Luận án Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá cơ sở từ năm 2010 đến năm 2020

pdf 224 trang Bích Hải 08/04/2025 60
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá cơ sở từ năm 2010 đến năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_an_dang_bo_tinh_phu_tho_lanh_dao_xay_dung_doi_song_van.pdf
  • doc1 BÌA LUẬN ÁN.doc
  • doc2 BÌA TÓM TẮT TIẾNG VIỆT.doc
  • doc2 TÓM TẮT TIẾNG VIỆT.doc
  • doc3 BÌA TÓM TẮT TIẾNG ANH.doc
  • docx3 TÓM TẮT TIẾNG ANH.docx
  • doc4 THÔNG TIN MẠNG TIẾNG ANH.doc
  • doc4 THÔNG TIN MẠNG TIẾNG VIỆT.doc

Nội dung text: Luận án Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá cơ sở từ năm 2010 đến năm 2020

  1. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan, đây là công trình nghiên cứu độc lập của nghiên cứu sinh và không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố. Các tài liệu, số liệu trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Lê Thị Thùy Linh
  2. MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU 5 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 11 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 11 1.2. Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu 26 Chương 2: CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ VỀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CƠ SỞ (2010 - 2015) 32 2.1. Những yếu tố tác động và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về xây dựng đời sống văn hoá cơ sở 32 2.2. Đảng bộ tỉnh Phú Thọ chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá cơ sở 59 Chương 3: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ VỀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CƠ SỞ (2015 - 2020) 87 3.1. Những yếu tố mới tác động và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về xây dựng đời sống văn hoá cơ sở 87 3.2. Quá trình chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về xây dựng đời sống văn hoá cơ sở 108 Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 137 4.1. Nhận xét Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá cơ sở (2010 - 2020) 137 4.2. Kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá cơ sở (2010 - 2020) 153 KẾT LUẬN 169 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 172 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 173 PHỤ LỤC 196
  3. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt 1 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH 2 Đời sống văn hóa ĐSVH 3 Hội đồng nhân dân HĐND 4 Thiết chế văn hóa TCVH 5 Ủy ban nhân dân UBND
  4. 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài luận án Đời sống văn hoá là một bộ phận quan trọng của đời sống xã hội. Trên thực tế, ĐSVH của một dân tộc, một cộng đồng phản ánh trình độ phát triển của dân tộc, của cộng đồng đó trong tiến trình lịch sử. Ph. Ăng-ghen từng khẳng định: “Mỗi bước tiến lên trên con đường văn hóa lại là một bước tiến tới tự do” [4, tr.164]. Trên cơ sở khẳng định vai trò của văn hóa, ĐSVH, V.I. Lênin nhấn mạnh: “Chỉ có cái gì đã ăn sâu vào đời sống văn hóa, vào phong tục, tập quán, mới có thể coi là đã được thực hiện” [79, tr. 443]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đưa ra khái niệm về Đời sống mới, bao gồm cả “đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới”. Xây dựng ĐSVH cơ sở có vai trò quan trọng trong việc tạo dựng môi trường văn hóa lành mạnh, nếp sống văn hóa văn minh, tốt đẹp; giúp người dân có điều kiện nâng cao ĐSVH tinh thần, nâng cao chất lượng cuộc sống, mang lại diện mạo, không gian sống giàu giá trị văn hóa, văn minh, tiến bộ trong các khu dân cư từ thành thị tới nông thôn; đồng thời, phát huy truyền thống, giữ gìn thuần phong mỹ tục, tạo dựng lối sống văn minh, phong tục tập quán tốt đẹp, phù hợp với trào lưu văn hoá tiến bộ của nhân loại và chống lại hiện tượng lai căng văn hoá. Xây dựng ĐSVH cơ sở tốt đẹp là yêu cầu tất yếu, nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân và là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, của đất nước. Xây dựng, phát triển văn hóa, trong đó có ĐSVH cơ sở là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là trong công cuộc đổi mới hiện nay. Xây dựng ĐSVH cơ sở đã được đề ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (3/1982) và được bổ sung ở nhiều văn kiện tiếp theo. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) năm 1998 của Đảng đã xác định rõ những nội dung xây dựng ĐSVH cơ sở, trong đó có: xây dựng môi trường văn hóa, nếp sống văn hóa, TCVH và các phong trào văn hóa cơ sở... Để phát huy cao nhất vai trò của xây dựng ĐSVH cơ sở, Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh: “xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh
  5. 6 tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” [5, tr.2]. Cùng với đó, trong Kết luận số 76-KL/TW ngày 4/6/2020 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: “đẩy mạnh xây dựng môi trường và đời sống văn hoá lành mạnh, gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” [6, tr.3]. Vì vậy, nghiên cứu để thấy rõ quá trình hiện thực hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng về văn hoá nói chung và ĐSVH nói riêng ở từng địa phương có ý nghĩa hết sức quan trọng. Phú Thọ là tỉnh thuộc vùng miền núi trung du Bắc Bộ, là cái nôi của nền văn hoá Lạc Việt. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, Phú Thọ ngày nay được ví như “bảo tàng” của văn hoá dân tộc với những dấu ấn văn hoá đậm nét. Hệ thống di sản văn hóa phi vật thể và vật thể phong phú, đa dạng được hình thành từ thời đại Hùng Vương dựng nước, có tuổi đời hàng nghìn năm đang được gìn giữ và phát triển. Quán triệt và vận dụng chủ trương của Đảng, Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2010 - 2015 xác định: “Tiếp tục triển khai có hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, thực hiện nếp sống văn hóa trong gia đình, khu dân cư, nơi công cộng; nếp sống văn minh trong tiệc cưới, việc tang, lễ hội; văn minh đô thị” [7, tr.50]. Trong những năm 2010 - 2020, Đảng bộ và các cấp chính quyền tỉnh Phú Thọ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện xây dựng văn hoá nói chung, ĐSVH cơ sở nói riêng đạt được nhiều thành tựu quan trọng như: bản sắc văn hoá dân tộc được giữ gìn; phát huy tốt kết quả các phong trào thi đua yêu nước, động viên mọi tầng lớp nhân dân tăng cường đoàn kết, hăng hái xây dựng xã hội mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; gìn giữ và tạo dựng môi trường văn hoá lành mạnh; các tệ nạn xã hội, các hiện tượng tiêu cực được đẩy lùi; giữ vững ổn định tình hình chính trị ở cơ sở, tạo ra bầu không khí dân chủ góp phần tích cực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển theo hướng nhanh và bền vững. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong những năm 2010 - 2020 vẫn còn hạn chế như: một số mục tiêu, nhiệm vụ trong xây dựng ĐSVH cơ sở mà Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã đề ra chưa hoàn thành; lối sống thực dụng, xem
  6. 7 nhẹ các giá trị đạo đức có xu hướng gia tăng; phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” còn bộc lộ những hạn chế, nhất là trong tạo dựng mô hình ổn định, phù hợp với các loại hình và khu vực dân cư. Các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, ma túy, mại dâm và các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, phô trương hình thức trong tang ma, cưới hỏi, lễ hội... có chiều hướng gia tăng đã đi ngược lại với thuần phong, mỹ tục, không phù hợp với lối sống, nếp sống của dân tộc và xu hướng đổi mới. Với mong muốn có một sự đánh giá sâu sắc và toàn diện về quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng ĐSVH cơ sở trong những năm 2010 - 2020 qua những thành tựu, hạn chế cụ thể và nguyên nhân, từ đó đúc rút những kinh nghiệm có giá trị tham khảo nhằm thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ xây dựng ĐSVH cơ sở trước yêu cầu mới ở tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới. Qua quá trình nghiên cứu, xem xét dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam thì đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách độc lập, có tính hệ thống về vấn đề này. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá cơ sở từ năm 2010 đến năm 2020” làm luận án tiến sĩ Lịch sử, ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng ĐSVH cơ sở từ năm 2010 đến năm 2020; trên cơ sở đó, đúc rút một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo, vận dụng trong xây dựng ĐSVH cơ sở ở tỉnh Phú Thọ hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Làm rõ những yếu tố tác động đến quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng ĐSVH cơ sở (2010 - 2020). Hệ thống hóa và phân tích làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về xây dựng ĐSVH cơ sở từ năm 2010 đến năm 2020, qua hai giai đoạn 2010 - 2015 và 2015 - 2020.
  7. 8 Nhận xét và đúc kết kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng ĐSVH cơ sở (2010 - 2020). 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về xây dựng ĐSVH cơ sở từ năm 2010 đến năm 2020. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Nghiên cứu ĐSVH cơ sở là nghiên cứu ĐSVH ở các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học, cơ sở y tế và ở các khu dân cư, thuộc xã, phường, thị trấn của tỉnh Phú Thọ. Nghiên cứu chủ trương của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về xây dựng ĐSVH cơ sở từ năm 2010 đến năm 2020 (bao gồm phương hướng, mục tiêu; nhiệm vụ, giải pháp) và quá trình chỉ đạo xây dựng ĐSVH cơ sở trên các mặt: Một là, chỉ đạo công tác tuyên truyền; kiện toàn Ban Chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và xây dựng lực lượng làm công tác văn hoá cơ sở. Hai là, chỉ đạo xây dựng môi trường văn hóa cơ sở. Ba là, chỉ đạo xây dựng nếp sống văn hoá cơ sở. Bốn là, chỉ đạo củng cố, xây dựng TCVH và các phong trào văn hóa cơ sở. Về thời gian: Tập trung trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2020. Luận án chọn mốc năm 2010 là thời điểm diễn ra và khởi đầu nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XVII (2010 - 2015); mốc 2020 là năm kết thúc nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII (2015 - 2020). Chọn mốc thời gian như vậy sẽ cho phép làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về xây dựng ĐSVH cơ sở qua hai nhiệm kỳ đại hội. Tuy nhiên, để đảm bảo tính hệ thống và đạt được mục đích nghiên cứu, luận án có sử dụng tư liệu có liên quan trước năm 2010 và sau năm 2020. Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, nhưng để có cơ sở đối chiếu, so sánh, đề tài sử dụng tư liệu của một số địa phương như các tỉnh: Vĩnh Phúc, Yên Bái 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận
  8. 9 Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương của Đảng về văn hoá và xây dựng ĐSVH. Cơ sở thực tiễn Luận án được thực hiện trên cơ sở thực tiễn quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về xây dựng ĐSVH cơ sở từ năm 2010 đến năm 2020, thể hiện qua các văn kiện, báo cáo tổng kết liên quan đến quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng ĐSVH của Đảng bộ và chính quyền các cấp tỉnh Phú Thọ; các công trình nghiên cứu có liên quan đến văn hoá, xây dựng ĐSVH cơ sở ở tỉnh Phú Thọ. Phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic và sự kết hợp của hai phương pháp đó. Phương pháp lịch sử được sử dụng chủ yếu để: Tái hiện lại các công trình nghiên cứu về xây dựng ĐSVH cơ sở ở Chương 1 và phục dựng, tái hiện trung thực tiến trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng ĐSVH cơ sở từ năm 2010 đến năm 2020, qua hai giai đoạn 2010 - 2015 và 2015 - 2020, thông qua các sự kiện, quá trình lịch sử ở Chương 2 và 3. Phương pháp lôgic được sử dụng chủ yếu để: Khái quát giá trị của các công trình khoa học có liên quan đối với đề tài luận án ở Chương 1; khái quát, hệ thống hóa chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ ở Chương 2 và Chương 3; nhận xét, đúc kết những kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng ĐSVH cơ sở từ năm 2010 đến năm 2020 ở Chương 4. Cùng với đó, luận án còn sử dụng các phương pháp khác như: Lịch đại, đồng đại, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp và khảo sát thực tiễn... để làm rõ những nội dung cụ thể của đề tài luận án. 5. Những đóng góp mới của luận án Cung cấp hệ thống tư liệu phong phú, cập nhật có liên quan đến quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng ĐSVH cơ sở từ năm 2010 đến năm 2020. Góp phần vào việc phục dựng quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng ĐSVH cơ sở từ năm 2010 đến năm 2020. Đưa ra những nhận xét và đúc kết kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng ĐSVH cơ sở từ năm 2010 đến năm 2020 có giá trị
  9. 10 tham khảo để vận dụng vào nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng ĐSVH cơ sở ở tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới. 6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án Ý nghĩa lý luận Góp phần khẳng định tính đúng đắn về chủ trương xây dựng đời sống văn hóa cơ sở của Đảng tại tỉnh Phú Thọ - một địa phương có nhiều nét đặc thù về văn hóa. Góp phần tổng kết quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng ĐSVH cơ sở trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế (qua thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ). Góp thêm luận cứ cho việc bổ sung, phát triển chủ trương của Đảng về xây dựng ĐSVH cơ sở trong thời gian tới. Ý nghĩa thực tiễn Góp phần tổng kết thực tiễn một chủ trương lớn của Đảng trong công cuộc đổi mới ở tỉnh tỉnh thuộc vùng miền núi trung du Bắc Bộ, là cơ sở lịch sử quan trọng để tiếp tục triển khai 01 trong 12 định hướng mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định và triển khai quyết nghị của Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021. Những kinh nghiệm đúc rút từ quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo xây dựng ĐSVH cơ sở (2010 - 2020) có thể được vận dụng trong xây dựng ĐSVH cơ sở ở địa phương và các tỉnh có điểm tương đồng trong thời gian tới. Là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ. 7. Kết cấu của luận án Luận án bao gồm: Mở đầu, nội dung (4 chương), kết luận, danh mục các công trình khoa học của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
  10. 11 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về đời sống văn hóa của tác giả nước ngoài Roland Breton (1987), Géographie des civilisations (Địa lý của các nền văn minh) [206]. Trên cơ sở tiếp cận theo chuỗi giá trị, thuộc tính của văn minh, văn hóa, tác giả đã chỉ ra vai trò, tác dụng của văn hóa đối với cuộc sống của con người và quá trình tiến hóa của nhân loại. Tác giả khẳng định: Văn hóa chính là mục tiêu của sự phát triển, văn hóa do con người sáng tạo ra, chi phối toàn bộ hoạt động của con người, là hoạt động sản xuất nhằm cung cấp năng lượng tinh thần cho con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện. Theo tác giả, bản sắc văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc là một thuộc tính cơ bản, một bộ phận quan trọng, cốt lõi của văn hóa. Trên cơ sở đó, tác giả đi sâu phân tích luận giải sự giống và khác nhau giữa văn minh, văn hóa. Văn minh và văn hóa đều là những giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử. Nền văn minh lớn hơn nhiều so với một nền văn hóa, có sự phát triển muộn hơn nền văn hóa. Một nền văn minh có thể được tạo thành từ một số nền văn hóa trên thế giới. Một nền văn minh không thể được xác định là một nền văn minh thực sự nếu không có một nền văn hóa nhất định. Nghiên cứu nội dung về văn minh, văn hóa có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo tồn, giữ gìn bản sắc văn hóa. Việc bảo tồn, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chính là một nội dung của hoạt động xây dựng ĐSVH. Qua đó, từng bước góp phần xây dựng ĐSVH ở mỗi quốc gia, dân tộc. Oscar Salemink (2002), Cultural preservation and cultural expression (Sự bảo tồn văn hóa và biểu hiện văn hóa) [203]. Tác giả đã tập trung phân tích văn hóa truyền thống và văn hóa toàn cầu, khả năng bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa. Văn hóa truyền thống chính là sự kết tinh tất cả những gì tốt đẹp nhất qua dòng chảy lịch sử của dân tộc để làm nên bản sắc riêng, được truyền lại cho các thế hệ sau và theo thời gian sẽ được bổ sung các giá trị mới. Toàn cầu hóa văn hóa
  11. 12 phản ánh không chỉ xu hướng nhất thể hóa các chuẩn giá trị mà còn bao hàm tất cả những hậu quả khả dĩ do giao lưu và tương tác văn hóa đem lại, cụ thể như: sự dung nạp lẫn nhau giữa các yếu tố của các nền văn hóa khác nhau để hình thành nên hệ giá trị chuẩn chung cho toàn nhân loại; sự va chạm và đụng độ giữa các nền văn hóa ở cấp độ toàn cầu Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa là nhằm thực hiện chức năng giáo dục của văn hóa, đáp ứng yêu cầu xây dựng và vun đắp tư tưởng, đạo đức, lối sống nhân văn và đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng để thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia và quá trình hội nhập quốc tế. Nghiên cứu văn hóa truyền thống, văn hóa toàn cầu, quá trình bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa thực chất đó chính là ĐSVH của mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Do đó, khi nghiên cứu xem xét, đánh giá nền văn hoá của mỗi quốc gia, dân tộc phải gắn với thời điểm lịch sử cụ thể và điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội; đồng thời, cần đặc biệt quan tâm đến sự quá độ giữa các chính sách hiện tại và tương lai có thể ảnh hưởng đến sự phát triển văn hóa cũng như ĐSVH của các dân tộc. Carmelle Begin (2002), Preservation of Canadian civilizations and the relationship of cultural activists in the preservation and dissemination of culture (Bảo tồn các nền văn minh của Canada và mối quan hệ của các nhà hoạt động văn hóa trong việc bảo tồn và phổ biến văn hóa) [200]. Tác giả đã khái quát quá trình hình thành chính sách “đa văn hóa” và công nhận những ảnh hưởng chính trị ngày càng tăng của các dân tộc thiểu số ở Canada. Với chính sách về chủ nghĩa đa văn hóa, Bộ Di sản văn hóa Canada đã tổ chức rất nhiều hoạt động nghiên cứu về văn hóa truyền thống. Trong hệ thống các giải pháp đã đưa ra, tác giả nhấn mạnh “cần đẩy mạnh nghiên cứu văn hóa truyền thống” [200, tr.35], chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa và “sự hỗ trợ của các nhà khảo cổ học” [200, tr.35] là những giải pháp quan trọng hàng đầu. Những giải pháp đưa ra nhằm mục tiêu xây dựng ĐSVH cho quốc gia này. Thực hiện tốt các giải pháp đưa ra là cơ sở để phát triển văn hóa, xây dựng ĐSVH ở Canada tốt đẹp hơn. Suriya Ratanakul (2002), Ethnic minorities, education and Thai cultural identity (Các dân tộc thiểu số, giáo dục và bản sắc văn hóa Thái Lan) [202]. Tác giả đã khái quát sự hình thành văn hóa gia đình truyền thống ở Thái Lan. Là quốc
  12. 13 gia - Bán đảo vàng (Golden Peninsula), nằm trong khu vực Đông Nam Á, là láng giềng của Campuchia, Lào và Malaysia, với 58 triệu người nói tiếng Thái và khoảng 600.000 người thuộc các dân tộc thiểu số. Với quá trình hội nhập, văn hóa truyền thống, sinh hoạt cộng đồng lâu đời, phong tục tập quán, tinh thần đoàn kết và lối sống tập thể đã không còn gắn chặt với những quy tắc xã hội. Văn hoá nói chung và ĐSVH nói riêng của các dân tộc miền núi ít nhiều cũng bị tác động bởi những giá trị phát sinh từ các cơ cấu kinh tế mới do các chương trình phát triển tạo ra, sự giao lưu tiếp biến cũng làm mất dần đi những giá trị văn hoá cộng đồng, phá vỡ những giá trị truyền thống gia đình. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những giải pháp, trong đó, cần thực hiện công tác tuyên truyền “đẩy mạnh giáo dục truyền thống, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa, bản sắc văn hóa, nhất là văn hóa dân tộc thiểu số, đồng thời mở rộng giao lưu, tiếp biến có chọn lọc những tinh hoa văn hóa thế giới” [202, tr.98]. Đây là giải pháp có tính khả thi nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc, xây dựng ĐSVH. Estebant Tagannon (2002), Indigenous Cultural Communities in the Philippines: A Historical Look at the Preservation and Promotion of Their Cultural Heritage (Các cộng đồng văn hóa bản địa ở Philippin: Cái nhìn lịch sử về việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của các cộng đồng người) [205]. Tác giả đi sâu phân tích sự cần thiết phải giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống, nhất là giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số và di sản văn hóa tại Philippin. Đây là một quốc gia đa dân tộc, trong đó dân tộc thiểu số chiếm khoảng 2,5 triệu người theo đạo Hồi, chủ yếu cư trú ở những đảo: Mindanao, Jolo, Sulu, Palawan và khoảng 5 triệu người không theo đạo Hồi, phân bố khắp các nơi, đông nhất là người Igorot ở miền Bắc Luzon. Để góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, các di sản văn hóa thì chính sách và luật pháp có vai trò quyết định. Việc bảo tồn, giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống chính là góp phần xây dựng ĐSVH: môi trường văn hóa, nếp sống văn hóa của quốc gia, dân tộc mình. Vì thế, cần “đặt dưới sự bảo hộ của Nhà nước, tăng cường giáo dục khoa học kỹ thuật, văn hoá nghệ thuật” [205, tr.107].
  13. 14 Jing Fang Shen (2002), Legal and organizational guarantees for the preservation of ethnic minority cultures in China (Những bảo đảm về phương diện pháp lý và tổ chức đối với việc bảo tồn các nền văn hóa dân tộc thiểu số ở Trung Quốc) [204]. Tác giả đã khái quát những định chế tự trị được quy định trong luật pháp, bảo đảm cho sự bình đẳng của các dân tộc là vấn đề có tính nguyên tắc. Những định chế đó có thể tạo ra một bối cảnh xã hội cần thiết để thể hiện những nền văn hoá khác nhau; đồng thời, cung cấp sự bảo đảm về pháp lý và hành chính cho công tác bảo vệ di sản văn hoá. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất những giải pháp như: Sử dụng ngôn ngữ riêng của mình trong sách giáo khoa và trong việc dạy học khi đa số học sinh thuộc thành phần dân tộc thiểu số; truyền bá, phát huy văn hoá - nghệ thuật bằng các phương tiện truyền thông (truyền thanh, phim ảnh, truyền hình, báo chí và các xuất bản phẩm...); thực hiện “sưu tầm, dịch và xuất bản các tác phẩm văn học; bảo vệ các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, các công trình kiến trúc, các di sản văn hoá của các dân tộc thiểu số”... [204, tr.112]. Thực hiện tốt việc bảo tồn các nền văn hóa dân tộc thiểu số chính là góp phần xây dựng ĐSVH ở Trung Quốc, nhất là công tác tuyên truyền, phát huy các tác phẩm văn hóa - nghệ thuật trên các phương tiện thông tin đại chúng Bjaznova (2005), Globalization of national values (Toàn cầu hóa các giá trị dân tộc) [201]. Tác giả đã phân tích quá trình phát triển của xã hội phương Tây hiện đại dưới góc độ văn hoá; đồng thời, chỉ ra thực trạng về sự chênh lệch quá xa không chỉ ở các nước nghèo, chậm và đang phát triển mà còn diễn ra ở các nước phát triển. Đó là tình trạng áp bức bóc lột, bất công, phân hóa giàu nghèo, tàn phá và hủy hoại môi trường... Trên cơ sở đó, tác giả tiếp tục nhận định: “Cần tiến hành cuộc cách mạng tinh thần” trong quá trình toàn cầu hóa và “sự va chạm của các nền văn minh” là tất yếu. Từ đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp, trong đó nhấn mạnh giải pháp: “Cần xây dựng xã hội hài hòa hơn, rời khỏi “xã hội tiêu dùng” để chuyển sang “xã hội có ý nghĩa hơn”, nhưng vẫn giữ được cốt cách, bản sắc của dân tộc mình” [201, tr.37]. Đó chính là nhu cầu văn hóa tinh thần sâu sắc, đích thực đang nảy sinh trong tâm lý xã hội của các nước phương Tây. Thực hiện tốt nhu cầu văn hóa tinh thần chính là từng bước nâng cao ĐSVH của mỗi quốc gia, dân tộc.
  14. 15 1.1.2. Các công trình nghiên cứu về đời sống văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa của tác giả trong nước 1.1.2.1. Các nghiên cứu chung về đời sống văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên phạm vi cả nước Nông Quốc Chấn, Đỗ Đức Dục, Quang Đạm, Lê Như Hoa, Nguyễn Văn Kiên (1984), Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở [38]. Các tác giả nêu rõ mục tiêu của việc xây dựng ĐSVH ở cơ sở, đó là: Xây dựng phong trào văn nghệ quần chúng, tổ chức đọc sách báo ở các thư viện; từng bước xây dựng nếp sống mới, gia đình văn hoá mới xã hội chủ nghĩa; giáo dục truyền thống dân tộc, cách mạng, xây các nhà bảo tàng, bảo vệ di tích và di sản văn hoá; hoạt động của hệ thống nhà văn hoá, câu lạc bộ Các tác giả nhấn mạnh, “xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở góp phần tạo chuyển biến tích cực trong xây dựng, phát triển con người Việt Nam toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [38, tr.3]. Xây dựng ĐSVH tốt đẹp sẽ trở thành động lực khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, bảo đảm sự phát triển bền vững, hội nhập quốc tế và bảo vệ Tổ quốc. Bộ Văn hóa - Thông tin (1995), Chủ động sáng tạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở [24]. Tài liệu là sự tổng hợp của 24 bản báo cáo tham luận của các đại biểu trung ương, địa phương và cơ sở. Các báo cáo tập trung về nhiệm vụ tổ chức và quản lý hoạt động văn hóa - thông tin, nhằm đẩy mạnh và nâng cao chất lượng của công tác xây dựng ĐSVH ở cơ sở, phù hợp với những biến đổi của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Nội dung cuốn sách xác định rõ: “Xây dựng và phát triển đời sống văn hóa không chỉ đáp ứng nhu cầu tinh thần của đời sống xã hội mà còn có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần vào phát triển đất nước trong thời kỳ mới” [24, tr.192]. Dương Thanh Tâm (1999), Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư [110]. Nội dung cuốn sách là tổng hợp các bài báo cáo tiêu biểu đại diện cho địa bàn dân cư các vùng, miền về “những phương pháp vận động phong phú, những kinh nghiệm tốt đã đúc kết, những kiến nghị thiết thực về xây dựng nếp sống văn minh, văn hóa” [110, tr.4]. Trên cơ sở nêu bật những
  15. 16 ý nghĩa của cuộc vận động, tác giả đã phân tích sâu sắc những vấn đề thuộc nội dung và hệ thống những kinh nghiệm để thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” có hiệu quả. Một là: Ngay từ khi phát động đã nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của các cấp uỷ đảng, quan tâm tạo điều kiện và phối hợp chặt chẽ của các cấp chính quyền, ban ngành, đoàn thể và sự hưởng ứng tích cực của nhân dân. Hai là: Làm tốt công tác tuyên truyền, phát huy tốt nội lực của mỗi người dân, mỗi gia đình, trong dòng họ và cộng đồng dân cư, nêu cao vai trò tự quản, tích cực, sáng tạo của nhân dân. Ba là: Thường xuyên củng cố hoạt động của các Ban công tác Mặt trận ở khu dân cư cũng như phối hợp đồng bộ giữa chính quyền, Mặt trận, đoàn thể với các ngành, các cấp. Bốn là: Phải có cơ chế thực hiện phù hợp, đồng bộ từ khâu điều hành, phối hợp đến việc tổ chức, triển khai thực hiện cuộc vận động. Phạm Hoài Anh (2016), “Vấn đề xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở Việt Nam” [1]. Tác giả khẳng định: “Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là một trong những chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước đặt ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (3/1982)” [1, tr.91]; đồng thời, nhấn mạnh: “Đây là một công việc quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp xây dựng văn hóa, lối sống, con người Việt Nam. Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở chính là thực hiện nhiệm vụ đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống, làm cho văn hóa ngày càng trở thành yếu tố khăng khít của đời sống xã hội” [1, tr.91]. Trên cơ sở nghiên cứu của mình, tác giả còn nhấn mạnh: “Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở nói chung, xây dựng làng văn hóa nói riêng không phải là công việc một sớm một chiều” [1, tr.93]. Bởi vậy, tiếp tục duy trì, phát triển phong trào xây dựng làng văn hóa, gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” là việc làm cần thiết, là mục tiêu hàng đầu của sự nghiệp văn hóa hiện nay. Nguyễn Huy Phòng (2018), “Xây dựng và hoàn thiện thiết chế văn hóa, giải pháp quan trọng để phát triển văn hóa và con người Việt Nam hiện nay” [96]. Khi bàn về vai trò của TCVH, tác giả xác định: “Trong xây dựng văn hóa, việc kiện toàn, hiện đại hóa hệ thống thiết chế văn hóa đóng vai trò quan trọng, bởi đó là những điều kiện cơ bản, cần thiết để người dân có cơ hội phát triển toàn diện, được
  16. 17 thể hiện tài năng, trí tuệ; được giáo dục, rèn luyện và gia tăng tình đoàn kết, gắn bó” [96, tr.64]. Đây cũng chính là nơi mà văn hóa có cơ hội để thể hiện, bộc lộ tính ưu việt, nổi trội so với các lĩnh vực, loại hình khác trong ĐSVH. Theo tác giả, TCVH đủ mạnh sẽ là “thành trì” kiên cố, vững chắc vừa đón nhận những tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa bảo vệ, giữ gìn những giá trị tốt đẹp của truyền thống cha ông. Trên cơ sở đó, tác giả nhấn mạnh giải pháp cần thực hiện góp phần xây dựng, kiện toàn hệ thống TCVH, bao gồm: Thứ nhất, tăng cường nhận thức của các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân về tầm quan trọng của TCVH. Thứ hai, xã hội hóa các hoạt động, phong trào xây dựng nhà văn hóa và các TCVH khác. Thứ ba, việc xây dựng hệ thống TCVH phải đa dạng, phù hợp tâm lý, nhu cầu cho lứa tuổi, nghề nghiệp, tránh cào bằng theo một kiểu mẫu, khuôn hình cố định. Thứ tư, trong quản lý, vận hành các TCVH, cần “xây dựng những mô hình thí điểm, từ đó rút kinh nghiệm, nhân rộng, học tập những mô hình hoạt động hiệu quả” [96, tr.64-65]. Lê Thị Thảo (2018), “Một số giải pháp truyền thông về phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” trong kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp 4.0” [112]. Theo tác giả, sau hơn 2 năm (2016 - 2018) thực hiện, công tác tuyên truyền về phong trào đã thu được nhiều kết quả quan trọng; góp phần nâng cao nhận thức của người dân về mục đích, ý nghĩa của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Các giải pháp được tác giả đưa ra bao gồm: Một là: Dữ liệu hóa quốc gia nội dung truyền thông để tận dụng tiện ích truyền thông đa phương tiện và internet tiến đến thành lập mạng truyền thông kết nối các TCVH ở cấp quốc gia. Hai là: Xây dựng chuyên mục Toàn dân đoàn kết xây dựng ĐSVH trên kênh truyền hình Văn hóa. Ba là: Thiết lập cộng đồng mạng xã hội đểchia sẻ thông tin về phong trào. Bốn là: Xây dựng các tác phẩm điện ảnh (phim truyện) về thực hiện phong trào. Năm là: Tăng cường giải pháp truyền thông “bằng mô hình dựa trên hoạt động triển lãm trên không gian mạng, kết hợp với mô hình trình diễn tại các điểm du lịch, nhà sinh hoạt cộng đồng” [112, tr.3-4]. Thực hiện tốt các giải pháp này vừa tiết kiệm tối đa chi phí truyền thông vừa huy động sự sáng tạo đểđóng góp cho hoạt động xây dựng ĐSVH.
  17. 18 Trịnh Thị Thuỷ (2020), “Nâng cao chất lượng, hiệu quả, tạo ảnh hưởng sâu rộng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” [126]. Tác giả đã khái quát qua 18 năm (từ năm 2000 đến năm 2018) triển khai thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” và những tác động mạnh mẽ, hiệu quả thiết thực của phong trào mang lại, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân trên phạm vi cả nước. Qua 18 năm thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, đã có nhiều mô hình tiêu biểu, cách làm hiệu quả được phổ biến, nghiên cứu, nhân rộng. Qua các giai đoạn sơ kết, tổng kết phong trào đã có “trên 1.200.000 gương người tốt, việc tốt; 18.651.317 trên tổng số 21.771.790 gia đình được công nhận “Gia đình văn hóa”; 73.984 trên tổng số 104.609 được công nhận làng, thôn, ấp, bản, tổ dân phố văn hóa; 84.785 trên tổng số 114.972 được công nhận cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp văn hóa” [126, tr.2-3]. Nhiều cá nhân, tập thể đã có thành tích xuất sắc được Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp khen thưởng, động viên kịp thời. Nhiều gia đình đã hiến đất, đóng góp tiền của, công sức xây dựng nhà văn hóa, xây dựng trường học, xây dựng nông thôn mới 1.1.2.2. Các nghiên cứu về đời sống văn hóa, xây dựng đời sống văn hoá cơ sở ở các vùng miền, địa phương Trần Hữu Sơn (1997), Đời sống văn hoá tinh thần người H’mông ở Lào Cai (truyền thống và hiện đại) [107]. Tác giả tập trung nghiên cứu ĐSVH tinh thần truyền thống của người H’mông ở Lào Cai: tín ngưỡng tôn giáo, lễ thức, ngôn ngữ, tục ngữ Cùng với đó, “nghiên cứu đời sống văn hóa tinh thần người H’mông trong quá trình biến đổi còn tìm ra mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, mối quan hệ giữa kế thừa di sản văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại” [107, tr.1]. ĐSVH tinh thần không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, tác giả khẳng định “nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của người H’mông là nhiệm vụ cấp bách” [107, tr.1]. Nguyễn Hữu Minh (2014), Đời sống văn hoá của cư dân Hà Nội [90]. Tác giả đã đưa ra khái niệm về ĐSVH: “Đời sống văn hóa bao hàm tất cả những hoạt động để tồn tại của con người từ lúc sinh ra cho đến lúc chết” [90, tr.21]. Những hoạt động đó được thực hiện trên những bình diện khác nhau, vì những
  18. 19 mục đích khác nhau. Có những bình diện thuần sinh học như ăn uống; có bình diện mang tính tinh thần như học tập, sáng tạo; có bình diện mang tính cá nhân như tình yêu; có bình diện mang tính xã hội như phong tục, tập quán. Trên cơ sở trình bày cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu về ĐSVH người Hà Nội; tổng quan về ĐSVH ở Hà Nội từ năm 2005 đến nay; đặc điểm hộ gia đình; một số loại hình văn hoá giải trí của người nông dân; phong tục, nghi lễ liên quan đến việc cưới, việc tang; các quan hệ trong gia đình và họ hàng; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo lễ hội và các sinh hoạt cộng đồng...; tác giả nhấn mạnh: Chất lượng các cơ sở văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng có tác động mạnh đến việc giải trí của người dân. Để nâng cao ĐSVH tinh thần của người dân, cần phải nâng cao chất lượng của các cơ sở văn hóa. Bên cạnh đó, ngành văn hóa cũng cần quan tâm hơn nữa đến việc phát triển các loại hình hoạt động giải trí như xem phim ở rạp, xem biểu diễn ở nhà hát, vui chơi ở công viên Đầu tư xây dựng các TCVH (rạp chiếu phim, nhà văn hóa, quảng trường ) là một trong những giải pháp mà tác giả đã đưa ra nhằm góp phần xây dựng ĐSVH của cư dân Hà Nội. Nguyễn Thị Song Thương (2015), Đời sống văn hoá của cư dân Óc Eo ở Tây Nam Bộ [128]. Tác giả đưa ra quan niệm: ĐSVH “là toàn bộ hoạt động văn hóa của con người, đáp ứng nhu cầu văn hóa vật chất và tinh thần nhằm duy trì cuộc sống của con người” [128, tr.12]. Tác giả nhấn mạnh: Văn hóa Óc Eo là một nền văn hóa cổ, được giới khoa học biết đến từ cuối thế kỷ XIX. Các di tích khai quật đã làm lộ diện về sự tồn tại của một nền văn hóa đã từng tồn tại trong lịch sử, đều có chung đặc điểm, tính chất văn hóa với khu di tích Óc Eo (An Giang). Tác giả đã trình bày những nhân tố tác động đến ĐSVH của cư dân Óc Eo ở Tây Nam Bộ: đó là hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo; đó là hệ thống phong tục, tập quán Nghiên cứu nội dung này để thấy được mối quan hệ giữa con người với dấu tích văn hóa mà cư dân Óc Eo để lại; đặc biệt, vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị ĐSVH đó trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập quốc tế đang là những vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc. Nguyễn Minh Tiệp (2017), “Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở Hoằng Hóa, Thanh Hóa” [130]. Tác giả đánh giá dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp
  19. 20 ủy và chính quyền, nhân dân huyện Hoằng Hóa đã hăng hái thực hiện tốt các cuộc vận động, phong trào thi đua, tích cực lao động sản xuất, đẩy mạnh phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình phúc lợi và phát triển các hoạt động văn hóa mới, từng bước làm khởi sắc bộ mặt quê hương và không ngừng cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” thực sự trở thành phong trào văn hóa lớn, có tác động tích cực đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội trên địa bàn huyện. Tác giả khẳng định: “Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là xây dựng những điều kiện để tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh trong thời gian rỗi của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa, nghệ thuật” [130, tr.30]. Chính thực tiễn đó cho thấy Hoằng Hóa, Thanh Hóa đã đạt được những thành tựu to lớn trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng ĐSVH cơ sở. Cao Thanh Quỳnh (2018), Phát huy vai trò nguồn nhân lực trẻ trong xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn tỉnh Bình Dương hiện nay [98]. Tác giả khẳng định: “Xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn tỉnh Bình Dương là hoạt động chủ động, tích cực của các chủ thể trong quá trình kết hợp chặt chẽ giữa việc tạo lập các giá trị văn hóa với phát huy năng lực sáng tạo của người dân nông thôn” [98, tr.39], đồng thời, “kế thừa, chọn lọc những giá trị văn hóa dân tộc và thế giới, nâng cao chất lượng hoạt động, thiết chế, sản phẩm của đời sống văn hóa, đáp ứng nhu cầu, khả năng thụ hưởng văn hóa, phát triển và hoàn thiện nhân cách cho người dân ở nông thôn” [98, tr.39]. Trên cơ sở đó, tác giả phân tích, luận giải quan niệm về nguồn nhân lực trẻ, ĐSVH và xây dựng ĐSVH ở nông thôn tỉnh Bình Dương; phân tích vai trò và phát huy vai trò nguồn nhân lực trẻ trong xây dựng ĐSVH ở nông thôn tỉnh Bình Dương. Tác giả đã đưa ra các giải pháp nhằm phát huy vai trò nguồn nhân lực trẻ trong xây dựng ĐSVH ở nông thôn tỉnh Bình Dương: nâng cao nhận thức, trách nhiệm và đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực trẻ; cơ chế, chính sách và các điều kiện bảo đảm; khơi dậy tính tích cực, sáng tạo, tổ chức các hoạt động thực tiễn cho nguồn nhân lực trẻ... Những giải pháp này là đồng bộ, khả thi và tạo
  20. 21 thành một chỉnh thể thống nhất, vừa có tính độc lập tương đối, vừa có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ, bổ sung cho nhau phát huy vai trò nguồn nhân lực trẻ trong xây dựng ĐSVH ở nông thôn tỉnh Bình Dương hiện nay; là cơ sở cho các tỉnh trên cả nước tham khảo, vận dụng vào xây dựng ĐSVH cơ sở địa phương mình. Nguyễn Khắc Hoàng (2018), “Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” ở huyện Bắc Quang: Nhiều bước tiến mới, đi vào chiều sâu” [52]. Tác giả đã tập trung phân tích về huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang với những đặc trưng riêng về dân cư, diện tích và địa hình. Tác giả khẳng định: “Với sự nỗ lực cố gắng không ngừng trong thời gian qua, Bắc Quang đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong việc làm thay đổi diện mạo địa phương và nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế và văn hoá của huyện” [52, tr.29]. Những thành tích đã đạt được trong xây dựng ĐSVH ở huyện Bắc Quang góp phần vào bức tranh chung của cả nước về xây dựng ĐSVH ngày càng tốt đẹp, văn minh hơn. Đinh Đức Thiện (2018), Quản lý đời sống văn hoá trong các khu đô thị mới ở Hà Nội [115]. Tác giả đã hệ thống các lý thuyết về văn hóa đô thị và quản lý ĐSVH trong các khu đô thị mới ở Hà Nội (nghiên cứu khu đô thị mới Trung Hòa - Nhân Chính và Nam Thăng Long). Tác giả phân tích và đánh giá thực trạng quản lý ĐSVH trong các khu đô thị mới ở Hà Nội và nhấn mạnh: Chỉ cải thiện được môi trường văn hóa trong các khu đô thị mới ở Hà Nội khi đã xây dựng được các thiết chế cho nó; đồng thời, hướng tới khắc phục sự mất cân đối giữa kinh tế và văn hóa trong quá trình xây dựng các khu đô thị mới ở Hà Nội. Tác giả khẳng định: “Sự chuyển đổi lối sống, sinh hoạt của cư dân cũng đặt ra nhiều thách thức đòi hỏi công tác quản lý đời sống văn hóa, hay chính xác hơn là quản lý những sinh hoạt văn hóa phải vào cuộc, xem xét lại việc thực hiện các văn bản quản lý văn hóa” [115, tr.1]. Trên cơ sở nghiên cứu và kiến giải khá thấu đáo các vấn đề, tác giả “đề xuất những yêu cầu mới phù hợp, khả thi với các khu đô thị nhằm phát huy hiệu quả những xu hướng phát triển tích cực, đẩy lùi những xu hướng tiêu cực, phản tác dụng giáo dục, phản văn hóa” [115, tr.1].