Luận án Nâng cao năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí thư đảng ủy trung, lữ đoàn phòng không hiện nay

doc 214 trang yendo 4520
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nâng cao năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí thư đảng ủy trung, lữ đoàn phòng không hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docluan_an_nang_cao_nang_luc_cong_tac_xay_dung_dang_cua_doi_ngu.doc

Nội dung text: Luận án Nâng cao năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí thư đảng ủy trung, lữ đoàn phòng không hiện nay

  1. 5 MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu khái quát về luận án Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là khâu then chốt của nhiệm vụ then chốt - xây dựng Đảng, “công việc gốc” của Đảng. Đội ngũ bí thư đảng ủy trung, lữ đoàn phòng không (TLĐPK) là một bộ phận trong đội ngũ cán bộ của Đảng, bí thư cấp ủy trong quân đội, người đứng đầu đảng ủy, đảng bộ - trực tiếp góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng ủy, đảng bộ TLĐPK, lãnh đạo đơn vị thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Hiện nay, trước sự phát triển mới của tình hình nhiệm vụ cách mạng, yêu cầu mới của công tác xây dựng Đảng (CTXDĐ), nhiệm vụ quản lý và bảo vệ bầu trời Tổ quốc của các TLĐPK, đòi hỏi phải tiếp tục nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư cấp ủy, nhất là cấp cơ sở. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu là: “Nâng cao năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí thư đảng ủy trung, lữ đoàn phòng không hiện nay”. Về đề tài này, tác giả đã nung nấu, ấp ủ trong quá trình học tập, công tác ở Quân chủng Phòng không - Không quân (PK - KQ) và giảng dạy các đối tượng đào tạo chính ủy ở Học viện Chính trị (HVCT) gần 30 năm, luôn nỗ lực tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm và chủ động nghiên cứu, viết các bài báo đăng trên các tạp chí có uy tín trong và ngoài quân đội về nội dung có liên quan. Đồng thời dựa chắc trên nền tảng lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ; tham khảo, kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố có liên quan đến đề tài; cùng với các báo cáo sơ kết, tổng kết của các đơn vị và số liệu điều tra, khảo sát của tác giả để giải quyết những nhiệm vụ mà công trình nghiên cứu đặt ra. 2. Lý do lựa chọn đề tài luận án Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn coi CTXDĐ là nhiệm vụ then chốt - nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng, gắn liền với sứ mệnh của Đảng, vận mệnh của đất nước và chế độ. Trong đó, xây dựng tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) - tổ chức “nền móng” của
  2. 6 Đảng luôn được Đảng ta đặc biệt coi trọng. Nhờ đó, mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều được lãnh đạo, triển khai tổ chức thực hiện thống nhất từ trung ương tới địa phương, cơ sở, góp phần quan trọng cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK có vai trò rất quan trọng trong xây dựng đảng bộ, đảng ủy cơ sở trong sạch vững mạnh (TSVM). Họ là những người trực tiếp quán triệt, đề xuất chủ trương, biện pháp lãnh đạo và triển khai tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, nghị quyết, chỉ thị của tổ chức đảng các cấp ở cơ sở. Chất lượng và hiệu quả CTXDĐ, sự vững mạnh về chính trị của từng TLĐPK phụ thuộc một phần rất quan trọng vào phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác, nhất là năng lực CTXDĐ của đội ngũ ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK. Trong những năm qua, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong Quân chủng PK - KQ, các quân khu, quân đoàn đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn nâng cao năng lực toàn diện, năng lực CTXDĐ cho đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK. Bản thân đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK đã tích cực, chủ động học tập, bồi dưỡng nên năng lực CTXDĐ của đội ngũ này đã có bước chuyển biến tiến bộ, góp phần quan trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ, hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT) ở các TLĐPK. Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ thì kiến thức, kinh nghiệm, trình độ tổ chức thực tiễn CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK vẫn còn những hạn chế, bất cập; nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng chưa thật đầy đủ, thống nhất, chưa có chủ trương, biện pháp toàn diện, đồng bộ nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK, nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành chưa phong phú, đa dạng, linh hoạt, chưa tập trung kịp thời khắc phục những hạn chế, bất cập về năng lực CTXDĐ của đội ngũ này. Trong thời kỳ mới, nhiệm vụ của quân đội, của các TLĐPK và phương thức tác chiến phòng không trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc có sự
  3. 7 phát triển. Các TLĐPK là lực lượng chủ yếu, then chốt tạo nên sức mạnh chiến đấu của Bộ đội Phòng không; nòng cốt của thế trận phòng không nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, quản lý và bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc và các mục tiêu được giao là chức năng, nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu của các TLĐPK. Để TLĐPK hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ đó, phải thường xuyên xây dựng đảng ủy, đảng bộ trung, lữ đoàn TSVM, đủ sức lãnh đạo đơn vị hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Mặt khác, yêu cầu nhiệm vụ quan trọng đối với xây dựng Đảng hiện nay là phải phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là cấp cơ sở. Điều đó đòi hỏi phải tập trung nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Từ những vấn đề trên, tác giả lựa chọn đề tài luận án là: “Nâng cao năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí thư đảng ủy trung, lữ đoàn phòng không hiện nay”. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận án * Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu góp phần làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn, đề xuất giải pháp cơ bản tiếp tục nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình hiện nay. * Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về năng lực, nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK. - Đánh giá đúng thực trạng, rút ra những kinh nghiệm nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK hiện nay. - Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản tiếp tục nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài * Đối tượng nghiên cứu Nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK hiện nay.
  4. 8 * Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu năng lực CTXDĐ và nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy ở các đảng bộ TLĐPK thuộc các sư đoàn phòng không trong Quân chủng PK - KQ, các quân khu, quân đoàn hiện nay. Phạm vi khảo sát thực tế là các trung đoàn phòng không trong Quân chủng PK - KQ, các lữ đoàn phòng không ở các quân khu, quân đoàn, song tập trung chủ yếu các TLĐPK đóng quân trên địa bàn các tỉnh phía Bắc; các số liệu, tư liệu chủ yếu từ năm 2006 đến nay. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và xây dựng đội ngũ chính ủy, chính trị viên trong quân đội. * Cơ sở thực tiễn Thực tiễn xây dựng đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK và nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK. Quá trình nghiên cứu, nghiên cứu sinh dựa vào các báo cáo tổng kết của các cơ quan chức năng về CTXDĐ, xây dựng đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK và nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK kết hợp với kết quả nghiên cứu, điều tra, khảo sát thực tế của bản thân. * Phương pháp nghiên cứu đề tài Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên ngành, trong đó chú trọng các phương pháp lôgíc - lịch sử, phân tích và tổng hợp, hệ thống - cấu trúc, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học, khảo sát, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
  5. 9 6. Những đóng góp mới của luận án - Xây dựng quan niệm năng lực CTXDĐ của bí thư đảng ủy TLĐPK, nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK. - Tổng kết kinh nghiệm: kết hợp chặt chẽ giữa nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy với nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực toàn diện của đội ngũ cán bộ chủ trì về chính trị cấp trung, lữ đoàn các đơn vị phòng không. - Đề xuất giải pháp đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài luận án - Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn về năng lực và nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK hiện nay. Trên cơ sở đó giúp cho cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị các cấp nghiên cứu, vận dụng vào quá trình nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK hiện nay. - Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu, giảng dạy môn CTĐ, CTCT ở các học viện, trường sĩ quan trong quân đội. 8. Kết cấu của luận án Luận án gồm: phần mở đầu; tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án; nội dung gồm 3 chương (6 tiết); kết luận; danh mục các công trình công bố kết quả nghiên cứu đề tài luận án; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
  6. 10 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài liên quan đến đề tài luận án Trong quá trình lãnh đạo, tổ chức xây dựng quân đội vô sản, quân đội cách mạng ở các nước xã hội chủ nghĩa, đã có nhiều công trình nghiên cứu về CTXDĐ, bồi dưỡng phẩm chất, năng lực công tác của đội ngũ cán bộ chính trị, đội ngũ bí thư cấp ủy, bí thư chi bộ trong quân đội. Một số công trình tiêu biểu là: “Công tác đảng, công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang Liên Xô 1918 - 1973” của Viện Lịch sử quân sự Bộ Quốc phòng Liên Xô [184]; “Giáo trình công tác chính trị” của Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc [127]; “Công tác đảng - công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang xô - viết” [25]; “Công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay” của Nhiệm Khắc Lễ [108]; “Bồi dưỡng đội ngũ cấp ủy viên ở tổ chức cơ sở đảng các sư đoàn chủ lực Quân đội nhân dân Lào hiện nay” của Chăn Thon Phăn Thong Son [185]; “Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở Lào - Thực trạng và giải pháp” của Vông Xa Văn Xay Nha Vông [186]; “Điều lệ Công tác chính trị Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc” [96]. Những công trình trên đã bàn các nội dung: 1.1. Về vai trò của chính ủy, chính trị viên, bí thư cấp ủy Các công trình đều khẳng định chính ủy, chính trị viên, bí thư cấp ủy có vai trò to lớn trong xây dựng quân đội, xây dựng các tổ chức đảng trong quân đội. Trong công trình “Công tác đảng, công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang Liên Xô 1918 - 1973”, các tác giả đã khẳng định: Các chính ủy đóng vai trò to lớn trong việc củng cố các lực lượng vũ trang xô - viết: Các chính ủy trong quân đội không chỉ là đại diện trực tiếp của chính quyền xô - viết, mà trước hết là người mang tinh thần của Đảng, kỷ luật của Đảng, tính kiên nghị và lòng dũng cảm của Đảng vào trong cuộc đấu tranh để thực hiện những mục tiêu đã được đề ra [184, tr. 65]. Công trình “Công tác đảng - công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang xô - viết”, các tác giả cũng khẳng định: “Bí thư cấp ủy đảng có vai trò đặc biệt to lớn. Kết quả hoạt động của cả tổ chức đảng phụ thuộc rất nhiều vào công tác của bí thư” [25, tr. 106].
  7. 11 1.2. Về chức trách, nhiệm vụ của cán bộ chính trị, chính ủy, chính trị viên, bí thư cấp ủy Cuốn “Công tác đảng - công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang xô - viết”, đã chỉ rõ: đồng chí phó chỉ huy về chính trị chịu trách nhiệm về tổ chức và tình hình công tác chính trị trong trung đoàn (tàu chiến); về công tác giáo dục chính trị, giáo dục quân nhân, củng cố trạng thái chính trị - tinh thần và kỷ luật quân nhân, về hiệu lực của công tác chính trị trong thực hiện các nhiệm vụ huấn luyện chính trị và huấn luyện chiến đấu, duy trì sự sẵn sàng chiến đấu cao của trung đoàn (tàu chiến) và cả trong việc thực hiện nhiệm vụ chiến đấu [25, tr. 80]. “Giáo trình công tác chính trị” của Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc, đã chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của chính ủy là “bảo đảm sự lãnh đạo của đảng đối với quân đội ta về tư tưởng, chính trị và tổ chức, bảo đảm quán triệt thực hiện đường lối, phương châm, chính sách của đảng, bảo đảm cho bộ đội thực hiện hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà đảng giao phó trong bất kỳ điều kiện khó khăn gian khổ nào” [127, tr. 250]; đồng thời chỉ ra 7 nội dung chủ yếu của công tác chính ủy là: Lãnh đạo và bảo đảm bộ đội kiên quyết quán triệt thực hiện đường lối, phương châm, chính sách của Đảng và hiến pháp pháp luật của Nhà nước, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với bộ đội; tích cực lãnh đạo bộ đội học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông; lãnh đạo CTXDĐ của quân đội và xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản; quán triệt và nắm vững chính sách cán bộ của Đảng, tăng cường xây dựng cán bộ chuyên môn hóa, trí thức hóa, trẻ hóa, cách mạng hóa; lãnh đạo và bảo đảm bộ đội kiên quyết chấp hành mệnh lệnh chỉ thị cấp trên, cùng với người chỉ huy quân sự cùng cấp phụ trách chế định bộ đội về các mặt công tác; chỉ đạo bộ đội mở rộng dân chủ, quan tâm phúc lợi, cải thiện vật chất, đời sống văn hóa của cán bộ, chiến sĩ; lãnh đạo công tác của cơ quan chính trị đồng cấp, tăng cường xây dựng, phát huy vai trò cơ quan chính trị, nâng cao năng lực nghiệp vụ và tố chất chính trị quân sự của những người làm công tác chính trị [127, tr. 250- 252].
  8. 12 Cuốn “Công tác đảng - công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang xô - viết”, các tác giả đã chỉ ra một trong những nhiệm vụ cơ bản của người phó chỉ huy về chính trị là: tổ chức và tiến hành công tác chính trị nhằm đoàn kết mọi người xung quanh Đảng và Chính phủ, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ huấn luyện chính trị và huấn luyện chiến đấu, duy trì tình trạng sẵn sàng chiến đấu thường xuyên, hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, củng cố chế độ một thủ trưởng, kỷ luật quân nhân và trạng thái chính trị - tinh thần của mọi người [25, tr. 80]; Trong phạm vi công tác đảng Phó trung đoàn trưởng đi sâu vào hoạt động thực tiễn của các TCCSĐ và tổ chức đảng ở các phân đội, huấn luyện và giáo dục có hệ thống bộ phận cán bộ đảng, cùng với ban chấp hành đảng bộ (cấp ủy) và các bí thư tổ chức đảng thực hiện các nghị quyết và những nhiệm vụ của tổ chức đảng [25, tr. 81]. Cuốn Điều lệ Công tác chính trị Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc đã đề cập: Bí thư chi bộ phụ trách công tác thường ngày của chi bộ đảng; chủ trì triệu tập họp cho ủy ban chấp hành chi bộ kiểm tra đôn đốc quán triệt thực hiện nghị quyết của chi bộ đảng; đại diện cho ban chấp hành (chi ủy) chi bộ đảng báo cáo công tác trước đại hội đảng viên chi bộ và tổ chức đảng cấp trên theo định kỳ. Tổ chức các buổi sinh hoạt dân chủ ở chi bộ, triển khai phê bình và tự phê bình, giữ mối liên hệ mật thiết với các ủy viên chi bộ và cán bộ để trao đổi tình hình, nghiên cứu công tác [96, tr. 28]. 1.3. Về phẩm chất, năng lực cán bộ, bí thư cấp ủy “Công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay”, tác giả Nhiệm Khắc Lễ đã chỉ rõ bốn nội dung cụ thể về đức của người cán bộ là: Kiên trì chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, kiên trì lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội màu sắc riêng Trung Quốc; kiên trì tôn chỉ một
  9. 13 lòng một dạ phục vụ nhân dân, làm đầy tớ của nhân dân, gắn bó với nhân dân, tự giác tiếp thu tự phê bình, giám sát của Đảng và quần chúng, chống chủ nghĩa quan liêu và chủ nghĩa hình thức; cần phải kiên trì đường lối tư tưởng thực sự cầu thị, có tác phong điều tra nghiên cứu, có tấm lòng nồng cháy đối với sự nghiệp cách mạng và tinh thần trách nhiệm, có khả năng dùng phương pháp tư tưởng mác xít vũ trang cho mình; cần phải gương mẫu giữ gìn kỷ luật và pháp luật, có phẩm chất đạo đức và tác phong tư tưởng cộng sản chủ nghĩa tốt đẹp [108, tr. 271 - 273]. Ba nội dung cụ thể của tài: Một là, cần phải có năng lực kết hợp đường lối, phương châm, chính sách của Đảng với khu vực mình, ngành mình; xuất phát từ thực tế, định ra phương án công tác cụ thể. Hai là, vừa có trình độ tri thức phù hợp với công tác, vừa có năng lực giải quyết vấn đề thực tế, có thể mở ra tình hình mới cho công tác. Ba là, cần có năng lực tổ chức khá vững vàng, có gan và khí phách tìm tòi, khai thác sáng tạo cái mới, gian khổ lập nên sự nghiệp [108, tr. 274 - 278]. Cuốn Điều lệ Công tác chính trị Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc đã đề cập: Bí thư cần có tính đảng mạnh mẽ và tác phong dân chủ, biết tập trung trí tuệ của mọi người, phát huy vai trò của các ủy viên. Bí thư phải tự giác chấp hành sự giám sát và đôn đốc của ban chấp hành đảng bộ; chủ động chịu trách nhiệm về khuyết điểm và sai sót trong công tác của ban chấp hành đảng bộ [96, tr. 21]. 1.4. Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cán bộ chính trị, cấp ủy viên Trong công trình “Công tác đảng, công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang Liên Xô 1918 - 1973”, các tác giả đã chỉ ra con đường đào tạo và giáo dục, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chính trị được tiến hành: “bằng học tập ở các nhà trường quân sự và trực tiếp ở đơn vị” [184, tr. 173] và chỉ rõ: “Việc cải tiến một cách căn bản việc đào tạo cán bộ chính trị là một trong những điều kiện có tính chất quyết định để tiếp tục đẩy mạnh CTĐ - CTCT trong quân đội và hạm đội” [184, tr. 268].
  10. 14 Trong bài“Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở Lào - Thực trạng và giải pháp”, tác giả Vông Xa Văn Xay Nha Vông đã đề xuất các giải pháp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức ở Lào hiện nay là: tiến hành phân loại cán bộ công chức để có các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp; thực hiện đào tạo, bồi dưỡng theo quy hoạch, gắn chặt với quy hoạch cán bộ công chức; đầu tư hợp lý và có chế độ, chính sách thích hợp cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức; thực hiện đào tạo, bồi dưỡng toàn diện; đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo xây dựng đội ngũ giảng viên có trình độ cao và tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức [186, tr. 92 - 96]. Công trình “Bồi dưỡng đội ngũ cấp ủy viên ở tổ chức cơ sở đảng các sư đoàn chủ lực Quân đội nhân dân Lào hiện nay”, tác giả Chăn Thon Phăn Thong Son đã đề xuất 5 giải pháp bồi dưỡng đội ngũ cấp ủy viên ở TCCSĐ các sư đoàn chủ lực QĐND Lào là: nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy đảng, cơ quan chính trị các cấp và cán bộ chính trị; thực hiện tốt nội dung, hình thức, phương pháp bồi dưỡng đội ngũ cấp ủy viên ở TCCSĐ các sư đoàn chủ lực QĐND Lào; phát huy tính tích cực, tự giác của đội ngũ cấp ủy viên trong tự bồi dưỡng và sự quan tâm giúp đỡ của TCCSĐ; phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của đảng ủy, cơ quan chính trị với sự nỗ lực chủ quan của TCCSĐ trong bồi dưỡng đội ngũ cấp ủy viên [185, tr. 61- 86]. 2. Những công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài luận án Trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu hoặc đề cập đến bồi dưỡng phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác của bí thư cấp ủy, bí thư chi bộ có liên quan trực tiếp đến đề tài. Tiêu biểu là: các luận văn, luận án, giáo trình: “Bồi dưỡng năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ cấp ủy viên thuộc các đảng bộ khoa giáo viên ở Trường sĩ quan Lục quân 2 hiện nay” của Lê Tất Lam [106]; “Bồi dưỡng năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí thư chi bộ các đơn vị quản lý học viên ở Học viện Hậu cần hiện nay” của Đặng Hoài Thiêm [160]; “Bồi dưỡng phong cách công tác
  11. 15 của đội ngũ trung đoàn trưởng ở các sư đoàn phòng không Quân chủng Phòng không - Không quân hiện nay” của Lê Minh Chiêu [24]; “Bồi dưỡng năng lực lãnh đạo của đội ngũ bí thư chi bộ đại đội học viên ở Trường sĩ quan Lục quân 1 hiện nay” của Vũ Trọng Đại [29]; “Bồi dưỡng năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết của đội ngũ cán bộ chủ trì cấp phân đội ở Binh đoàn Quyết thắng hiện nay” của Nguyễn Trung Kiên [104]; “Mục tiêu đào tạo người bí thư đảng ủy - phó chính trị cấp chiến thuật” của HVCTQS [100]; “Giáo trình xây dựng Đảng” của Viện xây dựng Đảng, HVCT quốc gia Hồ Chí Minh [101] Các bài viết: “Năng lực thực hành công tác xây dựng Đảng của đội ngũ cấp ủy viên cơ sở” của Vĩnh Trọng [177]; “Về tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo” của Nguyễn Khánh [103]; “Thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền” của Hồng Văn [179]; “Tác phong dân chủ sức mạnh của người đứng đầu cấp ủy” của Bùi Văn Tiếng [161]; “Về phong cách lãnh đạo của bí thư đảng ủy phường ở Thành phố Hà Nội” của Nguyễn Ngọc Ánh [2]; “Vì sao công tác xây dựng Đảng hiệu quả thấp” của Bùi Đức Lại [105];“Giải pháp nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy và lãnh đạo cơ quan, đơn vị” của Nguyễn Quốc Sửu [158] Các sách tham khảo: “Công tác của bí thư đảng ủy và chính ủy” [159]; “Hướng dẫn nghiệp vụ công tác tổ chức xây dựng Đảng trong QĐND Việt Nam” của Cục Tổ chức, Tổng cục Chính trị [162]; “Cẩm nang nghiệp vụ công tác Đảng” [23]; “Hướng dẫn CTXDĐ cho cấp ủy viên cơ sở và bí thư chi bộ” của Cục Tổ chức, Tổng cục Chính trị [163] Các công trình đã luận bàn những nội dung cơ bản sau: 2.1. Về vị trí, vai trò, chức trách, nhiệm vụ của bí thư cấp ủy, bí thư chi b ộ Cuốn Sổ tay công tác đảng, công tác chính trị của cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở, khẳng định “Bí thư đảng ủy của tổ chức cơ sở đảng là người chủ trì công tác của đảng ủy” [125, tr. 134]. Giáo trình xây dựng Đảng, chỉ rõ: “Người bí thư giữ vai trò hạt nhân chủ chốt nhất, là “linh hồn” của cơ quan lãnh đạo đảng ở mỗi cấp” [101, tr. 372- 373]. Cẩm nang nghiệp vụ công tác Đảng đã chỉ ra bí thư: là người đứng đầu chi bộ và là người đại diện cho chi ủy, có trách nhiệm lãnh đạo mọi mặt công tác của chi bộ; là người đại diện
  12. 16 cho chi bộ, chi ủy trước chính quyền và các đoàn thể quần chúng ở đơn vị; bí thư chi bộ có vai trò quan trọng trong việc tổ chức hợp lý các hoạt động của các tổ chức trong đơn vị, là hạt nhân đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động của các tổ chức trong đơn vị; là người giữ trọng trách cao nhất ở chi bộ, chi ủy, đồng thời bí thư chi bộ cũng là một đảng viên trong chi bộ [23, tr. 171]. Giáo trình công tác đảng, công tác chính trị, tập 2 của Tổng cục Chính trị đã nêu rõ: bí thư đảng ủy cơ sở là người đứng đầu đảng ủy, người chủ trì công tác đảng của đảng bộ và công tác chính trị trong đơn vị, là hạt nhân đoàn kết trong thường vụ, đảng ủy, đảng bộ và đơn vị [168, tr. 36]. Cuốn sách Mục tiêu đào tạo người bí thư đảng ủy - phó chính trị cấp chiến thuật đã đề cập mô hình nhân cách cụ thể của bí thư đảng ủy - phó chính trị cấp chiến thuật là: Người chủ trì công tác đảng; người chủ trì công tác chính trị ở đơn vị; người cán bộ quân sự; nhà tâm lý, nhà giáo dục; người cán bộ quản lý đơn vị; người cán bộ lãnh đạo [100, tr. 4 - 12]. Tác giả Hồng Văn quan niệm: “Thẩm quyền người đứng đầu là quyền hạn được Đảng, Nhà nước giao cho. Trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền là nhiệm vụ gắn với chức trách của người đứng đầu được Đảng và Nhà nước giao cho” [179, tr. 46]. Cuốn Giáo trình xây dựng Đảng đề cập trách nhiệm, quyền hạn nổi bật của người bí thư cấp ủy đảng là: Chủ trì toàn bộ công việc của cấp ủy, ban thường vụ; trực tiếp nắm các vấn đề trọng yếu, các khâu trung tâm, các nhiệm vụ mới nảy sinh và những vấn đề cơ mật về quốc phòng, an ninh; chăm lo xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đặc biệt là xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng thuộc quyền quản lý của cấp ủy; có trách nhiệm tổ chức hoạt động của cấp ủy theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách [101, tr. 373]. Công tác của bí thư đảng ủy và chính ủy đã nêu ra 5 chức trách của bí thư đảng ủy là: Chuẩn bị, triệu tập hội nghị thường vụ và theo nghị quyết của thường vụ chuẩn bị triệu tập hội nghị đảng ủy; điều khiển và kết luận hội
  13. 17 nghị; giữ mối liên lạc với đảng ủy cấp trên, với cấp dưới, với các đảng ủy viên và thủ trưởng quân chính, với cơ quan và với cấp ủy địa phương; theo dõi việc thực hiện nghị quyết của đảng ủy; thay mặt đảng ủy ký các giấy tờ hành chính của Đảng [159, tr. 5]. Cuốn Cẩm nang nghiệp vụ công tác Đảng đã đề cập 3 nhiệm vụ của bí thư chi bộ là: chịu trách nhiệm chung về công tác lãnh đạo của chi ủy, chi bộ, đồng thời trực tiếp làm công tác tư tưởng; thường xuyên giữ mối quan hệ chặt chẽ với người phụ trách đơn vị, bảo đảm thực hiện mọi nhiệm vụ của đơn vị; cùng chi ủy chuẩn bị ra nghị quyết và triển khai thực hiện nghị quyết chi bộ [23, tr. 172 -176]. Cuốn Hướng dẫn công tác xây dựng Đảng cho cấp ủy viên cơ sở và bí thư chi bộ đã khái quát 4 nhiệm vụ của chi ủy và bí thư chi bộ là: 1. Tổ chức, điều hành chi bộ chấp hành và thực hiện nghị quyết của cấp ủy cấp trên. 2. Trực tiếp tổ chức thực hiện công tác xây dựng chi bộ. 3. Nâng cao trình độ, năng lực của chi bộ về lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở đơn vị. 4. Lãnh đạo, chỉ đạo công tác vận động quần chúng trong đơn vị và công tác dân vận nơi đóng quân, nơi làm nhiệm vụ [163, tr. 37 - 48]. Cuốn Công tác của bí thư đảng ủy và chính ủy đã nêu ra 5 nhiệm vụ cụ thể của bí thư đảng ủy: 1. Chủ trì hội nghị thường vụ, đảng ủy quán triệt nghị quyết, chỉ thị của trên và quyết định chủ trương, biện pháp lãnh đạo thực hiện trong phạm vi đơn vị. 2. Theo dõi việc chấp hành nghị quyết của đảng ủy ở tổ chức đảng cấp dưới, kịp thời phát hiện vấn đề để đề nghị đảng ủy, thường vụ bổ sung, sửa những điểm chưa phù hợp, hướng dẫn cho cấp dưới thực hiện. 3. Triệu tập, điều khiển hội nghị thường vụ và theo nghị quyết của thường vụ chuẩn bị triệu tập, điều khiển hội nghị đảng ủy theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. 4. Thay mặt đảng ủy, thường vụ giữ mối liên hệ thường xuyên với cấp trên, với cấp dưới, với các đảng ủy viên khác và thủ trưởng quân chính, với các cơ quan và với cấp ủy địa phương. 5. Xây dựng mối đoàn kết trong đảng bộ, trong cấp ủy, với các đảng ủy viên, thủ trưởng quân chính, đoàn kết với các cơ quan, với cấp trên, với đảng bộ địa phương; duy trì đều đặn sinh hoạt tự phê bình và phê bình [159, tr. 5 - 8].
  14. 18 2.2. Về phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác của bí thư đảng ủy, bí thư chi bộ Các công trình, đề tài, bài viết đề cập khác nhau, song đều thống nhất ở chỗ: bí thư đảng ủy, bí thư chi bộ phải là người thực sự tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh. Bí thư đảng ủy, bí thư chi bộ trong quân đội phải có năng lực toàn diện và cần thiết, giỏi về CTĐ, CTCT; có phương pháp công tác khoa học và phong cách làm việc dân chủ, nói đi đôi với làm. Cuốn Giáo trình xây dựng Đảng chỉ rõ tiêu chuẩn của người bí thư cấp ủy: 1. Về phẩm chất chính trị: thật sự trung thành, vững vàng, giác ngộ, quyết tâm thực hiện đổi mới. 2. Về trình độ, năng lực, trí tuệ: có kiến thức kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh, nắm vững đường lối đổi mới; có kiến thức, kinh nghiệm về CTXDĐ trong điều kiện Đảng cầm quyền. 3. Về năng lực thực tiễn: có năng lực vận dụng đúng đắn, sáng tạo; khả năng chủ động xây dựng, chỉ đạo, phối hợp, điều hành chương trình công tác của cấp ủy, tổ chức thực hiện nghị quyết; có năng lực nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và tham gia xây dựng đường lối, chính sách của Đảng; có năng lực làm công tác quần chúng. 4. Về đạo đức, lối sống: tận tuỵ, sống trong sạch, lành mạnh, gương mẫu, trung thực, khiêm tốn, giản dị; dũng cảm đấu tranh chống tiêu cực; không đặc lợi, tham vọng cá nhân, cơ hội, xu nịnh, bè phái, cục bộ; luôn chăm lo lợi ích của quần chúng [101, tr. 374 - 375]. Trong cuốn Hướng dẫn nghiệp vụ công tác tổ chức xây dựng Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và cuốn Hướng dẫn công tác xây dựng Đảng cho cấp ủy viên cơ sở và bí thư chi bộ có cùng cách tiếp cận về tác phong công tác của bí thư đảng ủy cơ sở, bí thư chi bộ là: 1. Tác phong khoa học. 2. Tác phong dân chủ tập thể. 3. Tác phong quần chúng [162, tr. 55 - 56], [163, tr. 52 - 54]. Cuốn Công tác của bí thư đảng ủy và chính ủy, cho rằng tác phong của bí thư đảng ủy “phải thấm nhuần ba tác phong lớn của Đảng là: lý luận liên hệ thực tế, đi đường lối quần chúng, tự phê bình và phê bình” [159, tr. 12]. Cuốn Giáo trình xây dựng Đảng chỉ rõ yêu cầu về phong cách lãnh đạo của người bí thư
  15. 19 cấp ủy: khoa học, dân chủ, tập thể, nói đi đôi làm, trách nhiệm, kỷ luật cao; dám đổi mới, dám quyết đoán, chịu trách nhiệm; sâu sát thực tế, gắn bó với nhân dân, có khả năng quy tụ đoàn kết trong cấp ủy, trong Đảng và trong quần chúng [101, tr. 375]. Theo tác giả Bùi Văn Tiếng: tác phong dân chủ của người đứng đầu cấp ủy là yếu tố quan trọng phát huy trí tuệ, tạo nên sức mạnh lãnh đạo của tập thể cấp ủy và vị thế của người đứng đầu cấp ủy với tư cách cá nhân phụ trách [161, tr. 7]. Đây là là những vấn đề có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, có thể kế thừa, vận dụng vào làm rõ những yêu cầu về phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác của bí thư đảng ủy TLĐPK hiện nay. 2.3. Về quan niệm, cấu trúc năng lực công tác xây dựng Đảng, bồi dưỡng năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ cấp ủy viên, bí thư cấp ủy, bí thư chi bộ Tuỳ theo đối tượng nghiên cứu và góc độ tiếp cận, các công trình, đề tài, mỗi tác giả đưa quan niệm khác nhau về năng lực CTXDĐ. Lê Tất Lam quan niệm: Năng lực CTXDĐ của đội ngũ cấp ủy viên là khả năng quán triệt các chỉ thị, nghị quyết, quy định của Đảng, hướng dẫn của cơ quan cấp trên; triển khai các chủ trương, biện pháp nhằm xây dựng đảng bộ, chi bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và các nhiệm vụ khác [106, tr. 22]. Theo Đặng Hoài Thiêm: Năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư chi bộ là trình độ nhận thức về chuyên môn, nghiệp vụ CTXDĐ và khả năng tổ chức thực hiện CTXDĐ, bảo đảm xây dựng chi bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, thực sự là hạt nhân chính trị, trung tâm đoàn kết ở đơn vị, lãnh đạo, đơn vị thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao [160, tr. 21]. Tác giả Vĩnh Trọng quan niệm: “Năng lực thực hành CTXDĐ của đội ngũ cấp ủy ở cơ sở là tổng thể các khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên
  16. 20 sẵn có của người cán bộ làm công tác đảng được huy động vào việc giải quyết nhanh chóng, thành thạo, có chất lượng và hiệu quả cao các nhiệm vụ theo chức trách được giao” [177; tr. 42]. Theo tác giả Vũ Trọng Đại: Năng lực lãnh đạo của bí thư chi bộ là tổng hòa trình độ và khả năng của bí thư chi bộ có thể huy động để quán triệt, vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên vào quá trình nắm bắt tình hình, đề xuất chủ trương, biện pháp lãnh đạo của chi bộ đối với đơn vị; là khả năng phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng vào xây dựng chi bộ TSVM, xây dựng đơn vị VMTD, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao [29, tr. 17]. Về cấu trúc năng lực CTXDĐ, theo Vĩnh Trọng, cấu trúc năng lực thực hành CTXDĐ của đội ngũ cấp ủy cơ sở là tổng hợp các yếu tố: trình độ lý luận; mức độ thành thạo nghiệp vụ; sự sáng tạo trong vận dụng tri thức xử lý các tình huống CTXDĐ; năng khiếu và xu hướng nghề nghiệp; các đặc điểm tâm lý phù hợp với tính chất, yêu cầu của hoạt động CTXDĐ [177, tr. 42]. Theo Lê Tất Lam, cấu trúc năng lực CTXDĐ của đội ngũ cấp ủy viên, gồm: năng lực xây dựng đảng bộ (chi bộ) về chính trị; năng lực xây dựng đảng bộ (chi bộ) về tư tưởng; năng lực xây dựng đảng bộ (chi bộ) về tổ chức [106, tr. 22- 24]. Đặng Hoài Thiêm cho rằng: “năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư chi bộ được cấu thành bởi trình độ nhận thức về lý luận CTXDĐ, kỹ năng hoạt động, năng thực tiễn CTXDĐ” [160, tr. 23]. Theo Vũ Trọng Đại, cấu trúc năng lực lãnh đạo của đội ngũ bí thư chi bộ đại đội học viên, bao gồm: Tri thức lãnh đạo (gồm có tri thức lý luận, tri thức kinh nghiệm, tri thức thực tiễn); kỹ năng lãnh đạo [29, tr. 18- 19]. Tác giả Nguyễn Ngọc Ánh chỉ ra 5 yếu tố hình thành phong cách lãnh đạo của bí thư đảng ủy phường ở Thành phố Hà Nội là: Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực; quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ trong thực tiễn; đường lối, phương thức lãnh đạo của Đảng, chính sách và pháp
  17. 21 luật của Nhà nước; đặc điểm tâm lý, tính cách, khí chất cá nhân [2, tr. 49- 50]. Tác giả luận án có thể tham khảo để xây dựng quan niệm, chỉ ra cấu trúc năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK dưới góc độ xây dựng Đảng. Các công trình, đề tài đã xây dựng quan niệm bồi dưỡng năng lực CTXDĐ của đội ngũ cấp ủy viên, của đội ngũ bí thư chi bộ; bồi dưỡng đội ngũ bí thư chi bộ, năng lực lãnh đạo của đội ngũ bí thư chi bộ; bồi dưỡng năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết của đội ngũ cán bộ chủ trì cấp phân đội. Đồng thời, phân tích nội hàm quan niệm, chỉ ra chủ thể, đối tượng, lực lượng, nội dung, hình thức, biện pháp bồi dưỡng. Theo tác giả Lê Tất Lam: Bồi dưỡng năng lực CTXDĐ của đội ngũ cấp ủy viên là tổng thể những biện pháp, cách thức của chủ thể, các lực lượng tác động vào nhận thức, hành vi của đội ngũ cấp ủy viên, nhằm củng cố, bổ sung kiến thức, trao đổi kinh nghiệm, rèn luyện phương pháp, nâng cao trình độ tổ chức hoạt động thực tiễn về CTXDĐ, bảo đảm cho đội ngũ cấp ủy viên hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao [106, tr. 26]. Đặng Hoài Thiêm quan niệm: Bồi dưỡng năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư chi bộ là tổng thể những cách thức, biện pháp hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị và của chính bản thân đội ngũ bí thư chi bộ tác động vào các yếu tố cấu thành năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư chi bộ nhằm nâng cao trình độ kiến thức và bổ sung, hoàn thiện kỹ năng tiến hành CTXDĐ, bảo đảm cho đội ngũ bí thư chi bộ các đơn vị quản lý học viên hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao [160, tr. 26]. Tác giả Vũ Trọng Đại quan niệm: Bồi dưỡng năng lực lãnh đạo của đội ngũ bí thư chi bộ đại đội là tổng thể những hoạt động có mục đích, kế hoạch của chủ thể và đối tượng, thông qua nhiều hình thức, biện pháp chuyển tải nội dung bồi dưỡng đến đối tượng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ này theo mục tiêu xác định [29, tr. 24].
  18. 22 Nguyễn Trung Kiên quan niệm: Bồi dưỡng năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết của đội ngũ cán bộ chủ trì cấp phân đội là tổng thể các chủ trương, nội dung, hình thức, phương pháp của chủ thể kết hợp với tự tu dưỡng, rèn luyện của từng cán bộ nhằm bổ sung, củng cố, phát triển, hoàn thiện nâng cao tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo tổ chức thực hiện nghị quyết cho đội ngũ cán bộ chủ trì cấp phân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao [104, tr. 26]. Tác giả luận án có thể kế thừa, vận dụng vào làm rõ hơn quan niệm trung tâm của luận án, chỉ rõ chủ thể, đối tượng, lực lượng, nội dung, hình thức, biện pháp nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK. 2.4. Về tiêu chí đánh giá năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ cấp ủy viên, bí thư cấp ủy, bí thư chi bộ Tác giả Vĩnh Trọng đưa ra bốn tiêu chí đánh giá năng lực thực hành CTXDĐ của đội ngũ cấp ủy viên cơ sở là: 1) Hiệu quả cụ thể trong giải quyết các nhiệm vụ xây dựng Đảng (sử dụng tiết kiệm thời gian, nhân lực, vật lực, phương tiện mà vẫn đạt chất lượng cao). 2) Trình độ sáng tạo trong lựa chọn hình thức, phương pháp phù hợp để giải quyết nhanh, có chất lượng và hiệu quả cao các nhiệm vụ. 3) Mức độ tiến bộ, sự lĩnh hội sâu hay rộng các kỹ năng nghề nghiệp. 4) Trình độ tri thức, kỹ năng cần có để hoàn thành tốt nhiệm vụ [177, tr. 43]. Nguyễn Trung Kiên đưa ra 3 tiêu chí đánh giá hoạt động bồi dưỡng năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết của đội ngũ cán bộ chủ trì cấp phân đội: Một là, mức độ nhận thức, trách nhiệm và năng lực của chủ thể và các lực lượng tham gia bồi dưỡng. Hai là, tính khoa học, toàn diện, đồng bộ, hệ thống của kế hoạch, chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp bồi dưỡng. Ba là, mức độ chuyển biến, phát triển năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết và kết quả hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ chủ trì cấp phân đội ở Binh đoàn Quyết Thắng [104, tr. 29- 30]. Theo tác giả Nguyễn Khánh: đức độ, tài năng của cán bộ lãnh đạo thể hiện ở những sản phẩm của họ. Phải từ sản phẩm cụ thể được tạo ra từ kết quả hoạt động mà
  19. 23 đánh giá chất lượng của người cán bộ lãnh đạo; sản phẩm cụ thể của người đứng đầu cơ quan lãnh đạo cấp chiến lược có thể là: 1. Những sáng kiến có giá trị cao; 2. Thuyết phục được những người ở trong phạm vi tác động lãnh đạo của mình, có quan hệ nhiều đến nội dung của sáng kiến chính trị đã đưa ra, trước hết là cán bộ trong cơ quan lãnh đạo về sự đúng đắn, hợp lý, tính tối ưu của sáng kiến, nhận định và chủ trương mà mình đưa ra; 3. Phát hiện, tìm được, sử dụng được người có đức, tài để phụng sự Tổ quốc và nhân dân, để người ấy có thể trở thành cán bộ chủ chốt của Đảng và Nhà nước [103, tr. 42 - 43]. 2.5. Về thực trạng năng lực của đội ngũ cấp ủy viên, bí thư cấp ủy, bí thư chi bộ Đánh giá về những ưu điểm, hạn chế, theo tác giả Vĩnh Trọng: “Những năm qua, đội ngũ cấp ủy viên cơ sở đã có sự phát triển mới về phẩm chất và năng lực, trong đó có năng lực thực hành CTXDĐ” [177, tr. 43]. Tuy vậy, năng lực thực hành CTXDĐ của đội ngũ cấp ủy viên ở cơ sở vẫn còn có những hạn chế: việc vận dụng tri thức, kỹ năng để giải quyết tình huống CTXDĐ có lúc chưa tốt, chưa linh hoạt; việc điều hành các hoạt động sinh hoạt tập thể của tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể chính trị - xã hội còn lúng túng hoặc sai sót; việc giải thích, vận động, thuyết phục đảng viên và nhân dân có lúc chưa thật thấu tình đạt lý, sức thuyết phục chưa cao. Một số cấp ủy viên có khuynh hướng hành chính hóa các hoạt động CTXDĐ; khả năng xử lý các tình huống cụ thể chưa tốt [177, tr. 43]. Tác giả Nguyễn Ngọc Ánh đã chỉ ra ưu điểm cơ bản, đồng thời chỉ ra 4 vấn đề hạn chế về phong cách lãnh đạo của bí thư đảng ủy phường ở Thành phố Hà Nội là: quan liêu, xa rời thực tế, không sâu sát cơ sở, nặng về hành chính, mệnh lệnh, cửa quyền, sách nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân; phong cách lãnh đạo của một số bí thư đảng ủy chưa thực sự tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện dân chủ một cách hình thức, thiếu tính tập thể, né tránh trách nhiệm cá nhân; một số bí thư đảng ủy năng lực tư duy hạn chế, chưa gắn lý luận với thực tiễn; một số bí thư đảng ủy chưa thực sự tiền phong, gương mẫu, giản dị, khiêm tốn, cần, kiệm [2, tr. 50]. Đặng Hoài Thiêm chỉ ra những hạn chế về
  20. 24 năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư chi bộ là: năng lực quán triệt, vận dụng đường lối, quan điểm của Đảng, nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên vào thực tiễn đơn vị; năng lực lãnh đạo, điều hành hoạt động của chi ủy, chi bộ có mặt còn bất cập; việc chuẩn bị dự thảo nghị quyết lãnh đạo còn chung chung, trùng lắp, các chủ trương, biện pháp lãnh đạo còn chưa rõ ràng, cụ thể, chưa sát, đúng với đặc điểm, tình hình nhiệm vụ của đơn vị [160, tr. 39]. Về nguyên nhân của những hạn chế, Bùi Đức Lại lý giải ba nguyên nhân CTXDĐ hiệu quả thấp: Một là, xem nhẹ yêu cầu đổi mới Đảng nên chưa đề ra đúng mục tiêu xây dựng Đảng, lệch trong chỉ đạo thực hiện. Hai là, tình trạng thiếu rõ ràng, rành mạch trong việc nhận diện tích cực và tiêu cực, đúng và sai, do đó có nhầm lẫn trong việc phân tuyến. Ba là, coi nhẹ nên không huy động đúng sức mạnh của đảng viên và nhân dân trong công cuộc đổi mới và chỉnh đốn Đảng [105, tr. 43- 45]. Theo tác giả Vĩnh Trọng, nguyên nhân của những hạn chế về năng lực thực hành CTXDĐ của đội ngũ cấp ủy viên ở cơ sở là do: 1) Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thiếu khoa học, chưa gắn với quy hoạch cán bộ và bố trí, sử dụng sau đào tạo, bồi dưỡng. 2) Chưa có quy định chuẩn về chế độ bồi dưỡng bắt buộc đối với đội ngũ cấp ủy viên cơ sở; việc đánh giá chất lượng bồi dưỡng còn hình thức, chưa sát thực chất. 3) Nội dung bồi dưỡng còn trùng lặp, nặng về lý thuyết, thiếu kinh nghiệm thực tiễn, chưa có chương trình bồi dưỡng theo chức danh; chưa chú trọng đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình, bài giảng. 4) Đội ngũ giảng viên, báo cáo viên còn hạn chế trong cập nhật kiến thức mới, kinh nghiệm thực tiễn, các kỹ năng xử lý tình huống. Vận dụng phương pháp giảng dạy tích cực trong các lớp học chưa nhiều [177, tr. 43]. Về kinh nghiệm, tác giả Lê Minh Chiêu rút ra những kinh nghiệm trong bồi dưỡng phong cách công tác của đội ngũ trung đoàn trưởng ở các sư đoàn phòng không: Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính ủy, người chỉ huy, cơ quan chức năng trong quản lý, đánh giá, bồi
  21. 25 dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp; Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa bồi dưỡng về lý luận gắn với rèn luyện phong cách công tác trong thực tiễn thực hiện chức trách, nhiệm vụ; Ba là, phát huy tính tích cực, chủ động và ý chí quyết tâm cao của trung đoàn trưởng ở các sư đoàn phòng không trong tự bồi dưỡng phong cách công tác; Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng, các hình thức, biện pháp và công tác bảo đảm để bồi dưỡng phong cách công tác cho trung đoàn trưởng ở các sư đoàn phòng không [24, tr. 47- 50]. Lê Tất Lam rút ra: Một là, thường xuyên nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị các cấp; Hai là, kết hợp giữa bồi dưỡng năng lực CTXDĐ của đội ngũ cấp ủy viên với bồi dưỡng năng lực toàn diện, chú trọng năng lực chỉ huy quản lý, giảng dạy, nghiên cứu khoa học; Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động bồi dưỡng của tổ chức với việc tự học tập, tự bồi bồi dưỡng và rèn luyện của từng cấp ủy viên; Bốn là, bồi dưỡng năng lực CTXDĐ của đội ngũ cấp ủy viên phải luôn bám sát nhiệm vụ của các khoa giáo viên, kịp thời khắc phục những hạn chế, bất cập [106, tr. 48 - 50]. 2.6. Về giải pháp bồi dưỡng, nâng cao năng lực của đội ngũ cấp ủy viên, bí thư cấp ủy, bí thư chi bộ Trên cơ sở phân tích sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ tác động đến công tác bồi dưỡng, các đề tài, công trình, bài viết đã đề xuất các giải pháp bồi dưỡng năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư chi bộ, đội ngũ cấp ủy viên, đổi mới phong cách lãnh đạo của bí thư đảng ủy, nâng cao năng lực thực hành CTXDĐ của đội ngũ cấp ủy viên cơ sở. Tác giả Hoàng Việt Hùng, Lê Tất Lam, Đặng Hoài Thiêm đề xuất 5 giải pháp bồi dưỡng năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư chi bộ, đội ngũ cấp ủy viên hiện nay là: nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị; xác định đúng nội dung, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, phương pháp bồi dưỡng; phát huy vai trò, tính cực, chủ động của đội ngũ bí thư chi bộ, đội ngũ cấp ủy viên trong tự bồi dưỡng nâng cao năng lực CTXDĐ; gắn bồi dưỡng năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư chi bộ với xây dựng cấp ủy, chi bộ TSVM, với bồi dưỡng, xây
  22. 26 dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các khoa; phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng tham gia bồi dưỡng năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư chi bộ, đội ngũ cấp ủy viên [102, tr. 10 - 11], [106, tr. 59 - 80], [160, tr. 57 - 82]. Tác giả Vĩnh Trọng đưa ra 5 giải pháp nâng cao năng lực thực hành CTXDĐ của đội ngũ cấp ủy viên cơ sở: Một là, làm tốt quy hoạch đội ngũ cấp ủy viên cơ sở. Hai là, đầu tư nâng cao trình độ kỹ năng CTXDĐ cho đội ngũ cấp ủy cơ sở. Ba là, cấp ủy cấp trên cần chú trọng bồi dưỡng năng lực thực hành CTXDĐ cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở. Bốn là, tập huấn nghiệp vụ CTXDĐ hoặc định kỳ đưa đội ngũ cấp ủy viên cơ sở đi đào tạo nâng cao tại các trường chính trị. Năm là, quản lý chặt chẽ chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, đề cao tính chủ động, tích cực, tự bồi dưỡng, rèn luyện của đội ngũ cấp ủy viên cơ sở [177, tr. 43 - 44]. Tác giả Nguyễn Ngọc Ánh đề xuất 5 giải pháp đổi mới phong cách lãnh đạo của bí thư đảng ủy phường ở Thành phố Hà Nội hiện nay: nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể và lực lượng tham gia, nhất là các cấp ủy đảng; tiếp thu những kinh nghiệm trong xây dựng, đổi mới phong cách lãnh đạo của đội ngũ bí thư đảng ủy; xác định đúng nội dung, đổi mới phương pháp, đa dạng hóa các hình thức, biện pháp xây dựng phong cách lãnh đạo sát với chức trách, nhiệm vụ của bí thư đảng ủy, phù hợp với thực tiễn địa phương; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra của cấp ủy cấp trên, nhất là ban thường vụ quận ủy đối với công tác xây dựng phong cách lãnh đạo của bí thư đảng ủy; phát huy và duy trì nền nếp tự học tập, rèn luyện phong cách lãnh đạo gắn với thực hiện học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của người bí thư đảng ủy [2, tr. 51 - 52]. Tác giả Thuỳ Anh khẳng định: “Có nâng cao năng lực lãnh đạo của bí thư chi bộ mới có thể nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng, góp phần xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh” [1, tr. 16], và nâng cao chất lượng bí thư chi bộ cần: thường xuyên cập nhật kiến thức; duy trì giao ban bí thư chi bộ; tổ chức hội thi bí thư chi bộ giỏi; lắng nghe ý kiến đảng viên; kịp thời biểu dương, khen thưởng [1, tr. 10, 11, 16].
  23. 27 Tác giả Hồng Văn đề xuất 6 giải pháp để xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với cấp ủy, cơ quan đơn vị là: 1. Cần nhận thức rõ về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với cấp ủy, cơ quan đơn vị. 2. Chỉ đạo xây dựng và thực hiện nghiêm túc quy chế hoạt động của tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, chính quyền các cấp, quy chế lãnh đạo của cấp ủy và tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị. 3. Thực hiện tốt việc đánh giá người đứng đầu cấp ủy, chính quyền. 4. Cùng với việc thực hiện bầu cử, đề bạt, bổ nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền như hiện nay, cần tổ chức thí điểm việc thi tuyển, tiến cử người đứng đầu. 5. Tiếp tục thực hiện thí điểm chủ trưởng bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện, mở rộng đến cấp tỉnh; ở các cơ quan, đơn vị, thủ trưởng cơ quan đơn vị, giám đốc các doanh nghiệp (có tổ chức đảng) đồng thời là bí thư cấp ủy. 6. Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát đối với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và chấp hành chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước [179, tr. 47 - 48, 51]. Tác giả Nguyễn Quốc Sửu cho rằng, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu theo hướng: phân công, xác định cụ thể, rõ ràng thẩm quyền đi đôi với trách nhiệm của người đứng đầu, của tập thể, của từng cán bộ, công chức, nhân viên; trao mạnh quyền cho người đứng đầu; nêu cao thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu trên cơ sở thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; cần có cơ chế có hiệu lực, có người thực thi, giám sát thực sự các vụ việc tiêu cực, sai phạm, tham nhũng trong từng cơ quan, tổ chức, đơn vị [158, Tạp chí Cộng sản điện tử, (Cập nhật 10:15' 27/11/2013)]. Như vậy, các công trình khoa học, tài liệu nêu trên đã ít nhiều bàn đến nội dung, biện pháp bồi dưỡng, nâng cao năng lực của đội ngũ bí thư đảng ủy, bí thư chi bộ ở một số loại hình tổ chức đảng, nhưng chưa có công trình, đề tài nào nghiên cứu đề xuất giải pháp về nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK.
  24. 28 3. Đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố và những vấn đề luận án tập trung giải quyết 3.1. Đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố Kết quả các công trình khoa học nghiên cứu của nước ngoài và trong nước của các tác giả được tổng quan thể hiện ở những nội dung cơ bản sau đây: Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về đội ngũ cán bộ chính trị, chính ủy, chính trị viên, bí thư cấp ủy, bí thư chi bộ của nước ngoài đã khẳng định vai trò to lớn của CTXDĐ trong Quân đội và Hải quân Liên Xô, chỉ ra nhiệm vụ của các TCCSĐ trong Quân đội và Hải quân Liên Xô; vai trò, chức năng, nhiệm vụ của TCCSĐ nói chung. Có những công trình đã bàn về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ chính ủy, chính trị viên; con đường, biện pháp nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ; chỉ ra những yêu cầu cụ thể về phẩm chất, năng lực, đức, tài của người cán bộ; vai trò của đội ngũ bí thư cấp ủy. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu của nước ngoài được công bố thời gian đã lâu, song các nội dung có liên quan trong các công trình đó vẫn có giá trị tham khảo. Thứ hai, các công trình nghiên cứu trong nước tiếp cận dưới các góc độ khác nhau về đối tượng, phạm vi nghiên cứu về bí thư đảng ủy, bí thư chi bộ, nhưng nhìn chung đều khẳng định vai trò to lớn của CTXDĐ ở cơ sở và vai trò của đội ngũ bí thư cấp ủy, bí thư chi bộ đối với CTXDĐ ở cơ sở. Hiện nay, trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, yêu cầu xây dựng quân đội VMTD, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu càng đòi hỏi phải nâng cao chất lượng CTXDĐ ở cơ sở, thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, năng lực đội ngũ cấp ủy viên, bí thư đảng ủy, bí thư chi bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Một số công trình khoa học đã chỉ ra vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các cấp ủy đảng; vị trí, vai trò, chức trách, nhiệm vụ và yêu cầu về phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác của người bí thư cấp ủy, bí thư chi bộ; đưa ra quan niệm, chỉ ra cấu trúc năng lực của người cán bộ, cấu trúc năng lực CTXDĐ, con đường hình thành, phát triển năng lực của người cán bộ, bí thư đảng ủy, bí thư chi bộ.
  25. 29 Một số công trình khoa học đã đưa ra quan niệm bồi dưỡng đội ngũ bí thư đảng ủy, bí thư chi bộ; chỉ rõ mục đích, chủ thể, đối tượng, lực lượng, nội dung, hình thức, biện pháp bồi dưỡng; xác lập rõ các tiêu chí đánh giá năng lực, bồi dưỡng năng lực đội ngũ cấp ủy viên, bí thư cấp ủy, bí thư chi bộ. Một số công trình đã khảo sát, đánh giá thực trạng năng lực, bồi dưỡng năng lực, chỉ ra nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế, trên cơ sở đó, bước đầu đề xuất những giải pháp cơ bản bồi dưỡng năng lực đội ngũ cấp ủy viên, bí thư cấp ủy, bí thư chi bộ ở một số loại hình tổ chức đảng. Tuy nhiên, do đối tượng, phương pháp tiếp cận, mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung nghiên cứu của mỗi công trình khác nhau, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống về lý luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK dưới góc độ chuyên ngành xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước với tính chất là một công trình khoa học độc lập. Song, các công trình khoa học nêu trên đã chỉ ra những vấn đề có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án, là tư liệu, cơ sở thực tiễn quan trọng cung cấp những luận cứ khoa học để tác giả có thể kế thừa, tiếp tục nghiên cứu, phát triển các ý tưởng của các công trình nghiên cứu đã công bố chưa đề cập tới vào trong luận án. Vì vậy, đề tài nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK hiện nay là độc lập, không trùng lặp với bất cứ công trình, đề tài, luận văn, luận án nào đã được công bố. 3.2. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết Một là, nghiên cứu toàn diện, luận giải một cách cơ bản, hệ thống những vấn đề lý luận về năng lực CTXDĐ và nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK. Hai là, khảo sát thực tiễn, đánh giá toàn diện, đầy đủ, cụ thể thực trạng chỉ rõ nguyên nhân, rút ra những kinh nghiệm nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK hiện nay. Ba là, phân tích những yếu tố tác động, trên cơ sở đó xác định yêu cầu, đề xuất hệ thống giải pháp tiếp tục nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK hiện nay.
  26. 30 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG CỦA ĐỘI NGŨ BÍ THƯ ĐẢNG ỦY TRUNG, LỮ ĐOÀN PHÒNG KHÔNG 1.1. Bí thư đảng ủy và năng lực công tác xây dựng Đảng của đội ngũ bí thư đảng ủy trung, lữ đoàn phòng không 1.1.1. Đảng ủy trung, lữ đoàn phòng không và bí thư đảng ủy trung, lữ đoàn phòng không * Khái quát về các trung, lữ đoàn phòng không và đảng ủy trung, lữ đoàn phòng không - Các TLĐPK là lực lượng nòng cốt, chủ yếu thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, quản lý và bảo vệ vùng trời, các mục tiêu chính trị, kinh tế, quân sự quan trọng của quốc gia; nòng cốt của lực lượng phòng không ba thứ quân, của thế trận phòng không nhân dân trong chiến tranh giải phóng trước đây và trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước hiện nay. Các trung đoàn phòng không (trung đoàn tên lửa, trung đoàn ra đa, trung đoàn pháo phòng không) là binh đội chiến thuật cơ bản trong biên chế của sư đoàn phòng không, Quân chủng PK - KQ; các lữ đoàn pháo phòng không là binh đoàn chiến thuật biên chế trong các quân khu, quân đoàn. Tổ chức biên chế của TLĐPK: đối với các trung đoàn pháo phòng không được tổ chức theo 2 cấp: trung đoàn và đại đội; trung đoàn ra đa được tổ chức theo 2 cấp: trung đoàn và trạm ra đa; trung đoàn tên lửa phòng không thuộc sư đoàn phòng không và lữ đoàn pháo phòng không thuộc quân khu, quân đoàn được tổ chức theo 3 cấp: trung đoàn, lữ đoàn, tiểu đoàn và đại đội. Quân số thường đảm bảo từ 85% đến 90% theo biên chế. Các trung, lữ đoàn pháo phòng không thường biên chế nhiều chiến sĩ hơn các trung tên lửa, trung đoàn ra đa. Nhìn chung, tỷ lệ lãnh đạo ở các TLĐPK tương đối cao, từ 40% đến 70% [Phụ lục 12]. Nhiệm vụ chính trị trung tâm của các TLĐPK là huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, quản lý, bảo vệ vững chắc vùng trời, các mục tiêu chính
  27. 31 trị, kinh tế, quân sự được phân công, tham gia phòng chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, cùng với các lực lượng trong khu vực đóng quân giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng đơn vị VMTD, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Kết quả thực hiện nhiệm vụ của các TLĐPK là kết quả tổng hợp của sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa nhiều bộ phận, lực lượng trong từng trung, lữ đoàn, cấp trên và có liên quan trực tiếp đến kết quả hoàn thành nhiệm vụ của từng sư đoàn phòng không, Quân chủng PK - KQ, từng quân khu, quân đoàn nói riêng, toàn quân nói chung. Các TLĐPK được trang bị nhiều chủng loại tên lửa, pháo phòng không, ra đa, các phương tiện kỹ thuật hiện đại, tương đối hiện đại và cả vũ khí thông thường; có thể tác chiến trong đội hình cấp trên, tác chiến độc lập hoặc trong đội hình binh chủng hợp thành, trong thế trận của khu vực phòng thủ, sẵn sàng đánh địch và đánh địch ở các độ cao khác nhau (tầm cao, tầm trung và tầm thấp); có thể đánh địch mặt đất, mặt nước chi viện cho lực lượng binh chủng hợp thành theo tính năng kỹ thuật, chiến thuật của từng loại vũ khí, khí tài, từng loại hình đơn vị phòng không. Đối tượng tác chiến chủ yếu của các TLĐPK trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc là các lực lượng, phương tiện tiến công đường không bằng vũ khí công nghệ cao (các loại máy bay có và không có người lái, tên lửa hành trình và các loại phương tiện bay khác) của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Kẻ địch có trình độ tác chiến trên không, tác chiến liên hợp, công tác hiệp đồng bảo đảm chu đáo, chặt chẽ, quy mô tác chiến đa dạng, có khả năng chế áp điện tử, gây nhiễu, âm mưu, thủ đoạn tác chiến xảo quyệt, linh hoạt. Đây là thách thức rất lớn đối với các TLĐPK trong bối cảnh vũ khí, trang bị, phương tiện kỹ thuật của các TLĐPK đã lạc hậu, xuống cấp, thiếu đồng bộ, khả năng cơ động còn hạn chế. Đối tượng tác chiến đó đang đặt ra yêu cầu rất cao về bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng, ý chí quyết tâm, trình độ, năng lực của cán bộ, chiến sĩ phòng không, của đội ngũ cán bộ chủ trì TLĐPK nói chung, của đội ngũ bí thư đảng ủy- chính ủy TLĐPK nói riêng.
  28. 32 Tính chất nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu của các TLĐPK rất khẩn trương, yêu cầu thường xuyên sẵn sàng chiến đấu cao trong mọi điều kiện, tình huống, thực hiện đan xen nhiều nhiệm vụ (huấn luyện, trực ban chiến đấu, hành trú quân chiến đấu, chiến đấu chống tập kích đường không, bảo vệ mục tiêu yếu địa, bảo vệ giao thông vận chuyển); thời gian chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu rất ngắn, đòi hỏi độ chính xác, tính hiệp đồng cao, kỷ luật chặt chẽ; không gian tác chiến trực tiếp thu hẹp nhưng không gian liên quan đến tác chiến ngày càng mở rộng và luôn biến đổi, không phân biệt hậu phương, tiền tuyến. Các TLĐPK đóng quân trên địa bàn cả nước, bố trí vừa tập trung, vừa phân tán theo các tình huống và theo yêu cầu nhiệm vụ tác chiến phòng không gắn với thế trận phòng không nhân dân, thế trận của khu vực phòng thủ phù hợp với nghệ thuật quân sự Việt Nam và nguyên tắc tác chiến phòng không. Các TLĐPK thường bố trí tập trung để bảo vệ các trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, các mục tiêu quan trọng của quốc gia, đồng thời cũng bố trí và hoạt động phân tán trên khắp đất nước: đô thị, nông thôn, đồng bằng, rừng núi, hải đảo. Quá trình thực hiện nhiệm vụ của từng trung, lữ đoàn luôn đòi hỏi rất cao về tính chủ động, sáng tạo, đồng thời có sự chỉ đạo, chỉ huy tập trung, thống nhất từ Quân chủng PK - KQ tới quân khu, quân đoàn và đến tất cả các TLĐPK trên phạm vi cả nước. Những đặc điểm trên đòi hỏi người bí thư đảng ủy trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tổ chức thực hiện nhiệm vụ của TLĐPK phải thường xuyên chấp hành sự lãnh đạo, chỉ huy thống nhất của cấp trên, chủ động, sáng tạo, khoa học, chính xác, nhanh chóng, kịp thời, chặt chẽ, chu đáo, phát huy được sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng, nhất là nhân tố con người trong mối quan hệ với vũ khí, trang bị; tổ chức quản lý, bảo quản, khai thác và sử dụng hiệu quả vũ khí, trang bị hiện có và khi được tăng cường, không để xảy ra sơ xuất về khoa học kỹ thuật, vũ khí trang bị, không bị bất ngờ vì các tình huống trên không, bỏ lỡ thời cơ tiêu diệt địch; hiệp đồng chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất với các cơ quan, đơn vị trong và ngoài Quân chủng trong thế
  29. 33 trận của khu vực phòng thủ để thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, quản lý và bảo vệ bầu trời Tổ quốc; biết triệt để tranh thủ, tận dụng thời gian, chủ động tìm ra biện pháp, tạo ra lực lượng, sức mạnh trong những thời cơ, thời gian, thời điểm cần thiết, phát huy chỗ mạnh, hạn chế chỗ yếu của ta, khoét sâu điểm yếu, hạn chế điểm mạnh của địch, giảm bớt tổn thất, hoàn thành tốt nhiệm vụ. - Đảng ủy trung, lữ đoàn phòng không Theo Quy định Số 49 - QĐ/TW, ngày 21/ 11/ 2011 của Bộ Chính trị (Khóa XI) về tổ chức đảng trong QĐND Việt Nam, đảng bộ TLĐPK là TCCSĐ trong Đảng bộ Quân đội. Đảng bộ TLĐPK bao gồm: Đảng bộ trung đoàn tên lửa, đảng bộ trung đoàn ra đa, đảng bộ trung đoàn pháo phòng không trực thuộc đảng bộ sư đoàn phòng không, Quân chủng PK - KQ; đảng bộ lữ đoàn pháo phòng không trực thuộc đảng bộ quân khu, quân đoàn. Tổ chức đảng ở trung đoàn tên lửa làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, lữ đoàn pháo phòng không là tổ chức đảng 3 cấp (đảng bộ trung, lữ đoàn; đảng bộ bộ phận; chi bộ); tổ chức đảng ở trung đoàn ra đa, trung đoàn pháo phòng không, trung đoàn tên lửa niêm cất là tổ chức đảng 2 cấp (đảng bộ trung đoàn, chi bộ). Đảng ủy (ban chấp hành đảng bộ) TLĐPK là cơ quan lãnh đạo của đảng bộ giữa hai kỳ đại hội. Đảng ủy là hạt nhân chính trị của đảng bộ, đại biểu cho ý chí, trí tuệ, năng lực và phẩm chất đạo đức, là trung tâm đoàn kết của đảng bộ. Đảng ủy TLĐPK thường có số lượng từ 9 đến 13 đảng ủy viên. Với đảng ủy có 9 đảng ủy viên, cơ cấu thường gồm: 2 ủy viên là cán bộ chủ trì trung, lữ đoàn, 4 ủy viên là cán bộ chủ trì cơ quan, 3 ủy viên là cán bộ đơn vị trực thuộc. Với đảng ủy có 13 đảng ủy viên, cơ cấu thường gồm: 5 ủy viên trong ban chỉ huy trung, lữ đoàn, 4 ủy viên là cán bộ chủ trì cơ quan, 4 ủy viên là cán bộ đơn vị trực thuộc. Ban thường vụ đảng ủy TLĐPK có số lượng từ 3 đến 5 ủy viên. Đối với các trung đoàn phòng không, cơ cấu thường gồm: chính ủy trung đoàn, trung đoàn trưởng, chủ nhiệm chính trị. Đối với các lữ đoàn phòng không, cơ cấu thường gồm: chính ủy, lữ đoàn trưởng, phó lữ đoàn trưởng - tham mưu trưởng, phó chính ủy, chủ nhiệm chính trị lữ đoàn. Đảng ủy TLĐPK có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của đảng bộ và của TLĐPK. Vai trò đó được thể hiện trên những vấn đề cơ bản: Đảng ủy
  30. 34 là cơ quan lãnh đạo của đảng bộ ở TLĐPK giữa hai kỳ đại hội, là cơ quan lãnh đạo thực hiện nghị quyết đại hội đại biểu (hoặc đại hội đảng viên) đảng bộ trung, lữ đoàn, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên; là đại biểu tiêu biểu cho trí tuệ và ý chí của đảng bộ. Đảng ủy TLĐPK là hạt nhân lãnh đạo nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng bộ TSVM về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, đồng thời quy tụ, phát huy vai trò của các tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng, HĐQN thực hiện thắng lợi các mặt công tác của trung, lữ đoàn; chỗ dựa vững chắc cho cán bộ các cấp trong quản lý, chỉ huy, điều hành cơ quan, đơn vị thực hiện các nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của TCCSĐ được quy định trong Quy định về tổ chức đảng trong QĐND Việt Nam, Số 49-QĐ/TW, ngày 21 tháng 11 năm 2011 của Ban Chấp hành Trung ương (Khóa XI). Có thể khái quát chức năng của đảng ủy TLĐPK là: Lãnh đạo mọi mặt các đơn vị thuộc quyền; xây dựng đảng bộ trong TSVM; xây dựng trung, lữ đoàn VMTD; nghiên cứu, đề xuất với cấp ủy cấp trên những vấn đề có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của trung, lữ đoàn và CTĐ, CTCT. Là đảng ủy cơ sở ở loại hình đơn vị binh chủng kỹ thuật làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, đảng ủy TLĐPK vừa phải thực hiện đầy đủ 5 nhiệm vụ đã ghi trong Điều 23 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Khóa XI) và quy định của Ban Bí thư, đồng thời phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau đây: Một là, lãnh đạo trung, lữ đoàn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, quản lý vùng trời, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật; xây dựng trung, lữ đoàn VMTD, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, trình độ sẵn sàng chiến đấu. Hai là, lãnh đạo xây dựng đảng bộ trung, lữ đoàn TSVM về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ; chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện có nền nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, tổ chức đảng; giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ, đảng viên; liên hệ mật thiết với quần chúng và làm công tác phát triển đảng viên. Ba là, lãnh đạo xây dựng tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng, HĐQN vững mạnh; thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, phát huy quyền làm chủ của cán bộ, chiến sĩ.
  31. 35 Bốn là, lãnh đạo trung, lữ đoàn quản lý, bảo quản, giữ gìn và khai thác sử dụng có hiệu quả vũ khí, trang bị, cơ sở vật chất hậu cần - kỹ thuật; tổ chức tốt đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, bảo đảm trung, lữ đoàn hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ trong mọi tình huống. Năm là, lãnh đạo và tổ chức kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, đảng viên trong đảng bộ trung, lữ đoàn theo đúng quy định của Điều lệ Đảng, nghị quyết của cấp mình và nghị quyết, chỉ thị của cấp trên. Đảng ủy TLĐPK chịu trách nhiệm trước đảng bộ cấp mình và cấp ủy, chỉ huy cấp trên, lãnh đạo mọi mặt hoạt động của đơn vị, giữ mối liên hệ mật thiết giữa đảng bộ với tổ chức đảng cấp trên, cấp dưới và địa phương nơi đóng quân. Đảng ủy TLĐPK có những quyền hạn: Quyết định thành lập, giải thể đảng bộ bộ phận, chi bộ trực thuộc; chuẩn y kết quả bầu cử cấp ủy, bí thư, phó bí thư đảng ủy bộ phận, chi bộ, chỉ định bổ sung cấp ủy viên thuộc đảng ủy bộ phận và chi ủy trực thuộc; khen thưởng, kỷ luật đối với đảng viên, tổ chức đảng; quản lý, sử dụng tài chính đảng theo Điều lệ Đảng và các quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đảng bộ TLĐPK có từ 100 đảng viên trở lên được công nhận đạt TSVM, nếu được cấp ủy cấp trên trực tiếp ủy quyền thì đảng ủy trung, lữ đoàn được quyền quyết định kết nạp đảng viên, cấp giấy chứng nhận học lớp nhận thức về Đảng, lớp bồi dưỡng đảng viên mới và thi hành kỷ luật khai trừ đảng viên nhưng không phải là cấp ủy viên cùng cấp và đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp ủy cấp trên quản lý. * Đội ngũ bí thư đảng ủy trung, lữ đoàn phòng không - Quan niệm đội ngũ bí thư đảng ủy Bí thư đảng ủy TLĐPK đồng thời là chính ủy trung, lữ đoàn - người có đủ tiêu chuẩn, được đại hội đại biểu (đại hội đảng viên) đảng bộ TLĐPK tín nhiệm bầu vào đảng ủy, đảng ủy bầu vào ban thường vụ và bí thư đảng ủy; được đảng ủy sư đoàn phòng không, Quân chủng PK - KQ, đảng ủy quân khu, quân đoàn chuẩn y; trường hợp đặc biệt do đảng ủy cấp trên trực tiếp chỉ định. Trong lĩnh vực xã hội, khi nói đến đội ngũ là người ta nói đến một lực lượng bao gồm nhiều người, tương đồng về chức trách, nhiệm vụ, nghề
  32. 36 nghiệp, hoặc cùng một loại hình công việc, hoặc cùng thực hiện chức năng của một tập thể, một tổ chức, một ngành nghề, được tập hợp, tổ chức lại thành một lực lượng để hoạt động theo những nguyên tắc, quy định nhất định nhằm thực hiện những mục đích, nhiệm vụ nhất định. Theo đó, có thể quan niệm đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK là tập hợp những cán bộ chủ trì về CTXDĐ, có đủ tiêu chuẩn, được đại hội đảng bộ TLĐPK tín nhiệm bầu vào đảng ủy, đảng ủy bầu vào ban thường vụ và bí thư đảng ủy, được cấp ủy có thẩm quyền chuẩn y hoặc được đảng ủy cấp trên chỉ định; là người đứng đầu, chịu trách nhiệm cao nhất trước đảng ủy cấp mình, cấp ủy, cán bộ chủ trì cấp trên về kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng bộ TLĐPK TSVM về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, có năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu cao. Đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK là một bộ phận của đội ngũ cán bộ chính trị trong QĐND Việt Nam - tập hợp những người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng ở TLĐPK, những người có nhiều kinh nghiệm về CTXDĐ ở loại hình đơn vị phòng không, đã tôi luyện trưởng thành từ cấp phân đội, người chủ trì công tác của đảng ủy, đảng bộ, chịu trách nhiệm cao nhất trước đảng ủy, đảng bộ trung, lữ đoàn, cấp ủy, chính ủy - bí thư đảng ủy cấp trên về toàn bộ hoạt động của đảng bộ. Mặt khác, khi nói đến đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK là nói đến những bí thư đảng ủy cơ sở ở loại hình đơn vị quân, binh chủng có trang bị kỹ thuật hiện đại làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Đây là điểm khác biệt về vị trí, vai trò của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK với đội ngũ cán bộ chính trị, chính ủy, chính trị viên trong của QĐND Việt Nam nói chung. - Đặc điểm của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK Một là, đại đa số bí thư đảng ủy TLĐPK được đào tạo cơ bản ở cấp phân đội, được lựa chọn đào tạo cán bộ cấp chiến thuật, chiến dịch theo mô hình người bí thư đảng ủy - phó trung, lữ đoàn trưởng về chính trị. Nhìn chung, đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK hiện nay được đào tạo ở cấp phân đội, được lựa chọn đào tạo theo chức vụ và trình độ học vấn ở cấp chiến thuật, chiến dịch theo nhiều loại hình khác nhau (chính quy, chuyển loại và đào tạo
  33. 37 ngắn). Họ có trình độ học vấn cao, trình độ đại học chiếm đại đa số, trong đó, trình độ học vấn thạc sĩ 3,3%, đại học 86,7%, cao đẳng 10%. Số bí thư đảng ủy được đào tạo cấp phân đội loại hình đào tạo cơ bản 40%, chuyển loại 56,7%, đào tạo ngắn 3,3%; đào tạo cấp chiến thuật, chiến dịch loại hình đào tạo cơ bản 80%, đào tạo ngắn 16,7%, đào tạo giáo viên 3,3% [Phụ lục 2]. Đại đa số bí thư đảng ủy TLĐPK hiện nay có một nền tảng kiến thức tương đối toàn diện, kiến thức về quân sự tương đối vững chắc, phương pháp tác phong công tác khẩn trương, nghiêm túc, dứt khoát, phù hợp với tính chất nhiệm vụ của đơn vị phòng không. Đây là điều kiện thuận lợi để đội ngũ bí thư đảng ủy thực hiện chức trách, nhiệm vụ của người cán bộ chính trị ở loại hình đơn vị binh chủng kỹ thuật chiến đấu. Tuy nhiên, thời gian công tác của họ ở đơn vị cơ sở đã lâu, nên có sự hẫng hụt kiến thức, lý luận về CTĐ, CTCT, CTXDĐ, nếu các tổ chức, lực lượng chức năng không thường xuyên làm tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng và mỗi bí thư đảng ủy TLĐPK không chú trọng tự bồi dưỡng, rèn luyện thì phương pháp tác phong công tác của họ rất dễ rơi vào mệnh lệnh, hành chính, không phù hợp với phương pháp tác phong công tác của người cán bộ chính trị. Nhìn chung đội ngũ bí thư đảng ủy - chính ủy TLĐPK hiện nay được đào tạo cấp trung, sư đoàn phòng không đều từ năm 2006 trở về trước theo mô hình đào tạo người phó chỉ huy về chính trị trung, lữ đoàn. Khi được lựa chọn, bố trí, sắp xếp bổ nhiệm chính ủy TLĐPK, họ vẫn là những người phó chỉ huy về chính trị của cơ chế cũ. Mặc dù trong toàn quân đã triển khai thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên từ năm 2006 đến nay, nhưng một số chính ủy TLĐPK vẫn ảnh hưởng tư tưởng của người phó chỉ huy về chính trị, cấp phó của trung, lữ đoàn trưởng, còn e dè, nể nang, tính quyết đoán hạn chế, còn trông chờ, ỉ lại vào người chỉ huy, thậm chí những vấn đề đó thuộc lĩnh vực do mình phụ trách và phạm vi, quyền hạn của mình. Một số ít đồng chí bí thư đảng ủy - chính ủy TLĐPK có tuổi đời, tuổi quân trẻ hơn người chỉ huy; năng lực toàn diện, kinh nghiệm công tác so với cán bộ chỉ huy còn hạn chế, dẫn đến một số ít đồng chí trung, lữ đoàn trưởng còn đối xử thiếu bình đẳng, chưa tôn trọng người bí thư
  34. 38 đảng ủy - chính ủy với tư cách là người chủ trì về chính trị, người đứng đầu tổ chức đảng, là bí thư cấp ủy. Tình hình trên có tác động trực tiếp đến quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ của người bí thư đảng ủy - chính ủy TLĐPK. Hai là, đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK hầu hết được tôi luyện, trưởng thành ở đơn vị cơ sở, nhiều năm gắn bó với lực lượng phòng không, có tuổi đời, tuổi quân tương đối cao. Kết quả khảo sát cho thấy, tuổi đời, tuổi quân của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK hiện nay tương đối cao. Tuổi đời từ 46 tuổi trở lên chiếm đa số, trong đó, từ 41 đến 45 tuổi chiếm 16,7%, từ 46 đến 50 tuổi chiếm 56,6%, từ 51 đến 55 tuổi chiếm 26,7%. Tuổi quân từ 21 đến 25 năm chiếm 6,7%, từ 26 đến 30 năm chiếm 56,7%, từ 31 năm tuổi quân trở lên chiếm 36,6% [Phụ lục 2]. Cấp bậc quân hàm cơ bản đều đã đạt trần, trong đó, trung tá 6,7%, thượng tá 83,3%, đại tá 10%. Thời gian đảm nhiệm chức vụ từ 1 đến 2 năm chiếm 46,7%, từ 3 đến 5 năm chiếm 36,6%, từ 6 đến 9 năm chiếm 16,7%; có 3,3% bí thư đảng ủy đã qua chiến đấu [Phụ lục 2]. Nhìn chung, đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK hiện nay là những người có kiến thức, kinh nghiệm về chuyên môn quân sự, kỹ thuật, quản lý, chỉ huy bộ đội, tiến hành CTĐ, CTCT, CTXDĐ ở đơn vị phòng không. Đây là tiền đề thuận lợi để đội ngũ này thực hiện chức trách, nhiệm vụ ở một đơn vị kỹ thuật, nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và quản lý vùng trời đòi hỏi tính năng động, nhạy bén, linh hoạt, quyết đoán. Song, tuổi đời, tuổi quân cao, thời gian đảm nhiệm chức vụ lâu tạo nên sức ì, chủ nghĩa kinh nghiệm, gia trưởng, ít quan tâm đến tự học tập nâng cao trình độ. Mặt khác, quy định của trên về tuổi phục vụ của đội ngũ chính ủy - bí thư đảng ủy TLĐPK hiện nay cao hơn so với các đơn vị bộ binh, nếu không có lộ trình tạo nguồn, bồi dưỡng nguồn kế cận, kế tiếp khoa học, hợp lý, mang tính cơ bản, rất dễ dẫn đến ùn tắc, già hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy ở các đơn vị phòng không nói chung, đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK nói riêng. Ba là, đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, song hầu hết đã trải qua cương vị bí thư chi bộ, bí thư đảng ủy tiểu đoàn, đảng ủy viên, ủy viên thường vụ đảng ủy TLĐPK. Đội ngũ bí thư
  35. 39 đảng ủy - chính ủy TLĐPK hiện nay được hình thành từ nguồn phó chính ủy, chủ nhiệm chính trị trung, lữ đoàn và từ cán bộ các cơ quan cấp trên của trung, lữ đoàn. Số phát triển, trưởng thành lên bí thư đảng ủy - chính ủy từ phó chính ủy chiếm 76,6% [Phụ lục 2]. Ưu điểm nổi bật của số bí thư đảng ủy từ hướng nguồn này là đã tích luỹ được những kinh nghiệm thực tiễn về công tác lãnh đạo, chỉ đạo; tiến hành CTĐ, CTCT; kinh nghiệm, phương pháp chỉ huy, quản lý, xây dựng đơn vị. Đây là hướng nguồn cơ bản nhất, đúng theo quy trình, thực tiễn những năm qua đã khẳng định số bí thư đảng ủy - chính ủy trung, lữ đoàn trưởng thành từ hướng nguồn này có chất lượng, hiệu quả công tác tốt hơn. Số phát triển, trưởng thành lên từ chủ nhiệm chính trị chiếm 6,7% [Phụ lục 2]. Hướng nguồn này có thế mạnh là nắm khá vững kiến thức chuyên môn nghiệp vụ CTĐ, CTCT, nhưng chưa được trải qua chức vụ phó chính ủy TLĐPK với tư cách là người kế cận chính ủy - bí thư đảng ủy nên chưa học tập được nhiều kinh nghiệm trong công tác tổ chức, lãnh đạo, chỉ đạo của người chủ trì về chính trị, CTĐ, CTCT. Số phát triển, trưởng thành lên từ cán bộ các cơ quan cấp trên chiếm 16,7% [Phụ lục 2]. Số này có ưu thế là nắm kiến thức chuyên sâu về một ngành thuộc lĩnh vực CTĐ, CTCT, có kỹ năng bao quát, phân tích, tổng hợp, góc nhìn tương đối toàn diện, nhưng phương pháp tác phong còn mang nặng dấu ấn của người cán bộ làm công tác chuyên môn. Tuy từ nhiều nguồn khác nhau, song hầu hết bí thư đảng ủy TLĐPK đều đã trải qua cương vị bí thư chi bộ, bí thư đảng ủy tiểu đoàn, đảng ủy viên, ủy viên thường vụ đảng ủy TLĐPK. Đây là thuận lợi rất căn bản, giúp cho bí thư đảng ủy TLĐPK tích luỹ được nhiều kiến thức, kinh nghiệm về CTXDĐ. Tuy nhiên, với đội ngũ này trình độ, khả năng bao quát, năng lực chỉ đạo, định hướng toàn diện, phong cách phương pháp chỉ đạo, phát huy tốt vai trò của cơ quan vẫn là những khâu yếu, mặt yếu cần tập trung bồi dưỡng để đáp ứng yêu cầu chức trách, nhiệm vụ tốt hơn. Những đặc điểm trên chi phối, tác động vừa tích cực, vừa tiêu cực đến năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK, vừa thuận lợi, vừa khó khăn đến hoạt động nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ bí thư đảng ủy
  36. 40 TLĐPK. Cấp ủy, cán bộ chủ trì và cơ quan chính trị các cấp trong Quân chủng PK - KQ, các quân khu, quân đoàn cần nghiên cứu, nắm vững những đặc điểm đó để lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức hoạt động nâng cao năng lực CTXDĐ của đội ngũ này phù hợp, mang lại hiệu quả cao. - Vai trò của đội ngũ bí thư đảng ủy trung, lữ đoàn phòng không Đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK đồng thời là chính ủy - người chủ trì về chính trị trung, lữ đoàn. Do đó, vai trò của đội ngũ bí thư đảng ủy luôn gắn với vai trò của người chính ủy TLĐPK. Một là, đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK là những người đứng đầu tổ chức đảng, trực tiếp chăm lo xây dựng đảng bộ trung, lữ đoàn TSVM, xây dựng đơn vị vững mạnh về chính trị. Bí thư đảng ủy TLĐPK là người chịu trách nhiệm trước tiên trước cấp ủy cấp mình và cấp ủy, cán bộ chủ trì cấp trên về toàn bộ hoạt động CTXDĐ của đảng bộ trung, lữ đoàn. Vai trò của đội ngũ bí thư đảng ủy trong xây dựng đảng bộ, đảng ủy trung, lữ đoàn TSVM thể hiện trên tất cả các nội dung lãnh đạo, ở tất cả các khâu, các bước trong quy trình lãnh đạo của đảng ủy. Họ là những người trực tiếp nghiên cứu nắm vững nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh, quy định, hướng dẫn của trên, tình hình mọi mặt của đơn vị, trên cơ sở đó phân tích, lựa chọn, chuẩn bị các nội dung, biện pháp lãnh đạo, đề xuất với ban thường vụ, đảng ủy thảo luận, quyết định. Bí thư đảng ủy là người chủ trì các hội nghị ban thường vụ, đảng ủy thảo luận, kết luận, triển khai tổ chức thực hiện các nghị quyết, kế hoạch xây dựng đảng bộ, đảng ủy trung, lữ đoàn TSVM. Sau khi có nghị quyết, họ trực tiếp phân công trách nhiệm tổ chức thực hiện cho các đảng ủy viên, triển khai cho các tổ chức, lực lượng trong đơn vị thực hiện, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, phát hiện những vấn đề nảy sinh, báo cáo ban thường vụ, đảng ủy để bổ sung chủ trương, biện pháp lãnh đạo, tổ chức rút kinh nghiệm công tác lãnh đạo của ban thường vụ, đảng ủy. Đội ngũ bí thư đảng ủy trực tiếp chỉ đạo công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên về mọi mặt (chính trị, tư tưởng, trình độ năng lực, quan hệ gia đình, xã hội; số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ ); chủ trì công tác kiểm tra, giám
  37. 41 sát tổ chức đảng, đảng viên; bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ cấp ủy viên; tiến hành công tác cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ; thực hiện chế độ tự phê bình, phê bình; giải quyết công tác hành chính Đảng; kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, kế hoạch xây dựng đảng bộ TSVM. Mặt khác, đội ngũ bí thư đảng ủy là người điều hành hoạt động của ban thường vụ, đảng ủy, các tổ chức đảng cấp dưới chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt, giương cao ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho mọi hoạt động của TLĐPK và của người chỉ huy luôn giữ vững định hướng chính trị, đi đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, cấp mình. Bí thư đảng ủy là người chịu trách nhiệm trước tiên về toàn bộ những vấn đề chính trị của TLĐPK trước cấp ủy cấp mình, cấp ủy, cán bộ chủ trì cấp trên. Họ thật sự là những người có vai trò quan trọng, trực tiếp góp phần xây dựng đảng bộ, đảng ủy trung, lữ đoàn TSVM, đơn vị vững mạnh về chính trị. Hai là, đội ngũ bí thư đảng ủy đồng thời là đội ngũ chính ủy - những người chủ trì về chính trị, có vai trò quan trọng đối với nâng cao chất lượng, hiệu quả CTĐ, CTCT ở các TLĐPK. CTĐ, CTCT có vai trò đặc biệt quan trọng, bảo đảm cho mọi hoạt động của TLĐPK luôn giữ vững định hướng chính trị, phương hướng giai cấp. Đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK là người đề xuất chủ trương, biện pháp lãnh đạo, trực tiếp chỉ đạo, triển khai, tổ chức thực hiện, kiểm tra, đôn đốc, rút kinh nghiệm và chịu trách nhiệm về việc thực hiện các chủ trương, biện pháp lãnh đạo của ban thường vụ, đảng ủy về CTĐ, CTCT ở trung, lữ đoàn. Đội ngũ bí thư đảng ủy đồng thời là chính chính ủy TLĐPK. Họ là những người chủ trì về chính trị, trực tiếp chỉ đạo, điều hành, phát huy vai trò của cơ quan chính trị, đội ngũ cán bộ, đảng viên, ban chấp hành các tổ chức quần chúng và HĐQN trong trung, lữ đoàn tạo thành sức mạnh tổng hợp tiến hành CTĐ, CTCT trên các lĩnh vực công tác, các mặt hoạt động, các nhiệm vụ. Thông qua hoạt động CTĐ, CTCT, trực tiếp góp phần giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong đơn vị, giáo dục, quán triệt cho cán bộ, chiến sĩ về
  38. 42 chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật Nhà nước, nhiệm vụ của quân đội, đơn vị. Bồi dưỡng đạo đức, lối sống, bản lĩnh chính trị, lòng yêu nước, tinh thần cảnh giác cách mạng, ý chí chiến đấu, ý thức tổ chức kỷ luật cho cán bộ, chiến sĩ trong trung, lữ đoàn. Vì thế, họ có vai trò quan trọng đối với hoạt động CTĐ, CTCT ở TLĐPK. Chất lượng, hiệu lực, hiệu quả CTĐ, CTCT ở TLĐPK như thế nào, phát huy được đầy đủ sức mạnh hay không phụ thuộc một phần lớn vào sự tổ chức, chỉ đạo của đội ngũ bí thư đảng ủy - chính ủy TLĐPK. Ba là, đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK trực tiếp chỉ đạo, định hướng, tổ chức hoạt động, chăm lo xây dựng các tổ chức quần chúng, HĐQN vững mạnh. Xây dựng các tổ chức quần chúng và HĐQN vững mạnh trước hết là trách nhiệm của đảng ủy, ban thường vụ, cán bộ chủ trì ở trung, lữ đoàn. Vai trò của đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK trong xây dựng các tổ chức quần chúng và HĐQN ở trung, lữ đoàn vững mạnh thể hiện ở chỗ đội ngũ này luôn nghiên cứu nắm chắc nghị quyết, chỉ thị, quy định của cấp trên và cấp mình; chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức quần chúng và HĐQN, đề xuất với ban thường vụ, đảng ủy chủ trương, biện pháp lãnh đạo xây dựng, củng cố, kiện toàn ban chấp hành các tổ chức quần chúng, HĐQN có số lượng, đủ cơ cấu hợp lý, chất lượng cao. Đồng thời, họ trực tiếp chỉ đạo, phát huy vai trò của cơ quan chính trị trong bồi dưỡng nâng cao phẩm chất, năng lực, trình độ mọi mặt cho các thành viên ban chấp hành các tổ chức quần chúng, HĐQN; hướng dẫn, chỉ đạo các tổ chức quần chúng và HĐQN xây dựng, triển khai chương trình, kế hoạch công tác theo đúng chức năng, nhiệm vụ, chế độ sinh hoạt; phát huy dân chủ, tính tích cực, sáng tạo, tiềm năng và sức mạnh của các tổ chức quần chúng và HĐQN trong trung, lữ đoàn vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị. Thông qua đó, đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK trực tiếp góp phần xây dựng các tổ chức quần chúng, HĐQN vững mạnh. Bốn là, đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK là nhân tố quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoàn thành nhiệm vụ chính trị của trung, lữ đoàn. Nhiệm vụ chính trị của TLĐPK là sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi, quản lý và bảo vệ vững chắc vùng trời, mục tiêu được giao, cùng với các
  39. 43 lực lượng trong khu vực phòng thủ giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đóng quân. Với chức trách của mình, đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK trực tiếp nghiên cứu, đề xuất, chuẩn bị và báo cáo các nội dung để đảng ủy thảo luận quyết định chủ trương, biện pháp lãnh đạo trung, lữ đoàn thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao. Sau khi có nghị quyết của đảng ủy, họ là lực lượng nòng cốt chủ trì quán triệt, triển khai cho cơ quan, đơn vị trực thuộc trung, lữ đoàn thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức đó, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, phát hiện những vấn đề nảy sinh, báo cáo ban thường vụ, đảng ủy bổ sung chủ trương, biện pháp lãnh đạo đáp ứng đòi hỏi của tình hình thực tiễn. Mặt khác, công tác quân sự và công tác chính trị là hai mặt công tác cơ bản, cốt lõi trong nhiệm vụ chính trị của đơn vị. Bí thư đảng ủy đồng thời là chính ủy TLĐPK - người chủ trì về chính trị, đảm nhiệm và trực tiếp chỉ đạo hoạt động CTĐ, CTCT trong TLĐPK. Trên cả hai cương vị này, họ cùng với người chỉ huy trực tiếp tổ chức hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra các tổ chức, lực lượng trong TLĐPK thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao. Thông qua phương pháp tác phong công tác của người cán bộ lãnh đạo, phương pháp tác phong CTĐ, CTCT, bí thư đảng ủy giáo dục, thuyết phục, tuyên truyền cổ động, lựa chọn khâu đột phá, chỉ đạo, phối hợp các tổ chức trong đơn vị, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, vai trò xung kích của đoàn viên, thanh niên, quyền làm chủ của mọi quân nhân trong thực hiện các nhiệm vụ. Bí thư đảng ủy là nhân tố quan trọng góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của TLĐPK. * Chức trách, nhiệm vụ, yêu cầu phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác của bí thư đảng ủy TLĐPK - Chức trách, nhiệm vụ của bí thư đảng ủy TLĐPK luôn gắn với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và hoạt động lãnh đạo của đảng ủy trung, lữ đoàn và có mối quan hệ chặt chẽ với chức trách, nhiệm vụ của người chính ủy - người chủ trì về chính trị ở TLĐPK. Qua nghiên cứu, điều tra khảo sát thực tiễn, có thể khái quát chức trách, nhiệm vụ của bí thư đảng ủy TLĐPK như sau: Chức trách: Bí thư đảng ủy TLĐPK là người đứng đầu đảng ủy, chủ trì CTXDĐ; chịu trách nhiệm trước đảng ủy cấp mình, đảng ủy, thủ trưởng cấp
  40. 44 trên về toàn bộ công tác xây dựng đảng bộ; trực tiếp chủ trì, điều hành hoạt động của đảng ủy và chỉ đạo CTXDĐ trong đảng bộ trung, lữ đoàn; nghiên cứu đề xuất với đảng ủy các chủ trương, biện pháp lãnh đạo trung, lữ đoàn thực hiện nhiệm vụ. Nhiệm vụ chủ yếu của bí thư đảng ủy TLĐPK: Nghiên cứu, nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của cấp trên, thực tiễn của đơn vị; chuẩn bị nội dung đề án, chủ trì hội nghị ban thường vụ, đảng ủy quyết nghị các chủ trương, biện pháp lãnh đạo. Quán triệt nghị quyết, chỉ thị của đảng ủy, ban thường vụ, xây dựng chương trình, kế hoạch và triển khai tổ chức thực hiện theo chức trách, nhiệm vụ; kiểm tra việc thực hiện nghị quyết trong toàn đảng bộ. Chủ trì công tác xây dựng đảng bộ trung, lữ đoàn TSVM về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; công tác kiểm tra, giám sát; quản lý, giáo dục đảng viên. Chỉ đạo, kiểm tra cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới quán triệt, triển khai thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị, quy định của cấp trên và cấp mình. Thay mặt đảng ủy, ban thường vụ giải quyết các công việc hành chính Đảng (báo cáo tình hình với cấp ủy cấp trên, thông báo cho cấp ủy cấp dưới; ký các văn bản, nghị quyết, chỉ thị của đảng ủy, ban thường vụ) dưới sự lãnh đạo của ban thường vụ; giải quyết mối quan hệ với cấp ủy, chính quyền địa phương. - Yêu cầu phẩm chất, năng lực và phương pháp tác phong công tác của bí thư đảng ủy TLĐPK Phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác của bí thư đảng ủy có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả lãnh đạo, uy tín của ban thường vụ, đảng ủy TLĐPK và uy tín cá nhân của họ. Là người đứng đầu đảng ủy, chủ trì công tác đảng, đồng thời là người chủ trì về chính trị, hạt nhân đoàn kết trong ban thường vụ, đảng ủy, đảng bộ và TLĐPK, để xứng tầm với vai trò đó, bí thư đảng ủy TLĐPK phải là người thực sự tiêu biểu về phẩm chất chính trị, mẫu mức về đạo đức, lối sống, có năng lực toàn diện, giỏi về CTXDĐ, CTĐ, CTCT, có phương pháp tác phong công tác tốt.
  41. 45 Yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống. Bí thư đảng ủy TLĐPK phải có lập trường tư tưởng kiên định, bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành, luôn phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng, mục tiêu lý tưởng chiến đấu của quân đội, không dao động, nao núng tư tưởng trong bất kỳ hoàn cảnh nào; luôn nói, viết và làm theo đúng đường lối của Đảng, nghị quyết của tổ chức đảng, giữ đúng kỷ luật phát ngôn. Mọi suy nghĩ và hành động luôn hướng vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ đơn vị và nhiệm vụ của cá nhân được giao. Có trách nhiệm cao trước nhiệm vụ, đơn vị, biết đặt nhiệm vụ, lợi ích chung lên trên lợi ích của cá nhân, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ với chất lượng cao nhất; dám nghĩ, dám làm, dám quyết định, dám chịu trách nhiệm, đoàn kết, giúp đỡ mọi người cùng hoàn thành nhiệm vụ; gương mẫu về đạo đức và trách nhiệm, không tranh công, đổ lỗi, đùn đẩy trách nhiệm, trốn tránh hoặc thoái thác nhiệm vụ, làm việc chiếu lệ, hình thức, đối phó. Có ý chí, quyết tâm cao, niềm tin sắt đá vào khả năng hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị và bộ đội; trong mọi hoàn cảnh luôn vững vàng ở vị trí lãnh đạo, chỉ huy đơn vị, luôn đi tiên phong, quyết tâm thực hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy, tổ chức đảng cấp mình, cấp trên; bình tĩnh, tự tin, tỉnh táo, sắc sảo trước mọi diễn biến của tình hình. Trong những tình huống nguy cấp, luôn dũng cảm, kiên cường, tiêu biểu cho ý chí “nhằm thẳng quân thù mà bắn”, là điểm tựa về tư tưởng, tinh thần cho người chỉ huy và cán bộ, chiến sĩ của đơn vị. Tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, luôn “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”, trung thực với tổ chức, đơn vị, đồng đội và chính mình; ghép mình vào tổ chức, phục tùng, tin tưởng vào tổ chức, đơn vị và bộ đội; khiêm tốn, tôn trọng cấp trên, đồng cấp, cấp dưới và nhân dân; lối sống trong sáng, giản dị, chân thành, hòa đồng, hòa mình với quần chúng, giải quyết tốt các mối quan hệ trong đơn vị và trong xã hội; đoàn kết, yêu thương, gần gũi, dân chủ, cởi mở, quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, lợi ích chính đáng của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, công nhân viên chức quốc phòng trong đơn vị, luôn tạo cơ hội, điều kiện và động viên để họ tiến
  42. 46 bộ trưởng thành. Không kiêu căng, tự mãn, hách dịch, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đặc quyền, đặc lợi, cá nhân chủ nghĩa, cơ hội, xu nịnh, bè phái, cục bộ, thờ ơ, vô cảm với đồng đội, mặc cảm, định kiến với những người có sai lầm, khuyết điểm trong công tác và trong cuộc sống; kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện sai trái đó. Yêu cầu về năng lực của bí thư đảng ủy TLĐPK. Bí thư đảng ủy - chính ủy TLĐPK phải có kiến thức toàn diện, cơ bản về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, pháp luật, quốc phòng, an ninh, đối ngoại nắm vững những nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về xây dựng Đảng cầm quyền; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên; CTĐ, CTCT, kiến thức cơ bản của các môn khoa học xã hội nhân văn, khoa học và nghệ thuật quân sự. Có năng lực đề xuất với ban thường vụ, đảng ủy chủ trương, biện pháp lãnh đạo đơn vị thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng đảng ủy, đảng bộ TSVM, tiến hành CTĐ, CTCT đúng, trúng, tối ưu, kịp thời, bảo đảm mọi hoạt động của tổ chức, cá nhân trong đảng bộ, TLĐPK luôn đi đúng đường lối, chính sách của Đảng, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên. Có năng lực chỉ đạo, hướng dẫn cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới, cơ quan, đơn vị thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ; phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao; xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng trong đảng bộ TSVM, đội ngũ đảng viên, cán bộ vững mạnh, đơn vị VMTD, các tổ chức quần chúng và HĐQN vững mạnh; tiến hành CTĐ, CTCT; phát hiện, giải quyết, xử trí đúng đắn, kịp thời mọi công việc, các tình huống liên quan đến CTXDĐ, CTĐ, CTCT và chức trách nhiệm vụ của chính ủy - bí thư đảng ủy TLĐPK. Năng lực của người bí thư đảng ủy TLĐPK gắn bó chặt chẽ với năng lực của người chính ủy, do đó phải có kiến thức quân sự vững vàng, năng lực chỉ huy cần thiết, nắm vững khoa học kỹ thuật, nghệ thuật quân sự, nghệ thuật tác chiến phòng không, để chỉ đạo hoạt động CTĐ, CTCT, chủ trì các hội nghị ban thường vụ, đảng ủy, nhất là hội nghị thông qua quyết tâm chiến đấu của
  43. 47 trung, lữ đoàn trưởng và thống nhất chủ trương, biện pháp lãnh đạo đơn vị thực hiện. Có năng lực chỉ đạo, định hướng mọi mặt công tác, mọi hoạt động của các cơ quan, đơn vị theo đúng phương hướng chính trị của Đảng. Nắm vững chức năng, nhiệm vụ của tổ chức, đơn vị; chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ, mối quan hệ công tác giữa các tổ chức, các lực lượng, điều lệnh, điều lệ quân đội; nắm chắc số lượng, chất lượng cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, cán bộ chính trị; tình hình chính trị nội bộ, tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ; kinh phí, trang thiết bị, vật tư CTĐ, CTCT trong đơn vị; nắm chắc và vận dụng linh hoạt các nguyên tắc, quy chế, chế độ, quy định trên các mặt công tác, các nhiệm vụ; thành thạo các phương pháp, nghệ thuật quản lý, giáo dục, thuyết phục, cảm hóa đảng viên, cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị; làm việc theo đúng phạm vi, chức trách, quyền hạn được giao; giàu kinh nghiệm thực tiễn về công tác lãnh đạo, chỉ huy, quản lý ở loại hình đơn vị phòng không. Có phương pháp tác phong chỉ huy ngang tầm cương vị, chức trách, sẵn sàng chỉ huy đơn vị hoàn thành mọi nhiệm vụ khi được giao phó. Yêu cầu về phương pháp tác phong công tác của bí thư đảng ủy TLĐPK. Phương pháp tác phong công tác của bí thư đảng ủy TLĐPK là hệ thống các biện pháp, cách thức, lề lối làm việc tiêu biểu, ổn định mà người bí thư đảng ủy TLĐPK sử dụng trong quá trình công tác, nhằm đáp ứng yêu cầu chức trách, nhiệm vụ được giao. Phương pháp tác phong công tác của bí thư đảng ủy TLĐPK là phương pháp tác phong của người cán bộ chính trị, cán bộ lãnh đạo, vừa có nội dung, yêu cầu chung của người bí thư cấp ủy trong quân đội, vừa có nội dung, yêu cầu riêng của người cán bộ lãnh đạo ở đơn vị binh chủng kỹ thuật chiến đấu phòng không, vũ khí trang bị hiện đại, đối tượng lãnh đạo là cán bộ, chiến sĩ có trình độ cao, có tri thức khoa học, kỹ thuật, chuyên môn sâu về lĩnh vực phòng không. Bí thư đảng ủy TLĐPK phải có tính đảng, tính nguyên tắc cao, nắm chắc phép biện chứng duy vật triết học Mác - Lênin, có thế giới quan và phương pháp luận khoa học, luôn đứng vững trên lập trường quan điểm của Đảng để xem xét, giải quyết các vấn đề nảy sinh từ thực tiễn. Duy trì chấp hành, thực
  44. 48 hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, các nghị quyết, quy chế làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng. Kết hợp chặt chẽ giữa tính đảng, tính nguyên tắc với sự nhạy bén, năng động, sáng tạo, linh hoạt trong hoạt động thực tiễn Có quan điểm thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn nhiệm vụ của quân đội, của đơn vị, bộ đội để dự báo khoa học, lựa chọn, xác định đúng trọng tâm lãnh đạo đề xuất với cấp ủy các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, tổ chức thực hiện. Giải quyết đúng đắn, hài hòa các mối quan hệ với ban thường vụ, đảng ủy cấp mình, với người chỉ huy đơn vị, với đảng viên và quần chúng, với cấp trên và cấp ủy địa phương nơi đóng quân. Kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch, những biểu hiện tiêu cực, lạc hậu, vô tổ chức, kỷ luật. Phương pháp tác phong công tác khoa học, làm việc có chương trình kế hoạch, có điều tra, nghiên cứu nắm chắc tình hình mọi mặt mới quyết định một cách cụ thể, thiết thực, hiệu quả. Bám sát thực tiễn đơn vị, nhất là những nơi khó khăn, việc trọng tâm, coi trọng chỉ đạo, kiểm tra để rút kinh nghiệm. Sắp xếp thời gian nghiên cứu nắm vững chỉ thị, nghị quyết, suy nghĩ giải quyết những mặt công tác cơ bản và học tập nâng cao trình độ, năng lực. Mọi thái độ, hành vi ứng xử, cách thức, biện pháp, lề lối làm việc luôn tuân thủ theo quy luật khách quan, đúng đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước, nghị quyết của tổ chức đảng, phù hợp với thực tiễn, sâu sát, cụ thể, tỷ mỉ, kiểm tra, giám sát kịp thời. Trong công tác, không chủ quan, nóng vội, tuỳ tiện, ngẫu hứng, giáo điều, vô nguyên tắc, lý luận suông, mù quáng bất chấp quy luật. Phương pháp tác phong công tác dân chủ tập thể, mẫu mực, nêu cao tinh thần “đoàn kết, hiệp đồng, lập công tập thể”, biết quy tụ, phát huy trí tuệ, sức mạnh của tập thể, năng lực, trí tuệ của mọi người trong TLĐPK vào thực hiện nhiệm vụ. Biết tranh thủ sự giúp đỡ của cấp trên; thường xuyên trao đổi, thống nhất với người chỉ huy; phát huy vai trò của các cơ quan chức năng trong công tác tham mưu, chỉ đạo, hướng dẫn. Trong công tác, có thái độ khách quan, trung thực, công tâm, dân chủ, tạo niềm tin cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ hăng say sáng tạo, cống hiến xây dựng đơn vị. Khiêm tốn học hỏi, lắng nghe ý kiến của đồng chí, đồng đội và quần chúng trong đơn vị; không độc đoán, chuyên quyền, dân chủ hình thức, dân chủ vô nguyên tắc.
  45. 49 Phương pháp tác phong sâu sát quần chúng, lời nói đi đôi với việc làm, thực sự sâu sát, gần gũi, gắn bó, hiểu tâm tư, nguyện vọng, tin yêu, tôn trọng, quan tâm đến lợi ích và sự tiến bộ, phát huy quyền làm chủ của cán bộ, chiến sĩ. Biết dựa vào đường lối, chính sách, nguyên tắc của Đảng, dựa vào tổ chức để giáo dục, thuyết phục cán bộ, đảng viên và quần chúng. Mẫu mực về đạo đức, lối sống, nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều, làm mẫu mực, dùng chân lý, lẽ phải, thấu tình, đạt lý để giáo dục, thuyết phục, cảm hóa cán bộ, chiến sĩ tin và tự nguyện, tự giác học tập làm theo. Sâu sát các công việc của đảng bộ, đơn vị để dìu dắt cán bộ, chiến sĩ, học hỏi quần chúng, để hoàn thiện mình nhưng không theo đuôi quần chúng; không nói một đường làm một nẻo, nói mà không làm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, quân phiệt với chiến sĩ, cấp dưới. Hiện nay, sự nghiệp quản lý và bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc có sự phát triển và yêu cầu cao hơn càng đòi hỏi người bí thư đảng ủy - chính ủy TLĐPK phải thường xuyên phải học tập, bổ sung cập nhật kiến thức mới, chú trọng tự bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất, năng lực toàn diện, phương pháp tác phong công tác một cách kiên trì, bền bỉ, kết hợp giữa trách nhiệm, nhiệt tình cách mạng với tư duy khoa học, sáng tạo, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ, chức trách trong tình hình mới. 1.1.2. Một số vấn đề cơ bản về năng lực công tác xây dựng Đảng của bí thư đảng ủy trung, lữ đoàn phòng không * Quan niệm năng lực CTXDĐ của bí thư đảng ủy TLĐPK Theo Đại từ điển tiếng Việt: “công tác I. dt Công việc của nhà nước, của đoàn thể. II. đgt 1. Thực hiện công việc của nhà nước, của đoàn thể” [9, tr. 458]. Như vậy, có thể hiểu công tác là công việc của nhà nước, của đoàn thể; thực hiện công việc của nhà nước, của đoàn thể giao cho. Theo đó, CTXDĐ được xác định là công việc thường xuyên của Đảng nhằm bảo đảm cho Đảng ta luôn có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, xứng đáng là đội tiền phong, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam; là tổng thể các chủ trương, biện pháp, cách thức lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện với sự nỗ
  46. 50 lực chủ động, sáng tạo của toàn Đảng, của hệ thống tổ chức, đội ngũ cán bộ, đảng viên từ Trung ương đến cơ sở nhằm làm cho Đảng ta TSVM, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, ngang tầm nhiệm vụ. Nội dung của CTXDĐ bao gồm xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Xây dựng Đảng về chính trị chủ yếu là: xây dựng Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng dựa trên sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cách mạng Việt Nam; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Về tư tưởng chủ yếu là: làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tư tưởng của Đảng và của xã hội, thông suốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Đấu tranh chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, mọi ảnh hưởng tư tưởng phi vô sản. Coi trọng nâng cao kiến thức khoa học, kỹ thuật, năng lực tổ chức, quản lý cho cán bộ, đảng viên. Về tổ chức chủ yếu là: xây dựng hệ thống tổ chức, cơ cấu bộ máy của Đảng từ cơ sở đến Trung ương đúng theo nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng; xây dựng đội ngũ đảng viên, đội ngũ cán bộ; xác định đúng đắn mối quan hệ và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, các đoàn thể nhân dân; bảo vệ chính trị nội bộ Đảng, xây dựng Đảng TSVM; coi trọng và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát. Về đạo đức chủ yếu là: nâng cao phẩm chất cách mạng, phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh thực hiện học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, khắc phục, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Các mặt, nội dung xây dựng Đảng gắn bó chặt chẽ, biện chứng với nhau. Hiện nay, xây dựng Đảng về tư tưởng và đạo đức có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, xây dựng Đảng về đạo đức đã trở thành là một mặt, một nội dung quan trọng, thường xuyên, cấp bách của CTXDĐ. Từ cách tiếp cận trên, có thể hiểu CTXDĐ ở đảng bộ TLĐPK là quá trình quán triệt, vận dụng, cụ thể hóa CTXDĐ và các nội dung CTXDĐ của Đảng
  47. 51 vào CTXDĐ ở đảng bộ TLĐPK. CTXDĐ ở đảng bộ TLĐPK là một bộ phận của CTXDĐ trong Đảng bộ Quân đội, một mặt hoạt động, một nội dung cơ bản của CTĐ, CTCT trong quân đội, có vị trí, vai trò quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, xây dựng đảng bộ TLĐPK TSVM, thực sự là hạt nhân chính trị, lãnh đạo trung, lữ đoàn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tiến hành CTXDĐ ở đảng bộ TLĐPK là trách nhiệm của tập thể cấp ủy, của đội ngũ cán bộ, đảng viên , song đội ngũ bí thư đảng ủy TLĐPK có vai trò đặc biệt quan trọng. Đội ngũ này cần có đủ phẩm chất, năng lực. Phẩm chất và năng lực của bí thư đảng ủy TLĐPK luôn quan hệ biện chứng, gắn bó thống nhất với nhau, tạo nên khả năng hoàn thành nhiệm vụ của mỗi người. Vì vậy, khi nghiên cứu năng lực CTXDĐ của bí thư đảng ủy TLĐPK phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với phẩm chất của họ. Theo Đại từ điển tiếng Việt: “năng lực dt 1. Những điều kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc gì: năng lực tư duy của con người. 2. Khả năng đủ để thực hiện tốt một công việc: có năng lực chuyên môn o năng lực tổ chức”. [9; tr. 1172]. Như vậy, có thể hiểu năng lực là khả năng của một cá nhân, tổ chức và sự huy động khả năng đó vào thực hiện một hay một vài hoạt động nào đó, là kết quả của quá trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng của tổ chức và tự đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện của cá nhân. Năng lực CTXDĐ của người bí thư đảng ủy TLĐPK là khả năng về CTXDĐ được họ huy động, vận dụng vào xây dựng đảng bộ trung, lữ đoàn TSVM, lãnh đạo đơn vị hoàn thành mọi nhiệm vụ. Năng lực đó được hình thành và phát triển thông qua quá trình đào tạo, bồi dưỡng của tổ chức, thông qua hoạt động thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo đơn vị thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng đảng bộ và tự học tập, bồi dưỡng của người bí thư đảng ủy TLĐPK. CTXDĐ của người bí thư đảng ủy TLĐPK là công việc được người người bí thư đảng ủy tiến hành một cách tự giác, tích cực trên cơ sở chức trách, nhiệm vụ nhằm xây dựng đảng bộ TLĐPK vững mạnh về chính trị, tư
  48. 52 tưởng, tổ chức và đạo đức, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, thực sự là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Từ đó có thể quan niệm năng lực CTXDĐ của bí thư đảng ủy TLĐPK là một dạng năng lực chuyên biệt của người đứng đầu đảng ủy TLĐPK, được cấu thành bởi kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng tiến hành các hoạt động xây dựng Đảng, biểu hiện ra ở khả năng, trình độ tổ chức thực tiễn CTXDĐ theo phạm vi chức trách, nhiệm vụ và kết quả công tác xây dựng đảng bộ TSVM, đủ sức lãnh đạo trung, lữ đoàn hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống. * Những yếu tố cấu thành năng lực CTXDĐ của bí thư đảng ủy TLĐPK Tiếp cận dưới góc độ xây dựng Đảng, có thể coi năng lực CTXDĐ của bí thư đảng ủy TLĐPK được cấu thành bởi kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, khả năng, trình độ tổ chức thực tiễn CTXDĐ: - Kiến thức xây dựng Đảng và CTXDĐ của bí thư đảng ủy TLĐPK bao gồm kiến thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, xây dựng Đảng bộ Quân đội; phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng bộ Quân chủng PK - KQ, quân khu, quân đoàn; nhiệm vụ của quân đội, Quân chủng PK - KQ, quân khu, quân đoàn, sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn; kỹ thuật, chiến thuật phòng không, tư tưởng chỉ đạo, khoa học nghệ thuật quân sự trong tác chiến, huấn luyện phòng không; khoa học xã hội nhân văn, văn hóa và nghệ thuật lãnh đạo. - Kinh nghiệm CTXDĐ của bí thư đảng ủy TLĐPK biểu hiện ở: sự trải nghiệm trong thực tiễn về CTXDĐ; kinh nghiệm nắm bắt những vấn đề thực tiễn liên quan đến CTXDĐ; chỉ đạo kiện toàn cấp ủy, tổ chức đảng, quản lý, điều hành, tổ chức các hoạt động của đảng ủy, đảng bộ; xây dựng đội ngũ đảng viên gắn với xây dựng đội ngũ cán bộ; chỉ đạo xây dựng, tổ chức hoạt động của các tổ chức quần chúng; xử trí, giải quyết các vấn đề nảy sinh về CTXDĐ ở TLĐPK. - Kỹ năng tiến hành các hoạt động CTXDĐ của bí thư đảng ủy TLĐPK là thao tác vận dụng đúng đắn, sáng tạo các kiến thức, kinh nghiệm trong tiến hành CTXDĐ. Bao gồm: kỹ năng xây dựng đảng bộ về chính trị: kỹ năng quán triệt nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, đánh giá đúng tình hình mọi mặt