Khóa luận Vai trò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cuộc kháng chiến chống Mỹ giai đoan 1965 - 1975

pdf 61 trang thiennha21 16/04/2022 5710
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Vai trò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cuộc kháng chiến chống Mỹ giai đoan 1965 - 1975", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_vai_tro_cua_dai_tuong_vo_nguyen_giap_voi_cuoc_khan.pdf

Nội dung text: Khóa luận Vai trò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cuộc kháng chiến chống Mỹ giai đoan 1965 - 1975

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA LỊCH SỬ ===o0o=== NGUYỄN TÙNG NAM VAI TRÒ CỦ A ĐAỊ TƯỚ NG VÕ NGUYÊN GIÁ P VỚ I CUÔC̣ KHÁ NG CHIẾ N CHỐ NG MỸ CỨ U NƯỚ C GIAI ĐOAṆ 1965 - 1975 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam HÀ NỘI, 2019
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA LỊCH SỬ ===o0o=== NGUYỄN TÙNG NAM VAI TRÒ CỦ A ĐAỊ TƯỚ NG VÕ NGUYÊN GIÁ P VỚ I CUÔC̣ KHÁ NG CHIẾ N CHỐ NG MỸ CỨ U NƯỚ C GIAI ĐOAṆ 1965 - 1975 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Dũng HÀ NỘI, 2019
  3. LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Nguyễn Văn Dũng - Người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận. Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy giáo, Cô giáo là giảng viên Khoa Lịch sử - Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2, đã tạo điều kiện cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu. Tôi xin chân thành cảm ơn bạn Đinh Thị Thùy Linh, sinh viên lớp K41B - Khoa Giáo dục chính trị đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành khóa luận. Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành công trình nghiên cứu này. Hà Nội, tháng 4 năm 2019 Tác giả Nguyễn Tùng Nam
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi“xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong khóa luận đã được chỉ rõ nguồn gốc.” Hà Nội, tháng 4 năm 2019 Tác giả Nguyễn Tùng Nam
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài 1 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 3 6. Đóng góp của khóa luận 3 7. Bố cục của khóa luận 4 Chương 1. ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP CHỈ ĐẠO CHỐNG MỸ GIAI ĐOẠN 1965 - 1973 5 1.1. Tiểu sử 5 1.2. Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo toàn quân chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ (1965 - 1968) 6 1.2.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng 6 1.2.2. Chỉ đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và thắng lợi đạt được 10 1.2.3. Đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ 17 1.2.4. Chi viện cho tiền tuyến miền Nam 20 1.2.5. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy 1968 - Chiến tranh cục bộ bị phá sản 21 1.3. Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1973) 23 1.3.1. Bối cảnh lịch sử và sự chỉ đạo của Đảng 23 1.3.2. Chỉ đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và những thắng lợi đạt được 25 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 30
  6. Chương 2. ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP CHỈ ĐẠO TỔNG TẤN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975, GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC 31 2.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng 31 2.1.1. Vài nét về bối cảnh lịch sử 31 2.1.2. Chỉ đạo của Đảng 32 2.2. Chỉ đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và thắng lợi đạt được 36 2.2.1. Chỉ đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp 36 2.2.2. Thắng lợi đạt được 39 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 50 KẾT LUẬN 51 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 54
  7. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Thế kỉ XX“trong dòng thác cách mang̣ của các dân tôc̣ ”đứ ng lên tư ̣ giải phóng, Viêṭ Nam nổi lên như ngoṇ cờ đầ u với chiến công vang dôị đánh thắ ng hai đế quố c to là Pháp và My.̃ Đườ ng trườ ng chinh nử a thế kỉ chiế n đấ u giành đôc̣ lâp,̣ tư ̣ do, hanḥ phúc thấ m đâm̃ bao xương máu“của các thế hê ̣cha anh, đồ ng bào và chiế n si ̃ gắ n liề n vớ i tên tuổi Chủ ticḥ Hồ Chí Minh vi ̃ đai,̣ Đảng Công̣ Sản Viêṭ Nam quang vinh và Quân đôị Nhân dân Viêṭ Nam anh hùng và ghi nhớ bao công lao của thế hê ̣ “Vì nướ c quên thân, vì dân phuc̣ vu”.̣ Trong đó có Đaị tướ ng Võ Nguyên Giáp, “ngườ i hoc̣ trò xuấ t sắ c và gầ n gũi của Chủ ticḥ Hồ Chí Minh”, Đaị tướ ng - Tổng tư lênḥ đầ u tiên, ngườ i anh cả của Quân đội nhân dân Viêṭ Nam.” Từ trướ c đến nay, đa ̃ rấ t nhiều“công trình nghiên cứ u, các sách, tài liêụ viết về Đaị tướng Võ Nguyên Giáp, của các tác giả trong và ngoài nướ c.”Tuy nhiên, các nghiên cứ u chủ yếu viết về cuôc̣ đời sư ̣ nghiêp̣ của Đaị tướng cũng như phân tích những đóng góp của ông đố i với sư ̣ nghiêp̣ cách mang̣ Viêṭ Nam môṭ cách khá chung chung, chưa đi sâu nghiên cứ u vai trò của Đaị tướ ng trong từ ng giai đoaṇ licḥ sử cu ̣thể. Chính vì vâỵ khi nghiên cứ u về đề tài này, tác giả muố n đi sâu nghiên cứ u vai trò chỉ đaọ chiến lươc̣ “của Đaị tướ ng Võ Nguyên Giáp trong thờ i kì kháng chiến chố ng My ̃ cứ u nướ c”giai đoaṇ 1965 -1975, qua đó thấ y đươc̣ công lao và đóng góp to lớ n của ông đố i với dân tôc̣ Viêṭ Nam trong giai đoaṇ này. 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài Các“công trinh,̀ sách nghiên cứ u về Đaị tướng Võ Nguyên Giáp rấ t nhiều, của cả tác giả là người Viêṭ Nam và người nướ c ngoài, đăc̣ biêṭ có nhiều công trình có quy mô lớ i với số trang khá đồ sơ.̣ Tuy nhiên, ở các công trinh̀ này, các tác giả mớ i chỉ đề câp̣ đến cuôc̣ đờ i, sư ̣ nghiêp̣ cũng như những đóng góp chung của Đaị tướng đố i vớ i cách mang̣ ”Viêṭ Nam nói chung. 1
  8. Bên“canḥ đó, có nhiều công trình viết về vai trò lanh̃ đao,̣ chỉ đaọ của “Bô ̣ thố ng soái tố i cao” phía Viêṭ Nam Dân Chủ Công̣ Hòa và Măṭ trâṇ dân tôc̣ giải phóng miền Nam Viêṭ Nam trong cuôc̣ kháng chiến chố ng My ̃ mớ i chỉ dừ ng laị ở sư ̣ chỉ đaọ chung của Bô ̣ Chính Tri,̣ Trung Ương Đảng và”Măṭ trân,̣ chưa nghiên cứ u vai trò chỉ đaọ của từ ng cá nhân. Vì vây,̣ đề tài “Vai trò của Đaị tướ ng Vo ̃ Nguyên Giá p vớ i cuôc̣ khá ng chiến chố ng Mỹ giai đoaṇ 1965 - 1975” có tính mớ i mẻ, tiếp câṇ vai trò của Đaị tướ ng khi ông là Tổng chỉ huy Quân đội nhân dân Viêṭ Nam“trong những thờ i kì ác liêt,̣ gian khổ nhấ t của cuôc̣ chiến tranh, chố ng”laị môṭ đôị quân xâm lươc̣ hung baọ nhấ t thế giới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Muc̣ đích nghiên cứ u Nghiên“cứu nhằm phác họa hình ảnh, vai trò, đóng góp của Đaị tướng Võ Nguyên Giáp trong cuôc̣ kháng chiến chố ng My ̃ giai đoaṇ 1965 - 1975 dưới góc độ tiếp cận tổng quan, trên cơ sở đối sánh tư liệu. Từ đó thấy được rõ hơn những đóng góp của ông đối với lịch sử dân tộc.” 3.2. Nhiêṃ vu ̣ nghiên cứ u Đề tài đòi hỏi cần phải phân tích vai trò,“đóng góp của Đaị tướ ng Võ Nguyên Giáp trên hai phương diện là: Chỉ đạo, chỉ huy các chiến dịch trên hầu hết các chiến trường và việc phát triển nghệ thuật quân sự”Việt Nam - nghệ thuật chiến tranh nhân dân. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tương̣ nghiên cứ u Tác giả đi sâu nghiên cứ u về“Đaị tướ ng Võ Nguyên Giáp trong thờ i kì 1965 - 1975, sư ̣ chỉ huy của ông đố i vớ i Quân đội nhân dân Viêṭ Nam trong cuôc̣ chiến đấ u chố ng laị với chiến lươc̣ chiến tranh của My:̃ Chiến tranh cuc̣ bô ̣ (1965-1968), Viêṭ Nam hóa chiến tranh (1965-1973) và trong cuôc̣ Tổng tiến công và nổi dâỵ Xuân 1975 giải phóng miền Nam, thố ng nhấ t đấ t nước”.” 2
  9. 4.2. Phaṃ vi nghiên cứ u Tác giả“nghiên cứu vai trò, những đóng góp của Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1975.” 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tư liệu Tư liệu gốc: Cuốn sách Tổng tập hồi kí của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, xuất bản năm 2014, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, tác giả tiếp xúc và khai thác hồi kí Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng được in trong cuốn Tổng tập hồi kí. Ngoài ra, tác giả còn tiếp cận đến một số các văn kiện, chỉ thị của Đảng trong giai đoạn 1965 - 1975 được in trong bộ sách Văn kiện Đảng toàn tập và một số lời kêu gọi, phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh có trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập. Tư liệu tham khảo: Tác giả khai thác các công trình của một số nhà nghiên cứu Việt Nam và nước ngoài viết về“Đại tướng Võ Nguyên Giáp và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Nhân dân Việt Nam.” 5.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả dựa trên hai phương pháp cơ bản của sử học“nghiên cứu, sử học là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic”để xem xét, rút ra đặc điểm của đối tượng nghiên cứu. Trong quá trình khai thác đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp để xử lí tư liệu, phân tích, đánh giá vấn đề nghiên cứu. 6. Đóng góp của khóa luận Khóa luâṇ của tác giả góp phầ n vào viêc̣ tìm hiểu, nghiên cứ u“về cuôc̣ đời, sư ̣ nghiêp̣ của Đaị tướng Võ Nguyên Giáp,”phân tích và đánh giá môṭ cách khách quan về vai trò chỉ đaọ của Đaị tướ ng cũng như là của Bô ̣ Chính Tri ̣đố i với cuôc̣ kháng chiến chố ng My ̃ cứ u nướ c của nhân dân ta. 3
  10. Công trình cũng góp phầ n vào viêc̣ giáo duc̣ thế hê ̣ trẻ, đăc̣ biêṭ là hoc̣ sinh, sinh viên về lòng yêu nướ c và niềm tư ̣ hào dân tôc,̣ khắ c sâu và biết ơn các thế hê ̣ cách mang̣ đi trước, có thái đô ̣ chính tri ̣đúng đắ n, đóng góp tích cưc̣ cho quê hương đấ t nước. 7. Bố cục của khóa luận Ngoài“phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của khóa luận gồm 2 chương:” Chương 1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo chống Mỹ giai đoạn 1965 - 1973. Chương 2. Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo tổng tấn công và nổi dậy Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. 4
  11. Chương 1 ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP CHỈ ĐẠO CHỐNG MỸ GIAI ĐOẠN 1965 - 1973 1.1. Tiểu sử Đại“tướng Võ Nguyên Giáp, tên khai sinh là Võ Giáp, bí danh Văn, sinh ngày 25 - 8 - 1911 tại làng An Xã, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình”[11, tr. 7]. Thân sinh của Võ Nguyên Giáp là cụ Võ Quang Nghiêm và Bùi Thị Gái [11, tr. 7]. Năm 1923, Võ Nguyên Giáp vào kinh đô Huế theo học ở trường Quốc Học. Tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1925, khi tiếp nhận các bài báo chính luận của“lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc gửi từ nước ngoài về.”Năm 1929, Võ Nguyên Giáp gia nhập Tân Việt cách mạng đảng, tham gia vào quá trình cải tổ đảng Tân Việt thành Đảng Đông Dương cộng sản Liên đoàn. Năm 1930, ông bị bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế), sự can thiệp đúng lúc của quan cai trị Marty đã giúp ông thoát khỏi nhà tù, sau đó ra Hà Nội trở thành học sinh của Trường Albert Sarraut. Năm 1934, “Giáp ghi tên vào học trường Luật, vừa đi học đại học, sinh viên Giáp vừa xin làm giáo viên Trường tư thục Thăng Long để kiếm sống” [12, tr. 31]. Năm 1936 - 1939, Võ Nguyên Giáp“tham gia phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương, biên tập viên các báo của Đảng, chủ tịch Ủy ban báo chí Bắc Kì trong phong trào Đông Dương Đại hội. Năm 1940, ông được kết nạp vào Đảng. Tháng 5 - 1941, ông phụ trách việc xây dựng cơ sở cách mạng ở Cao Bằng, tham gia chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở Cao - Bắc - Lạng, phụ trách Ban thanh niên xung phong Nam tiến, dùng hoạt động tuyên truyền vũ trang mở đường liên lạc giữa miền núi và đồng bằng Bắc Bộ. Tháng 12 - 1944, Võ Nguyên Giáp được đồng chí Nguyễn Ái Quốc giao thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay). Ngày 4 - 8 - 1945, ông giữ chức Ủy viên Ủy ban quân sự cách mạng Bắc 5
  12. Kì, Tư lệnh các lực lượng vũ trang thống nhất mang tên Việt Nam giải phóng quân, tham gia Ủy ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng Việt Bắc.” Võ Nguyên Giáp là Ủy viên thường vụ Ban chấp hành Trung ương Đảng từ tháng 8 - 1945, tham gia Ủy ban dân tộc giải phóng, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc,“Bộ trưởng Bộ nội vụ trong Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Quân sự Ủy viên hội trong Chính phủ liên hiệp. Được phong quân hàm Đại tướng năm 1948. Ủy viên Bộ chính trị các khóa II, III, IV; Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam (1946 - 1977), Phó Thủ tướng Chính phủ (1955 - 1992), Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII.” Đại“tướng Võ Nguyên Giáp là người học trò “xuất sắc và gần gũi” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là nhà chiến lược quân sự lỗi lạc, người đã cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ chính trị lãnh đạo quân và dân trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Tên tuổi ông gắn liền với những chiến dịch lịch sử, tiêu biểu là: Biên giới Thu - Đông (1950), Điện Biên Phủ (1954), Tổng tiến công và nổi dậy (1968), “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” (1972), Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.” Đại“tướng Võ Nguyên Giáp từ trần ngày 4 - 10 - 2013”tại Hà Nội, hưởng thọ 103 tuổi. Với những“đóng góp to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, ông đã được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Sao vàng, hai Huân chương Hồ Chí Minh, huy hiệu 70 năm tuổi Đảng cùng nhiều huân huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.” 1.2. Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo toàn quân chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ (1965 - 1968) 1.2.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng Thứ nhất, bối cảnh lịch sử. Sau khi chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị phá sản. Đây là bước thất bại đầu tiên của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam,“làm cho chính quyền và 6
  13. quân đội Sài Gòn bị”nguy khốn. Đế quốc Mỹ không chịu nhận thất bại đã đưa quân viễn chinh Mỹ và quân đồng minh vào miền Nam Việt Nam, thực hiện chiến lược chiến tranh mới mang tên “Chiến tranh cục bộ”,“đồng thời, leo thang đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân, nhằm cứu nguy cho chính quyền Sài Gòn và tiêu diệt lực lượng cách mạng ở miền Nam Việt Nam.” Cho đến năm 1965, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” hoàn toàn bị phá sản, nước Mỹ đứng trước khó khăn nghiêm trọng ở cả“Việt Nam và ngay trên nước Mỹ. Giới cầm quyền Mỹ buộc phải thực hiện một chiến lược chiến tranh mới, một bước phiêu lưu nguy hiểm và táo bạo hơn, đó là một quyết định không”phải đơn giản. Sau này, chính Lyndon B. Johnson cũng phải thừa nhận “là một quyết định quyết liệt nhưng cũng day dứt và đau đớn nhất của một đời Tổng thống”. Ngày 01 - 4 - 1965, Lyndon B. Johnson và Chính phủ Mỹ đưa“một bộ phận lớn quân viễn chinh Mỹ vào miền Nam Việt Nam, tăng cường không quân và hải quân để đánh phá miền Bắc một cách mạnh mẽ và liên tục làm cho “cột xương sống của Hà Nội mềm đi” để phải chấp nhận những điều khoản do Mỹ áp đặt.” Mỹ tính toán, Việt Nam Cộng hòa vẫn còn tồn tại và kiểm soát nhiều khu vực đông dân, đồng thời Mỹ lợi dụng sự bất hòa giữa“các nước Xã hội chủ nghĩa (Liên Xô và Trung Quốc) để tiến hành cuộc “Chiến tranh cục bộ” ở Việt Nam.” Mỹ đề ra kế hoạch dự định ba giai đoạn để giành thắng lợi trong hai năm rưỡi: Giai đoạn 1: “Chặn chiều hướng thua”, quân viễn chinh Mỹ được đảm bảo triển khai lực lượng. Giai đoạn 2: Tiêu diệt quân chủ lực của cách mạng miền Nam, kiểm soát vùng nông thôn bằng việc mở các cuộc phản công chiến lược. Giai đoạn 3: Hoàn thành việc rút quân đội Mỹ vào cuối năm 1967, bằng việc“tiêu diệt quân chủ lực giải phóng, tiếp tục bình định miền Nam.” 7
  14. Lính“Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam năm 1965 lên tới 180000 người và 20000 lính các nước chư hầu. Bên cạnh đó còn là 70000 lính hải quân và không quân trên các căn cứ ở Thái Lan, Philippines và Hạm đội 7 sẵn sàng tham chiến ở miền Nam”Việt Nam [5, tr. 201]. Ngày 08 - 3 - 1965,“Mỹ cho hai tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 9 từ Ô-ki-na-oa vào Đà Nẵng, mở đầu cho việc trực tiếp đưa quân vào tham chiến ở miền Nam Việt Nam. Tháng 7 - 1965, Lyndon B. Johnson quyết định đưa 44 tiểu đoàn Mỹ vào miền Nam Việt Nam và chấp nhận chiến lược “tìm diệt” của tướng William Westmoreland, cuộc chiến Việt Nam bước vào giai đoạn mới”- “Chiến tranh cục bộ”. Thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Mỹ âm mưu: Nhanh“chóng tạo ra ưu thế về binh lực và hỏa lực để có thể áp đảo lực lượng chủ lực của ta bằng chiến lược quân sự mới: “tìm diệt”, có thể giành lấy thế chủ động trên chiến trường, đẩy lực lượng của ta về phòng ngự, buộc ta phải phân tán đánh nhỏ hoặc rút lui về biên giới.” Mở“rộng và củng cố hậu phương của Mỹ - Việt Nam Cộng hòa, kết hợp với các hoạt động chính trị - xã hội, thực hiện”chiến tranh tâm lí, giành lại dân, đưa Nhân dân miền Nam vào ách kìm kẹp. Thứ hai, sự chỉ đạo của Đảng. Nước“Mỹ sen đầm không dễ dàng chấp nhận thất bại, liền thay đổi chiến lược, trực tiếp đưa quân viễn chinh và quân chư hầu tham chiến ở miền Nam, dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc dữ dội. Đây là bước leo thang rất nghiêm trọng, đặt dân tộc Việt Nam trong một tình thế hiểm nghèo. Bằng kinh nghiệm và truyền thống yêu nước được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo đầy thao lược của Đảng và Bác Hồ đã bình tĩnh chấp nhận cuộc đụng đầu lịch sử một cách chủ động, kiên quyết”[10, tr. 5]. 8
  15. Đảng đã đề ra Nghị quyết Trung ương 11, đưa ra“phương hướng, nhiệm vụ chiến lược để lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, tích cực khẩn trương chuẩn bị, sẵn sàng chiến đấu chống chiến tranh mở rộng. Do đó, khi quân Mỹ vào”miền Nam, Đảng đã đề ra khẩu hiệu: “Xây dựng, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đảm bảo cuộc thắng lợi cho cuộc kháng chiến”. Với tầm nhìn chiến lược,“Đảng lao động Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân”tích: “Nước Mỹ giàu, quân Mỹ mạnh, trang bị hiện đại nhưng họ vào miền Nam trong hoàn cảnh quân đội Sài Gòn đã thua trận, chính quyền tay sai rệu rã, Chiến tranh đặc biệt đã thất bại, chúng để mất thế chủ động trên chiến trường; trong khi đó, lực lượng cách mạng đang nắm quyền chủ động, xây dựng chiến tranh nhân dân vững chắc” [10, tr. 37]. Tháng 7 - 1965, Nghị quyết của Bộ Chính trị được đưa ra“chuyển hướng về kinh tế và quốc phòng, phù hợp với”yêu cầu hoàn cảnh mới. Ngày 20 - 7 - 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi, Người khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm, hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do” [9, tr.131]. Lúc này, toàn bộ hoạt động và chỉ đạo của Đảng đã chuyển hướng với yêu cầu của thời chiến. Trên miền Bắc - hậu phương“xã hội chủ nghĩa, hàng triệu thanh niên tình nguyện”lên đường chiến đấu, nhiều người trong số đó đi thanh niên xung phong, hàng triệu cựu binh tái ngũ. Từ các công trường, nông trường, nhà máy, xí nghiệp“không ngừng nâng cao năng suất lao động”vì miền Nam ruột thịt. Ở miền Nam, phát huy tinh thần: “Thành đồng Tổ quốc”, “thà chết chứ không chịu làm nô lệ, sẽ chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc và giành độc lập hoàn toàn chúng ta kiên quyết đánh bại chúng, đánh cho đến khi không còn một tên xâm lược nào trên dải đất thân yêu của chúng ta”. 9
  16. Nam Bắc chung một ý chí: quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. 1.2.2. Chỉ đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và thắng lợi đạt được Đứng trước cuộc xâm lăng quy mô lớn, với vũ khí vượt trội và ưu thế về hỏa lực thuộc về phía đối phương, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đặt câu hỏi: “Làm sao để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Không như cuộc chiến tranh Việt - Pháp, sự mâu thuẫn chỉ thể hiện giữa mục tiêu quá lớn và phương tiện hạn chế mà bây giờ là mâu thuẫn với mục tiêu hạn chế [12, tr. 130]. Võ Nguyên Giáp nghiêng về chiến đấu trực tiếp, theo ông tinh thần chiến đấu dựa vào quyết tâm tự nhiên, hành động chiến đấu do tinh thần con người quyết định nhưng cũng phải dựa trên cải tiến về kỹ thuật. Trả lời phỏng vấn nhà báo Pháp năm 1964, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: “Sức mạnh của quân đội chúng tôi nằm ở tinh thần, nhuệ khí và sự ủng hộ vô hạn của Nhân dân, ngoài ra còn có các yếu tố kỹ thuật nữa”. Đối với Tướng Giáp, hướng tiến công, điểm chạm đích và khả năng tăng cường lực lượng rất quan trọng. Ông chú“trọng đến việc hiện đại hóa quân đội, từng bước xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam chính quy và tinh nhuệ,”đủ khả năng đánh thắng kẻ thù xâm lược. Lãnh thổ không rộng, các nguồn lực hạn chế, những yếu tố đó đã quyết định đến đường lối chỉ đạo quân sự của Võ Nguyên Giáp đòi hỏi phát huy khả năng của toàn dân trong mọi lĩnh vực, trên mọi miền đất và phương diện“chính trị, kinh tế, ngoại giao và quân sự”[12, tr. 130]. Võ“Nguyên Giáp đã vận dụng khéo léo Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh Nhân dân, một cuộc chiến tranh toàn dân toàn diện, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy,”tiến tới phát động tổng khởi nghĩa khi có điều kiện. Với tư cách“Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng và là Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam,”Võ Nguyên Giáp cũng rất chú 10
  17. trọng đến công tác hậu cần. Theo ông, hậu phương phải trở thành một mặt trận và được ưu tiên số một. Ông chỉ đạo xây dựng hậu phương ở ba mức: Một là, hậu phương miền núi ở miền Nam (ở Tây Ninh, Chiến khu D, Chiến khu Dương Minh Châu, Tây Nguyên, Đặc khu Quảng Đà). Hai là, hậu phương Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc (đây là hậu phương quan trọng nhất). Ba là, hậu phương từ các nước trong“phe Xã hội chủ nghĩa (chủ yếu là từ Liên Xô và Trung Quốc).” Thông qua hậu phương, nhân tố kỹ thuật được đưa vào và “Tướng Giáp không quên:“Giành thắng lợi trong một thời gian tương đối ngắn bằng cách”tận dụng những điều kiện thuận lợi [12, tr. 130]. Đại“tướng Võ Nguyên Giáp rất chú trọng đến yếu tố con người, ông đòi hỏi phải xây dựng được quân đội hùng mạnh, chính quy, từng bước hiện đại.”Ông nhấn mạnh: “nếu con người quyết định thắng lợi thì vũ khí và trang bị là cơ sở vật chất, là sức mạnh chiến đấu của Quân đội và là nhân tố cơ bản của họ” [12, tr. 130]. Võ Nguyên Giáp và các cộng sự của ông tiếp tục sử dụng một phương châm tác chiến truyền thống “lấy ít địch nhiều”, đồng thời phát triển lên tầm cao mới. Võ“Nguyên Giáp quan niệm chiến tranh nhân dân là một cuộc chiến”tranh lâu dài, khi tiến hành tuyệt đối không được nóng vội và cần có sự tham gia của mọi tầng lớp. Năm 1967, cùng với tập thể“Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng Bí thư thứ nhất Lê Duẩn chỉ đạo”Bộ Tổng tham mưu lên phương án, xây dựng phương án tác chiến cho năm 1968: “đánh thẳng vào sào huyệt địch ở các đô thị, thành phố, thị xã nhằm đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của quân đội Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước”. 11
  18. Dưới“sự chỉ đạo của Bộ Chính trị - Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, sự chỉ đạo, chỉ huy về mặt quân sự của Quân ủy Trung ương do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Bí thư Quân ủy, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, ở cả hai miền Nam - Bắc đã dành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa vẻ vang trong cuộc chiến đấu chống chiến lược Chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chiến tranh phá hoại, làm nghĩa vụ hậu phương và chi viện cho tiền tuyến miền Nam.” Thắng lợi thứ nhất:“Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện chiến tranh.” Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, những yêu cầu đặt ra trước đây căn bản vẫn không thay đổi. Giờ đây, yêu cầu củng cố và phát triển nền nông nghiệp hợp tác hóa cần phải xúc tiến với tinh thần khẩn trương theo phương hướng tập trung đẩy mạnh hai ngành sản xuất chính đó là trồng trọt, chăn nuôi, đặc biệt là ở vùng trung du và miền núi, nhằm giải quyết vấn đề“lương thực và thực phẩm để ổn định đời sống Nhân dân, góp phần giải quyết vấn đề hậu cần tại chỗ cho cuộc chiến đấu chống lại hải quân và không quân của Mỹ. Bên cạnh đó, việc áp dụng các biện pháp khoa học và kỹ thuật mới nhằm”nâng cao năng suất trên toàn bộ diện tích gieo trồng, việc phát động mạnh mẽ phong trào làm thủy lợi, phong trào làm phân xanh, phong trào cải tiến nông cụ, công cụ vận chuyển, Cũng như việc phát động các hình thức chăn nuôi tập thể quy mô“phù hợp với điều kiện, khả năng”của từng hợp tác xã đã trở nên phổ biến ở nhiều vùng nông thôn miền Bắc. Bên cạnh sản xuất nông nghiệp, sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp cũng được chuyển hướng“cho phù hợp với điều kiện thời chiến:”chuyển hướng về chủ trương, quy mô, hướng xây dựng và biện pháp tổ chức sản xuất cụ thể. Các“cơ sở sản xuất công nghiệp, nhất”là những ngành 12
  19. then chốt, được khẩn trương sơ tán, phân tán, che chắn hoặc tăng cường lực lượng phòng không bảo vệ.“Đây là một công việc cực kỳ khó khăn, phức tạp”và gian khổ, đòi hỏi ở giai cấp công nhân trí thông minh, sáng tạo, tài tổ chức thực hiện và sự bền bỉ, kiên cường, Từ những ngày đầu chiến tranh phá hoại, miền Bắc đã có kế hoạch cụ thể về các hoạt động của các cơ sở sản xuất công nghiệp, xác định rõ những cơ sở nào phải phân tán, sơ tán, hoặc trụ lại tiếp tục sản xuất. Bởi thế, khi chiến tranh phá hoại lan ra cả nước, chỉ trong một thời gian ngắn, hàng trăng xí nghiệp, kho tàng của trung ương và địa phương với hàng trục vạn tấn máy móc, thiết bị, hàng triệu tấn hàng hóa, nguyên liệu được di chuyển đến những địa điểm mới, đảm bảo an toàn. Hàng chục vạn cán bộ công nhân được sơ tán. Bên cạnh việc giữ vững sản xuất có trọng điểm, duy trì và phát huy năng lực sản xuất của công nghiệp trung ương, miền Bắc đặc biệt“chú trọng xây dựng và phát triển công nghiệp địa phương,”xây dựng các xí nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ. Một mạng lưới công nghiệp địa phương với hàng nghìn xí nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ đã được hình thành trong khói lửa chiến tranh Nhìn chung, kinh tế miền Bắc những năm chống chiến tranh phá hoại phát triển theo từng vùng, tạo điều kiện thuận lợi để từng địa phương tự bảo đảm được một phần quan trọng những nhu cầu thiết yếu của Nhân dân. Ngoài ra, việc chú trọng phát triển kinh tế địa phương, thúc đẩy khu vực này phát triển nhanh hơn tốc độ bình thường làm cho từng vùng phát huy được tiềm năng sẵn có của mình, đáp ứng hậu cần tại chỗ: vừa đảm bảo“sản xuất, vừa đảm bảo chiến đấu và phục vụ chiến đấu theo đường lối chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân của Đảng.” Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh“là nguồn động viên to lớn, thui thúc giai cấp nông dân tập thể miền Bắc vượt lên 13
  20. khó khăn tăng cường đoàn kết, ra sức sản xuất, củng cố hợp tác xã và đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu nhiệm vụ được giao. Mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh, quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa ở nông thôn miền Bắc được củng cố và tăng cường; các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có bước phát triển mới về cả quy mô, trình độ quản lí, Cùng với phong trào thi đua Hai giỏi, Năm tấn trong nông nghiệp, các phong trào thanh niên Ba sẵn sàng, Phụ nữ Ba đảm đang, trí thức có phong trào Ba quyết tâm tạo ra một luồng sinh khí mới thổi vào nông thôn miền Bắc, góp phần khắc phục mọi khó khăn, động viên nông dân vừa sản xuất vừa chiến đấu và phục vụ chiến đấu, làm tròn nhiệm vụ hậu phương. Đến năm 1967, số hợp xã ở miền Bắc đã tăng lên 2.628 hợp tác xã so với năm 1965. Tỉnh Thái Bình, huyện Thanh Trì (Hà Nội), huyện Đan Phượng (Hà Tây), là những đơn vị đầu tiên đạt 5 tấn thóc trên một hécta gieo trồng trên toàn bộ diện tích cấy lúc của tỉnh, huyện. Một số tỉnh khác đạt khoảng bốn tấn thóc trên một hécta. Những năm chiến tranh, các phong trào thủy lợi, đưa các giống cây trồng mới vào gieo trồng đã được nông dân miền Bắc hưởng ứng mạnh mẽ, hàng nghìn cán bộ, công nhân viên kỹ thuật được tăng cường để phục vụ mặt trận nông nghiệp. Các năm 1965, 1966, 1967, nông nghiệp của miền Bắc vẫn đạt kết quả cao so với trước chiến tranh. Sản lượng lương thực và chăn nuôi hàng năm cao hơn đạt xấp xỉ năm 1964. Phong trào (trồng cây, trồng rừng) từ năm 1965 đến năm 1966, tăng gấp 2,5 lần so với bốn năm trước đó.” Nền sản xuất công nghiệp miền Bắc trong giai đoạn này vẫn“được giữ vững, một loạt các cơ sở sản xuất công nghiệp lớn kịp thời sơ tán và nhanh chóng đi vào tái sản xuất, đảm bảo nhu cầu cần thiết cho nền kinh tế quốc dân, của đời sống Nhân dân và nhu cầu về mặt quốc phòng. Do chủ trương phát triển công nghiệp địa phương trong điều kiện miền Bắc có chiến tranh phá hoại nên thời kì này sản lượng công nghiệp hàng càng tăng, công nghiệp 14
  21. địa phương nỗ lực phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, vừa đáp ứng các nhu cầu của đời sống Nhân dân và của quốc phòng. Mỗi tỉnh trở thành một nên đơn vị kinh tế tương đối hoàn chỉnh để đảm bảo việc tự cung tự cấp đồng thời đảm bảo hậu cần cho cuộc chiến đấu. Nhiều tỉnh, công nghiệp địa phương đã vươn lên sản xuất các mặt hàng dân dụng như máy móc, công cụ, Nhìn chung, trong chiến tranh toàn ngành công nghiệp đã khắc phục muôn ngàn khó khăn, gian khổ, duy trì và đẩy mạnh sản xuất. Miền Bắc năm 1965 có 1.132 xí nghiệp. Đến năm 1968, xí nghiệp công nghiệp phát triển lên 1.352 xí nghiệp. Cùng với nền nông nghiệp hợp tác hóa, nền công nghiệp cũng đã góp phần quan trọng đảm bảo đời sống Nhân dân, phục vụ cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ.” Sự nghiệp giáo dục“tiếp tục được duy trì và”đẩy mạnh, hàng vạn lớp học với hàng chục vạn thầy cô giáo và học sinh các cấp học, cũng như nhiều trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và đại học được sơ tán khỏi thành phố, thị xã, thị trấn, tới vùng nông thông đồng bằng, miền núi để tiếp tục học tập. Tại những nơi sơ tán, chính quyền, toàn thể và nhân dân địa phương đã tận tình giúp đỡ, cùng với sự nỗ lực của thầy và trò, công việc dạy và học được ổn định. Chương trình giảng dạy và học tập cũng được cải tiến để phù hợp với yêu cầu mới. Công tác giáo dục chính trị, bồi đắp tình yêu quê hương đất nước, chí căm thù giặc, tin tưởng vào chế độ mới và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, đươc đẩy mạnh trong các trường học và cấp học nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ có đủ bản lĩnh và tri thức để bước vào cuộc sống lao động, chiến đấu đầy hi sinh, gian khổ để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Dù điều kiện chiến tranh gian khổ, trường lớp và điều kiện học tập thiếu thốn trăm bề nhưng vượt lên trên thử thách, khó khăn, khắp nơi trên miền Bắc, phong trào thi đua Dạy tốt, học tốt vẫn dấy lên mạnh mẽ. Nếu trong năm học 1964 - 1965, số học sinh phổ thông toàn miền Bắc là 3,5 triệu 15
  22. người thì trong những năm học tiếp theo con số này không ngừng tăng lên. Năm học 1967 - 1968, toàn miền Bắc có tới 4,7 triệu học sinh. Tất cả các huyện đều có trường phổ thông cấp ba, các xã đều có trường phổ thông cấp một và trường cấp hai. Bên cạnh, giáo dục phổ thông, công tác bổ túc văn hóa trong những năm chiến tranh tiếp tục được duy trì nhằm không ngừng“nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên, ”Từ năm 1966, đã hình thành hệ thống trường sư phạm chuyên đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, giảng dạy bổ túc văn hóa. Năm học 1967 - 1968, trong số hơn một triệu học viên bổ túc văn hóa, có 44 vạn người cấp hai và 5 vạn cấp ba. Vào giai đoạn này, đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật được củng cố và tăng cường, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Năm 1967, toàn miền Bắc có khoảng 29.800 sinh viên đại học; đến năm 1968, số sinh viên là 58.200. Nhà nước còn chọn một số sinh viên ra nước ngoài, học tập ở các nước xã hội chủ nghĩa, hàng vạn cán bộ tốt nghiệp đại học và trung học chuyên nghiệp lần lượt ra trường, đi tới mọi miền đất nước phục vụ đắc lực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ngành y tế cũng đạt được những thành tựu đáng kể. Mạng lưới y tế cơ sở phát triển thành một hệ thống sâu rộng. Hầu hết các bản làng, thôn xã và huyện đều có tổ y tế, trạm xá và bệnh viện. Từ 5.289 trạm xá, 475 bệnh viện, 7 cơ sở điều dưỡng năm 1964, đến năm 1968, toàn miền Bắc có 6.043 trạm xá, 981 bệnh viện và 50 cơ sở điều dưỡng. Tương ứng với sự gia tăng về số lượng của các cơ sở y tế trên đây, đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức ngành y cũng có bước phát triển mới. Năm 1965, toàn ngành có 67.200 người, đến năm 1967 chỉ riêng đội ngũ y, bác sĩ, y tá và nữ hộ sinh cũng đã trên 60.000 người. Ngoài ra, toàn ngành y tế giai đoạn này còn có 3.497 dược sĩ công tác ở các cơ sở y tế. Những người “chiến sĩ áo trắng” trên mặt trận thầm lặng với 16
  23. những chiến công của họ đã góp phần không nhỏ vào sự ổn định, vững vàng của hậu phương miền Bắc trong những năm tháng chống lại chiến tranh bằng không quân và hải quân của Mỹ. 1.2.3. Đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ Cùng với việc củng cố, tăng cường“xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện chiến tranh phá hoại, cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc cũng đã diễn ra quyết liệt và đạt được thắng lợi quan trọng, có ý nghĩa.” Các“phong trào thi đua trên miền Bắc yêu nước diễn ra sôi nổi: “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, Trong năm 1965, đã có 290.000 người tình nguyện đi bộ đội. Cuối năm 1965, khối chủ lực của miền Bắc”đã lên tới 400.000 người. Những tháng đầu năm 1965,“không quân Mỹ đánh phá vào hệ thống rađa cảnh giới của bộ đội Việt Nam. Cuối tháng 3 - 1965, trạm rađa Mũi Lay (Vĩnh Linh), trạm 530, 550 (Đèo Ngang - Quảng Bình) bị máy bay Mỹ đánh phá. Ngày 26 - 3, 70 lần máy bay Mỹ ném bom đảo Bạch Long Vĩ - đảo nhỏ có vị trí chiến lược ở Vịnh Bắc Bộ. Quân dân trên đảo đã đánh trả, bắn cháy bốn máy bay. Ngày 22 - 5 - 1965, Mỹ oanh tạc bờ biển thuộc xã Hải Thịnh (Hải Hậu - Nam Định) đánh chìm tàu cá Việt - Xô. Ở các đảo thuộc khu 4 như Hòn Mê, Hòn Mắt, đặc biệt là Cồn Cỏ (Quảng Trị), cuộc chiến đấu chống lại không quân và hải quân Mỹ ngày càng trở nên quyết liệt. Trong những thời điểm căng thẳng nhất, các chiến sĩ trên đảo nguyện”“thà hi sinh, quyết không để đảo lọt vào tay quân thù” [14, tr. 385]. Bị“giáng trả quyết liệt, đặc biệt sau thất bại nặng trong hai ngày mùng 3 và mùng 4 tháng 4 năm 1965 khi đánh phá ồ ạt cầu Hàm Rồng, Đò Lèn, những trạng điểm giao thông Bắc - Nam trên địa bàn Quân khu 4, từ giữa 17
  24. tháng 4 đến tháng 5 - 1965, địch chuyển sang hoạt động phân tán, khống chế các mục tiêu giao thông trên địa bàn Quân khu 4. Tháng 6 - 1965, phạm vi đánh phá của máy bay địch vượt qua vĩ tuyến 20 và lan rộng ra khắp nơi trên miền Bắc với cường độ ác liệt”hơn trước nhiều lần. Mục tiêu ném bom của Mỹ là các khu quân sự, đường giao thông, nhà máy, khu dân cư, Kiên quyết đánh trả cuộc chiến trang phá hoại ngày càng leo thang của Mĩ, lực lượng của ta không ngừng lớn mạnh,“từng bước phát triển về quy mô, tổ chức.” Ngày 24 - 7 - 1965,“lần đầu tiên ra quân hiệp đồng binh chủng với một số trung đoàn cao xạ, một máy bay F4 đã bị bắn rơi ở độ cao 7.000 mét trên bầu trời tỉnh Hà Tây (cũ), mở ra khả năng mới, cho phép bộ đội phòng không”tổ chức đánh định có hiệu quả cao. Phương án đánh địch đã được các cụm tiền phương xây dựng và nhanh chóng hoàn chỉnh trên các hướng đã được phân công.“Từ đầu tháng 8 - 1965, ở cụm tiền phương 1 các đơn vị tổ chức chiến đấu. Tháng 8 - 1965, hướng cụm tiền phương 2 cao xạ và tên lửa của ta đã đánh trả máy bay Mỹ. Cuối tháng 8 - 1965, Mỹ đánh phá đến giao thông lối Hà Nội - Lạng Sơn thuộc vùng Đông Bắc. Trên quốc lộ 5 Hà Nội - Hải Phòng, địch đánh phá dữ dội khu vực cầu Lai Vu, Phú Lương, Sáng ngày 20 - 9 - 1965, hàng chục lần máy bay A4 ném bom tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn đoạn qua sông Hóa. Biên Đội MIG 17 của Đoàn không quân 921 phi công Phạm Ngọc Lan dẫn đầu đã bắn hạ một máy bay F4; tiếp đó, Tiểu đoàn tên lửa 83 thuộc Trung đoàn tên lửa 238 phóng hai quả đạn, bắn hạ một máy bay A4. Số máy bay địch còn lại hạ thấp độ cao bị hỏa lực của ta ở tầm trung, tầm”thấp bắn hạ, thêm một chiếc A4 bị bắn rơi. Đến cuối năm 1965,“máy bay Mỹ đánh phá tập trung một số khu vực ở Đông Bắc, Hà Nội nằm trên quốc lộ 1, quốc lộ 5 và tỉnh Quảng Ninh. Ở khu vực cầu Lai Vu, Uông Bí, Hàm Rồng, Đồng Giao, đã diễn ra những trận 18
  25. chiến đấu quyết liệt. Cụm Tiền phương 2, 3 đã phối hợp chặt chẽ,”tiêu diệt nhiều máy bay địch. Trong năm 1965, có 834 máy bay loại Thần Sấm, Carma của Mỹ bị ta bắn hạ, những tháng có nhiều máy bay bị hạ nhất là tháng 4, 9, 10 (tháng 4 có 163 chiếc, tháng 9 có 111 chiếc, tháng 10 có 105 chiếc). Bước sang năm 1966 - năm thứ hai Mỹ thực hiện“chiến tranh cục bộ, nhằm hỗ trợ cho cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất (1965 - 1966) trên chiến trường miền Nam, không quân và hải quân Mỹ tăng cường đánh phá hệ thống giao thông của miền Bắc. Lần đầu tiên B52 - máy bay ném bom chiến lược của Mỹ được sử dụng trên bầu trời miền Bắc. Các tốp B52 đã ném bom xuống đèo Mụ Giạ (tỉnh Quảng Bình) và trục đường giao thông số 12 nhằm cắt đứt tuyến đường vận chuyển chiến lược 559 (Đường mòn Hồ Chí Minh). Đồng thời Mỹ cũng tăng cường đánh phá các trận địa tên lửa, rađa của bộ đội ta và các nhà máy, xí nghiệp của miền Bắc như: Nhà máy”điện Uông Bí, Khu gang thép Thái Nguyên, Nghiêm trọng hơn, vào mùa hè năm 1966, máy bay Mỹ lần đầu đánh phá địa phận Hà Nội (kho xăng Đức Giang - Đông Anh).“Những tháng cuối năm đó, vùng nông thôn ven Hà Nội trực tiếp bị uy hiếp.” Cuộc“chiến tranh phá hoại diễn ra ngày càng ác liệt hơn. Không chỉ dừng lại ở việc đánh phá các trục đường giao thông, các”nhà máy, khu quân sự, đế quốc Mỹ còn ném bom vào cả khu dân cư, trường học, bệnh viện, công trình văn hóa - tôn giáo tín ngưỡng, gây ra tội ác chồng chất, cướp đi sinh mạng của hàng chục nghìn người dân vô tội. Những ngày chiến tranh“diễn ra vô cùng ác liệt và gian khổ, để động viên quân dân hai miền Nam - Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lời kêu gọi ngày 17 - 7 - 1966 khẳng định:”“Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp 19
  26. có thể bị tàn phá , song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do” [9, tr. 131]. Ba tháng đầu năm 1966,“quân dân ta đã lập được nhiều thành tích, chiến công, nhiều máy bay và tàu chiến của Mỹ đã bị tiêu diệt.”Tính đến ngày 30 - 4 - 1966, đã có 1.006 máy bay bị bắn hạ và nhiều giặc lái bị bắt. Trong tháng 7 và tháng“8 - 1966, đã có 138 máy bay Mỹ bị bắn hạ. Tháng 9 - 1966, địch đánh phá dữ dội Quốc lộ 1 đoạn Ninh Bình - Thanh Hóa, ta kiên cường đánh trả, bắn rơi 24 máy bay. Tính đến cuối năm 1966 đã có thêm 773 chiếc máy bay bị bắn hạ trên bầu trời miền Bắc.” Đến“năm 1967, sáu mục tiêu hệ thống của miền Bắc: Điện lực, công nghiệp, giao thông vận tải, sân bay, kho dự trữ nhiên liệu, trận địa phòng không bị không quân Mỹ đánh phá tập trung quyết liệt. Tính đến cuối năm 1967, số lượng bom Mỹ ném xuống miền Bắc Việt Nam là 1.630.000 tấn, nhiều hơn số bom mà Mỹ ném xuống châu Âu trong chiến tranh thế giới thứ hai, gấp đôi số bom ném xuống Triều Tiên”[14, tr. 401]. Tháng 2 - 1967, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo“các lực lượng, đơn vị phòng không và phòng thủ bờ biển của miền Bắc: Phải kiên quyết đánh thắng bước leo thang chiến tranh phá hoại bằng hải quân, không quân của đế quốc Mỹ, đồng thời tăng cường công tác giao thông, công tác hậu cần quân đội.” Trong năm 1967, đã có 2.680 máy bay hiện đại cùng nhiều tàu chiến Mỹ bị loại khỏi vòng chiến đấu. Tạo nên chiến công“vẻ vang, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, chi viện cho tiền tuyến miền Nam.” 1.2.4. Chi viện cho tiền tuyến miền Nam Trong thời kì“kháng chiến chống Mỹ cứu nước, miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam thông qua tuyến đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam (trên bộ”và trên biển). 20
  27. Đường“mòn Hồ Chí Minh chạy dọc theo dãy núi Trường Sơn, qua cả đất Lào và Campuchia (còn gọi là đường Trường Sơn) được mở vào năm 1959. Đại tướng Võ Nguyên Giáp với tầm nhìn chiến lược đã đề xuất với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị mở con đường chiến lược để chi viện cho chiến trường miền Nam mang tên Bác Hồ. Thông qua đường mòn Hồ Chí Minh trong bốn năm (1965 - 1968), miền Bắc đã đưa vào miền Nam hơn 30 vạn cán bộ, bộ đội tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, xây dựng kinh tế, văn hóa tại các vùng giải phóng. Cùng với đó là hàng chục vạn tấn vật chất, vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng, Thời kì này, số người và của đưa vào chiến trường tăng gấp 10 lần so với thời kì trước”[15, tr.221]. Việc“miền Bắc chi viện cho miền Nam có ý nghĩa và tác động to lớn, góp phần quyết định vào thắng lợi”của quân và dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước giai đoạn 1965 - 1968. 1.2.5. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy 1968 - Chiến tranh cục bộ bị phá sản Càng lao sâu vào“cuộc chiến tranh ở Việt Nam, Mỹ càng bị sa lầy, thương vong ngày càng nhiều, thất bại ngày càng lớn. Tuy nhiên, Mỹ vẫn chưa từ bỏ âm mưu xâm lược, quyết tâm giành chiến thắng quân sự, buộc phía Bắc Việt và “Việt Cộng” phải chấp nhận thất bại. Sau hai năm đối mặt trực tiếp với quân đội viễn chinh Mỹ, lực lượng cách mạng miền Nam không những không bị tiêu diệt mà còn phát triển hơn, đã đánh thắng địch từng bước và nắm quyền chủ động trên chiến trường. Quân địch chuyển từ thế tiến công năm 1965 phải lùi vào phòng ngự chiến lược bị động năm 1967. Lúc này, phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam”đang dâng cao, mâu thuẫn trong nội bộ chính trị của nước Mỹ diễn ra gay gắt, làm cho Lyndon B. Johnson càng bối rối “tỏ ra mệt mỏi, đầy lo âu và tư thế bắt đầu chao đảo” [14, tr. 348]. 21
  28. Tình hình trên tạo ra thời cơ“thuận lợi lớn cho cách mạng miền Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam đã nắm lấy cơ hội thuận lợi, quyết định “chơi một nước cờ cao tay” bằng quyết định đưa cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam sang giai đoạn mới, quyết tâm dành thắng lợi quyết định: Tổng công kích - tổng khởi nghĩa, đánh thẳng vào sào huyệt địch ở các đô thị trên toàn miền Nam, trọng điểm là Sài Gòn - Huế - Đà Nẵng, đạp tan ý chí xâm lược của Mỹ. Đây là quyết định cực kì táo bạo và sáng suốt của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.” Cụ“thể hóa quyết tâm chiến lược của Đảng, đúng vào thời khắc giao thừa Tết Mậu Thân, quân giải phóng miền Nam bất ngờ, đồng loạt tổng tiến công, đánh vào các cơ quan đầu não của Mỹ - Ngụy Sài Gòn. Sự kiện này đã làm rung chuyển nước Mỹ, buộc những người đứng đầu Nhà Trắng - Lầu Năm Góc phải sửng sốt và nhìn thẳng thất bại, làm làn sóng phản đối chiến tranh dâng cao hơn, đòi Chính phủ Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, rút quân đội về nước.” Khi“ý chí xâm lược của quân đội viễn chinh Mỹ đang rơi vào thế khủng khoảng, chiến lược “tìm và diệt” không thực hiện được, thay vào đó là chiến lược “quét và dữ” thì đang phải chịu đợt tiến công thứ hai của quân và dân ta ở miền Nam tập trung vào các đô thị, đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Hoa Kì phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận Hội nghị Pa - ri về Việt Nam”[14, tr. 349]. Cuộc“Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 đạt được thắng lợi to lớn và tương đối toàn diện, đặc biệt là đợt 1 - diễn ra đúng vào Tết Mậu Thân. Với thắng lợi to lớn trên toàn miền Nam trong năm 1968, quân và dân ta đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, làm phá sản chiến lược Chiến tranh cục bộ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh.” Thắng lợi của“cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 630.000 tên địch (trong đó, quân”Mỹ đầu năm 1968 là 50.387 22
  29. tên bị thương và mất tích, 9.301 tên bị chết), tiêu diệt và đánh thiệt hại 1 lữ đoàn, 7 trung đoàn, phá hủy 13.000 xe quân sự, 1.000 tàu, [14, tr. 349]. Tuy vậy, ta cũng có những tổn thất nặng nề: nhiều đơn vị bộ đội tinh nhuệ, chủ lực của ta hi sinh và bị thương lớn, nhiều cơ sở cách mạng ở nhiều đô thị bị tan vỡ; phong trào đấu tranh chính trị ở các thành phố bị giảm sút; lượng lực cách mạng bị mất đất, mất dân, ở vùng nông thông Tổn thất này đã làm giảm sút thế và lực của cách mạng miền Nam, gây hậu quả khó khăn chồng chất kéo dài suốt năm 1969 [14, tr. 349 và tr. 351]. Sau Tết Mậu Thân,“cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn vừa đánh vừa đàm, gay go và ác liệt hơn. Trên đà thắng lợi đó, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân hai miền vượt qua mọi khó khăn,”quyết tâm giải phóng miền Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi” [9, tr. 512]. 1.3. Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1973) 1.3.1. Bối cảnh lịch sử và sự chỉ đạo của Đảng Thứ nhất, bối cảnh lịch sử. Cuộc“Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 là đòn bất ngờ, góp phần thay đổi cục diện của chiến tranh Việt Nam, làm phá sản hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ.” Sau Tết Mậu Thân, phong trào của nhân dân Mỹ chống chiến tranh Việt Nam diễn ra sôi nổi hơn, đòi rút hết quân về nước trong thời gian ngắn nhất. Sau khi bước vào Nhà Trắng, Tổng thống Mỹ Richard Milhous Nixon“đã cho ra đời học thuyết mang tên mình - “Học thuyết Nixon”, tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Việt Nam và Đông Dương.” 23
  30. Tương ứng với chiến lược toàn cầu “Ngăn đe thực tế”, với “Học thuyết Nixon” nhằm giúp cho Mỹ khôi phục lại sức mạnh của mình, “cố bám lấy lợi ích coi đế quốc chủ nghĩa trên thế giới” [5, tr. 223]. Việt Nam và Đông Dương là nơi thí điểm cho học thuyết này,“ở từng nước, ở Việt Nam là “Việt Nam hóa” chiến tranh, Lào là “Lào hóa” chiến tranh, Campuchia là “Khơme hóa” chiến tranh.” “Việt Nam hóa”“chiến tranh là cuộc chiến tranh giữa người Việt Nam với nhau. Âm mưu cơ bản của Mỹ vẫn là dùng “người Việt đánh người Việt”, “người Đông Dương đánh người Đông Dương”, có sự chỉ huy của cố vấn Mỹ, dựa vào vũ khí và”đô la Mỹ. Trong“thời kì đầu của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, quân Mỹ vẫn giữ vai trò quan trọng, cùng với quân đội Việt Nam Cộng hòa là công cụ chủ yếu.” Mỹ tìm“mọi cách để “bình định” vùng nông thôn ở miền Nam, tiến hành “chiến tranh giành dân”. Quân đội Việt Nam Cộng hòa được tăng cường hiện đại hóa, được sử dụng vào các cuộc hành quân nhằm xóa bỏ căn cứ của quân giải phóng. Đồng thời, tiến hành mở các cuộc hành quân xâm lược Lào và Campuchia.” Đồng thời, Richard Milhous Nixon“triển khai chiến dịch “ngoại giao toàn cầu”, bắt tay với nước lớn xã hội chủ nghĩa, chia rẽ liên minh chiến đấu của ba nước Đông Dương,”cô lập cuộc kháng chiến của Nhân dân ta. Thứ hai, sự chỉ đạo của Đảng. Với nhãn quan rộng lớn, sắc sảo và“tầm nhìn chiến lược, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã sớm chỉ rõ những mâu thuẫn không thể nào khắc phục được của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” tháng 4 - 1969, đồng thời vạch ra phương hướng chiến lược mới cho quân và dân ta trong”giai đoạn tiếp theo. 24
  31. Tháng 01 - 1970, Hội nghị Trung ương XVIII đã ban hành Nghị quyết dựa trên cơ sở dự kiến việc Mỹ có khả năng sẽ“mở rộng chiến tranh sang đất Campuchia và Lào, đồng thời Mỹ muốn tạo thế mạnh, gây sức ép với ta trên bàn đàm phán Pa - ri bằng việc ném bom trở lại miền Bắc. Đảng đã chỉ đạo quân và dân ta ở hai miền Nam - Bắc: tiếp tục kiên trì đẩy mạnh cuộc kháng chiến, đưa cuộc tiến công chiến lược phát triển một cách mạnh mẽ, liên tục và toàn diện, tiến công quân sự được đẩy mạnh kết hợp với kinh tế, chính trị, ngoại giao, đánh bại âm mưu kéo dài, leo thang chiến tranh của Mỹ nhằm tạo thế mạnh để Mỹ duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở miền Nam; làm cho thế phòng ngự của đối phương bị thất bại, tạo ra chuyển biến mới trong cục diện chiến tranh, từng bước giành thắng lợi, tiến tới thắng lợi quyết định.” Khi“đế quốc Mỹ tiến hành tăng cường chiến tranh ở Lào, sử dụng tay sai Lon Nol đảo chính lật đổ Chính phủ Xi-ha-núc ở Campuchia (3 - 1970), Đảng ta đã nhận định kịp thời chính xác diễn biến tình hình, đề ra chủ trương đúng đắn, chỉ đạo quân và dân ta kịp thời hành động, đoàn kết, kiên quyết, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo cùng quân dân Lào và Campuchia chiến đấu và giành được thắng lợi toàn diện. Bên cạnh đó, công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa cũng đang trên đà phát triển. Nhờ sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng, hậu phương miền Bắc không ngừng được củng cố và tăng cường trở thành chỗ dựa vững chắc chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam và của chiến trường Lào và Campuchia.” 1.3.2. Chỉ đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và những thắng lợi đạt được Chỉ đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Thực“hiện chủ trương chiến lược của Đảng bằng các Nghị quyết của Bộ Chính trị, với tư cách là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang nhân dân. 25
  32. Đại tướng Võ Nguyên Giáp “theo dõi các trận đánh ở miền Nam như đang chỉ đạo từ một hầm ngầm trong rừng rậm” [12, tr. 243]. Ông đã “làm nên” một Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.”Ông luôn tin chắc sẽ thắng đế quốc Mỹ (Hung nô của thế kỉ XX như ông nói) [12, tr. 243]. Đại“tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ đạo Bộ chỉ huy chiến dịch Đường 9 - Nam Lào gồm các đồng chí: Văn Tiến Dũng, Lê Trọng Tấn, Lê Quang Đạo, Song Hào; Ông cùng Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam và Bộ Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn lên kế hoạch, chuẩn bị cho chiến dịch Đường 9 - Nam Lào.” Khi“cuộc tiến công chiến lược Xuân - Hè 1972 nổ ra, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp vào tận cửa biển Cửa Việt, Đông Hà, Gio Linh (tỉnh Quảng Trị) chỉ đạo cuộc chiến đấu, thăm hỏi, động viên cán bộ, chiến sĩ. Đại tướng cũng phê duyệt phương án đánh B52 của Quân chủng phòng không - không quân, trực tiếp chỉ huy quân dân miền Bắc đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng đường không của Mỹ, làm nên chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ” trên không lịch sử.” Những thắng lợi đạt được. Thứ nhất, tiếp tục củng cố miền Bắc, tăng cường chi viện cho chiến trường. Miền Bắc không ngừng được khôi phục và phát triển kinh tế. Trông nông nghiệp, sản xuất, chăn nuôi được khuyến khích.“Các hợp tác tích cực áp dụng những thành tựu khoa học - kĩ thuật, nhiều biện pháp kĩ thuật thâm canh, tăng vụ được sử dụng, nhiều giống lúa mới được đưa vào trồng. Nhiều hợp tác xã đạt chỉ tiêu 5 tấn trên một hécta, một số hợp tác xã còn đạt 6 - 7 tấn. Sản lượng lương thực năm 1970 tăng 60 vạn tấn so với năm 1968.”Việc quản lí hợp tác xá cúng có những bước tiến đáng ghi nhận. Trong công nghiệp, nhiều“cơ sở công nghiệp ở Trung ương và địa phương bị tàn phá do chiến tranh được phục hồi lại; một số công trình đang xây dựng gấp rút được hoàn thiện. Các ngành công nghiệp quan trọng như 26
  33. điện, than, đều có bước phát triển. Năm 1970, giá trị tổng sản lượng công nghiệp vượt kế hoạch”25%, xấp xỉ năm 1965. Hệ thống giao thông vận tải bị tàn phá nặng nề được khẩn trương khôi phục, đặc biệt“là các tuyến giao thông chiến lược. Văn hóa, giáo dục, y tế cũng nhanh chóng được phục hồi và phát triển. Đời sống nhân dân được ổn định.” Trong“ba năm (1969 - 1971), hàng chục vạn thanh niên”miền Bắc lên đường nhập ngũ, 60% số đó được bổ sung cho các chiến trường Lào và Campuchia, chiến trường miền Nam. Khối lượng vật chất đưa vào chiến trường trong ba năm này tăng gấp 1,6 lần so với ba năm trước đó [5, tr. 239]. Thứ hai, thắng Mỹ trên chiến trường ba nước Đông Dương. Đại“tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị cho các mặt trận tiền phương giành thắng lợi ở Đường 9 - Nam Lào, Quảng Trị năm 1972.” Tại Đường 9 - Nam Lào, đã diễn ra chiến dịch lớn, kéo dài từ đầu“tháng 2 đến cuối tháng 3 - 1971, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã cùng bộ đội Pathet Lào đạp tan cuộc hành quân lớn của Mỹ - Việt Nam Cộng hòa mang tên “Lam Sơn - 719”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị: tập trung lực lượng, kiên quyết tiêu diệt thật nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch; bảo vệ bằng được con đường chi viện cho các tiền tuyến, phối hợp với các chiến trường, với cuộc chiến đấu của quân dân Lào đập tan cuộc hành quân của đế quốc Mỹ và các lực lượng thân Mỹ, tiến lên giành thắng lợi cho chiến dịch.” Sau 43“ngày đêm chiến đấu anh dũng, quân dân hai nước Việt - Lào đã tan cuộc hành quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 23.000 tên, bắn rơi và phá hủy hơn 500 máy bay, phá hủy và thu hồi gần 600 xe quân sự, ” Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào thắng lợi đã đánh bại một bước quan trọng, mở ra“khả năng đánh thắng hoàn toàn chiến lược “Việt Nam hóa” chiến tranh của Mỹ, làm cho quân đội Việt Nam Cộng hòa bị sa sút nghiêm trọng; qua đó ta hoàn thành việc bảo vệ thành công “Đường mòn Hồ Chí Minh”, giữ vững hành lang chiến lược của ba nước Đông Dương.” 27
  34. Thứ ba,“cuộc tiến công chiến lược Xuân - Hè 1972.” Trưa“ngày 30 - 3 - 1972, lợi dụng địch chủ quan, bố phòng sơ hở, phán đoán sai thời gian, quy mô và hướng tiến công của quân ta. Quân ta đã tiến hành cuộc tiến công chiến lược theo chủ trương của Quân ủy Trung ương.” Mở“đầu cuộc tiến công, quân ta đánh vào Quảng Trị, lấy Quảng Trị làm hướng tiến công chủ yếu. Các chiến trường khu V, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ cũng nổ súng phối hợp.” Cuộc tiến công của quân ta diễn ra với cường độ“mạnh, quy mô rộng lớn trên hầu hết các địa bàn chiến lược quan trọng; trong một thời gian ngắn đã chọc thủng ba phòng tuyến mạnh nhất của địch là Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, quân đội Việt Nam Cộng hòa phải căng sức chống đỡ trên khắp các hướng tiến công của quân ta; chiến lược “Việt Nam hóa” chiến tranh có nguy cơ bị phá sản.” Sau“ba tháng chiến đấu (đến tháng 6 - 1972), ta đã loại khỏi vòng chiến đấu một lực lượng sinh lực lớn của địch, khoảng 25 vạn quân, phá hủy và thu hồi một khối lượng lớn vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch gồm: 636 xe tăng và xe bọc thép, 419 khẩu pháo, 340 máy bay, giải phóng những vùng đất đai rộng lớn hơn 1 triệu dân.” Tuy vậy, sau trận“mở đầu bất ngờ của quân ta, quân đội Việt Nam Cộng hòa với sự yếm trợ tối đa của hỏa lực Mỹ đã phản công mạnh, gay cho ta nhiều thiệt hại.” Thứ tư,“cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại miền Bắc”lần 2; Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”. Ngày 06 - 4 - 1972, Richard Milhous Nixon tuyên bố tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân. Mục tiêu của Mỹ là phá hoại“công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, ngăn chặn nguồn viện trợ từ miền Bắc vào miền Nam và từ bên ngoài vào”nước ta, làm 28
  35. giảm ý chí chống Mỹ của Nhân dân ta, cứu nguy cho chiến lược “Việt Nam hóa” chiến tranh có nguy cơ bị phá sản. So với lần trước,“cuộc chiến tranh phá hoại lần này đã vượt xa về quy mô, cường độ đánh phá, đồng thời sử dụng phổ biến, tập trung các loại máy bay hiện đại nhất”là B52, F111, Bộ“Chính trị, Quân ủy Trung ương đã lãnh đạo toàn dân và”toàn quân ta kiên quyết chiến đấu, chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ. Sau khi tái đắc cử Tổng thống Mỹ, Richard Milhous Nixon đã phê chuẩn“cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay ném bom chiến lược B52 vào Hà Nội, Hải Phòng,”mang tên “Chiến dịch Lai - nơ - bếch - cơ II” (bắt đầu từ chiều tối ngày 18 - 12 đến 29 - 12 - 1972). Trong“suốt 12 ngày đêm, Mỹ đã sử dụng khoảng 700 lần máy bay chiến lược B52; 3.884 lần máy bay chiến thuật các loại đánh phá”Hà Nội, Hải Phòng và một số mục tiêu phía Bắc vĩ tuyến 20. Riêng ở Thủ đô Hà Nội, Mỹ sử dụng 444 lần máy bay B52, hơn 1.000 lần máy bay chiến thuật khác. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã“chỉ thị cho Quân chủng phòng không - không quân:”“tập trung mọi khả năng nhằm đúng đối tượng B52 mà tiêu diệt”. Trong 12 ngày đêm, ta đã bắn rơi 81 máy bay Mỹ, trong đó có 32 máy bay B52, 5 máy bay F111, bắt sống 44 giặc lái, bắn hỏng 9 tàu chiến. Riêng ở Hà Nội, ta bắn rơi 30 máy bay, trong đó có 23 máy bay B52, 2 máy bay F111 làm nên chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” lịch sử. Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” là thắng lợi quân sự quyết định, buộc Mỹ phải kí hiệp định Pa - ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. 29
  36. TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 Khi đổ quân trực tiếp vào miền Nam Việt Nam, giới cầm quyền Hoa Kì kì vọng có thể dựa vào ưu thế về vũ khí, hỏa lực để đè bẹp lực lượng cách mạng ở miền Nam, đồng thời có thể phá hoại,“ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng, cuộc kháng chiến của Nhân dân ta lại phát triển theo hướng càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng to. Dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam, sự chỉ huy của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, quân và dân ta ở cả hai miền đã anh dũng chiến đấu, từng bước đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ, làm cho chiến lược này bị phá sản hoàn toàn bởi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy 1968.” Từ“năm 1968 đến năm 1973, cùng với tập thể Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tiếp tục chỉ đạo toàn quân và toàn dân chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” giành được thắng lợi trên chiến trường ba nước Đông Dương rồi sau đó giành thắng lợi quyết định năm 1972, buộc Mỹ phải kí Hiệp định Pa - ri, rút quân về nước, hoàn thành nhiệm vụ “đánh cho Mỹ cút”, tạo”thế và lực để tiếp tục “đánh cho ngụy nhào”. 30
  37. Chương 2 ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP CHỈ ĐẠO TỔNG TẤN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975, GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC 2.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng 2.1.1. Vài nét về bối cảnh lịch sử Thực“hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, với việc kí Hiệp định Pa - ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27 - 1 - 1973), quân dân hai miền Nam - Bắc đã đánh đuổi quân đội viễn chinh Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam”nước ta. Ngày 29 - 3 - 1973, Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam làm lễ cuốn cờ, rút quân về nước. Với việc kí Hiệp định Pa - ri,“cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Nhân dân ta bước sang giai đoạn mới”theo hướng có lợi cho ta. Miền Bắc tiếp tục làm hết sức mình để cung cấp tối đa sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam. Binh“đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn được tổ chức lại lực lượng, đường mòn Hồ Chí Minh được nâng cao, tăng cường vận chuyển, hậu cần được đảm bảo để đáp ứng nhu cầu của chiến trường miền Nam.” Mỹ tăng cường, ồ ạt viện trợ cho chính quyền và quân đội Sài Gòn cùng với đó là một số lượng vũ khí, khí tài, phương tiện chiến tranh với hi vọng quân đội Sài Gòn có thể đứng vững khi mà Mỹ rút quân sau khi Hiệp định Pa - ri được kí kết. Hiệp định Pa - ri kí chưa ráo mực, Nguyễn Văn Thiệu lập tức tung quân “tràn ngập lãnh thổ”, đánh phá vùng giải phóng để giành đất, giành dân” [16, tr. 6]. Lúc này cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam có căn cứ và hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa không ngừng lớn mạnh, đã được thử thách 31
  38. qua hai cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, trong điều kiện hòa bình, càng được phát triển và củng cố hơn. Vào thời gian này, có sự thay đổi lớn trong so sánh lực lượng, cách mạng Việt Nam đã lớn mạnh hơn cả thế và lực, đồng thời thế và lực cũng được tạo ra từ trong thắng lợi của cách mạng Campuchia và Lào. Tận dụng những điều kiện lịch sử mới sau Hiệp định Pa - ri với những thay đổi cơ bản trong so sánh lực lượng ngày càng có lợi cho cách mạng, nhân dân ta ở miền Nam đã đẩy mạnh đấu tranh chống lại âm mưu và hành động mới của Mỹ - Thiệu [5, tr. 259]. Trong“cuộc đấu tranh chống “bình định lấn chiếm”, chống âm mưu “tràn ngập lãnh thổ” của Thiệu vào những tháng đầu sau Hiệp định, quân dân ta đã đạt được một số kết quả nhất định. Nhưng do không đánh giá hết âm mưu phá hoại Hiệp định của đối phương, do quá nhấn mạnh đến hòa bình, hòa hợp dân tộc nên trên một số địa bàn quan trọng, chúng ta đã bị mất đất, mất dân”[5, tr. 259]. 2.1.2. Chỉ đạo của Đảng Sự“nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước sau khi Hiệp định Pa - ri được kí kết ngày càng phát triển mạnh mẽ, chính quyền và quân đội Sài Gòn ngày càng rơi vào thế bị động,”mâu thuẫn trong nội bộ trở nên gay gắt. Quân“và dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn toàn diện trên chiến trường. Trước sức tiến công liên tục của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân đội Nhân dân Việt Nam, quân đội Sài Gòn bị đẩy lùi vào thế phòng ngự, bị phân tán và bộc lộ nhiều điểm yếu và sơ hở.” Trước“diễn biến tình hình trên chiến trường, trong nước và thế giới; trước âm mưu phá hoại Hiệp định Pa - ri của chính quyền Sài Gòn: Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ XXI khẳng định con đường cách mạng miền Nam là tiếp tục con đường bạo lực cách mạng, nắm vững thời cơ, 32
  39. giữ vững đường lối chiến lược tiến công, phương pháp tác chiến của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là phải mạnh trên ba mặt trận (chính trị, quân sự, ngoại giao) để buộc định thi hành Hiệp định, đồng thời”“Chủ động chuẩn bị sẵn sàng cho trường hợp phải tiến hành chiến tranh cách mạng trên khắp chiến trường miền Nam” [17, tr. 239]. Sau Hội nghị 21,“kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam được xây dựng. Từ tháng 4 - 1973 đến tháng 5 - 1975, kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam được soạn thảo, bổ sung nhiều lần. Đó là quá trình nắm bắt kịp thời mọi diễn biến trên chiến trường, đồng thời tính toán, cân nhắc kĩ lưỡng, lựa chọn các giải pháp tối ưu. Trong suốt quá trình đó, nhiều vấn đề lớn được đặt ra, đòi hỏi Bộ thống soái tối cao phải tập trung suy nghĩ: “Làm thế nào để nhanh chóng tạo được thời cơ? Cần làm gì để “chớp” thời cơ, không được bỏ lỡ? Hướng chiến lược là đâu? Đánh như thế nào để tiêu diệt chiến đoàn và sư đoàn quân”ngụy?” [18, tr. 1198]. Ngày 30 - 9 - 1974, tại Tổng hành dinh, Bộ Chính trị thảo luận tình hình miền Nam và bản dự thảo kế hoạch chiến lược do Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị. Nội dung dự thảo kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976 gồm hai bước: Bước 1 (năm 1975): tranh thủ yếu tố bất ngờ, tập trung lực lượng, phương tiện, vũ khí đánh địch trên toàn miền Nam. Bước 2 (năm 1976): thực hiện Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam. Mục tiêu của bước 1 (năm 1975): Đánh“bại cơ bản kế hoạch bình định của địch, tiêu diệt và làm tan rã bộ phận quan trọng quân chủ lực và quân địa phương địch, giải phóng và làm chủ phần lớn nông thôn Đồng bằng sông Cửa Long, ngoại ô Sài Gòn, Khu 5, Trị - Thiên. 33
  40. Mở thông hành lang chiến lược từ nam Tây Nguyên xuống Đông Nam Bộ và ba tỉnh phía Nam khu 5, từ Tây Ninh xuống bắc Sài Gòn; từ Kiến Phong - Kiến Tường đến Mỹ Tho. Mở các căn cứ bàn đạp, áp sát các thành phố, thị xã và căn cứ trọng yếu của”quân đội Sài Gòn. Phá hủy một bộ phận quan trọng phương tiện chiến tranh, vũ khí, trang bị quân sự, tiềm lực kinh tế, giao thông của địch. Thúc đẩy phong trào đấu tranh ở các đô thị. Xây dựng lực lượng, củng cố vùng giải phóng, chuẩn bị chiến trường, tạo điều kiện cho đợt 2. Bước 1 gồm 3 đợt: Đợt 1 từ tháng 12 - 1974 đến tháng 2 - 1975, tiến công có mức độ, chủ yếu ở Đồng bằng sông Cửa Long và Đông Nam Bộ. Đợt 2 từ tháng 3 đến tháng 6 - 1975, là đợt chủ yếu, tiến công quy mô lớn ở Tây Nguyên, phối hợp với Đông Nam Bộ, Khu 5, Trị - Thiên, kết hợp tiến công và nổi dậy ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đợt 3 từ tháng 8 đến tháng 10 - 1975, phát triển thắng lợi, đẩy mạnh hoạt động ở khu 5, Trị - Thiên, chuẩn bị sẵn sàng thực hiện phương án thời cơ. “Bộ Chính trị cũng nhận định, hai năm 1975 và năm 1976 đều có vị trí quan trọng nhưng năm 1975 là thời cơ, bản lề cho năm 1976 giành thắng lợi cuối cùng, phải tạo được yếu tố bất ngờ để có thể dẫn đến những bước phát triển nhảy vọt và trong bất kì tình huống nào cũng không được để lỡ thời cơ khi thời cơ chiến lược xuất hiện: “Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975. Để chủ động đón thời cơ chiến lược, lực lượng chủ lực cơ động phải chuẩn bị sẵn sàng tác chiến trên cả hai hướng chiến lược: Tây Nguyên, trọng điểm là nam Tây Nguyên là hướng chiến lược quan trọng; miền Đông Nam Bộ là hướng chiến lược cuối cùng, trong đó, Tây Nguyên được chọn làm chiến trường chủ yếu trong cuộc tiến công lớn và rộng khắp năm 1975” [16, tr. 207]. 34
  41. Sau Hội nghị Bộ Chính trị, các cơ quan liên quan khẩn trương hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến, đồng thời truyền đạt nhiệm vụ tới các đơn vị. Ngày 18 - 12 - 1974, tại “Nhà Con Rồng” (trụ sở Bộ Quốc phòng trong Hoàng thành Thăng Long, Bộ Chính trị họp trong lúc chiến dịch Đường 14 - Phước Long đang trên đà thắng lợi. Đây là phiên họp Bộ Chính trị mở rộng nên ngoài các đồng chí là Uỷ viên Bộ Chính trị, thành viên Quân ủy Trung ương còn có các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy chiến trường Nam Bộ, Khu 5 và các Phó Tổng tham mưu phụ trách tác chiến. Hội nghị diễn ra từ 18 - 12 - 1974 đến 8 - 1 - 1975. “Lần này, Hội nghị đi sâu phân tích lực lượng so sánh giữa ta và địch. Căn cứ vào sự đánh giá trong cả hai lần họp, chúng ta thấy chính xác hơn thời cơ lịch sử và khả năng thực tế để quyết chiến những trận cuối cùng, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn. Chúng ta nhất trí phải gấp rút chuẩn bị mọi mặt để kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh cứu nước trong năm 1975 hoặc năm 1976” [16, tr. 222 và tr. 225]. Kế hoạch hoạt động năm 1975 nêu rõ nhiệm vụ của từng chiến trường và cho rằng mọi hoạt động của chiến trường nhằm tiến tới trận quyết chiến chiến lược của địch tại sào huyệt cuối cùng của địch bằng con đường nhanh nhất [16, tr. 222 và tr. 225]. Bộ“Chính trị nêu rõ quyết tâm chiến lược: “Động viên nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền trong giai đoạn 1975 - 1976 đẩy mạnh đấu tranh quân sự, chính trị kết hợp với đấu tranh ngoại giao làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta; đồng thời khẩn trương chuẩn bị mọi điều kiện để tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa trên toàn miền Nam, tiêu diệt quân đội và làm tan rã chính quyền Sài Gòn, đưa chính quyền về tay Nhân dân.” Quyết“tâm chiến lược của BỘ Chính trị được thể hiện trong kế hoạch chiến lược năm 1975 - 1976: Năm 1975, tranh thủ bất ngờ tiến công lớn và 35
  42. rộng khắp tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam”[16, tr.227]. Ngoài ra, trong kế hoạch năm 1975, Bộ Chính trị còn dự kiến phương án khác: “Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975” [16, tr.227]. 2.2. Chỉ đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và thắng lợi đạt được 2.2.1. Chỉ đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp Cùng với việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương XXI, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp cũng có những chỉ đạo cá nhân đến toàn quân, các cán bộ, chiến sĩ, các đơn vị trên các mặt trận. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận thấy “không thể đặt Tổng khởi nghĩa lên đầu, mà tất yếu phải có những trận tiến công lớn, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, tạo điều kiện đánh vào thành phố, sào huyệt chủ yếu của địch kết hợp chặt chẽ với nổi dậy của quần chúng để kết thúc chiến tranh, giành toàn thắng” [18, tr. 1183]. Khi trao đổi với Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đã đồng ý “phải phát huy, phối hợp cả ba quả đấm mạnh ở nông thôn, thành thị và chủ lực, thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi” [18, tr. 1183]. Giữa năm 1974, sau một thời gian đi chữa bệnh ở Liên Xô về nước Đại tướng Võ Nguyên Giáp tiếp tục chỉ đạo Tổ trung tâm hoàn thiện Kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Ông nhấn mạnh “về biện pháp chiến lược, dự thảo cần đề cao quy luật kết hợp quân sự và chính trị, tiến công và nổi dậy phát triển lên đỉnh cao là tổng tiến công, tổng khởi nghĩa khi có thời cơ [18, tr. 1195]. Tại các cuộc trao đổi, Đại tướng luôn chú ý lắng nghe ý kiến của các đồng chí trong Bộ Tổng tham mưu và Tổ trung tâm một số ý kiến cho rằng: “đánh Tây Nguyên sẽ bị động, địch sẽ ra sức đối phó ở Sài Gòn và Đông Nam 36
  43. Bộ”, nên cần chọn Đông Nam Bộ làm hướng chính. Võ Nguyên Giáp và một số đồng chí khác muốn chọn Tây Nguyên làm hướng chính “nơi đây ta có nhiều thuận lợi để thực hiện ý đồ đánh trên diện lớn” [18, tr. 1195]. Sau khi xem qua dự thảo số 133/TG1 ngày 16 tháng 5 năm 1974 với nhan đề: “Kế hoạch giành thắng lợi ở miền Nam”. Thay mặt Quân ủy Trung ương“chỉ thị cho Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu hoàn chỉnh để Bộ Chính trị thông qua, nêu một số ý kiến cơ bản sau:” Thứ nhất,“cần nắm lại toàn bộ tình hình phát triển của chiến trường từ cuối năm 1973 đến nay. Do chiến trường hoạt động tốt, kiên quyết tiến công và phản công địch, hậu phương miền Bắc lại tăng chi viện nên thế và lực mới đã hình thành ngày càng rõ nét. Cần đi sâu nghiên cứu, phân tích, đánh giá những nhân tố mới vừa được tạo ra, làm cơ sở cho quyết tâm chiến lược.” Thứ hai,“xây dựng kế hoạch chiến lược nên tiến hành theo hai bước. Mục tiêu của bước 1 là giành thắng lợi có ý nghĩa quyết định. Ta mạnh hơn địch cả về quân sự và chính trị, làm chủ phần lớn vùng nông thôn và rừng núi. So sánh lực lượng trên chiến trường đã thay đổi hẳn. Sang bước thứ hai, dựa trên cơ sở thắng lợi của bước 1, phát triển đánh lớn, tiến công và nổi dậy giành thắng lợi hoàn toàn.” Thứ ba,“về chiến lược, trong bước 1 nên chọn nam Tây Nguyên hoặc miền Đông Nam Bộ, cần chú ý nam Tây Nguyên là nơi địch sơ hở, ta có điều kiện tập trung lực lượng lớn, có khả năng tiêu diệt lớn quân địch, tạo được bước ngoặt quyết định. Cần tích cực làm đường cơ động, ngụy trang khéo, giữ bí mật, có nhiều biện pháp nghi binh, tạo yếu tố bất ngờ, không để tiết lộ ý định, không để lộ lực lượng, làm cho địch chú ý đề phòng. Trước mắt, chủ lực nên hoạt động ở mức độ vừa phải.” Thứ tư,“cần có kế hoạch riêng cho miền Bắc, tập trung vào công tác động viên lực lượng, chi viện miền Nam cả về người và vật chất, kĩ thuật, 37
  44. đồng thời phải có phương án tác chiến phòng địch tiến hành lại chiến tranh phá hoại hoặc đổ bộ vào vùng biển Khu 4.” Thứ năm,“xây dựng lực lượng, hết sức chú trọng nâng cao chất lượng chiến đấu. Biên chế tổ chức phải hợp lí, tỉ lệ các quân chủng, binh chủng phải cân đối, phù hợp với yêu cầu và khả năng thực tế. Đặc biệt quan tâm bố trí, sắp xếp, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng kịp thời yêu cầu chiến lược.” Thứ sáu,“về cách đánh, cần phải phát triển kinh nghiệm đánh phá “bình định”, đồng thời tổ chức nghiên cứu cách đánh của bộ đội chủ lực tiêu diệt chi khu, quận lị, thị xã và các thành phố lớn, tiêu diệt hoàn toàn địch, nâng cao trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, tiêu diệt sư đoàn địch.” Thứ bảy,“nghiên cứu kế hoạch kết hợp quốc phòng với kinh tế, trong đó, việc quân đội tham gia xây dựng kinh tế và chuẩn bị phục hồi đường sắt ở nam Khu 4”[18, tr. 1191 và tr.1235]. Ngày 9 - 1 - 1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ trì cuộc họp Thường trực Quân ủy Trung ương để quán triệt và triển khai Nghị quyết của Bộ Chính trị. Tại đây, Đại tướng đã nếu ra quan điểm: “Tây Nguyên là chiến trường rừng núi hiểm trở. Lúc này, địch ở đây có một sư đoàn chủ lực, bảy liên đoàn quân biệt động và bốn thiết đoàn xe tăng và xe thiết giáp. Do đánh giá sai, phán đoán sai ý đồ của ta, chúng cho rằng năm 1975 ta chưa đủ sức đánh thị xã và thành phố, nếu có đánh thì cũng đánh ở phía Bắc” [18, tr. 1191 và tr.1235]. Ông cho rằng: “Đánh Buôn Ma Thuật là một đoàn bất ngờ đối với địch. Sẽ có nhiều khả năng phá vỡ hệ thống phòng ngự của chúng ở vùng 2 chiến thuật. Làm rung chuyển Tây Nguyên và toàn bộ thế trận của địch trên chiến trường, tạo ra thời cơ mới cho việc thực hiện kế hoạch chiến lược hai năm 1975 - 1976” [18, tr. 1237]. Sự chỉ đạo sáng suốt của Bộ Chính trị, cũng như sự chỉ đạo riêng về mặt quân sự của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp không chỉ là: “ngọn 38
  45. đuốc soi đường” để quân và dân ta tiến lên giành thắng lợi mà còn là niềm động viên lớn lao, cổ vũ hai miền Nam - Bắc đi lên thắng lợi cuối cùng: giải phóng hoàn toàn miền Nam, thông nhất Tổ quốc. 2.2.2. Thắng lợi đạt được Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc thắng lợi bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, diễn ra trong 55 ngày đêm, qua ba chiến dịch lớn: Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng, Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn. Chiến dịch Tây Nguyên (chiến dịch 275). Ngày 04 - 3 - 1975, chiến dịch Tây Nguyên chính thức bắt đầu, qua theo dõi động thái của địch, Bộ Tư lệnh chiến dịch hạ quyết tâm: đánh thị xã Buôn Ma Thuật theo phương án địch không phòng ngự dự phòng. Để giữ bí mật, Quân khu 5 đôn đốc Sư đoàn 3 tích cực hoạt động đánh địch trên đường 19, đồng thời yêu cầu Bộ Tư lệnh huy động các đơn vị đẩy mạnh hoạt động thu hút quân địch chú ý vào hướng bắc Tây Nguyên. Đêm mùng 4, rạng sáng mùng 5 - 3 - 1975, ta đánh đường số 21, diệt một đoàn xe địch, làm chủ phía đông Chư Cúc, Tây Nguyên có nguy cơ bị cô lập với các vùng chiến thuật khác của địch. Ngày 07 tháng 3, quân ta diệt cứ điểm Chư Xê (bắc Buôn Hồ) trên đường 14. Ngày 08 tháng 3, trung đoàn 48 Sư đoàn 320 đánh chiếm chi khu quân sự Thuần Mẫu. Ngày 09 tháng 3, Sư đoàn 10 nổ súng đánh chiếm quận lị Đức Lập. Trên hướng bắc, ta tiêu diệt quận lị Thanh An, áp sát, uy hiếp thị xã Plây Ku. Thế chiến lược bao gây, cô lập Buôn Ma Thuật đã được cài xong [18, tr. 1247]. Chọn đánh Buôn Ma Thuật, khó khăn lớn nhất của ta là phải cơ động hành vạn quân, nhiều xe thiết giáp, pháo binh và xe cơ giới vào sâu phía nam 39
  46. để nếu lộ bí mật phải khắc phục khó khăn về hậu cần và việc đưa xe tăng qua sông Sơrêpốc. Tuy nhiên, nếu kiên quyết khắc phục các trở ngại đó và đạt được yêu cầu bất ngờ cao cho chiến dịch thì ta lại có lợi thế rất lớn [16, tr. 268]. Buôn Ma Thuật tuy ở vào vị trí chiến lược nhưng lại tương đối xa các trung tâm quân sự nên khi bị tấn công thì tiếp ứng sẽ bị hạn chế. Mặt khác, Buôn Ma Thuật lại thuận lợi cho ta đánh hợp đồng binh chủng với quy mô lớn. “Giữa khó khăn và thuận lợi thì thuận lợi nhiều và cơ bản hơn” [16, tr. 268]. Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu thắng lợi, 2 giờ sáng ngày 10 - 3 - 1975, các đại đội đặc công 1, 3, 18 (thuộc Trung đoàn đặc công 108) nổ súng đánh sân bay thị xã, mở màn trận Buôn Ma Thuật. Đến sáng ngày 11 - 3, ta tiếp cận sở chỉ huy và các mục tiêu còn lại trong thị xã. Tối ngày 11 - 3, sau khi tổng hợp kết quả kết quả chiến đấu trên hai hướng, Bộ Tư lệnh chiến dịch nhận định: “Qua hai ngày chiến đấu, ta đã chiếm được các mục tiêu quan trọng nhất, làm chủ thị xã Buôn Ma Thuật, khống chế được sân bay Hòa Bình nhưng ở một số căn cứ ven thị xã, địch vẫn còn chiến giữ, Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh chỉ thị cho các đơn vị nhanh chóng phát triển thắng lợi, tiêu diệt địch ở ngoại vi thị xã, các vùng phụ cận, ” [16, tr. 278 và tr. 281]. Sau khi mất Buôn Ma Thuật, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Phạm Văn Phú phải cố thủ các cứ điểm còn lại, đồng thời phải huy động tối đa hỏa lực và lực lượng để chiếm lại thị xã. Chiếm được Buôn Ma Thuật, ta có khả năng tiến công địch trên các hướng khác. “Đòn tiến công Buôn Ma Thuật đã trúng điểm huyệt làm rung động thế trận đối phương” [16, tr. 278 và tr. 281]. “Chiến trường Tây Nguyên chuyển mình sôi động” [18, tr. 1247]. Trong hai ngày 12 và 13 tháng 3, quan đội Sài Gòn đổ bộ xuống Buôn Ma Thuật, Phước An và tây sân bay Hòa Bình, bị sa vào “trận địa” của Quân 40
  47. Giải Phóng. Các trung đoàn 44, 45 và Sư đoàn 23 quân đội Sài Gòn lần lượt bị tiêu diệt. Cuộc phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuật của phía đối phương bị thất bại. Ngày 16 - 3, quân đội Sài Gòn bỏ Kon Tum, ngày 17 - 3 bỏ Pleiku, theo đường 7 rút chạy về ven biển. Bộ Tư lệnh chiến dịch huy động thêm xe bọc thép, xe tăng và pháo binh truy kích địch. Sư đoàn 320 cấp tốc hành quân trong đêm 16 - 3, cắt đường số 7, chặn địch ở Phú Bổn (nay là Ayun Pa, Gia Lai, Tây Nguyên), tiến công giải phóng Củng Sơn. Quân đội Sài Gòn ở đây hoàn toàn tan rã, ta loại khỏi vòng chiến đấu gần 6.000 tên địch, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng của địch. “Hạ tuần tháng 3 - 1975, chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng. Hơn 10 vạn quân địch bị loại khỏi vòng chiến đấu. Hơn 60 vạn dân thuộc các dân tộc ở Tây Nguyên được giải phóng. Hệ thống bố trí chiến lược của Mỹ - ngụy ở miền Nam đứng trước nguy cơ bị chia cắt làm đôi. Tuyến phòng ngự của địch dọc ven biển miền Trung bị uy hiếp trực tiếp. Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên và bước phát triển của nó đánh dấu một bước suy sụp mới của Mỹ - ngụy, một bước ngoặt trong quá trình phát triển của cục diện quân sự và chính trị ở miền Nam” [18, tr. 1266]. Toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 - Quân khu 2 của Quân đội và chính quyền Sài Gòn bị xóa sổ. Tây Nguyên được giải phóng, “Cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam đã bắt đầu” [16, tr. 310]. Chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Thứ nhất, giải phóng Huế. Ngày 18 - 3 - 1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp tại “Nhà con rồng”. Tại phiên họp này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu: “Tình hình chuyển biến rất nhanh, mở đầu tiến công mới 10 ngày, đã tiêu diệt đại bộ phận quân đoàn 2 ngụy, giải phóng Tây Nguyên. Đã xuất hiện hành động co 41
  48. cụm lớn của địch. Quân ngụy suy yếu rõ rệt. Lực lượng so sánh đã thay đổi, Mỹ cũng không dám liều lĩnh, ít khả năng can thiệp trở lại. Ta đang sung sức, lực lượng tập trung, khí thế mạnh mẽ. Quân ủy Trung ương đề nghị Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975, không chờ đến năm 1976” [18, tr. 1266]. Sau khi nghiên cứu, tính toán kĩ lưỡng, Bộ Chính trị đã: “hạ quyết tâm chuyển cuộc tiến công chiến lược thành Tổng tiến công chiến lược, hoàn thành kế hoạch hai năm 1975 - 1976 ngay trong năm 1975. Phương hướng tiến công chiến lược chủ yếu được xác định là Sài Gòn. Trước mắt, nhanh chóng tiến công tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch trong vùng 1 chiến thuật, từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi, giải phóng Huế - Đà Nẵng” [18, tr. 1269]. Ngày 19 - 3 - 1975, quân ta tấn công mạnh và giải phóng toàn bộ tỉnh Quảng Trị, phá vỡ tuyến phòng thủ phía bắc của địch. Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị “quyết tâm mở trận tiến công lớn, tiêu diệt tập đoàn phòng ngự Thừa Thiên - Huế chỉ thị cho Bộ Tổng tham mưu đôn đốc Quân khu Trị - Thiên gấp rút đưa lực lượng xuống đồng bằng, lệnh cho Quân đoàn 2 nhanh chóng cắt đứt đường sô 1, không cho địch rút về co cụm ở Đà Nẵng” [18, tr. 1272]. Vào lúc 5 giờ 40 phút ngày 21 - 3, cuộc tiến công giải phóng tỉnh Thừa Thiên - Huế chính thức diễn ra. Quân ta tấn công thọc sâu vào các căn cứ của đối phương, chặn đánh các đường rút lui của địch như đường 1 đi Đà Nẵng, cửa biển Thuận An, Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 22 - 3, quân ta tiêu diệt các vị trí của địch ở hai bên đường số 1, cắt đứt con đường bộ duy nhất để địch rút về cố thủ ở Đà Nẵng, làm cho Thừa Thiên - Huế hoàn toàn bị cô lập. “Hàng ngàn xe cộ các loại đang trên đường từ Huế chạy vào Đà Nẵng phải quay trở lại. Đối phương hoang mang cực độ. Sự hỗn loạn diễn ra chẳng khác gì ở Tây Nguyên. Không 42
  49. còn cách nào khác, ngay trong ngày 22 - 3, chúng phải huy động lực lượng phản kích nhằm giải tỏa đường số 1, song cố gắng này của địch không thành” [16, tr. 354]. Ngày 23 - 3, các hướng tiến công của Quân đoàn 2 từ hướng nam và đông nam đã hình thành thế gọng kìm, bao vây thành phố Huế và cửa biển Thuận An. Vào thời điểm này, cùng với bộ đội chủ lực, Nhân dân các địa phương của tỉnh Thừa Thiên đã nổi dậy đánh địch giành chính quyền, đồng thời vận động binh lính quân đội Sài Gòn đầu hàng chính quyền cách mạng, quay trở về với gia đình. Đến tối ngày 25 - 3 - 1975, quân Giải phóng đã tiêu diệt toàn bộ quân đội Sài Gòn ở tỉnh Thừa Thiên - Huế, kế hoạch chạy về Đà Nẵng cố thủ bị thất bại. Sáng ngày 26 - 3 - 1975, cố đô Huế và toàn bộ tỉnh Thừa Thiên được giải phóng. Sau 21 ngày đêm (từ ngày 05 đến 26 - 3 - 1975), “quân và dân Trị Thiên cùng Quân đoàn 2 đã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch đóng trên địa bàn Thừa Thiên - Huế bao gồm: Sư đoàn 1 bộ binh, Lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến, 2 liên đoàn biệt động quân (14 và 15), Lữ đoàn 1 kị binh thiết giáp, 3 thiết đoàn, 8 tiểu đoàn pháo binh, 18 tiểu đoàn bảo an, 319 trung đoàn đan vệ, Đây là một trong những thắng lợi to lớn nhất, triệt để nhất của quân và dân ta ở Trị Thiên - Huế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” [16, tr. 341]. Thứ hai, giải phóng Đà Nẵng. Ngày 24 - 3 - 1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp. Tại phiên họp này, Bộ Chính trị nêu rõ: “Cuộc Tổng tiến công chiến lược của ta đã bắt đầu vào chiến dịch Tây Nguyên. Thời cơ chiến lược đã đến. Một quyết tâm được quyết nghị: Nắm vững thời cơ chiến lược, tranh thủ thời gian cao độ, tập 43
  50. trung nỗ lực của cả nước, tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí, kĩ thuật và vật chất vào phương hướng chủ yếu, hành động nhanh chóng, táo bạo, bất ngờ, đánh cho địch không kịp trở tay, giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa. Trước mắt, kiên quyết tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Huế, Đà Nẵng và tiếp theo là trận quyết chiến chiến lược giải phóng Sài Gòn - Gia Định” [18, tr. 1276]. Đà Nẵng là thành phố lớn thứ hai của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, là căn cứ liên hiệp quân sự khổng lồ, là nơi đặt sở chỉ huy vùng 1 và Quân đoàn 1 của quân đội Sài Gòn. Tại Đà Nẵng, địch có khoảng 10 vạn quân, bao gồm 15 tiểu đoàn chủ lực thuộc Sư đoàn 3 bộ binh, hàng chục tiểu đoàn bảo an, hàng trăm trung đội dân vệ, khoảng 5.000 cảnh sát, Ngay sau khi Huế thất thủ, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho tướng Ngô Quang Trưởng phải giữ được Đà Nẵng bằng mọi giá, chặn bước tiến công của quân giải phóng. Sau khi nghe Cục Quân báo cáo tình hình về Đà Nẵng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ đạo cho Quân đoàn 2: “Cần nhanh chóng tiến đánh Đà Nẵng . Nếu có hiện tượng địch rút thì phải lập tức đánh tràn tới. Nếu chúng co cụm và cố thủ thì bao vây thật chặt, đánh ghìm chân không cho rút. Đồng thời tập trung lực lượng theo hướng đường số 14 và đường 1, tiêu diệt địch, chiếm khu vực tây và tây bắc thành phố, thọc sâu vào cầu Trịnh Minh Thế, chặn đường rút của địch quan bán đảo Sơn Trà. Ký tên: Văn” [18, tr. 1285]. Cũng vào thời gian này, với tư cách Bí thư Quân ủy Trung ương, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị: “Cần nắm vững phương châm táo bạo, bất ngờ, kịp thời, chắc thắng, khẩn trương tiến công bao vây tiêu diệt địch, khống chế sân bay, bến cảng, chú ý làm tốt việc tù, hàng binh và chính sách chiếm lợi phẩm. Nhanh chóng tổ chức tăng cường lực lượng phát triển vào phía Nam” [8, tr. 1286]. 44
  51. Ngày 27 - 3 - 1975, Quân đoàn 2 và một Sư đoàn của Quân đoàn 1 tiến công vào phía bắc Đà Nẵng theo hai hướng. Sư đoàn 304 tấn công Đà Nẵng từ hướng tây nam. Cùng với các đơn vị bộ đội tấn công dồn dập vào Đà Nẵng, Đặc khu ủy cũng đã phát động tổng tiến công và nổi dậy trong nội thành. Đã giành chính quyền ở một số khu phố. Khi các mũi tấn công tiến vào Đà Nẵng đã được các lực lượng tại chỗ dẫn đường, nhanh chóng đánh sập các cơ sở của chính quyền Sài Gòn. Đến 15 giờ ngày 29 - 3 - 1975, thành phố Đà Nẵng và toàn bộ tỉnh Quảng Đà đã được hoàn toàn giải phóng, “Thắng lợi của chiến dịch Đà Nẵng đã đập tan âm mưu co cụm chiến lược của địch. Thắng lợi đó đã góp phần rất quan trọng đập tan một lực lượng quân sự lớn và bố máy kìm kẹp của địch trên toàn bộ Quân khu 1 của chúng , đẩy địch vào thế thất bại hết sức nghiêm trọng không gì cứu vãn nổi, thúc đẩy thế tiến lên tất thắng của quân và dân ta. Cùng với thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Trị - Thiên làm thay đổi so sánh tương quan lực lượng địch ta, tạo ra bước nhảy vọt theo hướng có lợi cho ta. Với việc tiêu diệt một bộ phận lớn quân địch, làm tan rã lớn về tổ chức, đẩy chúng vào thế bế tắc cả về chiến thuật, chiến lược mở ra thời cơ thuận lợi để ta thực hiện trận quyết chiến chiến lược cuối cùng giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam” [16, tr. 380]. Thứ ba, giải phóng quần đảo Trường Sa và các đảo trên biển Đông. Việc quần đảo Trường Sa và các đảo trên biển Đông lúc đầu không nằm trong kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Ngay sau khi ta giành thắng lợi ở Buôn Ma Thuật, Quân ủy Trung ương đã đề nghị Bộ Chính trị: “Vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo do quân ngụy đang chiếm giữ” [18, tr. 1312 và tr.1314]. 45
  52. Đại tướng Võ Nguyên Giáp yêu cầu “Bộ Tổng tham mưu, Bộ Ngoại giao cung cấp tài liệu về các đảo, quần đảo thuộc vùng biển của Việt Nam, đồng thời chỉ thị cho cục Quân báo nắm tình hình địch ở biển Đông” [18, tr. 1312 và tr.1314]. Vào thời điểm này, lợi dụng chính quyền và quân đội Sài Gòn suy yếu, lực lượng hải quân của nước ngoài (Trung Quốc, Đài Loan, Philippin) đã triển khai chiếm giữ trái phép một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Nếu như ta hành động chậm trễ thì một phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc sẽ bị nước ngoài chiếm đóng, thắng lợi sẽ không chọn vẹn và sau này sẽ rất phức tạp. Chính vì vậy, “trên mặt trận biển Đông, hành động cũng phải thần tốc, bất ngờ, táo bạo, chắc thắng” [18, tr. 1312 và tr.1314]. Ngày 02 - 4, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị cho các đơn vị Hải quân tổ chức tiến công giải phóng các đảo, đặc biệt là quần đảo Trường Sa. Ông nhắc nhở các đơn vị: “có thời cơ là đánh được ngay, bảo đảm chắc thắng. Đánh phải đúng lúc. Nếu có hiện tượng chúng rút, phải tranh thủ chiếm ngay” [18, tr. 1314]. Bằng các phương tiện sẵn có và với tinh thần khẩn trương cao độ, ngày 04 - 4 - 1975, Hải Quân Nhân dân Việt Nam bắt đầu tiến công giải phóng Trường Sa. Vào lúc 14 giờ 30 phút sáng 14 - 4 - 1975, ta tấn công và nhanh chóng giải phóng đảo Song Tử Tây. Đến ngày 25 - 4, quân ta tiến công và giải phóng đảo Sơn Ca. Ngày 27 - 4, ta giải phóng đảo Nam Yết và Sinh Tồn. Ngày 28 - 4, ta giải phóng đảo Trường Sa lớn, đến 9 giờ 30 phút, toàn bộ quần đảo Trường Sa đã được giải phóng. Đây là thắng lợi to lớn, góp phần vào thắng lợi chung của cả dân tộc. Những ngày tháng 4 - 1975, trong không khí tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, các lực lượng của ta cũng giải phóng các đảo: Cù lao Xanh (01 - 4), Cù lao Chăm, Cù lao Ré (30 - 4), Cù lao Thu (27 - 4). 46
  53. Khi Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử diễn ra, ta cũng tiến hành giải phóng các đảo nằm ở cực nam đất nước: Phú Quốc (30 - 4), Côn Đảo (01 - 5). “Việc giải phóng các đảo và quần đảo trên biển Đông do quân đội Sài Gòn chiếm đóng có ý nghĩa rất lớn, bởi đây là một phần lãnh thổ Việt Nam, có vị trí chiến lược quan trọng cả về quân sự và kinh tế mà nhiều nước nhòm ngó muốn chiếm. Nhờ đánh chiếm các đảo sớm, ta ngăn được ý đồ của một số nước, bảo vệ được toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ Việt Nam” [16, tr. 399]. Thứ tư, chiến dịch Hồ Chí Minh. Ngày 31 - 3 - 1975, Bộ Chính trị họp hội nghị mở rộng. Cuộc họp lịch sử này bàn về đòn chiến lược thứ ba để kết thúc cuộc kháng chiến trường kì đã kéo dài 21 năm. Tại hội nghị, Bộ Chính trị nhận định: Thời cơ lớn đã xuất hiện, đồng thời quyết tâm thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề nghị: “Cần khẩn trương xây dựng kế hoạch tác chiến, thực hiện bao vây chiến lược ở phía đông và phía tây Sài Gòn - Gia Định, sử dụng nắm đấm chủ lực, bất ngờ thọc sâu tiêu diệt địch. Đánh một trận là thắng. Phương châm là: thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” [18, tr. 1292]. Cuộc họp của Bộ Chính trị ngày 31 - 3 - 1975, “số phận của chế độ Sài Gòn đã được định đoạt. Quyết tâm của Bộ Chính trị cổ vũ mạnh mẽ nhiệt tình cách mạng của toàn Đảng toàn quân, toàn dân” [18, tr. 1293]. Ngày 14 - 4 - 1975, theo đề nghị của Bộ Chỉ huy chiến dịch và nguyện vọng của đồng bào, chiến sĩ cả nước, Bộ Chính trị đã quyết định đặt tên cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn mang tên Bác - Chiến dịch Hồ Chí Minh. Bộ Chính trị yêu cầu gấp rút tăng cường vũ khí, phương tiện và lực lượng vào Sài Gòn; tổ chức sẵn các đơn vị chính quy cơ động mạnh để kịp thời đánh chiếm các mục tiêu quan trọng trong nội bộ Sài Gòn. Đồng thời, Bộ 47
  54. Chính trị cũng quyết định lập Bộ Chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh để kịp thời chỉ huy mặt trận. Các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị: Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng được cử làm đại diện của Bộ Chính trị tại mặt trận. Bộ Chỉ huy chiến dịch gồm: Tư lệnh: Đại tướng Văn Tiến Dũng, Chính ủy: Phạm Hùng, Phó Tư lệnh: Trần Văn Trà, Đinh Đức Thiện, Lê Đức Anh, quyền tham mưu trưởng chiến dịch: Lê Ngọc Hiền. Ngày 22 - 4, bổ sung thêm Lê Trọng Tấn làm Phó Tư lệnh, Lê Quang Hòa làm Phó Chính ủy chiến dịch. Ngày 07 - 4 - 1975, thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra mệnh lệnh cho cánh quân: “Mệnh lệnh: 1. Thần tốc, thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng. 2. Truyền đạt tức khắc đến đảng viên, chiến sĩ. Ký tên: Văn” [18, tr. 1306]. Vào giữa tháng 4 - 1975, các đơn vị đã sẵn sàng. Ngày 15 - 4, ta tập trung tấn công tuyến phòng ngự Phan Rang của địch, sáng ngày 16 - 4, ta dồn hỏa lực đánh vào các mục tiêu trong thị xã. Tối ngày 16 - 4, tỉnh Ninh Thuận và phía bắc tỉnh Bình Thuận được giải phóng. Ngày 21 - 4, “tuyến phòng thủ Xuân - Lộc - cánh cửa thép bảo vệ phía đông Sài Gòn đã bị đập tan, thị xã Xuân Lộc và toàn bộ tỉnh Long Khánh hoàn toàn giải phóng. Chiến thắng Xuân Lộc - Long Khánh tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân trên hướng đông và đông bắc chuẩn bị lực lượng, thế trận cung quân và dân trên các hướng sau này tiến công vào Sài Gòn - Gia Định” [16, tr. 434]. Đúng 17 giờ ngày 26 - 4 - 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh chính thức bắt đầu, quân ta nổ súng, tấn công mạnh vào Sài Gòn. Năm cánh quân chủ lực phối hợp chặt chẽ với sự nổi dậy của quần chúng, mở đường để quân chính quy tiến vào trung tâm Sài Gòn. 48
  55. Chiều ngày 28 - 4, ta tập kích sân bay Tân Sơn Nhất, làm tê liệt đường không của địch. Đến ngày 29 - 4, quân ta tổng công kích trên toàn mặt trận, đạp tan tuyến phòng thủ vòng ngoài của quân đội Sài Gòn. Sáng ngày 30 - 4 - 1975, quân ta đã tới xa lộ Biên Hòa - Sài Gòn. Vào lúc 5 giờ sáng ngày 30 - 4, đội hình quân ta đã tiến trên con đường dẫn vào nội đô Sài Gòn. Vào lúc 9 giờ, lực lượng thọc sâu đột kích của Quân đoàn 2 tiếp tục vượt qua cầu Sài Gòn, tiến về phía Dinh Độc Lập. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30 - 4 - 1975, lá cờ của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam được kéo lên cột cờ cao nhất của Dinh Độc Lập, báo hiệu thời khắc chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không điều kiện và bàn giao chính quyền cho chính quyền cách mạng. Trong hai ngày 30 - 4 và 01 - 5 - 1975, quân và dân các tỉnh Đồng bằng sông Cửa Long cũng tiến công vũ trang và nổi dậy giành chính quyền, giải phóng quê hương. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 đã kết thúc thắng lợi, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã toàn thắng. 49
  56. TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 Sau khi Hiệp định Pa - ri được kí kết (27 - 1 - 1973), “Mỹ cút” nhưng “ngụy” chưa nhào, nhiệm vụ cấp bách lúc này là phải thống nhất lãnh thổ của Tổ quốc, thu non sông về một mối. Nhận thấy thời cơ chiến lược đã đến, Bộ Chính trị - Quân ủy Trung ương đã quyết định “giải phóng hoàn toàn miền Nam trước mùa mưa năm 1975”. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 diễn ra trong 55 ngày đêm, qua ba chiến dịch lớn là Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn. Ngày 30 - 4 - 1975, miền Nam được giải phóng, Bắc - Nam sum họp một nhà, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã kết thúc thắng lợi vẻ vang. Trong sự lãnh đạo, chỉ đạo chung của tập thể Bộ chính trị, sự chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, có vai trò chỉ đạo, chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, mệnh lệnh của ông “thần tốc, thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa Tranh thủ từng giờ, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng” đã trở thành phương châm cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, góp phần vào thắng lợi cuối cùng. 50
  57. KẾT LUẬN Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với tập thể Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, đứng đầu là Củ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại lãnh đạo, chỉ đạo, động viên toàn Đảng, toàn dân ta, hai miền Nam - Bắc chiến đấu để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp cũng đã có những chỉ đạo riêng về mặt quân sự, kịp thời định hướng, động viên các cán bộ và chiến sĩ toàn quân vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thời kì chống Mỹ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có vai trò to lớn sau: Vai trò thứ nhất, chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch. Hầu hết tất cả các chiến dịch trong thời kì chống Mỹ đều có sự chỉ đạo của Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp, sự chỉ đạo của ông mang tính chất từ xa, khác với sự chỉ đạo trực tiếp trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đặc biệt, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ra lệnh cho các đơn vị hành quân ra mặt trận: “Thần tốc, thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng.” Nhận lệnh của Đại tướng không chỉ là bản “quân lệnh”, là phương châm tác chiến cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mà còn là nguồn cổ vũ, động viên lớn lao đối với toàn quân. Đánh giá vai trò chỉ đạo chiến dịch của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong thời kì chống Mỹ, tác giả Jacques Decorroy đã nhận định: “Tại Hà Nội, ông theo dõi các trận đánh ở miền Nam như đang chỉ đạo từ một hầm ngầm trong rừng rậm. Ông đã làm nên một Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Ông luôn luôn tin chắc sẽ chiến thắng đế quốc Mỹ” [12, tr. 243]. 51
  58. Vai trò chỉ đạo chiến dịch của Võ Nguyên Giáp trong thời kì kháng chiến chống Mỹ thể hiện tầm nhìn chiến lược và tài quân sự của ông, đưa ông trở thành “nhận vật lịch sử nổi bật hàng đầu của lịch sử hiện đại Việt Nam mà tên tuổi gắn liền với cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc, hai cuộc kháng chiến chống lại hai đế quốc lớn để bảo vệ nền độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia. Đó cũng là tên tuổi gắn liền với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng” [12, tr. 7]. Vai trò thứ hai: phát triển nghệ thuật chiến tranh nhân dân. Từ xưa, dân tộc Việt Nam đã có truyền thống đánh giặc theo phương châm “lấy ít địch nhiều, lấy yếu địch mạnh”, gắn liền với nhiều kế sách đặc sắc của cha ông ta như: “Tiêu phát chế nhân”, “Dĩ đoản chế trường” với tên tuổi của các nhà chỉ huy quân sự lỗi lạc như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Kế thừa nghệ thuật quân sự của cha ông, trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thấm nhuần quan điểm chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã vận dụng nghệ thuật chiến tranh nhân dân, lấy đó là “nền tảng” để chiến đấu, chiến thắng quân đội viễn chinh Mỹ, “Võ Nguyên Giáp là sự kế thừa có chọn lọc những tư tưởng quân sự của các nhà cách mạng hiện đại như Lênin và Mao Trạch Đông cũng như các nhà chiến lược quân sự kinh điển như Clausewitz và Tôn Tử, Nhưng trước hết, Võ Nguyên Giáp là sự vận dụng trung thành với tư tưởng của Hồ Chí Minh cũng là của Đảng về chiến tranh nhân dân Việt Nam mà cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất là một thành công” [12, tr. 9]. Đại“tướng Võ Nguyên Giáp là nhà chỉ huy quân sư thiên tài, là người cộng sự, học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Trong kháng chiến chống Mỹ, ông cùng với tập thể Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam chỉ đạo Nhân dân ta chống chiến tranh phá 52
  59. hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, chỉ đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.” Tên tuổi Đại tướng Võ Nguyên Giáp sẽ sống mãi với đất nước Việt Nam. Nghiên cứu về vai trò của ông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thêm một lần nữa thấy được tài năng, tầm vóc của vị tướng kiệt xuất, càng thấy biết ơn công lao của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng là của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, các anh hùng liệt sĩ đối với dân tộc đối với dân tộc. Như sinh thời chính Đại tướng đã từng tâm sự: “Tôi sống ngày nào cũng là vì đất nước ngày đó”. 53
  60. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Chấ p Hành Trung ương Đảng Công̣ sản Viêṭ Nam (2015), Văn kiêṇ Đảng thờ i kì chố ng Mỹ cứ u nướ c, NXB Chính tri ̣quố c gia, Hà Nôi.̣ 2. Trầ n Thái Bình (2011), Võ Nguyên Giá p - Hà o khí trăm năm, NXB Tuổi trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Đăng̣ Anh Đào (2014), Võ Nguyêñ Giá p qua lờ i kể những ngườ i thân, NXB Văn hóa - văn nghê,̣ Hà Nôi.̣ 4. Võ Nguyên Giáp (2015), Tổng hà nh dinh trong mù a xuân toà n thắ ng (hồ i ứ c), NXB Chính tri ̣quố c gia, Hà Nôi.̣ 5. Lê Mâụ Hãn (Chủ biên) (2000), Đaị cương licḥ sử Viêṭ Nam, tập 3, NXB Giáo duc,̣ Hà Nôi.̣ 6. Nguyêñ Hòa (2016), Đaị tướ ng - Tổng tư lênḥ Võ Nguyên Giá p trong cuôc̣ trườ ng chinh licḥ sử cù ng dân tôc̣ , NXB Hồ ng Đứ c, Hà Nôi.̣ 7. Nguyêñ Trung Kiên, Thùy Linh, Nguyêñ Hòa (2014), Đaị tướ ng Võ Nguyên Giá p - những dấ u ấ n thờ i gian, NXB Văn hóa dân tôc,̣ Hà Nôi.̣ 8. Hồ Chí Minh (2011), Toà n tâp̣ , tâp̣ 14, NXB Chính tri ̣quố c gia, Hà Nôi.̣ 9. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tâp,̣ tâp̣ 15, NXB Chính tri ̣quố c gia, Hà Nôi.̣ 10. Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2015), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tập IV, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 11. Phạm Hồng Cư (2015), Đại tướng Võ Nguyên Giáp thời trẻ, NXB Thanh niên, Hà Nội. 12. Georges Boudarel (2014), Võ Nguyên Giáp, NXB Thế giới, Hà Nội 13. Tuyên bố của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, ngày 03 - 8 - 1965. 14. Bộ Quốc Phòng (2015), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước,tập V, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 54
  61. 15. Bộ Quốc Phòng (2016), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tập VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 34, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 17. Võ Nguyên Giáp (2014), Tổng tập Hồi kí, NXB Quân đội Việt Nam, Hà Nội. 18. Viêṇ Licḥ sử quân sư ̣ Viêṭ Nam (2014), Licḥ sử tư tưởng quân sư ̣ Viêṭ Nam, tâp̣ IV, NXB Chính tri ̣quố c gia, Hà Nôi.̣ 55