Luận văn Phân tích kinh tế trên cơ sở luật và chính sách môi trường
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Phân tích kinh tế trên cơ sở luật và chính sách môi trường", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- luan_van_phan_tich_kinh_te_tren_co_so_luat_va_chinh_sach_moi.pdf
Nội dung text: Luận văn Phân tích kinh tế trên cơ sở luật và chính sách môi trường
- Luận văn thạc sỹ Trang 1 Ngành: Kinh tế TNTN&MT MỞ ĐẦU I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Ngày nay, khi nhắc đến môi trường chúng ta luôn đi kèm với sự ô nhiễm bởi các chất hoá học, sinh học gây ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ con người, các cơ thể sống khác. Ô nhiễm môi trường được chia thành ba dạng cơ bản như sau: Ô nhiễm môi trường đất Là hậu quả các hoạt động của con người làm thay đổi các nhân tố sinh thái vượt qua những giới hạn sinh thái của các quần xã trong đất. Với nhịp độ gia tăng dân số và tốc độ phát triển công nghiệp và hoạt động đô thị hoá như hiện nay thì diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, chất lượng đất ngày càng bị suy thoái. Riêng chỉ với ở Việt Nam, thực tế suy thoái tài nguyên đất là rất đáng lo ngại và nghiêm trọng. Ô nhiễm môi trường nước Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều xấu đi các tính chất vật lý - hoá học - sinh học của nước, với sự xuất hiện hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật. Làm giảm độ đa dạng sinh vật trong nước. Xét về tốc độ lan truyền và quy mô ảnh hưởng thì ô nhiễm nước là vấn đề đáng lo ngại hơn ô nhiễm đất. Ở các đại dương, nguyên nhân chính gây ô nhiễm đó là các sự cố tràn dầu. Ô nhiễm nước có nguyên nhân từ các loại chất thải và nước thải công nghiệp được thải ra lưu vực các con sông mà chưa xử lý đúng mức; các loại phân bón hoá học và thuốc trừ sâu ngấm vào nguồn nước ngầm và nước ao hồ; nước thải sinh hoạt được thải ra từ các khu dân cư ven sông. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 2 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Ô nhiễm không khí Ô nhiễm không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây ra sự toả mùi, có mùi khó chịu, giảm tầm nhìn xa do bụi. Hiện nay, ô nhiễm khí quyển là vấn đề thời sự nóng bỏng của cả thế giới chứ không phải riêng của một quốc gia nào. Môi trường khí quyển đang có nhiều biến đổi rõ rệt và có ảnh hưởng xấu đến con người và các sinh vật. Những vấn đề nổi cộm trên cho thấy, nhân loại đã bị đặt vào một bài toán vô cùng khó khăn để khắc phục và làm giảm các tác động của ô nhiễm tới môi trường sống. Để giải quyết tương đối bài toán này, một công cụ hữu hiệu nhất là sử dụng Luật Môi trường. Tại Việt Nam, Luật Bảo vệ Môi trường được ban hành đầu tiên vào ngày 27 tháng 12 năm 1993. Đến ngày 29 tháng 11 năm 2005, Luật Bảo vệ Môi trường số 52/2005/QH11 đã sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ Môi trường năm 1993. Đến nay đã trải qua 18 năm thi hành và có bổ sung, sửa đổi, cùng nhiều văn bản hướng dẫn, triển khai, nhưng so với các nước phát triển, lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam còn khá mới và chỉ được quan tâm đặc biệt trong khoảng 5 năm trở lại đây do yêu cầu quản lý môi trường trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Bởi vậy, pháp luật về bảo vệ môi trường chưa điều chỉnh hết các mối quan hệ trong xã hội, một số văn bản còn chưa được ban hành hoặc đã ban hành nhưng không sát với thực tế, thiếu tính khả thi, không thể thi hành được. II. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI Sử dụng các mô hình kinh tế để phân tích, đo lường giá trị thiệt hại nhằm nâng cao hiệu lực của Luật và Chính sách môi trường, phục vụ cho công tác quản lý vi mô, vĩ mô. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 3 Ngành: Kinh tế TNTN&MT III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Dựa trên cơ sở kinh tế Phúc lợi, kinh tế Vi mô, kinh tế tài nguyên thiên nhiên và môi trường, Luật và Chính sách môi trường. IV. CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu: Các tác động về mặt kinh tế của Luật và Chính sách môi trường. Nghiên cứu lý thuyết, sử dụng các công cụ, chỉ tiêu, biện pháp môi trường để phân tích. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 4 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Chương I TỔNG QUAN Hệ thống pháp luật Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, định hướng và mục đích của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau, được phân định thành các ngành luật, các chế định pháp luật và được thể hiện trong các văn bản do cơ quan Nhà nước Việt Nam có thẩm quyền ban hành theo những hình thức, thủ tục nhất định. Việc gọi tên hệ thống pháp luật có nhiều quan điểm khác nhau, trong đó, có quan điểm cho rằng, hệ thống pháp luật bao gồm hai bộ phận là công pháp và tư pháp, quan điểm khác cho rằng cần phải phân biệt hai khái niệm: Hệ thống pháp luật và hệ thống pháp luật thực định và quan điểm chỉ có một khái niệm hệ thống pháp luật, không thể phân biệt rõ nét hai khái niệm hệ thống pháp luật và hệ thống pháp luật thực định. Theo quan điểm này, hệ thống pháp luật có nội dung rất rộng, bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành và những nguồn khác nữa của pháp luật tồn tại trên thực tế mà dựa trên cơ sở đó tính hiện thực của pháp luật đựơc bảo đảm và pháp luật phát huy hiệu lực. Theo quan điểm này hệ thống pháp luật là một khái niệm chung bao gồm hai mặt cụ thể là: Hệ thống cấu trúc của pháp luật và hệ thống văn bản pháp luật (hệ thống nguồn của pháp luật). Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam bao gồm: Hiến pháp do Quốc hội ban hình và luật (bộ luật) do Quốc hội thông qua và Chủ tịch nước ký quyết định ban hành. Có thể kể một số bộ luật như: Luật sở hữu trí tuệ, luật hình sự, luật trách nhiệm dân sự, luật hợp đồng và luật bảo vệ môi trường. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 5 Ngành: Kinh tế TNTN&MT 1.1. LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, được Quốc hội Việt Nam khoá XI trong kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 và có hiệu lực vào ngày 01 tháng 7 năm 2006, là luật quy định về quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và việc bảo hộ các quyền đó. 1. Quyền sở hữu trí tuệ: quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. 2. Quyền tác giả: quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. 3. Quyền liên quan đến quyền tác giả: quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. 4. Quyền sở hữu công nghiệp: quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. 5. Quyền đối với giống cây trồng: quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu. 6. Tên thương mại: tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 6 Ngành: Kinh tế TNTN&MT 1.2. LUẬT HÌNH SỰ Khái niệm luật hình sự nói về những luật có chung tính chất là xác định những hành vi (tội) mà xã hội đó không muốn xảy ra, và đề ra những hình phạt riêng biệt và nặng nề hơn bình thường nếu thành viên xã hội đó phạm vào. Tùy theo loại tội và thẩm quyền, sự trừng phạt (về mặt) hình sự bao gồm tử hình, giam giữ, bị quản thúc hoặc bị phạt vạ. Những tội cổ xưa như sát nhân (giết người), phản quốc .v.v. luật hình sự nơi nào cũng có. Nhưng cũng có nhiều tội ở nước này đưa vào luật hình sự mà nước khác thì không. Ngay cả trong các bộ luật đôi khi cũng không rõ ràng về ranh giới giữa dân sự và hình sự. Luật hình sự thường được tiến hành khởi tố bởi chính quyền, không giống như luật dân sự thường được tiến hành khởi tố bởi người dân hay các pháp nhân khác. 1.3. LUẬT TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ Luật trách nhiệm dân sự là một nhánh pháp luật giải quyết các tranh chấp giữa các cá nhân và/hoặc các cơ quan tổ chức, theo đó bên bị thiệt hại có thể được đền bù cho những thiệt hại đó. Ví dụ, nếu một nạn nhân bị ôtô đâm đòi người lái xe bồi thường thiệt hại hoặc chấn thương do tai nạn gây ra, đây sẽ là một vụ kiện dân sự. 1.4. LUẬT HỢP ĐỒNG Để cho hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể thực hiện có hiệu quả và đảm bảo được sự quản lý của Nhà nước thì Nhà nước ban hành nhiều qui phạm pháp luật để áp dụng trong việc cụ thể hóa các vấn đề của hợp đồng. Như vậy, pháp luật về hợp đồng gồm một hệ thống các văn bản pháp luật khác nhau, trong mỗi văn bản pháp luật đó sẽ bao gồm nhiều điều luật qui Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 7 Ngành: Kinh tế TNTN&MT định cụ thể hóa các nội dung của hợp đồng, định hình các qui tắc xử sự của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Từ đó ta có thể kết luận pháp luật về hợp đồng như sau: Pháp luật về hợp đồng là một hệ thống các quy tắc sử xự của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện nhằm bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong hợp đồng. 1.5. LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước, dân tộc và nhân loại; Để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước và trách nhiệm của chính quyền các cấp, các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá nhân trong việc bảo vệ môi trường nhằm bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường trong lành, phục vụ sự nghiệp phát triển lâu bền của đất nước, góp phần bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu; Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua ngày 27/12/1993 và 29/11/2005. Luật này quy định về hoạt động bảo vệ môi trường, chính sách, biện pháp và nguồn lực để bảo vệ môi trường; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong bảo vệ môi trường. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 8 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Chương II THIẾT LẬP MỤC TIÊU VÀ CHỈ TIÊU SAU KHI KẾT THÚC MỘT CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG 2.1. CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG Chính sách môi trường cụ thể hoá Luật Bảo vệ Môi trường (trong nước) và các Công ước quốc tế về môi trường. Mỗi cấp quản lý hành chính đều có những chính sách môi trường riêng. Nó vừa cụ thể hoá luật pháp và những chính sách của các cấp cao hơn, vừa tính tới đặc thù địa phương. Sự đúng đắn và thành công của chính sách cấp địa phương có vai trò quan trọng trong đảm bảo sự thành công của chính sách cấp trung ương. 2.2. CÁC VẤN ĐỀ CHUẨN TẮC VÀ PHÂN TÍCH CÁC VẤN ĐỀ CHUẨN TẮC Hầu hết các nhà kinh tế đều lập luận rằng hiệu quả kinh tế đạt được khi sự chênh lệch giữa lợi ích và chi phí là tối đa. Điều này chính là một tiêu chí cơ bản để đánh giá các nỗ lực bảo vệ môi trường. Bởi vì xã hội có những nguồn lực có hạn để chi tiêu, phân tích lợi ích - chi phí có thể giúp làm sáng tỏ sự đánh đổi phức tạp để tạo ra các loại đầu tư xã hội khác nhau. Trong thực tế, có những khó khăn đáng kể mà phần lớn là vì những khó khăn vốn có trong việc đo lường lợi ích và chi phí. Ngoài ra, còn có mối quan tâm về sự công bằng và quá trình xem xét công đức, bởi vì các chính sách công chắc chắn liên quan đến người thắng và kẻ thua, ngay cả khi các lợi ích tổng hợp vượt quá chi phí tổng hợp. 2.2.1. Tiêu chuẩn đánh giá chính sách môi trường Hơn 100 năm trước, Vilfredo Pareto đề ra tiêu chuẩn nổi tiếng để đánh giá xem liệu một sự thay đổi của xã hội ví dự như chính sách công cộng, có làm cho thế giới tốt đẹp hơn không: Một sự thay đổi là Pareto hiệu quả nếu có Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 9 Ngành: Kinh tế TNTN&MT ít nhất một người được làm cho tốt hơn và không ai bị làm nghèo đi (1896). Tiêu chí này có sức hấp dẫn đáng kể. Nhưng hầu như không có chính sách công cộng nào đáp ứng các thử nghiệm là cải thiện Pareto thực sự, bởi vì khi một chính sách công cộng được đưa ra thì chắc chắn có một số người trong xã hội sẽ bị làm cho nghèo đi. Gần 50 năm sau đó, Nicholas Kaldor (1939) và John Hicks (1939) mặc nhiên công nhận một tiêu chí thực dụng hơn đó là xác định "sự cải thiện Pareto tiềm năng:" Tiêu chuẩn này được định nghĩa như sau: Một chính sách công cộng được xác đinh như là cải thiện phúc lợi nếu những người đạt được lợi ích từ sự thay đổi chính sách có thể bù đắp hoàn toàn những kẻ thua cuộc, thậm chí chỉ với (ít nhất) một người thắng cuộc sẽ vẫn tốt hơn là không ai thắng cuộc. Tiêu chuẩn Kaldor-Hicks, một kiểm định xem liệu lợi ích toàn xã hội có vượt quá chi phí toàn xã hội hay không, là nền tảng lý thuyết cho việc sử dụng phương thức phân tích được gọi là lợi ích - chi phí (hoặc giá trị hiện tại ròng) để phân tích. Cả tiêu chuẩn hiệu quả Pareto và tiêu chuẩn Kaldor-Hicks đều không kêu gọi hỗ trợ cho bất kỳ chính sách nào mà lợi ích lớn hơn chi phí. Thay vào đó, chìa khóa để xác định một chính sách có hiệu quả chính là khoảng cách giữa lợi ích và chi phí là lớn nhất. Nếu mục tiêu là để tối đa hóa khoảng cách giữa lợi ích - chi phí (lợi ích ròng), khi đó [ ] ∑ Trong đó qi là khối lượng chất thải được xử lý của nguồn i (i=1-N); Bi là hàm lợi ích từ nguồn i; Ci là hàm chi phí từ nguồn i; là mức độ hiệu quả của việc bảo vệ môi trường (xử lý chất thải ô nhiễm môi trường). Điều kiện Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 10 Ngành: Kinh tế TNTN&MT then chốt nổi bật lên từ việc tối đa hóa bài toán trong phương trình (1) là lợi ích cận biên bằng với chi phí cận biên. Tiêu chuẩn Kaldor-Hicks rõ ràng là thực tế hơn so với tiêu chuẩn nghiêm ngặt của Pareto, nhưng thời gian tồn tại tiêu chuẩn của nó ít bền vững hơn và đã bị bác bỏ từ nhiều phía khác nhau. Các câu hỏi đã được đặt ra về việc liệu lợi ích và thiệt hại xã hội có thể được thể hiện thông qua sự kết hợp đơn giản của việc thay đổi phúc lợi của các cá nhân. Do đó, lưu ý rằng tiêu chuẩn Kaldor-Hicks không được coi là điều kiện cần cũng như điều kiện đủ để đưa ra một chính sách công. Trong những năm gần đây đã có nhiều cuộc tranh luận giữa các nhà kinh tế với nhau và giữa các nhà kinh tế với những người có liên quan mật thiết khác về ý nghĩa của việc thường xuyên sử dụng khái niệm “tính bền vững”. Phát triển bền vững, là quá trình vận hành đồng thời ba bình diện phát triển: Kinh tế tăng triển bền vững, xã hội thịnh vượng, công bằng, ổn định, văn hóa đa dạng và môi trường trong lành, tài nguyên được duy trì bên vững. Do vậy, hệ thống hoàn chỉnh các nguyên tắc đạo đức cho phát triển bền vững bao gồm các nguyên tắc phát triển bền vững trong cả “ba thế chân kiềng” kinh tế, xã hội, môi trường. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 11 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Hình 2.1. Kinh tế - Xã hội - Môi trường trong phát triển bên vững - Công bằng xã hội - Công bằng giữa các thế hệ - Đời sống được nâng cao - Xã hội đoàn kết Xã hội Kinh tế Môi trường - Kinh tế tăng trưởng - Tài nguyên thiên nhiên cao giàu có - Hiệu quả kinh tế lơn - Môi trường sống trong - Tiết kiệm tài nguyên lành - Môi trường sản xuất thuận lợi hơn và phù hợp với trình độ sản xuất Sinh thái học và nhiều ngành bên ngoài nền kinh tế khác đã đưa tính bền vững là tiêu chí duy nhất và toàn diện nhất mà có thể nên hướng đến phát triển toàn cầu. Ngược lại, các nhà kinh tế có xu hướng xác định tính bền vững chỉ là sự công bằng giữa các thế hệ. Như vậy, hầu hết các nhà kinh tế chỉ xem tính bền vững như là một yếu tố để phát triển hướng đi như mong muốn. 2.2.2. Phân tích lợi ích - chi phí của việc điều chỉnh môi trường Trong khi khái niệm đơn giản, tính đúng đắn của thực nghiệm phân tích lợi ích - chi phí dựa trên những ước lượng đáng tin cậy sẵn có của các lợi ích và chi phí xã hội, bao gồm ước lượng tỷ lệ chiết khấu xã hội. 2.2.2.1. Chiết khấu: Các quyết định được đưa ra hôm nay đều có tác động cả trong hiện tại và tương lai. Trong lĩnh vực môi trường, nhiều ảnh hưởng của tương lai là từ việc cải tiến chính sách, và như vậy trong bối cảnh này, lợi ích cũng như chi phí trong tương lai của các chính sách đã bị chiết khấu. Giá trị hiện tại của lợi ích ròng (PVNB) được định nghĩa như sau: Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 12 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Nếu mục tiêu là để tối đa hóa khoảng cách giữa lợi ích và chi phí (lợi ích ròng), thì mức độ liên quan đến bảo vệ môi trường (xử lý chất thải ô nhiễm) được định nghĩa là hiệu quả mức độ bảo vệ: ∑ { } (2) Trong đó Bt là lợi ích tại thời điểm t, Ct là chi phí tại thời điểm t, r là tỷ lệ chiết khấu và T là năm phân tích cuối cùng. PVNB có giá trị dương nghĩa là chính sách hoặc dự án đó có tiềm năng để mang lại hiệu quả Pareto (thỏa mãn tiêu chuẩn Kaldor–Hicks). Do đó, thực hiện phân tích lợi ích – chi phí hoặc giá trị hiện tại dòng (NPV) đòi hỏi giá trị chiết khấu làm dịch chuyển các tác động trong tương lai sang những giá trị tương đương mà có thể được so sánh. Về bản chất, tiêu chuẩn Kaldor–Hicks cung cấp cơ sở hợp lý cho việc phân tích lợi ích - chi phí và chiết khấu. 2.2.2.2. Khái niệm lợi ích và phân loại Nếu một sự thay đổi của môi trường có ý nghĩa với bất kỳ ai đó trong hiện tại hoặc tương lai thì nó sẽ xuất hiện trong một đánh giá kinh tế. Môi trường có thể được coi như là một dạng tài sản tự nhiên cung cấp các luồng dịch vụ được sử dụng bởi con người trong việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ, chẳng hạn như: Sản lượng nông nghiệp, sức khỏe con người, giải trí và nhiều hàng hóa vô định khác như chất lượng cuộc sống. Bảo vệ môi trường thường đòi hỏi nhữngviệc làm thiết thực của vốn, lao động và các nguồn lực khan hiếm khác. Sử dụng các nguồn lực này để bảo vệ môi trường có nghĩa là chúng không sẵn có để được sử dụng vào những mục đích khác. Do đó, khái niệm kinh tế của các giá trị hoặc lợi ích của hàng hóa và dịch vụ môi trường được diễn đạt bằng thuật ngữ sự sẵn sàng của xã hội để thực hiện một sự đánh đổi giữa việc sử dụng cạnh tranh những nguồn lực hạn chế, và thuật ngữ sự sẵn sàng của các cá nhân để thực hiện những Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 13 Ngành: Kinh tế TNTN&MT đánh đổi này. Vì vậy, những lợi ích của một chính sách môi trường được định nghĩa là một tập hợp sự sẵn lòng chi trả của các cá nhân (WTP) cho việc giảm hoặc ngăn ngừa những thiệt hại của môi trường hoặc sẵn lòng chấp nhận bồi thường của các cá nhân (WTA) để chịu đựng các thiệt hại môi trường như thế. Những lợi ích mang lại cho con người từ việc bảo vệ môi trường là rất nhiều và đa dạng. Dưới góc độ sinh lý, lợi ích như vậy có thể được phân loại như là liên quan đến sức khỏe con người (tỷ lệ tử vong và bệnh tật), các tác động sinh thái (cả thị trường và phi thị trường) hoặc thiệt hại về vật chất. Từ góc độ kinh tế, một sự phân biệt quan trọng là giữa giá trị sử dụng và giá trị không sử dụng. Ngoài những lợi ích trực tiếp (giá trị sử dụng) mà con người nhận được thông qua bảo vệ sức khỏe của họ hoặc thông qua việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, người ta cũng nhận được giá trị thụ động hoặc không sử dụng từ chất lượng môi trường, đặc biệt trong lĩnh vực sinh thái. Ví dụ, một cá nhân có thể coi trọng một sự thay đổi tốt cho môi trường vì bởi vì người đó muốn giữ gìn các tùy chọn để sử dụng trong tương lai hoặc bởi vì người đó mong muốn những người thừa kế của mình được hưởng môi trường trong sạch. Vẫn còn những người khác mà họ không sử dụng một trong những lợi ích từ môi trường trong hiện tại hoặc tương lai cho bản thân hoặc người thừa kế, nhưng họ vẫn muốn bảo vệ môi trường vì họ tin rằng môi trường cần được bảo vệ hoặc đơn giản họ cảm thấy hài lòng khi biết những gì của ngày hôm nay vẫn còn tồn tại cho đến ngày mai. 2.2.2.3. Khái niệm chi phí và phân loại Khái niệm về chi phí trong bối cảnh môi trường, hay chính xác hơn, chi phí cơ hội, là một thước đo giá trị của bất cứ điều gì phải hy sinh để ngăn ngừa hoặc làm giảm nguy cơ của một tác động môi trường. Do đó, chi phí của các chính sách môi trường là những lợi ích xã hội bị bỏ qua do sử dụng các Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 14 Ngành: Kinh tế TNTN&MT nguồn lực khan hiếm cho các mục đích chính sách môi trường, thay vì đưa những nguồn lực đó để sử dụng tốt nhất tiếp theo 2.2.3. Các phương pháp tiếp cận khác để phân tích mục tiêu của chính sách môi trường Những nhà quản lý và các nhà nghiên cứu đã đề xuất ra các tiêu chí ước lượng khác mà có thể đánh giá được các chính sách môi trường. Một cách tiếp cận, phản ánh cách diễn giải phổ biến của Đạo luật không khí sạch và một vài bộ luật môi trường khác, đã được khẳng định chỉ dựa vào thông tin của khoa học tự nhiên để xác định các chính sách mà loại trừ hoàn toàn những rủi ro môi trường hoặc giảm rủi ro đến mức được coi là chấp nhận được. Ví dụ, đạo luật Không khí sạch là một trong số những văn bản pháp lý liên quan đến việc giảm ô nhiễm khói và không khí nói chung. Chính phủ sử dụng đạo luật này để thực thi các tiêu chuẩn không khí sạch, điều này đã góp phần cải thiện sức khỏe con người và kéo dài tuổi thọ. Nhưng kể từ khi ô nhiễm môi trường không có khả năng biểu lộ ngưỡng sạch dưới đây: Phân tích y tế - sức khỏe là một phương pháp để đánh giá tính kinh tế của chính sách y tế và các quy định an toàn. Đó là một bước đi xa hơn bằng cách cố gắng xác định số lượng tài nguyên và chi phí cơ hội, dựa trên quan điểm cho rằng chi tiêu cho các chương trình điều tiết mà nguồn lực là từ các cá nhân, khiến họ chi tiêu ít hơn cho an toàn và chăm sóc sức khỏe, do đó làm tăng tỷ lệ mắc bệnh và/hoặc rủi ro tỷ vong. Như vậy, lợi ích y tế công cộng bị tương phản với những ảnh hưởng tiêu cực tới sức khỏe. Phân tích y tế - sức khỏe cung cấp một thước đo “lợi ích ròng” (người được cứu sống), nhưng phương pháp phân tích này bị một số hạn chế nghiêm trọng đó là: Nó không bao gồm các lợi ích khác ngoài việc giảm bớt các rủi ro; mỗi cá nhân chỉ phải trích ra một tỷ lệ phần trăm ngân sách tương đối nhỏ để điều chỉnh môi Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 15 Ngành: Kinh tế TNTN&MT trường nghĩa là có thể không có ảnh hưởng nào đáng kể đến chi tiêu y tế cá nhân, và phân tích chính xác phụ thuộc vào nhiệm vụ khó khăn là đánh giá mối quan hệ phức tạp giữ sự đánh đổi thu nhập cận biên và rủi ro về sức khỏe. Phân tích phân phối cung cấp một cách tiếp cận khác để phân tích các mục tiêu kinh tế của chính sách môi trường. Phân tích lợi ích - chi phí chỉ tập trung vào tổng lợi ích ròng, và không đưa vào bản báo cáo hiệu quả phân phối của các chính sách. Tuy nhiên, vấn đề về phân phối phát sinh trong cả hai mặt lợi ích và chi phí tính toán, và xuất hiện cùng một số chiều, bao gồm: Phân tích chéo (như đặc điểm địa lý, thu nhập, chủng tộc, khu vực, và công ty) và tính liên thời gian (chẳng hạn như theo mùa, hàng năm, dài hạn, và giữa các thế hệ). Phân bổ vốn chủ sở hữu có thể là một sự xem xét mang tính xã hội quan trọng, đặc biệt là trong vấn đề tác động đến những người có thu nhập khác nhau, và hai phương pháp tiếp cận đến vấn đề này xứng đáng được đề cập đến: Phân tích lợi ích - chi phí theo trọng số phân phối và phân tích phân phối riêng biệt. Tuy nhiên, hầu hết các nhà kinh tế không ủng hộ việc cố gắng để kết hợp các cân nhắc phân phối vào phân tích lợi ích - chi phí, nhưng họ khuyên nên sử dụng riêng biệt phân tích phân phối như là một phần phụ để phân tích lợi ích - chi phí tiêu chuẩn như: phân tích phân phối có thể kiểm tra tác động đến nhóm dân số, cũng như phân phối thu nhập hoặc của cải của các quốc gia. Các nhóm dân số thường xuyên được xem xét trong bối cảnh chính sách bao gồm các thành phần kinh tế, chính phủ, người tiêu dùng, người già và trẻ em. Phân tích phân phối cũng có thể báo cáo về tiềm năng thay đổi lợi nhuận của các công ty, thay đổi việc làm, đóng cửa nhà máy, thay đổi doanh thu, chính phủ và tính cạnh tranh của ngành công nghiệp. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 16 Ngành: Kinh tế TNTN&MT 2.3. CÁC VẤN ĐỀ THỰC CHỨNG VÀ PHÂN TÍCH Với những cải tiến phúc lợi mà việc làm của các tiêu chí hiệu quả và phương pháp đánh giá có liên quan trong phương pháp phân tích lợi ích - chi phí có thể mang lại chính sách môi trường, đó là hợp lý để yêu cầu việc tiếp nhận nào trong ba ngành của chính phủ là hành pháp, lập pháp, và tư pháp sử dụng các công cụ phân tích này. 2.3.1. Ban hành luật pháp Trong những năm qua, Quốc hội đã gửi những tín hiệu lẫn lộn về việc sử dụng các phân tích lợi ích - chi phí trong việc đánh giá chính sách. Một số quy chế thực sự đòi hỏi việc sử dụng các phân tích lợi ích - chi phí, trong khi những số khác đã được giải thích để loại trừ có hiệu quả việc xem xét các lợi ích và chi phí trong việc phát triển của một số quy định nhất đinh. Nhưng điều này đã không ngăn cản cơ quan quản lý xem xét lợi ích và chi phí trong đề xuất của họ. Mặc dù lập luận như vậy, phân tích lợi ích - chi phí chính thức đã không thường xuyên được sử dụng để giúp thiết lập tính chặt chẽ của tiêu chuẩn môi trường. Nhà nước đã ủng hộ một tập hợp các phương pháp tiếp cận để thiết lập các tiêu chuẩn khác nhau, chẳng hạn như Đạo luật không khí sạch. Các nhà kinh tế và một số học giả đã dành rất nhiều thời gian tranh luận rằng tiêu chí như vậy là không hợp lý cũng không được định rõ. 2.3.2. Nhận biết pháp lý Ngành tư pháp cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hơn nữa việc sử dụng các phương pháp phân tích để hỗ trợ các cơ quan đưa ra quyết định. Những quy tắc mặc định này yêu cầu cơ quan hành chính xem xét các chi phí quy định khi ban hành các quy định và phản ánh một sự chấp nhận pháp lý rộng rãi của việc phân tích lợi ích - chi phí trong quản lý luật lệ. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 17 Ngành: Kinh tế TNTN&MT 2.3.3. Sắp đặt tiêu chuẩn Tại sao việc sử dụng các kỹ thuật phân tích không trở nên phổ biến hơn trong chính sách môi trường? Thay vì tại sao Quốc hội tiếp tục làm luật thường xuyên mà không liên quan đến lợi ích và chi phí? Đầu tiên, một số quy định cho phép các doanh nghiệp được thành lập để trục lợi và thiết lập các rào cản nhập ngành để truyền cho họ một lợi thế cạnh tranh. Ví dụ, tiêu chuẩn chỉ huy và kiểm soát giới hạn tổng lượng xả thải của một doanh nghiệp có thể là nguyên nhân để các doanh nghiệp làm giảm sản lượng của họ để đáp ứng yêu cầu môi trường. Việc hạn chế đầu ra có thể đẩy giá sản phẩm của doanh nghiệp cao hơn chi phí trung bình của nó, và kết quả là, doanh nghiệp có thể kiếm được chênh lệch. Sự cạnh tranh mạnh mẽ sẽ tiêu tan tiền chênh lệch này, nhưng các quy định về môi trường thường tạo ra các rào cản gia nhập thị trường bằng cách áp đặt các tiêu chuẩn khí thải nghiêm ngặt đối với các doanh nghiệp mới, do đó đưa ra một lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Thứ hai, thậm chí nếu các quy định môi trường không làm tăng lợi nhuận của toàn bộ một ngành công nghiệp, nó có thể mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp nhất định trong một ngành công nghiệp. Các doanh nghiệp trong một ngành công nghiệp có khả năng sẽ phải chịu những chi phí khác nhau trong các yêu cầu pháp lý, bởi vì một số doanh nghiệp sẽ có thể điều chỉnh quá trình sản xuất của họ dễ dàng hơn những số khác. Thứ ba, động lực để đưa ra các quy định đôi khi đến từ các nhà sản xuất thiết bị kiểm soát ô nhiễm, công nghệ thân thiện với môi trường, hoặc các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất được ưu tiên bởi chế độ quản lý. Ví dụ, các công ty chuyên về dọn dẹp các khu vực có rác thải nguy hại đã xuất hiện để đáp ứng nhu cầu của làm sạch môi trường. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 18 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Thứ tư, quy định về môi trường thường áp đặt chi phí không cân xứng trên một số khu vực của đất nước. Những khu vực mà chịu chi phí trung bình thấp hơn sẽ trở nên tương đối hấp dẫn cho vốn lưu động, có thể mang lại lợi ích kinh tế chẳng hạn như việc làm và thu nhập từ thuế. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 19 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Chương III LỰA CHỌN CÔNG CỤ - CÁC PHƯƠNG TIỆN ĐỂ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG Những chính sách môi trường thường kết hợp việc xác định các mục tiêu với một số phương tiện để đạt được mục tiêu đó. Trong phần này, chúng ta nghiên cứu các biện pháp (các công cụ) mà Chính phủ có thể sử dụng để đạt được những mục tiêu chính sách đã định. Chúng ta bắt đầu với các vấn đề quy chuẩn và sau đó lần lượt phân tích để làm sáng tỏ vấn đề. 3.1. CÁC VẤN ĐỀ CHUẨN TẮC VÀ PHÂN TÍCH CÁC VẤN ĐỀ CHUẨN TẮC Thậm chí nếu các mục tiêu và mục đích của chính sách môi trường được thực hiện như đã định, phân tích kinh tế có thể mang lại những hiểu biết quý giá cho việc đánh giá và phác thảo các chính sách môi trường. Chúng ta bắt đầu bằng cách xem xét các chỉ tiêu mà nó có thể được đưa ra để tìm kiếm những công cụ chính sách tốt hơn, và sau đó quay lại liệt kê các hạng mục chính của các công cụ chính sách môi trường, bao gồm công cụ chỉ huy - kiểm soát và các công cụ dựa vào thị trường. Các vấn đề chéo đã được xem xét, kể cả sự bất định, thay đổi công nghệ, và các vấn đề phân phối. Chúng ta nghiên cứu các bài học mà nó xuất hiện từ nghiên cứu và kinh nghiệm. 3.1.1. Các tiêu chuẩn để lựa chọn công cụ chính sách Một loạt các tiêu chuẩn đã được thừa nhận là có liên quan đến việc lựa chọn các công cụ chính sách môi trường, bao gồm: 1) Công cụ chính sách sẽ đạt được mục tiêu hoặc tiêu chuẩn của Nhà nước; Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 20 Ngành: Kinh tế TNTN&MT 2) Với chi phí thấp nhất có thể, bao gồm cả sự bằng lòng của bộ phận tư nhân, bộ phận giám sát và thi hành công cộng; 3) Sẽ cung cấp cho Chính phủ những thông tin cần thiết để thực hiện các chính sách; 4) Các công cụ linh hoạt khi đối mặt với những thay đổi trong thị hiếu và công nghệ; 5) Công cụ cung cấp những động lực nhằm khích lệ việc nghiên cứu, phát triển, và áp dụng tốt hơn các công nghệ xử lý chất thải gây ô nhiễm; 6) Thi hành công cụ chính sách sẽ dẫn đến một sự phân phối công bằng các lợi ích và chi phí bảo vệ môi trường; 7) Chính sách là khả thi về mặt chính trị dưới dạng ban hành và thực hiện? Mục (1) đến (5) cùng tham khảo một khái niệm toàn diện của các tiêu chí về hiệu quả chi phí, trong khi mục (6) đề cập đến công bằng phân phối, và mục (7) đề cập đến tính khả thi về mặt chính trị. Để rõ ràng hơn, đầu tiên chúng ta dự định rằng phân bổ kiểm soát giữa các nguồn lực mà kết quả là mục tiêu tổng hợp đạt được với chi phí thấp nhất có thể, có nghĩa là, việc phân bổ thỏa mãn vấn đề giảm thiểu chi phí sau đây: ∑ { } ̅ ∑ [ ] Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 21 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Trong đó: ri = Giảm phát thải (giảm bớt hoặc kiểm soát) bởi nguồn i (i = 1 đến N); ci (ri) = Hàm chi phí của nguồn i C = Tổng chi phí kiểm soát Ui = Phát thải không kiểm soát được bởi nguồn i E = Tổng lượng khí thải mục tiêu bị áp đặt bởi cơ quan quản lý. Nếu hàm chi phí là lồi, thì điều kiện cần và đủ cho sự thỏa mãn tối ưu hóa bắt buộc đã đưa ra trong các phương trình (3) đến (5) là những điều sau đây: [ ] Phương trình (6) và (7) đưa ra ngụ ý về điều kiện quan trọng để có hiệu quả chi phí mà tất cả các nguồn lực cùng trải qua để giảm bớt chi phí cận biên. Vì vậy, khi nghiên cứu các loại công cụ chính sách môi trường khác, một câu hỏi quan trọng là liệu các công cụ đặc biệt có khả năng dẫn đến sự giảm chi phí cận biên được đánh đồng qua các nguồn lực. 3.1.2. Thay thế các công cụ chính sách Chính sách môi trường được sử dụng nhiều nhất là công cụ chỉ huy và kiểm soát so với các tiếp cận dựa vào thị trường. Cách tiếp cận thông thường để điều chỉnh môi trường - thường xuyên mô tả như là chỉ huy và kiểm soát - chỉ cho phép tương đối ít sự linh hoạt trong các phương tiện để đạt được mục tiêu. Công cụ chính sách như vậy có xu hướng buộc các công ty chịu trách nhiệm chia sẻ gánh nặng kiểm soát ô nhiễm, bất kể chi phí, đôi khi bằng cách Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 22 Ngành: Kinh tế TNTN&MT thiết lập các tiêu chuẩn thống nhất cho các doanh nghiệp, phổ biến nhất trong số đó là công nghệ và tiêu chuẩn dựa trên hiệu suất. Công cụ dựa vào thị trường khuyến khích hành vi thông qua các tín hiệu thị trường, hơn là thông qua các chỉ thị rõ ràng về mức độ hoặc các phương pháp kiểm soát ô nhiễm. Những công cụ chính sách này có thể được mô tả hợp lý như “lực lượng khai thác thị trường”. Bởi vì nếu những công cụ chính sách được định hình tốt và thực hiện đúng cách, chúng sẽ khuyến khích các doanh nghiệp hoặc cá nhân thực hiện các nỗ lực kiểm soát ô nhiễm để mang lại lợi ích riêng cho họ đồng thời mang lại lợi ích chung đáp ứng các mục tiêu của chính sách. Công cụ dựa vào thị trường nằm trong sáu loại: thuế ô nhiễm, giấy phép có thể mua bán được, giảm ma sát thị trường, và giảm trợ cấp chính phủ, ký quỹ môi trường, nhãn sinh thái. Quy định trách nhiệm pháp lý cũng có thể được coi như một công cụ dựa trên thị trường, bởi vì nó mang lại sự khích lệ cho các công ty để đưa vào tài khoản thiệt hại môi trường tiềm tàng trong quyết định của họ, cho phép hoàn toàn linh hoạt trong các hoạt động công nghệ và kiểm soát. 3.1.2.1. So sánh công cụ chỉ huy - kiểm soát với công cụ dựa vào thị trường Công cụ dựa vào thị trường cung cấp tiềm lực cho hiệu quả chi phí động, nhưng các vấn đề có thể phát sinh khi đưa lý thuyết vào thực hành, và thật là khó khăn để đo lường mức độ lợi ích của việc di chuyển từ chỉ huy và kiểm soát sang cơ chế khuyến khích. Nơi nào chi phí có tính không đồng nhất đáng kể thì phương pháp kiểm soát – chỉ huy sẽ không hiệu quả về chi phí. Nắm giữ tất cả các doanh nghiệp với cùng một mục tiêu sẽ là quá xa xỉ, bởi vì không có khả năng nhận ra tính không đồng nhất của chi phí giảm phát thải. Trong thực tế, chi phí có thể thay Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 23 Ngành: Kinh tế TNTN&MT đổi rất nhiều do thiết kế sản xuất, cấu hình vật lý, tuổi thọ của tài sản, và các yếu tố khác. Ví dụ, chi phí cận biên của việc kiểm soát phát thải chì đã được ước tính nằm trong khoảng từ 13 USD đến 56.000USD/tấn. Nhưng nơi mà chi phí giữa các nguồn là tương tự nhau thì công cụ kiểm soát-chỉ huy có thể thực hiện tương đương (hoặc tốt hơn) so với công cụ dựa vào thị trường, tùy thuộc chi phí giao dịch, chi phí quản lý, khả năng đưa ra chiến lược, chi phí chính trị và bản chất của các chất ô nhiễm. Về mặt lý thuyết, nếu được thiết kế và thực hiện đúng cách thì công cụ dựa vào thị trường cho phép bất kỳ mức độ mong muốn làm sạch ô nhiễm được thực hiện mà tổng chi phí xã hội thấp nhất, bằng cách cung cấp các ưu đãi đối với sự giảm ô nhiễm lớn nhất bởi những doanh nghiệp đó để có thể đạt được sự giảm ô nhiễm với giá rẻ nhất. Thay vì cân bằng mức độ ô nhiễm giữa các doanh nghiệp, các công cụ dựa vào thị trường cân bằng chi phí giảm phát cận biên của chúng. Cách tiếp cận chỉ huy - kiểm soát có thể - trong lý thuyết- đạt được giải pháp hiệu quả chi phí này, nhưng điều này sẽ yêu cầu các tiêu chuẩn khác nhau được thiết lập cho mỗi nguồn gây ô nhiễm, và, do đó, các nhà hoạch định chính sách có được thông tin chi tiết về việc tuân thủ các chi phí mỗi bộ mặt doanh nghiệp. Như vậy, thông tin đơn giản là không có sẵn cho Chính phủ. Ngược lại, công cụ dựa vào thị trường cung cấp cho một phân bổ hiệu quả chi phí của gánh nặng kiểm soát ô nhiễm giữa các nguồn mà không đòi hỏi Chính phủ phải có thông tin này. 3.1.2.2. Thuế ô nhiễm Các hệ thống phí ô nhiễm ấn định một khoản lệ phí hoặc thuế trên lượng ô nhiễm mà các công ty hoặc các nguồn lực tạo ra. Dựa vào đối tượng đánh thuế và phí có thể phân ra các loại sau: - Thuế và phí chất thải; Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 24 Ngành: Kinh tế TNTN&MT - Thuế và phí rác thải; - Thuế và phí nước thải; - Thuế và phí ô nhiễm không khí; - Thuế và phí tiếng ồn; - Phí đánh vào người sử dụng; - Thuế và phí đánh vào sản phẩm mà quá trình sử dụng và sau sử dụng gây ô nhiễm (ví dụ thuế sunfua, cacbon, phân bón ; - Thuế và phí hành chính nhằm đóng góp tài chính cho việc cấp phép, giám sát và quản lý hành chính đối với môi trường; - Phí dịch vụ môi trường là một dạng phí phải trả khi sử dụng một số dịch vụ môi trường. Mức phí tương ứng với chi phí cho dịch vụ môi trường đó. Bên cạnh đó, phí dịch vụ môi trường còn có mục đích hạn chế việc sử dụng quá mức các dịch vụ môi trường. Có hai dạng dịch vụ môi trường chính và theo đó hai dạng phí dịch vụ môi trường là dịch vụ cung cấp nước sạch, xử lý nước thải và dịch vụ thu gom chất thải rắn. Đối với một số nước công nghiệp, dịch vụ cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn cũng là một vấn đề cần quan tâm nghiên cứu để chính sách áp dụng phù hợp. Do đó, khoản lệ phí hoặc thuế là đáng giá cho các doanh nghiệp để giảm lượng khí thải đến điểm chi phí xử lý cận biên của họ bằng tỷ lệ đánh thuế phổ biến. Theo định nghĩa, phát thải thực tế bằng phát thải không kiểm soát được trừ đi mức giảm khí thải, có nghĩa là, ei = ui-ri. Vấn đề giảm thiểu chi phí của một nguồn trong sự có mặt của thuế phát thải, t, được đưa ra bởi: [ ] Kết quả mỗi nguồn là: Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 25 Ngành: Kinh tế TNTN&MT [ ] Phương trình (10) và (11) ngụ ý rằng mỗi nguồn sẽ thực hiện việc xử lý chất thải đến điểm có chi phí kiểm soát cận biên bằng với thuế xuất. Do đó, chi phí xử lý chất thải cận biên sẽ được đánh đồng qua các nguồn, đáp ứng điều kiện hiệu quả chi phí được quy định bởi các phương trình (6) và (7). Một thách thức với các hệ thống thu phí là xác định thuế suất thích hợp. Đối với hiệu quả xã hội, nó nên được thiết lập bằng với lợi ích cận biên của việc dọn dẹp tại mức độ hiệu quả của việc dọn dẹp, nhưng những nhà hoạt động chính sách có nhiều khả năng hơn để suy nghĩ về mức độ dọn dẹp mong muốn, và họ không biết trước cái cách mà các doanh nghiệp sẽ đối phó lại để đưa ra một mức thuế phải đóng. Một vấn đề nữa được đặt ra bởi các loại thuế ô nhiễm có liên quan đến hiệu quả phân phối của chúng đối với các nguồn được quy định. Mặc dù thực tế là các hệ thống như vậy giảm đến mức tối thiểu tổng chi phí xã hội, các hệ thống này có thể tốn kém hơn các công cụ kiểm soát - chỉ huy có thể so sánh được của các doanh nghiệp đã định. Điều này là bởi vì với cách tiếp cận thuế, các doanh nghiệp thanh toán chi phí xử lý cộng với thuế phát thải còn dư. Để tính chi phí tổng hợp trong một phân tích lợi ích - chi phí hoặc hiệu quả chi phí xã hội, các khoản thanh toán thuế chỉ đơn giản là chuyển nhượng, và vì vậy được loại trừ khỏi các tính toán. 3.1.2.3. Hệ thống giấy phép xả thải có thể giao dịch "Côta gây ô nhiễm là một loại giấy phép xả thải chất thải có thể chuyển nhượng mà thông qua đó, Nhà nước công nhận quyền các nhà máy, xí nghiệp, v.v được phép thải các chất gây ô nhiễm vào môi trường" bằng cách Nhà nước xác định tổng lượng chất gây ô nhiễm tối đa có thể cho phép thải vào Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 26 Ngành: Kinh tế TNTN&MT môi trường, sau đó phân bổ cho các nguồn thải bằng cách phát hành những giấy phép thải gọi là côta gây ô nhiễm và chính thức công nhận quyền được thải một lượng chất gây ô nhiễm nhất định vào môi trường trong một giai đoạn xác định cho các nguồn thải. Khi có mức phân bổ côta gây ô nhiễm ban đầu, người gây ô nhiễm có quyền mua và bán côta gây ô nhiễm. Họ có thể linh hoạt chọn lựa giải pháp giảm thiểu mức phát thải chất gây ô nhiễm với chi phí thấp nhất: Mua côta gây ô nhiễm để được phép thải chất gây ô nhiễm vào môi trường hoặc đầu tư xử lý ô nhiễm để đạt tiêu chuẩn cho phép. Nghĩa là những người gây ô nhiễm mà chi phí xử lý ô nhiễm thấp hơn so với việc mua côta gây ô nhiễm thì họ sẽ bán lại côta gây ô nhiễm cho những người gây ô nhiễm có mức chi phí cho xử lý ô nhiễm cao hơn. Như vậy, sự khác nhau về chi phí đầu tư xử lý ô nhiễm sẽ thúc đẩy quá trình chuyển nhượng côta gây ô nhiễm. Thông qua chuyển nhượng, cả người bán và người mua côta gây ô nhiễm đều có thể giảm được chi phí đầu tư cho mục đích bảo vệ môi trường, đảm bảo được chất lượng môi trường.Chúng ta có thể lý giải thêm điều này bằng thuật toán dưới đây: Dưới một hệ thống giấy phép có thể trao đổi, cho phép tổng thể mức độ ô nhiễm, E, được thiết lập, và được phân bổ giữa các doanh nghiệp bằng hình thức giấy phép xả thải. Các doanh nghiệp giữ mức khí thải dưới mức phân bổ của họ và có thể bán giấy phép thặng dư của mình cho các doanh nghiệp khác hoặc sử dụng chúng để bù đắp lượng khí thải dư thừa trong các phần khác của các hoạt động của họ. Hãy để q0i là phân bổ ban đầu của giấy phép phát thải nguồn i, như vậy: ∑ ̅ Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 27 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Thì, nếu p là giá thị trường đã được xác định của giấy phép có thể trao đổi, vấn đề giảm thiểu chi phí của một công ty đơn lẻ được cho bởi: [ ] Kết quả mỗi nguồn là: [ ] Phương trình (15) và (16) cùng ngụ ý rằng mỗi nguồn sẽ thực hiện xử lý chất thải đến điểm mà chi phí kiểm soát cận biên bằng giá thị trường đã được xác định của giấy phép. Do đó, mức độ ô nhiễm môi trường, E, là thỏa mãn và chi phí xử lý cận biên được đánh đồng cho các nguồn, đáp ứng các điều kiện hiệu quả chi phí. Lưu ý rằng, cân bằng hiệu quả - chi phí duy nhất đạt được độc lập với những phân bổ giấy phép ban đầu. Về mặt chính trị, điều này là quan trọng nhất. Chúng ta sẽ thảo luận ở mục 3.2 dưới đây. 3.1.2.4. Giảm ma sát thị trường Giảm ma sát thị trường cũng có thể dùng như là một công cụ chính sách để bảo vệ môi trường. Vậy ma sát thị trường là gì? Ma sát thị trường là bất cứ điều gì ngăn chặn thị trường phát triển và làm việc đúng đắn. Trong một số trường hợp, thị trường bị hoạt động kém có thể tạo ra các kết quả khiêm tốn cho việc quản lý tài nguyên thiên nhiên, chẳng hạn như thoái hóa đất, độ mặn tăng lên và giảm chất lượng nước. Phương pháp ma sát thi trường nhằm mục đích cải thiện cách làm việc của thị trường hiện có, cải thiện như sau: Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 28 Ngành: Kinh tế TNTN&MT - Tăng cường thông tin có sẵn trong thị trường để người tiêu dùng, các nhà đầu tư hoặc nhà sản xuất có thể đưa ra các quyết định tốt hơn về những hậu quả môi trường của việc mua hàng, đầu tư hoặc sản xuất, hoặc - Giảm chi phí giao dịch liên quan đến việc tham gia vào thị trường mà thị trường đó đem lại kết quả quản lý tài nguyên thiên nhiên, dẫn đến hiệu quả môi trường hơn. Có một loạt các phương pháp để tăng cường dòng chảy thông tin hoặc giảm chi phí giao dịch. Những tiếp cận này có thể không mang lại lợi ích ngay lập tức hoặc trực tiếp, vì vậy thường là khó khăn để dự đoán hoặc đánh giá tác động của chúng. 3.1.2.5. Giảm trợ cấp của Chính phủ Trợ cấp là một công cụ kinh tế quan trọng được sử dụng ở rất nhiều nước châu Âu thuộc Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Trợ cấp thường gồm những dạng sau: - Trợ cấp không hoàn lại - Các khoản cho vay ưu đãi - Cho phép khấu hao nhanh - Ưu đãi thuế Trợ cấp là giúp đỡ các ngành công nghiệp, nông nghiệp và các ngành khác khắc phục ô nhiễm môi trường trong điều kiện khi tình trạng ô nhiễm môi trường quá nặng nề hoặc khả năng tài chính của doanh nghiệp không chịu đựng được đối với việc phải xử lý ô nhiễm môi trường (nâng cao chất lượng môi trường). Nhưng nói chung, nó có những nhược điểm quan trọng liên quan đến thuế. Bởi vì trợ cấp làm tăng lợi nhuận trong các ngành sản xuất, khuyến Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 29 Ngành: Kinh tế TNTN&MT khích nhập cảnh, và do đó có thể làm tăng kích thước các ngành và gây ô nhiễm. Trong thực tế, nhiều trợ cấp Chính phủ đã dẫn tới việc hành động không hiệu quả về mặt kinh tế và không thân thiện với môi trường. Trong những trường hợp như vậy, giảm trợ cấp có thể làm tăng hiệu quả và cải thiện chất lượng môi trường. Ví dụ, vì các mối quan tâm về biến đổi khí hậu toàn cầu, tăng cường sự tập trung để trợ cấp liên bang và các chương trình khác nhằm thúc đẩy việc sử dụng các nhiên liệu hóa thạch. Một nghiên cứu của EPA chỉ ra rằng loại bỏ các khoản trợ cấp sẽ có một tác động đáng kể vào việc giảm lượng khí thải carbon dioxide (CO2). Chính phủ liên bang đã để hết tâm trí vào lĩnh vực năng lượng thông qua hệ thống thuế và thông qua một loạt các chương trình của các cơ quan riêng lẻ. Một nghiên cứu chỉ ra rằng các hoạt động này tốn của Chính phủ 17 tỷ USD mỗi năm. Một phần đáng kể các khoản trợ cấp của Mỹ và các chương trình đã được ban hành trong thời kỳ "khủng hoảng dầu lửa" để khuyến khích sự phát triển nguồn năng lượng trong nước và giảm sự phụ thuộc vào dầu mỏ nhập khẩu. Họ ủng hộ việc cung cấp năng lượng hơn là hiệu quả năng lượng. 3.1.2.6. Những quy định trách nhiệm pháp lý Những quy định trách nhiệm pháp lý thường xuyên được sử dụng nhất cho các mối nguy hiểm cấp tính, đặc biệt là cho các địa điểm có chất thải độc hại và việc xả thải các chất độc hại. Chính phủ có thể tập hợp các chi phí dọn dẹp và các thiệt hại từ các nhà sản xuất xả thải, các phương tiện vận chuyển và người điều khiển xả thải. Tương tự, đạo luật ô nhiễm dầu làm cho các công ty chịu trách nhiệm về chi phí dọn dẹp, thiệt hại tài nguyên thiên nhiên, và các thiệt hại của bên thứ ba bởi sự cố tràn dầu lên bề mặt nước biển; và các Đạo luật nước sạch làm cho Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 30 Ngành: Kinh tế TNTN&MT các bên chịu trách nhiệm về chi phí dọn dẹp của việc làm tràn các chất độc hại. Các cá nhân gây ô nhiễm có thể bị bắt phải chịu trách nhiệm về các thiệt hại để khắc phục các thiệt hại mà họ gây ra cho một cá nhân hoặc một tổ chức bị ảnh hưởng. Về lý thuyết, chi phí đầy đủ của các hành động gây ô nhiễm môi trường do đó sẽ được đưa vào bên trong, và người gây ô nhiễm sẽ giảm tác hại dự kiến trong hành động của mình đến điểm mà tại đó việc cắt giảm thêm nữa trở nên tốn kém hơn so với trách nhiệm dự kiến mà họ phải đối mặt. Hiệu quả của quy định trách nhiệm phụ thuộc một phần vào khả năng của các nạn nhân bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm để đưa ra các hành động nhằm phục hồi thiệt hại. Có 5 vấn đề tiềm tàng. Đầu tiên, tác hại môi trường có thể được phân tán rộng rãi, và do đó, tiền chi trả dự kiến không thể biện minh bằng chi phí cho một nạn nhân riêng lẻ nào. Thứ hai, thường xuyên có rất nhiều nguồn của một chất gây ô nhiễm nhất định, và do đó có thể bên bị thiệt hại (hoặc các bên) không có khả năng xác định nguồn gốc thực tế của thiệt hại. Thứ ba, nhiều tác hại của ô nhiễm có khoảng thời gian ngấm dài, có nghĩa rằng thời gian tác hại tự biểu lộ, hành động bị chặn vì những quy định giới hạn. Tuy nhiên, trong một số khu vực pháp lý, các quy định như vậy bắt đầu thực hiện chỉ khi phát hiện ra tác hại, không áp đặt với rủi ro. Thứ tư, nhiều ảnh hưởng của môi trường là sự ngẫu nhiên của thiên nhiên, chẳng hạn như gây ra bệnh tật, đó là, việc tiếp xúc với môi trường làm tăng xác suất của bệnh tật hoặc tử vong. Trong những trường hợp như vậy, rất khó hoặc không thể xác định một cách chắc chắn nguồn gốc tác hại môi Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 31 Ngành: Kinh tế TNTN&MT trường. Quy tắc về chứng cứ đòi hỏi "sự vượt trội của bằng chứng" chỉ ra rằng nguyên đơn gây ra tác hại cho bên bị không chấp nhận phục hồi dưới những trường hợp này. Thứ năm, gây ô nhiễm không thể có khả năng thanh toán đủ để chi trả một thiệt hại lớn do tòa án ban bố, và khoảng cách giữa khả năng thanh toán toàn bộ của người gây ô nhiễm và thiệt hại đầy đủ sẽ được biểu lộ công khai. Tuy nhiên, quy định trách nhiệm pháp lý có vai trò nòng cốt để đưa vào các quy định môi trường, bởi vì các công cụ điều tiết khác làm tăng tập hợp các vấn đề của riêng chúng. Có những lựa chọn quan trọng cần phải được thực hiện trong việc thiết lập các quy tắc trách nhiệm. Tuy nhiên, những người gây ô nhiễm có nên bị bắt buộc phải liên đới chịu trách nhiệm cho những thiệt hại họ gây ra không? hay là không liên đới chịu trách nhiện? luật lỏng lẻo được ưa thích hơn luật nghiêm khắc hay ngược lại? hơn nữa, bên nào phải có trách nhiệm? người gây ô nhiễm hay chủ đất? 3.1.2.7. Nhãn sinh thái Nhãn sinh thái là một danh hiệu của Nhà nước cấp cho các sản phẩm không gây ra ô nhiễm trong quá trình sản xuất ra sản phẩm hoặc quá trình sử dụng các sản phẩm đó. Được dán nhãn sinh thái là một sự khẳng định uy tín của sản phẩm và của nhà sản xuất. Vì thế các sản phẩm được dán nhãn sinh thái thường có tính cạnh tranh cao và giá bán ra thị trường cũng cao hơn so với các sản phẩm cùng loại. Như vậy, nhãn sinh thái là công cụ kinh té tác động vào nhà sản xuất thông qua phản ứng và tâm lý của khách hàng. Do đó, có rất nhiều nhà sản xuất đang đầu tư để sản phẩm của mình được công nhận là “sản phẩm xanh”, được “dán nhãn sinh thái” và điều kiện được dán nhãn sinh thái ngày càng khắt khe hơn. Nhã sinh thái thường được xem xét và dán cho các sản Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 32 Ngành: Kinh tế TNTN&MT phẩm tái chế từ phế thải (nhựa, cao su ), các sản phẩm thay thế cho các sản phẩm tác động xấu đến môi trường, các sản phẩm có tác động tích cực đến môi trường hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó có ảnh hưởng tốt đến môi trường. Hình 3.1. Các loại nhãn sinh thái trên thế giới Hình 3.2. Mẫu biểu trưng cho nhãn sinh thái Việt Nam 3.1.2.8. Ký quỹ môi trường Ký quỹ môi trường là công cụ kinh tế áp dụng cho các hoạt động kinh tế có tiềm năng gây ô nhiễm và tổn thất môi trường. Nguyên lý hoạt động của hệ thống kỹ quỹ môi trường cũng tương tự như của hệ thống đặt cọc - hoàn trả. Nội dung chính của ký quỹ môi trường là yêu cầu các doanh nghiệp, các Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 33 Ngành: Kinh tế TNTN&MT cơ sở sản xuất kinh doanh trước khi tiến hành một hoạt động đầu tư phải ký gửi một khoản tiền (hoặc kim loại quý, đá quý hoặc các giấy tờ có giá trị) tại ngân hàng hay tổ chức tín dụng nhằm bảo đảm sự cam kết để thực hiện các biện pháp hạn chế ô nhiễm, suy thoái môi trường. Mục đích chính của việc ký quỹ là làm cho người có khả năng gây ô nhiễm, suy thoái môi trường luôn nhận thức được trách nhiệm của họ. Từ đó tìm ra các biện pháp thích hợp ngăn ngừa ô nhiễm, suy thoái môi trường. Trong quá trình thực hiện đầu tư và sản xuất, nếu các doanh nghiệp có các biện pháp chủ động ngăn chặn, khắc phục không để xảy ra ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường, hoàn nguyên hiện trạng môi trường đúng như cam kết thì họ sẽ được nhận lại số tiền đã ký quỹ đó. Ngược lại nếu bên ký quỹ không thực hiện đúng cam kết hoặc phá sản thì số tiền đã ký quỹ đó sẽ được rút ra khỏi tài khoản ngân hàng/tổ chức tín dụng để chi cho công tác khắc phục sự cố, suy thoái môi trường. Ký quỹ môi trường tạo ra lợi ích cho Nhà nước vì không phải đầu tư kinh phí khắc phục môi trường từ ngân sách. Ký quỹ môi trường cũng khuyến khích các doanh nghiệp tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường. Các doanh nghiệp sẽ có lợi do lấy lại được vốn khi không để xảy ra ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường. Với mục đích và nguyên lý hoạt động như vậy, rõ ràng số tiền ký quỹ phải lớn hơn hoặc xấp xỉ với kinh phí cần thiết để khắc phục môi trường nếu doanh nghiệp gây ra ô nhiễm và suy thoái môi trường. Nếu số tiền ký quỹ quá nhỏ so với chi phí bảo vệ môi trường, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng từ bỏ việc nhận lại số tiền ký quỹ đó và không thực hiện các cam kết bảo vệ môi trường của mình. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 34 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Công cụ ký quỹ môi trường đã được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt với các hoạt động công nghiệp như khai thác mỏ, khai thác rừng hoặc đại dương. 3.1.3. Những vấn đề hỗn hợp Ba vấn đề xuyên suốt nổi bật lên trong các phân tích quy chuẩn của việc lựa chọn công cụ chính sách môi trường là: những ảnh hưởng của sự bất định, ảnh hưởng của sự thay đổi công nghệ và các cân nhắc phân phối. 3.1.3.1. Những ảnh hưởng của sự bất định đến việc lựa chọn công cụ chính sách Các nhà hoạch định chính sách đối diện với nhiệm vụ kép là lựa chọn các mục tiêu môi trường và lựa chọn các công cụ chính sách để thực hiện các mục tiêu đó. Hai lựa chọn đó phải được thực hiện trong sự tồn tại của sự bất định làm ảnh hưởng đến những lợi ích và chi phí bảo vệ môi trường. Kể từ bài báo cổ điển của Weitzman (1974) "Giá với Số lượng", đã được thừa nhận bởi hầu hết mọi người rằng lợi ích bất định không ảnh hưởng đến việc nhận dạng công cụ kiểm soát hiệu quả, nhưng chi phí bất định có thể có những tác động đáng kể, tùy thuộc vào độ dốc tương đối của hàm lợi ích cận biên và hàm chi phí cận biên. Đặc biệt, nếu bất định về chi phí xử lý chất thải cận biên là đáng kể, và nếu chi phí xử lý chất thải cận biên phẳng tương đối với lợi ích cận biên, thì công cụ số lượng hiệu quả hơn so với công cụ giá. Chúng ta hiếm khi gặp phải tình huống trong đó không có cả lợi ích bất định và chi phí bất định. Ngược lại, trong lĩnh vực môi trường chúng ta thường thấy rằng cả hai cùng có mặt, và thường xuyên hơn không, lợi ích bất định có tầm quan trọng lớn hơn đáng kể. Khi các lợi ích cận biên có mối tương quan rõ ràng với các chi phí cận biên, thì có một luận cứ bổ sung để ủng hộ hiệu quả tương đối của công cụ số lượng. Mặt khác, quy định các chất Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 35 Ngành: Kinh tế TNTN&MT gây ô nhiễm thường sẽ có lợi cho các công cụ giá, vì hàm lợi ích cận biên được liên kết với các chất gây ô nhiễm sẽ có xu hướng tương đối bằng phẳng, so với hàm chi phí cận biên liên kết với dòng ô nhiễm. 3.1.3.2.Tác động của sự lựa chọn công cụ đến thay đổi công nghệ Sự can thiệp của chính sách môi trường tăng cường sự thúc ép và khích lệ đến quá trình thay đổi công nghệ. Để có được hiệu quả chi phí động, các công cụ cần thúc đẩy chứ không phải là hạn chế phát minh, đổi mới và khuếch tán công nghệ. Cả công cụ kiểm soát – chỉ huy và công cụ dựa vào thị trường đều có khả năng thúc đẩy hoặc lôi kéo sự thay đổi công nghệ, bằng cách yêu cầu các doanh nghiệp thay đổi hành vi của mình. Công nghệ và các tiêu chuẩn thực hiện có thể được sử dụng để kích thích đổi mới bằng cách đặt ra các mục tiêu đầy tham vọng, vượt ra ngoài tầm với của công nghệ hiện tại. Nhưng không thể biết liệu một mục tiêu đã cho có tính khả thi hay không, do đó sẽ có những thất bại đáng kể khi các chính sách được đưa vào sử dụng. Các tiêu chuẩn công nghệ đặc biệt có vấn đề, bởi vì chúng có xu hướng đóng băng sự phát triển của công nghệ mà có thể nếu không thì dẫn đến mức độ kiểm soát lớn hơn. Phần lớn các nghiên cứu kinh tế để phát minh và đổi mới công nghệ (thương mại hóa) đã tập trung khuyến khích các doanh nghiệp quyết định chịu chi phí nghiên cứu và phát triển khi đối mặt với các kết quả bất định. Công việc có liên quan sớm nhất là Magat (1978, 1979), người đã so sánh các loại thuế, trợ cấp, giấy phép, tiêu chuẩn nước thải, tiêu chuẩn công nghệ, và chỉ ra rằng tất cả những tiêu chuẩn công nghệ sẽ đem lại sự đổi mới thiên về cắt giảm khí thải. Lý thuyết gần đây hơn cố gắng để xếp hạng các công cụ chính sách theo tác dụng kích thích sự đổi mới của chúng, kết luận rằng phân loại rõ ràng các công cụ là không thực hiện được. Việc xếp hạng các công cụ phụ thuộc vào khả năng sáng tạo để lợi ích lan toả của công nghệ mới đến các Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 36 Ngành: Kinh tế TNTN&MT doanh nghiệp khác, chi phí cải tiến, hàm lợi ích môi trường và số lượng các công ty phát thải. Quay sang phổ biến công nghệ, một số nghiên cứu trên lý thuyết đã chỉ ra rằng việc khuyến khích để chấp nhận công nghệ mới theo các công cụ dựa vào thị trường hơn là theo quy định trực tiếp, nhưng những so sánh về mặt lý thuyết giữa các công cụ dựa vào thị trường chỉ đem lại thỏa thuận hạn chế. Kết quả cuối cùng dường như là việc bán giấy phép xả thải lại ít được khuyến khích hơn hệ thống thuế ô nhiễm (nhưng cả 2 đều vượt trội so với các công cụ kiểm soát-chỉ huy). Mối liên quan chặt chẽ giữa các tác động của sự lựa chọn công cụ đến thay đổi công nghệ là tác động của quy định thay đổi theo thời gian về tỷ lệ quay vòng vốn, và có liên quan tới chi phí xử lý chất thải ô nhiễm và môi trường. Quy định thay đổi theo thời gian như là một đặc trưng phổ biến của các chính sách môi trường và nhiều chính sách quản lý khác tại Hoa Kỳ, trong đó các tiêu chuẩn cho các đơn vị đã được quy định là cố định trong ngày nhập, những đơn vị về sau phải đối mặt mới những quy định nghiêm ngặt hơn. Ứng dụng phổ biến nhất, các đơn vị được sản xuất trước một ngày cụ thể thì được miễn một quy định mới hoặc đối mặt các yêu cầu ít nghiêm ngặt hơn. Trong khi phương pháp này từ lâu đã kêu gọi nhiều người tham gia vào nhóm chính sách, các nhà kinh tế thường xuyên lưu ý rằng quy định thay đổi theo thời gian có thể được dự kiến - trên cơ sở của của lý thuyết đầu tư - để làm chậm doanh thu vốn cổ phần, và do đó giảm chi phí-hiệu quả của các quy định, so với các quy định không phân biệt tương ứng. Hơn nữa, theo một số điều kiện thì kết quả là lượng khí thải gây ô nhiễm có thể cao hơn so với những gì sẽ xảy ra trong trường hợp không có quy định. Hậu quả kinh tế và môi trường như vậy không phải là dự đoán từ lý thuyết, mà đã được xác nhận thực nghiệm trong bối cảnh các quy định cụ thể. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 37 Ngành: Kinh tế TNTN&MT 3.1.3.3. Cân nhắc phân phối Các công cụ chính sách khác có thể có những ảnh hưởng khác nhau đáng kể đến việc phân phối lợi ích và chi phí. Đầu tiên chúng ta quan tâm đến lợi ích, thuế hoặc giấy phép giao dịch, có thể dẫn đến việc khoanh vùng "những điểm nóng" với mức độ ô nhiễm môi trường xung quanh tương đối cao. Đây là vấn đề phân phối quan trọng, và nó cũng có thể trở thành một vấn đề hiệu quả nếu thiệt hại là phi tuyến với nồng độ chất ô nhiễm. Theo lý thuyết, vấn đề có thể được giải quyết thông qua việc sử dụng các “giấy phép môi trường xung quanh” hoặc thông qua hệ thống phí đó là chìa khóa để thay đổi các điều kiện môi trường xung quanh tại các địa điểm quy định, hoặc thông qua các chương trình trao đổi mà chỉ đơn giản là bị hạn chế bởi yêu cầu rằng các tiêu chuẩn môi trường xung quanh không bị vi phạm. Quay sang phía chi phí, các loại thuế và giấy phép giao dịch, có thể làm tăng thu nhập cho Chính phủ. Doanh thu tái sinh (có nghĩa là, bằng cách sử dụng thuế hoặc doanh thu từ giấy phép) có thể làm giảm đáng kể các chi phí kiểm soát ô nhiễm. Nó đã được đề xuất bởi một số người rằng tất cả các chi phí giảm thải kết hợp với thuế ô nhiễm có thể được loại trừ thông qua doanh thu tái sinh, nhưng các loại thuế môi trường có thể làm trầm trọng thêm các biến dạng khi kết hợp với các loại thuế còn lại trong đầu tư và lao động, nghiên cứu chỉ ra rằng những biến dạng này ít nhất cũng lớn như là những các khoản thuế lao động. Mặc dù phân phối ảnh hưởng đến phúc lợi xã hội, một chủ đề quan trọng của tài liệu có tính chất lý thuyết cho thấy rằng phân phối không nên có ý nghĩa trong việc lựa chọn các công cụ chính sách. Hylland và Zeckhauser (1979) cho rằng tối ưu hệ thống thuế đạt được bằng cách điều chỉnh thuế lợi ích bù đắp, tối đa hóa lợi ích ròng phải là tiêu chí duy nhất cho sự lựa chọn chính sách. Mặc dù có những hạn chế nhưng theo lý thuyết, hệ thống thuế thu Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 38 Ngành: Kinh tế TNTN&MT nhập là phù hợp nhất để phân phối lại thu nhập. Hơn nữa, Kaplow và Shavell (2001) chứng minh rằng rằng các vấn đề môi trường nên được giải quyết một cách lý tưởng thông qua một cặp chính sách: Một công cụ chính sách môi trường hiệu quả được chọn chỉ dựa trên cơ sở tối đa lợi ích ròng, và một sự điều chỉnh thuế thu nhập để có thể bù đắp những tác động phân phối không mong muốn. Xem xét nền kinh tế chính trị có thể đi ngược lại với những lập luận như vậy về mặt lý thuyết, vì thật là khó khăn để kết hợp tất cả các quy tắc chính sách môi trường với một sự thay đổi hệ thống thuế thu nhập. Cũng có thể là không khả thi để áp dụng các chính sách môi trường mà các chính sách đó không tự giải quyết mối quan tâm phân phối. Thật vậy, tiêu chí Kaldor- Hicks không nên được xem là điều kiện cần cũng không phải điều kiện đủ cho chính sách công. Tính khả thi chính trị của một chính sách chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những tác động phân phối của nó.Theo viễn cảnh của các công ty đã định, hệ thống giấy phép bán đấu giá hoặc phí nước thải có thể tốn kém hơn so với công cụ kiểm soát-chỉ huy. Mặt khác, hệ thống giấy phép có thể giao dịch có các thuộc tính quan trọng là không giảm chi phí giao dịch cận biên (thực chất là giảm số lượng), vị trí cân bằng và chi phí xử lý tổng hợp của một hệ thống giấy phép có thể giao dịch độc lập phân bổ ban đầu. Do đó, các quyết định phân bổ có thể để cho các nhà lãnh đạo, với mối quan tâm bản quy phạm hạn chế về những tác động tiềm năng của người được chọn phân bổ trên tổng chi phí-hiệu quả. Nói cách khác, hiệu quả chi phí hay hiệu quả có thể đạt được, trong khi cân bằng phân phối đồng thời được giải quyết với cùng một công cụ chính sách. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 39 Ngành: Kinh tế TNTN&MT 3.1.4. Các bài học chuẩn tắc Chúng ta xem lại một chút những bài học chuẩn tắc mà có thể được rút ra từ nghiên cứu và kinh nghiệm. 3.1.4.1. Kế hoạch và thực thi Việc thực thi các công cụ dựa vào thị trường nhằm bảo vệ môi trường cho đến nay đã cung cấp bằng chứng cho thấy các phương pháp tiếp cận này có thể đạt được sự tiết kiệm chi phí lớn trong khi hoàn thành các mục tiêu môi trường của chúng. Việc thực hiện các phương pháp này cũng cung cấp các bài học về tầm quan trọng của sự linh hoạt, đơn giản, và khả năng tiềm tàng của khu vực tư nhân. Liên quan đến tính linh hoạt, cho phép linh hoạt về thời gian và việc trao đổi giấy phép xả thải có tính liên thời gian, có nghĩa là, chiết khấu ngân hàng cho sử dụng trong tương lai đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thực thi chương trình trao đổi giấy phép xả thải SO2. Một trong những lợi ích quan trọng nhất của việc sử dụng các công cụ dựa vào thị trường có thể đơn giản là tránh được các tiêu chuẩn công nghệ. Hệ thống ít linh hoạt sẽ không dẫn đến sự thay đổi công nghệ mà có thể đã được gây ra bởi công cụ dựa vào thị trường, cũng không đem lại quá trình đổi mới. Liên quan đến sự đơn giản, kế hoạch rõ ràng thì khó để tranh cãi hoặc bóp méo. Việc yêu cầu sự phê chuẩn ưu tiên của chính phủ cho các giao dịch riêng lẻ có thể làm tăng sự bất định và chi phí giao dịch, do đó hạn chế trao đổi; những tác động tiêu cực này cần có sự cân bằng tương phản với bất kỳ lợi ích dự kiến nào do việc yêu cầu sự chấp thuận ưu tiên của Chính phủ. Yêu cầu như vậy cản trở chương trình trao đổi xả thải (EPA) trong những năm 1970, trong khi thiếu các yêu cầu như vậy là một yếu tố quan trọng trong sự thành công của việc trao đổi chì. Trong trường hợp trao đổi SO2, thiếu các Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 40 Ngành: Kinh tế TNTN&MT yêu cho sự phê chuẩn ưu tiên đã giảm tính bất định cho các tiện ích và giảm chi phí hành chính cho Chính phủ, và góp phần dẫn đến chi phí giao dịch thấp. Một trong những nguyên nhân quan trọng tiềm tàng của việc thực hiện lẫn lộn các công cụ dựa vào thị trường đó là có rất nhiều doanh nghiệp đơn giản là không được trang bị tốt để đưa ra quyết định cần thiết để sử dụng đầy đủ các công cụ này. Trọng tâm của môi trường, y tế, và khu vực an toàn trong các công ty tư nhân chủ yếu là tránh các vấn đề và quản lý rủi ro, chứ không phải là về việc tạo ra các cơ hội có thể được thực hiện bởi công cụ dựa vào thị trường. 3.1.4.2. Nhận biết các ứng dụng mới Ngày nay các công cụ chính sách dựa vào thị trường được coi là sát thực với mọi vấn đề môi trường mà các vấn đề đó đang bị nổi cộm lên, từ việc bảo tồn các loài có nguy cơ tuyệt chủng đến biến đổi khí hậu toàn cầu. Ở nơi mà chi phí của việc giảm ô nhiễm giữa các nguồn là khác nhau nhiều, một hệ thống dựa trên cơ sở thị trường khả năng có lợi hơn các quy định kiểm soát- chỉ huy. Ví dụ, rõ ràng dễ nhận thấy nhất là tính không đồng nhất của chi phí xử lý chất thải SO2 là lớn, vì sự khác nhau về độ tuổi của cây và sự xa gần của chúng với các nguồn than có hàm lượng lưu huỳnh thấp. Việc lựa chọn các công cụ dựa vào thị trường nên phụ thuộc vào các đặc điểm của chất gây ô nhiễm, mức độ bất định, những thay đổi dự kiến trong môi trường kinh tế, khả năng tạo ra sự thay đổi công nghệ, chi phí giao dịch tiềm tàng, và các yếu tố tương tác đáng kể khác. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 41 Ngành: Kinh tế TNTN&MT 3.2. CÁC VẤN ĐỀ THỰC CHỨNG VÀ PHÂN TÍCH CÁC VẤN ĐỀ THỰC CHỨNG Một tập các câu hỏi nền kinh tế chính trị thực chứng được đưa ra bởi việc sử dụng ngày càng tăng các công cụ dựa vào thị trường để bảo vệ môi trường. Đầu tiên, tại sao các quốc gia, đơn cử ở Hoa Kỳ, sử dụng rất ít các công cụ dựa vào thị trường, so với công cụ kiểm soát-chỉ huy, mặc dù có những lợi thế rõ ràng những công cụ này cung cấp? Thứ hai, khi các công cụ dựa vào thị trường đã được thông qua, lý do tại sao lại có được sự tin cậy lớn như vậy vào giấy phép giao dịch được cấp mà không phải trả phí, mặc dù đã có một tập hợp rộng lớn các công cụ dựa vào thị trường tăng lên đáng kể trong những năm gần đây? Thứ ba, tại sao sự chú ý chính trị cho các công cụ chính sách môi trường dựa vào thị trường lại tăng lên đáng kể trong những năm gần đây?. Các câu hỏi này sẽ được trả lời bằng sự phổ biến của giấy phép có thể trao đổi được. Lý thuyết kinh tế cho rằng sự lựa chọn giữa các giấy phép có thể giao dịch, thuế ô nhiễm và các công cụ dựa vào thị trường khác nên được dựa trên các trường hợp cụ thể, nhưng những ứng dụng chủ yếu ở Hoa Kỳ đã gần như luôn luôn đưa ra những hình thức giấy phép có thể giao dịch được phân bổ mà không phải trả phí, chứ không phải thông qua đấu giá. Rất nhiều thành phần tham gia trong quá trình hoạch định chính sách có lý do để ưu tiên cho các giấy phép có thể giao dịch được phân bổ mà không phải trả phí hơn các công cụ dựa vào thị trường khác. Về phía cầu quy định, các công ty hiện nay ủng hộ cho giấy phép có thể giao dịch được phân bổ mà không phải trả phí. Hơn nữa, giống như tiêu chuẩn nghiêm ngặt chỉ huy và kiểm soát cho các nguồn mới, nhưng không giống như giấy phép bán đấu giá hoặc thuế, giấy phép được phân bổ mà không phải trả phí làm tăng các rào cản gia nhập thị trường, vì người mới tham gia phải Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 42 Ngành: Kinh tế TNTN&MT mua giấy phép từ những người nắm giữ nó hiện có. Như vậy, tiền thuê đã chuyển đến các khu vực kinh tế tư nhân bằng giấy phép có thể giao dịch được phân bổ mà không phải trả phí là hiệu quả, bền vững. Nhóm vận động môi trường thường hỗ trợ phương pháp chỉ huy và kiểm soát, nhưng với sự lựa chọn giữa giấy phép có thể giao dịch và các loại thuế phát thải, những nhóm này rõ ràng thích cái trước. Hoạt động môi trường có một động lực mạnh mẽ để tránh các công cụ chính sách mà làm cho các chi phí về bảo vệ môi trường cao rõ rệt cho người tiêu dùngvà các loại thuế làm cho những chi phí đó rõ ràng hơn so với giấy phép. Ngoài ra, những người ủng hộ môi trường thích kế hoạch giấy phép bởi vì họ định rõ số lượng giảm thiểu ô nhiễm sẽ đạt được, ngược lại với các tác động gián tiếp của các loại thuế ô nhiễm. Nhìn chung, một số các nhóm hoạt động môi trường đã đi xác nhận tiếp cận giấy phép có thể giao dịch vì nó hứa hẹn tiết kiệm chi phí thuế ô nhiễm, nhưng thiếu những hạn chế mà các nhà môi trường liên kết với các công cụ thuế. Giấy phép có thể giao dịch được phân bổ mà không có phí là dễ dàng cho các nhà lập pháp để bổ sung hơn là thuế hoặc giấy phép bán đấu giá, một lần nữa bởi vì chi phí đối với ngành công nghiệp ít có thể nhìn thấy và ít nặng nề, vì không tiền bạc nào được trao đổi tại thời điểm phân bổ giấy phép ban đầu. Ngoài ra, giấy phép phân bổ mà không phải trả phí cung cấp các mức độ lớn hơn về của việc kiểm soát chính trị trên các tác động phân phối của quy định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành của đa số các liên minh. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 43 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Chương IV QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG 4.1. NHỮNG HÌNH THỨC CƠ BẢN TRONG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 4.1.1. Khái niệm quản lý môi trường "Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế xã hội quốc gia". Các mục tiêu chủ yếu của công tác quản lý về môi trường bao gồm: - Khắc phục và phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường phát sinh trong hoạt động sống của con người; - Phát triển bền vững kinh tế và xã hội quốc gia theo 9 nguyên tắc của một xã hội bền vững do hội nghị Rio-92 đề xuất. Các khía cạnh của phát triển bền vững bao gồm: Phát triển bền vững kinh tế; bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên; không tạo ra ô nhiễm và suy thoái chất luợng môi trường sống, nâng cao sự văn minh và công bằng xã hội; - Xây dựng các công cụ có hiệu lực quản lý môi trường quốc gia và các vùng lãnh thổ. Các công cụ trên phải thích hợp cho từng ngành, từng địa phương và cộng đồng dân cư. Nguyên lý về tính thống nhất vật chất thế giới gắn tự nhiên, con người và xã hội thành một hệ thống rộng lớn "Tự nhiên - Con người - Xã hội", trong đó yếu tố con người giữ vai trò rất quan trọng. Tính thống nhất của hệ thống "Tự nhiên - Con người - Xã hội" đòi hỏi việc giải quyết vấn đề môi trường và thực hiện công tác quản lý môi trường phải toàn diện và hệ thống. Con người Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 44 Ngành: Kinh tế TNTN&MT nắm bắt cội nguồn sự thống nhất đó, phải đưa ra các phương sách thích hợp để giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh trong hệ thống đó. Vì chính con người đã góp phần quan trọng vào việc phá và tất yếu khách quan là sự thống nhất giữa tự nhiên - con người - xã hội. Sự hình thành những chuyên ngành khoa học như quản lý môi trường, sinh thái nhân văn là sự tìm kiếm của con người nhằm nắm bắt và giải quyết các mâu thuẫn, tính thống nhất của hệ thống "Tự nhiên - Con người - Xã hội". 4.1.2 Khái niệm hình thức quản lý tài nguyên môi trường Là các phương sách trong quản lý tài nguyên môi trường nhằm đem lại những lợi ích to lớn cho con người, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Theo Arnstein (1969), các hình thức quản lý khác nhau nằm trong hai hình thức cơ bản là quản lý hành chính Nhà nước và quản lý cộng đồng. Ngoài ra đồng quản lý hay quản lý nguồn lợi dựa vào cộng đồng (QLNLDVCĐ) là hình thức quản lý trung gian giữa hai hình thức trên. QLNLDVCĐ là một hình thức hợp tác giữa cộng đồng và nhà chức trách trong việc chia sẻ quyền và trách nhiệm trong quản lý và lợi ích (Pomerroy, 1995). Cả hai hình thức quản lý và quản lý cộng đồng thuần tuý đều có lợi ích và hạn chế riêng, đôi khi không thể dung hoà hay đánh đổi được. Vì thế, cần một hình thức quản lý kết hợp hài hòa các lợi ích, sự phối hợp và khả năng của cộng đồng cũng như các kỹ năng về khoa học kỹ thuật, công nghệ và quản lý của các tổ chức Nhà nước. Đó là hình thức quản lý dựa vào cộng đồng. Hiệu quả quản lý sẽ được nâng cao khi có sự tham gia của người sử dụng nguồn lợi và các bên liên quan trong việc quản lý (Pomeroy, 2000 và VEEM, 2002). Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 45 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Qua quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy có 4 hình thức quản lý tài nguyên môi trường cơ bản sau: - Quản lý Nhà nước - Quản lý tư nhân - Quản lý cộng đồng - Quản lý dựa vào cộng đồng 4.2. CÁC HÌNH THỨC QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG 4.2.1. Quản lý Nhà nước Hình thức quản lý Nhà nước là quản lý tài nguyên môi trường thông qua các công cụ luật pháp, chính sách về môi trường trên phương diện quốc tế và quốc gia. Luật quốc tế về môi trường là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm quốc tế điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia, giữa quốc gia và các tổ chức quốc tế trong việc ngăn chặn, loại trừ thiệt hại gây ra cho môi trường của từng quốc gia và môi trường ngoài phạm vi tàn phá quốc gia. Các văn bản luật quốc tế về môi trường được hình thành một cách chính thức từ thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, giữa các quốc gia châu Âu, châu Mỹ, châu Phi. Từ hội nghị quốc tế về "Môi trường con người" tổ chức năm 1972 tại Thuỵ Điển và sau Hội nghị thượng đỉnh Rio - 92 có rất nhiều văn bản về luật quốc tế được soạn thảo và ký kết. Cho đến nay đã có hàng nghìn các văn bản luật quốc tế về môi trường, trong đó nhiều văn bản đã được chính phủ Việt Nam tham gia ký kết. Trong phạm vi quốc gia, vấn đề môi trường được đề cập trong nhiều bộ luật, trong đó Luật Bảo vệ Môi trường được quốc hội nước Việt Nam thông qua ngày 27/12/1993 là văn bản quan trọng nhất. Chính phủ đã ban hành Nghị định 175/CP ngày 18/10/1994 về hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ Môi trường và Nghị định 26/CP ngày 26/4/1996 về Xử phạt vi phạm hành chính về bảo Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 46 Ngành: Kinh tế TNTN&MT vệ môi trường. Bộ Luật hình sự, hàng loạt các thông tư, quy định, quyết định của các ngành chức năng về thực hiện luật môi trường đã được ban hành. Một số tiêu chuẩn môi trường chủ yếu được soạn thảo và thông qua. Nhiều khía cạnh bảo vệ môi trường được đề cập trong các văn bản khác như Luật Khoáng sản, Luật Dầu khí, Luật Hàng hải, Luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Phát triển và Bảo vệ rừng, Luật Bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, Pháp lệnh về đê điều, Pháp lệnh về việc bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, Pháp luật bảo vệ các công trình giao thông. Các văn bản trên cùng với các văn bản về luật quốc tế được Nhà nước Việt Nam phê duyệt là cơ sở quan trọng để thực hiện công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường. Ngày 15 tháng 11 năm 2004, Bộ Chính trị (khóa IX) đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW “Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Sau hơn 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết, công tác bảo vệ môi trường đã đạt được một số kết quả nhất định. Luật Bảo vệ môi trường (năm 2005) và Luật Đa dạng sinh học (năm 2008) đã được Quốc hội thông qua, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về môi trường tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và bước đầu đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Nhận thức, ý thức về công tác bảo vệ môi trường trong các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, của các tầng lớp nhân dân được nâng lên một bước. Lần đầu tiên nhóm chỉ tiêu về môi trường đã được xây dựng dựa vào các chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 và hình thành mục chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường với mức chi hàng năm không dưới 1% tổng chi ngân sách Nhà nước. Hệ thống các cơ quan quản lý môi trường từ Trung ương đến cơ sở được tăng cường, lực lượng cảnh sát môi trường đã được thành lập và đi vào hoạt động. Những vấn đề bức xúc và các điểm nóng về môi trường đang từng bước được giải quyết. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 47 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Tuy nhiên, việc thực hiện các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp Nghị quyết số 41-NQ/TW đã đề ra còn nhiều thiếu sót, công tác bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế, yếu kém. Phân tích mô hình quản lý tài nguyên môi trường theo hình thức quản lý Nhà nước: Chương trình 327 tiến hành tại 3 huyện thuộc lưu vực Sông Cả là Kỳ Sơn, Tương Dương ở Nghệ An và Con Cuông - một ví dụ về quản lý tài nguyên theo hình thức Nhà nước. Các quyết định quan trọng về hưởng dụng tài nguyên và luật lệ trong quản lý tài nguyên đều do chính quyền trung ương quyết định. Các chính quyền địa phương chủ yếu chỉ được trao quyền tổ chức triển khai thực hiện các chương trình, chính sách của Nhà nước trên địa bàn của địa phương mình mà không được quyền ra quyết định trong việc sử dụng tài nguyên. Chính quyền địa phương phụ thuộc về tài chính đối với chính quyền cấp trên vì nguồn kinh phí cho việc quản lý bảo vệ rừng, xây dựng vốn rừng và việc thực hiện các chương trình dự án của chính phủ ở các địa phương đều trông chờ vào sự phân bổ kế hoạch và kinh phí hàng năm của Nhà nước cho các địa phương. Nguồn kinh phí này thường rất khiêm tốn, không thể đáp ứng nhu cầu cần thiết của các địa phương. Do chính quyền địa phương cấp cơ sở khi được trao quyền mà không có khả năng về tài chính nên khó có thể có khả năng ra quyết định. Người dân được giao đất lâm nghiệp nhưng vì chính sách hưởng lợi không rõ ràng và thù lao ít ỏi đã không thu hút được sự đầu tư trồng và bảo vệ rừng một cách có hiệu quả. Việc cấp phát cây giống không dựa vào nhu cầu của người dân, cây giống kém chất lượng, không đúng thời vụ gieo trồng, không hướng dẫn kỹ thuật cần thiết trước khi trồng là nguyên nhân tất yếu Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 48 Ngành: Kinh tế TNTN&MT dẫn đến tình trạng tỉ lệ cây sống thấp, bị chặt bỏ vì chất lượng kém, không được trồng vì không có nhu cầu. Có thể thấy rõ cách tiếp cận áp đặt từ trên xuống của các dự án thuộc CT 327. Đánh giá về sự tham gia vào các dự án 327, phần lớn cán bộ và dân địa phương đều cho rằng họ không có cơ hội được tham gia góp ý kiến mà mọi quyết định đều áp đặt từ trên xuống. Hơn nữa việc hỗ trợ cây giống và vật tư của các dự án này mang tính chất “ban phát” cho người dân hơn là giúp họ phát triển các hoạt động sản xuất một cách có hiệu quả và lâu bền. Sự ban phát này cùng với việc cung cấp thông tin không đầy đủ cho người dân về dự án đã làm cho người hưởng lợi từ dự án coi nhẹ sự hỗ trợ của Nhà nước dẫn đến tình trạng lãng phí cây giống và chăn thả gia súc bừa bãi gây thiệt hại lớn cho việc trồng và bảo vệ rừng. Sự hưởng lợi đối với các cán bộ các cấp các ngành tham gia triển khai thực hiện các chính sách, chương trình, dự án không có, nếu có thì không đáng kể, vì vậy chưa tạo ra động lực thúc đẩy họ làm tốt công việc được giao. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu trách nhiệm trong khi thực hiện các chương trình dự án như các dự án thuộc Chương trình 327, Giao đất giao rừng, Xoá đói giảm nghèo ở một số địa phương. Kết quả thực hiện các chính sách và chương trình dự án tại các địa phương phụ thuộc một phần vào tinh thần trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ được trao quyền. Sự buông lỏng quản lý, thiếu sự kiểm tra giám sát cần thiết của các cấp có thẩm quyền là tình trạng chung giải thích cho kết quả nghèo nàn của một số chương trình, dự án thực hiện trên địa bàn nghiên cứu. Phân tích đặc điểm của chương trình 327 ở 3 huyện thuộc lưu vực Sông Cả là Kỳ Sơn, Tương Dương ở Nghệ An và Con Cuông có thể thấy những được nguyên nhân thất bại của dự án. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 49 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Qua tìm hiểu về hình thức quản lý Nhà nước, chúng tôi rút ra một số ưu và nhược điểm sau: Mặt tích cực - Quản lý môi trường trên phạm vi vĩ mô; - Đánh giá được hiệu quả một cách tổng hợp; - Định hướng được mục tiêu, chương trình hành động; - Đảm bảo tính thống nhất giữa các tổ chức, cá nhân, giữa các ban ngành chức năng và giữa các địa phương. Mặt hạn chế - Việc quản lý Nhà nước chủ yếu dựa trên công cụ luật pháp, các chế tài vì thế việc thực hiện tỏ ra cứng nhắc, chưa đồng bộ và phù hợp với nhu cầu của cộng đồng và quốc gia; - Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách và hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước về bảo vệ tài nguyên môi trường còn chậm, chưa đồng bộ; - Đội ngũ cán bộ quản lý môi trường còn thiếu về số lượng, hạn chế về năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Trình độ khoa học - công nghệ bảo vệ môi trường, xử lý, giải quyết ô nhiễm môi trường còn thấp; - Nhận thức về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững của nhiều cấp ủy, lãnh đạo các cấp, các ngành, doanh nghiệp và nhân dân chưa đầy đủ; ý thức bảo vệ môi trường nhìn chung còn thấp; - Nguồn vốn đầu tư và chi thường xuyên cho bảo vệ tài nguyên môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều địa phương còn sử dụng kinh phí sự nghiệp môi trường cho các mục đích khác hoặc sử dụng không hiệu quả; Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 50 Ngành: Kinh tế TNTN&MT - Trang thiết bị phục vụ công tác bảo vệ tài nguyên môi trường còn thiếu và lạc hậu. Nhiều nơi trong chỉ đạo, điều hành chỉ quan tâm tới các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, coi nhẹ các yêu cầu bảo vệ môi trường; có biểu hiện buông lỏng công tác quản lý Nhà nước, thiếu kiên quyết trong việc xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; chưa giải quyết dứt điểm các điểm nóng, bức xúc về ô nhiễm môi trường; - Tình trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường diễn ra khá phổ biến. Nhiều vi phạm có tổ chức, tinh vi, một số hành vi có dấu hiệu tội phạm. Nhiều tổ chức, cá nhân khi vi phạm nhưng không nhận trách nhiệm. Tuy vậy, Nhà nước vẫn chưa có biện pháp xử lý hiệu quả, để lại những hậu quả nặng nề cho môi trường; - Các hình thức xử lý vi phạm còn mang tính chiếu lệ, chưa đủ sức răn đe, ngăn ngừa; - Việc quản lý môi trường chưa thực sự mang lại hiệu quả đối với chất lượng cuộc sống của người dân do đó trong quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn, trở ngại như người dân tiếp tay, bảo vệ cho lâm tặc, 4.2.2 Quản lý tư nhân Quản lý tư nhân (cá nhân, hộ gia đình) là hình thức quản lý thấp nhất về quy mô. Trong đó, mỗi cá thể là một chủ thể được giao trách nhiệm quản lý chất lượng tài nguyên môi trường ở một khu vực trong một lĩnh vực nào đó. Ví dụ như: quản lý đất, quản lý rừng, quản lý nguồn lợi thủy sản, Nhà nước khẳng định quyền quản lý tài nguyên tập trung vào Nhà nước, nhưng lại không đủ lực để thực hiện quyền này. Nhà nước giao cho Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 51 Ngành: Kinh tế TNTN&MT chính quyền địa phương chi phối, nhưng quyền lực của địa phương thì có hạn (Bruce, 1989). Như phân tích quản lý tài nguyên rừng theo hình thức Nhà nước đã thấy rõ việc tối đa hoá hệ quản lý rừng Nhà nước đã dẫn đến tình trạng tài nguyên rừng bị suy thoái. Thất bại đó là một trong những bài học quan trọng nhất về phát triển trong nửa thế kỷ qua ở các nước đang phát triển (Bromlay và Cernea, 1989). Từ sự không thành công của quản lý rừng Nhà nước đã dẫn đến người ta hy vọng rằng việc trao quyền quản lý rừng cho tư nhân là một giải pháp tốt để có thể bảo vệ và phát triển rừng. Quản lý tư nhân là một loại hình quản lý có hiệu quả, vì chủ thể được xác định rõ ràng, họ biết chắc chắn sẽ được hưởng lợi những gì. Thực tiễn phát triển của các trang trại trên thế giới trong những năm qua đã minh chứng rõ ràng nhất cho loại hình quản lý này. Trang trại phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, theo hướng mở rộng diện tích, sản xuất hàng hoá, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân. Nhưng nếu quá nhấn mạnh đến hình thức quản lý tư nhân lại dẫn đến những hậu quả xã hội khác. Như ở Philippin người ta chỉ coi trọng quản lý tư nhân và đã gây nên hậu quả xã hội: phân hoá giàu nghèo mãnh liệt, Nhà nước mất quyền lợi, không kiểm soát được hoạt động sản xuất kinh doanh của tư nhân. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 52 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Hình 4.1: Hình thức quản lý nguồn tài nguyên rừng ở nông hộ Lâm trường đóng tại địa bàn huyện chịu trách nhiệm phân lô thửa Nhóm tư vấn Ủy ban nhân dân xã (Lâm trường chủ đạo) (Cán bộ nông lâm nghiệp chủ đạo) Người dân (Các hộ gia đình nhận đất nhận rừng) Trên cơ sở phân tích sơ đồ trên chúng tôi nhận thấy hình thức quản lý tài nguyên rừng theo hình thức tư nhân có những ưu điểm cũng như hạn chế sau: Mặt tích cực - Phù hợp với chính sách giao đất giao rừng hiện hành nên dễ thực hiện; - Người dân có chủ quyền trên nguồn tài nguyên được giao nên có điều kiện vay vốn ngân hàng để đầu tư, phát triển, chủ động kế thừa, chuyển nhượng; - Gắn được trách nhiệm với quyền lợi của người dân địa phương; - Phát huy được sự năng động của nông hộ trong việc quản lý phát triển tài nguyên. Mặt hạn chế: - Phân chia đất rừng cụ thể về mặt pháp lý đến từng hộ có nguy cơ làm mất truyền thống quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng, dòng họ. Đây là tập quán truyền thống quý báu của người dân bản địa, họ thường coi tài sản từ thiên nhiên là của cả cộng đồng, Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 53 Ngành: Kinh tế TNTN&MT mọi người đều có quyền hưởng; - Thời gian nhận đất nhận rừng khá dài (thường từ 20 - 50 năm) nên khi gia đình tách hộ sẽ có nguy cơ phát sinh mâu thuẫn, xé lẻ rừng vốn diện tích đã nhỏ bé; - Có khả năng phát sinh mâu thuẫn giữa các hộ trong phân chia lợi ích, phân chia các loại rừng giàu nghèo, vị trí xa gần khác nhau. Trong một buôn vẫn có hộ không được nhận đất nhận rừng; - Khó thúc đẩy các phương thức hợp tác trong quản lý, phát triển rừng; - Trình độ các hộ khác nhau nên việc nhận thức và thực hiện việc quản lý phát triển rừng sẽ không đồng đều; - Dễ mất rừng do một số hộ quá khó khăn hoặc vì tham lợi trước mắt mà sang nhượng rừng trái phép cho những người sản xuất nông nghiệp. 4.2.3. Quản lý cộng đồng Quản lý cộng đồng (thôn, bản, nhóm hộ, nhóm người cùng hưởng lợi). Mặc dù cộng đồng không phải là một chủ thể kinh tế, nhưng đây là một loại hình tập thể rất phù hợp với phong tục tập quán của người dân. Cộng đồng cũng là một chủ thể sở hữu tư liệu sản xuất. Hình thức này cũng có mặt mạnh, mặt yếu của nó. Phân tích hình thức quản lý tài nguyên rừng cộng đồng để thấy rõ hơn những ưu điểm và hạn chế của hình thức này trong quản lý rừng nói riêng và trong quản lý tài nguyên môi trường nói chung. Trên thực tế, không phải bất cứ khu rừng nào Nhà nước cũng quản lý được (những khu rừng nhỏ, phân tán, ít giá trị) và quản lý tư nhân cũng không thể phủ hết những phần rừng còn lại. Hiện tại, trong tổng số khoảng 10 triệu Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 54 Ngành: Kinh tế TNTN&MT ha đất có rừng của cả nước, đã giao được 6 triệu ha cho tổ chức kinh tế (lâm trường, đơn vị kinh tế) và 2 triệu ha cho nông hộ (năm 1998), cùng với khoảng 1 triệu ha rừng đặc dụng; số rừng/đất rừng còn lại (khoảng 1 triệu ha) vẫn chưa có chủ quản lý. Vậy thì, phần đất còn lại ai sẽ là người quản lý của những “khu rừng vô chủ” đó? Nên chăng cùng với giao rừng/đất rừng cho tư nhân hãy trao lại những khu rừng chưa có chủ này cho các cộng đồng vốn trước kia đã là “chủ” của nó? Trên thực tế, cho đến nay ở Việt Nam đã và đang chỉ tập trung tới hệ quản lý rừng Nhà nước, hiện đang trong quá trình tư nhân hóa rừng và đất rừng, mà chưa chú ý tới hệ quản lý rừng cộng đồng. Thực tế việc giao đất rừng cho cộng đồng địa phương quản lý có hiệu quả hơn là giao đất rừng cho các cá nhân, vì nhiều sáng kiến quan trọng, đặc biệt là để bảo vệ rừng, đòi hỏi hoạt động ngoài quy mô hộ gia đình. Những giải pháp thích hợp luôn gắn bó với văn hóa - xã hội địa phương, đánh giá cao và sử dụng kiến thức bản địa về hệ sinh thái rừng của người dân khuyến khích và trao quyền quản lý và hưởng lợi tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên rừng cộng đồng; tạo được những đòn bẩy thích đáng thúc đẩy sự tham gia lâu dài của người dân địa phương (Messersmidt, 1996). Xét về mặt lịch sử, ở Việt Nam, rừng cộng đồng đã tồn tại từ lâu đời, gắn liền với sự sinh tồn và tín ngưỡng của các cộng đồng dân cư sống dựa vào rừng. Hình thức này đã tạo nên các phương thức sử dụng tài nguyên lâu bền và gắn liền với vốn kiến thức bản địa về hệ sinh thái rừng của người dân địa phương. Quản lý rừng cộng đồng gắn liền với người dân địa phương miền núi. Kiểu quản lý này phổ biến và đã tồn tại trong một thời gian rất dài, khi mà tài nguyên rừng đang còn dồi dào và khi Nhà nước chưa đủ sức quản lý ở những vùng xa xôi. Có thể nêu lên những ví dụ điển hình của hệ quản lý rừng Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 55 Ngành: Kinh tế TNTN&MT cộng đồng, như hệ panchayat ở Nê Pan, hệ umunnu ở Nigeria, hệ sagia ở Sudan, Việc quản lý rừng bằng phương thức này thường gắn bó chặt chẽ với vốn kiến thức bản địa cùng các yếu tố văn hoá địa phương và nhiều trong số đó có những yếu tố có tính chất truyền thống. Việc tìm hiểu, kế thừa một cách có chọn lọc thông qua tham khảo các hình thức quản lý rừng cộng đồng khác nhau là cần thiết và có ý nghĩa thiết thực, nếu chúng ta muốn thực sự tiếp cận để tìm kiếm những giải pháp cho sự phát triển các thể chế cộng đồng trong quản lý tài nguyên địa phương Hiện nay, tại nhiều địa phương có những khu rừng cộng đồng cổ truyền hiện vẫn tồn tại và phát triển. Như ở vùng đệm Pù Mát (Nghệ An) hiện vẫn có 6 khu rừng cộng đồng của người Thái, Đan Lai (Trần Ngọc Lân, 1999). Luật tục và quy ước là đỉnh cao của ý thức, trách nhiệm của cộng đồng bản làng. Nó đảm bảo cho cuộc sống hiện tại của họ và sự bền vững của cuộc sống con cháu. Quy ước quản lý tài nguyên (rừng, đất, nước) luôn gắn liền với những quy ước của sản xuất (trồng trọt, chăn nuôi) thuộc mảng quy ước về nguồn sinh sống của cộng đồng. Cùng với những luật pháp chung của Nhà nước, quy ước bản làng rất cần thiết và hữu ích đối với cộng đồng dân cư địa phương, quy ước mang tính cộng đồng cao, gắn liền lợi ích và trách nhiệm trong quản lý tài nguyên. Nội dung của quy ước thường là những vấn đề rất thiết thực trong quản lý tài nguyên. Mỗi quy ước thường có 3 phần: quyền lợi, trách nhiệm, hình phạt. Cùng với sự biến động của tự nhiên và xã hội cộng đồng người Thái có những cách ứng xử phù hợp, vì vậy hàng năm quy ước được cộng đồng tham gia thảo luận, bàn bạc, bổ sung sửa đổi (nếu cần). Chính sự mềm dẻo đảm bảo tính thiết thực của quy ước bản làng. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 56 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Sức mạnh của các quy ước còn phụ thuộc một phần tác động của hệ thống luật pháp của Nhà nước. Hiệu lực của các quy ước đòi hỏi sự hỗ trợ của Nhà nước. Hiệu lực của các quy ước đòi hỏi sự hỗ trợ tích cực của các cấp chính quyền địa phương (như việc xử phạt đối với những ngươì ngoài cộng đồng vi phạm quy ước). Cùng với luật pháp của Nhà nước, luật tục và quy ước của bản làng về quản lý tài nguyên đã góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và bảo vệ tài nguyên môi trường. Thực tiễn một số nơi đã chỉ rõ quản lý rừng với sự tham gia của các cộng đồng địa phương sống gần rừng là mô hình quản lý rừng có tính khả thi về kinh tế - xã hội, phù hợp với tập quán sản xuất truyền thống của nhiều dân tộc ở Việt Nam. Trên cơ sở điều tra tại tỉnh Thừa Thiên Huế, có thể phân chia thành 5 hình thức rừng cộng đồng sau: 1. Rừng được Nhà nước giao cho cộng đồng dân cư thôn quản lý, 2. Rừng do cộng đồng quản lý theo luật tục/ hương ước, 3. Rừng giao cho nhóm sở thích (câu lạc bộ quản lý). 4. Rừng được Nhà nước giao cho nhóm hộ quản lý, 5. Rừng giao cho cộng đồng liên thôn quản lý, Trong 5 hình thức trên thì hình thức 1, 3, 4 và 5 được Nhà nước công nhận chính thức và ở hình thức 2 rừng cộng đồng được quản lý theo hương ước, chưa được Nhà nước chính thức công nhận nhưng mặc nhiên được thừa nhận. Từ 5 hình thức trên có thể chia thành 3 hình thức quản lý rừng cộng đồng chính: - Hình thức tổ chức quản lý rừng theo dòng tộc (dòng họ), theo dân tộc Cộng đồng tổ chức quản lý rừng và đất rừng theo dòng họ, theo dân tộc Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 57 Ngành: Kinh tế TNTN&MT nơi có diện tích rừng và đất rừng nhỏ, do họ tự thừa nhận hay đã mặc nhiên công nhận từ các thế hệ trước. Những khu rừng này, thường nằm gần nơi cư trú của các cộng đồng với các tên gọi như: rừng thiêng (tôn thờ thần thánh theo tín ngưỡng), rừng ma (khu rừng chôn cất người chết - nghĩa địa), rừng mó nước (khu vực bảo vệ nguồn nước cung cấp trực tiếp cho cộng đồng), rừng gỗ gia dụng (nơi cung cấp lâm sản cho cộng đồng). Việc tổ chức bảo vệ rừng gắn bó chặt chẽ với những tập quán truyền thống và hệ thống tư tưởng của cộng đồng, vai trò của người trưởng tộc hoặc già làng rất quan trọng. Hầu hết các công việc quản lý rừng của họ đều có sự phân công rõ ràng, các thành viên thực hiện tự giác và nghiêm túc. - Hình thức tổ chức quản lý rừng theo thôn, làng, buôn, bản, ấp Đây là hình thức tổ chức quản lý rừng cộng đồng chủ yếu hiện nay. Hình thức tổ chức này dựa trên cơ sở vị trí địa lý và khu vực người dân sinh sống. Phần lớn các thôn đều xây dựng quy ước/hương ước quản lý và bảo vệ rừng cộng đồng, tổ chức lực lượng tuần tra rừng chuyên trách hoặc phân công luân phiên các hộ gia đình trong thôn. Trưởng thôn điều hành các công việc chung liên quan đến bảo vệ rừng cộng đồng. Ở một số địa phương, đây là các loại rừng và đất rừng của làng xã được quản lý từ lâu đời, rừng trồng của các HTX, rừng tự nhiên đã được giao cho các HTX trước đây sau khi chuyển đổi HTX đã giao lại cho thôn quản lý. Tuy Nhà nước chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và công nhận quyền hưởng lợi cho cộng đồng, song thực chất cộng đồng đang tự quản lý và toàn quyền sử dụng các sản phẩm đó. Cộng đồng tham gia quản lý rừng tự nhiên của Nhà nước theo chế độ khoán bảo vệ. Đây là loại rừng tự nhiên thường được quy hoạch là rừng phòng hộ. Nhà nước khoán cho cộng đồng thôn xóm bảo vệ và sử dụng ngân sách để chi trả công bảo vệ rừng, các thành viên trong cộng đồng được hưởng lợi từ rừng. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 58 Ngành: Kinh tế TNTN&MT - Hình thức quản lý rừng theo nhóm hộ/nhóm sở thích Hình thức quản lý rừng này được thực hiện ở một số nơi. Nhóm hộ có thể hình thành từ một số hộ gia đình cư trú liền nhau trong phạm vi một thôn, một xóm hoặc gồm một số hộ gia đình có quan hệ huyết thống hoặc họ hàng; cũng có trường hợp là những cá nhân cùng lứa tuổi, cùng có mong muốn được tham gia quản lý rừng. Nhóm hộ này tự phân công để bảo vệ rừng, có thể cả nhóm cùng tham gia tuần tra rừng hàng ngày, hàng tuần hoặc luân phiên nhau; một số nhóm hộ có rừng gần nhau liên kết bảo vệ rừng. Có thể so sánh khái quát các hình thức quản lý rừng cộng đồng như sau: Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 59 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Bảng 4.1. Khái quát các hình thức quản lý rừng cộng đồng Hình thức Điểm mạnh Điểm yếu - Chưa có ranh giới rõ ràng - Có nhiều tiềm năng về các mặt: Vị trí - Chưa có đủ tư cách pháp nhân địa lý (tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên) - Vai trò trưởng thôn mang tính hành - Kinh tế (tài chính, sản xuất) chính và chưa có trách nhiệm pháp lý - Xã hội (Truyền thống, tổ chức, quy Thôn, bản - Trình độ quản lý thấp ước nội bộ, quan hệ ) - Chưa có cơ chế tài chính, nguồn thu hạn - Nguồn nhân lực (lao động, lãnh đạo). chế - Có khả năng quản lý tất cả các loại - Phụ thuộc vào các cấp chính quyền cao rừng hơn - Quy mô nhỏ, dễ dàng tổ chức, quản lý, thống nhất - Chi phí phù hợp với quy mô nhỏ. Nhóm - Phù hợp với trình độ hiện nay của dân - Khó bảo vệ rừng ở các vùng sâu, vùng hộ/nhóm xa. sở thích - Phù hợp với yêu cầu đầu tư của dân - Có tiềm năng trở thành cấp thôn hoặc HTX kiểu mới - Khó được chấp nhận về mặt pháp lý. Dòng tộc Thuận lợi tương tự như nhóm hộ - Có thể tạo nên mâu thuẫn cục bộ trong cộng đồng thôn. Từ kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, quy mô thôn là phù hợp cho quản lý rừng cộng đồng vì: - Thích hợp đối với vùng sâu, vùng xa; - Phù hợp với truyền thống tập quán của nhiều nhóm dân tộc; - Phù hợp với điều kiện sản xuất hiện nay của dân khi nền kinh tế đang phát triển; Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 60 Ngành: Kinh tế TNTN&MT - Phù hợp đối với quản lý tất cả các loại rừng, kể cả rừng phòng hộ và đặc dụng; - Phù hợp với trình độ quản lý của người dân cấp thôn. 4.3. CHỨC NĂNG CỦA CÁC CẤP CHÍNH QUYỀN TRONG VIỆC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG 4.3.1. Các nội dung và chức năng của quản lý Nhà nước về môi trường Quản lý môi trường là một nội dung quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước, khung cấu trúc các nội dung quản lý Nhà nước về môi trường có thể được trình bày dưới dạng sơ đồ sau: Hình 4.2. Cấu trúc quản lý Nhà nước về môi trường Nhà nước hiến pháp Mục tiêu Chiến lược Kế Mục tiêu định Đường lối phát hoạch cụ thể hướng lớn triển bền vững Cơ cấu kinh tế xã hội Cơ cấu tổ chức quản lý hợp lý Tổ chức công tác quản lý MT Đội ngũ cán bộ MT Cơ chế nhân lực Các nguồn nhân lực khác Kinh tế Pháp lý Phương pháp Các công cụ quản lý hình thức nghệ Xã hội thuật quản lý Quan điểm Chính sách quản lý Biện pháp Tạo lập các cơ Thủ thuật Các giải pháp quản hội khai thác lý cụ thể nguồn lực quốc tế Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 61 Ngành: Kinh tế TNTN&MT Hình 4.2 đã cho chúng ta một khung cấu trúc các nội dung quản lý Nhà nước về vấn đề môi trường mong muốn của các quốc gia trên thế giới. Hoạt động bảo vệ môi trường trong thời đại chúng ta là một trong những hoạt động quan trọng của xã hội loài người nhằm duy trì và sử dụng hợp lý các dạng tài nguyên môi trường cho sự phát triển của nhân loại. Nhà nước với tư cách đại diện cho lợi ích chung của toàn xã hội sử dụng sức mạnh quyền lực và các truyền thống, tập quán của dân tộc để biến đường lối chủ đạo của mình thành hiện thực thông qua việc hình thành một cơ cấu tổ chức quản lý hợp lý (cơ cấu kinh tế xã hội và hệ thống tổ chức quyền lực quản lý môi trường); một cơ chế sử dụng nhân lực hữu hiệu (đội ngũ công chức môi trường và công chức chính quyền khác); với phương pháp, hình thức, giải pháp quản lý thích hợp (các công cụ quản lý, giải pháp quản lý và chính sách quản lý); tạo ra và tận dụng các thời cơ, các quan hệ quốc tế để phát triển bền vững đất nước. Trong công tác quản lý môi trường có 3 nội dung quan trọng nhất bao gồm: Xây dựng cơ sở khoa học, kinh tế, luật pháp cho việc thi hành công tác quản lý môi trường, thiết lập các công cụ quản lý môi trường, tổ chức các công tác bảo vệ và quản lý môi trường. Quản lý môi trường là một nội dung của công tác quản lý Nhà nước về môi trường. Ở nước ta các nội dung của công tác quan lý Nhà nước về môi trường được trình bày trong điều 37 luật bảo vệ môi trường Việt Nam 1993 gồm các điểm sau: - Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp quy về bảo vệ môi trường, ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường; - Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường, kế hoạch phòng chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường; Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 62 Ngành: Kinh tế TNTN&MT - Xây dựng, quản lý các công trình bảo vệ môi trường và các công trình có liên quan đến bảo vệ môi trường; - Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường, dự báo diễn biến môi trường; - Thẩm định các báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án và các cơ sở kinh doanh; - Cấp và thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường cho các cơ sở kinh tế xã hội; - Giám sát thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường, giải quyết các khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về bảo vệ môi trường, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; - Đào tạo các cán bộ về khoa học và quản lý môi trường; - Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; - Quan hệ quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Công tác quan lý môi trường có thể phân loại theo phạm vi và tính chất quản lý. Theo phạm vi quản lý có thể chia ra các loại: - Quản lý môi trường khu vực: Khu vực đô thị, nông thôn, biển ; - Quản lý môi trường theo ngành nghề kinh tế như: Công nghiệp, nông nghiệp, năng lượng, khai thác khoáng sản; - Quản lý tài nguyên: Tài nguyên nước, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, tài nguyên du lịch Theo tính chất của công tác quản lý có thể phân loại: - Quản lý chất lượng môi trường như ban hành và kiểm tra các tiêu chuẩn về chất lượng không khí, nước thải, nước mặt, nước ngầm ; Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT
- Luận văn thạc sỹ Trang 63 Ngành: Kinh tế TNTN&MT - Quản lý kỹ thuật môi trường: Quản lý hệ thống quan trắc, giám định, đánh giá chất lượng các thành phần môi trường, các trạm phân tích và các phòng thí nghiệm phân tích chất lượng môi trường ; - Quản lý kế hoạch môi trường: Quản lý việc xây dựng và thực thi các kế hoạch bảo vệ môi trường từ trung ưng đến địa phương, xây dựng các công trình bảo vệ môi trường, hình thành và quản lý quỹ môi trường ở trung ương, các ngành, các cấp địa phương. Trong quá trình thực hiện, các nội dung quản lý trên đan xen với nhau tạo ra sự thống nhất và đồng bộ công tác bảo vệ môi trường. Thí dụ: Quản lý môi trường đô thị gồm cả quản lý chất lượng môi trường, kỹ thuật môi trường và kế hoạch hóa môi trường trên địa bàn đô thị. Cơ sở pháp lý cho các công tác quản lý môi trường được trình bày trong các văn bản pháp luật như hiến pháp, các bộ luật và các quy định riêng ở từng quốc gia. Ở nước ta cơ sở pháp lý của công tác quản lý môi trường được thể hiện trong luật môi trường, Nghị định 175/CP và các văn bản khác. Các văn bản này được trình bày trong 2 tập sách: “Các quy định pháp luật về môi trường tập 1-1995” và “Các quy định pháp luật về môi trường tập 2- 1997” cùng nhiều văn bản liên quan khác như: “ Tiêu chuẩn môi trường Việt Nam ”. Tuy nhiên, ở nước ta một số văn bản pháp lý cần thiết cho công tác quản lý môi trường chưa có hoặc chưa được ban hành như: Tiêu chuẩn và quy định về môi trường cho các lĩnh vực sản xuất hàng hóa cụ thể, kinh phí dành cho các hoạt động quản lý môi trường Ngày 25 tháng 6 năm 1998, bộ Chính trị BCH trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có văn bản số 36-CT/TW “Chỉ thị về việc tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Chỉ thị đã nêu lên các quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường và 8 giải pháp để thực hiện công tác bảo vệ môi trường trong giai đoạn hiện nay. Học viên: Mai Thị Quyên Lớp: CH17KT