Luận án Ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở Giáo phận Bùi Chu - Nam Định hiện nay
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở Giáo phận Bùi Chu - Nam Định hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- luan_an_anh_huong_cua_tin_nguong_truyen_thong_viet_nam_den_d.pdf
Nội dung text: Luận án Ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở Giáo phận Bùi Chu - Nam Định hiện nay
- HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH MAI DIỆU ANH ¶NH H¦ëNG CñA TÝN NG¦ìNG TRUYÒN THèNG VIÖT NAM §ÕN §êI SèNG §¹O CñA NG¦êI C¤NG GI¸O ë GI¸O PHËN BïI CHU – NAM §ÞNH HIÖN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC CHUYÊN NGÀNH : CNDVBC & CNDVLS Mã số: 62 22 03 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1.GS.TS. Nguyễn Hùng Hậu 2. PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương HÀ NỘI – 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận của luận án chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. Tác giả luận án Mai Diệu Anh
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 7 1.1. Những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng truyền thống Việt Nam và đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định 7 1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định hiện nay 16 1.3. Những công trình nghiên cứu về giải pháp chung và giải pháp cụ thể nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu 25 1.4. Những vấn đề mà luận án kế thừa và những vấn đề nghiên cứu đặt ra 28 Chương 2: TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM VÀ ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở GIÁO PHẬN BÙI CHU - NAM ĐỊNH - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 31 2.1. Tín ngưỡng truyền thống Việt Nam và tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định 31 2.2. Công giáo và đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định 50 Chương 3: ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM ĐẾN ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở GIÁO PHẬN BÙI CHU - NAM ĐỊNH - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN 68 3.1. Thực trạng ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định 68 3.2. Nguyên nhân của thực trạng 102
- Chương 4: DỰ BÁO XU HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM ĐẾN ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở GIÁO PHẬN BÙI CHU - NAM ĐỊNH 113 4.1. Dự báo xu hướng ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định 113 4.2. Một số giải pháp nhằm góp phần phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định 119 KẾT LUẬN 140 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 143 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 144 PHỤ LỤC
- DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT Viết đầy đủ Viết tắt Chính trị quốc gia CTQG Chủ nghĩa duy vật biện chứng CNDVBC Chủ nghĩa duy vật lịch sử CNDVLS Hà Nội HN Hội đồng nhân dân HĐND Nhà xuất bản Nxb Trang Tr. Ủy ban nhân dân UBND
- 1 MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU Việt Nam là đất nước thuộc loại hình văn hóa nông nghiệp. Trong lịch sử hình thành và phát triển, do hoàn cảnh địa lý - lịch sử khá đặc biệt, nước ta thường xuyên bị xâm lược bởi các cường quốc như Trung Hoa, Mông Cổ, Pháp, Mỹ cũng như tiếp nhận rất nhiều nền văn hóa ngoại lai. Một điều lạ lùng là nước Việt Nam nhỏ bé lại không hề bị đồng hóa bởi bất cứ một nền văn hóa nào khác. Điều này chỉ có thể được lý giải bởi một đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam, đó là tính dung hợp - sự tổng hợp nhiều yếu tố khác nhau và biến đổi linh hoạt để tạo nên cái mới. Vì thế, các hiện tượng văn hóa ngoại lai khi du nhập vào Việt Nam thường bị biến đổi sao cho phù hợp với văn hóa truyền thống. Công giáo ở Việt Nam cũng là một hiện tượng như vậy. Lịch sử Công giáo ở Việt Nam đã thừa nhận giáo phận Bùi Chu - Nam Định là điểm đến đầu tiên của các giáo sĩ phương Tây nhằm truyền bá tôn giáo này. Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục đã viết “Gia Tô: Theo sách Dã lục (một loại dã sử), thì ngày 1 tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ nhất (1533), đời Lê Trang Tông người Tây Dương tên là Ynêkhu lén lút đến xã Ninh Cường, xã Quần Anh huyện Nam Chân và xã Trà Lũ huyện Giao Thủy ngấm ngầm truyền giáo về tà đạo Gia Tô” [150, tr.301]. Do vậy, năm 1533 được giáo sử Công giáo lấy làm thời điểm đánh dấu hoạt động truyền giáo ở Việt Nam. Cũng từ đó, Công giáo phát triển lan rộng toàn đất nước Việt Nam, mở đầu cho sự giao lưu giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa phương Tây nói chung, văn hóa Công giáo nói riêng. Công giáo là một tôn giáo mang đậm tính khuôn mẫu, lý tính của truyền thống văn hóa phương Tây, vì vậy trong một thời gian dài, về mặt quan phương, tôn giáo này không thể hòa đồng với văn hóa Việt Nam. Sự xung đột giữa Công giáo với văn hóa truyền thống, đặc biệt là với tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên người Việt đã gây nên bao trăn trở với các tín đồ Công giáo.
- 2 Với Công đồng Vatican II (1962 - 1965), lịch sử Giáo hội đã bước sang một trang mới. Sau Công đồng Vatican II, tinh thần Canh tân và Thích nghi đã được Giáo hội Công giáo Việt Nam tiếp nhận, triển khai từng bước nhằm đưa Công giáo hoà hợp với văn hoá dân tộc, khắc phục những xung đột của đời sống đạo Công giáo đối với văn hóa truyền thống. Tinh thần Canh tân và Thích nghi của Công đồng Vatican II phù hợp với đường lối, chủ trương nhất quán mà Đảng và Nhà nước ta đưa ra, đó là tôn trọng tự do tôn giáo nói chung, Công giáo nói riêng, giữ gìn và trân trọng những giá trị văn hoá tốt đẹp của Công giáo, đảm bảo sự tự do sinh hoạt tôn giáo cho các tín đồ. Tuy nhiên, bối cảnh thế giới và trong nước đang diễn biến hết sức phức tạp. Trong sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là một xu thế lớn. Xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, can thiệp, khủng bố diễn ra gay gắt. Vì vậy, đối với tín ngưỡng, tôn giáo, Đảng ta xác định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước; tôn trọng những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo; động viên chức sắc, tín đồ, các tổ chức tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. [52, tr.51]. Trước tác động của hội nhập, của kinh tế thị trường, đời sống đạo của người Công giáo Việt Nam có những biểu hiện phức tạp. Trong bối cảnh đó, phát triển môi trường sinh hoạt tôn giáo tự do, lành mạnh để các tín đồ thực hiện tốt phương châm “Sống tốt đời, đẹp đạo”, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Thiết nghĩ vấn đề đó sẽ được giải quyết một cách hiệu quả nếu tập trung nghiên cứu trước hết vào vùng đất mà các giáo sỹ truyền đạo đặt chân đầu tiên tới Việt Nam, nơi khởi nguồn cho sự hình thành và phát triển Công giáo ở Việt Nam - giáo phận Bùi Chu - Nam Định. Ở nơi đây, ảnh hưởng của văn hóa truyền thống, đặc biệt là
- 3 tín ngưỡng truyền thống đến đời sống đạo của người Công giáo đang diễn ra sôi động, nhiều màu sắc. Tuy chỉ nghiên cứu về một giáo phận cụ thể nhưng luận án phần nào cho thấy bức tranh ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam tới đời sống đạo của người Công giáo ở Việt Nam nói chung. Với những lý do trên, đề tài “Ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định hiện nay” có tính lý luận và thực tiễn cấp thiết. 2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU - Mục đích của luận án Luận án tập trung làm rõ thực trạng ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định hiện nay, nguyên nhân của thực trạng; đưa ra dự báo xu hướng, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu hiện nay. - Nhiệm vụ của luận án Để thực hiện mục đích trên, luận án thực hiện một số nhiệm vụ như sau: - Khái quát tín ngưỡng truyền thống Việt Nam vùng đồng bằng Bắc bộ, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định. - Khái lược vài nét về Công giáo, lịch sử giáo phận Bùi Chu. Làm rõ khái niệm đời sống đạo, đời sống đạo của người Công giáo, từ đó chỉ rõ những nét đặc thù trong đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định. - Làm rõ thực trạng ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định hiện nay, nguyên nhân của thực trạng. - Dự báo xu hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng
- 4 truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định hiện nay. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu đời sống đạo của người Công giáo dưới ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Luận án nghiên cứu trong phạm vi giáo phận Bùi Chu - Nam Định, thời gian tập trung vào giai đoạn từ sau Công đồng Vatican II (1962 - 1965) đến nay. Tuy rằng tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là khá đa dạng, nhưng trong khuôn khổ luận án, nghiên cứu sinh chỉ tập trung vào 3 loại hình tín ngưỡng: tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng Thành Hoàng làng và tín ngưỡng thờ Mẫu. Đồng thời, luận án chỉ nghiên cứu ảnh hưởng một chiều: tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ảnh hưởng đến đời sống đạo của người Công giáo Bùi Chu - Nam Định ra sao. 4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Cơ sở lý luận Luận án sử dụng cơ sở lý luận là CNDVBC và CNDVLS, quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Ngoài ra, luận án còn dựa vào các văn kiện Đại hội Đảng, các nghị quyết của Trung ương, tài liệu của các cấp ủy đảng và chính quyền ở tỉnh Nam Định và các địa phương nằm trong khu vực giáo phận Bùi Chu - Nam Định hiện nay có liên quan đến đề tài. - Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp với các phương pháp cụ thể như phương pháp triết học tôn giáo, phương pháp phân tích - tổng hợp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp điều tra phỏng vấn sâu, phương pháp điền dã
- 5 dân tộc học và quan sát tham dự Ngoài ra, phương pháp chuyên gia cũng được đề tài áp dụng nhằm tranh thủ ý kiến của các nhà nghiên cứu chuyên gia và các nhà hoạt động quản lý thực tiễn trong lĩnh vực nghiên cứu. 5. ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN ÁN - Luận án khái quát đặc trưng các tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, và đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định. - Luận án làm rõ thực trạng những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực và những nguyên nhân ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định hiện nay. - Luận án đưa ra dự báo về xu hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định hiện nay. 6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN - Ý nghĩa khoa học: Đề tài luận án được thực hiện để góp thêm sự nhận biết về ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định, đem lại những giá trị văn hóa với tính cách là nền tảng tinh thần cho người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định. - Ý nghĩa thực tiễn: Luận án đưa ra xu hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định hiện nay. Sản phẩm của luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho các cơ quan, cá nhân nghiên cứu, giảng dạy về tôn giáo, các cơ quan chức năng làm công tác tôn giáo. 7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 10 tiết:
- 6 Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Chương 2: Tín ngưỡng truyền thống Việt Nam và đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định - Một số vấn đề lý luận. Chương 3: Ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định hiện nay - Thực trạng và nguyên nhân. Chương 4: Dự báo xu hướng và một số giải pháp nhằm góp phần phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định.
- 7 Chương 1 TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM VÀ ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở GIÁO PHẬN BÙI CHU - NAM ĐỊNH 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng truyền thống Việt Nam và tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định 1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng truyền thống Việt Nam Trước hết, phải kể đến cuốn sách “Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay” do nhà nghiên cứu Đặng Nghiêm Vạn chủ biên [194]. Cuốn sách này đề cập tới thờ cúng Tổ tiên ở ba cấp độ: quốc gia: thờ Vua Hùng; làng: thờ thần Thành Hoàng; dòng họ, gia đình: thờ tổ tiên. Nhà nghiên cứu Đặng Nghiêm Vạn khẳng định thờ cúng Tổ tiên là một bộ phận văn hóa dân tộc, là tâm linh của cả cộng đồng Việt Nam. Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu Lê Trung Vũ đề cập tới các phong tục trong vòng đời người Việt truyền thống như các lễ tiết trong năm (Tết Nguyên đán, tết Thượng nguyên, tết mồng 3 tháng 3 ), các nghi lễ nông nghiệp; các lễ thức đời thường (sinh con, hôn lễ, lễ tang ). Trong cuốn “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” [158], tác giả Trần Ngọc Thêm miêu tả khái quát các loại hình tín ngưỡng Việt Nam như tín ngưỡng Phồn thực (thờ sinh thực khí và thờ hành vi giao phối), tín ngưỡng sùng bái tự nhiên (thờ Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước; thờ động vật và thực vật), tín ngưỡng sùng bái con người (thờ Thổ Công, thờ thần Thành Hoàng, Tứ bất tử). Tác giả chỉ rõ các loại hình tín ngưỡng trên cũng như những bộ phận khác của văn hóa, là tấm gương phản ánh trung thành những đặc trưng nông nghiệp lúa nước, biểu hiện sự tôn trọng và gắn bó mật thiết với thiên nhiên, nguyên lý âm dương, khuynh hướng đề cao nữ tính, tính đa thần
- 8 Cuốn sách “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam” của Nguyễn Đức Lữ [131] đề cập đến các loại hình tín ngưỡng dân gian Việt Nam như tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Anh hùng dân tộc, tín ngưỡng Thành Hoàng, tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng Phồn thực. Tác giả cuốn sách chỉ rõ các loại hình tín ngưỡng dân gian trên phản ánh rõ nét đặc trưng của văn hóa dân tộc, thể hiện rõ nét tinh thần uống nước nhớ nguồn nhưng bản thân nó cũng chứa đựng khả năng dẫn đến hiện tượng phản giá trị, biểu hiện mê tín dị đoan cần phải bị phê phán, tẩy trừ. Cuốn sách “Các hình thái tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam” của Nguyễn Đăng Duy [25] dành nhiều sự quan tâm tới các tín ngưỡng truyền thống ở Việt Nam như: tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thần, tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng ở các dân tộc ít người. Theo tác giả, tín ngưỡng không phải là một bộ phận của tôn giáo mà tồn tại với tư cách một hình thái ý thức xã hội bên cạnh tôn giáo, không phải tồn tại với ý nghĩa niềm tin nhằm cứu cánh cho cái chết như tôn giáo mà là niềm tin cầu mong cho hiện thực cuộc sống. Cuốn sách “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” do Ngô Đức Thịnh chủ biên [161] nghiên cứu sáu loại hình tín ngưỡng dân gian: thờ cúng Tổ tiên, thờ Thành Hoàng làng, thờ Chử Đồng Tử, thờ Đức Thánh Trần, tín ngưỡng nghề nghiệp và đạo Mẫu. Ngoài ra, một số hình thức văn hóa nghệ thuật dân gian có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo như múa, nhạc, tranh tượng thờ, văn học dân gian, các sinh hoạt văn hóa cộng đồng cũng được tác giả đề cập. Ngoài ra còn rất nhiều công trình về tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, phong tục tập quán truyền thống do các học giả trong nước nghiên cứu như: “Việt Nam văn hóa sử cương” của Đào Duy Anh [1]; “Lĩnh Nam chích quái” của Vũ Quỳnh [152]; “Tín ngưỡng làng xã” của Vũ Ngọc Khánh [118]; “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính [14]; “Phong tục thờ cúng trong gia đình người Việt” của Toan Ánh [5]; “Văn hóa tâm linh” của Nguyễn Đăng Duy [26]
- 9 Có thể thấy rằng các tài liệu nghiên cứu tín ngưỡng truyền thống Việt Nam khá phong phú, nhưng nghiên cứu tín ngưỡng truyền thống dưới góc độ triết học thì số lượng còn hạn chế. Trong đó, tiêu biểu là công trình “Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay” của Trần Đăng Sinh [155] đã trình bày những khía cạnh triết học của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, minh chứng rõ cơ sở hình thành, tồn tại, những yếu tố tích cực và tiêu cực, thực trạng và xu hướng vận động của nó, từ đó nhằm định hướng đúng đắn cho hoạt động thờ cúng tổ tiên ở nước ta hiện nay. Trong bối cảnh hoạt động thờ cúng tổ tiên trong các gia đình, dòng họ, trong các lễ hội diễn ra khá phổ biến ở khắp các địa phương trong cả nước, việc nghiên cứu trên là cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn cấp thiết. Cũng tiếp cận dưới góc độ triết học, Luận án Tiến sỹ Triết học của Nguyễn Hữu Thụ “Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” [165] lại tập trung nghiên cứu cơ sở hình thành, lịch sử phát triển, điện thờ, một số nghi lễ cơ bản của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Từ đó, tác giả phân tích quan niệm về con người và tự nhiên trong tín ngưỡng thờ Mẫu, chỉ rõ xu hướng vận động cùng những kiến nghị nhằm phát huy những giá trị tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ trong giai đoạn hiện nay. Thông qua các tài liệu nghiên cứu về tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, đặc biệt là các tài liệu tiếp cận tín ngưỡng dưới góc độ triết học, tác giả có sự kế thừa nhằm luận chứng cơ sở kinh tế - xã hội làm nảy sinh quan niệm của người Việt truyền thống trong các tín ngưỡng, từ đó chi phối các nghi lễ thực hành tín ngưỡng. Đây là cơ sở khoa học quan trọng giúp tác giả phân tích ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam tới đời sống đạo của người Công giáo vùng giáo phận Bùi Chu - khu vực ghi dấu ấn đậm nét của các tín ngưỡng truyền thống - trong chương 3 của luận án.
- 10 1.1.1.2. Những công trình liên quan đến tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định Cuốn sách “Địa chí Hải Hậu” của Huyện ủy - UBND huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định [81], từ trang 560 đến trang 615 đề cập đến vấn đề phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo vùng đất Hải Hậu, Nam Định được hình thành từ điều kiện tự nhiên khá đặc thù. Cuốn sách đã chỉ ra Nam Định là một địa phương có địa bàn trọng yếu, vị thế đặc biệt, một vùng kinh tế xã hội với bản sắc riêng, trong đó có các tín ngưỡng truyền thống Việt Nam. Cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Xuân Trường 1930 - 2000” của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Xuân Trường [7], từ trang 19 đến trang 24 đề cập tới tín ngưỡng, văn hóa của vùng đất này. Một cách tổng quát, cuốn sách “Địa chí Nam Định” của Tỉnh ủy - HĐND - UBND tỉnh Nam Định [168], từ trang 659 đến trang 687 khái quát đặc trưng phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo tỉnh Nam Định. Đây là những tài liệu có giá trị, được nghiên cứu sinh kế thừa để đưa vào xây dựng đặc điểm tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định có những nét đặc thù, trong đó phải kể đến hai huyện Hải Hậu và Xuân Trường là nơi có người Công giáo sinh sống đông đảo. Tuy nhiên, phải nói là các công trình này trình bày còn sơ lược về tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, vì thế luận án sẽ cụ thể hơn phần nội dung này. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về đời sống đạo Công giáo 1.1.2.1. Những công trình nghiên cứu của Giáo hội Công giáo Đó là “Kinh Thánh (trọn 2 bộ Cựu ước và Tân ước)” [122]; Giáo lý Hội thánh Công giáo của Ủy ban Giáo lý Đức tin - Hội đồng Giám mục Việt Nam [200]; các văn kiện của Công đồng Vatican II (1962-1965) như “Công đồng Vatican II, Hiến chế - Tuyên ngôn - Sắc lệnh - Sứ điệp - Thông điệp” [19]; “Bộ Giáo luật năm 1983” của Hội đồng giám mục Việt Nam [70]. Công trình nghiên cứu của Giáo hội thì phong phú, nhưng nổi bật có các công trình sau:
- 11 Thứ nhất, văn kiện của Công đồng Vatican II. Trong 16 văn kiện của Công đồng Vatican II, 4 Hiến chế giữ vai trò trọng yếu, đáng chú ý là 2 Hiến chế liên quan đến đời sống đạo, đó là Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay và Hiến chế phụng vụ Thánh. Trong Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, Giáo hội đề ra đường hướng cho các thành phần dân Chúa là đi chung một hành trình với nhân loại và cùng chia sẻ số phận trần gian với thế giới. Hiến chế nhấn mạnh đến chủ đề về văn hóa, về đời sống kinh tế xã hội , hôn nhân và gia đình, về cộng đồng chính trị, về hòa bình cần thiết cho những thành phần dân Chúa trong việc sống đạo và sống đời. Hiến chế về phụng vụ Thánh cho phép Hội đồng Giám mục từng quốc gia được cải tiến các nghi lễ, đặc biệt là phải biết vận dụng những cái hay, cái đẹp của các nền văn hóa, phong tục, tín ngưỡng khác nhau trong việc sống đạo. Thứ hai, Tóm lược Học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo. Công trình này đề cập nhiều vấn đề, trong đó nhấn mạnh đến vai trò, chức năng của tín hữu trong xã hội đương đại: thái độ đối với môi trường, hòa bình, chiến tranh, đặc biệt là thái độ với đồng loại. Về phía Giáo hội Công giáo Việt Nam có các sách, ghi chép, tường trình, thư từ của các giáo sỹ trong quá trình truyền giáo ở Việt Nam có thể kể đến “Kinh cầu cho các linh hồn” của Tòa tổng giám mục Hà Nội [169]; ““Các thư chung” của các giám mục Việt Nam [17]. Luận án chú ý đến Thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam như Thư chung 1980, 1988, 1992, 2001. Toát yếu các Thư chung là muốn xây dựng nền thần học Công giáo Việt Nam của người Việt Nam, hòa nhập được với phong tục, tập quán, văn hóa Việt Nam vốn có truyền thống lâu đời. Tuy Thư chung không nhấn mạnh đến ba nội dung mà luận án đề cập, trong đó nội dung chính là đề cập tới phong tục, tập quán, văn hóa nói chung. Thư chung 1980 đưa ra Đường hướng xây dựng
- 12 trong Hội thánh một nếp sống, một lối diễn tả đức tin về truyền thống dân tộc. Thư chung 1992 đề cập đến việc xây dựng một nếp sống, một lối diễn tả đức tin có bản sắc dân tộc hơn. Thư chung 1998 yêu cầu trình bày về giáo lý và thực hành mục vụ theo chiều hướng hội nhập với văn hóa dân tộc. Thư mục vụ năm 2000 là sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng theo cung cách Việt Nam. Thư chung 2010 cho rằng: “Nền văn hóa Việt Nam mang nhiều giá trị đáng trân trọng, có thể trở thành những nẻo đường thuận tiện để Giáo hội tại Việt Nam tiến bước trong sứ vụ loan báo Tin Mừng”. Tuy nhiên, các Thư chung này đã đưa ra những định hướng để giáo phận Bùi Chu dựa vào đó mà thực hiện, làm cho đời sống đạo của người Công giáo trở nên phong phú nhưng gần với những giá trị tín ngưỡng truyền thống. Cuốn “Giáo hội Công giáo Việt Nam - Niên giám 2004” của Văn phòng Tổng thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam [195] giúp cho những ai quan tâm tới Giáo hội Công giáo sẽ có cái nhìn toàn diện về sự hình thành, phát triển của Giáo hội Công giáo toàn cầu và Giáo hội Công giáo Việt Nam. 1.1.2.2. Công trình của các nhà nghiên cứu ngoài Công giáo Xoay quanh vấn đề nghi lễ, thánh lễ Công giáo, cuốn sách “Một số tôn giáo ở Việt Nam” của Nguyễn Thanh Xuân [205] nêu một số đặc điểm về luật lệ, lễ nghi Công giáo như: Mười điều răn của Thiên chúa, Bảy phép bí tích; nêu những ngày lễ của đạo Công giáo như: những lễ quan trọng (Lễ Noel, Lễ Phục Sinh, Lễ Đức Bà Maria hồn và xác lên trời, Lễ Các thánh ), các lễ thông thường (Lễ Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội, Lễ Tro, Lễ Lá, Tuần Thánh ). Công trình trên còn đề cập việc Giáo hội chia một năm thành từng tháng, từng mùa làm chủ đích cho các sinh hoạt tôn giáo và các hoạt động của tín đồ, như tháng 3 là Tháng Kính Thánh cả Giuse, tháng 5 là Tháng Dâng hoa kính Đức bà Maria, tháng 6 là Tháng Kính Trái tim của
- 13 Chúa Giêsu, tháng 11 là Tháng Cầu nguyện cho các linh hồn, tháng 10 là Tháng Mân Côi Đức Mẹ; Mùa Giáng sinh, Mùa Thương khó, Mùa Phục sinh, Mùa vọng Bên cạnh đó, tác giả Đỗ Quang Hưng có các bài viết khác có liên quan tới Công giáo như: “Công giáo thế kỷ XX: vài khía cạnh tiến triển của thần học” [86]; “Vấn đề Công giáo với số phận Lê Văn Duyệt” [90]; “Những người Cộng sản Việt Nam với đường hướng “Đồng hành cùng dân tộc” và Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam” [89]. Các công trình của Giáo hội Công giáo và của các nhà nghiên cứu ngoài Công giáo ở trên là nguồn tư liệu quý báu, giúp nghiên cứu sinh có cơ sở để xây dựng nội dung lý luận về Công giáo và Công giáo ở Việt Nam ở chương 2 của luận án. 1.1.3. Những công trình nghiên cứu về đời sống đạo Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định 1.1.3.1. Tài liệu, công trình nghiên cứu của người Công giáo Tài liệu, công trình nghiên cứu về Công giáo ở Việt Nam có một phần liên quan đến đời sống đạo Công giáo ở giáo phận Bùi Chu Về lịch sử Công giáo ở Việt Nam, đáng chú ý có các công trình của các linh mục đã được công bố như: Lm. Hồng Lam với “Lịch sử đạo Thiên Chúa ở Việt Nam” [123]; Lm. Nguyễn Hồng có “Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam”(1959) [75]; Lm. Phan Phát Huồn viết Việt Nam giáo sử quyển I [78], quyển II [79]. Lm. Trần Tam Tỉnh với công trình “Thập giá và lưỡi gươm” (1988) [167]. Đáng chú ý có Lm. Trương Bá Cần với cuốn “Công giáo Việt Nam sau quá trình 50 năm 1945 – 1995” [18] đã thống kê và ca ngợi sự phát triển của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Ngoài ra phải kể đến những bài viết của các nhà nghiên cứu người Công giáo đăng trên báo Người Công giáo Việt Nam của Ủy ban đoàn kết Công giáo Việt Nam, nguyệt san Công giáo và dân tộc của Ủy ban đoàn kết Công giáo thành phố Hồ Chí Minh.
- 14 Tài liệu, công trình nghiên cứu có đề cập hoặc đề cập trực tiếp đến đời sống đạo Công giáo ở giáo phận Bùi Chu Về lịch sử giáo phận Bùi Chu, đáng chú ý có cuốn “Sử ký Địa phận Trung” [140] được thừa sai Manuel Moreno dòng Đa Minh Tây Ban Nha biên soạn năm 1916. Cuốn sách giới thiệu 52 xứ đạo, 741 họ đạo, trong đó Nam Định 27 xứ đạo, Thái Bình 19 xứ và Hưng Yên 6 xứ, giới thiệu các hội đoàn, sinh hoạt tôn giáo, tổ chức Nhà Chung và các cơ sở xã hội, y tế, giáo dục. Tuy nhiên cuốn sách này mới chỉ nghiên cứu địa phận Bùi Chu đến năm 1916 và chỉ tập trung cơ cấu tổ chức xứ họ đạo mà chưa đi sâu phân tích đời sống đạo của người Công giáo ở đây. Cuốn “Lịch sử địa phận Bùi Chu” của Lm. Trần Đức Huynh [84] là một công trình nghiên cứu công phu về lịch sử vùng địa phận Bùi Chu. Từ những đặc điểm về xuất xứ, vị trí, địa thế, khí hậu, sông ngòi, dân số, tổ chức hành chính, kinh tế ở đây, tác giả nghiên cứu vùng địa phận Bùi Chu qua các giai đoạn lịch sử: Địa phận Đàng Trong và Địa phận Đàng Ngoài (khảo cứu từ năm 1533 - 1679), Địa phận Đông Đàng Ngoài (1679 - 1848), Địa phận Trung (1848 - 1936), Địa phận Bùi Chu từ 1936 - 1999. Trong công trình này, các sinh hoạt tôn giáo sống động vùng địa phận Bùi Chu cũng được đề cập trong 1 chương (chương bảy), với những dịp lễ trọng như Tuần Thánh, Lễ đầu dòng, Lễ Đức Mẹ Vô nhiễm, Lễ Đức Mẹ Mân côi Tuy nhiên, do thời điểm khảo cứu chỉ từ năm 1533 đến hết năm 1999, cho nên những nét đặc sắc và những biến đổi trong đời sống đạo của người Công giáo trước xu thế thời đại ở địa phận Bùi Chu hiện nay không được đề cập tới. 1.1.3.2. Tài liệu, công trình nghiên cứu của người ngoài Công giáo Về mảng lịch sử Công giáo ở Việt Nam, tác phẩm trong bộ lịch sử, địa chí như Khâm Định Việt sử thông giám cương mục [150] cho thấy cách
- 15 nhìn nhận cũng như thái độ của các vương triều phong kiến Việt Nam vào thế kỷ XVII - XIX đối với Công giáo - một tôn giáo vốn được xem là “tả đạo”. Đáng chú ý có công trình “Sự du nhập đạo Thiên Chúa vào Việt Nam cho đến thế kỷ XIX” của Nguyễn Văn Kiệm [120]. Tập trung vào thời kỳ nhạy cảm nhất trong lịch sử truyền giáo, nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Hưng cho xuất bản cuốn “Công giáo Việt Nam thời kỳ triều Nguyễn (1802 - 1883)” [92] viết về giai đoạn triều Nguyễn, làm rõ những khía cạnh văn hóa - chính trị trong quan hệ của triều Nguyễn với Công giáo, truyền tải nội dung các chỉ dụ cấm đạo, phân tích lý do và hệ quả chính sách của các vị vua triều Nguyễn đối với Công giáo. Có thể nói rằng, các công trình nghiên cứu trên đã chỉ ra những đặc điểm cơ bản của quá trình truyền bá Công giáo vào Việt Nam và các giai đoạn phát triển của nó. Tuy nhiên, do đây là những nghiên cứu về Công giáo trong tiến trình lịch sử, vì thế mặc dù các tư liệu về lịch sử Công giáo ở Việt Nam tương đối phong phú nhưng còn một số điểm chưa thống nhất giữa những tác giả là người Công giáo với những tác giả ngoài Công giáo khi cùng nhận định về một chủ đề lịch sử, tiêu biểu là vấn đề chính sách cấm đạo triều Nguyễn. Các tài liệu này dùng để tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử Công giáo ở Việt Nam nói chung, lịch sử giáo phận Bùi Chu nói riêng, cung cấp cho tác giả cơ sở lý luận của đề tài luận án. Về đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định có các cuốn sách “Địa chí Nam Định” [181], cuốn sách “Địa chí Hải Hậu” [92], cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Xuân Trường 1930 – 2000” [6] Những cuốn sách này cung cấp cho nghiên cứu sinh tư liệu có giá trị về đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của người dân thuộc vùng giáo phận Bùi Chu nói chung, đời sống đạo của người Công giáo Bùi Chu nói riêng làm cơ sở xây dựng nội dung vấn đề đời sống đạo của người Công giáo ở Bùi Chu - Nam Định.
- 16 1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM ĐẾN ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở GIÁO PHẬN BÙI CHU – NAM ĐỊNH HIỆN NAY 1.2.1. Những công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của văn hóa dân tộc đến đời sống đạo của người Công giáo ở Việt Nam Quá trình ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo Việt Nam nói chung, ở giáo phận Bùi Chu – Nam Định nói riêng thực chất gắn liền với quá trình ảnh hưởng của văn hóa dân tộc Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở Việt Nam. Vì thế, để có được những lập luận vững vàng về vấn đề này, cần có sự kế thừa những công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của văn hóa dân tộc đến đời sống đạo của người Công giáo ở Việt Nam. Về quá trình ảnh hưởng của văn hóa truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo, có thể thấy, nét đẹp trong đời sống đạo Công giáo được phản ánh qua các cuốn sách “Tìm hiểu nét đẹp văn hóa Thiên Chúa giáo” của Hà Huy Tú [177]. Tác giả đã trình bày kết quả quá trình thích nghi của Công giáo vào đời sống tinh thần dân tộc Việt Nam biểu hiện qua nét đẹp của đời sống đạo Công giáo trong thờ cúng tổ tiên, lễ hội và tết Nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Dương cũng có nhiều công trình nghiên cứu về Công giáo ở Việt Nam như Luận án Tiến sỹ với đề tài “Làng Công giáo Lưu Phương (Ninh Bình) từ 1929 đến năm 1945” [37]. Các cuốn sách: “Tôn giáo trong mối quan hệ văn hoá và phát triển ở Việt Nam” [48]; “Linh mục Phạm Bá Trực và đường hướng Công giáo đồng hành cùng dân tộc trong thời kỳ chống thực dân Pháp (1946-1954)” [39]. Đi sâu vào những biểu hiện cụ thể của sự ảnh hưởng qua lại giữa văn hóa Việt Nam với nghi lễ Công giáo, cuốn sách “Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hóa Việt Nam” của nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Dương [42] đã tìm đến sự thích nghi của nghi lễ Công giáo với văn hóa dân tộc biểu hiện
- 17 trong nghi lễ hát Thánh kinh, đọc sách, đọc kinh, múa hát dâng hoa, lễ kỷ niệm Thánh quan thày xứ đạo, nghi lễ đón tết Nguyên đán và tục thờ cúng Tổ tiên của người Công giáo Việt Nam. Đó còn là những tác động nhất định của lối sống Công giáo tới văn hóa Việt Nam, từ niềm tin và thực hành nghi lễ Công giáo cho đến thờ phụng thánh Tông đồ và các thánh, thờ phụng Đức Maria đều giúp tạo nên một diện mạo mới trong đời sống sinh hoạt tinh thần của các tín đồ người Việt. Phải nói rằng, công trình “Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hóa Việt Nam” là một bức tranh phong phú, đặc sắc mô tả đời sống sinh hoạt tôn giáo của đồng bào Công giáo Việt Nam với nét đẹp văn hóa dân tộc hòa trộn cùng nét đẹp trong nghi lễ Công giáo. Nhà nghiên cứu này còn có các bài báo đăng trên tạp chí như “Bước đường hội nhập văn hóa dân tộc của Công giáo Việt Nam” [28]; Công đồng Vatican II ở Việt Nam (nhìn từ góc độ lý luận về hội nhập văn hóa) [29]; “Mối quan hệ giữa Giáo hội Công giáo Việt Nam với Giáo hội Công giáo Rôma” [40]; “Quá trình nhận thức của Đảng về vấn đề tôn giáo, công tác tôn giáo và chính sách tôn giáo qua cương lĩnh, văn kiện, nghị quyết từ Đổi mới đến nay” [44]; Hậu Công đồng Vatican II - Những vấn đề Giáo hội Công giáo đang phải đối diện [33]. Trong cuốn sách “Nếp sống đạo của người Công giáo Việt Nam”, Nguyễn Hồng Dương chủ biên [43], Trần Công có bài viết “Một số nét về nếp sống gia đình Công giáo Việt Nam” khẳng định nếp sống gia đình Công giáo mang đậm nét truyền thống gia đình người Việt với tính cộng đồng, đạo hiếu và tục thờ cúng Tổ tiên. Tác giả Nguyễn Quang Khải có bài viết “Những ảnh hưởng của truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo đối với nếp sống đạo của giáo dân ở giáo xứ Tử Nê” nêu bật những nét đẹp trong nếp sống của giáo dân giáo xứ Tử Nê (Bắc Ninh) như ảnh hưởng của truyền thống hiếu học; phong tục trọng thầy, trọng lão, trọng bề trên; phong tục hiếu
- 18 đễ, hòa mục; phong tục hành thiện; ngoài ra còn các phong tục trong cưới hỏi; hoạt động rước xách, tế lễ, đọc kinh, kể hạnh trong nếp sống đạo giáo dân giáo xứ Tử Nê. Về mối quan hệ giữa nghi lễ Công giáo và văn hóa dân tộc, tác giả Phạm Huy Thông trong cuốn sách “Ảnh hưởng qua lại giữa đạo Công giáo và văn hóa Việt Nam” [163] đã trình bày dấu ấn của đạo Công giáo trong văn hóa Việt Nam, bao gồm cả những đóng góp tích cực (sáng tạo ra chữ Quốc ngữ; góp phần phong phú văn hóa Việt qua lễ hội, văn học, nghệ thuật, báo chí Công giáo; góp phần xây dựng lối sống lành mạnh trong xã hội) và những ảnh hưởng tiêu cực của đạo Công giáo với văn hóa Việt Nam (khiến người Công giáo khó khăn trong thể hiện lòng yêu nước và thực thi pháp luật; cản trở người Công giáo hòa nhập với văn hóa cộng đồng). Tác giả cũng phân tích những tác động trở lại của văn hóa Việt Nam với đạo Công giáo ở nước ta. Từ đây, tác giả vạch ra xu hướng phát triển của mối quan hệ giữa đạo Công giáo và văn hóa dân tộc trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay và đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc”. Quá trình ảnh hưởng của văn hóa truyền thống đến nghi lễ và đời sống đạo Công giáo còn được mô tả qua cuốn sách “Tổ chức xứ, họ đạo Công giáo ở Việt Nam: Lịch sử - hiện tại và những vấn đề đặt ra” của Nguyễn Hồng Dương [50]. Có thể kể đến một số lễ trọng được ông phân tích tỉ mỉ: lễ Thánh quan thày đầu dòng, tháng Hoa Đức Mẹ; các tục lệ của người Công giáo vùng đồng bằng Bắc Bộ: tục lệ đón tết Nguyên đán, Tục thờ thần (bao gồm thờ Mẫu, thờ thần, thánh), thờ cúng Tổ tiên. Vấn đề thờ cúng Tổ tiên của người Công giáo được nhà nghiên cứu này đặc biệt quan tâm và tiếp cận với hai nội dung: nhìn nhận và ứng xử của Công giáo về việc thờ cúng tổ tiên trước và sau Công đồng Vatican II (1962 - 1965). Trước Công đồng Vatican II, Tòa thánh Lamã và các đoàn truyền giáo có
- 19 sự cấm đoán nghiêm ngặt với tín đồ Công giáo, nhằm loại bỏ tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên khỏi đời sống đạo Công giáo. Tuy vậy, thờ cúng tổ tiên vẫn ảnh hưởng sâu đậm trong tâm thức các tín đồ và họ vẫn tham gia nghi lễ thờ cúng tổ tiên theo từng cấp độ, mức độ khác nhau. Sau Công đồng Vatican II, Tòa thánh cho phép các tín đồ thực hiện nghi lễ tôn kính tổ tiên và sự trở lại với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên này được Nguyễn Hồng Dương đánh giá giống như một sự thức tỉnh. Qua phân tích của nhà nghiên cứu này có thể thấy việc tôn trọng và cho phép các tín đồ tôn kính tổ tiên là biểu hiện đầu tiên của mong muốn hội nhập sâu sắc nghi lễ Công giáo vào đời sống văn hóa tinh thần người Việt của Tòa thánh Lamã. Ảnh hưởng tín ngưỡng truyền thống tới nghi lễ Công giáo trong đời sống đạo người Công giáo còn được đề cập trong các công trình nghiên cứu về hương ước các làng Công giáo. Cũng trong cuốn sách “Tổ chức xứ, họ đạo Công giáo ở Việt Nam: Lịch sử - hiện tại và những vấn đề đặt ra” của nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Dương [50], vấn đề Hương ước cũng được đề cập. Tác giả khẳng định: dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về hương ước làng Việt cổ truyền vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhưng nghiên cứu về hương ước của làng Công giáo mới chỉ có kết quả bước đầu. Hương ước làng Công giáo chủ yếu được soạn từ đầu thế kỷ XX, có tuổi đời muộn hơn rất nhiều so với hương ước làng Việt cổ truyền không theo Công giáo. Do làng Công giáo được hình thành trên cơ sở làng Việt cổ truyền, hương ước của làng Công giáo trước hết vẫn là hương ước của một làng Việt, nhưng bên cạnh đó còn có những nội dung đặc thù do tính chất tôn giáo - đạo Công giáo quy định. Đó là những đặc thù về tế tự, về tục lệ (cưới xin, tang chế, khao vọng, việc học hành), về phong hóa và về ruộng đất. Từ đó có thể thấy hương ước làng Công giáo là biểu hiện đặc thù của làng Công giáo, và dù tuổi đời muộn nhưng nó vẫn mãi là di sản văn hóa dân tộc cần được bảo vệ.
- 20 Trong cuốn sách “Nếp sống đạo của người Công giáo Việt Nam” [43], nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Quế Hương khẳng định làng Công giáo được hình thành trên cơ sở của làng Việt, nên hương ước làng Công giáo cũng có những quy định chung như hương ước của các làng Việt và nét đặc thù là thuần phong tục, trong đó ghi chép lại những lễ nghi Công giáo bên cạnh những tập tục, lễ nghi truyền thống của người Việt. Hương ước làng Công giáo có nội dung đặc thù, phản ánh hệ thống thờ tự, phụng tự Thiên Chúa và các vị thần của người dân trong hệ thống làng Công giáo. Theo đó có thể thấy việc tôn thờ các vị thánh, thần của từng làng Công giáo nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh của cộng đồng, đồng thời đáp ứng mục đích về kinh tế - xã hội của các tổ chức thiết chế đó thông qua các ngày lễ của làng. Những quy định về nếp sống cổ truyền, những lề thói, gia phong trong mỗi làng quê Việt Nam trong đó có các làng Công giáo luôn được mỗi người Công giáo thực hiện đúng và đầy đủ với trách nhiệm, ý thức của mình. Đó là sự hòa nhập giữa lối sống của người Việt và lối sống của người Công giáo, giữa truyền thống và hiện đại trong làng quê Việt Nam. Nhiều tác giả cũng có các bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo như: “Thư chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam - một dấu mốc quan trọng trên con đường Công giáo đồng hành cùng dân tộc” của Nguyễn Đức Lữ [132]; “40 năm Công đồng Vatican II: Mười việc còn dang dở” của Mai Thanh Hải [59]; “Hội nhập văn hóa: vấn đề hay màu nhiệm” của Thế Tâm - Nguyễn Khắc Dương [157]; “Ảnh hưởng của Thư chung 1980 trong việc xây dựng đời sống văn hóa làng Công giáo vùng đồng bằng sông Hồng qua hương ước của Nguyễn Thị Quế Hương” [93]; “Lối sống của người Công giáo Việt Nam” của Phạm Huy Thông [162]; “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng và công tác tôn giáo trong thời kỳ đổi mới” của Nguyễn Phú Lợi [129]
- 21 Nghiên cứu đời sống tín ngưỡng, tôn giáo tại một địa phương cụ thể, các nhà nghiên cứu thường bao quát những đặc trưng, nét đặc thù xoay quanh hai khu vực chính: đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Về những nghiên cứu tại vùng đồng bằng sông Cửu Long có thể kể đến một số bài viết, công trình như: “Tìm hiểu quá trình truyền bá Kitô giáo vào các dân tộc thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ” của Nguyễn Văn Diệu [21]; “Tìm hiểu tổ chức xứ, họ đạo Công giáo Nam Bộ (đến đầu thế kỷ XX)” của Nguyễn Hồng Dương [47]; “Đặc điểm tín ngưỡng và tôn giáo ở Nam Bộ theo cách tiếp cận dân tộc học tôn giáo của Mạc Đường” [56]. Công trình “Cộng đồng người Việt Công giáo ở đồng bằng sông Cửu Long” của Trần Hữu Hợp [77] nghiên cứu sự hình thành và phát triển của cộng đồng người Việt Công giáo cùng các tộc người Khmer, Hoa, Chăm trên vùng đất đồng bằng sông Cửu Long - vùng đất mới được khai mở hơn 300 năm nay. Luận án tập trung nghiên cứu việc thực hành đức tin, vấn đề bảo lưu và hội nhập văn hóa của người Việt Công giáo thể hiện trong nghi lễ, âm nhạc, hôn nhân, tang lễ, kiến trúc, điêu khắc và truyền thống yêu nước của người Việt Công giáo trên vùng đất này. Đối với vùng đồng bằng sông Hồng, có một số bài viết, công trình như: Luận án Tiến sỹ Triết học của Nguyễn Thị Quế Hương: “Hương ước làng Công giáo vùng đồng bằng sông Hồng” [94]. Các bài viết: “Về tổ chức ban hành giáo xứ, họ đạo ở Giáo phận Phát Diệm” của Lê Văn Thơ [164]; “Một số chính sách của các vua đầu triều Nguyễn đối với tín ngưỡng thờ thần ở làng xã Bắc Bộ” của Trần Đăng Sinh [154]; “Tang thức người Việt theo Công giáo, Phật giáo và theo phong tục, tín ngưỡng truyền thống ở vùng đồng bằng Bắc Bộ” của Nguyễn Tất Đạt [54]; “Hệ quả quá trình tiếp xúc giữa Công giáo với tín ngưỡng bản địa của người Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ” của Nguyễn Hồng Dương [34].
- 22 1.2.2. Những công trình nghiên cứu về vấn đề ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu – Nam Định 1.2.2.1. Tài liệu về vấn đề ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định trước Công đồng Vatican II Đó trước hết là hệ thống hương ước làng Công giáo thuộc giáo phận Bùi Chu - Nam Định. Qua một số điều khoản quy định, các hương ước ít nhiều cho thấy ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu giai đoạn trước Công đồng Vatican II. Trong đó phải kể đến các hương ước như “Hương ước làng Trung Lao, tổng Thần Lộ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định” [110]; “Hương ước làng Phú Nhai, tổng Phú Nhai, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định” [117]; “Hương ước làng Du Hiếu, tổng Hoành Thu, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định” [98]; “Hương ước làng Đại Đê, tổng Duyên Hưng Hạ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định” [99]; “Hương ước làng Lạc Đạo, tổng Sĩ Lâm, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định” [101]; “ Hương ước làng Vĩnh Trị, xã Đại An, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định” [113] Hương ước làng Công giáo ở Bùi Chu có kết cấu như sau: Những người tham gia lập hương ước: là những người có chức quyền trong làng như chức dịch, hương lý, lý trưởng hoặc những người lớn tuổi, người có trình độ học vấn cao Lý do lập hương ước: trình bày về việc cần thiết phải soạn thảo bản hương ước Nội dung hương ước: phần này ghi lại các điều quy định từng vấn đề cụ thể của làng Công giáo như: hội đồng tộc biểu; các chức dịch làng xã; lương bổng và phụ cấp cho các chức dịch; sửa sang đường sá, cầu cống, đê điều; tế lễ, phong hóa
- 23 Ngày tháng lập hương ước Họ và tên chức tước của triều quan, quan viên, chữ ký văn thuộc tác giả của bản hương ước và đóng dấu. Các hương ước đề cập khá nhiều đến lệ tục, phong hóa của các làng Công giáo ở Bùi Chu. Qua hương ước làng Công giáo thuộc giáo phận Bùi Chu, đời sống đạo của người Công giáo Bùi Chu - Nam Định với các lễ nghi và thực hành các nghi lễ Công giáo, sự hội nhập văn hóa Công giáo trong nền văn hóa Việt Nam cũng được bộc lộ rõ nét. 1.2.2.2. Tài liệu về thực trạng ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định từ sau Công đồng Vatican II đến nay Thực trạng đời sống đạo của cộng đồng người Công giáo ở Bùi Chu cũng được đề cập đến trong một số bài viết, công trình của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước như: “Ảnh hưởng của giáo lý, giáo luật và tổ chức giáo hội cơ sở của Công giáo đến hành vi sinh sản của giáo dân (qua nghiên cứu cộng đồng Công giáo xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định)” của Phạm Quyết [161]; “Công tác giữ gìn an ninh trật tự trong dịp “Năm thánh ban ơn toàn xá 1998” tổ chức tại địa phận Bùi Chu, Nam Định” của Mai Quang Hiện [64]. Trong “Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hóa Việt Nam” của Nguyễn Hồng Dương [42], lễ kỷ niệm Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội - thánh quan thày địa phận xứ đạo Phú Nhai được trình bày tỷ mỷ, chi tiết. Trong cuốn “Nếp sống đạo của người Công giáo Việt Nam” [43], nhà nghiên cứu Mai Thanh Hải có quan tâm tới vấn đề sống đạo tại giáo xứ Trung Lao. Ông mô tả những nét truyền thống tại làng quê, vẻ đẹp những người con gái vùng Trung Lao, những náo nhiệt, sôi động dịp Tháng Hoa Đức Mẹ, cuộc rước tượng Chúa vào thứ sáu Tuần Thánh, tục lệ cưới xin
- 24 Luận văn “Đấu tranh với hoạt động tôn giáo trái pháp luật trên địa bàn tỉnh Nam Định trong tình hình hiện nay” của Ngô Anh Sáng [153] và Luận văn “Quản lý Nhà nước về an ninh, trật tự đối với hoạt động của đạo Thiên Chúa trên địa bàn huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định” của Trần Văn Toàn [172] đề cập tới đời sống đạo của người Công giáo tại giáo phận Bùi Chu nhưng tập trung vào khía cạnh liên quan tới an ninh trật tự, quan tâm tới những hoạt động trái pháp luật như hoạt động xây dựng, sửa chữa cơ sở vật chất trái phép, khiếu kiện đất đai, Đây là nguồn tài liệu cung cấp cho tác giả cái nhìn đa chiều về đời sống đạo của người Công giáo ở Bùi Chu, thấy rõ những hiện tượng tiêu cực vẫn còn tồn tại ở đây cần phải được khắc phục, giải quyết. 1.2.2.3. Tư liệu thu thập qua thực tế Nguồn tư liệu điền dã được tổng hợp trong suốt quá trình tác giả luận án khảo sát tại địa bàn nghiên cứu - giáo phận Bùi Chu - Nam Định. Theo đặc điểm địa lý - hành chính, vùng giáo phận Bùi Chu bao gồm các huyện Hải Hậu, Xuân Trường, Giao Thủy, Trực Ninh, Nghĩa Hưng và một phần thành phố Nam Định. Trong đó, tác giả tập trung khảo sát ở giáo xứ Giáp Nam huyện Hải Hậu, giáo xứ Phú Nhai, giáo xứ Bùi Chu, huyện Xuân Trường, là những địa phương có đông đảo người Công giáo nên được chọn làm đại diện cho mẫu nghiên cứu. Tư liệu phỏng vấn định lượng: Đây là tư liệu được tổng hợp từ các phiếu điều tra xã hội học bằng bảng hỏi về ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo Bùi Chu - Nam Định (300 phiếu ) Tư liệu phỏng vấn sâu: Đây là nguồn tài liệu được tác giả thu thập được khi tiến hành phỏng vấn trực tiếp một số đối tượng người Công giáo như linh mục, trùm chánh, cán bộ, thân nhân liệt sỹ, nông dân, những người làm nghề
- 25 tự do. Tác giả sử dụng tư liệu phỏng vấn sâu để làm rõ một số nội dung trong phỏng vấn định lượng như: quan niệm về việc lựa chọn thờ phụng một số thánh quan thày, cách thức cử hành tôn kính tổ tiên, lễ kính thánh Đa Minh, Lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội Tư liệu ảnh, phim video: tập hợp các hình ảnh, phim tư liệu về đám tang, đám cưới, Đại lễ kính Thánh Đa Minh, Lễ kính Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội, Thứ Sáu Tuần thánh được tác giả thu thập trong suốt quá trình điền dã. 1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ GIẢI PHÁP CHUNG VÀ GIẢI PHÁP CỤ THỂ NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM ĐẾN ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở GIÁO PHẬN BÙI CHU 1.3.1. Những công trình nghiên cứu về giải pháp chung cho tôn giáo ở Việt Nam, trong đó có đề cập đến Công giáo Giải quyết các vấn đề liên quan tới tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay trước hết cần xuất phát từ quan điểm Mác - Lênin về tín ngưỡng, tôn giáo. Những quan điểm này được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Trong cuốn “Vấn đề về tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam” của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương[13] , vấn đề bản chất tôn giáo và nguồn gốc của tôn giáo được phân tích theo đúng quan điểm macxit. Bản chất tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, nó có nguồn gốc kinh tế - xã hội, nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc tâm lý. Cuốn sách “Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam - lý luận và thực tiễn” của Đỗ Quang Hưng [91] đã nêu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với nhận thức lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo; nêu quá trình phát sinh, phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về tôn giáo và vấn đề tôn giáo; quá trình Đảng và Nhà nước ta đã
- 26 xây dựng, phát triển và hoàn thiện đường lối, chính sách tôn giáo ngày càng đúng đắn, hiệu quả qua các giai đoạn lịch sử, chủ yếu từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay. Cuốn sách “Tôn giáo - Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Đức Lữ [133] khẳng định tôn giáo không chỉ là vấn đề tinh thần, tâm linh mà còn có quan hệ đến các lĩnh vực khác của đời sống xã hội như: chính trị, đạo đức, văn hóa Mỗi tôn giáo lại có lịch sử hình thành, du nhập, đặc điểm giáo lý và tổ chức với những đặc trưng riêng, vì thế nhìn nhận, đánh giá tôn giáo phải theo quan điểm toàn diện và lịch sử - cụ thể. Cuốn sách phân tích nhận thức của Đảng ta qua những giai đoạn lịch sử như giai đoạn 1930-1945, 1945-1975, 1975-1986 và giai đoạn đổi mới để rút ra bài học nhằm tiếp tục đổi mới tư duy trên lĩnh vực tôn giáo trong tình hình hiện nay. Cuốn sách “Tôn giáo trong văn hóa Việt Nam” của nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Dương [49] có đề cập vấn đề: chính sách văn hóa đối với tôn giáo. Trong đó tác giả đúc kết một số quan điểm cốt yếu như: tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tiến trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đảm bảo cho các tôn giáo SỐNG TỐT ĐỜI, ĐẸP ĐẠO; Xây dựng môi trường văn hóa, thực hiện lành mạnh hóa các hoạt động tôn giáo. Trong cuốn “Quan điểm đường lối của Đảng về tôn giáo và những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay” [45], nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Dương đã khái quát được tình hình đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam, khái quát kinh nghiệm giải quyết vấn đề tôn giáo ở một số quốc gia: Trung Quốc, Thái Lan, Singapore, chỉ rõ một số vấn đề đặt ra trong tình hình hiện nay. Từ đó, nhà nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị như: tiếp tục đổi mới nhận thức về công tác tôn giáo, đổi mới về quản lý tôn giáo; tiếp tục hoàn thiện chính sách,
- 27 pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng và công ước quốc tế; quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật; Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh chống những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc. Đây là nguồn tài liệu có giá trị, làm căn cứ để tác giả luận án đề xuất kiến nghị theo mục tiêu mà đề tài đặt ra. Tuy nhiên, các tác giả công trình nói trên mới đề cập tới giải pháp chung nhất, còn giải pháp cụ thể liên quan đến ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu thì rất ít được đề cập tới. 1.3.2. Những văn bản về giải pháp cụ thể Trong quá trình đi khảo sát thực tế đề tài luận án, tác giả đã có sự tổng hợp các báo cáo tổng kết, các văn bản ở địa phương. Cụ thể là : Báo cáo tóm tắt đề án “Một số giải pháp tăng cường hệ thống chính trị vùng có đông đồng bào theo đạo Công giáo nhằm đảm bảo ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn huyện Xuân Trường - tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay” của Huyện ủy - UBND huyện Xuân Trường [82] . “UBND huyện phối hợp Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện trong phong trào thi đua xây dựng khu dân cư tiên tiến, khu dân cư văn hóa; xây dựng xã, thị trấn tiên tiến, văn hóa” của UBND huyện Hải Hậu [184]. “:Báo cáo kết quả triển khai thực hiện Chỉ thị 1940/2008/CT-TTg của Thủ tướng chính phủ về nhà, đất liên quan đến tôn giáo” của UBND tỉnh Nam Định [186]. “Người Công giáo tỉnh Nam Định phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết để là người Công giáo tốt cũng là người công dân tốt góp phần xây dựng quê hương giầu đẹp, văn minh” của Ủy ban đoàn kết Công giáo Việt Nam tỉnh Nam Định [181].
- 28 “Báo cáo chuyên đề Công giáo tại tỉnh Nam Định gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, những khó khăn, thuận lợi. Kiến nghị chủ trương và giải pháp”, Ban tôn giáo, Sở Nội Vụ tỉnh Nam Định [12]. “Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2012, phương hướng nhiệm vụ năm 2013”, UBND xã Xuân Phương [188]. Đây là những luận cứ quan trọng để tác giả xây dựng các giải pháp cho vấn đề ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam tới đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu, bất cứ giải pháp đưa ra đều phải dựa trên quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về công tác tôn giáo. Qua một số báo cáo ở địa phương, nghiên cứu sinh thấy rằng, trong xây dựng văn hóa mới, các báo cáo có nói đến lễ hội truyền thống dưới góc cạnh khác nhau, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đưa ra các giải pháp nhằm duy trì tín ngưỡng truyền thống theo đúng hướng tích cực, từ đó mà ảnh hưởng tích cực đến đời sống đạo của người Công giáo Bùi Chu khi kế thừa những giá trị của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam. 1.4. NHỮNG VẤN ĐỀ MÀ LUẬN ÁN KẾ THỪA VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ĐẶT RA 1.4.1. Những vấn đề mà luận án kế thừa Từ những vấn đề đã trình bày của các nhà nghiên cứu với các công trình, tài liệu kể trên, có thể thấy vấn đề ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam tới đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định đã được giải quyết một phần. Có thể khái quát lại như sau: Một là, các nhà nghiên cứu đã trình bày tổng quát các loại hình tín ngưỡng truyền thống Việt Nam như tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ Thành Hoàng làng, tín ngưỡng Phồn thực Hai là, các tài liệu, văn bản, các công trình nghiên cứu đã chỉ ra đặc điểm Công giáo về giáo luật, lễ nghi, cơ cấu phẩm trật, tổ chức cũng như lịch sử Công giáo ở Việt Nam nói chung, ở Bùi Chu nói riêng.
- 29 Ba là, các công trình trên thể hiện rõ nét đời sống đạo của giáo dân có chịu ảnh hưởng bởi các tín ngưỡng truyền thống Việt Nam. Bốn là, các công trình cũng phân tích các giải pháp cho việc xây dựng đời sống “tốt đời, đẹp đạo” của giáo dân, hướng đến tinh thần Người Công giáo tốt cũng là người công dân tốt. Các công trình trên rõ ràng là nguồn tư liệu, tài liệu có giá trị giúp tác giả luận án có cái nhìn khoa học, hệ thống để khảo cứu tình hình tín ngưỡng, tôn giáo cũng như ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam tới đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định. Tuy nhiên, nhiều vấn đề có liên quan tới đề tài nghiên cứu chỉ được đề cập tới ở mức độ hạn chế. Những công trình khảo cứu mối quan hệ, ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam với đời sống đạo của người Công giáo dưới góc độ triết học là rất ít ỏi. Thêm nữa, những bài viết, công trình quan tâm tới quá trình ảnh hưởng này ở một địa danh cụ thể, nhất là ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định là vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ. 1.4.2. Những vấn đề nghiên cứu đặt ra Một là, luận án chỉ rõ một số vấn đề lý luận của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam và Công giáo, ở đó khái quát lại những đặc điểm của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, nhấn mạnh tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên là cốt lõi của hệ thống tín ngưỡng; đặc điểm của Công giáo và Công giáo ở Việt Nam; đặc điểm của giáo phận Bùi Chu về điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa có liên quan tới vấn đề nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho vấn đề ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định. Hai là, luận án thông qua việc phân tích thực trạng ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống tới đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu với thực hành lễ nghi của thờ cúng tổ tiên, lễ kỷ niệm Thánh quan thày đầu dòng, tôn kính Đức Maria, Tết Nguyên đán Từ đó chỉ rõ những ảnh
- 30 hưởng tích cực và tiêu cực của tín ngưỡng truyền thống tới đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định. Ba là, luận án dựa trên cơ sở những vấn đề đặt ra trên đây, đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực, phát huy những ảnh hưởng tích cực của tín ngưỡng truyền thống tới đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định, góp phần xây dựng nếp sống văn hóa cho người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu. Vấn đề ảnh hưởng văn hóa dân tộc với đời sống đạo của người Công giáo Việt Nam là mảng đề tài mà nghiên cứu sinh đã trăn trở trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu từ bậc đại học, cao học và đến nay nghiên cứu sinh nhận thấy vấn đề này vẫn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Vì thế nghiên cứu sinh có mong muốn được tiếp tục nghiên cứu vấn đề này theo phương diện ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống đến đời sống đạo của người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định.
- 31 Chương 2 TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM VÀ ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở GIÁO PHẬN BÙI CHU - NAM ĐỊNH - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 2.1. TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM VÀ TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM Ở GIÁO PHẬN BÙI CHU – NAM ĐỊNH 2.1.1. Tín ngưỡng truyền thống Việt Nam Từ tâm thức sùng bái, trong đời sống cộng đồng hình thành các tín ngưỡng. Mỗi loại tín ngưỡng đều có nguồn gốc sâu xa từ quan hệ giữa con người với các đối tượng siêu nhiên nhất định, từ đó hình thành các phong tục tập quán và nghi lễ trong các tín ngưỡng. Cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa tương đối hoàn chỉnh về khái niệm tín ngưỡng truyền thống. Tuy nhiên, có thể hiểu rằng, tín ngưỡng truyền thống là loại hình tín ngưỡng do chính nhân dân - trước hết, những người lao động - sáng tạo ra trên cơ sở những tri thức được phản ánh và trải nghiệm cảm tính thuộc đời sống tâm linh của bản thân mỗi người và cộng đồng. Tín ngưỡng truyền thống chủ yếu chỉ có niềm tin, nó nằm trong tâm thức của con người trong sinh hoạt dân dã và được biểu hiện ra chủ yếu trong phong tục, tập quán sinh hoạt. Nó không mang tính triết lý nhân sinh hoàn chỉnh, chưa có tính hệ thống, và cũng chưa hình thành giáo luật. Cộng đồng người Việt cũng có hệ thống các tín ngưỡng truyền thống. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã đưa ra khái niệm hoạt động tín ngưỡng: Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần, thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội. [190] Như vậy, có thể hiểu tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là loại hình tín ngưỡng do cư dân Việt truyền thống sáng tạo nên trong quá trình lao động sinh hoạt.
- 32 Có nhiều cách phân loại các tín ngưỡng truyền thống Việt Nam. Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm trong cuốn sách “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” [158] đã phân chia các tín ngưỡng truyền thống Việt Nam thành ba loại: Sùng bái sự sinh sôi nảy nở của tự nhiên và con người: tín ngưỡng Phồn thực; tín ngưỡng sùng bái tự nhiên (thờ động vật và thực vật); tín ngưỡng sùng bái con người (tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ Thổ công, tín ngưỡng thờ thần Thành Hoàng, thờ vua tổ, thờ Tứ bất tử). Trong cuốn “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam”, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Lữ cho rằng tín ngưỡng dân gian - một trong những loại hình tín ngưỡng phản ánh rõ nét đặc trưng của văn hóa dân tộc [131, tr.5]. Như vậy, nhà nghiên cứu này đã đồng nhất tín ngưỡng dân gian với tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, qua đó đã đề cập đến một số tín ngưỡng điển hình như tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc, tín ngưỡng Thành Hoàng làng, tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng Phồn thực. Như vậy, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam và hoạt động tín ngưỡng ở Việt Nam hết sức phong phú, có nhiều cách phân loại các loại hình, nhưng trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận án chỉ đề cập tới tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thành Hoàng làng và tín ngưỡng thờ Mẫu - những tín ngưỡng điển hình của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ có liên quan trực tiếp tới đời sống tinh thần cư dân vùng giáo phận Bùi Chu - Nam Định. 2.1.2. Tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định 2.1.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở vùng giáo phận Bùi Chu - Nam Định Điều kiện tự nhiên Giáo phận Bùi Chu - Nam Định ở phía đông nam đồng bằng Bắc Bộ và giáp với biển. Đồng bằng Bắc Bộ là một vùng châu thổ nằm quanh khu vực hạ lưu sông Hồng, vì thế còn được gọi là đồng bằng sông Hồng.
- 33 Về hành chính, hiện nay đồng bằng Bắc Bộ bao gồm 10 tỉnh và thành phố: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình. Đồng bằng Bắc Bộ là khu vực có một nền văn hoá đặc sắc và độc đáo, là cái nôi của nhiều nền văn hoá nổi tiếng trải suốt tiến trình lịch sử văn minh Việt Nam với các trung tâm tiêu biểu: Bạch Hạc, Cổ Loa, Thăng Long - Hà Nội. Trong suốt một nghìn năm Bắc thuộc và thời kỳ đầu độc lập, người Việt đã phải sống tập trung trong một không gian cực kỳ chật hẹp ở vùng châu thổ sông Hồng, cố kết với nhau trong cộng đồng làng xóm để quai đê lấn biển, khai phá rừng rậm mở rộng khu vực sinh sống và chống trả trước sự xâm lược áp bức và âm mưu đồng hoá của kẻ thù - một âm mưu thâm độc mang ý nghĩa sống còn đối với dân tộc Việt Nam. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện nay bao gồm 38/54 dân tộc cùng sinh sống và làm việc, trong đó người Việt chiếm đại đa số (chiếm hơn 99%). Chính vì thế, trong sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt giữ vai trò trung tâm và là yếu tố chủ đạo của khu vực này. Đồng bằng Bắc Bộ có thể xem là một vùng đặc thù của Việt Nam, có những đặc trưng mà những vùng khác không có hoặc không đậm nét. Người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ sống chủ yếu bằng nông nghiệp, điều đó dẫn đến hệ thống tín ngưỡng của họ bao gồm thờ cúng tổ tiên, thờ cúng thần linh bảo vệ dòng họ, làng xóm, lao động sản xuất và thờ Mẫu. Thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, giáo phận Bùi Chu hiện nay nằm gọn trong 6 huyện của tỉnh Nam Định, bao gồm các huyện Xuân Trường, Giao Thuỷ, Hải Hậu, Nam Trực, Trực Ninh, Nghĩa Hưng và khu vực xứ Khoái Đồng, thành phố Nam Định, phía Đông Bắc giáp giáo phận Thái Bình, phía Tây Bắc là sông Đào nối sông Hồng với sông Đáy phân ranh giới với giáo phận Hà Nội, phía Tây Nam là giáo phận Phát Diệm, phía Đông Nam là biển Đông.
- 34 Khu vực giáo phận Bùi Chu được bao bọc bởi hai con sông lớn là sông Hồng và sông Đáy, hai con sông cung cấp nước, phù sa tạo nên những cánh đồng màu mỡ, phì nhiêu. Tốc độ tiến ra biển hàng trăm mét mỗi năm khiến Nam Định có tiềm năng đất đai phục vụ phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp. Ngoài ra, phải kể đến sông Ninh Cơ - một nhánh sông Hồng - nằm giữa giáo phận không chỉ mang nước, phù sa tới cho các huyện mà còn là trục giao thông thuận tiện. Nhờ đặc điểm sông ngòi, bờ biển trên, trong lịch sử Công giáo ở Việt Nam, các thừa sai không ngần ngại lựa chọn khu vực này làm nơi truyền giáo và dễ dàng đặt chân đến đây, cũng như rất thuận tiện trong việc dùng thuyền để đi rao giảng Tin Mừng. Không chỉ giao thông bằng đường sông, đường biển thuận tiện mà ở Bùi Chu, giao thông đường bộ cũng rất thuận tiện. Nhờ vậy, cứ dịp lễ trọng, người Bùi Chu đi làm ăn xa ở khắp nơi lại tề tựu đông đủ, bày tỏ niềm tin tôn giáo đầy nhiệt huyết của mình. Ở vùng đất này, phù sa sông Hồng bồi đắp rất màu mỡ, thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, cũng như một số tỉnh ven biển vùng đồng bằng Bắc Bộ, cư dân nơi đây luôn phải chống chọi với bão gió, lụt lội. Chính điều kiện tự nhiên này khiến người dân hình thành nên đời sống tín ngưỡng đa dạng, vừa mang những sắc thái chung của đồng bằng Bắc Bộ vừa có những nét đặc thù. Vùng đất thuộc giáo phận Bùi Chu là vùng đất có lịch sử khá lâu đời. Ngoài một số xã ven biển là Nghĩa Hưng, Hải Hậu, Giao Thủy tồn tại từ giai đoạn cuối triều nhà Lê. Dựa trên các kết quả nghiên cứu khoa học từ đầu thế kỷ XX đến nay đã khẳng định khu vực thuộc giáo phận Bùi Chu là khu vực từ sớm đã có con người cư trú và khẩn hoang, mở rộng đất đai. Có thể khẳng định, từ thời Lý - Trần đến thời Lê, vùng đất thuộc giáo phận Bùi Chu được khai phá khá mạnh mẽ. Các làng xã thuộc các huyện ở
- 35 phía nam như Trực Ninh, Xuân Trường, Hải Hậu, Giao Thủy, Nghĩa Hưng đều được hình thành là sản phẩm của quá trình khai hoang. Như vậy, đây chủ yếu là vùng đất cổ, hình thành nhiều làng Việt truyền thống như làng Đào Khê, làng Hải Lạng Thượng, làng Lộng Điền (phủ Nghĩa Hưng); làng Bách Tính, làng Thượng Nông, làng Sĩ Quan, làng Ngọc Tỉnh, làng Thạch Cầu, làng Đồng Quỹ, làng Xối Tây (huyện Nam Trực); làng Kiên Lao (phủ Xuân Trường). Trong các làng xã cổ xuất hiện hương ước, trong đó quy định một cách chặt chẽ về đời sống sản xuất, tổ chức và quản lý xã hội, sinh hoạt tinh thần và văn hóa của cư dân trong làng xã ấy. Cùng với nghề trồng lúa nước truyền thống, ở các làng cổ vùng đất Bùi Chu có sự ổn định về tín ngưỡng truyền thống, trong đó nổi lên tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng Thành Hoàng làng và tín ngưỡng thờ Mẫu, là nơi bảo tồn những di sản văn hóa truyền thống dân tộc. Điều kiện kinh tế - xã hội Điều kiện tự nhiên ở Bùi Chu tạo nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội toàn diện. Vùng đất này có nhiều đặc sản nổi tiếng như: Tám xoan Hải Hậu, Nếp Bắc Hải Hậu Ngoài trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản rất phát triển, vùng đất Bùi Chu còn nhiều tiềm năng phát triển công nghiệp chế biến như: xay xát gạo đặc sản, chế biến nước mắm, bột cá, chế biến thịt lợn, gia cầm, thức ăn gia súc Bên cạnh đó, Bùi Chu còn có nhiều tiềm năng để phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng và hàng thủ công mỹ nghệ phục vụ tiêu dùng cũng như xuất khẩu đồ gỗ dân dụng, đồ thủ công mỹ nghệ từ mây, tre Từ phát triển công nông nghiệp, Bùi Chu có lợi thế trong phát triển giao thông, vận tải, xuất khẩu, dịch vụ và du lịch. Ở giáo phận Bùi Chu thì dân tộc Kinh là chủ yếu. Giáo dân Bùi Chu sinh đẻ nhiều, vì thế số người Công giáo ở đây khá đông đảo. Cho nên, dù chỉ với diện tích nhỏ bé nhưng giáo phận Bùi Chu lại có số lượng giáo dân đông
- 36 thứ 4 trên tổng số 26 giáo phận của Giáo hội Việt Nam. Những đặc điểm này khiến Công giáo nơi đây phát triển nhanh, thuận lợi cho các giám mục, linh mục lãnh đạo, quản lý. Các huyện thuộc giáo phận Bùi Chu là những đầu mối giao thông quan trọng nối biển với thành phố Nam Định, có vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị và an ninh quốc phòng. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển đời sống về mọi mặt cho nhân dân các huyện nói chung, đồng bào theo đạo nói riêng, đồng thời cũng là nhân tố tích cực góp phần xây dựng nếp sống văn hóa tốt đẹp cho người Công giáo ở giáo phận Bùi Chu. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước, các huyện thuộc khu vực giáo phận Bùi Chu đã phấn đấu giành được những kết quả quan trọng và toàn diện, đời sống nhân dân ổn định và từng bước được cải thiện. Y tế được tăng cường cả về tổ chức và trang thiết bị. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin truyền thông, thể dục thể thao đã có nhiều đổi mới tích cực cả về nội dung và hình thức, góp phần quan trọng động viên nhân dân đoàn kết tham gia xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. [7]. Có thể nói, giáo phận Bùi Chu là một trung tâm lớn của Công giáo ở Việt Nam. Diện tích giáo phận khá nhỏ bé nhưng là một trong những giáo phận có số lượng giáo sỹ, tín đồ thuộc vào loại đông nhất giáo hội Công giáo ở Việt Nam, cũng là giáo phận có hệ thống cơ sở vật chất rất lớn so với các giáo phận khác trong cả nước. Hơn nữa, về mặt địa lý, đây là nơi có vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng nên rất được giáo hội Công giáo quan tâm phát triển. Chính vì thế, trong số 26 giáo phận, nếu giáo phận Phát Diệm được xem là “Vatican” của giáo hội Công giáo ở Việt Nam thì giáo phận Bùi Chu được Tòa thánh xem là “viên ngọc” của Tòa thánh ở châu Á.
- 37 Trong Giáo luật, xứ đạo là một bậc trong hệ thống hành chính giáo của Giáo hội, là đơn vị hạt nhân của Giáo hội. Do điều kiện lịch sử, địa lý, xứ đạo thành lập thường theo địa dư hành chính của thôn, làng, xã. Họ đạo có thể gắn với thôn làng, nhưng thông thường gắn với xóm là đơn vị của làng xã. Vì thế, xứ đạo với làng xã ở Bùi Chu nói riêng, vùng đồng bằng Bắc Bộ nói chung gắn bó rất chặt chẽ với nhau. Địa dư của xứ, họ đạo trùng với địa dư của làng, tên làng được đặt cho tên xứ, họ đạo. Ruộng đất, ao hồ của làng cũng được xem là của xứ, họ đạo. Vì được hình thành trên cơ sở làng xã truyền thống, làng Công giáo Bùi Chu vốn là làng Việt truyền thống, chỉ khác là ở đó sinh hoạt tôn giáo - Công giáo giữ vai trò chủ đạo. Cũng bởi hình thành từ các làng Việt truyền thống, trong đời sống tinh thần của cư dân Bùi Chu có sự hiện diện đậm nét của các tín ngưỡng truyền thống Việt Nam. 2.1.2.2. Tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định Tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định là hệ thống tín ngưỡng với những niềm tin thiêng liêng vào các vị thần thánh, được hình thành trong đời sống lao động, sinh hoạt của người Bùi Chu - Nam Định, biểu hiện niềm tin thiêng liêng của người Bùi Chu - Nam Định trong đời sống lao động, sinh hoạt ấy. Tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu - Nam Định chịu ảnh hưởng quyết định từ điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội vùng Bùi Chu - Nam Định. Khẳng định vai trò quyết định của đời sống vật chất, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đến đời sống tinh thần của con người, trong đó có tín ngưỡng, C.Mác đã khẳng định trong tác phẩm kinh điển “Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844” như sau:
- 38 Về mặt thể xác, thì con người cũng giống như con vật, đời sống có tính loài là ở chỗ con người (cũng như con vật) sống bằng giới tự nhiên vô cơ, ( ). Cũng như về mặt lý luận, thực vật, động vật, đá, không khí, ánh sáng là một bộ phận của ý thức con người, một phần với tính cách là đối tượng của khoa học tự nhiên, một phần với tính cách là đối tượng của nghệ thuật, là giới tự nhiên tinh thần vô cơ của con người, là món ăn mà con người phải chuẩn bị trước rồi mới ăn và tiêu hóa được, - về mặt thực tiễn, những cái đó cũng là một bộ phận của đời sống con người và của hoạt động con người. Về thể xác, con người chỉ sống bằng những sản phẩm tự nhiên ấy, dù là dưới hình thức thực phẩm, nhiên liệu, áo quần, nhà ở Về mặt thực tiễn, tính phổ biến của con người biểu hiện ra chính ở cái tính phổ biến biến toàn bộ giới tự nhiên thành thân thể vô cơ của con người, vì thứ nhất, giới tự nhiên là tư liệu sinh sống trực tiếp đối với con người, và thứ hai giới tự nhiên là vật liệu, đối tượng, và công cụ của hoạt động sinh sống của con người [139, tr.134-135]. Như vậy là, đời sống vật chất, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội mà con người đang sống là cơ sở làm hình thành đời sống tinh thần, đời sống tín ngưỡng của những con người đó. Vì thế, nằm ở đồng bằng Bắc Bộ, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam ở giáo phận Bùi Chu – Nam Định cũng mang đầy đủ những đặc trưng của tín ngưỡng truyền thống Việt Nam vùng đồng bằng Bắc Bộ, trong đó nổi bật là tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng Thành Hoàng làng và tín ngưỡng thờ Mẫu, nhưng bên cạnh đó, các tín ngưỡng này còn mang nét khác biệt với các vùng khác của đồng bằng Bắc Bộ, phản ánh nét đặc thù của chính khu vực đó. Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên có ảnh hưởng khá đậm nét trong đời sống tâm linh các cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tín ngưỡng này có cơ sở tồn tại
- 39 vững chắc trong xã hội Việt Nam truyền thống, đặc biệt là ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thờ cúng Tổ tiên dần được mở rộng theo các quan niệm: Tổ tiên là những người trực hệ (gia tiên) Tổ tiên theo dòng họ (tổ họ) Tổ tiên theo làng xã (tổ làng) với các nghi thức về thành hoàng sẽ được trình bày ở phần sau. Tổ nước, theo GS. Đặng Nghiêm Vạn là Hùng Vương. Có thể khẳng định, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên đã được hình thành rất lâu đời trong đời sống người Việt truyền thống vùng đồng bằng Bắc Bộ. Từ thời Hùng Vương, người ta đã tìm thấy nhiều mộ táng, cho thấy lúc này con người đã có ý thức về cội nguồn, tổ tiên, về thế giới bên kia. Sau này, khi Nho giáo du nhập vào nước ta, với sự hình thành các nhà nước phong kiến, thờ cúng tổ tiên ngày càng phát triển và dần được hoàn thiện, được chuẩn hóa và đưa vào cuốn Thọ Mai Gia lễ. Cùng với thời gian, quan niệm về thờ cúng tổ tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ nói chung, người Bùi Chu nói riêng dần được thể hiện rõ nét qua các nội dung: quan niệm về cái chết, tang chế, các hình thức cúng, lễ vật. Quan niệm về cái chết và niềm tin về linh hồn bất tử. “Chết” hàm chỉ một số nghĩa: mất khả năng sống, không còn biểu hiện sự sống; mất khả năng hoạt động do hư hỏng; mất tác dụng do đã biến chất; (trạng thái hoặc hoạt động) đạt đến mức độ quá lắm, như không thể chịu hơn được nữa [202, tr.161]. Người Việt truyền thống thường tránh dùng từ này, nhằm làm vơi bớt nỗi thương tiếc, xót xa của người thân thì họ sử dụng một số từ đồng nghĩa như "qua đời", "khuất núi", "qui tiên". Qua đó, có thể thấy rằng người Việt truyền thống quan niệm về cái chết còn khá mơ hồ, nhưng khẳng định chết không phải là hết, chỉ giống như một chuyến đi xa, sự kết thúc một chặng đường ngắn ngủi để bước sang chặng đường khác
- 40 Quan niệm về cái chết của người Việt gắn với quan niệm về linh hồn. Người Việt cho rằng trong con người tồn tại hai phần: thể xác và linh hồn. Thể xác chỉ phần thân thể vật chất của con người. Linh hồn là thực thể tinh thần đối lập với thể xác. Người Việt truyền thống cho rằng chết là về "thế giới bên kia", về "nơi chín suối", muốn tới đó phải đi bằng thuyền. Ở nhiều nơi thuộc đồng bằng Bắc bộ vẫn còn giữ nghi lễ "chèo đưa linh" để tiễn đưa linh hồn về nơi chín suối. Chính niềm tin rằng chết là về nơi chín suối với tổ tiên, “sống gửi thác về”, và dù ở nơi đó, ông bà tổ tiên vẫn đi về thăm nom, phù hộ cho con cháu, từ đó hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Tổ tiên tuy đã chết nhưng linh hồn vẫn sống và thường hiện diện trong gia đình, ngự trên bàn thờ của gia đình. Ý thức tôn thờ tổ tiên của người Việt là thể hiện đạo hiếu "Uống nước nhớ nguồn", "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" của con cháu, là sự mong muốn tổ tiên sẽ "phù hộ độ trì" cho con cháu ăn nên làm ra, bảo vệ con cháu không bị ai làm hại. Về bản chất của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, có thể hiểu tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên theo nghĩa như sau: Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên là một bộ phận của ý thức xã hội, là một loại hình tín ngưỡng dân gian được hình thành từ thời nguyên thuỷ với niềm tin thiêng liêng rằng, tổ tiên đã chết sẽ che chở, phù giúp cho con cháu, được thể hiện thông qua lễ nghi thờ phụng. Nó là sự phản ánh hoang đường quyền hành của người đứng đầu thị tộc phụ hệ, gia đình phụ quyền được duy trì và phát triển trong xã hội có giai cấp sau này, là sự biết ơn, tưởng nhớ và tôn thờ những người có công sinh thành, tạo dựng, bảo vệ cuộc sống như kỵ, cụ, ông bà, cha mẹ Như vậy, theo quan niệm của người Việt truyền thống, chết là kết thúc đối với cuộc đời thế tục, là sự chia lìa của người sống với người chết. Cho nên, trong lễ tang, không khí đau thương, xót xa bao trùm tất cả. Về
- 41 tang chế, theo tổng kết của Thọ Mai gia lễ, gồm nhiều nghi lễ, từ giờ phút lâm chung đến chuẩn bị quan tài, phát tang, chuyển cữu, trị huyệt, hạ huyệt Tang ma dù là việc của từng gia đình, nhưng tính cộng đồng, làng xã biểu hiện rất rõ nét. Việc đỡ đần, chia sẻ trong lúc tang gia bối rối trở thành một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của người Việt. Hương ước của một số làng Việt truyền thống vùng Bùi Chu thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX đã thể hiện điều đó, Lệ vùng Cát Chử (Trực Ninh) để làng đưa tang thì phải nạp một số tiền, hoặc làm cỗ đãi đưa tang. Giá tiền đầu thế kỷ XX là: lễ ở giữa đường 2.000 đồng, lễ lúc lên xe là 1.000 đồng, chỉ có lễ an táng thì 800 đồng. Lệ ở Thanh Trà, tổng Quế Hải (Hải Hậu): mỗi khi có việc tang, chỉ nộp 30 quan xã sẽ đốc người lo tất cả các việc từ kèn trống, lễ bái, chôn cất. Ai vì tham ăn sách nhiễu, xã sẽ phạt ba quan và một mâm xôi gà lễ “tạ quá” ở miếu thành hoàng. Nếu gia chủ biếu xôi thịt còn nóng xin chia, xã sẽ bớt đi 5 đến 10 quan hoặc hơn, xã không yêu cầu lễ biếu. Lệ của làng Vị Khê (Nam Trực) có bốn hạng: hạng nhất nộp 12 đồng, gấp hai lần hạng nhì, bằng bốn lần hạng ba và bằng 12 lần hạng tư, v.v [181, tr. 665]. Các hình thức cúng, lễ vật. Bàn thờ tổ tiên được coi là một yếu tố không thể thiếu trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên. Thông thường, bàn thờ tổ tiên chiếm một khoảng không gian nhất định trong nhà, có thể ở gian giữa hoặc gian đầu. Gian thờ được chia làm ba lớp: Lớp ngoài cùng là chiếc phản để làm lễ, có thể để trống bày chiếu hay bàn ghế thay thế. Lớp thứ hai để hương án, trên có đặt đồ tam sự (ngũ sự) (lư hương, đôi hạc, đôi nến, hai đài đặt hai chén nước thờ bằng đồng, lọ độc bình, đèn
- 42 Lớp trong cùng là bàn thờ. Bàn thờ tổ tiên thường được sắp xếp như sau: trên cao nhất được gọi là giường hành (ngũ hành) có đặt cỗ ngai (còn gọi là ỷ), trong ngai đặt bài vị Thuỷ tổ hoặc Tiên tổ chi chủ; phía dưới đặt bài vị kỵ ông, kỵ bà, rồi cụ ông, cụ bà, ông bà, cha mẹ.; tiếp xuống bày bộ Ngũ sự (Bát hương, đèn, lọ độc bình, mâm bồng nếp ngũ quả, bộ đài đặt chén nước hoặc rượu). Lễ vật cúng Tổ tiên thường không có gì qui định bắt buộc. Tổ tiên lúc còn sống ăn uống thứ gì thì cúng giỗ Tổ tiên có thể lấy đó làm lễ vật. Đặc biệt, không chỉ ở vùng đồng bằng sông Hồng mà ở bất cứ vùng nào thuộc Bắc, Trung, Nam, trong các gia đình người Việt, lễ vật cúng giỗ tổ tiên bao giờ cũng phải có quả trứng luộc bóc vỏ. Quả trứng đó là thể hiện lòng nhớ ơn về cội nguồn Tổ tiên theo sự tích bà Âu Cơ sinh trăm trứng nở trăm con. Quả trứng cũng là lễ vật nguyên vẹn nhất bởi không có ai có thể nếm vào đấy. Ngoài ra, trong ngày tết Nguyên đán, bàn thờ Tổ tiên thường có dựng bên cạnh vài ba cây mía để cả ngọn. Ý nghĩa của lễ vật này là cây mía có nhiều đốt, biểu hiện những nấc thang phát triển. Cây mía được coi là cây bất tử bởi ngọn mía lại sinh ra các bụi cây mía mới. Nó thể hiện mong muốn cho vũ trụ được sinh sôi phát triển. Ở những dòng họ lớn, con cháu còn chung nhau làm nhà thờ họ tộc để thờ vị thuỷ tổ của dòng họ mình. Cách bài trí ở nhà thờ họ tộc cũng giống cách bài trí ở bàn thờ tổ tiên nhưng do ông trưởng họ trông nom, đến ngày giỗ thuỷ tổ, mọi người trong họ mới tụ tập, mang cỗ bàn hương hoa đến lễ. Ngày giỗ là ngày kỷ niệm người mất trong gia đình, gồm có giỗ lớn và giỗ mọn. Theo quy định, ngày giỗ phải được tổ chức vào những dịp sau: cúng 3 ngày, cúng thất tuần, giỗ đầu (tiểu tường), giỗ năm thứ hai (đại tường), ngày trừ phục (giỗ hết khó), và giỗ cát kỵ (giỗ lành). Việc cúng Tổ tiên quan trọng nhất là vào ngày giỗ - ngày mà cha mẹ, ông bà, Tổ tiên qua đời. Cho nên dù thờ cúng Tổ tiên thuộc về con trai cả
- 43 dòng đích nhưng con gái cũng phải theo giỗ. Lúc đó các con cháu sẽ góp giỗ, tụ hội về nhà trưởng đích, sắp cỗ bàn cúng gia tiên rồi hưởng lễ ăn uống. Con cháu ngồi kể lại chuyện cha mẹ, ông bà, tổ tiên mình ngày xưa ra sao, tính nết, hình ảnh, cách cư xử thế nào để thể hiện lòng hiếu thảo của mình. Ngoài ngày giỗ, con cháu còn cúng tổ tiên vào các ngày tết trong năm, đặc biệt là Tết Nguyên đán, ba ngày tết sẽ thắp đèn hương thờ cúng. Có thể nói rằng, ngoài tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, ý thức về cội nguồn được thể hiện khá đậm nét trong đời sống tâm linh của các cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Bàn thờ tổ tiên là không thể thiếu đối với gia đình cư dân nơi đây, bên cạnh đó, dòng họ có Tổ đường, làng xóm thờ Thành hoàng làng, thần làng ở đình, đền, nước thờ Lạc Long Quân, Âu Cơ, vua Hùng Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên không chỉ thể hiện không gian riêng trong việc cúng bái giỗ chạp, mà còn biểu hiện trong mọi phong tục liên quan đến những thời điểm quan trọng nhất của chu kỳ đời sống một con người: sinh đẻ, hôn nhân, ma chay; cũng như sau khi đã khuất; săn sóc phần mộ, lo lắng cho “cuộc sống” bên kia thế giới. Người dân ở các huyện nằm trong giáo phận Bùi Chu đều thực hành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Việc thực hành vẫn giữ nguyên nghi lễ, phong tục trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt truyền thống vùng đồng bằng Bắc Bộ. Cái chết theo cư dân nơi đây cũng giống người Việt truyền thống. Chết là mất (về mặt thể xác), là về với tổ tiên, ông bà. Lễ tang của cư dân nơi đây cũng bao gồm hàng loạt nghi lễ: từ phút lâm chung (đặt tên hèm, hú hồn, tắm rửa, thay y phục, ngậm gạo, tiền), chuẩn bị quan tài, phát tang đến chuyển cữu, hạ huyệt Việc tang ma vốn được coi là gia lễ, nhưng thực tế thì không thể thoát ly khỏi cộng đồng làng xã bởi làng xã sẽ cắt cử người trong làng giúp dựng rạp, sửa đường, bắc cầu để việc thực hiện các nghi lễ đưa tang được thuận lợi.
- 44 Trong phạm vi dòng họ, nghi lễ thờ cúng tổ tiên được thực hiện bằng một loạt các hoạt động tập thể của gia đình, thành viên trong dòng họ về giỗ tổ, tảo mộ. Địa điểm diễn ra nghi lễ thường ở nhà trưởng họ hoặc nhà thờ họ. Những năm gần đây, khi đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao, nhà thờ các họ tộc lớn đều được xây lại, xây mới to đẹp, hoành tráng. Tín ngưỡng Thành Hoàng làng Người Việt cổ khi tiến xuống đồng bằng Bắc Bộ, họ tụ cư thành những xóm làng ổn định. Làng người Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ có cấu trúc chặt chẽ, được coi là những đơn vị kinh tế - xã hội - quân sự và văn hóa hoàn chỉnh. Đình chùa, am, miếu, nhà thờ, từ đường là những trung tâm thờ tự công cộng của làng xã. Nhờ đó, làng xã có vai trò quan trọng, là cái nôi hình thành, nuôi dưỡng và bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống. Thời điểm ban đầu người Việt tiến xuống đồng bằng, trình độ kỹ thuật còn hết sức hạn chế. Để trồng trọt đạt năng suất cao, họ phải nắm được những nét đặc trưng, quy luật sinh trưởng và thao tác thuần thục cho từng giống cây trồng. Do vậy, điều quan trọng là người lao động phải biết học hỏi những người đi trước, có kinh nghiệm, từ đây hình thành trong tâm thức họ tâm lý sùng bái già làng, vốn là những người nhiều kiến thức, kinh nghiệm trong sản xuất. Làm nông nghiệp lúa nước thì vấn đề thủy lợi trở nên trọng yếu đối với cư dân Việt cổ vùng đồng bằng Bắc bộ. Tuy nhiên, do cấu tạo địa hình, nơi đây diễn ra nạn lũ lụt hàng năm, vì thế, trị thủy trở thành mối quan tâm dai dẳng trong đời sống vật chất và tinh thần của những con người nơi đây. Mặc dù làm nghề nông là chủ yếu nhưng người Việt ở vùng đồng bằng Bắc bộ không thuần nông. Nhiều làng nghề truyền thống xuất hiện. Chính cơ sở kinh tế xã hội trên làm hình thành tín ngưỡng thành hoàng làng của người Việt ở vùng đồng bằng Bắc bộ.
- 45 Tín ngưỡng Thành Hoàng làng vốn có nguồn gốc từ Trung Quốc. Trong sách Từ nguyên có ghi “Thành hoàng: do ngôn thành trì. Dịch: thành phục vụ hoàng”, có nghĩa là vị thần bảo vệ cho thành trì. Đa số những người được triều đình phong Thành Hoàng đều là trung thần, nghĩa sĩ, dũng tướng Từ "thành hoàng” trong tín ngưỡng Thành Hoàng làng vốn là từ Hán Việt được hiểu theo nghĩa: “thành” là cái thành, còn “hoàng” là cái hào đào sâu bao quanh thành. Sau khi được du nhập sang Việt Nam, “Thành Hoàng” ban đầu cũng được dùng để chỉ các vị thần bảo vệ các tòa thành. Chẳng hạn Tô Lịch năm 823 được Lý Nguyên Gia phong làm Thành Hoàng, dựng đền thờ. Năm 866, ông được phong làm Đô phủ Thành Hoàng thần quân Đại vương. Năm 1010, vua Lý Thái Tổ phong Tô Lịch làm Quốc đô Thăng Long Thành Hoàng đại vương. Có thể nói, ở nước ta tồn tại một loại Thành Hoàng giống với ý nghĩa của Thành Hoàng bên Trung Quốc - thần của thành trì. Tuy nhiên, nói tới Thành Hoàng ở Việt Nam lại phải nói tới loại Thành Hoàng thứ hai - thần của các làng, được gọi là Thành Hoàng làng. Thành Hoàng làng là tên gọi cho vị thần cai quản, che chở, định phúc họa cho dân làng đó. Mỗi làng xã đều có Thành Hoàng làng. Và dù xuất thân thế nào, nghề nghiệp ra sao, có được vua phong hay không, thì một khi được làng xã tôn vinh là Thành Hoàng, vị thần đó sẽ được cả dân làng sùng kính. Như vậy, “Thành Hoàng làng” trong tín ngưỡng Thành Hoàng làng là một khái niệm đã được Việt hóa, không còn giống với nghĩa gốc bên Trung Quốc. Đúng như Nguyễn Duy Hinh đã nhận xét: Rõ ràng trong Thành Hoàng Việt Nam có hai dòng riêng biệt. Một dòng: mang đậm gần nguyên xi mô hình Đường - Minh: Hệ thống Thành Hoàng cả nước, tỉnh, huyện: đó là những vi thần vô danh tối linh, không có thần tích, nhân bản, thậm chí cũng không phải là một thiên thần Dòng thứ hai là Thành Hoàng - Làng. Đó mới là dòng chủ thể phản ánh bản chất tư duy tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam [66, tr.97].
- 46 Các Thành Hoàng thường ngự trị ở ngôi đình của làng, tuy nhiên, ở nhiều nơi Thành Hoàng ngự ở Nghè vào dịp kỷ niệm mới được rước ra đình, sau đó lại trở về Nghè. Ngôi đình trở thành vùng đất thiêng, không gian thiêng và có cả thời gian thiêng (vào dịp đình đám của làng). Đình làng tuy xuất hiện từ lâu và đã tồn tại qua nhiều thế kỷ, song phải đến cuối thế kỷ XVI về sau vị trí của ngôi đình làng mới thực sự được đề cao trong đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng làng xã. Dù được xây dựng cách xa khu dân cư, ngôi đình vẫn là trung tâm của đời sống cộng đồng dân làng, nơi giải quyết các vấn đề hành chính trong làng, và giữ đúng chức năng của nó là nơi tiến hành các nghi lễ thờ cúng Thành Hoàng - vị thần bảo hộ của cộng đồng làng. Cùng với tục cúng Thành Hoàng, tín ngưỡng này còn được thực hành thông qua việc tổ chức lễ hội. Vào dịp lễ hội, tùy thân thế, thần tích, nguồn gốc của thành hoàng mà có những nghi thức được tổ chức cho phù hợp. Nếu thành hoàng là anh hùng chống ngoại xâm thì diễn xướng sẽ mô tả cảnh đánh giặc, giữ nước. Thành Hoàng là thần mây, mưa, sấm, chớp lễ hội nhất định sẽ diễn ra cảnh cầu cho mưa thuận gió hòa để mùa màng tươi tốt. Tín ngưỡng Thành Hoàng làng đã trở thành biểu tượng cho tính cố kết cộng đồng, có vai trò then chốt trong đời sống tâm linh của cư dân làng xã Việt Nam. Cư dân thuộc 6 huyện nằm trong giáo phận Bùi Chu cũng tin và thực hành nghi lễ cúng tín ngưỡng Thành Hoàng làng. Tín ngưỡng này tồn tại rất phổ biến ở vùng đất này. Vì thế, tổ tiên những người dân nơi đây khi khai hoang lập ấp đã cố gắng duy trì tín ngưỡng đó cho các thế hệ con cháu tới tận ngày nay. Hệ thống đền, miếu được lập ở khắp nơi trong vùng, tiêu biểu có đền Hưng Đạo Vương, đền thờ Triệu Quang Phục, Đền liệt sỹ Hải Hậu, Phủ Thiên Tiên,
- 47 Các vị thần cũng được chia ra một cách cụ thể, như các vị thần là tiền hiền, khai khẩn, mở đất thiết lập làng xã, có thể kể đến Trần Vu, Vũ Chi, Hoàng Gia, Vũ Duy Hòa, Phạm Cập (Hải Anh, Hải Hậu), Phạm Văn Nghị, Nguyễn Điển, Phạm Thanh (Hải Lạng, Nghĩa Hưng), Ngô Miễn (An Cư, Xuân Trường) Cũng có những vị là tổ nghề như Lục vị tổ sư (Vân Chàng, Nam Trực), Tô Trung Tự làm nghề trồng hoa (Vị Khê, Nam Trực) Còn có những vị là trạng nguyên, tiến sĩ tạo truyền thống khoa bảng của làng, của họ, gây dựng danh tiếng cho làng, cho họ, như Phạm Bảo, Phạm Đạo Phú (Dương Phạm, Nghĩa Hưng) Khi nhắc đến tín ngưỡng Thành Hoàng làng của người Nam Định nói chung, người Bùi Chu nói riêng, không thể không nhắc đến một vị anh hùng dân tộc, một nhân vật lịch sử vĩ đại, đó là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (1232 - 1300). Ngay từ khi lúc sinh thời, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã trở thành Đức Thánh Trần trong lòng người dân Nam Định và lan rộng ảnh hưởng ra toàn quốc. Ở các làng xã có nhiều địa điểm (từ đền, điện, phủ, miếu, đình, chùa) được dùng để thờ Đức Thánh Trần. Tín ngưỡng thờ Mẫu Gắn liền với cuộc sống nông nghiệp với âm tính dẫn đến trong quan hệ xã hội ở người Việt truyền thống là lối sống thiên về tình cảm, trọng phụ nữ, biểu hiện về mặt tín ngưỡng là khuynh hướng đề cao nữ tính với một loạt các nữ thần như Bà Trời, Mẹ Đất, Bà Thủy, Bà Hỏa, các nữ thần Mây - Mưa - Sấm - Chớp, đạo thờ Tam Phủ, Tứ Phủ; 12 bà mụ Vì thế việc thờ Mẫu ở Việt Nam rất mạnh, được xem như một thứ tín ngưỡng truyền thống của dân tộc. Từ “Mẫu” có gốc Hán - Việt, được hiểu là Mẹ, là tiếng xưng hô của người con đối với người phụ nữ đã sinh ra mình. Hiểu rộng ra, “mẫu” còn được dùng để chỉ sự sinh sôi nảy nở, sinh hóa không ngừng. Với ý nghĩa đó, tín ngưỡng thờ Mẫu là loại hình tín ngưỡng truyền thống Việt Nam nhằm tôn vinh, tôn quý, tôn quyền một người phụ nữ nào đó,
- 48 thông qua các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng để con người khi tham gia có được sự che chở, giúp đỡ của các bậc Mẫu. Tín ngưỡng thờ Mẫu xuất phát từ việc thờ Nữ thần. Mẫu là nữ thần, nhưng nữ thần thì không phải tất cả đều là Mẫu, bởi chỉ có những nữ thần gắn với sự sinh sôi, nảy nở, bao bọc, che chở cho cuộc sống cư dân mới được coi là Mẫu. Qua một quá trình phát triển từ thấp lên cao, từ chưa hoàn thiện đến tương đối hoàn thiện, tín ngưỡng thờ Mẫu được hình thành và hoàn thiện, xét trên phương diện các lớp thờ thì có thờ Nữ thần, Mẫu thần, Tam phủ - Tứ phủ, còn xét ở phương diện các vị thần thì có Bà mẹ núi rừng, Mẫu Âu Cơ, Mẫu Man Nương, Mẫu Liễu Hạnh. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam có tính đa dạng, phong phú, bao gồm cả việc thờ Mẫu thần và Mẫu Tứ phủ. Mẫu thần là những vị nữ thần (cả nhiên thần và nhân thần) được phong các tước hiệu như Vương Mẫu (như Bà mẹ Thánh Gióng, tước hiệu Thiên thần Vương Mẫu, đền thờ đặt ở xã Thị Cầu, thị xã Bắc Ninh); Quốc Mẫu (Mẹ Âu Cơ), Thánh Mẫu (Linh Sơn thánh Mẫu, thờ ở núi Bà Đen, Tây Ninh). Ngoài thờ Mẫu thần, ở Việt Nam còn tồn tại một loại hình thờ Mẫu khác là thờ Mẫu Tứ Phủ. Tứ phủ chỉ bốn vùng khác nhau trong vũ trụ: thiên phủ (trời), địa phủ (đất), nhạc phủ (rừng núi), thoải phủ (sông biển). Đứng đầu mỗi phủ có một vị thánh Mẫu tương ứng là Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải. Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ thờ cúng các vị thánh Mẫu nói trên. Về nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu, phải nói rằng, trong hệ thống tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, tín ngưỡng thờ Mẫu có hệ thống lễ nghi và lễ hội rất phong phú, đa dạng, thể hiện tính dân tộc độc đáo. Các nghi lễ đặc trưng của tín ngưỡng này là Lễ tôn nhang (lễ đội bát nhang); lễ hầu bóng; lễ dâng hoa mà nghi lễ tiêu biểu nhất phải nói đến là lễ hầu bóng (hầu đồng).
- 49 Đây là nghi lễ nhập hồn của các vị thánh tứ phủ vào các thân xác ông (bà) Đồng, tái hiện lại hình ảnh các vị thánh, nhằm phán truyền, chữa bệnh, ban phúc lộc cho các tín đồ của tín ngưỡng thờ Mẫu. Ở Nam Định, đặc biệt là vùng giáo phận Bùi Chu với các huyện ven biển như Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Giao Thủy, gắn liền chặt chẽ với tín ngưỡng thờ Mẫu (mẫu Thoải, mẫu Thủy). Tâm thức thờ Mẫu lan tỏa tất cả các địa phương thuộc tỉnh Nam Định, đi sâu vào đời sống tinh thần của cư dân vùng này, trong đó có cả khu vực giáo phận Bùi Chu, bởi lẽ “những điều kiện tự nhiên - xã hội, nông dân - nông nghiệp, xóm làng khá điển hình cho nền văn hóa lúa nước - yếu tố Nước, yếu tố Mẹ, sinh sôi, che chở - cơ sở đầu tiên, nền tảng, thường xuyên và quan trọng của sự ra đời của tín ngưỡng thờ Mẫu”. [168, tr.673]. Có thể khẳng định, Nam Định là cái nôi của tín ngưỡng thờ Mẫu với lễ hội Phủ Giầy nổi tiếng. Trong hội Phủ Giầy còn diễn ra hình thức hầu bóng - một chuỗi lễ tiết do ông đồng, bà đồng tiến hành. Ngoài ra cũng phải kể đến hội rước Mẫu đi thỉnh kinh (Chùa Tiên Linh, chùa Linh Sơn). Còn có hội Hoa Trượng tiến hành xếp chữ với các chữ thường được Mẫu “chọn” là “Quốc thái dân an”, “Thiên hạ thái bình”, “Mẫu nghi thiên hạ” Hiện nay, các chữ xếp thường là do ban tổ chức lựa chọn. Tuy nhiên, bên cạnh mặt giá trị, các tín ngưỡng truyền thống còn tồn tại một số mặt phản giá trị. Đối với tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên vẫn còn có những hệ lụy cần khắc phục như: việc phô trương về tiền tài, danh vọng, địa vị, gây chia rẽ bè phái, cục bộ trong cộng đồng Điều này gây ra ít nhiều sự lãng phí, phiền toái đối với nhiều người, làm biến dạng ý nghĩa nhân văn sâu sắc của tín ngưỡng này. Có thể thấy tồn tại yếu tố mê tín dị đoan ở đây. Vì thế, thờ cúng Tổ tiên ở nhiều nơi chịu sự chi phối bởi tư tưởng cơ hội, trục lợi của một số kẻ tán dương với mục đích buôn thần bán thánh.
- 50 Trong khi đó, ở tín ngưỡng thờ Mẫu với những nét sinh hoạt đặc thù, càng tạo nhiều cơ hội để sinh hoạt này đi quá đà. Niềm tin vượt quá giới hạn trở thành niềm tin mù quáng, khiến con người dễ dàng đi đến những hành động thiếu sáng suốt. Thực tế đã xảy ra không ít trường hợp có người dám bỏ ra hàng triệu đồng để thực hiện việc hầu đồng, lên đồng cầu thánh thần giải trừ tai ương, bệnh tật. Có người bỏ hàng trăm, thậm chí hàng triệu đồng mua sắm vàng mã, hương khói. Có người ốm đau, bệnh tật không đến bác sỹ, bệnh viện để chữa bệnh lại chạy theo việc giải hạn, trừ ma, tuân theo những lời chỉ bảo của những kẻ “buôn thần bán thánh”, dẫn đến kết quả tiền mất, tật mang Cũng có một bộ phận người lợi dụng niềm tin của dân chúng vào thần thánh, lợi dụng các sinh hoạt tín ngưỡng của dân chúng để làm điều bất chính, trục lợi cho cá nhân. Thực trạng đó cho thấy không thể để các sinh hoạt tín ngưỡng diễn ra một cách tự phát, cần có sự điều chỉnh, định hướng, quản lý của các cơ quan chức năng. 2.2. CÔNG GIÁO VÀ ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở GIÁO PHẬN BÙI CHU - NAM ĐỊNH 2.2.1. Khái lược về Công giáo Kitô giáo là đạo do Đức Kitô Giêsu (người làng Nazareth, xứ Palestina, nay thuộc Israel) sáng lập, đặt nền tảng trên cuộc sống, lời rao giảng, sự chết và sự sống lại của Người. Công giáo là một bộ phận của Kitô giáo được tách ra. Công: phổ quát; giáo: đạo. Công giáo: (đạo) có tính phổ quát. Công giáo là một loại hình tôn giáo có cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh. 2.2.1.1. Giáo lý của Công giáo Giáo lý của Công giáo nằm trong Kinh Thánh gồm hai bộ: Cựu ước (46 quyển) và Tân Ước (27 quyển). Sách Cựu Ước, vốn là sách của đạo Do Thái, trình thuật về Thiên Chúa với công việc sáng tạo ra vũ trụ và con người, kể về những phong tục tập quán của người Do Thái và loan báo, chuẩn bị cho sự
- 51 xuất hiện của Đấng Cứu Thế. Sách Tân Ước tiếp nối Sách Cựu Ước, kể về cuộc đời, sự nghiệp của Chúa Giêsu Kitô - Đấng cứu thế, về quá trình hoạt động của các tông đồ và những lời dạy bảo của Chúa Giêsu và các tông đồ về con người. Với tín đồ Công giáo, tín điều cơ bản đầu tiên chính là đức tin vào Thiên Chúa, vào sự mầu nhiệm của Thiên Chúa. Đây thực chất là lời đáp trả lại của con người đối với Thiên Chúa bởi con người khao khát có Thiên Chúa không chỉ vì họ nhờ có Thiên Chúa mới được tạo thành mà còn vì ở nơi Chúa, con người mới có được hạnh phúc, đạt tới được chân lý mà họ đang kiếm tìm. Bằng những năng lực của mình, con người có khả năng nhận ra được Thiên Chúa từ những gì Người tạo nên, và Thiên Chúa cũng tự ban chính mình cho con người, "mặc khải" tình yêu thương, phép màu nhiệm của mình cho con người thông qua việc cử Đức Giêsu Kitô và Thánh thần đến với con người. Qua đó, tín đồ Công giáo tin rằng Chúa có ba ngôi: Cha - Tạo dựng, Con - Cứu chuộc, Thánh thần - Thánh hoá. Họ cũng tin Thiên Chúa đã tạo ra con người gồm hai phần: thể xác và linh hồn, sau khi chết đi, thể xác sẽ trở về với cát bụi nhưng linh hồn thì tồn tại vĩnh viễn. Con người do trí khôn, lương tâm nên làm chủ thế giới muôn loài nhưng do tính phàm tục nên mắc nhiều tội lỗi. Thiên Chúa đã trừng phạt con người vì những lỗi lầm của họ, nhưng sai Chúa Giêsu xuống cứu chuộc cho con người. Chúa Giêsu được sinh ra từ Đức Mẹ Maria bằng phép màu nhiệm của Thiên Chúa. Cái chết của Chúa Giêsu - bị đóng đinh trên cây Thánh giá, sự sống lại và về trời chính là biểu hiện cho tình thương yêu, đức hy sinh và cuộc sống vĩnh hằng nơi Thiên Chúa. 2.2.1.2. Giáo luật của Công giáo Giáo luật của Công giáo qui định nhiều điều, trong đó đáng chú ý có "Thập giới" - 10 điều răn mà Thiên Chúa đòi hỏi nhằm giúp con người được cứu rỗi. Đó là:
- 52 1. Phải thờ phụng và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự 2. Không được đưa danh Thiên Chúa vào việc phàm tục tầm thường 3. Dành ngày Chủ nhật để thờ phụng Thiên Chúa 4. Thảo kính cha mẹ 5. Không được giết người 6. Không được dâm dục 7. Không được gian tham 8. Không được làm chứng dối 9. Không được ham muốn vợ (chồng) người khác 10. Không được ham muốn của trái lễ Mười điều răn này hợp thành một thể thống nhất, qui thành hai điều tôn chỉ: Kính Chúa và Yêu Người. Giáo luật Công giáo quy định các tín đồ không ai được quyền vi phạm một trong mười điều răn trên, bởi chỉ cần phạm vào một điều là phạm tới tất cả những điều răn còn lại. Điều này là tất yếu, bởi không thể tôn trọng người khác mà không chúc tụng Thiên Chúa - Đấng sáng tạo ra họ, lại càng không thể chỉ tôn thờ Thiên Chúa mà không yêu thương những con người vốn là sản phẩm của Thiên Chúa tạo ra. 2.2.1.3. Nghi lễ Công giáo Nghi lễ Công giáo, nhằm phân biệt với các nghi lễ khác của Kitô giáo như nghi lễ Byzantin (Hội thánh Côngxtantinốp), nghi lễ Syria (được người Công giáo và Kitô hữu Đông phương ly khai sử dụng), được gọi là nghi lễ Roma. Một cách tổng quát nhất, nghi lễ Công giáo (nghi lễ Rôma) có thể định nghĩa như sau: "Nghi lễ Rôma là thể thức cử hành thánh lễ, cử hành bí tích và á bí tích, đọc kinh thần vụ và làm các việc khác của hội thánh như đã được phép làm ở thành phố và các giáo phận Roma" [42, tr.41-42].
- 53 Nghi lễ Công giáo gồm hai phần: Phụng vụ lời Chúa - đọc sách thánh, những bài ca vịnh và bài giảng - và Phụng vụ Thánh thể - hiến tế và thực hiện các bí tích. Việc cử hành các bí tích trong nghi lễ có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc thi hành các bí tích diễn ra trong năm phụng vụ. Trong chu kỳ một năm, Giáo hội sẽ chia theo các mùa để diễn giải toàn bộ màu nhiệm Chúa Kitô (kể từ lúc sinh ra cho đến lúc truyền đạo, lập giáo hội, chịu chết, phục sinh và trở về trời), gồm có: Tam nhật vượt qua, Mùa Phục sinh, Mùa Chay, Mùa Giáng sinh, Mùa Vọng, Mùa Thường niên. Trong mỗi mùa, giáo hội lại chia thành những Chúa nhật và mỗi Chúa nhật chia thành ngày phụng vụ. Ngày phụng vụ gồm có Chúa nhật (ngày đầu mỗi tuần), các ngày lễ trọng, lễ kính, lễ nhớ và các ngày khác trong tuần (sau ngày Chúa nhật mỗi tuần). Ngoài ra còn có các ngày cầu mưa và bốn mùa nhằm để tín đồ cầu xin Thiên Chúa ban cho những nhu cầu khác như ruộng đất sinh hoa, quả, con người ăn nên làm ra. Bên cạnh đó, cũng phải kể đến những á bí tích do Hội thánh thiết lập, là vật hay việc làm được giáo hội dùng theo kiểu các bí tích để có một hiệu quả, chủ yếu là những hiệu quả thiêng liêng nhờ công trạng của tín hữu ví dụ như làm phép mồ, phép xác, phép nhà thờ [42, tr.60]. Tuần Thánh Tuần Thánh được coi là tuần trọng nhất trong Năm phụng vụ, tuần Mẹ của các tuần lễ. Trong Tuần Thánh, Giáo hội cử hành các mầu nhiệm cứu chuộc đã được Chúa Kitô hoàn tất trong những ngày cuối đời ở trần thế. Tuần Thánh bắt đầu từ Chúa Nhật Lễ Lá và kéo dài tới Chúa Nhật Phục sinh, gồm hai phần: Chúa Nhật Lễ Lá, thứ hai, thứ ba và thứ tư và sáng thứ năm Tuần thánh và Tam nhật thánh.
- 54 Thứ sáu Tuần Thánh: Giáo hội tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Kitô, tưởng niệm Chúa hiến tế trên thập giá vì nhân loại, qua việc đọc Lời Chúa và tôn vinh Thánh giá. Đồng thời Giáo hội cũng tưởng nhớ nguồn gốc của mình phát sinh từ cạnh sườn Chúa Kitô chết trên thập giá. Đại lễ Kính thánh Đa Minh Đa Minh sinh năm 1170 tại Caleruega, Tây Ban Nha, thuộc dòng tộc Guzman. Đa Minh đã có thể trở thành một người có công danh, địa vị trong xã hội, tuy nhiên, ngay từ nhỏ Thánh Ða Minh đã biết dung hòa việc học với đời cầu nguyện và các bổn phận tông đồ. Là người cương trực, thẳng thắn, ông luôn chú tâm tới việc trau dồi kiến thức, văn hóa để thực hiện chí hướng. Ông theo học ở Valencia, và có lẽ được thụ phong linh mục trong khi còn đi học, và được bổ nhiệm là kinh sĩ ở Osma năm 1199. Ông là người có nhiều công lao trong giữ và phát triển đạo. Trong Công Ðồng Latêranô lần thứ tư năm 1215, Thánh Ða Minh thất bại trong việc xin phê chuẩn tu hội, nhưng được Giáo hoàng Honorius III chuẩn y vào năm tiếp đó, và Dòng Thuyết giảng (các tu sĩ dòng Ða Minh) được thành lập. Thánh Đa Minh qua đời ngày 8/8/1221 và 13 năm sau, năm 1234 Giáo hội đã phong thánh cho ông. Hiện nay, dòng Đa Minh truyền giáo vẫn luôn là một dòng mạnh và ảnh hưởng nhiều nhất về truyền giáo trong giáo hội. Để ghi nhớ công lao thiết lập dòng Đa Minh, người ta gọi ông là Thánh tổ phụ và lấy ngày 8/8 để tưởng nhớ ông, gọi là Đại lễ kính Thánh Đa Minh. Đại lễ này chỉ có ở những giáo phận trước đây thuộc dòng Đa Minh cai quản như các giáo phận: Bùi Chu, Thái Bình, Hải Phòng, Bắc Ninh, Lạng Sơn ngày nay. Thờ phụng Thánh quan thầy Thánh quan thầy theo quan niệm Công giáo là hiệp thông trong các sự thánh (hiệp thông trong đức tin, trong bí tích, trong đức ái, và trong sự cầu