Tiểu luận Phân tích mối quan hệ giữa ba hình thái tuần hoàn. Ý nghĩa và định hướng vận dụng

docx 35 trang tranphuong11 27/01/2022 4980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Phân tích mối quan hệ giữa ba hình thái tuần hoàn. Ý nghĩa và định hướng vận dụng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxtieu_luan_phan_tich_moi_quan_he_giua_ba_hinh_thai_tuan_hoan.docx

Nội dung text: Tiểu luận Phân tích mối quan hệ giữa ba hình thái tuần hoàn. Ý nghĩa và định hướng vận dụng

  1. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 2 PHẦN NỘI DUNG 4 I. TUẦN HOÀN CỦA TƯ BẢN 4 1. Khái niệm Tuần hoàn của tư bản 4 2. Ba hình thái tuần hoàn của tư bản 5 2.1. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ 5 2.2. Tuần hoàn của tư bản sản xuất 7 2.3. Tuần hoàn của tư bản hàng hóa 8 II. MỐI QUAN HỆ GIỮA BA HÌNH THÁI TUẦN HOÀN CỦA TƯ BẢN 9 1. Tuần hoàn của tư bản công nghiệp là sự thống nhất của sản xuất và lưu thông 10 2. Sự vận động thống nhất biện chứng của ba hình thái tuần hoàn: 18 3. Điều kiện để tư bản có thể vận động liên tục 26 III. Ý NGHĨA VÀ ĐỊNH HƯỚNG VẬN DỤNG 29 1. Ý nghĩa nghiên cứu về lý luận 29 2. Ý nghĩa thực tiễn: 30 3. Định hướng vận dụng 31 KẾT LUẬN 33 TÀI LIỆU THAM KHẢO 34 1
  2. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ LỜI MỞ ĐẦU Lý luận tuần hoàn của tư bản được C.Mác nghiên cứu trong phần thứ nhất ở quyển II của Bộ Tư bản, với tiêu đề: “Những biến hoá hình thái của tư bản và tuần hoàn của những biến hoá hình thái ấy”. Trong phần này, C.Mác nghiên cứu sự vận động của tư bản cá biệt. Trong sự vận động đó, tư bản lần lượt “mang” những hình thái khác nhau: hình thái tiền; hình thái sản xuất; hình thái hàng hoá mà nó “khoác lấy rồi lần lượt trút bỏ đi trong quá trình lặp lại sự tuần hoàn của nó”1. Đối tượng nghiên cứu của phần này cũng đã được C.Mác đề cập một cách rõ ràng thông qua kết cấu gồm 6 chương. Ba chương đầu nghiên cứu ba hình thái tuần hoàn của tư bản xét một cách riêng biệt. Chương IV tổng hợp lại nghiên cứu sự vận động của tư bản trong sự thống nhất của cả ba hình thái tuần hoàn đó. Ở bốn chương này, C.Mác áp dụng phương pháp trình bày đi từ trừu tượng tới cụ thể, từ phân tích tới tổng hợp. Trong bốn chương đầu: sự vận động của tư bản được phân tích qua các hình thái tuần hoàn, phân tích về mặt logic; chương V và chương VI cũng phân tích sự vận động tuần hoàn của tư bản, nhưng từ một góc độ khác, gần với thực tiễn, phân tích về mặt lịch sử hiện thực. Như vậy, vận động hay tuần hoàn của tư bản được phân tích cả từ góc độ logic và lịch sử. Nghiên cứu mỗi hình thái tư bản, mỗi hình thái tuần hoàn của tư bản một cách độc lập – để làm sáng tỏ đặc điểm, tính chất độc đáo của tư bản trong mỗi giai đoạn, trong mỗi quá trình vận động tuần hoàn của tư bản. Nhưng sau khi nghiên cứu mỗi hình thái của tuần hoàn một cách riêng biệt, phải nghiên cứu tổng hợp cả ba hình thái của tuần hoàn trong mối tương quan, liên hệ lẫn nhau giữa chúng, để tìm ra được đặc điểm chung của các hình thái, vì mỗi hình thái tuần hoàn vừa nêu lên đặc điểm, đặc thù của nó, vừa che giấu đặc điểm, đặc thù của hình thái tuần hoàn khác. Đồng thời, thông qua quá trình tổng hợp, có thể hiểu được một cách toàn diện đặc điểm tuần hoàn của tư bản. Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa ba hình thái tuần hoàn của tư bản có ý 1 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 46 2
  3. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ nghĩa hết sức quan trọng cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, để từ đó có những định hướng vận dụng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh hiện nay. Trong phạm vi tiểu luận học phần Quá trình lưu thông Tư bản chủ nghĩa, học viên thực hiện đề tài tiểu luận với chủ đề: “Phân tích mối quan hệ giữa ba hình thái tuần hoàn. Ý nghĩa và định hướng vận dụng”. 3
  4. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ PHẦN NỘI DUNG I. TUẦN HOÀN CỦA TƯ BẢN 1. Khái niệm Tuần hoàn của tư bản Lý luận tuần hoàn tư bản nghiên cứu hình thái vận động của tư bản, các giai đoạn và các hình thái của tư bản trong quá trình vận động, tức nghiên cứu mặt chất vận động của tư bản. Tuần hoàn của tư bản nghiên cứu sự vận động của tư bản cá biệt. Trong sự vận động của mình, tư bản lần lượt “mang” những hình thái khác nhau, mà nó khác lấy rồi lại trút bỏ đi trong quá trình lặp lại sự tuần hoàn của nó. Sở dĩ, nói tư bản là sự vận động bởi, giá trị tư bản luôn luôn khoác lấy hình thái này, rồi trút bỏ đi để chuyển sang hình thái khác. Nhưng sự vận động của tư bản là sự vận động vòng tròn và liên tục, những vòng tuần hoàn không ngừng nối tiếp nhau. Vì vậy mỗi biến hóa hình thái tư bản có thể vừa là điểm bắt đầu, vừa là điểm giữa, vừa là điểm kết thúc của quá trình vận động liên tục của tư bản và quá trình vận động liên tục của tư bản đều phải trải qua ba hình thái. Đó là sự vận động tuần hoàn của tư bản. Do đó, không những có ba hình thái của tư bản mà còn có ba hình thái tuần hoàn của tư bản (mỗi hình thái tư bản đều vận động tuần hoàn) Ngoài ra, các hình thái tư bản không những nối tiếp nhau, mà còn tồn tại bên cạnh nhau. Trong mỗi doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa, tư bản đồng thời vừa tồn tại dưới hình thái tư bản tiền tệ, vừa dưới hình thái tư bản sản xuất, vừa dưới hình thái tư bản hàng hóa. Tư bản tồn tại dưới các hình thức nói trên đều đang ở trong trạng thái vận động, tức là đang trong quá trình tuần hoàn của nó. Đồng thời, quá trình tuần hoàn của tư bản trải qua ba giai đoạn: hai giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu thông và một giai đoạn thuộc lĩnh vực sản xuất và chúng thống nhất với nhau, trong đó, lĩnh vực sản xuất giữ vai trò quyết định. Trong mỗi giai đoạn, giá trị tư bản đều nằm trong một hình thái đặc thù tương ứng với một chức năng nhất định. Trong sự vận động ấy, giá trị ứng trước không những được bảo tồn, mà còn lớn lên, còn tăng thêm về 4
  5. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ lượng nữa và đến giai đoạn kết thúc, giá trị ứng trước quay trở về chính ngay hình thái ban đầu của nó. Như vậy, tuần hoàn của tư bản là quá trình vận động của tư bản trải qua ba giai đoạn, mang ba hình thái, thực hiện ba chức năng, để rồi quay trở lại điểm xuất phát ban đầu với giá trị không chỉ được bảo tồn mà còn lớn lên 2. Ba hình thái tuần hoàn của tư bản 2.1. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ + Công thức tuần hoàn của tư bản tiền tệ: T - H Sx H' - T' + Đặc điểm của tuần hoàn tư bản tiền tệ : Một là, điểm xuất phát là T và kết thúc là T' nói lên rằng: giá trị trao đổi chứ không phải giá trị sử dụng, là mục đích tự thân quyết định sự vận động. Chính vì vậy, tuần hoàn của tư bản tiền tệ biểu thị một cách rõ rệt nhất: động cơ, mục đích của vận động tư bản là giá trị tăng thêm giá trị, T đẻ ra t. Trong tuần hoàn này, T là phương tiện ứng ra trong lưu thông, T' là mục đích đạt được trong lưu thông, nên hình như lưu thông đẻ ra giá trị lớn hơn; còn sản xuất chỉ là một khâu trung gian không thể tránh được, một "tai vạ" cần thiết để làm ra T. Hai là, trong tuần hoàn này, giai đoạn sản xuất biểu hiện như một thủ đoạn đơn thuần để làm cho giá trị ứng trước tăng thêm giá trị; do đó, làm giàu để làm giàu là mục đích tự thân của việc sản xuất. Ba là, trong tuần hoàn này, việc giá trị đẻ ra giá trị thặng dư (m) không những biểu hiện ra thành điểm đầu và điểm cuối của quá trình, mà còn trực tiếp biểu hiện ra dưới hình thái chói lọi của tiền nữa. Bốn là, tuần hoàn T T' không nói lên rằng: khi tuần hoàn được lặp lại, thì lưu thông của t tách rời lưu thông của T. Vì thế, nếu chúng ta tách riêng một vòng tuần hoàn của tư bản tiền tệ mà xét, thì về mặt hình thức, nó chỉ biểu hiện quá trình tăng thêm giá trị và quá trình tích luỹ mà thôi. Như vậy, quá trình tuần hoàn của tư bản là 5
  6. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ sự thống nhất giữa lưu thông và sản xuất. C.Mác khẳng định: tư bản sinh ra trong lưu thông, đồng thời không sinh ra trong lưu thông. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ là hình thái phiến diện nhất, che giấu nhất quan hệ bóc lột TBCN; đồng thời nó là hình thái nổi bật nhất và đặc trưng nhất trong các hình thái tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Mục tiêu và động cơ của tuần hoàn này: giá trị tăng thêm giá trị, T đẻ ra t trực tiếp bộc lộ ra. Do đó, tuần hoàn của tư bản tiền tệ là hình thái mang những đặc điểm chung của tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Nên nó là chìa khóa để hiểu tuần hoàn của các hình thái khác. Mác viết “Vì vậy, tuần hoàn của tư bản tiền tệ là hình thái phiến diện nhất, và chính do đó mà nó là hình thái nổi bật nhất và đặc trưng nhất trong các hình thái của tuần hoàn của tư bản công nghiệp ; mục tiêu và động cơ của tuần hoàn này – làm tăng thêm giá trị, làm ra tiền và tích lũy tiền – trực tiếp biểu lộ ra trước mắt (mua để bán đắt hơn)” 2. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ chỉ trở thành hình thái đặc thù của tuần hoàn tư bản công nghiệp trong chừng mực một tư bản mới hoạt động được ứng ra lúc ban đầu bằng T, sau đó thu về cũng dưới hình thái T. Mác đưa ra một kết luận: “Chừng nào mà tuần hoàn của tư bản tiền tệ bao giờ cũng bao hàm việc làm cho giá trị ứng trước tăng thêm giá trị, thì tuần hoàn đó bao giờ cũng là biểu hiện chung của tư bản công nghiệp”3. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ có thể là tuần hoàn đầu tiên của một tư bản nhất định, có thể là tuần hoàn cuối cùng, và nó có thể xem là hình thái của tổng tư bản xã hội. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ, mà kết quả là T' = T + t có cái bề ngoài làm người ta dễ bị nhầm lẫn; nó mang một tính chất lừa dối, do chỗ giá trị ứng trước đã tăng thêm, giá trị tồn tại ở đây dưới hình thái ngang giá của nó là T. Tuần hoàn này không nhấn mạnh việc giá trị tăng thêm giá trị như thế nào? mà nhấn mạnh hình thái tiền, một lượng T lớn hơn được rút ra từ lưu thông. Vì vậy, dễ làm người ta lầm lẫn là lưu thông đẻ ra giá trị lớn hơn. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ lặp đi lặp lại không ngừng, thì trong nó đã bao hàm tuần hoàn của hình thái tư bản khác. 2 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 95 3 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 96 6
  7. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ 2.2. Tuần hoàn của tư bản sản xuất + Công thức chung của tuần hoàn tư bản sản xuất: SX H' - T' - H SX + Đặc điểm của tuần hoàn tư bản sản xuất: Một là, phản ánh sự hoạt động lặp đi lặp lại theo chu kỳ của tư bản sản xuất. Hai là, nó chỉ rõ tư bản hàng hóa từ quá trình sản xuất mà ra, là kết quả trực tiếp của sản xuất, còn tư bản tiền tệ là kết quả của việc thực hiện tư bản hàng hóa, đồng thời là phương tiện mua, chuẩn bị các yếu tố cho quá trình sản xuất mới. Nghĩa là, tư bản tiền tệ chỉ làm môi giới cho tư bản hàng hóa chuyển hóa thành tư bản sản xuất. Ba là, tuần hoàn của tư bản sản xuất vạch rõ nguồn gốc của tư bản là quá trình sản xuất mà ra. Nhưng nó không biểu thị việc sản xuất ra m. Dù là SX' hay SX (mở rộng hay giản đơn) kết cục nó cũng chỉ xuất hiện dưới hình thái cần thiết để làm chức năng tư bản sản xuất, thực hiện quá trình tái sản xuất, nó không hề chỉ ra mục đích vận động của tư bản là làm tăng giá trị. Do đó, người ta dễ lầm rằng mục đích của nó chỉ là sản xuất, có trao đổi cũng là trao đổi sản phẩm để sản xuất được liên tục. 2.3. Tuần hoàn của tư bản hàng hóa + Công thức chung của tuần hoàn tư bản hàng hóa: H' - T' - H SX H' + Đặc điểm của tuần hoàn tư bản hàng hóa: Một là, khác với các hình thái tuần hoàn trước, trong tuần hoàn của tư bản hàng hóa: toàn bộ lưu thông với hai giai đoạn của nó mở đầu tuần hoàn. Hai là, khi tuần hoàn I và II lặp lại, thì ngay cả khi những điểm kết thúc T' và SX' là khởi điểm của tuần hoàn mới, người ta cũng không còn thấy hình thái dưới đó T' và SX' đã được sản sinh ra. Còn tuần hoàn III thì điểm xuất phát bao giờ cũng là H', dù là tái sản xuất giản đơn vì tuần hoàn của tư bản hàng hóa không phải bắt đầu đơn thuần bằng một giá trị - tư bản, mà bằng một giá trị - tư bản đã được tăng lên và nằm dưới hình thái H. Do đó, ngay từ đầu nó đã bao hàm tuần hoàn không những của 7
  8. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ giá trị - tư bản dưới hình thái hàng hóa, mà còn bao hàm cả tuần hoàn của m nữa, tức ngay từ đầu nó đã biểu thị là hình thái của sản xuất hàng hóa TBCN Ba là, xuất phát là H', kết thúc cũng là H'. Do đó, đặt ra vấn đề đòi hỏi phải thực hiện H', tức đòi hỏi phải vận động liên tục Bốn là, trong tuần hoàn này - khác với 2 tuần hoàn trước - điểm xuất phát là H' (giá trị - tư bản đã được tăng thêm giá trị), chứ không phải giá trị - tư bản ban đầu còn đang chờ tăng thêm giá trị. Như vậy, ngay từ điểm xuất phát H', nó đã biểu hiện quan hệ TBCN vì ngay từ đầu tuần hoàn đã bao gồm cả tuần hoàn của giá trị - tư bản lẫn tuần hoàn của giá trị thặng dư m Năm là, trong tuần hoàn I và II: điểm kết thúc (T' và SX) là kết quả của sự chuyển hóa hình thái tư bản trước đó. Còn trong tuần hoàn III: H' điểm kết thúc tuần hoàn là kết quả của sự chuyển hóa không những đụng chạm đến hình thái chức năng của tư bản, mà còn đụng chạm cả đến đại lượng giá trị của tư bản nữa. Sự chuyển hóa là kết quả không phải của một sự đổi chỗ thuần tuý có tính chất hình thức thuộc về quá trình lưu thông, mà là kết quả của một sự chuyển hóa hiện thực mà hình thái sử dụng và giá trị của những thành phần hàng hóa của tư bản sản xuất đã trải qua trong quá trình sản xuất. Sáu là, trong tuần hoàn này (H' - T' - H SX H') thì H vừa là điểm xuất phát, vừa là môi giới trung gian, vừa là điểm cuối cùng, điều đó chứng tỏ: sự vận động này không phải là của một tư bản hàng hóa, mà là sự vận động xen kẽ của nhiều tư bản hàng hóa cá biệt, nghĩa là sự vận động của tổng tư bản xã hội: các tư bản cá biệt xen kẽ nhau, làm điều kiện cho nhau. Bảy là, tuần hoàn của tư bản hàng hóa mang tính chất che giấu. Nó là hình thái nổi bật tính liên tục của lưu thông. Song, do quá nhấn mạnh tính liên tục của lưu thông hàng hóa, nên người ta có ấn tượng rằng: hình như tất cả mọi yếu tố cho sản xuất đều do lưu thông hàng hóa mà ra và chỉ gồm có hàng hóa mà thôi. II. MỐI QUAN HỆ GIỮA BA HÌNH THÁI TUẦN HOÀN CỦA TƯ BẢN 8
  9. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ Trên cơ sở phân tích các hình thái, C.Mác đã dành ra chương 4 trong Quyển II của Bộ Tư bản để tổng hợp 3 hình thái tuần hoàn, nhưng ở đây không phải là sự tổng hợp giản đơn, mà là sự thống nhất biện chứng 3 hình thái; đồng thời phát hiện những đặc điểm mới. Mác viết: “Nếu lấy Lt để chỉ tổng quá trình lưu thông, thì ba hình thái của tuần hoàn có thể được trình bày như sau: I) T-H Sx H’-T’ II) Sx Lt Sx III) Lt Sx(H’) Nếu chúng ta xét toàn bộ cả ba hình thái, thì tất cả các tiền đề của quá trình tuần hoàn đều là kết quả của nó, là tiền đề do bản thân nó tạo ra. Mỗi một yếu tố đều là điểm xuất phát, điểm quá độ và là điểm quay trở lại. Toàn bộ quá trình biểu hiện ra thành sự thống nhất của quá trình sản xuất và quá trình lưu thông; quá trình sản xuất trở thành khâu trung gian của quá trình lưu thông và ngược lại”4 1. Tuần hoàn của tư bản công nghiệp là sự thống nhất của sản xuất và lưu thông “Bây giờ chúng ta nghiên cứu toàn bộ vận động T-H SX H’-T’, hay hình thái đầy đủ của nó: SLĐ T- H SX H’(H+h) - T’(T+t) TLSX Ở đây, tư bản là một giá trị thông qua một chuỗi liên tiếp những biến hoá có quan hệ lẫn nhau, quyết định lẫn nhau, một chuỗi những biến hoá hình thái cấu thành cũng một chuỗi thời kỳ hay giai đoạn giống như thế trong tổng quá trình. Trong các giai đoạn đó, có hai giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu thông, còn một giai đoạn nữa thì thuộc 4 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 154 9
  10. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ lĩnh vực sản xuất. Trong mỗi giai đoạn như vậy, giá trị tư bản đều nằm trong một hình thái đặc thù tương ứng với một chức năng đặc thù, đặc biệt”5. Như vậy, sự vận động này trải qua 3 giai đoạn: giai đoạn đầu T - SX và giai đoạn cuối H’- T’ nằm trong lưu thông hàng hoá, còn giai đoạn SX - H’ thuộc lĩnh vực sản xuất hàng hoá TBCN. Cả ba giai đoạn này thống nhất với nhau hay nói cách khác sản xuất và lưu thông thống nhất với nhau: sản xuất làm trung gian cho lưu thông và ngược lại. C.Mác còn viết: “Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành một cách bình thường chừng nào các giai đoạn khác nhau của nó không ngừng chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác. Nếu tư bản ngừng lại trong giai đoạn thứ nhất T- H, thì tư bản tiền tệ sẽ đọng lại thành tiền tích trữ, nếu tư bản ngừng lại trong giai đoạn sản xuất thì một bên, tư liệu sản xuất sẽ nằm im không hoạt động và trong khi đó ở bên kia, sức lao động sẽ không có việc làm, nếu tư bản ngừng lại trong giai đoạn cuối cùng H’- T’, thì hàng hoá không bán được bị chất đống lại sẽ làm nghẽn luồng lưu thông”6. Giai đoạn thứ nhất: giai đoạn mua, là giai đoạn thực hiện hành vi T - H: Trong giai đoạn này, tư bản xuất hiện dưới hình thái tiền, tiền khoác áo tư bản và được gọi là tư bản tiền tệ. Trong hành vi T - H, ngoài chức năng làm phương tiện mua thông thường, tiền còn làm chức năng của tư bản. Nói cách khác hành vi chung của lưu thông hàng hoá trở thành một giai đoạn trong tuần hoàn của tư bản, hay T trở thành tư bản. C.Mác đã viết: “T - H biểu thị việc chuyển hoá hoá món tiền thành một số hàng hoá; đối với người mua, đó là việc chuyển hoá tiền của người ấy thành hàng hoá; đối với người bán, đó là việc chuyển hoá hàng hoá của người ấy thành tiền. Hành vi lưu 5 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 82-83 6 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 83 10
  11. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ thông chung ấy của hàng hoá đồng thời trở thành một giai đoạn hoạt động nhất trong vòng tuần hoàn độc lập của một tư bản cá biệt”7. Sở dĩ C.Mác nói như vậy là vì tiền được sử dụng để mua tư liệu sản xuất và sức lao động với mục đích sản xuất ra giá trị thặng dư. Ở trang 47 Ông viết tiếp: “Nếu chúng ta dùng SLĐ để chỉ sức lao động và TLSX để chỉ tư liệu sản xuất, thì số hàng hoá nhà tư bản mua sẽ biểu thị thành: SLĐ H = SLĐ + TLSX, hay gọn hơn T- H TLSX SLĐ Do đó, xét về nội dung, T- H biểu hiện thành T- H TLSX Như thế có nghĩa là T- H phân thành T - SLĐ và T- TLSX, số tiền T chia làm hai phần, một phần mua SLĐ và một phần mua TLSX” 8. Nghĩa là: bản thân việc mua H, bản thân chức năng lưu thông của T không làm cho T thành tư bản, không làm cho T- H thành một giai đoạn của tuần hoàn tư bản. T chỉ trở thành tư bản, hành vi T- H chỉ trở thành một giai đoạn của tuần hoàn tư bản, khi trong số H mà T mua được phải có một hàng hoá đặc biệt- hàng hoá sức lao động. C.Mác viết: “T- SLĐ là yếu tố đặc trưng trong sự chuyển hoá của tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất, vì đó là điều kiện căn bản để cho giá trị ứng ra dưới hình tháitiền được thực tế chuyển hoá thành tư bản, thành giá trị đẻ ra giá trị thặng dư”9. 7 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 46,47 8 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 47 9 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 51 11
  12. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ SLĐ Như vậy, trong nội dung vật chất của hành vi T- H bao gồm TLSX thì T - SLĐ được coi là đặc trưng tư bản chủ nghĩa. Nhưng T - SLĐ là đặc trưng tư bản chủ nghĩa ở giai đoạn mua: không phải ở chỗ có thể mua được sức lao động bằng T, mà là do quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm cho sức lao động biến thành hàng hoá trước khi dùng T mua được nó, vì khi sức lao động trở thành hàng hoá thì việc mua hàng hoá sức lao động giống như việc mua các hàng hoá khác. Ở đây, không phải bản chất của T đẻ ra mối quan hệ tư bản chủ nghĩa mà trái lại chính sự tồn tại của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mới làm cho T trở thành tư bản. Điều đó có nghĩa rằng, chính trên cơ sở tư liệu sản xuất và sức lao động đã bị tách rời nhau, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, quan hệ giai cấp giữa tư bản và lao động làm thuê đã có, thì T của nhà tư bản ứng ra để thực hiện hành vi T - H mới là tư bản tiền tệ hay nói chính xác hơn là khoác áo tư bản tư bản tiền tệ. Hành vi T - SLĐ là hành vi đặc trưng để T mang quan hệ tư bản chủ nghĩa, tức T- SLĐ là điều kiện để T chuyển hoá thành tư bản. Kết quả của giai đoạn mua, tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất. Giai đoạn thứ hai: giai đoạn sản xuất, thực hiện chức năng của tư bản sản xuất. Kết quả của giai đoạn 1: T - H, là bước đầu của giai đoạn thứ hai: giai đoạn sản xuất. Trong sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa: T - H đã được thực hiện, thì tất yếu phải được bổ sung bằng H’- T’, nhưng trước khi có H’- T’ thì buộc tư bản phải đi vào sản xuất, thì buộc người mua - tức nhà tư bản phải tiêu dùng sản xuất những hàng hoá đã mua được là sức lao động và tư liệu sản xuất. Bởi vì muốn đạt được mục đích của mình, thì nhà tư bản phải phải tiêu dùng những hàng hoá đã mua được để 12
  13. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ sản xuất ra hàng hoá mới có giá trị lớn hơn giá trị các yếu tố sản xuất ra nó. Do đó, tiếp theo giai đoạn một tất yếu phải dẫn đến giai đoạn hai: giai đoạn sản xuất. Ở đây C.Mác đã viết: “Do sự chuyển hoá của tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất, giá trị tư bản mang một hình thái hiện vật trong đó, nó không thể tiếp tục lưu thông được nữa mà phải đi vào tiêu dùng, cụ thể là đi vào tiêu dùng sản xuất. Việc tiêu dùng sức lao động, tức là lao động chỉ có thể thực hiện được trong quá trình lao động thôi Như vậy, kết quả của giai đoạn thứ nhất là bước vào giai đoạn thứ hai, giai đoạn sản xuất của tư bản”10. TLSX Quá trình này được diễn ra như sau: H SX H’ SLĐ Sản xuất nói chung và sản xuất tư bản chủ nghĩa nói riêng bao giờ cũng là quá trình kết hợp hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất. Nhưng tại sao sản xuất ở đây lại là sản xuất tư bản chủ nghĩa và tại sao sản xuất ở đây lại là một giai đoạn của tuần hoàn tư bản? Vì: Thứ nhất, nét đặc trưng tư bản chủ nghĩa ở giai đoạn này là ở chỗ: Trước khi buớc vào sản xuất, hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất tách rời nhau và là những nhân tố trong trạng thái khả năng, muốn sản xuất thì hai yếu tố đó phải được kết hợp với nhau, nhà tư bản đã có công là ứng tư bản của mình ra để thực hiện sự kết hợp hai yếu tố này. Tư bản được ứng ra mua hai yếu tố đó rồi lại kết hợp lại trong các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa. C.Mác viết: “Dù hình thái xã hội của sản xuất là những hình thái nào chăng nữa, thì người lao động và tư liệu sản xuất bao giờ cũng vẫn là những nhân tố của sản xuất. Nhưng chừng nào còn bị tách rời nhau, thì cả hai cũng vẫn chỉ là những nhân tố trong trạng thái khả năng thôi. Nói chung, muốn sản xuất thì hai cái đó phải kết hợp với nhau”11. 10 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 59 11 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 62 13
  14. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ Như vậy tư liệu sản xuất và sức lao động từ chỗ là những yếu tố trôi nổi trên thị trường, chưa phải là tư bản, sau khi kết thúc giai đoạn 1, giờ đây trở thành hình thái tồn tại của giá trị tư bản ứng trước, được phân thành những yếu tố khác nhau của tư bản sản xuất. Quá trình sản xuất ở xã hội tư bản chủ nghĩa đòi hỏi phải có sự vận động của tư bản, chức năng sản xuất ở đây trở thành một chức năng của tư bản- đây chính là tính xã hội đặc thù. “Vậy sức lao động của con người không phải là tư bản do bản chất của nó, cũng giống hệt như tư liệu sản xuất không phải là do bản chất của chúng. Chỉ trong những điều kiện phát triển lịch sử nhất định, thì những tư liệu sản xuất mới có tính xã hội đặc thù ấy”12. Chức năng tư bản sản xuất chính là chức năng tạo tạo ra giá trị thặng dư, vì quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình tiêu dùng tư liệu sản xuất và sức lao động để tạo ra giá trị sử dụng mới và một giá trị mới lớn. Nghĩa là, ở giai đoạn này tiến hành sản xuất không phải là hàng hoá, mà là hàng hoá chứa đựng giá trị thặng dư (m), tức H’ = giá trị tư bản sản xuất + giá trị thặng dư. “Lao động thặng dư của sức lao động là lao động không công cho nhà tư bản, nghĩa là một giá trị mà nhà tư bản không phải trả bằng vật ngang giá. Do đó, sản phẩm không phải chỉ là hàng hoá, mà là một hàng hoá đã mang trong mình một giá trị thặng dư. Giá trị của nó = Sx + Giá trị thặng dư, tức bằng giá trị của tư liệu sản xuất Sx đã tiêu dùng để chế tạo ra nó cộng với giá trị thặng dư do tư bản sản xuất ấy đẻ ra”13. Kết thúc giai đoạn 1: T - H, thì tư liệu sản xuất và sức lao động không còn đơn thuần là các yếu tố của sản xuất, mà chúng đã mang trong mình giá trị tư bản ứng trước, chúng đã trở thành hình thái tư bản sản xuất của tư bản. Thứ hai, tính chất và phương thức kết hợp hai yếu tố sản xuất là cái để phân biệt các thời kỳ kinh tế khác nhau. Trong chủ nghĩa tư bản, phương thức đặc thù kết 12 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 63 13 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 66 14
  15. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ hợp hai yếu tố này do tư bản thực hiện không chỉ là kết quả, mà còn là yêu cầu của sự vận động của tư bản. Trong chủ nghĩa tư bản, sự kết hợp hai yếu tố thực hiện trong tay nhà tư bản với tư cách là hình thái tồn tại có tính chất sản xuất của tư bản của hắn. Vì vậy quá trình sản xuất ở đây trở thành một chức năng của tư bản, trở thành quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, thực hiện một giai đoạn tuần hoàn của tư bản. Vì giá trị tư bản buộc phải đi qua giai đoạn này để T tự lớn lên. “Tính chất và phương thức đặc thù trong việc thực hiện sự kết hợp ấy, chính là cái phân biệt các thời kỳ kinh tế khác nhau của chế độ xã hội. Trong trường hợp đang nghiên cứu, tình trạng người công nhân tự do bị tách khỏi tư liệu sản xuất của anh ta là điểm xuất phát đã cho sẵn trước, và chúng ta đã thấy hai yếu tố ấy kết hợp với nhau trong tay nhà tư bản như thế nào và trong những kinh doanh nào, cụ thể là kết hợp với tư cách là hình thái tồn tại có tính chất sản xuất của tư bản của hắn. Vì vậy, cái quá trình hiện thực trong đó những nhân tố hình thành hàng hoá - nhân tố người và nhân tố vật- kết hợp với nhau như thế, tức là bản thân quá trình sản xuất trở thành một chức năng của tư bản”14. Như vậy khi hoàn thành giai đoạn chuyển hoá này, tiền đã trở thành tư bản thực sự vì nó được rút ra từ sản xuất không những giá trị cũ mà còn thêm giá trị thặng dư với tư cách là con đẻ của nó. Kết quả, kết thúc giai đoạn 2 là tư bản sản xuất chuyển thành tư bản hàng hoá. Giai đoạn thứ ba: giai đoạn bán, trong giai đoạn này nhà tư bản thực hiện hành vi H - T’ Kết thúc giai đoạn thứ hai: giá trị tư bản từ hình thái tư bản sản xuất biến thành hình thái tư bản hàng hoá và tư bản chưa thể ngừng vận động. Bởi vì: cả giá trị tư bản ứng trước lẫn giá trị thặng dư đều đang tồn tại dưới dạng sản phẩm, dưới dạng giá trị sử dụng cần cho người khác, do đó tư bản với tư cách tư bản đang vận động, tất yếu phải tiến hành một giai đoạn biến hoá hình thái nữa, tức chuyển hoá 14 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 62 15
  16. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ giá trị dưới hình thái hàng hoá thành tiền. Nhưng tại sao ở đây lưu thông H trở thành một chức năng của tư bản? H’- T’ trở thành một giai đoạn tuần hoàn của tư bản? Bởi vì: Thứ nhất, giống như mọi hàng hoá, H trong chủ nghĩa tư bản được ném vào lưu thông cũng chỉ thực hiện chức năng thông thường của H là bán để lấy T nhằm thực hiện giá trị H Thứ hai, điểm đặc trưng tư bản chủ nghĩa là ở chỗ, ngoài việc thực hiện giá trị H, chức năng quan trọng hơn của tư bản hàng hoá là thực hiện giá trị thặng dư được tạo ra trong sản xuất. Như vậy, ngay khi vừa mới được sản xuất ra, hàng hoá đã là tư bản hàng hoá với tư cách là hình thái tồn tại chức năng của giá trị tư bản đã tăng thêm giá trị vì ngay sau khi sản xuất, nó đã là H’ có giá trị = giá trị tư bản ứng trước + giá trị thặng dư. “H’ biểu hiện một quan hệ giá trị - quan hệ giữa giá trị của sản phẩm hàng hoá với giá trị của tư bản đã tiêu dùng trong sản xuất ra sản phẩm hàng hoá đó; do đó H’ nói lên rằng giá trị của nó gồm có giá trị của tư bản và giá trị thặng dư”15. Ở đây cần lưu ý, H chỉ có thể làm chức năng tư bản chừng nào mà trước khi đi vào lưu thông, nó đã mang tính chất tư bản, đã có sẵn từ trong quá trình sản xuất. H trở thành H’ là do lượng giá trị của H’ lớn hơn giá trị của tư bản sản xuất (hàng hoá) đã tiêu dùng khi sinh ra nó (H’= H + h). Nên khi tiến hành trao đổi theo nguyên tắc ngang giá thì H’ cũng thu về T’, nghĩa là thu được số t trội hơn số tiền ứng ra ban đầu. Chính chức năng thực hiện giá trị thặng dư này (h - t) đã làm cho hành vi H’- T’ trở thành một giai đoạn của tuần hoàn tư bản. Kết thúc giai đoạn ba: giá trị tư bản từ hình thái tư bản hàng hoá biến hoá thành tư bản tiền tệ. 15 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 66 16
  17. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ Kết thúc một vòng tuần hoàn thì mục đích của vận động tư bản được thực hiện: giá trị tư bản trở lại hình thái ban đầu với số lượng lớn hơn trước. vì vậy, đến đây, tổng hợp quá trình vận động của tư bản trong cả 3 giai đoạn với ba biến hoá hình thái chúng ta có công thức SLĐ T-H SX H’- T’ TLSX Trong công thức này, với tư cách là một giá trị, tư bản đã trải qua một chuỗi biến hoá hình thái có quan hệ với nhau, quy định lẫn nhau. Có bao nhiêu biến hoá hình thái là có bấy nhiêu giai đoạn của quá trình vận động của tư bản. Trong các giai đoạn đó, có hai giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu thông và một giai đoạn thuộc lĩnh vực sản xuất. Trong công thức trên chúng ta thấy có hai hàng hoá khác nhau H và H’, xét về lượng giá trị thì H’ lớn hơn H, lượng giá trị tăng lên đó là do quá trình sản xuất mà ra, còn trong các giai đoạn lưu thông phải có giá trị bằng nhau tồn tại cùng một lúc đối diện với nhau và thay thế lẫn nhau. Nghĩa là, sự biến đổi về đại lượng của giá trị chỉ nằm trong phạm vi biến hoá hình thái của tư bản sản xuất trong giai đoạn sản xuất, tức trong quá trình sản xuất. Bởi vậy, quá trình sản xuất là sự biến hoá hình thái hiện thực của tư bản. Còn trong các giai đoạn lưu thông chỉ là những biến hoá hình thái có tính chất hình thức Qua sự phân tích 3 giai đoạn trên, chúng ta thấy quá trình tuần hoàn của tư bản là sự thống nhất của cả 3 giai đoạn hay là sự thống nhất giữa sản xuất và lưu thông. Nếu chỉ xét hai giai đoạn T - H và H’ - T’ thì lưu thông tư bản là một bộ phận của lưu thông chung của hàng hoá. Nhưng tuần hoàn của tư bản không những thuộc về lĩnh vực lưu thông mà còn thuộc về lĩnh vực sản xuất, nên vòng tuần hoàn của tư bản là sự thống nhất giữa sản xuất và lưu thông. 17
  18. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ “Vậy, quá trình tuần hoàn của tư bản là sự thống nhất giữa lưu thông và sản xuất, nó bao hàm cả hai. Chừng nào mà hai giai đoạn T - H, H’ - T là những hành vi của lưu thông thì lưu thông của tư bản là một bộ phận của lưu thông chung của hàng hoá. Nhưng trong chừng mực chúng là những khâu, những giai đoạn có những chức năng nhất định trong tuần hoàn của tư bản - tuần hoàn không những thuộc về lĩnh vực lưu thông mà còn thuộc về lĩnh vực sản xuất nữa- thì tư bản hoàn thành vòng tuần hoàn của bản thân nó trong lĩnh vực lưu thông chung của hàng hoá”16. 2. Sự vận động thống nhất biện chứng của ba hình thái tuần hoàn: Đây là một quá trình liên tục không ngừng và đứt quãng không ngừng. Bởi lẽ, trong quá trình vận động liên tục không ngừng, bản thân tuần hoàn lại làm cho tư bản phải nằm lại ở mỗi giai đoạn tuần hoàn trong một thời gian nhất định để thực hiện chức năng của mình. T - H SX H' - T' - H SX H' - T' - H SX H' Sự vận động của ba hình thái tuần hoàn có sự kế tục nhau trong thời gian và sắp xếp kề nhau trong không gian hay tồn tại kề nhau trong không gian để được liên tục vận động trong thời gian (sự thống nhất ba hình thái tuần hoàn đòi hỏi 3 tuần hoàn phải tồn tại cùng một thời gian, trong không gian thì xen kẽ nhau): T-H SX H' - T' - H SX H' - T' - H SX T - H SX H' - T' SX H' - T' - H' SX H' - T' - H SX H’ “Cả ba tuần hoàn đều có một điểm chung là: chúng đều lấy việc làm tăng giá trị làm mục đích có tính chất quyết định, làm động cơ” 17. Và tổng tuần hoàn là sự thống nhất hiện thực của ba hình thái tuần hoàn. Nếu xét riêng từng hình thái tuần hoàn, thì mỗi hình thái tuần hoàn chỉ phản ánh hiện thực tư bản chủ nghĩa một cách phiến diện làm nổi bật mặt bản chất này và che giấu mặt bản chất khác của sự vận 16 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 95 17 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 154 18
  19. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ động của tư bản công nghiệp. Do đó, phải xem xét đồng thời cả ba hình thái tuần hoàn, thì mới nhận thức được đầy đủ sự vận động hiện thực của tư bản công nghiệp, mới hiểu đúng bản chất của mối quan hệ giai cấp mà tư bản biểu hiện trong sự vận động của nó Vì thế, tuần hoàn hiện thực của tư bản công nghiệp, trong sự liên tục của nó, không những là sự thống nhất giữa sản xuất và lưu thông, mà còn là sự thống nhất của cả ba tuần hoàn của nó nữa. Chỉ có trong sự thống nhất của cả ba tuần hoàn, thì sự liên tục của tổng quá trình tuần hoàn của tư bản công nghiệp mới thực hiện được. Trên thực tế, mỗi tư bản công nghiệp cá biệt đều ở trong cả ba tuần hoàn cùng một lúc và nằm cạnh nhau trong không gian. Ba hình thái tuần hoàn đều không ngừng diễn ra bên cạnh nhau, kế tiếp nhau. Và chỉ có sự thống nhất cả ba hình thái tuần hoàn thì quá trình vận động của tư bản mới có thể tiến hành một cách liên tục không ngừng. Tuần hoàn của tư bản chỉ tiến hành được bình thường khi cả ba tuần hoàn chuyển tiếp một cách trôi chảy. Nếu một tuần hoàn của hình thái nào đó ngừng trệ, thì toàn bộ tuần hoàn sẽ bị phá hoại. Song, muốn bảo đảm sự tuần hoàn không ngừng của TB, bảo đảm cho TB liên tục chuyển hóa hình thái qua các giai đoạn kế tiếp nhau, thì phải có đủ hai điều kiện: - Thứ nhất, toàn bộ TB phải phân ra làm ba bộ phận, tồn tại đồng thời ở cả ba hình thái. - Thứ hai, mỗi bộ phận TB ở mỗi hình thái khác nhau đều phải không ngừng liên tục trải qua ba hình thái, và ba giai đoạn vận động. Hai điều kiện này quan hệ chặt chẽ với nhau, ràng buộc lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau. "Vì thế, chỉ có thể hiểu TB là một sự vận động, chứ không phải là một vật đứng yên"18. 18 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 162 19
  20. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ Chi khi có sự sắp xếp kề nhau của các bộ phận tư bản tồn tại đồng thời ở cả ba hình thái, thì mới có sự kế tục nhau của các bộ phận tư bản ấy ; ngược lại, cũng chỉ khi các hình thái tư bản kế tục nhau không ngừng, thì tư bản mới tồn tại đồng thời ở cả ba hình thái được. Trong sự vận động liên tục của tư bản công nghiệp mỗi hình thái của tư bản đều có thể làm điểm mở đầu và kết thúc của tuần hoàn, tạo nên các hình thái tuần hoàn khác nhau của tư bản công nghiệp. Tuần hoàn của tư bản - tiền tệ: T - H Sx H’- T’ hay: T - T’ Mở đầu và kết thúc đều dưới hình thái tiền. Sự vận động của tư bản biểu hiện ra là sự vận động của tiền. Hàng hoá hay sản xuất chỉ là những yếu tố trung gian, chỉ là “những tai vạ cần thiết” để đẻ ra tiền. Trong T - T’ mọi quá trình trung gian đều biến mất, quan hệ bóc lột của tư bản với lao động làm thuê bị che giấu, hình như lưu thông đẻ ra giá trị lớn hơn. Hình thái tuần hoàn này phản ánh rõ rệt nhất mục đích, động cơ vận động của tư bản là làm tăng giá trị, là đem lại giá trị thặng dư. Hơn nữa, giá trị thặng dư lại biểu hiện dưới hình thức chói lọi nhất của nó là hình thái tiền. Bởi vậy, T - T’ là hình thái biểu hiện phiến diện nhất, che dấu nhất, nhưng cũng đặc trưng nhất, nối bật nhất cho sự vận động của tư bản. C.Mác đã viết: “Tuần hoàn của tư bản tiền tệ là hình thái phiến diện nhất, và chính do đó mà nó là hình thái nổi bật nhất và đặc trưng nhất trong các hình thái của tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Mục tiêu và động cơ của tuần hoàn này- làm tăng thêm giá trị, làm ra tiền và tích luỹ tiền- trực tiếp biểu lộ ra trước mắt (mua để bán đắt hơn)”19. Tư bản tiền tệ xuất hiện trong lưu thông chung của hàng hoá với tư cách một số tiền ứng ra và một số tiền quay về lớn hơn, đã gây ra sự nhầm lẫn về khả năng tự đẻ ra tiền của tiền 19 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 95 20
  21. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ Ông viết tiếp: “Công thức T - H SX H’- T’, mà kết quả của nó là T’ = T + t, có cái bề ngoài làm người ta dễ bị nhầm lẫn; nó mang tính chất lừa dối do chỗ giá trị ứng trước đã tăng thêm giá trị tồn tại ở đây dưới hình thái ngang giá của nó là tiền. Công thức ấy không nhấn mạnh việc giá trị tăng thêm giá trị mà nhấn mạnh hình thái tiền của quá trình ấy, nhấn mạnh sự liện là cuối cùng, người ta rút ra ở lưu thông một giá trị bằng tiền lớn hơn giá trị ứng ra lúc đầu - tức là nhấn mạnh sự tăng thêm của khối lượng vàng và bạc thuộc về nhà tư bản”20. Theo C.Mác cái hình thức biểu hiện bề ngoài làm cho người ta nhầm lẫn đó hay là sự lừa dối sẽ bị mất đi nếu chúng ta không xét tuần hoàn của tư bản tiền tệ như là một hình thái duy nhất mà là một sự phối hợp nối tiếp liên tục của nhiều vòng tuần hoàn với nhau. Chúng ta có thể minh hoạ bằng công thức sau: T - H SX H’- T’- H Sx H’- T’- H SX T - H SX H’- T’: Tuần hoàn của tư bản tiền tệ. SX H’- T’- H SX: Tuần hoàn của tư bản sản xuất. H’- T’- H SX H’: Tuần hoàn của tư bản hàng hoá. “Ngay khi tuần hoàn lặp lại lần đầu tiên, thì trước khi tuần hoàn thứ hai của T kết thúc, chúng ta đã thấy xuất hiện tuần hoàn SX H’- T’. T- H SX, như thế là tất cả các tuần hoàn sau đó của T đều có thể được xem xét dưới giác độ của hình thái SX H’- T- H SX, trong lúc đó thì T- H, giai đoạn thứ nhất của tuần hoàn thứ nhất, chỉ là sự chuẩn bị có tính chất nhất thời cho tuần hoàn luôn luôn lặp lại của tư bản sản xuất, điều này diễn ra trong thực tế khi tư bản công nghiệp được đầu tư lần đầu tiên dưới hình thái tư bản tiền tệ. Mặt khác, trước khi tuần hoàn thứ hai của sản xuất chấm dứt thì tuần hoàn thứ nhất H’- T’. T - H SX H’ tức là tuần hoàn của tư bản hàng hoá, đã hoàn thành rồi. Như vậy hình thái thứ nhất đã bao hàm hai hình thái kia rồi, và do đó 20 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 97 21
  22. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ hình thái tiền biến đi, vì nó không phải chỉ là biểu hiện của giá trị, mà là biểu hiện của giá trị dưới hình thái ngang giá, tức là dưới hình thái tiền” 21. Nếu xét riêng từng hình thái tuần hoàn, mỗi hình thái chỉ phản ánh hiện thực tư bản chủ nghĩa một cách phiến diện, làm nổi bật mặt bản chất này và che dấu mặt bản chất khác của sự vận động tư bản công nghiệp. Do đó phải xem xét đồng thời cả ba hình thái tuần hoàn mới nhận thức được đầy đủ sự vận động hiện thực của tư bản, mới hiểu đúng bản chất của mối quan hệ giai cấp mà tư bản biểu hiện trong sự vận động của nó. Tuần hoàn của tư bản sản xuất: SX H’- T’- H SX. Mở đầu và kết thúc tuần hoàn là sản xuất, vận động của tư bản biểu hiện ra là sự vận động không ngừng của sản xuất. Trong hình thái tuần hoàn này, hàng hoá và tiền tệ chỉ là những yếu tố trung gian, toàn bộ quá trình lưu thông H’- T’- H’ chỉ là điều kiện cho sản xuất. Tuần hoàn này chỉ rõ tư bản - hàng hoá từ quá trình sản xuất mà ra, là kết quả trực tiếp của sản xuất, còn tư bản - tiền tệ là kết quả của việc thực hiện tư bản - hàng hoá, đồng thời là phương tiện mua, chuẩn bị các yếu tố cho quá trình sản xuất mới, nghĩa là tư bản - tiền tệ chỉ làm môi giới trung gian cho tư bản - hàng hoá chuyển biến thành tư bản - sản xuất. Từ công thức chung của tuần hoàn tư bản sản xuất, chúng ta thấy nổi bật hai vấn đề: Một là, toàn bộ quá trình lưu thông của tư bản công nghiệp chỉ hình thành một sự gián đoạn và chỉ là khâu trung gian giữa tư bản sản xuất mở đầu tuần hoàn và tư bản sản xuất kết thúc tuần hoàn đó. Hai là, tuần hoàn lưu thông biểu hiện ra dưới hình thái ngược lại với hình thái mà nó mang trong tuần hoàn tư bản tiền tệ, tức là về hình thức giống như lưu thông hàng hoá giản đơn. 21 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 99 22
  23. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ Trong tái sản xuất giản đơn toàn bộ giá trị thặng dư sẽ đi vào tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản và ra khỏi tuần hoàn của tư bản sản xuất nói riêng và ra khỏi lưu thông tư bản nói chung nhưng vẫn thuộc lưu thông chung của hàng hoá. Bây giờ quá trình sản xuất thứ hai được lặp lại theo quy mô cũ. Tuy nhiên chúng ta thấy rằng H’- T’ là giai đoạn tuần thứ hai của tuần hoàn của tư bản sản xuất thì đồng thời cũng là giai đoạn thứ ba của tuần hoàn của tư bản tiền tệ và giai đoạn đầu tiên của tuần hoàn của tư bản hàng hoá. Việc tách riêng các hình thái tuần hoàn của tư bản chỉ là phương pháp của tư duy để nghiên cứu thực chất của tuần hoàn thực tế, còn trong thực tiễn, ba hình thái tuần hoàn này hoà nhập với nhau. Điều đáng lưu ý ở đây là mặc dù đã tách rời nhau nhưng h - t - h và H - T - H đều thuộc lĩnh vực lưu thông hàng hoá, vì vậy: Một mặt, dễ gây sự nhầm lẫn là sản xuất tư bản chủ nghĩa là nhằm sản xuất ra giá trị sử dụng để trao đổi lẫn nhau. “Cả hai lưu thông h - t - h và H - T - H, xét về hình thái chung, đều thuộc về lưu thông hàng hoá, vì vậy người ta dễ quan niệm - như khoa kinh tế tầm thường đã làm- rằng quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ đơn thuần là việc sản xuất ra hàng hoá, ra những giá trị sử dụng nhằm thoả mãn một loại tiêu dùng nào đó và do nhà tư bản sản xuất ra để chỉ nhằm đem thay thế chúng bằng những hàng hoá có một giá trị sử dụng khác”22. Mặt khác, nếu một sự đình trệ nào đó xảy ra ngay cả với H - T - H thì tuần hoàn của tư bản cũng ảnh hưởng đến lưu thông chung. Nếu tuần hoàn của tư bản bị đình trệ hoặc xảy ra một sự rối loạn nào đó thì không phải việc tiêu dùng h mà đồng thời việc tiêu thụ cái loạt hàng hoá đem trao đổi với h cũng bị thu hẹp hoặc đình trệ. Trong tái sản xuất mở rộng, giả định toàn bộ giá trị thặng dư được tích luỹ hết thì tuần hoàn của tư bản sản xuất sẽ có dạng: 22 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 107-109 23
  24. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ SLĐ Sx H’- T’- H’ Sx TLSX. Công thức này không nói lên việc sản xuất giá trị thặng dư mà nói lên việc muốn có tái sản xuất mở rộng phải có tích luỹ, phải có một bộ phận giá trị thặng dư được tư bản hoá. Muốn có t bổ sung cho T làm tư bản tiền tệ. Vậy phần t bổ sung là bao nhiêu? Không phải tuỳ tiện, mà theo tỷ lệ của điều kiện kỹ thuật, cấu tạo hữu cơ tư bản quy định. Muốn có t bổ sung thì giá trị thặng dư phải được tích luỹ lại một phần và tích luỹ đến mức đủ lớn để ném vào quá trình sản xuất. Mức đủ lớn ở đây là bao nhiêu do yếu tố kỹ thuật sản xuất, do cấu tạo hữu cơ tư bản quy định. Vì các tỷ lệ theo đó quá trình sản xuất có thể mở rộng ra, không phải tuỳ tiện mà do kỹ thuật quy định. Cho nên giá trị thặng dư đã thực hiện, tuy đã để dành để tư bản hoá, nhưng phải qua một số tuần hoàn mới đủ quy mô làm chức năng tư bản phụ thêm. Công thức Sx Sx’ biểu thị một tư bản sản xuất được tái sản xuất trên quy mô mở rộng. Khi tuần hoàn thứ hai bắt đầu, chúng ta thấy sản xuất lại xuất hiện ở điểm xuất phát, nhưng khác ở chỗ quy mô của nó lớn hơn. Cũng giống như trong công thức T - T’ tuần hoàn thứ hai bắt đầu với T’ thì T’ lớn hơn T nhưng làm chức năng như T. Bởi vì khi T T’ tiến hành xong, và một khi T’ lại bắt đầu trở lại tuần hoàn, thì T’ không còn biểu hiện ra thành T, ngay cả trong trường hợp người ta tư bản hoá toàn bộ giá trị thặng dư chứa đựng trong T’. Đối với tuần hoàn của tư bản sản xuất cũng vậy, Sx’ đã lớn lên, Sx’ lớn hơn Sx, nhưng khi bắt đầu tuần hoàn mới, nó cũng xuất hiện với tư cách là Sx giống như Sx trong tái sản xuất giản đơn vậy. 24
  25. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ Tuần hoàn của tư bản sản xuất không chỉ ra được động cơ, mục đích vận động của tư bản, nhưng lại làm rõ được nguồn gốc của tư bản. Nguồn gốc đó là lao động của công nhân tích luỹ lại, là từ trong quá trình sản xuất. Tuần hoàn của tư bản hàng hoá: H’- T’- H Sx H’. Ở đây H’ không chỉ là điểm bắt đầu của tuần hoàn của tư bản hàng hoá mà còn là giai đoạn thứ ba của tuần hoàn của tư bản tiền tệ và giai đoạn thứ hai của tuần hoàn của tư bản sản xuất. Nếu tái sản xuất tiến hành trên quy mô mở rộng, thì H’ ở giai đoạn sau lớn hơn H’ ở điểm bắt đầu. Trong hình thái tuần hoàn này lưu thông là giai đoạn mở đầu đã lập tức đã là tư bản hàng hoá, tức một khối lượng sản phẩm đã chứa đựng giá trị thặng dư. C.Mác viết: “Trong tất cả mọi trường hợp, H’ thường xuyên mở đầu tuần hoàn với tư cách một tư bản hàng hoá = giá trị tư bản ứng trước + giá trị thặng dư”23 H’ trong tuần hoàn của tư bản hàng hoá ngay ở điểm xuất phát đã phải mang hai tính chất: - H’ là sản phẩm của quá trình sản xuất, tức là sự chuyển hoá của tư bản sản xuất. Điểm này cho thấy tuần hoàn của tư bản sản xuất phải diễn ra với tư cách tiền đề cho tuần hoàn của tư bản hàng hoá. - Mặt khác H’ không chỉ gồm tư bản ứng trước mà còn cả giá trị thặng dư. “Trong tuần hoàn đó (của tư bản hàng hoá H’- H) H’ tồn tại thành điểm xuất phát, điểm quá độ và điểm trở về của vận động, vì vậy, nó bao giờ cũng có mặt. Nó là điều kiện thường xuyên của quá trình sản xuất”24 Mở đầu tuần hoàn là tư bản hàng hoá H’, sự chuyển hoá H’- T’ bao gồm cả tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân. Do đó, hình thái tuần hoàn này không chỉ là hình thái vận động của tư bản công nghiệp cá biệt, mà còn là hình thái thích hợp để phân tích sự vận động của tư bản xã hội. 23 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 137 24 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 137 25
  26. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ “Không phải là hình thái chung của tuần hoàn, nghĩa là không phải chỉ là một hình thái xã hội, trong đó người ta có thể xem xét mỗi một tư bản riêng lẽ, do đó, không phải chỉ là một hình thái vận động chung cho mọi tư bản công nghiệp cá biệt- mà đồng thời còn là hình thái vận động của tổng số những tư bản cá biệt, tức là của toàn bộ tư bản của giai cấp các nhà tư bản, là một vận động trong đó vận động của mỗi tư bản công nghiệp cá biệt chỉ là một vận động bộ phận, chằng chịt với những vận động của các tư bản khác và bị quy định bởi sự vận động này”25. 3. Điều kiện để tư bản có thể vận động liên tục Mặc dù quá trình tuần hoàn của tư bản là một sự đứt quãng không ngừng, nhưng sự liên tục là nét đặc trưng của sản xuất tư bản chủ nghĩa; sự liên tục ấy là do cơ sở kỹ thuật của sản xuất tư bản chủ nghĩa quyết định, mặc dù nó không phải bao giờ cũng có thể thực hiện được một cách tuyệt đối. Tất cả các bộ phận của tư bản đều lần lượt đi qua quá trình tuần hoàn, và cùng một lúc nằm ở trong các giai đoạn khác nhau của quá trình ấy. “Như vậy là khi không ngừng thực hiện tuần hoàn của nó, tư bản công nghiệp đồng thời tồn tại ở tất cả các giai đoạn của tuần hoàn đó và trong tất cả các hình thái chức năng tương ứng với các giai đoạn ấy”26. Đối với bộ phận tư bản lần đầu tiên chuyển hóa từ tư bản hàng hóa thành tiền thì tuần hoàn H' H' chỉ mới bắt đầu trong khi đó đối với tư bản công nghiệp với tư cách là một chỉnh thể đang vận động, thì tuần hoàn H' H' đã hoàn thành rồi. Tay này ứng tiền ra, thì tay kia lại thu tiền về: bước mở đầu của tuần hoàn T T' tại một điểm nào đó đồng thời cũng là sự quay trở về của tiền ở một điểm khác. Đối với tư bản sản xuất thì cũng vậy. “Vì thế, tuần hoàn hiện thực của tư bản công nghiệp trong sự liên tục của nó không những là sự thống nhất của quá trình lưu thông và quá trình sản xuất, mà còn là sự thống nhất của cả ba tuần hoàn của nó nữa”27 25 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 149 26 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 158 27 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 161 26
  27. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ Mác chỉ rõ: Nhưng nó chỉ có thể thực hiện được sự thống nhất ấy trong chừng mực mà mỗi một bộ phận khác nhau của tư bản có thể lần lượt đi qua các giai đoạn kế tiếp nhau của tuần hoàn, và chuyển từ một giai đoạn này, từ một hình thái chức năng này, sang một giai đoạn khác, một hình thái chức năng khác; do đó, trong chừng mực mà tư bản công nghiệp, với tư cách là tổng thể của các bộ phận ấy, đồng thời xuất hiện ở các giai đoạn và các chức năng khác nhau, và do đó, tiến hành cả ba tuần hoàn cùng một lúc. Ở đây, việc bộ phận này nối tiếp bộ phận kia là do sự tồn tại bên cạnh nhau của các bộ phận ấy quyết định, nghĩa là do sự phân chia của tư bản quyết định. Bản thân sự tồn tại bên cạnh nhau của các bộ phận của tư bản cũng chỉ là kết quả của việc chúng lần lượt nối tiếp nhau mà thôi. Mác đã lý giải : Nếu vận động H' - T' của một bộ phận tư bản bị ngừng lại và hàng hóa không bán được chẳng hạn, thì tuần hoàn của bộ phận tư bản ấy sẽ bị đứt quãng, nó sẽ không được hoàn lại bằng các yếu tố sản xuất ra nó; sự thay đổi về mặt chức năng của những bộ phận kế tiếp đang đi ra khỏi quá trình sản xuất với tư cách là H', sẽ bị những bộ phận đi trước chúng kìm hãm lại. “Nếu tình hình này kéo dài một thời gian, thì sản xuất sẽ bị thu hẹp lại và toàn bộ quá trình sẽ có thể bị dừng lại. Mỗi sự đình trệ trong sự vận động nối tiếp nhau của các bộ phận đều làm rối loạn sự tồn tại bên cạnh nhau của chúng; mỗi một sự đình trệ ở một giai đoạn nào đó, sẽ dẫn đến một sự đình trệ ít nhiều nghiêm trọng không những trong toàn bộ tuần hoàn của bộ phận tư bản bị đình trệ ấy, mà cả trong tuần hoàn của toàn bộ tư bản cá biệt nữa”28. Hình thái kế tiếp mà quá trình khoác lấy, là hình thái nối tiếp nhau của các giai đoạn: việc tư bản bước vào một giai đoạn mới là do việc nó ra khỏi một giai đoạn khác quyết định. “Vì thế, mỗi một tuần hoàn đặc thù đều có một trong các hình thái chức năng của tư bản với tư cách là điểm xuất phát và điểm quay về” 29. Mặt khác, 28 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 159 29 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 159 27
  28. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ với tư cách là một thể thống nhất thì trên thực tế, quá trình là sự thống nhất cả ba tuần hoàn, ba tuần hoàn này là những hình thái khác nhau biểu hiện sự liên tục của quá trình. “Đối với mỗi một hình thái chức năng của tư bản, thì tổng tuần hoàn biểu hiện ra thành một tuần hoàn đặc thù của mỗi một hình thái ấy, hơn nữa, mỗi một tuần hoàn ấy quyết định sự liên tục của toàn bộ quá trình: vận động vòng tròn của mỗi một hình thái chức năng này quyết định vận động vòng tròn của một hình thái chức năng khác”30. Đối với tổng quá trình sản xuất, đặc biệt là đối với tư bản xã hội, thì điều kiện cần thiết là quá trình sản xuất đồng thời phải là quá trình tái sản xuất, và do đó phải đồng thời là quá trình tuần hoàn của mỗi một yếu tố của nó. Các phần khác nhau của tư bản đều lần lượt trải qua các giai đoạn và các hình thái chức năng khác nhau. Nhờ thế, mỗi một hình thái chức năng đều thực hiện tuần hoàn của bản thân nó cùng một lúc với các hình thái chức năng khác, Ví dụ: Một bộ phận của tư bản - bao giờ cũng thay đổi và không ngừng được tái sản xuất ra - tồn tại dưới dạng tư bản hàng hóa đang chuyển hóa thành tiền; một bộ phận khác tồn tại dưới dạng tư bản tiền tệ đang chuyển hóa thành tư bản sản xuất; một bộ phận thứ ba tồn tại dưới dạng tư bản sản xuất đang chuyển hóa thành tư bản hàng hóa. Sự có mặt thường xuyên của cả ba hình thái ấy là kết quả của việc tổng tư bản tiến hành cả ba giai đoạn tư bản ấy trong tuần hoàn của nó. Do đó, với tư cách là một chỉnh thể thì tư bản nằm trong các giai đoạn khác nhau của nó cùng trong một lúc, nằm cạnh nhau trong không gian. Nhưng, mỗi một bộ phận đều không ngừng lần lượt chuyển từ một giai đoạn này, một hình thái chức năng này sang một giai đoạn khác, một hình thái chức năng khác, và bằng cách ấy, lần lượt hoạt động trong tất cả mọi hình thái. Như vậy, các hình thái này đều là những hình thái nhất thời, và sự cùng tồn tại của chúng do sự nối tiếp nhau của chúng làm môi giới. 30 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 159-160 28
  29. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ Mỗi một hình thái đều theo sau và đi trước một hình thái khác, thành thử điều kiện cho một bộ phận này của tư bản quay trở về một hình thái nào đó, là một bộ phận khác đã quay trở về một hình thái khác. Mỗi một bộ phận đều không ngừng tiến hành vòng chu chuyển của bản thân nó, nhưng trong hình thái đó mỗi lần lại là một bộ phận khác của tư bản, và những vùng chu chuyển đặc thù ấy chỉ cấu thành những yếu tố tồn tại cùng một lúc và kế tiếp nhau của tổng quá trình. III. Ý NGHĨA VÀ ĐỊNH HƯỚNG VẬN DỤNG 1. Ý nghĩa nghiên cứu về lý luận Nghiên cứu tuần hoàn tư bản nói chung và mối quan hệ giữa ba hình thái của quá trình tuần hoàn nói riêng, đã tạo cơ sở khoa học cho nhận thức mặt chất của sự vận động tư bản cá biệt với tư cách là quan hệ sản xuất đặc trưng. Sự vận động của tư bản với tư cách là giá trị mạng lại giá trị thặng dư được thực hiện trong nền kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở hoạt động của các quy luật của nền kinh tế hàng hóa, đặc biệt là quy luật giá trị, do đó có nhiều biển hiện giống như lưu thông của hàng hóa. Bản thân tư bản trong quá trình vận động luôn tồn tại dưới dạng những hình thái cụ thể nhất định như tiền, sản xuất, hàng hóa, đồng thời sự vận động được thực hiện thông qua việc thực hiện chức năng hai mặt của từng hình thái và sự chuyển hóa từ hình thái này sang hình thái khác. Nhờ nghiên cứu chi tiết cụ thể từng hình thái biến hóa của tư bản có thể nhận thức rõ hơn tư bản với tư cách là trình độ phát triển cao của giá trị. Tư bản tiền tệ không những phải thực hiện chức năng của tiền, mà đồng thời còn phải thực hiện được chức năng của tư bản là chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sản xuất giá trị thặng dư. Tư bản sản xuất không những phải sản xuất ra hàng hóa mà còn phải sản xuất giá trị thặng dư. Tư bản hàng hóa không những phải thực hiện giá trị hàng hóa mà còn phải thực hiện được giá trị tư bản và giá trị thặng dư. Nếu như tuần hoàn của từng hình thái tư bản cho thấy những phương diện khác nhau của sự vận động về chất của tư bản, thì sự vận động hiện thực của tư bản lại thể 29
  30. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ hiện là sự thống nhất biện chứng giữa tuần hoàn của các hình thái, giữa quá trình sản xuất và quá trình lưu thông, giữa tính liên tục không ngừng và tính ngắt quãng không ngừng của sự vận động, thể hiện trình độ phát triển cao của nền kinh tế hàng hóa, đồng thời che mờ bản chất của tư bản với tư cách là quan hệ bốc lột giai cấp công nhân làm thuê. Nghiên cứu sự vận động tư bản về chất đã tạo ra cơ sở khoa học cho nhận thức sự vận động của tư bản về lượng và sự vận động của tư bản xã hội với tư cách là tổng thể sự vận động của các tư bản cá biệt trong mối quan hệ biện chứng với nhau. 2. Ý nghĩa thực tiễn: Sự vận động về chất của tư bản đồng thời thể hiện những yêu cầu căn bản của hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Nghiên cứu tuần hoàn tư bản thông qua các hình thái tư bản và tuần hoàn của các hình thái cho thấy, hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường là sự kết hợp giữa những yếu tố, nhiều khâu có quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau. Do điều kiện để tuần hoàn tư bản liên tục không ngừng là tổng tư bản phải đồng thời tồn tại ở cả ba bộ phận (tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa), các bộ phận phải được chuyển đổi đều đặn từ hình thái này sang hình thái kia, kề nhau trong không gian và nối tiếp nhau trong thời gian. Vận dụng điều này vào trong sản xuất hiện nay, ta có thể thấy rằng, nhà tư bản có thể tiến hành song song cả 3 giai đoạn trên để nhằm mục đích rút ngắn thời gian chu chuyển tư bản, nhanh tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Như vậy, hoạt động kinh doanh chỉ có thể có hiệu quả khi các yếu tố của quá trình kinh doanh như tiền, các yếu tố sản xuất, hàng hóa luôn thực hiện được đầy đủ các chức năng của mình một cách kịp thời, tạo điều kiện cho các khâu của quá trình có thể thực hiện liên tục, trôi chảy không bị gián đoạn. Để làm được việc đó trên quy mô lớn rất cần phải nhận thức rõ các tất yếu kinh tế của quá trình kinh doanh thể hiện trong mối quan hệ giữa ba hình thái của 30
  31. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ quá trình tuần hoàn của tư bản. Do vậy, nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa ba hình thái tuần hoàn tư bản cũng chính là nghiên cứu cơ sở hình thành hiệu quả kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, nhờ đó mà tạo ra cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu vận dụng về hiệu quả kinh doanh và cơ sở, điều kiện đảm bảo hiệu quả kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Để có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường các chủ thể kinh doanh cần phải vận dụng những tri thức về tuần hoàn tư bản, đặc biệt trong xây dựng và thực thi các chiến lược kinh doanh, học hỏi từ kinh nghiệm kế hoạch hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa. 3. Định hướng vận dụng Lý luận về tuần hoàn của tư bản nói chung và việc nghiên cứu mối quan hệ giữa ba hình thái của tư bản nói riêng không chỉ có ý nghĩa đối với xã hội đương thời mà ngày nay vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt đối với các nước đang phát triển xây dựng chủ nghĩa xã theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như ở Việt Nam. Đặc biệt, việc nghiên cứu này có ý nghĩa rất to lớn đối với việc quản lý doanh nghiệp của nước ta hiện nay. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, môi trường cạnh tranh hết sức sôi động và gay gắt. Do đó, để tồn tại và đứng vững trên thị trường, các doanh nghiệp cần kết hợp lý thuyết tổng tuần hoàn của tư bản với chu chuyển của tư bản. Đặc biệt là cần chú ý đến mối quan hệ giữa ba hình thái tuần hoàn của tư bản. Trong điều kiện nước ta hiện nay, để các ngành sản xuất được vận hành liên tục, bình thường, cần phải: Thứ nhất, vốn của đơn vị kinh tế phải được phân ra làm 3 bộ phận, tồn tại đồng thời ở cả 3 hình thái: T; các yếu tố sản xuất và H theo một tỷ lệ thích hợp với ngành sản xuất - kinh doanh. Đồng thời, mỗi bộ phận vốn ở mỗi hình thái ấy cũng không ngừng liên tục vận động qua 3 giai đoạn, trải qua 3 hình thái, thực hiện 3 chức năng. Chỉ có sự thống nhất của 3 tuần hoàn của 3 bộ phận vốn như vậy thì sự liên tục của quá trình tổng sản xuất mới thực hiện được. Mặt khác, phải chia vốn thành 3 bộ phận 31
  32. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ như vậy, mới đảm bảo được sự thay thế nhau, ví dụ, khi một bộ phận vốn rời khỏi quá trình sản xuất đi vào quá trình lưu thông thì phải có bộ phận vốn khác thay thế nó ngay vào sản xuất, có như vậy sản xuất mới liên tục. Bên cạnh đó, cần có những giải pháp nhằm huy động sử dụng vốn có hiệu quả như: Huy động ở mức cao nguồn vốn trong và ngoài nước đáp ứng nhu cầu vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Phân bổ hợp lý các nguồn vốn, qua đó huy động, sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả; Đảm bảo tính hiệu quả của thị trường vốn để đáp ứng yêu cầu vốn cho sự nghiệp hóa, hiện đại hóa; Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn; Đổi mới chính sách đầu tư Thứ hai, muốn sản xuất kinh doanh hiệu quả phải thấy được mối quan hệ về chất và lượng hai yếu tố của quá trình sản xuất, đó là sức lao động và tư liệu sản xuất. Mối quan hệ này phải có tỷ lệ thích hợp, có như vậy sản xuất mới đạt hiệu quả cao nhất. Do đó, để sản xuất kinh doanh đạt được hiệu quả phải mua tư liệu sản xuất và thuê sức lao động đúng ngành nghề kinh doanh. Thứ ba, phải có dự trữ của quá trình sản xuất, đây là vấn đề có tính quy luật cho mọi ngành, mọi địa phương, mọi cơ sở sản xuất và mọi quốc gia. Vì vậy, dự trữ là một bắt buộc, nhằm đảm bảo quá trình sản xuất diễn ra một cách bình thường, không có sự đứt quãng. Thứ tư, để quá trình sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả phải thấy được sự thống nhất biện chứng giữa quá trình sản xuất và quá trình lưu thông. Muốn vậy, phải đổi mới tổ chức sản xuất kinh doanh, sao cho sản xuất hiệu quả, đồng thời, phải tiến hành nghiên cứu thị trường để nắm được đầu vào, đầu ra của sản phẩm. Để sản xuất được tiến hành một cách hợp lý, hiệu quả tạo ra nhiều hàng hoá thì phải mua được các yếu tố đầu vào thuận tiện và hợp lý, đồng thời, khi có sản phẩm phải tiêu thụ nhanh để rút ngắn thời gian vốn quay về thì phải tiến hành tiếp thị, nghiên cứu thị trường để hàng hoá thực hiện đựơc nhanh giá trị. Như vậy, để sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả phải coi trọng cả sản xuất và lưu thông. Có sản xuất mới có hàng hoá để đi vào lưu 32
  33. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ thông, ngược lại, có lưu thông mới có các yếu tố đầu vào để thực hiện quá trình sản xuất và giá trị của hàng hoá mới được thực hiện và vốn mới quay về cơ sở sản xuất nhanh, nhờ đó, sử dụng vốn mới hiệu quả. 33
  34. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ KẾT LUẬN Qua phân tích, ta có thể rút ra được kết luận quan trọng về sự vận sự vận động tuần hoàn của tư bản công nghiệp là: Thứ nhất, tuần hoàn của tư bản công nghiệp là sự thống nhất giữa lưu thông và sản xuất: sản xuất làm trung gian cho lưu thông và ngược lại; Thứ hai, tuần hoàn của tư bản công nghiệp là sự vận động biện chứng của ba hình thái tuần hoàn: một quá trình liên tục không ngừng và đứt quảng không ngừng. Đồng thời sự vận động của ba hình thái tuần hoàn có sự kế tục nhau trong thời gian và sắp xếp kề nhau trong không gian hay tồn tại kề nhau trong không gian để được liên tục vận động trong thời gian. Vì thế, tuần hoàn hiện thực của tư bản công nghiệp trong sự liên tục của nó không những là sự thống nhất của quá trình lưu thông và quá trình sản xuất, mà còn là sự thống nhất của cả ba tuần hoàn của nó nữa. Nắm chắc được quy luật vận động cũng như mối quan hệ biện chứng chặt chẽ giữa ba hình thái của tuần hoàn tư bản, sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc vận dụng phát triển kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế đất nước nói chung. 34
  35. Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006 [2] C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Tập 24, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002 [3] Giáo trình Quá trình lưu thông tư bản chủ nghĩa, Viện Kinh tế chính trị học - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2014 [4] PGS.TS. Vũ Văn Phúc, Lý luận tuần hoàn, chu chuyển tư bản và vấn đề vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. 35