọi miền đất nước như: rừng quốc gia Cúc Phương, rừng quốc gia Cát Bà, rừng quốc gia Côn Đảo Sân chim Minh Hải có tới hơn 80 loài chim, vùng tràm chim Tam Nông (Đồng Tháp), nơi có chim Sếu đầu đỏ sinh sống, tại đây đã hình thành một trung tâm thông tin về chim Sếu do ngân quỹ bảo vệ chim quốc tế ở Bơ Rêm (Đức) tài trợ. 1.4. Khoáng sản Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng: Than (trữ lượng dự báo khoảng trên 6 tỉ tấn); dầu khí (ước trữ lượng dầu mỏ khoảng 3 - 4 tỷ thùng và khí đốt khoảng 50-70 tỷ m3); U-a-ni (trữ lượng dự báo khoảng 200 - 300 nghìn tấn, hàm lượng U3O8 trung bình là 0,1%); kim loại đen (sắt, măng gan, titan); kim loại màu (nhôm, đồng, vàng, thiếc, chì ); khoáng sản phi kim loại (apatit, pyrit ). Việt Nam được xếp vào hàng những quốc gia có nguồn nước dồi dào. Diện tích mặt nước lớn và phân bố đều ở các vùng. Sông suối, hồ đầm, kênh rạch, biển chính là tiền đề cho việc phát triển giao thông thuỷ; thuỷ điện; cung cấp nước cho trồng trọt, sinh hoạt và đời sống Hệ thống suối nước nóng và nước khoáng, nước ngầm cũng rất phong phú và phân bố khá đều trong cả nước: Suối khoáng Quang Hanh (Quảng Ninh), 11
  13. suối khoáng Hải Vân (Bình Định), suối khoáng Vĩnh Hảo (Bình Thuận), suối khoáng Dục Mỹ (Nha Trang), suối khoáng Kim Bôi (Hoà Bình). Những vùng nước khoáng này đã trở thành những nơi nghỉ ngơi và phục hồi sức khoẻ được nhiều khách du lịch ưa chuộng. 1.5. Thuỷ hải sản Diện tích mặt nước kể cả nước ngọt, nước lợ và nước mặn là nguồn tài nguyên phong phú về tôm, cá trong đó có rất nhiều loài quý hiếm. Chỉ tính riêng ở biển đã có 6.845 loài động vật, trong đó có 2.038 loài cá, 300 loài cua, 300 loài trai ốc, 75 loài tôm, 7 loài mực, 653 loài rong biển Nhiều loài cá thịt ngon, giá trị dinh dưỡng cao như cá chim, cá thu, mực Có những loài thân mềm ngon và quý như hải sâm, sò, sò huyết, trai ngọc Ngoài việc cung cấp một khối lượng lớn cho ngành công nghiệp và xuất khẩu, thì thuỷ hải sản nước ta cũng có vai trò quan trọng đối với ngành du lịch. Đó được coi là những món ăn đặc sản nổi tiếng và hết sức hấp dẫn đối với biết bao thực khách nước ngoài khi đặt chân đến Việt Nam. 1.6. Khí hậu Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chịu ảnh hưởng của gió mùa. Việt Nam có một mùa nóng, mưa nhiều và một mùa tương đối lạnh. Hàng năm có khoảng 100 ngày mưa cới lượng mưa từ 1.500 đến 2.000mm. Độ ẩm không khí trên dưới 80%. Trên nền chung đó, khí hậu của các tỉnh ở phía Bắc (từ đèo Hải Vân trở ra Bắc) thay đổi theo 4 mùa là xuân, hạ, thu, đông. Do ảnh hưởng của gió mùa hơn nữa sự phức tạp về địa hình nên khí hậu Việt Nam luôn thay đổi trong năm, giữa năm này với năm khác, giữa nơi này với nơi khác từ Bắc xuống Nam, từ thấp lên cao. Nhiệt độ trung bình năm từ 22 đến 27oC (Hà Nội: 23oC, Huế: 25oC, Thành phố Hồ Chí Minh: 26oC). Thời tiết khí hậu thích hợp nhất cho du lịch ở Việt Nam là vào mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4. Theo con số thống kê của Tổng cục Du lịch Việt Nam thì lượng du 12
  14. khách đến Việt Nam đông nhất là thời điểm này, mặt khác đây cũng là mùa diễn ra các lễ hội truyền thống ở Việt Nam. 2. Tài nguyên du lịch về mặt nhân văn Việt Nam có lịch sử hơn 4.000 năm văn hiến với nền văn minh lúa nước truyền thống, cùng với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo nên những công trình văn hoá, kiến trúc, những di tích lịch sử, nghệ thuật, những phong tục tập quán, nhiều thể loại văn hoá nghệ thuật dân gian, tôn giáo, lễ hội, nghề thủ công đặc sắc phong phú, đa dạng. Tất cả những di sản đó đều là tài nguyên du lịch nhân văn, đang được nhiều du khách nước ngoài ưa thích. 13
  15. 2.1. Di tích - Danh thắng Các di tích, danh thắng, các công trình lịch sử, văn hoá là tài nguyên quan trọng hàng đầu của du lịch Việt Nam. Đến nay, trên toàn quốc có khoảng 4.000 di tích lịch sử văn hoá, trong đó có 2.250 di tích được Nhà nước xếp hạng. Đặc biệt có 4 điểm du lịch nổi tiếng đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới, đó là: khu di tích Cố đô Huế (Thừa Thiên Huế), Phố cố Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam) và Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh). Ngoài ra, còn một số di tích khác đang được đề nghị UNESCO xếp hạng như di tích Hương Sơn (Hà Tây) và Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình). Phân bổ rải rác ở khắp 61 tỉnh, thành phố còn có khoảng 7.300 di tích khác. Bình quân mỗi tỉnh từ 200 - 400 di tích, mật độ trung bình 2,2 di tích /100km2. Riêng Hà Nội mật độ lên tới 42,8 di tích/100km2. Hàng ngàn di tích lịch sử gắn với những chiến công oanh liệt trong các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, như: Điện Biên Phủ, Thành cổ Quảng Trị, Địa đạo Củ Chi, các nhà tù rồi các đền chùa, nhà thờ, các công trình văn hoá, các tác phẩm nghệ thuật đều là những điểm tham quan du lịch đầy hấp dẫn thu hút nhiều khách du lịch, các nhà nghiên cứu về lịch sử, nhân chủng học, xã hội học, chính trị trong và ngoài nước. 2.2. Văn hoá - nghệ thuật Việt Nam có 54 dân tộc. Mỗi dân tộc đều có một truyền thống văn hoá riêng. Kho tàng văn hóa truyền thống của Việt Nam thể hiện sự đa dạng muôn hình muôn vẻ của các dân tộc cùng sống trên dải đất này. a. Mỹ thuật Mỹ thuật cổ truyền Việt Nam là một phạm trù rất rộng, bao gồm nhiều thể loại, sản phẩm lại phong phú, đa dạng và được sáng tạo ở nhiều thời đại khác nhau. Những sản phẩm đó tồn tại dưới nhiều thể loại khác nhau: gốm sứ, hội hoạ, tranh thêu, tranh vẽ bằng nhiều chất liệu khác nhau: đất, đá, đồng, sắt, gỗ, giấy 14
  16. Hiện vật còn lưu giữ đến nay cho ta thấy từ xa xưa, người Việt Nam đã sớm có một nền mỹ thuật truyền thống: Các hình chạm trong một hang ở Hoà Bình cách ngày nay khoảng 10.000 năm; chiếc muôi đồng được tìm thấy ở Hải Phòng, lưỡi mác bằng đồng tìm thấy ở Thanh Hoá có từ thế kỷ 4 trước Công nguyên; các hình chạm trên mặt các trống đồng v.v đều là những sản phẩm với những đường nét, hình khối hàm chứa những giá trị thẩm mỹ của nghệ thuật cổ truyền Việt Nam. b. Điêu khắc Trong di sản nghệ thuật truyền thống, điêu khắc có một lịch sử phát triển liên tục và cô đúc hình ảnh con người Việt Nam từng miền, từng thời, dù dưới dạng thần linh hay con người thế tục. Tính chất cát cứ từng xuất hiện trong lịch sử của một đất nước hình thành lâu dài, sự đa dân tộc, bên cạnh khối dân tộc Việt chiếm đại đa số khiến cho hình ảnh của nền điêu khắc rất đa dạng có thể thấy các bộ phận điêu khắc như sau: 1. Điêu khắc vương quốc Phù Nam và Chân Lạp ở Nam Bộ; 2. Điêu khắc Champa ở Trung Nam Bộ; 3. Điêu khắc Đại Việt ở Bắc Bộ; 4. Điêu khắc nhà mồ ở Tây Nguyên. Nghệ thuật điêu khắc được duy trì và phát triển cùng với các triều đại phong kiến, tiêu biểu là điêu khắc thời Lý (1010 - 1225). Các trung tâm Phật giáo ở Quảng Ninh, Nam Định và đặc biệt ở Bắc Ninh được xây dựng đồ sộ theo kiểu kiến trúc Đông Nam Á. Các kiến trúc tiêu biểu của thời này kéo theo một nền điêu khắc Phật giáo có thể thấy ở Tượng A Di Đà chùa Phật Tích làm năm 1057 là tác phẩm đầu tiên của thế giới Phật giáo vĩnh hằng ở Bắc Bộ, các tượng Kim Cương chùa Long Đọi, tượng đầu người mình chim, chạm khắc chùa Bà Tấm, chùa Chương Sơn Bên cạnh mảng điêu khắc đó, còn có kho tàng khổng lồ các tác phẩm điêu khắc dân gian có mặt ở khắp đó đây trên đất nước. Đó là sản phẩm điêu khắc của những người thợ trong kiến trúc nhà cửa, vật dụng, đồ thờ, công cụ 15
  17. c. Kiến trúc Cũng như nhiều ngành văn hoá nghệ thuật khác, kiến trúc Việt Nam đã sớm ra đời, có thể xuất hiện từ thời vua Hùng dựng nước (cách nay khoảng 4.000 năm). Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ lại có những đặc điểm, những nét kiến trúc khác nhau. Kiến trúc xưa từ thế kỷ 1 - thế kỷ 12 bao gồm các loại hình thành quách, mộ táng, dinh lũy, cung điện, lâu đài, đình, chùa, tháp và đền thờ bên cạnh kiến trúc nhà ở dân gian. Một số công trình nổi bật như tháp Bình Sơn (Vĩnh Phúc), chùa và tháp Phổ Minh (Nam Định), chùa Thái Lạc (Hưng Yên) Hình thức kiến trúc, trang trí và điêu khắc thời kỳ này đều nói lên bàn tay khéo léo và kỳ công trong lao động nghệ thuật và sự gần gũi với các chủ đề thuộc về con người. Kiến trúc cuối thế kỷ 19 bị ảnh hưởng của kiến trúc phương Tây. Mỗi công trình kiến trúc thời kỳ này đều hàm chứa sự chuyển hoá, hoà trộn giữa hai trường phái kiến trúc Pháp và kiến trúc truyền thống Á Đông. Nhiều công trình đã được pha lẫn với bóng dáng đình chùa và những nét kiến trúc truyền thống của Việt Nam, mà tiêu biểu nhất là nhà thờ Phát Diệm và các nhà thờ đạo Thiên Chúa ở Sài Gòn, Huế, Hà Nội. Từ sau 1975 đến nay kiến trúc Việt Nam phát triển khá mạnh mẽ. Nhiều công trình kiến trúc bề thế, hiện đại, có giá trị cao về nghệ thuật lần lượt mọc lên. Khi đất nước mở cửa về kinh tế, bạn bè bốn phương cũng mang đến cho bức tranh kiến trúc nước nhà sự đa dạng bởi văn hoá nhiều màu sắc. c. Nghệ thuật biểu diễn Trải qua bao biến thiên, ngày nay tại Việt Nam còn lưu giữ nhiều loại nhạc khí như đàn đá, cồng chiêng, các loại khèn, sáo ở Tây Nguyên, các loại đàn khác như đàn đáy, đàn bầu, đàn nguyệt . Ngoài ra, các loại hình nghệ thuật biểu diễn như chèo, tuồng, cải lương, các thể loại ca nhạc như hát quan họ, hát văn, các làn điệu dân ca, các điệu hò, điệu lý, v.v , và những điệu múa truyền thống mang đặc trưng văn hoá tộc người, văn hóa vùng, miền, thể hiện tư tưởng, tình cảm của con người bằng ngôn ngữ biểu cảm riêng mang tính thẩm mỹ và chức năng giáo dục đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của người 16
  18. Việt Nam và đều có một sức hấp dẫn đến kỳ lạ đối với nhiều du khách quốc tế. Đặc biêt, nghệ thuật múa rối nước của Việt Nam là một loại hình sân khấu dân tộc cổ truyền được ưa chuộng trong nước và được giới thiệu ở rất nhiều nước trên thế giới. d. Nghề thủ công truyền thống Việt Nam có hàng trăm các làng nghề truyền thống với những sản phẩm độc đáo, đa dạng về chủng loại, phong phú về màu sắc, mang tính nghệ thuật cao. Nhiều mặt hàng thủ công truyền thống của nước ta đã trở nên không thể thiếu trên thị trường trong nước và quốc tế. Chẳng hạn như nghề gốm sứ cổ truyền có ở nhiều nơi trên đất nước: Bắc Giang có Thổ Hà, Phù Lãng; Vĩnh Phúc có Hương Canh; Quảng Ninh có Đông Triều; Thanh Hoá có Lò Chum; Hội An có Thanh Hà; Đồng Nai có Biên Hoà v.v Nhưng có lịch sử lâu đời nhất thì phải là Bát Tràng ở Hà Nội. Gốm sứ Bát Tràng nổi tiếng không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài. Rồi nghề dệt lụa Vạn Phúc ở Hà Tây, Phương Thành - Trực Ninh ở Nam Định. Lụa Việt Nam đã theo chân các thương gia lên tàu biển đi tới bè bạn xa gần bốn phương. Đặc biệt là nghề mây tre đan và sơn mài xuất hiện từ hàng ngàn năm nay, cha truyền con nối có ở Hà Tây (Ninh Sở, Nhị Khê), Thanh Hoá (Quảng Xương, Quảng Phong). Và ngoài ra còn rất nhiều các nghề thủ công nổi tiếng khác như đúc đồng Phước Kiều ở Quảng Nam, chạm khắc đá ở Đà Nẵng, nghề làm nón ở Hà Tây, ở Huế, tranh Đông Hồ ở Hà Nội, chạm gỗ La Xuyên ở Nam Định v.v Đó còn là những điểm dừng chân hấp dẫn cho những du khách muốn khám phá, tìm hiểu về đất nước con người Việt Nam. Hàng năm, các làng nghề truyền thống đó thu hút hàng trăm, hàng ngàn khách du lịch đến từ khắp mọi nơi trên thế giới. d. Nghệ thuật ẩm thực Ai đã có dịp đến thăm Việt Nam, đi dọc chiều dài đất nước, hẵn sẽ không thể quên những món ăn bình dị, dân dã nhưng cũng hết sức độc đáo, tinh tế. Mỗi 17
  19. món ăn lại có hương vị đặc biệt riêng của nó. Đó là các món ăn cổ truyền của dân tộc Việt Nam như báng chưng, bánh dày, giò lụa, nem rán, bánh cuốn, bún, phở Ngoài ra, mỗi vùng, mỗi địa phương lại có những món ăn, đặc sản ngon, thu hút biết bao thực khách trong và ngoài nước như tôm chua, cơm hến Huế, cao lầu Faifo, bò tái Cầu Mống (Quảng Nam - Đà Nẵng), hủ tiếu Mỹ Tho, yến sào (Khánh Hoà) 2.3. Lễ hội truyền thống Việt Nam là một dân tộc đã có hàng nghìn năm lịch sử. Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam có một nền văn hoá mang bản sắc riêng. Chính những nét riêng đó đã làm nên cốt cách, hình hài và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Trong kho tàng văn hoá của dân tộc Việt Nam, sinh hoạt lễ hội là loại hình văn hoá rất đặc trưng ở Việt Nam. Lễ hội là sinh hoạt văn hóa dân gian có mặt hầu như ở khắp mọi miền đất nước. Nhiều lễ hội ra đời cách ngày nay hàng nghìn năm nhưng vẫn được gìn giữ và duy trì. Lễ hội ở Việt Nam bao giờ cũng hướng tới một đối tượng thiêng cần suy tôn là nhân thần hay nhiên thần. Xét đến cùng cội rễ thì đó chính là hình ảnh hội tụ những phẩm chất cao đẹp nhất của con người. Giúp con người nhớ về nguồn cội, hướng thiện và nhằm tạo dựng cho mỗi con người một cuộc sống tốt lành, yên vui. Lễ hội truyền thống của Việt Nam chính là dịp để con người giao lưu cộng cảm, trao truyền những đạo lý, tình cảm, mỹ tục và khát vọng cao đẹp. Nó mang lại cho con người sự thanh thản nơi tâm linh, gạt bỏ hay quên đi những lo toan thường nhật để về với cội nguồn, với thiên nhiên mà thêm yêu đất nước. Hầu hết lễ hội ở Việt Nam thường diễn ra vào mùa xuân và mùa thu là hai mùa đẹp nhất trong năm, đồng thời cũng là lúc nhà nông có thời gian nhàn rỗi. Trong số các lễ hội lớn ở Việt Nam phải kể đến những lễ hội chi phối hầu hết các gia đình trên mọi miền đất nước, đến mọi dân tộc, tôn giáo, đó là Tết Nguyên Đán, rằm tháng bảy và tết Trung thu. Còn những lễ hội khác diễn ra ở từng địa phương, từng vùng sẽ được giới thiệu ở phần các tỉnh. 18
  20. Với tiềm năng du lịch phong phú, đa dạng, độc đáo như thế, mặc dù còn nhiều khó khăn trong việc khai thác, những năm gần đây ngành Du lịch Việt Nam cũng đã thu hút hàng triệu khách du lịch trong và ngoài nước, góp phần đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Hơn thế, bằng tiềm năng và sản phẩm du lịch của mình, ngành Du lịch đang tạo điều kiện tốt cho bè bạn khắp năm châu ngày càng hiểu biết và yêu mến đất nước Việt Nam. Với tiềm năng du lịch phong phú, đa dạng, độc đáo như thế, mặc dù còn nhiều khó khăn trong việc khai thác, những năm gần đây ngành Du lịch Việt Nam cũng đã thu hút hàng triệu khách du lịch trong và ngoài nước, góp phần đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Hơn thế, bằng tiềm năng và sản phẩm du lịch của mình, ngành Du lịch đang tạo điều kiện tốt cho bè bạn khắp năm châu ngày càng hiểu biết và yêu mến đất nước Việt Nam. 3. Các di sản thế giới tại Việt Nam Từ bao lâu nay, hình ảnh Việt Nam được tô đậm như một đất nước anh dũng, kiên cường đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc. Nay xứ sở này lại thêm quyến rũ bao du khách bốn phương bởi những di sản thiên nhiên và văn hoá quí giá được thiên nhiên ban tặng và được tạo dựng bởi hàng ngàn năm lịch sử: nào vịnh Hạ Long, nào quần thể di tích văn hoá Huế, Mỹ Sơn và Hội An 3.1. Vịnh Hạ Long Đến vịnh Hạ Long, ta không khỏi ngây ngất bởi vẻ đẹp thần tiên của non nước mây trời nơi đây. Từ trên cao nhìn xuống, vịnh Hạ Long như một bức tranh thuỷ mặc khổng lồ vô cùng sống động với hàng ngàn đảo đá. Chỗ thì quây quần, tụ lại xúm xít chen chân; chỗ lại tách rời riêng biệt tạo nên những nét chấm phá cực kỳ tài nghệ. Dưới bàn tay khéo léo, tài hoa của tạo hoá, các đảo đá vô tri, tĩnh lặng trở thành những nhân vật sống động, thân thuộc với con người. Đảo thì giống như đôi gà chọi nhau chờn vờn trên sóng nước, đảo lại giống một chú rùa khổng lồ lim dim ngủ hay như một vị sư già đang chắp tay hướng ra mặt biển tụng kinh 19
  21. niệm Phật và còn nhiều, nhiều đảo khác chúng ta còn chưa khám phá hết những bí mật thần kỳ. Vẻ đẹp của Hạ Long không chỉ phơi bày ở dáng núi, sắc nước mây trời mà còn ẩn chứa trong lòng các đảo đá, với một hệ thống hang động vô cùng phong phú, mỗi hang động đều là một lâu đài kiến trúc nguy nga, tinh xảo của tạo hoá và gắn liền với những truyền thuyết dân gian thơ mộng. 3.2. Quần thể di tích văn hoá Huế, Mỹ Sơn và Hội An Khác với Hạ Long, lịch sử lao động và sáng tạo từ bao đời nay của người dân đất Việt đã mang lại cho Huế, Hội An và Mỹ Sơn một vẻ đẹp thâm nghiêm và sâu đậm. Huế, với những địa danh chỉ nghe tên gọi đã gợi cho ta một vùng đất đầy hương sắc và nên thơ: Sông Hương, Núi Ngự, Bạch Mã, Lăng Cô, Thuận An Dấu ấn xưa được in trên những nếp nhà rêu phong, cổ kính, những con đường lát gạch chạy giữa hai hàng rào bằng cây xén tỉa gọn gàng. Con người với thiên nhiên luôn hoà quyện với nhau. Hình ảnh những nếp nhà mái ngói nép mình dưới những tán cây trái trĩu cành, những vạt hoa đủ màu khoe sắc và tiếng chim ríu rít đã nằm lại trong tâm trí bao lữ khách. Những con thuyền trôi lênh đênh trên dòng Hương Giang man mác giọng hò, những chiều mưa giăng giăng và hương vị cay nồng từ bát bún bò nóng hổi Cuộc sống cứ bình dị, êm ả trôi đi cùng năm tháng nhưng không bao giờ mất đi nét kiêu sa đài các một thời của kinh đô Huế. Đến Huế để có thể hiểu được tại sao những bài thơ, những ca khúc viết cho Huế lại hay và đẹp đến thế. Thơ và nhạc đã tô đẹp cho cuộc sống của con người xứ Huế, và chính cuộc sống của những con người nơi đây đã chắp cánh cho những vần thơ, nét nhạc khiến ai đó chẳng một lần ngẩn ngơ khi phải rời xa xứ này Không đồ sộ, kỳ vĩ như đền Angkor ở Cămpuchia, không phong phú, đa dạng như di tích Pagan ở Myanma Mỹ Sơn nổi bật với quá trình phát triển lâu 20
  22. dài của mình: Bảy thế kỷ phát triển tại đây đã đem lại cho nghệ thuật Chăm nhiều kiệt tác có thể so sánh với những tác phẩm đẹp nhất của nghệ thuật thế giới. Những nghệ nhân người Chăm đã truyền hết tinh lực và tài năng của mình vào những khối đá, những mảng gạch vô tri tạo nên những tác phẩm tràn đầy sức sống trường tồn với thời gian, khiến thế hệ hôm nay và mai sau vẫn luôn rung động, cảm xúc dạt dào mỗi khi được chiêm ngưỡng. Phố cổ Hội An giữ được gần như nguyên vẹn những di tích kiến trúc cổ của mình như phố sá, nhà cửa, hội quán, đình, chùa, miếu, nhà thờ tộc, giếng cổ, mộ cổ Các kiến trúc vừa có sắc thái nghệ thuật truyền thống của Việt Nam, vừa thể hiện sự giao lưu hội nhập văn hoá với các nước phương Đông và phương Tây. Trải qua nhiều thế kỷ, những phong tục tập quán, nghi lễ, sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng cũng như các món ăn truyền thống được lưu giữ và bảo tồn cùng với bao thế hệ người dân phố cổ. Thái độ trân trọng quá khứ của người Hội An đã giúp cho thế hệ hôm nay và du khách gần xa hiểu thêm được cuộc sống và văn hoá của vùng khu phố cổ xa xưa này. Đất nước Việt Nam còn chứa đựng biết bao điều kỳ diệu như thế. Dẫu là của thiên nhiên ban tặng hay do sức lao động của con người, mỗi nơi mang một vẻ đẹp khác nhau, tạo nên một bức tranh sinh động, phong phú và đa dạng, tiềm ẩn bao điều mới lạ mà du lịch Việt Nam hứa hẹn mang đến cho du khách bốn phương. 21
  23. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM THỜI GIAN QUA I. SẢN PHẨM DU LỊCH VÀ CÁC CHỦ TRƯƠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH 1. Sản phẩm du lịch Sản phẩm du lịch được xây dựng dựa trên các điều kiện tài nguyên du lịch, hiện trạng các cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động ngành du lịch của từng vùng đất nước. Mỗi vùng có những đặc điểm riêng và có thể khai thác những sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng đó. Vì vậy để phát triển du lịch, phân vùng lãnh thổ du lịch là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển du lịch để đảm bảo sự chỉ đạo, phát triển du lịch Việt Nam theo các vùng lãnh thổ đạt hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực và duy trì môi trường lâu bền, bảo tồn phát triển các di sản văn hoá lịch sử quí giá giàu bản sắc dân tộc. 1.1. Tiêu chí phân vùng du lịch Phân vùng du lịch chủ yếu dựa trên các tiêu chí sau đây:  Loại hình sản phẩm du lịch độc đáo.  Điều kiện môi trường tự nhiên về du lịch.  Điều kiện môi trường nhân văn, đặc biệt là các di sản văn hoá, lịch sử, các lễ hội truyền thống.  Định hướng phát triển kinh tế - xã hội, phát triển đô thị hoá và mức thu nhập.  Điều kiện kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật chuyên ngành, đặc biệt là hệ thống khách sạn, nhà nghỉ, tổ chức vui chơi giải trí, đi lại, thông tin liên lạc.  Điều kiện an toàn, trật tự an ninh. 22
  24. 1.2. Các vùng và sản phẩm du lịch Căn cứ vào các tiêu chí phân vùng du lịch trên, căn cứ vào tình hình địa lý và kinh tế xã hội tổng quan của Việt Nam, phân vùng cụ thể như sau: a. Vùng du lịch Bắc Bộ ♦ Đặc điểm Bao gồm 23 tỉnh từ Hà Giang đến Hà Tĩnh với thủ đô Hà Nội là trung tâm của vùng và tam giác động lực tăng trưởng du lịch Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Hiện nay ngành du lịch còn giữ vị trí rất khiêm tốn so với các ngành kinh tế quan trọng trong vùng. Tuy nhiên, trong những năm tới, du lịch sẽ trở thành ngành kinh tế quan trọng của vùng do nhu cầu du lịch ngày càng lớn, số lượng khách đến vùng sẽ tăng lên đáng kể, ngoài ra cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch cũng như cơ sở vật chất kỹ thuật chuyên ngành đang được phát triển và tài nguyên du lịch (cả tự nhiên và nhân văn) cũng rất thuận lợi cho việc thu hút khách nội địa và khách quốc tế. ♦ Sản phẩm du lịch đặc trưng Du lịch văn hoá kết hợp với du lịch tham quan, nghiên cứu.  Các sản phẩm du lịch cụ thể: - Giao lưu và phát triển kinh tế - xã hội, hội nghị, hội thảo, hội chợ, triển lãm - Tham quan nghiên cứu nền văn hoá Việt Nam + Các di tích lịch sử, văn hoá nghệ thuật : đình, đền, nhà thờ, tháp + Các lễ hội cổ truyền. + Các làng nghề truyền thống. - Tham quan nghỉ dưỡng vui chơi giải trí ở các vùng cảnh quan + Vùng biển và hải đảo + Vùng sông suối hồ thác + Vùng núi, hang động + Vùng rừng, cao nguyên 23
  25. + Vùng đô thị đặc biệt, thủ đô Hà Nội  Các địa bàn hoạt động du lịch chủ yếu: - Địa bàn các di tích văn hoá lịch sử: + Các di tích văn hoá nghệ thuật, lễ hội truyền thống; chủ yếu Hà Nội và các vùng phụ cận thuộc các tỉnh Hà Tây, Bắc Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ trung tâm của nền văn minh lúa nước, văn hoá Đông Sơn. + Các địa bàn có nhiều ảnh hưởng văn hoá các dân tộc: Tày - Nùng (Cao Bằng, Lạng Sơn) Hơ Mông (Hà Giang, Lào Cai), Thái (Lai Châu- Sơn La), Mường (Hoà Bình). + Các di tích giữ nước dựng nước: Cụm Phú Thọ - Vĩnh Phúc: Đền Hùng, Châu Phong Mê Linh; Cụm Ninh Bình: Hoa Lư, Tam Điệp; Cụm Quảng Ninh - Hải Phòng: Vân Đồn, Yên Tử, Côn Sơn, Sông Bạch Đằng; Cụm Lạng Sơn - Cao Bằng: Chi Lăng, Pắc Bó, đường quốc lộ 4 Đông Khê, Thất Khê ; Cụm Tuyên Quang - Thái Nguyên: các an toàn khu Sơn Dương, Quan Chu, Chiêm Hoá, Bắc Sơn. - Các địa bàn cảnh quan, nghỉ dưỡng giải trí: + Hệ thống điểm cảnh quan nghỉ dưỡng ven biển: Cụm Quảng Ninh - Hải Phòng: Hạ Long, Bái Tử long, Đồ Sơn, Cát Bà, Mũi Ngọc, Trà Cổ; Cụm Thanh Hoá: Sầm Sơn, Hàm Rồng; Cụm Nghệ An: Cửa Lò. + Hệ thống cảnh quan vùng hồ: chủ yếu ở vùng trung du Bắc Bộ: Hoà Bình, Thác Bà (Yên Bái), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Cấm Sơn (Bắc Giang), Núi Cốc (Thái Nguyên), Yên Lập (Quảng Ninh), hồ Ba Bể (Bắc Kạn), Suối Hai, Đồng Mô (Hà Tây). + Hệ thống cảnh quan vùng núi: các khu nghỉ dưỡng Sapa, Bắc Hà (Lào Cai), Mẫu Sơn (Lạng Sơn), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), cao nguyên Mộc Châu (Sơn La). - Các khu núi cao: Fansipan (Lào Cai), Yên Tử (Quảng Ninh) 24
  26. - Các hang động núi đá hang động: Cụm Hà Giang, cụm Cao Bằng (Huyện Trùng Khánh - Bảo Lạc), cụm Lạng Sơn (Nhất, Nhị, Tam Thanh), cụm Cao Bằng (Bắc Sơn), cụm Quảng Ninh (Hoành Bồ, Hòn Gai, Hạ Long), cụm Sơn La - Lai Châu (dọc Sông Đà), cụm Hoà Bình - Hà Tây (Mỹ Đức, Lương Sơn, Hoà Bình ), cụm Ninh Bình - Thanh Hoá (Hoa Lư, Bích Động, Đồng Giao, Bỉm Sơn, Thanh Hóa), cụm Hạ Long (hang Bồ Nâu, hang Luồn, hang Đầu Gỗ ). - Các hải đảo: + Các hải đảo có bãi tắm đẹp: Cô Tô, Quan Lạn, Ngọc Vừng, Tuần Châu (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Phú Quốc (Kiên Giang). + Các hải đảo cảnh quan nổi tiếng: Bạch Long Vĩ, Minh Châu, Đảo Khỉ, Đảo Rều, Hòn Dấu, Hòn Mê, Cù Lao Chàm. - Đô thị đặc biệt: Thủ đô Hà Nội, đầu mối giao thông lớn, trung tâm thông tin viễn thông hiện đại, trung tâm giao tiếp, trung tâm đào tạo khoa học kỹ thuật của cả nước, trung tâm của nền văn hoá nghệ thuật truyền thống.  Các trung tâm lưu trú: - Vùng đất liền + Trung tâm chính: Thủ đô Hà Nội + Các trung tâm phụ: Hoà Bình (cho địa bàn Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình); Việt Trì (cho địa bàn Yên Bái, Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ); Thái Nguyên (cho địa bàn Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Thái). - Vùng ven biển + Trung tâm chính: Thành phố Hạ Long (cho địa bàn Quảng Ninh, Hải Phòng); + Các trung tâm phụ: Ninh Bình (cho địa bàn Thái Bình, Nam Định, Thanh Hoá); Vinh (cho địa bàn Nghệ An, Hà Tĩnh). b. Vùng du lịch Bắc Trung Bộ ♦ Đặc điểm 25
  27. Vùng du lịch Bắc Trung Bộ gồm 5 tỉnh là Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng và Quảng Ngãi, với Huế - Đà Nẵng là trung tâm của vùng trong tam giác tăng trưởng miền Trung: Đà Nẵng - Huế - Đông Hà - Lao Bảo. Vùng du lịch Bắc Trung Bộ là nơi giao thoa của hai nền văn minh Đông Sơn và Sa Huỳnh. Vùng có cố đô Huế với các di tích tập trung của thời Nguyễn đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới và đây cũng là nơi có nhiều di tích cách mạng trong hai cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của dân tộc. Mặc dù vùng này có rất nhiều tiềm năng phát triển du lịch nhưng hiện tại ngành du lịch đang ở vị trí thấp so với các ngành kinh tế khác trong vùng. Nguyên nhân chủ yếu là sự phát triển kinh tế của vùng còn chậm, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch còn thiếu thốn và lạc hậu. Trong những năm tới du lịch trong vùng có thể phát triển với quy mô lớn hơn, tốc độ nhanh hơn. ♦ Sản phẩm du lịch đặc trưng Sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng Bắc Trung Bộ là du lịch tham quan các di tích lịch sử, cách mạng kết hợp với du lịch biển, hang động, và du lịch quá cảnh.  Các sản phẩm du lịch cụ thể: - Tham quan nghiên cứu các di sản văn hoá truyền thống: di sản văn hoá thời nhà Nguyễn ở Huế; di sản văn hoá Chàm ở Quảng Nam - Đà Nẵng. - Tham quan nghiên cứu các di tích chống Mỹ cứu nước - Nghỉ dưỡng, giải trí, cảnh quan ven hồ và núi, hang động - Tham quan rừng quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên. - Các hình thức du lịch biển (ven biển, hải đảo).  Các địa bàn hoạt động du lịch chủ yếu: - Các di sản văn hoá truyền thống: 26
  28. + Di sản văn hoá thời Nguyễn tập trung ở Huế và vùng phụ cận: Cấm Thành, khu lăng tẩm, cảnh quan, tài nguyên nước khoáng xung quanh và các di tích dọc sông Hương, các khu nhà vườn theo kiểu cung đình. + Di sản văn hoá Chàm: Mỹ Sơn (tháp Chàm), bảo tàng Chàm, cù lao Chàm, đô thị cổ Hội An (cảng Chàm), thành cổ Quảng Trị, thành cổ Đồng Hới. + Di sản văn hoá các dân tộc ít người: các huyện vùng cao: A Sờ, A Lưới, Hiên, Giằng, Hương Hoá, Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng). - Các khu cảnh quan, nghỉ dưỡng giải trí: + Cảnh quan nghỉ dưỡng ven biển: các bãi tắm Thuận An, Cảnh Dương, Lăng Cô (Thừa Thiên Huế), Mỹ Khê, Cửa Đại, Non Nước (Quảng Nam- Đà Nẵng), Cửa Tùng (Quảng Trị), Đèo Ngang - Lý Hoà, Bãi đá nhảy (Quảng Bình). + Cảnh quan nghỉ dưỡng và giải trí vùng hồ: phá Tam Giang, đầm Cầu Hai (Thừa Thiên Huế), Hồ Phú Ninh, vịnh Nam Ô (Quảng Nam- Đà Nẵng), sông Hương (Huế), sông Hàn (Đà Nẵng). + Cảnh quan nghỉ dưỡng vùng núi: Bạch Mã (Thừa Thiên Huế), núi Bà Đá (Đà Nẵng), đèo Hải Vân, đèo Ngang, đèo Lý Hoà, bán đảo Sơn Trà. + Cảnh quan núi đá hang động: động Phong Nha ở Quảng Bình, động lớn nhất của Việt Nam. - Các di tích chống Mỹ cứu nước: + Cụm Vĩnh Mốc - Hiền Lương (Quảng Trị): địa đạo, di tích ở ranh giới tạm chia cắt hai miền trên sông Bến Hải. + Cụm đường quỗc lộ 9: Cửa Việt, sân bay Ái Tử, Cam Lộ (Quảng Trị), căn cứ của Chính phủ Cách mạng Lâm thời, Khe Sanh, sân bay Tà Cơn và đường mòn Hồ Chí Minh, nghĩa trang Trường Sơn. + Cầu Thạch Hãn, thành cổ Quảng Trị, cưả Thuận An, bán đảo Sơn Trà. 27
  29. + Các sân bay: Đà Nẵng, Nước Mặn, Chu Lai, Phú Bài, Sơn Trà (Quảng Nam - Đà Nẵng). - Thành phố cổ: + Huế, thành phố cảnh quan, bố cục hài hoà, có hệ thống di tích thời Nguyễn tập trung nhất. + Hội An, cảng Chàm cũ, đã được nhà nước công nhận là thành cổ cần được bảo vệ.  Các trung tâm lưu trú: Do các yêu cầu của tổ chức hoạt động du lịch của vùng cần có sự liên kết chặt chẽ giữa Thừa Thiên Huế, Quảng Nam và Đà Nẵng, nên trung tâm lưu trú chính của vùng là: Huế và Đà Nẵng. Sau khi sân bay Phú Bài được củng cố và mở rộng, sử dụng thường xuyên, trung tâm phụ sẽ là Đông Hà, vì là vị trí đầu mối giao thông quốc tế quan trọng của đường quốc lộ 9 với đường xuyên Việt và Lao Bảo đã được nhà nước công nhận là cửa khẩu quốc tế. c. Vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ ♦ Đặc điểm Vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ bao gồm 25 tỉnh từ Kom Tum đến Minh Hải với hai tiểu vùng du lịch: Nam Trung Bộ (9 tỉnh) và Nam Bộ (16 tỉnh). Trung tâm của vùng là thành phố Hồ Chí Minh. ở vùng này có tam giác tăng trưởng du lịch: Thành phố Hồ Chí Minh - Nha Trang - Đà Lạt, Thành phố Hồ Chí Minh - Cần Thơ - Kiên Giang (Phú Quốc) và tam giác tăng trưởng kinh tế: Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hoà - Vũng Tàu (Trong phạm vi vùng ảnh hưởng của Thành phố Hồ Chí Minh). Hiện tại ngành du lịch trong vùng đã được phát triển nhanh thành một trong những ngành kinh tế trọng điểm của vùng, riêng đối với Thành phố Hồ Chí Minh du lịch sẽ giữ một vai trò đặc biệt quan trọng là trung tâm giao tiếp kinh tế của toàn vùng. So với hai vùng du lịch trên, vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ có cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất 28
  30. kỹ thuật tốt hơn, thuận lợi cho việc phát triển du lịch. Khách vào vùng này có chiều hướng gia tăng nhanh. ♦ Sản phẩm du lịch đặc trưng Các sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng Nam Trung Bộ và Nam Bộ là du lịch tham quan nghỉ dưỡng biển và núi, du lịch sông nước, du lịch sinh thái đồng bằng châu thổ sông Cửu Long.  Các sản phẩm du lịch cụ thể: - Giao lưu và phát triển kinh tế - xã hội, hội chợ, triển lãm. - Cảnh quan nghỉ dưỡng ven biển, hồ vùng ngập mặn và miền núi. - Tham quan nghiên cứu các di tích chống Mỹ cứu nước. - Tham quan nghiên cứu các di sản văn hoá Chàm và di sản tôn giáo khác. - Tham quan vùng sông nước, miệt vườn vùng đồng bằng sông Cửu Long. - Tham quan nghiên cứu vùng văn hoá các dân tộc Tây Nguyên.  Các địa bàn cụ thể hoạt động du lịch: - Thành phố Hồ Chí Minh: đông dân cư nhất, có cơ sở hạ tầng tốt nhất so với cả nước, có mạng lưới các ngành dịch vụ tương đối đầy đủ. Cơ sở đang khai thác: khu Thanh Đa - Bình Quới, Lái Thiêu, hồ Kỳ Hoà, Lâm Viên, Văn Thánh, sẽ phát triển mở rộng dọc sông Sài Gòn, dọc sông Đồng Nai, khu Thủ Thiêm, rừng Sác, Cần Giờ. - Vũng Tàu: khu du lịch dầu khí đã có cơ sở hạ tầng tốt, có bãi biển, núi cho cư dân tại chỗ và nghỉ cuối tuần của thành phố Hồ Chí Minh và khách du lịch quốc tế. - Biên Hoà: thành phố loại hai có khu công nghiệp tập trung lớn nhất, đang được mở rộng thêm 2 lần, và là đầu mối giao thông kinh tế chiến lược chính của miền Nam. 29
  31. - Cần Thơ : Khi thành phố Cần Thơ xây dựng cảng nước sâu cho tầu trên 1 vạn tấn và nâng cấp sân bay sẽ trở thành trung tâm giao tiếp của đồng bằng sông Cửu Long. - Cảnh quan nghỉ dưỡng giải trí: + Cảnh quan ven biển đẹp nhất thuộc Tuy Hoà, Khánh Hoà như: Đại Lãnh, Văn Phong, Dốc Lết, Bãi Tiêu, Đồng Đế, Nha Trang, Hòn Trũ. Ngoài ra các bãi biển như: Ninh Chữ, Cà Ná (Ninh Thuận), Bình Châu - Long Hải - Vũng Tàu (Bà Rịa-Vũng Tàu), Hòn Chông (Hà Tiên), Mỹ Khê, Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Qui Nhơn (Bình Định). Cần bổ sung cho sự hoàn chỉnh của dải du lịch ven biển của vùng này. + Cảnh quan nghỉ dưỡng núi: 3 bậc thềm của cao nguyên Lâm Đồng có 2 trung tâm du lịch nổi tiếng là: Đà Lạt với nhiều cảnh quan, núi hồ, thác, một hệ thống biệt thự phong phú hấp dẫn như: Hồ Đan Kia, suối Vàng, đỉnh Lâm Viên, hồ Xuân Hương, Đa Thiện, Tuyền Lâm, sân golf, ; Bảo Lộc trung tâm tơ tằm, chè và du lịch. Hệ thống thác của sông Đồng Nai. Rừng thuần chủng (thông) lớn nhất so với cả nước, là những tài nguyên cần được khai thác do sự hấp dẫn độc đáo đối với khách du lịch. + Các hồ: hồ Yaly (Kom Tum), Biển Hồ (Pleiku), hồ Lắc (Đắc Lắc), Dầu Tiếng (Tây Ninh), Trị An (Đồng Nai), Thi Nại (Qui Nhơn), Đa Nhim (Lâm Đồng), hệ thống hồ của Đà Lạt. + Các công viên quốc gia: Nam Cát Tiên, Côn Đảo, các sân chim cần bảo vệ (Minh Hải), rừng thông Lâm Đồng. - Các di tích kháng chiến chống Mỹ: Sơn Mỹ, Ba Tơ (Quảng Ngãi), bán đảo Phượng Hoàng (Quy Nhơn), Cam Ranh (Khánh Hoà), sân bay Thành Sơn (Ninh Thuận), Xuân Lộc (Đồng Nai), chiến khu D (Lâm Đồng - Tây Ninh - Đồng Nai), núi Bà Đen (Tây Ninh), dinh Độc Lập, Củ Chi, Bến Lức (Thành phố Hồ Chí Minh), Đất Đỏ (Đồng Nai), Biệt Dinh (Đà Lạt), Bạch Dinh (Vũng Tàu), Bến Tre đồng khởi, các khám ở Sài Gòn, Côn Đảo 30
  32. - Các di tích khác: Các tháp Chàm (Ninh Thuận, Bình Thuận), Tây Sơn (Bình Định), toà thánh Cao Đài, đền Bà (Tây Ninh), các chùa Bà núi Sam, núi Sập, khu di tích ốc Eo Tri Tôn, Thoại Sơn (An Giang), quê Bác Tôn (Long Xuyên), kênh Xà No (Tiền Giang).  Các trung tâm lưu trú: - Trung tâm chính: Thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang, Đà Lạt. - Trung tâm phụ: Qui Nhơn, Cần Thơ. 2. Những chủ trương phát triển du lịch và kết quả thu được trong giai đoạn 1990 đến nay 2.1. Những chủ trương phát triển ngành Du lịch Xác định vị trí quan trọng của du lịch trong thời kỳ đổi mới và trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách tạo điều kiện cho du lịch phát triển. Trước thực tiễn của ngành du lịch Việt Nam và tiếp tục phát triển quan điểm của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, trong báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương khoá VI đọc tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991) đã đặt ra việc phát triển du lịch như một nội dung của đa dạng hoá và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, nghị quyết Đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ: "Phải khai thác sự hấp dẫn của thiên nhiên, di sản văn hoá phong phú và các lợi thế khác của đất nước, mở rộng hợp tác với nước ngoài để phát triển mạnh du lịch". Một lẫn nữa, du lịch lại được khẳng định như một ngành kinh tế dịch vụ quan trọng làm giàu cho đất nước. 31
  33. Tiếp theo đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá VII ngày 30 tháng 7 năm 1994 nêu rõ: “Phát triển mạnh du lịch, hình thành ngành công nghiệp du lịch có qui mô ngày càng cao tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của nước ta’’ và xác định “Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp quan trọng có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao, vì vậy phát triển du lịch là nhiệm vụ và trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội’’. Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng số 46-CT/TW ngày 14 tháng 10 năm 1994 về lãnh đạo đổi mới và phát triển du lịch trong tình hình mới nêu rõ : “Phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước’’, “Mục tiêu của ngành du lịch đến năm 2000 là đổi mới và phát triển các cơ sở và phương thức kinh doanh phục vụ, tạo được các sản phẩm du lịch mang tính dân tộc, kết hợp với tính hiện đại, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm, hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu đón khách du lịch và những chỉ tiêu kinh tế, xã hội Nhà nước giao, tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ và lành mạnh du lịch Việt Nam vào đầu thế kỷ 21”. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII nhấn mạnh “Phấn đấu đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch, dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực ” và "Triển khai thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước theo hướng du lịch văn hoá, sinh thái môi trường. Xây dựng các chương trình và các điểm du lịch hấp dẫn về văn hoá, di tích lịch sử và khu danh lam thắng cảnh. Huy động các nguồn lực tham gia kinh doanh du lịch, ưu tiên xây dựng kết cấu hạ từng ở những khu vực du lịch tập trung, ở các trung tâm lớn. Nâng cao trình độ văn hoá và chất lượng dịch vụ phù hợp với các loại khách du lịch khác nhau”. Ngày 11/11/1998, Bộ Chính trị có Kết luận số 179/TB - TW về phát triển du lịch trong tình hình mới đã tạo ra động lực mới cho sự phát triển của ngành du lịch. Trên cơ sở tổng kết tình hình phát triển của ngành du lịch trong thời 32
  34. gian qua, Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định chủ trương và biện pháp nhằm “phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn”. Đặc biệt là, ngành Du lịch đã xây dựng được Chiến lược phát triển Du lịch 2001-2010 và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào ngày 22/07/2002. 2.2. Những kết quả đạt được của ngành du lịch a. Tăng trưởng về số lượng khách du lịch Ngành kinh tế du lịch nước ta giai đoạn này (1991 - 2002) được đánh dấu bằng sự phát triển nhanh chóng về số lượng khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa; Doanh thu về du lịch tăng lên đáng kể; Nộp ngân sách Nhà nước cũng tăng lên năm sau so với năm trước nhiều lần. Yếu tố tác động đem lại những kết quả trên của ngành Du lịch Việt Nam chính là những chủ trương phát triển ngành của Đảng và Nhà nước cùng với sự nỗ lực của mọi tổ chức, cá nhân tham gia phục vụ phát triển du lịch. Trong đó phải kể đến những nỗ lực của ngành du lịch, đặc biệt kể từ năm 1999 với các hoạt động, chương trình quảng bá trong và ngoài nước về hình ảnh Du lịch: "Việt Nam - Điểm đến của thiên niên kỷ mới". Từ năm 1991 đến năm 2002, lượng khách du lịch quốc tế tăng từ 300 ngàn lượt người lên 2,33 triệu lượt người, tăng 7,8 lần. Khách du lịch nội địa tăng từ hơn 1,5 triệu lên 11,7 triệu lượt người, tăng gần 8 lần. Thu nhập xã hội từ du lịch tăng nhanh, năm 2002 đạt 21.630 tỷ đồng, so với năm 1991 là 2.240 tỷ đồng tăng gấp gần 9,65 lần. Khách du lịch quốc tế vào nước ta tăng với tốc độ khá cao nhưng số lượng còn chưa lớn so với một số nước trong khu vực (Xem Biểu đồ 1). Biểu đồ 1: Khách du lịch quốc tế đến các nước ASEAN giai đoạn 1995-2000 (Đơn vị : 1000 lượt khách) 12000 10000 t î 8000 33 − 0 l 6000 0
  35. Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Du lịch(www.vietnamtourism.com), tháng 3/2003 Tuy nhiên, một số thị trường du lịch quan trọng đã được hình thành và phát triển. Năm 1995 khách quốc tế vào Việt Nam 1.350.000 từ các thị trường chính xếp theo thứ tự: Đài Loan, Nhật, Pháp, Mỹ, Anh, Thái Lan, Hồng Kông, và Trung Quốc. Trong những năm từ 1999 đến 2002, có thể nói là các chương trình quảng bá du lịch "Việt Nam - Điểm đến của thiên niên kỷ mới" tại nước ngoài đã phát huy tác dụng. Kết quả là cơ cấu khách du lịch quốc tế có sự chuyển dịch cơ bản, số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam tăng mạnh (Xem Biểu đồ 1). Biểu đồ 2: Hiện trạng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam giai đoạn 1991-2002 (Đơn vị: 1000 lượt khách) 3000 2600 2500 2342 2140 ) 2000 ît 1781 1716 − 1600 1500 1520 1358 (1000 l (1000 1000 1018 670 34 500 440 300
  36. Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Du lịch (www.vietnamtourism.com), tháng 3/2003 Dẫn đầu là thị trường Trung Quốc, với số lượng khách lớn chủ yếu đến Việt Nam qua đường bộ và đường biển. Lượng khách từ thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc tăng mạnh (đạt 34,2% năm 2001 và 36,7% năm 2002 đối với thị trường Nhật Bản; 36,3% năm 2002 đối với thị trường Hàn Quốc), lượng khách từ thị trường Mỹ và Pháp tăng ổn định (Xem Biểu đồ 3). 35
  37. Biểu đồ 3 : Cơ cấu khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong những năm gần đây (Đơn vị : 1000 lượt khách) 800 600 ) ît − 400 l (1000 200 0 1999 2000 2001 2002 C¸c n-íc ASEAN 167 198 240 269 Trung Quèc 484 626 672 724 §µi Loan 173212200211 NhËt 113 152 204 279 Hàn Quốc 43 52 75 105 Anh 43 56 64 69 §øc 21 32 39 46 Ph¸p 86 86 97 111 Canada 31 30 35 43 Mü 210 208 230 259 Úc 63 68 84 96 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Du lịch(www.vietnamtourism.com), tháng 3/2003 Số lượng khách du lịch nội địa năm 1991 chỉ là 1,5 triệu lượt người, năm 1995 là 5,5 triệu, năm 2000 là 10,6 triệu và năm 2002 là 11,18. Như vậy là sau 11 năm, lượng khách du lịch nội địa tăng gần 7.5 lần. (Xem Biểu đồ 4). Biểu đồ 4: Hiện trạng khách nội địa giai đoạn 1991 - 2002 (Đơn vị: 1000 lượt khách) 12000 11200 11180 10600 10678 10000 9600 8500 ) 8000 ît − 6500 6000 5500 (1000 l 4000 3500 2500 2000 2000 1500 0 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 36
  38. Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Du lịch (www.vietnamtourism.com), tháng 3/2003 Như vậy, một đặc điểm lớn được phát triển ở giai đoạn này là ngành du lịch nước ta đang đứng trước yêu cầu ngày càng tăng của khách du lịch quốc tế, cũng như khách du lịch trong nước, tạo ra thị trường rộng lớn để phát triển mạnh du lịch trong những năm sau. b. Doanh thu về du lịch và thu nhập của xã hội từ du lịch Theo các số liệu điều tra của Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch Việt Nam thì năm 1995 tính trung bình một khách du lịch quốc tế chi tiêu mỗi ngày ở Việt Nam là 75USD; khách du lịch nội địa chi tiêu cho một chuyến đi là 300 nghìn đồng, cơ cấu chi tiêu của khách du lịch quốc tế tại Việt Nam: 65% cho lưu trú và ăn uống (ở Xinh-ga-po là 35,6%; Thái Lan là 38,5%; Trung Quốc 32%), 10% cho vận chuyển đi lại (ở Xinh-ga-po 5,1%, Thái Lan 13,3%, Trung Quốc 11,3%), 15% mua sắm hàng lưu niệm và 10% cho các dịch vụ khác (hai khoản chi này ở Xinh-ga-po là 5,1%; Thái Lan 48,2%, Trung Quốc 56,7%). Năm 1995 thu nhập xã hội từ du lịch đạt khoảng 9.000 tỷ đồng (800 triệu USD) tăng 2600 tỷ đồng so với năm 1994; Riêng thu nhập xã hội từ du lịch quốc tế (khách nước ngoài đem tiền vào Việt Nam để chi tiêu) đạt khoảng 7.100 tỷ đồng (khoảng 650 triệu USD) đạt tốc độ tăng trưởng 35%. Năm 2002 thu nhập từ du lịch đạt 21 630 tỷ đồng, tăng hơn 5% so với năm 2001 là 20 500 tỷ đồng. Nếu xem xét trên góc độ tổng thể thu nhập ngành du lịch hiện nay, thì rõ ràng không thua kém những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu như: lúa, gạo, hàng may mặc, giầy dép. Hơn nữa, du lịch ở nước ta lại là một ngành còn rất non trẻ, trong khi nông nghiệp, thủ công nghiệp là những ngành kinh tế truyền thống có từ lâu đời. Điều đó chứng tỏ rằng, tiềm năng du lịch Việt Nam rất phong phú và một khi có đường lối phát triển và cơ chế chính sách về du lịch thích hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong và ngoài nước thì tiềm năng đó được chuyển nhanh thành hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động du lịch ở nước ta, và từng 37
  39. bước thực hiện được các yêu cầu phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế của Việt Nam. II. THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH DU LỊCH 1. Hiện trạng các cơ sở lưu trú Năm 1991 cả nước mới có hơn 11,4 nghìn phòng khách sạn thì đến nay đã có 72,5 nghìn phòng. Mấy năm qua chúng ta đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư, nâng cấp, tự xây hoặc liên doanh xây dựng hệ thống khách sạn, nhà nghỉ. Trong đó có nhiều khách sạn 3 - 5 sao đạt tiêu chuẩn quốc tế, nhiều nhà khách của một số cơ quan và một hệ thống khách sạn nhỏ của tư nhân (qui mô từ 5 đến 15 buồng). Nhiều khách sạn cao cấp được xây dựng làm thay đổi cơ bản diện mạo của hệ thống khách sạn Việt Nam, đáp ứng yêu cầu lưu trú và tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế lớn. Đặc biệt là nhiều hãng Quản lý Khách sạn hàng đầu thế giới đã có mặt tại Việt Nam như Accor, Hilton, Marriot, Sol Melia, Swiss Belhotel International, Nikko hotels International, Daewoo, Omni, Equatorial, Furama Hotels & Resort International. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Báo cáo của Tổng cục Du lịch về kết quả 4 năm triển khai Pháp lệnh Du lịch, ngày 03/01/2003, đến nay cả nước có: Tổng số các cơ sở lưu trú: 3.267 với 72.504 buồng, trong đó: Loại hình cơ sở lưu trú Số lượng Số buồng Khách sạn 1.940 53.026 Nhà nghỉ 668 7.603 Biệt thự 52 1.310 Làng du lịch 11 357 Căn hộ cho thuê 19 249 Bãi cắm trại 08 83 38
  40. Tổng cục Du lịch và các Sở Du lịch đã triển khai việc thẩm định, tái thẩm định các khách sạn trên địa bàn cả nước. Cũng theo báo cáo trên, đến tháng l l/2002, tổng số khách sạn đã được xếp hạng từ 1 - 5 sao trong cả nước là 850 khách sạn, chiếm 45% tổng số khách sạn toàn Ngành. Về công tác quản lý, hoạt động của cơ sở lưu trú du lịch được thực hiện theo Luật Doanh nghiệp, Pháp lệnh du lịch, Nghị định 39/2000/ND-CP, Thông tư 01/2001/TT-TCDL, Quyết định 02/2001/QĐ-TCDL Các văn bản pháp lý về cơ sở lưu trú du lịch đã thực sự phát huy được hiệu lực, cơ chế mới đã tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển kinh doanh lưu trú. Cơ sở vật chất và chất lượng phục vụ tại các cơ sở lưu trú ngày càng được cải thiện, nâng cao, có tính chuyên nghiệp do những quy định về tiêu chuẩn đối với cơ sở lưu trú cụ thể, đầy đủ hơn. Doanh thu từ cơ sở lưu trú qua các năm đều tăng trưởng khá, chiếm 65 - 70% doanh thu toàn Ngành, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách. 2. Nhân lực phục vụ phát triển ngành du lịch 2.1. Số lượng lao động Lao động phục vụ du lịch có một vị trí rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm dịch vụ du lịch, đến ấn tượng về đất nước, văn hoá và con người Việt Nam, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh cũng như khả năng hội nhập và cạnh tranh quốc tế của ngành du lịch. Mặc dù là một ngành kinh tế mới phát triển song du lịch đã thu hút được một lực lượng lao động rất lớn. Theo thống kê (Báo cáo của Tổng cục Du lịch về Kết quả 4 năm triển khai Pháp lệnh Du lịch, ngày 03/01/2003), năm 1991 cả nước có trên 20 nghìn lao động trực tiếp trong du lịch, đến năm 2001 đã tăng lên 150 nghìn; lao động gián tiếp ước khoảng 330 nghìn. 2.2. Chất lượng lao động 39
  41. Trong những năm gần đây đội ngũ cán bộ, nhân viên làm du lịch nước ta đã có bước trưởng thành cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, trước yêu cầu công việc ngày càng lớn, đặc biệt là trước xu thế khu vực hoá toàn cầu hoá của hoạt động du lịch ngày càng nhanh, sự hội nhập ngày càng tăng với du lịch trong vùng và thế giới sự đuối tầm của cán bộ quản lý kinh doanh đã bộc lộ ngày một rõ. Vẫn theo báo cáo trên, trong số lao động trực tiếp của ngành du lịch, chỉ có 7% đạt trình độ đại học, số lao động được đào tạo qua trường dạy nghề cũng còn rất thấp. Năng suất lao động trong ngành chưa cao bắt nguồn từ nguyên nhân chính là trình độ tổ chức và chuyên môn yếu kém của đội ngũ cán bộ và nhân viên trong ngành du lịch. Hiện nay ở nước ta có 24 trường trung học và trung tâm đào tạo nghề cho ngành du lịch và khoảng 22 trường đại học, cao đẳng tham gia đào tạo cán bộ cho ngành này ở trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học. Qui mô đào tạo này sẽ bổ sung hàng năm khoảng 3 - 5 ngàn lao động cho ngành du lịch. Trong quá trình đáp ứng nhu cầu lao động cho ngành du lịch, mặc dù qui mô đào tạo đã có những tăng trưởng và đáp ứng một cách khá năng động trong những năm vừa qua, song vẫn còn nhiều vấn đề cần quan tâm như: số lượng lao động được đào tạo có tăng trong những năm qua nhưng chất lượng chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Nguyên nhân là do chất lượng đào tạo chưa cao, quá trình đào tạo chưa gắn liền với thực tế, kỹ năng và kiến thức còn yếu; cơ cấu đầu ra chưa thực sự phù hợp. Các nghề nghiệp cụ thể cũng chưa phù hợp về cơ cấu, một số lĩnh vực còn yếu như: Phần lớn hướng dẫn viên du lịch không phải là những người được đào tạo chuyên ngành về du lịch mà thường là được đào tạo từ các trường ngoại ngữ. Trong khi đó, không ít cán bộ và nhân viên quản lý trong ngành du lịch có trình độ về ngoại không đủ để làm việc. Trình độ ngoại ngữ thấp, sự thiếu hiểu biết pháp luật quốc tế, và sự thiếu hụt nhiều kiến thức khác đã hạn chế sự giao tiếp và chất lượng phục vụ khách, cản trở sự đàm phán đối với các đối tác nước ngoài đầy kinh nghiệm trong lĩnh 40
  42. vực này. Ngành du lịch Việt Nam cũng đang rất thiếu các chuyên gia, những nhà khoa học nghiên cứu về chiến lược dài hạn, những cán bộ quản lý và các nhà doanh nghiệp giỏi. 3. Kết cấu hạ tầng phục vụ du lịch Kết cấu hạ tầng là đòn bẩy thúc đẩy mọi hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước. Đối với ngành du lịch, kết cấu hạ tầng là những yếu tố cơ sở nhằm khai thác hiệu quả các tiềm năng du lịch, nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch. Trong kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ du lịch, quan trọng nhất là hệ thống các loại hình giao thông vận tải, hệ thống thông tin viễn thông và hệ thống cấp thoát nước và hệ thống cung cấp năng lượng. Nói chung, kết cấu hạ tầng của nước ta còn ở tình trạng thấp kém chưa đáp ứng yêu cầu và đang là một trở ngại không nhỏ cho phát triển du lịch. 3.1. Hệ thống giao thông vận tải a. Đường hàng không Theo Báo cáo chính thức lượng khách đến Việt Nam năm 2002, vietnamtourism.com, số lượt khách du lịch đi đường hàng không đến Việt Nam năm 2002 là 1.514.500, chiếm 58,3% tổng số lượt khách quốc tế trong năm 2002 là 2.600.000, năm 2001 là 1.294.465 chiếm 55% tổng số khách quốc tế trong năm là 2.330.050, năm 2000 là 1.113.140 chiếm 52% tổng số khách quốc tế trong năm là 2.140.100. Hiện nay riêng đội máy chuyên trở hành khách của Vietnam Airline đã có 30 chiếc (thuộc vào loại hiện đại có 4 Boeing 777s, 3 Boeing B767-300s, 12 Airbus A320/321s). Toàn bộ đội ngũ tiếp viên hàng không được đào tạo chuyên nghiệp và thành thạo ít nhất hai ngoại ngữ. Với đường bay tới 25 thành phố trên thế giới và 15 tuyến bay nội địa, ngành Hàng không Việt Nam vẫn tiếp tục mở thêm các tuyến bay mới trong năm nay (Thành phố Hồ Chí Minh - Fukuoka Nhật, Hà Nội - Paris trực tiếp). Có thể nói rằng ngành Hàng không Việt Nam đang thực sự góp phần thúc đẩy ngành du lịch phát triển. 41
  43. b. Đường bộ, đường sắt, đường sông và đường biển Theo Báo cáo Tổng kết năm 2002 của Tổng cục Du lịch, ngày 31/12/2002, về đường bộ, mât độ đường lớn tương đương với các nước trong khu vực nhưng 47% là đường xấu và chủ có 10% chiều dài đường quốc lộ (1100/11.000 km) là tương đối tốt. Nhiều tuyến đường đang được xây mới và nâng cấp, đặc biệt là tuyến đường lịch sử - Đường Hồ Chí Minh - đang được gấp rút thi công. Tuy nhiên, một điều đáng mừng là phần lớn các đơn vị, doanh nghiệp lữ hành đã trang bị những đội xe mới, hiện đại đạt tiêu chuẩn phục vụ du lịch quốc tế. Về đường sắt, mật độ 0,077 km2/ 100 km2 cao hơn các nước Đông Nam Á, nhưng phát triển chủ yếu ở miền Bắc, chất lượng xấu. Tuy vậy ngành đường sắt cũng luôn cải tiến chất lượng phục vụ và rút ngắn giờ tàu chạy (tàu nhanh Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh chỉ mất 32 giờ). Về đường biển, phân bố cảng biển không đều, tập trung chủ yết ở miền Trung trong khi lượng hàng và khách lớn lại chủ yếu ở miền Bắc và miền Nam. Đóng góp của vận tải đường biển trong phát triển du lịch là gián tiếp nhưng cũng hết sức quan trọng. Vận tải đường sông chủ yếu được thực hiện ở đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long. Đặc biệt với định hướng phát triển loại hình Du lịch sinh thái, vận tải đường sông có vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, vận tải đường sông mới chỉ được khai thác ở dạng tự nhiên, chưa được đầu tư cơ bản, thêm vào đó hàng năm lại thường có lũ đột ngột và hạn lớn nên khai thác giao thông đường sông hiện tại ít có hiệu quả. 3.2. Dịch vụ bưu chính - viễn thông Bưu chính viễn thông có vai trò quan trọng không kém so với giao thông vận tải, bởi lẽ tất cả các hoạt động phục vụ ngành du lịch đều phải sử dụng rất nhiều các dịch vụ viễn thông trong nước và quốc tế như: điện thoại, telex, fax, thư điện tử và Internet để đăng ký chuyến bay, đặt chỗ khách sạn, trao đổi tin tức, thư từ, tài liệu, chuyển phát nhanh bưu phẩm, điện hoa, chuyển tiền dịch 42
  44. vụ viễn thông cho các hội nghị tại khách sạn, hoặc khu du lịch. Đặc biệt, Internet hỗ trợ một cách đắc lực việc quảng bá rộng rãi về du lịch Việt Nam ra thế giới. Rõ ràng, bưu chính viễn thông đã hỗ trợ rất tích cực cho phát triển du lịch ở nước ta trong lúc giao thông còn đang gặp khó khăn. Đến nay, ở hầu hết các nơi có danh lam thắng cảnh, đã có điện thoại cố định, phủ sóng điện thoại di động và kết nối Internet tạo ra một màng lưới thông tin du lịch nối các đơn vị quản lý kinh doanh dịch vụ du lịch với nhau, nối người cung cấp dịch vụ du lịch với khách hàng. Các khách sạn lớn có thể dùng cáp dẫn quang để thực hiện cùng một lúc các dịch vụ: điện thoại, truyền hình ảnh và số liệu chứng từ các hệ thống máy tính đã được đưa vào phục vụ cho hầu hết các dịch vụ: quản lý, thanh toán, dịch vụ vui chơi, giải trí, truyền hình ở các hội nghị lớn của du khách, tất cả những điều kiện này đáp ứng tương xứng với các loại khách sạn từ 3 - 5 sao đạt tiêu chuẩn quốc tế. Mặc dù ngành viễn thông được đánh giá là được đầu tư những công nghệ thuộc loại tiên tiến nhất nhưng do thiếu các điều kiện đồng bộ khác, chất lượng dịch vụ chưa cao: tốc độ đường truyền Internet thấp và giá cước dịch vụ còn cao. Gần đây dư luận đang tranh cãi về việc loại dịch vụ điện thoại thẻ Internet có cước phí chỉ bằng 1000 đồng/ 1 phút liên lạc từ Việt Nam ra nước ngoài vẫn chưa được chính phủ cho phép khai thác (theo vnexpress.net ngày 15/04/2003) 4. Một số thành tựu cơ bản của ngành du lịch 4.1. Giữ được nhịp độ tăng trưởng khá đối với các chỉ tiêu cơ bản về khách du lịch, thu nhập, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và việc làm Từ năm 1991 đến năm 2002, khách du lịch khách quốc tế tăng trên 8,6 lần, từ 300 nghìn lượt lên 2,6 triệu lượt; khách du lịch nội địa cũng tăng trên 7,45 lần, từ 1,5 triệu lượt lên 11,18 triệu lượt. Đây là mức tăng trưởng khá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thu nhập xã hội từ du lịch cũng tăng với tốc độ đáng kể, đạt mức trung bình mỗi năm trên 25%/năm, năm 1991 là 2.249 tỷ đồng, đến năm 2002 đạt xấp xỉ 21.630 tỷ đồng. 43
  45. Để đáp ứng nhu cầu du lịch ngày càng tăng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, đặc biệt là cơ sở lưu trú, cũng phát triển nhanh. Năm 1991 cả nước mới có hơn 11,4 nghìn phòng khách sạn thì đến năm 2002 đã có 72,5 nghìn phòng. Nhiều khách sạn cao cấp được xây dựng làm thay đổi cơ bản diện mạo của hệ thống khách sạn Việt Nam, đáp ứng nhu cầu lưu trú và tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế lớn. Một số khu du lịch, cơ sở vui chơi giải trí, thể thao, sân golf đã được đưa vào hoạt động, đáp ứng một phần nhu cầu của khách du lịch và nhân dân địa phương. Song song với việc nâng cấp, phát triển hệ thống giao thông đường bộ, đường không, đường sắt và cảng biển, phương tiện vận chuyển khách du lịch chuyên ngành tăng cả số lượng và chất lượng, góp phần nâng cao năng lực vận chuyển khách. Du lịch là ngành thu hút nhiều vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Đến năm 2000, đã có 194 dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào ngành du lịch được cấp phép, với tổng vốn đăng ký là 5,78 tỷ USD. Du lịch phát triển đã góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế, xã hội phát triển, tăng tỷ trọng dịch vụ du lịch trong tổng thu nhập quốc dân; khôi phục nhiều ngành nghề, lễ hội truyền thống ở một số nơi, du lịch đã làm thay đổi cơ bản diện mạo đô thị, nông thôn và đời sống cộng đồng dân cư. Những hiệu quả trên lại tác động tích cực thúc đẩy toàn xã hội tham gia vào sự nghiệp phát triển du lịch, tạo nhiều việc làm mới, góp phần tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo. 4.2. Chính sách và công tác quản lý ngành có nhiều chuyển biến tích cực Cơ chế chính sách về du lịch được bổ sung, bộ máy quản lý Nhà nước, hệ thống kinh doanh cho du lịch được kiện toàn và sắp xếp lại một bước, hoạt động thích nghi dần với cơ chế mới. Pháp lệnh Du lịch và nhiều văn bản quy phạm pháp luật về du lịch, liên quan đến du lịch được ban hành hoặc được điều chỉnh, sửa đổi phù hợp với điều kiện thực tế, nâng cao hiệu lực thực hiện. Bộ máy quản lý nhà nước về du lịch được kiện toàn dần; Tổng cục Du lịch là cơ quan trực thuộc Chính phủ cùng 61 Sở du lịch ở 61 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương 44
  46. đang từng bước vươn lên thực hiện chức năng quản lý nhà nước về du lịch trên phạm vi cả nước và từng địa phương. Nhận thức về du lịch trong các cấp, các ngành và toàn xã hội chuyển biến tích cực, tạo thuận lợi cho du lịch phát triển theo định hướng của Nhà nước. Một số địa phương đã xác định là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo Nhà nước về du lịch, do Phó Thủ tướng là Trưởng ban, để chỉ đạo, phối hợp hoạt động của các bộ, ngành địa phương đẩy mạnh sự nghiệp phát triển du lịch của đất nước. Hệ thống kinh doanh du lịch với 108 doanh nghiệp lữ hành quốc tế, khoảng 500 doanh nghiệp lữ hành nội địa, trên 3.000 khách sạn và hàng nghìn hộ kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đang được sắp xếp lại. Hệ thống cơ sở lưu trú du lịch được phân loại và xếp hạng với trên 460 khách sạn được xếp hạng từ 1- 5 sao, góp phần tăng cường các dịch vụ lữ hành, hướng dẫn, lưu trú và vận chuyển khách du lịch. 4.3. Công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ đã được chú trọng Cơ sở đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch có những bước phát triển. Cả nước hiện có 46 trường và trung tâm dạy nghề du lịch. Trong đó có 24 trường đại học và cao đẳng có khoa du lịch hoặc tổ bộ môn chuyên ngành du lịch và 22 trường trung học chuyên nghiệp và trung tâm dạy nghề du lịch. Tuy cơ sở vật chất kỹ thuật, lực lượng giáo viên chưa đáp ứng nhu cầu, song công tác đào tạo, bồi dưỡng đã có những chuyển biến quan trọng, góp phần tích cực trong đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành. Công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ đã được chú trọng. Nhiều đề tài khoa học cấp nhà nước, cấp ngành đã được triển khai tập trung vào các vấn đề bức xúc của ngành mang tính ứng dụng thực tiễn cho sự phát triển du lịch, góp phần tích cực phục vụ Du lịch Việt Nam hội nhập du lịch khu vực và thế giới. 45
  47. 4.4. Công tác hợp tác quốc tế và xúc tiến quảng bá du lịch đã được tăng cường Ngành du lịch đã có nhiều nỗ lực tranh thủ khai thác các nguồn lực bên ngoài, tăng cường hội nhập khu vực và thế giới, thiết lập quan hệ và mở rộng hợp tác với nhiều tổ chức du lịch quốc tế như Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO), Hiệp hội Du lịch Châu Á- Thái Bình Dương (PATA), Hiệp hội Du lịch ASEAN; Tham gia tích cực và chương trình phát triển du lịch tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng; hợp tác hành lang Đông- Tây; Hợp tác du lịch Sông Mê Kông - Sông Hằng ,đã ký hiệp định hợp tác du lịch với 18 nước, có quan hệ bạn hàng với 1.000 hãng của hơn 60 nước và vùng lãnh thổ. Hoạt động hợp tác quốc tế mang lại hiệu quả thíêt thực: tranh thủ được vốn, kinh nghịêm, công nghệ, nguồn khách, đẩy mạnh xúc tiến du lịch và hội nhập quốc tế góp phần nâng cao hình ảnh và vị thế của Du lịch Việt Nam, tạo thêm nguồn lực để phát triển và đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế đối ngoại. Công tác xúc tiến, tiếp thị ngày càng được quan tâm. Tổng cục Du lịch đã tổ chức nhiều hội thảo, hội nghị và diễn đàn du lịch quốc tế ở Việt Nam và tham dự các hội nghị, hội thảo, hội chợ, triển lãm về du lịch ở nước ngoài, phát hành nhiều xuất bản phẩm, ấn phẩm tuyên truyền, quảng bá, quảng cáo sách hướng dẫn, phim Video và đĩa CD-Rom, nối mạng Internet giới thiệu về đất nước, con người và Du lịch Việt Nam, tranh thủ các hãng tàu biển, hàng không và lữ hành nước ngoài, các tổ chức quốc tế đưa thông tin du lịch Việt Nam đến các nước trên thế giới. Các hoạt động đối ngoại và thông tin đối ngoại của Nhà nước và các cấp, các ngành tạo thêm những cơ hội và điều kiện cho xúc tiến quảng bá du lịch, hình thành và nâng cao hình ảnh, vị thế của Du lịch Việt Nam. Như vậy, trong 40 năm hình thành và phát triển, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, được sự quan tâm của Nhà nước, sự phối hợp của các cấp, các ngành, sự hưởng ứng của nhân dân, sự giúp đỡ, hỗ trợ quốc tế và nỗ lực của toàn ngành, Du lịch Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách với du lịch các nước trong khu vực, trở thành ngành kinh tế quan trọng 46
  48. trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, góp phần tích cực vào quá trình đổi mới, hội nhập khu vực và thế giới của đất nước. 5. Những yếu kém tồn tại và nguyên nhân 5.1. Những yếu kém tồn tại Tuy đạt được những thành tựu như trên, Du lịch Việt Nam còn có những khó khăn, hạn chế cả về chủ quan lẫn khách quan, nên phát triển chưa ổn định, thiếu bền vững, hiệu quả chưa tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước. a. Cơ sở vật chất không đồng bộ và chất lượng sản phẩm còn thấp Cho đến nay, ta vẫn chưa có những cơ sở vui chơi giải trí, khu du lịch tầm cỡ gắn với danh lam thắng cảnh như ở nhiều nước trên thế giới và khu vực, số lượng vốn cần huy động vào lĩnh vực này rất lớn trong khi năng lực huy động vốn của ta còn bị hạn chế. Chính sách khuyến khích động viên các thành phần kinh tế tự xây dựng cuộc sống vật chất chưa thích hợp. Bên cạnh đó, nguồn vốn còn hạn hẹp, đưa đến việc nâng cấp, xây dựng mới, duy tu, bảo dưỡng, tôn tạo thường chắp vá, manh mún; Hiện tượng đầu tư tràn lan không tập trung trọng điểm chưa chấm dứt hoàn toàn, cơ sở hạ tầng, giao thông quá kém nên việc vận chuyển du khách còn chiếm tỷ lệ thời gian lớn, ảnh hưởng đến thời gian nghỉ, tham quan không phù hợp với tâm lý yêu cầu của du khách. Sản phẩm du lịch Việt Nam chưa đa dạng, chất lượng chưa đáp ứng tốt yêu cầu của du khách, chưa khai thác được cảnh quan môi trường và các giá trị văn hoá độc đáo của dân tộc, bỏ lỡ nhiều cơ hội thuận lợi khai thác nguồn du khách từ nước ngoài. b. Công tác hợp tác quốc tế và quảng bá tiếp thị còn bộc lộ nhiều hạn chế 47
  49. Ngành du lịch Việt Nam chưa chủ động trong hợp tác quốc tế, việc tham gia vào thị trường du lịch quốc tế còn manh mún, tự phát chưa mang tầm quốc gia, chưa nắm bắt được xu thế vận động của từng loại thị trường. Công tác quảng bá và nghiên cứu thị trường về du lịch đã được quan tâm và đã mang lại những kết quả tích cực ban đầu, nhưng trước tình hình thế giới biến động phức tạp như hiện nay thì công tác này cần phải có những giải pháp mang tính cập nhật hơn. Theo ông Jan Hilhorts, Tổng Giám đốc khách sạn Horison phát biểu trong cuộc họp của các nhà đầu tư Âu và Mỹ tại Hà Nội vào ngày 16/04/2003 thì thông tin về các festival văn hoá ở Việt Nam đã không đến được các hãng lữ hành trên thế giới, đặc biệt là các hãng lữ hành nhỏ ở các thành phố, thị trấn nhỏ của các nước và Việt Nam nên học In-đô-nê-xia trong việc quảng cáo toàn cầu để thu hút khách trở lại sau vụ khủng bố tại Bali, nhằm thu hút khách du lịch sau khi dịch SARS qua đi. c. Công tác quản lý nhà nước, quản lý kinh doanh du lịch còn nhiều bất cập Một số cơ chế, chính sách như: cổ phần hoá, quản lý liên ngành ban hành "Luật du lịch" chậm được nghiên cứu, khi đã có chính sách thì lại chậm triển khai, như việc làm thủ tục để chuyển các nhà khách, nhà nghỉ sang kinh doanh, quy chế quản lý karaoke, vũ trường, massage, xông hơi, các tệ nạn ăn xin, trộm cắp, bán hàng rong ở các nơi du lịch, nhiều hiện tượng không phù hợp với yêu cầu văn minh du lịch vẫn tồn tại. Đó là hậu quả của sự thiếu đồng bộ trong việc phối hợp hành động giữa du lịch và các ngành nội vụ, văn hoá thông tin và chính quyền các cấp. Tình trạng lộn xộn trong hoạt động quản lý du lịch, kinh doanh lữ hành, khách sạn vẫn chưa được chấm dứt. Việc bảo vệ môi trường nhằm phát triển lâu dài du lịch "xanh" và "sạch" ở nước ta nhiều vấn đề cấp thiết đang đặt ra, cần phải giải quyết nhằm đáp ứng yêu cầu của hoạt động du lịch. Đối với công tác quy hoạch du lịch cụ thể và chi tiết ở một số địa phương, phần do khối lượng việc nhiều, đội ngũ cán bộ thiếu và yếu, kinh phí lại ít, thời gian lại gấp, nên việc triển khai chậm, ngay việc quỹ đất đai để thực hiện quy hoạch du lịch ở một số địa phương cũng đang gặp khó khăn. 48
  50. Việc kết phối hợp giữa các ngành có liên quan tới phát triển du lịch, giữa các ngành với lãnh thổ chưa làm được thường xuyên, thiếu đồng bộ. Do vậy, chưa tập hợp nhiều nguồn lực cùng hướng vào một mục tiêu phát triển nhanh du lịch cả về số lượng và chất lượng nhất là đối với việc thực hiện quy hoạch tổng thể về du lịch Việt Nam, nếu không có sự kết hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa các ngành với du lịch thì khó có thể thực hiện được theo mục tiêu trong quy hoạch tổng thể về du lịch ở nước ta. d. Còn nhiều vấn đề về chất lượng lao động trong ngành du lịch Đội ngũ cán bộ có sự trưởng thành về số lượng, nhưng cơ cấu chưa hợp lý và chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu nhịêm vụ. Cán bộ làm công tác quản lý lữ hành, khách sạn, marketing, hướng dẫn viên, lễ tân, vừa thiếu lại vừa yếu, số lao động có trình độ nghiệp vụ, ngoại ngữ yếu chiếm tỷ trọng khá lớn. Vì vậy nhu cầu đào tạo rất lớn và cấp bách. Công tác nghiên cứu khoa học, xây dựng cơ chế, chính sách, ứng dụng triển khai các kết quả nghiên cứu khoa học còn bất cập, lực lượng khoa học kỹ thuật mỏng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác nghiên cứu còn hạn rất chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Việc đổi mới nội dung đào tạo cán bộ du lịch theo chuẩn quốc tế là một yêu cầu rất cần thiết, nhưng nội dung chương trình và điều kiện vật chất chưa đáp ứng. Do vậy, một lúc phải giải quyết cả về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, kết hợp với việc tiếp tục sắp xếp bộ máy quản lý du lịch thật sự khoa học. Đó cũng là những biện pháp hữu hiệu để đẩy nhanh quá trình phát triển du lịch ở nước ta. Tuy nhiên, việc kiện toàn sắp xếp bộ máy cán bộ từ Tổng cục Du lịch đến cơ sở mấy năm qua đã tích cực thực hiện, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu mới. 5.2. Nguyên nhân dẫn đến yếu kém tồn tại Tình hình yếu kém tồn tại trên do điểm xuất phát của nền kinh tế nước ta thấp, ngành du lịch đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển. Sau khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, rất nhiều quốc gia tập trung phát triển du lịch, dùng du 49
  51. lịch làm cứu cánh cho nền kinh tế (trường hợp Thái Lan, Xinh-ga-po); Trung Quốc đẩy mạnh phát triển du lịch, phấn đấu đứng vào vị trí hàng đầu du lịch thế giới vào đầu thế kỷ 21. Các nước này có chính sách phát triển du lịch hấp dẫn hơn, tạo cạnh tranh lớn hơn cho du lịch nước ta. Những khó khăn đó tác động khách quan và ảnh hưởng không thuận đến sự phát triển du lịch của nước ta. Tuy nhiên, những yếu kém tồn tại hiện nay chủ yếu do những nguyên nhân chủ quan. a. Nguyên nhân về quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển du lịch Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển dụ lịch Việt Nam thời kỳ 1995 - 2010, nhưng những biện pháp đảm bảo triển khai thực hiện chưa đồng bộ, nên các mục tiêu cụ thể chưa đủ điều kiện để thực hiện. Công tác quản lý quy hoạch chưa tốt. Nhiều nơi được xác định để xây dựng các điểm, khu du lịch bị khai thác chen lấn hoặc dùng vào mục đích khác. Việc xây dựng các công trình, kể cả công trình du lịch, ở nhiều điểm, khu du lịch còn tuỳ tiện, chắp vá, trùng lặp do nhiều chủ sở hữu, chủ quản lý khai thác khác nhau phối hợp trong đầu tư du lịch chưa chặt chẽ, chưa kịp thời điều chỉnh, xác định lại trọng tâm, trọng điểm nên còn dàn trải, thiếu dứt điểm, không tạo ra sản phẩm theo tiến độ và mục tiêu quy hoạch. Đầu tư cho du lịch chưa được chú trọng. Về cơ cấu đầu tư, mới chú trọng phát triển khách sạn, nhà hàng, chưa quan tâm nhiều đến đầu tư xây dựng cơ sở vui chơi giải trí, các khu, điểm du lịch, nhất là các khu du lịch có tầm cỡ quốc tế với vai trò hạt nhân thu hút khách và liên kết các điểm du lịch. Đầu tư kết cấu hạ tầng du lịch chưa được quan tâm đúng mức. Đầu tư cho xúc tiến quảng bá du lịch chưa được nhận thức đúng trong các cấp các ngành, còn lẫn với quảng cáo, nên chưa được chú ý quan tâm giải quyết cấp kinh phí để hoạt động và xây dựng cơ chế tạo nguồn kinh phí và phối hợp lực lượng trong các chiến dịch quảng bá về đất nước, con người và du lịch Việt Nam, cũng như việc đặt văn phòng đại diện Du lịch Việt Nam ở nước ngoài. 50
  52. b. Nguyên nhân về bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ, nhân viên Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch chưa đặt ngang tầm nhiệm vụ chính trị cả về quy mô, năng lực và quyền hạn. Bộ máy Tổng cục Du lịch hiện nay chưa tương xứng với nhiệm vụ phát triển du lịch. Các Sở du lịch, do việc thực hiện thu gọn đầu mối trong cải cách hành chính, nên vừa qua đã có phương án sáp nhập ở một số địa phương. Đội ngũ cán bộ của ngành Du lịch tăng về số lượng, chủ yếu ở các doanh nghiệp, nhưng cơ cấu thiếu hợp lý và chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công tác đào tạo bồi dưỡng tuy đã có nhiều cố gắng song vì nhu cầu quá lớn, trong một thời gian ngắn chưa kịp chuẩn bị đồng bộ về mạng lưới đào tạo, nhất là đạo tạo nghề, về cơ sở vật chất kỹ thuật, về chương trình đào tạo và đội ngũ giáo viên, nên chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo mới và đào tạo lại cho đội ngũ lao động trong ngành. Tình trạng quá nhiều trung tâm, cơ sở bung ra đào tạo du lịch nhưng chất lượng thấp. c. Nguyên nhân về cơ chế, chính sách Một số cơ chế, chính sách về du lịch, văn bản quy phạm pháp luật, thủ tục liên quan đến du lịch chậm được nghiên cứu, giải quyết hoặc triển khai thiếu đồng bộ ở các ngành và địa phương, kết quả thấp, lại chưa thường xuyên được kiểm tra, tổng kết rút kinh nghiệm, thể hiện rõ trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch, bố trí vốn và cơ cấu đầu tư, xây dựng cơ chế quản lý và cơ chế tài chính ngành Du lịch, quy định của Ngân hàng phục vụ hoạt động tiền tệ trong du lịch. Chưa có chính sách ưu tiên huy động nguồn lực, nhất là nội lực, để phát triển du lịch. Thống kê du lịch liên quan đến nhiều ngành, hiện nay là khâu yếu, ảnh hưởng rất lớn đến đánh giá, điều hành hoạt động du lịch cả nước và công tác dự báo. d. Sự phối kết hợp liên ngành, địa phương 51
  53. Sự phối kết hợp liên ngành, địa phương chưa đồng bộ, chưa thường xuyên và chặt chẽ cả trong nhận thức, quan điểm và hành động để tạo ra môi trường du lịch thuận lợi, trật tự, vệ sinh, an toàn, văn minh và lịch sự. Thông qua sự điều phối của Ban Chỉ dạo Nhà nước về du lịch, phối hợp liên ngành tuy đã được cải thiện, nhưng các cấp, các ngành chưa thực sự coi sự nghiệp phát triển du lịch là một trong những trách nhiệm của mình; sự phối kết hợp chưa thật tốt, chưa đủ để đáp ứng yêu cầu của hoạt động du lịch mang tính lên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao. 52
  54. CHƯƠNG III TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010 I. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM 1. Triển vọng phát triển du lịch trên thế giới và khu vực Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, du lịch trên phạm vi toàn cầu đã phát triển nhanh với tốc độ tăng trưởng bình quân về khách 6,93%/ năm, về thu nhập 11,8%/ năm và trở thành một trong những ngành kinh tế hàng đầu trong nền kinh tế thế giới. WTO dự báo, năm 2010 lượng khách du lịch quốc tế trên toàn thế giới ước lên tới 1.006 triệu lượt khách, thu nhập từ du lịch đạt 900 tỷ USD và ngành du lịch sẽ tạo thêm khoảng 150 triệu chỗ làm việc, chủ yếu tập trung ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Trong quá trình phát triển, du lịch thế giới đã hình thành các khu vực lãnh thổ với các thị phần khách du lịch quốc tế khác nhau. Năm 2000, Châu Âu là khu vực đứng đầu với 57,8% thị phần khách du lịch quốc tế. Theo dự báo của WTO, đến năm 2010 thị phần đón khách du lịch quốc tế của khu vực Đông Á - Thái Bình Dương đạt 22,8% thị trường toàn thế giới, sẽ vượt Châu Mỹ, trở thành khu vực đứng thứ 2 sau Châu Âu, và đến năm 2020 sẽ là 27,34%. Trong khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, du lịch các nước ASEAN có vị trí quan trọng, chiếm khoảng 34% lượng khách và 38% thu nhập du lịch của toàn khu vực. Theo dự báo của WTO, năm 2010 lượng khách quốc tế đến ASEAN là 72 triệu lượt, với mức tăng trưởng bình quân giai đoạn 1995 - 2010 là 6%, so với 1 - 2% của thời kỳ 1998 - 2000 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực. Là quốc gia nằm ở trung tâm khu vực khu vực Đông Nam Á, sự phát triển của du lịch Việt Nam không nằm ngoài xu thế phát triển chung của du lịch khu 53
  55. vực. Bên cạnh đó, do lợi thế so sánh về vị trí địa lý kinh tế - chính trị và tài nguyên, Du lịch Việt Nam sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để tăng cường phát triển trong xu thế hội nhập của khu vực và thế giới. 2. Những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển du lịch Việt Nam Trong những năm qua sự nghiệp đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng: Tình hình chính trị - xã hội tương đối ổn định; quan hệ đối ngoại và việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được mở rộng và thu nhiều kết quả tốt; kinh tế tiếp tục phát triển và duy trì được nhịp độ tăng trưởng khá, bình quân 6,94% năm trong thời kỳ 1996 - 2000, đạt 7,05% năm 2002. 2.1. Thuận lợi và cơ hội phát triển Trong thế kỷ 21, tình hình thế giới sẽ có những biến đổi sâu sắc với những bước nhảy vọt chưa từng thấy về khoa học công nghệ. Kinh tế tri thức sẽ có vai trò ngày càng nổi bật trong phát triển lực lượng sản xuất. Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan, ngày càng có nhiều nước tham gia. Hoà bình, hợp tác, phát triển vẫn là một xu thế lớn phản ánh nguyện vọng và đòi hỏi của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Trong bối cảnh đó, nhu cầu du lịch tăng mạnh, du lịch thế giới phát triển nhanh với xu thế chuyển dần sang khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á. Đây thực sự là một cơ hội tốt tạo đà cho Du lịch Việt Nam phát triển. Chính sách đổi mới, mở cửa, hội nhập của Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lơị cho kinh tế đối ngoại, trong đó có du lịch, phát triển. Nhà nước quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao sự nghiệp phát triển du lịch của đất nước. Du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đất nước, con người Việt Nam đẹp và mến khách; Việt Nam có chế độ chính trị ổn định, an ninh đảm bảo, là điểm du lịch còn mới trên bản đồ du lịch thế giới với tiềm năng tài nguyên du lịch đa dạng và phong phú là điều kiện đặc biệt quan trọng để du lịch phát triển. 54
  56. Hệ thống pháp luật được hoàn thiện dần: Pháp lệnh du lịch đã được ban hành tạo cơ sở pháp lý trực tiếp, toàn diện hơn cho hoạt động du lịch. Nhiều văn bản pháp luật liên quan đến du lịch được ban hành, sửa đổi, bổ sung, tạo hành lang pháp lý cho du lịch phát triển. Ban chỉ đạo Nhà nước về du lịch đã được thành lập, phối hợp các hoạt động du lịch giữa các cấp, các ngành, giải quyết kịp thời vướng mắc trong hoạt động liên ngành và các vấn đề liên quan đến phát triển du lịch. Chương trình hành động quốc gia về du lịch và các sự kiện du lịch Việt Nam năm 2000 được triển khai kết quả tạo tiền đề và chuyển biến về vật chất trên diện rộng cho du lịch Viêt Nam bước vào thế kỷ 21. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội của đất nước được đầu tư xây dựng mới và nâng cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác các tiềm năng du lịch to lớn của đất nước, tăng khả năng giao lưu giữa các vùng và phat triển các tuyến, điểm tham quan du lịch. Đời sống nhân dân được cải thiện, nhu cầu du lịch nội địa tăng nhanh. 2.2. Những khó khăn và thách thức a. Những khó khăn và thách thức chủ yếu Bên cạnh những cơ hội, những điều kiện thuận lợi, Du lịch Việt Nam đang phải đối mặt với không ít những khó khăn và thách thức. Cạnh tranh du lịch trong khu vực và thế giới ngày càng gay gắt. Trong khi đó khả năng cạnh tranh của Du lịch Việt Nam còn rất hạn chế. Trong phát triển du lịch toàn cầu, Du lịch Việt Nam cũng cần phải tính đến những biến động khó lường của khủng hoảng tài chính, năng lượng, thiên tai, của chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, dịch bệnh. Du lịch Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển, điểm xuất phát quá thấp so với du lịch của một số nước trong khu vực. Hoạt động du lịch còn chủ yếu dựa vào tự nhiên, chưa được tôn tạo thông qua bàn tay con người. Kinh nghiệm quản lý, kinh doanh và trình độ nghịêp vụ của đội ngũ cán bộ, lao động 55
  57. trong ngành còn nhiều bất cập. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch còn yếu kém, thiếu đồng bộ. Tài nguyên du lịch và môi trường đang có sự suy giảm do có sự khai thác, sử dụng thiếu hợp lý cũng như do những tác động của thiên tai ngày càng tăng, diễn ra ở nhiều vùng, nhiều địa phương trong nước. Vốn đầu tư phát triển du lịch rất thiếu, trong khi đó đầu tư lại chưa đồng bộ, kém hiệu quả đang là một thách thức không nhỏ đối với sự phát triển ngành du lịch. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của nước ta cũng như mức sống của người dân nhìn chung còn thấp, ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu đối với phát triển du lịch. Trong nhiều năm qua, Nhà nước có nhiều chính sách để phát triển cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, hệ thống cơ sở hạ tầng hiện nay còn yếu kém, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển của các ngành kinh tế, trong đó có du lịch, hạn chế khả năng tiếp cận, phát triển và khai thác các tuyến, điểm du lịch giàu tiềm năng ở các vùng núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa. Nhận thức xã hội về du lịch vẫn còn bất cập. Hệ thống các chính sách, quy định pháp luật liên quan đến phát triển du lịch còn chưa đầy đủ, đồng bộ. b. Những tác động tiêu cực của bệnh dịch SARS Hiện nay nền kinh tế thế giới nói chung và ngành du lịch thế giới đang phải chịu những tác động tiêu cực của dịch bệnh SARS (triệu chứng viêm đường hô hấp cấp) bùng phát từ đầu tháng 3/2003 tại Châu Á (Trung Quốc, Xinh-ga-po và Việt Nam) và Ca-na-đa. 3. Chiến lược phát triển Du lịch đến năm 2010 Nhận thức được xu thế phát triển của ngành Du lịch trong bối cảnh quốc tế và trong nước hiện nay, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng xác định phát triển Du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn và ngày 22/7/2002, Thủ 56
  58. tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 97/2002/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam 2001 - 2010. 3.1. Mục tiêu phát triển du lịch Phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác có hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa lịch sử, huy động tối đa nguồn lực trong nước và tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ của khu vực, phấn đấu sau năm 2010, Du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành Du lịch phát triển trong khu vực. Đó là mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam 2001 - 2010. Nhằm đạt được mục tiêu trên, các mục tiêu cụ thể của chiến lược đặt ra là: a. Về kinh tế Tối ưu hoá sự đóng góp của ngành du lịch vào thu nhập quốc dân, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, việc làm và cán cân thanh toán bằng cách tạo ra một môi trường kinh tế thuận lợi cho sự phát triển của Ngành sao cho vào thập kỷ đầu của thế kỷ 21 du lịch trở thành một ngành công nghiệp tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước (Nghị quyết Trung ương VII). Các chỉ tiêu tăng trưởng: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP của ngành du lịch bình quân thời kỳ 2001 - 2010 đạt 11 - 11,5%/năm, với các chỉ tiêu cụ thể: - Năm 2005: Khách quốc tế vào \/iệt Nam du lịch từ 3 đến 3,5 triệu lượt người, khách nội địa từ 15 đến 16 triệu lượt người, thu nhập du lịch đạt trên 2 tỷ USD; - Năm 2010: Khách quốc tế vào Việt Nam du lịch từ 5,5 đến 6 triệu lượt người, khách nội địa từ 25 đến 26 triệu lượt người thu nhập du lịch đạt 4 đến 4,5 tỷ USD. 57
  59. b. Về môi trường Quy hoạch tổ chức du lịch gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái bền vững, từ đó đặt ra các kế hoạch và cơ chế quản lý phù hợp với việc tôn tạo, khai thác các di sản thiên nhiên, môi trường. c. Về văn hoá - xã hội Quy hoạch du lịch phải gắn liền với việc giữ gìn phát huy truyền thống văn hoá, nhân phẩm của con người Việt Nam đồng thời khai thác các di sản văn hoá nghệ thuật có giá trị, giàu bản sắc dân tộc, các di tích lịch sử, công trình văn hoá nổi tiếng, nâng cao các tiêu chuẩn của ngành, tiếp thu các chọn lọc kinh nghiệm phát triển của du lịch và văn hoá có chất lượng cao của cả nước để đa dạng hoá các sản phẩm du lịch Việt Nam. Song song với việc phát triển du lịch quốc tế, đẩy mạnh phát triển du lịch trong nước nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại, thăm viếng, tham quan du lịch của nhân dân, kết hợp giữa các tổ chức Nhà nước với khu vực tư nhân, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân các địa phương, đặc biệt các vùng xa xôi hẻo lánh, vùng đồng bào các dân tộc ít người. Quy hoạch du lịch phải đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. 3.2. Nội dung chiến lược phát triển du lịch a. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực và nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ Quan tâm đào tạo lại, đào tạo mới để giải quyết yêu cầu trước mắt cũng như chuẩn bị cho lâu dài, dưới nhiều hình thức tại chỗ, chính quy ở trong nước và nước ngoài. Đối với lĩnh vực khách sạn, nhà hàng, hướng dẫn, quản lý, đào tạo ở cả ba cấp học: sơ cấp, trung cấp, đại học. Xây dựng mô hình đào tạo mới: Trường Khách sạn và Học viện Du lịch Quốc gia. Gắn liền giáo dục, đào tạo du lịch với giáo dục đào tạo quốc gia đồng thời chú trọng giáo dục du lịch toàn dân. 58
  60. Coi trọng và tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo nguồn nhân lực du lịch. Có chính sách đãi ngộ hợp lý để thu hút nhân tài, chuyên gia, nghệ nhân tham gia vào việc phát triển du lịch của đất nước. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ phát triển du lịch; chú trọng đúng mức việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin du lịch Đẩy mạnh công tác nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ du lịch tiên tiến phục vụ phát triển du lịch bền vững b. Chiến lược về sản phẩm  Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm - Tạo sản phẩm du lịch độc đáo: Đặc trưng mang bản sắc dân tộc, đặc biệt là các truyền thống văn hoá, lịch sử, nghệ thuật, những phong tục tập quán để tạo ưu thế cạnh tranh và chiếm lĩnh mở rộng thị trường. Những thị trường then chốt sẽ gửi khách đến Việt Nam là Châu Á - Thái Bình Dương, Tây Âu và Bắc Mỹ - Tạo sản phẩm du lịch chuyên đề: Du lịch bồi dưỡng sức khoẻ, liệu pháp nghỉ biển, du lịch hang động, du lịch chơi golf, thể thao, câu cá, sông nước, du lịch cho người ham thích thủ công mỹ nghệ, làng nghề truyền thống, sinh vật cảnh, lễ hội, sinh hoạt văn hoá truyền thống dân tộc, du lịch hội nghị, festival - Chiến lược tăng trưởng: Bằng cách đa dạng hoá sản phẩm du lịch phù hợp với nhu cầu của thị trường du lịch thế giới. - Chiến lược đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch: Đối với từng vùng du lịch phải có sản phẩm du lịch đặc thù và phải kết hợp với các nước ngoài nhất là các nước trong khu vực và các nước có chung đường biên giới để nối tour du lịch, tạo thêm khả năng tiêu thụ các sản phẩm du lịch Việt Nam.  Nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch Để tăng cường chất lượng dịch vụ du lịch trên cả 3 góc độ: thái độ phục vụ, tính đa dạng, tiện nghi cuả hàng hoá dịch vụ và khả năng sẵn sàng phục vụ. 59
  61. Muốn như vậy phải tổ chức giáo dục du lịch toàn dân, có qui định nghiêm ngặt về dịch vụ, giá cả và ứng dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao công nghệ phục vụ trong các cơ sở du lịch. Việc đưa ra các sản phẩm du lịch cùng với chất lượng các dịch vụ du lịch sẽ liên quan đến vấn đề giá bán các sản phẩm du lịch của Việt Nam trên thị trường du lịch quốc tế. Giá một chuyến đi trọn gói quá cao có thể làm nguy hại đến sự phát triển của sản phẩm. Trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam, giá cả của sản phẩm du lịch cũng phải được coi là một yếu tố cạnh tranh và gần như là một yếu tố quyết định mức độ của tính hấp dẫn.  Giữ gìn tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch, môi trường Có kế hoạch phân vùng chức năng trên địa bàn du lịch lớn để xác định các khu vực cần bảo vệ nguyên vẹn (vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, các danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng), khu quy hoạch dự trữ đất đai, các khu được phục hồi, các khu vực để xây dựng đô thị trong thời gian trung hạn và dài hạn. Xếp hạng di sản văn hoá và khu vực tự nhiên. Xây dựng quy chế xếp hạng và khai thác bảo vệ thắng cảnh. c. Chiến lược về thị trường Khai thác khách từ các thị trường quốc tế ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, Tây Âu, Bắc Mỹ, chú trọng các thị trường ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Pháp, Đức, Anh, kết hợp khai thác các thị trường ở Bắc Á, Bắc Âu, Australia, New Zealand, các nước SNG và Đông Âu. Chú trọng phát triển và khai thác thị trường du lịch nội địa, phát huy tốt nhất lợi thế phát triển du lịch từng địa phương, đáp ứng yêu cầu giao lưu, hội nhập và phù hợp với quy định của Nhà nước. Tạo điều kiện cho nhân dân đi du lịch trong nước và ngoài nước, góp phần nâng cao dân trí, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. d. Chiến lược về đầu tư 60
  62. Đầu tư phát triển du lịch phải kết hợp tốt việc sử dụng nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước với việc khai thác, sử dụng nguồn vốn nước ngoài và huy động nguồn lực trong dân theo phương châm xã hội hóa phát triển du lịch. Thực hiện xã hội hóa trong việc đầu tư, bảo vệ, tôn tạo các di tích, cảnh quan môi trường, các lễ hội, hoạt động văn hóa dân gian, các làng nghề phục vụ phát triển du lịch. Khuyến khích cả nước đầu tư nước ngoài, đầu tư trong nước (cả khu vực nhà nước lẫn tư nhân) theo quy hoạch và có dự án đầu tư cụ thể. Khuyến khích và tạo điều kiện để hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đầu tư du lịch ra nước ngoài. Thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ du lịch với các nước để vừa tranh thủ vốn đầu tư, công nghệ, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý , vừa tiếp tục tạo lập và nâng cao hình ảnh, vị thế của du lịch Việt Nam ở khu vực và trên thế giới.  Các lĩnh vực đầu tư Ưu tiên đầu tư phát triển các khu du lịch tổng hợp quốc gia và các khu du lịch chuyên đề. Kết hợp đầu tư nâng cấp, phát triển các điểm tham quan du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và đầu tư cho tuyên truyền, quảng bá và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch để tạo ra các sản phẩm du lịch hấp dẫn, mang tính đặc thù cho từng vùng du lịch và cả nước.  Khu vực đầu tư - Vùng du lịch Bắc bộ: Gồm các tỉnh từ Hà Giang đến Hà Tĩnh. Hà Nội là trung tâm của vùng và của địa bàn động lực tăng trưởng du lịch Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long. - Vùng du lịch Bắc Trung bộ: Gồm các tỉnh, thành phố từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi. Huế và Đà Nẵng là trung tâm của vùng và địa bàn động lực tăng trưởng du lịch Quảng Trị - Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam. - Vùng du lịch Nam Trung bộ và Nam bộ: Gồm các tỉnh từ Kon Tum đến Cà Mau với hai vùng du lịch Nam Trung bộ và Nam bộ. Trung tâm của vùng là TP. Hồ Chí Minh và các địa bàn tăng trưởng du lịch là: TP. Hồ Chí Minh - Nha 61