Khóa luận Tư tưởng đạo đức học trong phân tâm học của Sigmund Freud
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tư tưởng đạo đức học trong phân tâm học của Sigmund Freud", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_tu_tuong_dao_duc_hoc_trong_phan_tam_hoc_cua_sigmun.pdf
Nội dung text: Khóa luận Tư tưởng đạo đức học trong phân tâm học của Sigmund Freud
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC PHẠM THỊ HOA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỌC TRONG PHÂN TÂM HỌC CỦA SIGMUND FREUD Khóa luận tốt nghiệp hệ đại học chính quy Ngành: Triết học (Chương trình đào tạo: chuẩn) Hà Nội – 2019
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC PHẠM THỊ HOA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỌC TRONG PHÂN TÂM HỌC CỦA SIGMUND FREUD Khóa luận tốt nghiệp hệ đại học chính quy Ngành: Triết học (Chương trình đào tạo: chuẩn) Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn Hà Nội – 2019
- LỜI CẢM ƠN Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời gian em học tập tại khoa, tại trường. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn đã giúp đỡ và hướng dẫn em rất tận tình trong quá trình thực hiện và hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp này. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa luận sẽ không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, các cô, cùng toàn thể các bạn để khóa luận này được hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2019 Sinh viên Phạm Thị Hoa
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỌC TRONG PHÂN TÂM HỌC CỦA SIGMUND FREUD 6 1.1. Điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, tinh thần châu Âu cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX của sự hình thành tư tưởng đạo đức học Freud 6 1.2. Những tiền đề khoa học của sự hình thành và phát triển tư tưởng đạo đức học trong Phân tâm học của Freud 8 1.2.1. Những tiền đề khoa học tự nhiên, y học và tâm lý học cuối thế kỷ XIX -đầu thế kỷ XX 8 1.2.2. Những tiền đề triết học của tư tưởng Freud về đạo đức học 10 1.3. Cuộc đời, sự nghiệp và những tác phẩm chủ yếu của S.Freud 16 1.3.1. Đôi nét về cuộc đời Sigmund Freud 16 1.3.2. Nguồn gốc của phân tâm học Sigmund Freud 21 1.3.3. Những nền tảng triết học phân tâm học 23 TIỂU KẾT CHƯƠNG I 34 CHƯƠNG 2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỌC S.FREUD 36 2.1. Quan niệm về thiện ác, lương tâm, nghĩa vụ, tự do, trách nhiệm và bản chất của tư tưởng đạo đức học trong phân tâm học của Freud 37 2.2. Một số đánh giá về tư tưởng đạo đức học của Freud 57 2.2.1. Nhận xét chung về tư tưởng đạo đức học của Freud 57 2.2.2. Những điểm tích cực trong tư tưởng đạo đức học của Freud 61 2.2.3. Hạn chế của tư tưởng đạo đức học Freud 63 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 65 KẾT LUẬN 688 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .80
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chúng ta đang sống trong một xã hội hiện đại vô cùng phức tạp, con người vẫn luôn phải đối mặt với vô vàn những vấn đề tâm - sinh lý nan giải. Việc tìm ra định hướng sống phù hợp với bản chất văn hóa, nhân văn của mình là một nhiệm vụ thực sự cấp bách của con người hiện nay. Lịch sử văn minh nhân loại cho chúng ta thấy, phần lớn những thành tựu mà con người đã đạt được cho tới nay đều dựa trên khoa học, tư duy lý tính vốn chủ yếu được hình thành vào thời cận đại ở Tây Âu. Tuy nhiên, định hướng tư duy và lối sống duy khoa học - kỹ thuật, kỹ trị và việc đề cao thái quá những giá trị vật chất do văn minh công nghệ mang lại đã đưa loài người đến những thảm họa của thời hiện đại, mà biểu hiện rõ nhất là hai cuộc thế chiến ở thế kỷ XX. Nguy hiểm hơn, cách tiếp cận duy lý cực đoan tới con người, bản tính người đã đơn giản hóa nhiều vấn đề của tồn tại người, làm lu mờ nhiều đặc điểm quan trọng của con người, khiến cho nó bị đẩy vào tình trạng bế tắc dù cố gắng vùng vẫy để thoát ra khỏi những tình huống sinh hoạt gay cấn. Hoàn cảnh sinh tồn của người phương Tây hiện đại đã làm cho họ lâm vào khủng hoảng tinh thần sâu sắc, buộc người ta phải tìm hiểu kỹ lưỡng và toàn diện hơn “thế giới nội tâm”, bản tính người của mình như con đường, tiền đề lý luận để có được định hướng giá trị đáng tin cậy. Phân tâm học gắn liền với tên tuổi Sigmud Freud đã ra đời trong điều kiện đó và nhằm đáp ứng nhu cầu đó của con người phương Tây từ cuối thế kỷ XIX. Sigmund Freud (1856 - 1939) là một trong những nhà khoa học được liệt kê trong cuốn “On Giants’ Shoulders” (Đứng trên vai những người khổng lồ) của Melvyn Bragg, bên cạnh những tên tuổi vĩ đại khác như Archimedes, Galileo Galilei, Isaac Newton, Henri Poincaré, Albert Einstein. Công lao chủ yếu của Freud là khám phá ra vô thức (unconsciousness) như tầng tư duy nền tảng định hướng mọi hành vi của con người. Khám phá này được coi như một cuộc cách mạng trong nhận thức về bản chất của hành vi, bởi trước đó nền văn minh có xu hướng đề cao ý thức như phần tư duy chủ yếu của con người. Cho đến nay, các quan điểm phân tâm học cơ bản của Freud không những vẫn bảo toàn giá trị mà còn được các thế hệ kế tiếp ông làm phong phú, sâu sắc và phát triển toàn diện hơn. Tư tưởng của Freud hiện nay không chỉ được nghiên cứu đơn 1
- thuần như một lý thuyết y học hay tâm lý học, mà còn được nghiên cứu ở các khía cạnh triết học, văn hóa học, nghệ thuật, tôn giáo, nhân học, xã hội học nhằm tạo dựng giá trị, lối sống và hơn nữa là giúp con người hiểu một cách sâu sắc và toàn diện hơn về chính bản thân mình. Tất cả những lĩnh vực nghiên cứu đó và ứng dụng của chúng cho thấy ảnh hưởng của phân tâm học đã tạo ra một sự quan tâm đặc biệt, sâu sắc, có ý nghĩa to lớn, không chỉ đối với triết học mà đối với xã hội tri thức nói chung. Tuy nhiên, việc nghiên cứu phân tâm học trên phương diện triết học chưa được thực hiện nhiều, nhất là ở Việt Nam. Tôi cũng ý thức được rằng, khía cạnh triết học trong phân tâm học không tồn tại một cách cụ thể, nhưng cũng không quá chung chung. Có thể nhận thấy rằng, vốn là học thuyết tâm lý học được Freud sử dụng vào nghiên cứu con người và các vấn đề của đời sống xã hội khác nhau, nên phân tâm học cũng đòi hỏi sự lý giải của triết học. Thực sự, Freud đã có những phát hiện mới cho quan niệm về con người so với triết học truyền thống. Những điểm mới đó bao hàm một sự hiểu biết triết học sâu sắc về tồn tại người trong thế giới hiện đại. Ở Việt Nam, phân tâm học thực ra không xa lạ bởi nó đã được giới thiệu từ những năm 30 - 40 của thế kỷ trước. Khi ấy, nội dung chủ yếu được quan tâm của phân tâm học là sự ứng dụng những lý thuyết của Freud để lý giải hoạt động sáng tác và phê bình văn học nghệ thuật. Điều đó cho thấy việc tiếp nhận tư tưởng của Freud thời kỳ đầu và sau này còn mang tính chọn lọc, một chiều. Trong bối cảnh tiếp biến văn hóa toàn cầu và hội nhập quốc tế hiện nay, chúng ta không thể tránh đối diện với những vấn đề của con người sống trong xã hội hiện đại. Những áp lực và đòi hỏi của cuộc sống hiện đại đã khiến cho con người rơi vào trạng thái trầm cảm, căng thẳng, mệt mỏi, thậm chí còn làm gia tăng số ca mắc bệnh tâm thần. Một bộ phận không nhỏ thanh, thiếu niên hiện nay ở nước ta đang hiểu lầm, hiểu sai về lối sống và văn hóa phương Tây, đặc biệt là về cuộc cách mạng tình dục dường như được khởi xướng từ lý thuyết Freud, nên đã có những hành vi lệch chuẩn so với đạo đức truyền thống và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Lối sống gấp và ích kỷ, thói đạo đức giả đang trở thành hiện tượng phổ biến trong xã hội đang là những vấn đề báo động cho cả gia đình lẫn xã hội và đặt ra những thách thức cho nền giáo dục Việt Nam. Mặt khác, trong quá trình đổi mới, Đảng và nhà nước ta đang có chủ 2
- trương coi con người là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất để xây dựng và phát triển đất nước thì việc xem xét một cách nghiêm túc các quan niệm về con người cũng như tư tưởng triết học của Freud để có một cái nhìn khách quan, biện chứng về nó nhằm góp thêm một hướng đi mới trong nghiên cứu con người Việt Nam hiện đại là một việc làm vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp bách. Vì những lý do trên, Tôi quyết định chọn vấn đề Tư tưởng đạo đức học trong Phân tâm học của S. Freud làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình với hy vọng làm rõ tư tưởng đạo đức học trong phân tâm học của S. Freud đồng thời gợi ý một cách tiếp cận mới, tìm hướng đi mới cho nghiên cứu con người Việt Nam trong xã hội hiện đại. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Tác giả Nguyễn Vũ Hảo (2013) trong Một số quan niệm đạo đức học phương Tây hiện đại và ảnh hưởng của chúng ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay [10], cũng đã bàn đến những nội dung đạo đức cơ bản của Freud. Theo tác giả: “Ngay từ đầu Freud đã coi luân lý đạo đức là lĩnh vực liên quan đến sự ép, sự cưỡng bức và sự đánh mất tự do” [10, 115]. Tác giả đánh giá về quan niệm đạo đức của Freud rằng, đạo đức học trong phân tâm học dựa trên nền tảng triết học nhân bản phi duy lý với cách tiếp cận rất mới và độc đáo đối với các vấn đề con người, cơ cấu tâm lý cá nhân, đặc biệt là vô thức với tính cách là khởi nguồn, nguyên nhân và yếu tố tác động cơ bản đến các hành vi đạo đức của con người trong xã hội. Vấn đề đạo đức học và triết học văn hóa cũng được bản đến trong cuốn Nhân học triết học Freud và ảnh hưởng của nó đến nhân học triết học phương Tây hiện đại. Các tác giả cho rằng, Freud xem xét quan niệm đạo đức để trả lời cho hai vấn đề: thứ nhất, phải chăng những hiện tượng tâm thần xấu xa bộc lộ ra trong giấc mơ thực sự khẳng định ý kiến của một số nhà triết học về bản tính ác của con người? Thứ hai, vì chú giải giấc mơ cho thấy những thiên hướng và ham muốn xấu xa của con người, nên chúng là gì và bản chất của chúng là gì? [12, 274]. Do vậy, các tác giả cho rằng thực chất quan niệm đạo đức của Freud là đi tìm nguồn gốc của đạo đức và những yêu cầu của đạo đức trong xã hội hiện đại. Về quan niệm văn hóa, các tác giả đã xác định tiền đề để Freud triển khai triết học văn hóa là xem xét tồn tại 3
- người trên phương diện xã hội tính, quan hệ xã hội, nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa trong con người [12, 319-322]. Trong một số bài viết như của Nguyễn Vũ Hảo (2013) Đạo đức học phương Tây đương đại: Tổng quan các trào lưu và vấn đề chủ yếu, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội [9] và của Châu Khê (2011), Luận bàn về tính thiện ác - Học thuyết của Sigmund Freud [15] cũng ít nhiều đề cập đến quan niệm của Freud về tôn giáo, đạo đức. Như vậy, có thể nói, các vấn đề tôn giáo, đạo đức và văn hóa trong quan niệm của Freud đã được nhiều tác giả quan tâm. Tuy nhiên, điều chủ yếu mà họ chú ý thuộc về những nội dung cơ bản của tư tưởng, họ chưa bàn nhiều về khía cạnh triết học của đạo đức học Freud. Trên cơ sở những nghiên cứu ấy, khóa luận sẽ tiếp tục phát triển và đặc biệt là làm rõ khía cạnh triết học của những nội dung trên. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Nghiên cứu chuyên sâu và trình bày có hệ thống nội dung tư tưởng đạo đức học chủ yếu trong Phân tâm học của Freud và những đánh giá về ông với tư cách là một nhà triết học phương Tây hiện đại. Nhiệm vụ: - Trình bày những điều kiện và tiền đề cho sự hình thành và phát triển tư tưởng đạo đức học trong Phân tâm học của Freud. - Phân tích những nội dung chủ yếu của đạo đức học trong phân tâm học Freud trên các phương diện để thấy được những đóng góp mới của ông trong quan niệm về đạo đức học. - Trình bày một số đánh giá về tư tưởng đạo đức học của S.Freud, những mặt tích cực và tiêu cực bổ sung vào hệ thống tri thức về đạo đức học hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là nội dung cơ bản của đạo đức học trong Phân tâm học của Freud. Phạm vi: Khóa luận tập trung khảo cứu, làm rõ những nội dung cơ bản về quan niệm thiện ác, lương tâm, nghĩa vụ, tự do, trách nhiệm, bản chất và nguồn gốc của đạo đức trong Phân tâm học của Freud. Có thể nói, sự lý giải của Freud về cái vô thức là lý thuyết nền tảng và là đóng góp lớn nhất của ông ở phương diện triết học. Do vậy, có 4
- thể sử dụng kết quả của sự lý giải này để hiểu toàn bộ các quan niệm khác như về con người, đạo đức học và triết học văn hóa. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Khóa luận được thực hiện dựa trên quan điểm triết học Mác – Lênin về mối quan hệ giữa ý thức xã hội với tồn tại xã hội, về sự thống nhất lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu tư tưởng đạo đức học. Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu biện chứng như: thống nhất lịch sử - logic; phân tích và tổng hợp; đối chiếu so sánh tài liệu; phương pháp hệ thống - cấu trúc 6. Đóng góp mới của khóa luận - Khóa luận khẳng định, ở Freud có tư tưởng đạo đức học với những tiền đề từ chính triết học và những nội dung phong phú, sâu sắc đáp ứng khuôn mẫu của một học thuyết triết học kinh điển. - Khóa luận không chỉ khảo cứu, phân tích và trình bày có hệ thống để làm rõ những nội dung đạo đức học chủ yếu trong Phân tâm học của Freud nhằm xác định vị trí của ông trong dòng chảy triết học phương Tây hiện đại mà còn chỉ ra những giá trị và hạn chế thông qua sự đánh giá tư tưởng đạo đức học của ông từ các trào lưu triết học khác. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận Ý nghĩa lý luận: Khóa luận góp phần nghiên cứu có hệ thống những nội dung đạo đức học cơ bản trong Phân tâm học của Freud - một lĩnh vực vẫn chưa được nghiên cứu chuyên sâu ở Việt Nam - để làm rõ những đóng góp về đạo đức học trong phân tâm học Freud trong việc mở ra một cách tiếp cận mới trong nghiên cứu con người Việt Nam. Ý nghĩa thực tiễn: Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho mọi người quan tâm tìm hiểu tư tưởng đạo đức học trong Phân tâm học của Freud và cho các nhà nghiên cứu có mong muốn vận dụng lý thuyết này trong nghiên cứu con người hiện nay ở Việt Nam. 8. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 2 chương, 5 tiết. 5
- CHƯƠNG 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỌC TRONG PHÂN TÂM HỌC CỦA SIGMUND FREUD 1.1. Điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, tinh thần châu Âu cuối thế kỷ XIX -đầu thế kỷ XX của sự hình thành tư tưởng đạo đức học Freud Từ giữa thế kỷ XIX là thời kỳ lịch sử châu Âu có nhiều biến đổi lớn và ở nước Áo - quê hương Freud chịu nhiều tác động bởi những biến đổi . Năm 1848, cuộc cách mạng Áo nổ ra nhằm thực hiện mục tiêu lật đổ chế độ phong kiến, giải phóng nhân dân thoát khỏi sự thống trị của giai cấp địa chủ quý tộc. Nhưng cuộc cách mạng đó bị thất bại, chế độ phong kiến của vương triều Habsbourg lại được khôi phục dẫn đến sự áp bức ngày càng nặng nề, mâu thuẫn trong xã hội ngày càng gay gắt. Đồng thời lúc này, phương thức sản xuất TBCN ở Tây Âu về cơ bản đã được xác lập và phát triển mạnh mẽ đang từng bước chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa Đế quốc. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ được tính ưu việt của mình so với các phương thức sản xuất trước đó. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế thì trong đời sống tinh thần cũng xuất hiện những mâu thuẫn gay gắt thuộc nhiều lĩnh vực như tư tưởng, chính trị, triết học, tôn giáo khiến cho đời sống xã hội trở nên mong manh, nhạy cảm, căng thẳng và phức tạp hơn [17, 9]. Freud sống ở Viên - thủ đô nước Áo, một trong những thành lũy của chủ nghĩa tư bản Tây Âu lúc bấy giờ. Nhìn bề ngoài thành Viên hoa lệ, hoành tráng nhưng lại che giấu bên trong nó một lò lửa sục sôi đầy rẫy những mâu thuẫn kinh tế, xã hội và tư tưởng. Bạo loạn, chiến tranh, chết chóc xảy ra thường xuyên. Freud đã chứng kiến thực tế ấy và ngay chính gia đình, những người thân của ông cũng phải đối mặt với hiện thực xã hội ấy. Hai người anh trai của ông bị buộc phải tham gia cuộc chiến tranh giữa Ý, Pháp, Phổ và Áo, gia đình ông phải chạy loạn đến Laizic để lánh nạn. Đồng thời, lúc này sự biến đổi về kinh tế của toàn bộ đế quốc Áo - Hung, công việc làm ăn khó khăn khiến gia đình của Freud phải ly tán. Vào độ tuổi trưởng thành, bản thân Freud đã tận mắt chứng kiến hoặc tham gia các cuộc chiến tranh: Mỹ - Tây Ban Nha, Nhật - Nga và Đại chiến thế giới lần thứ nhất. Những cuộc chiến tranh này không chỉ làm hao tổn sức người, sức của mà còn gây ra vết thương tinh thần to lớn. Sự xáo trộn trong đời sống kinh tế, chính trị và sự dồn nén, ức chế của xã hội dẫn đến 6
- số bệnh nhân tâm thần tăng vọt. Việc là nhân chứng và trực tiếp tham gia vào những diễn biến số phận của con người và xã hội như vậy đã có ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển tư tưởng của Freud [17, 8-9]. Thái độ của xã hội đối với vấn đề tình dục, bầu không khí ở Viên, nơi Freud sống và làm việc vào cuối thế kỷ XIX cũng là một thể hiện của “tinh thần thời đại” có ảnh hưởng không nhỏ đến quan điểm của Freud. Trong xã hội xuất hiện đầy rẫy mâu thuẫn và căng thẳng, với thói đạo đức giả tràn lan. Dưới triều đại nữ hoàng Áo Victoria, chủ nghĩa bài Do thái của Công giáo bành trướng khắp Tây Âu đã làm đạo đức và pháp luật truyền thống mất hiệu lực trong việc hướng dẫn và kiểm soát đời sống tinh thần con người; sự phát triển vượt bậc của khoa học thời đó đã biến phương Tây thành xã hội duy lý, lấy “cái tôi” làm trung tâm, từ đó thói đạo đức giả trở thành mốt của thời đại. Tính dục cũng như các nhu cầu sinh lý cơ bản khác và khuynh hướng vô chính phủ trong các hành vi của con người, một mặt, không được kiểm soát, hướng dẫn và ngăn chặn bởi đạo đức và pháp luật, nên đã phát triển tràn lan; mặt khác, chúng cũng không được công khai thừa nhận chính thức trong ngôn luận và trong các hành vi ứng xử xã hội. Trên thực tế, ở phương Tây thế kỷ XIX có hai xã hội, xã hội của đời sống tình dục rất sục sôi diễn ra bên trong có “sự bật đèn xanh” của các thành viên và “xã hội bề ngoài” với sự lên mặt của “cái tôi thanh cao, kiêu hãnh”. Điều này giải thích vì sao, những vấn đề quan trọng của đời sống tinh thần suốt cả cuộc đời mỗi con người như tính dục và các nhu cầu sinh lý khác lại được cả xã hội công khai hay ngấm ngầm để ý với các thái độ khác nhau [18, 220]. Tóm lại, trong xã hội phương Tây lúc này đã xuất hiện nhiều mâu thuẫn mới, đặc biệt là những mâu thuẫn trong đời sống tinh thần: giữa một bên là những quan niệm truyền thống với các tập tục thành kiến của xã hội quan phương Thanh giáo bảo thủ tồn tại hàng trăm năm, và bên kia là một xã hội mới sôi động với những quan điểm và “chuẩn mực” mới. Trong bối cảnh ấy, việc nảy sinh thói đạo đức giả do sự ức chế trong hoạt động tinh thần - nhất là sự ức chế về mặt tính dục là không thể tránh khỏi. Điều này khiến những con người không kịp thời thích ứng với điều kiện xã hội mới, thích ứng với những mối quan hệ xã hội mới sẽ trở nên căng thẳng, thiếu tự tin trong cuộc sống, trong nếp nghĩ và sẽ rơi vào tình trạng bị “tự kỷ ám thị” với cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ ngay trong suy nghĩ của bản thân mình. Từ 7
- đó những căn bệnh mới về tinh thần cũng có nguy cơ phát triển theo. Triết học đã, đang và mãi mãi có một mục đích nhân văn duy nhất của mình là thúc đẩy giải phóng con người, đem lại tự do cho con người, bằng cách chỉ ra bản chất đích thực của sự tha hóa của con người và con đường khắc phục sự tha hóa ấy. Những bi kịch và khủng hoảng tinh thần của nền văn minh khoa học hiện đại vô tình đã đưa Freud tới kết luận rằng, cần phải nhận thấy một cái thô thiển và thấp hèn ở đằng sau mọi khát vọng cao thượng. Học thuyết Freud ra đời thực chất là lời cảnh báo về những mối nguy hiểm nằm trong bề sâu tâm thần của con người. Quan điểm nhân học của Freud là một bước ngoặt trong quan niệm triết học về con người. Người ta bắt đầu thừa nhận cần phải xem xét con người một cách chăm chú và sâu sắc hơn so với trước đây. Con người không những là một thực thể duy lý. Nó thực ra là "giao điểm của hai thế giới" - thế giới tinh thần, cao thượng và thế giới tự nhiên, thấp hèn. Và, đó chính là đặc thù của con người như một dạng hiện tồn đặc biệt. Từ những suy ngẫm sâu sắc như vậy, Freud đã quan tâm đến đạo đức học như một phương tiện hữu hiệu nhất để đem lại tự do tinh thần cho con người, buộc người ta bắt đầu thừa nhận cần phải xem xét con người một cách chăm chú và sâu sắc hơn so với trước đây. 1.2. Những tiền đề khoa học của sự hình thành và phát triển tư tưởng đạo đức học trong Phân tâm học của Freud 1.2.1. Những tiền đề khoa học tự nhiên, y học và tâm lý học cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX Trong quá trình học tập ở trường đại học Viên và sau này thông qua các nghiên cứu thực tiễn chữa trị bệnh tâm thần, Freud đã gặp gỡ, tiếp xúc, học hỏi ở khá nhiều các nhà khoa học bậc thầy đi trước về tâm lý học, triết học, y học, sinh học, sinh lý thần kinh, trực tiếp nhất là về các phương pháp chữa trị bệnh tâm thần. Các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc học hỏi này đã bổ sung và củng cố các cơ sở triết học, y sinh học, tâm sinh lý học tâm thần cho các tư tưởng triết học của ông. Thế kỷ XIX là thời kỳ tư tưởng khoa học kỹ thuật có sự phát triển mạnh mẽ. Những phát minh có tính bước ngoặt như Thuyết tiến hoá của Charles Drawin, Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng và Tâm lý học biến thể, đã có ảnh hưởng rất lớn đến sự ra đời của phân tâm học Freud. Ông đã chủ định lựa chọn tìm hiểu các tri thức khoa học đỉnh cao đương thời để làm giàu thêm hiểu biết của mình và 8
- chúng có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành tư tưởng triết học cũng như toàn bộ nội dung của phân tâm học Freud. Những nghiên cứu về phương pháp chữa bệnh tâm thần Trước khi là nhà Phân tâm học, hoạt động chuyên môn trực tiếp của Freud là nghiên cứu nguồn gốc và trị liệu các rối nhiễu tâm lý. Chính trong lĩnh vực này ông đã học tập được nhiều ở các bậc tiền bối. Đầu thế kỷ XIX, xã hội có thái độ nhân đạo và sáng suốt hơn đối với các rối nhiễu tâm lý. Một trong số những người chủ xướng quan điểm mới này là bác sĩ người Pháp Philip Binzl (1745 - 1826). Ông khẳng định, những rối nhiễu tinh thần là một hiện tượng tự nhiên, vì thế để chữa trị chúng cần có những phương pháp khoa học tự nhiên. Ông đã giải phóng bệnh nhân khỏi xiềng xích và đối xử với họ một cách nhân đạo. Chính ông là người đầu tiên đã ghi lại tiền sử bệnh, chú ý đến tính chất và quy trình trị liệu. Do ảnh hưởng của tấm gương này, người ta dần tháo bỏ xích cho bệnh nhân cả ở châu Âu và Mỹ. Bệnh nhân tâm lý đã trở thành đối tượng của các nghiên cứu khoa học. Freud thường trích dẫn và phân tích các luận điểm của Binzl trong việc lý giải vô thức và mặc cảm Ơdip trong nghiên cứu tôn giáo. Trong quá trình trị bệnh tâm thần, Freud đã nghiên cứu và kế thừa các phương pháp chữa trị của các bậc tiền bối, nhưng ông nhận thấy rằng nó còn “thiếu cái khoa học có tính cách triết học phụ thuộc có thể dùng vào những mục tiêu do những hoạt động y khoa đặt ra” điều đó đã thôi thúc Freud tìm tòi một phương pháp mới để vô thức trở về với ý thức. Cuộc khủng hoảng phương pháp luận trong tâm lý học Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tâm lý học thế giới bước vào khủng hoảng về phương pháp luận vì đã chỉ chủ yếu lấy ý thức làm đối tượng nghiên cứu và đó là mảnh đất cho sự xuất hiện các trường phái tâm lý học khách quan. Freud đã bắt đầu xây dựng phân tâm học với mục tiêu thiết lập một quan hệ chủ - khách thể mới trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vô thức và ý thức để khắc phục những hạn chế của tâm lý học duy tâm, chủ quan. Như vậy, những bế tắc và khủng hoảng trong y học và tâm lý học cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã tạo điều kiện cho phân tâm học ra đời với tư cách là một hệ 9
- thống các quan niệm triết học. Sự xuất hiện của phân tâm học một cách khách quan đã làm cho cả y học và tâm lý học phát triển. Mặc dù các thành tựu khoa học tự nhiên và tâm lý học có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành tư tưởng Freud, nhưng có thể nói bên cạnh những tiền đề ấy tư tưởng triết học hoàn toàn có thể ảnh hưởng đến việc hình thành các quan điểm phân tâm học khác nhau [4; 11], như chính ông đã từng thừa nhận trong Phân tâm học nhập môn. 1.2.2. Những tiền đề triết học của tư tưởng Freud về đạo đức học Nhiều nhà nghiên cứu phương Tây khẳng định rằng, học thuyết phân tâm của Freud dựa trên quan sát lâm sàng. Cơ sở của phân tâm học là các quan điểm tâm thần học và sinh lý học cuối thế kỷ XIX. Còn các tư tưởng triết học hầu như không ảnh hưởng gì đến Freud, vì ông không những có thái độ đề phòng đối với những suy luận trừu tượng của các nhà triết học mà còn chưa bao giờ quan tâm đến các tác phẩm triết học. Thực tế cho thấy, Freud chịu ảnh hưởng rất đậm nét các quan điểm triết học trong lịch sử từ thời cổ đại cho đến thời cận đại. Trong quan niệm về vô thức, Freud chịu ảnh hưởng từ các nhà triết học Đức như G.W. Leibniz (1646 - 1716) trong Thuyết đơn tử, của Fridric Herbart (1776 - 1841) với thuyết ngưỡng ý thức về sự loại suy đơn tử từ vô thức đến ý thức. Trong các suy tư về bản năng tính dục và giấc mơ ông chịu ảnh hưởng của Platon, Aristot, Descartes, Scherner, Fisher Ông kế thừa quan niệm đạo đức và văn hoá từ Spinoza, Kant, Voltaire Nhưng người thực sự có công khai sáng và ảnh hưởng mạnh mẽ đến S.Freud là Schopenhauer và Nietzsche. Các nhà tư tưởng này đã đặt nhiệm vụ cho triết học phải thoát khỏi sự cám dỗ của thế giới hư ảo bên ngoài để quay trở về thế giới nội tâm của mình, từ đó tìm tòi bản tính nội tại thực sự của con người và thế giới. S. Freud đã nhiệt tình tiếp thu quan điểm chủ yếu của các nhà triết học này trong quá trình hình thành tư tưởng. Trong quan niệm về đạo đức, Freud thừa nhận, phạm trù cấm đoán xã hội ông chịu ảnh hưởng từ mệnh lệnh tuyệt đối của Kant. Trong tác phẩm Nguồn gốc của tôn giáo và văn hóa, Freud cho rằng, nghiên cứu về Tôtem giáo nhằm làm sáng tỏ, nó có thể đem lại cách nhìn phân tâm học để giải thích các vấn đề về cấm kỵ hiện nay. Do đó, dù nó có bị nhìn nhận một cách tiêu cực và có thể gán cho nó những nội dung khác thì xét về bản chất tâm thần, nó chính là mệnh lệnh tuyệt đối của Kant [3, 10
- 40]. Do vậy, quan niệm đạo đức của ông được rút ra từ việc nghiên cứu sự xuất hiện các cấm kỵ, vì “việc luận giải cấm kỵ có thể làm sáng tỏ cội nguồn của mệnh lệnh tuyệt đối” [3, 130]. Ngoài ra, trong quan niệm về đạo đức, ông còn nghiên cứu rất kỹ các tác phẩm của Voltaire bàn về tôn giáo, chiến tranh và trách nhiệm xã hội [5, 28-29]. Khi đề cập đến lịch sử phát triển của phân tâm học, ông dứt khoát tuyên bố: “Trong việc xây dựng khái niệm về sự lấn át, tôi tuyệt đối độc lập, tôi không chịu một ảnh hưởng nào đưa tôi đến khám phá ấy. Và tôi coi tư tưởng ấy là độc đáo suốt một thời gian dài, cho tới khi O. Rank nói cho tôi biết một chỗ trong Thế giới như là ý chí và biểu tượng của Schopenhauer, tại đó ông cố gắng lý giải sự điên rồ. Như vậy, chỉ vì không đọc mà tôi có khả năng đưa ra một khám phá độc đáo” [8, 50]. Mặc dù phủ nhận ảnh hưởng bởi các tư tưởng triết học nhưng trong các tác phẩm khác, Freud thường viện ngay vào Schopenhauer. Bàn về vấn đề tình dục, ông nhấn mạnh rằng, Schopenhauer từ lâu đã chỉ ra hành vi và suy nghĩ của con người “được định trước bởi khát vọng tình dục đến mức độ nào” [8, 50] và thừa nhận “vai trò to lớn của đời sống tình dục” [8, 50]. Khi bàn về cái chết, ông cho rằng, đây vốn là đề tài truyền thống của triết học. Luận chứng quan niệm về “bản năng chết”, Freud viết rằng, ông vô vọng bị sa vào “đầm lầy của triết học Schopenhauer”. Ông nói: “Nhưng có một điều mà chúng ta không thể bỏ qua được: chúng ta không ngờ đi vào ngõ ngách triết lý của Schopenhauer, theo triết lý ấy thì cái chết là kết quả chính thức của mục đích mà đời sống theo đuổi, còn như bản năng dục tình là biểu hiện của mong muốn sinh sống” [2, 82]. Như vậy, một điều nổi bật là ngay trong giai đoạn hoạt động ban đầu, khi quan điểm “bản năng chết” chưa được luận chứng về mặt phân tâm học, Freud cũng dựa vào Schopenhauer: “Theo Schopenhauer, vấn đề cái chết luôn đứng ở cửa ngõ của mọi triết thuyết, chúng ta đã từng nghe nói rằng ngay cả việc tạo dựng những linh hồn và niềm tin nghiên cứu vào ma quỷ đặc trưng cho thuyết linh hồn cũng đưa đến ấn tượng mà cái chết áp đặt lên con người” [3, 156]. Mặc dù vậy Freud vẫn khẳng định rằng ông chỉ bắt đầu “đọc Schopenhauer vào giai đoạn cuối đời”! Ngoài ra, Freud còn thừa nhận mình chịu ảnh hưởng của Rousseau trong quan niệm về cái chết. 11
- Freud cũng có thái độ tương tự đối với Nietzsche. Một mặt, ông thường viện dẫn tư tưởng của Nietzsche trong các tác phẩm của mình. Cụ thể, khi khảo cứu vấn đề vai trò của người cha trong xã hội nguyên thủy, Freud nhận xét rằng, ở buổi đầu lịch sử của loài người, người cha là “siêu nhân mà Nietzsche chỉ chờ đợi trong tương lai” [8, 51]. Sử dụng khái niệm “phi Ngã”, Freud nhấn mạnh, Nietzsche thường sử dụng thuật ngữ này để biểu thị “cái vô cá tính, tự nhiên - tất yếu ở trong con người” [8, 51]. Mặt khác, vào năm 1908, khi trình bày và thảo luận cuốn sách Gia phả luận đạo đức của Nietzsche tại phiên họp của Hội Phân tâm học, Freud nhấn mạnh rằng, ông chưa từng biết đến tác phẩm này và các tư tưởng của Nietzsche không có ảnh hưởng đến việc hình thành phân tâm học. Mặc dù phủ nhận như vậy nhưng cuối cùng bản thân Freud thừa nhận rằng, ông chịu ảnh hưởng từ triết học đời sống của Nietzsche. Freud đã khảo sát các mặt sâu thẳm ý thức của Nietzsche không chỉ từ các lập trường phân tích triết học, mà còn như một bác sĩ chữa bệnh thần kinh. Tất cả những điều nêu trên chứng tỏ Freud, ở một chừng mực nhất định, đã viện dẫn các tư tưởng triết học của Schopenhauer và của Nietzsche. Song, một vấn đề còn bỏ ngỏ là sự ảnh hưởng ấy đến Freud diễn ra trong giai đoạn hoạt động nào của ông. Có những bằng chứng cho thấy Freud đã làm quen với các tác phẩm của hai nhà triết học nêu trên từ thời sinh viên và đã có hiểu biết nhất định về tư tưởng triết học của hai ông. Tất nhiên là không có sự đồng nhất hoàn toàn quan điểm của Freud với hai nhà tư tưởng này. Ngược lại, họ còn có những bất đồng nhất định trong quan niệm vô thức. Vô thức ở Schopenhauer ngay từ đầu mang tính bản thể, là “ý chí của thế giới”, là nguyên nhân đầu tiên của vạn vật; Nietzsche lại tập trung xem xét hoạt động của vô thức ở trong miền sâu của con người, còn Freud lại xem xét vô thức là hoạt động chủ yếu của tâm thần con người. Trong tác phẩm cơ bản Phân tích các giấc mơ xuất bản năm 1899 và, về thực chất, là tác phẩm đánh dấu “sự khám phá” ra phân tâm học đối với độc giả, Freud viện ra nhiều nhà triết học, nhắc đến và bình chú luận điểm của họ về bản chất của giấc mơ, cũng như về các quá trình diễn ra trong miền sâu tâm thần con người. Khi Freud còn sống, tác phẩm này được tái bản tám lần. Vì ở những lần tái bản sau, Freud đều bổ sung và chỉnh lý nhiều, nên khó xác định được ông đã dựa vào các tác 12
- phẩm nào khi viết công trình của mình. Nhưng, trong lần xuất bản thứ ba vào năm 1911, trong danh mục tài liệu tham khảo có tên Platon, Arixtot, Lucrexius, Hegel, Kant, Fichte, Schubert, Fisher, Scherner, Schleiermecher, Herbart, Hartman, Lipps, Bundt, Bredli, Schopenhauer, Chỉ riêng điều này đã cho phép rút ra kết luận rằng, Freud là một người quan tâm đến triết học sâu sắc. Như vậy, ảnh hưởng của triết học đến tư tưởng của Freud là khá rõ. Nhưng tại sao ông lại kiên trì phủ nhận sự thực này và thường xuyên quảng bá tính độc đáo của những tư tưởng phân tâm học do ông đưa ra, nhấn mạnh rằng không một thế giới quan triết học nào có ảnh hưởng đến việc hình thành thuyết phân tâm học? Ông chỉ nói đến nguồn gốc triết học trong trường hợp tối cần thiết. Ông viết: “Trái với mọi lời khẳng định trước kia và sau này của tôi, có thể chỉ ra các nhà triết học nổi tiếng như các bậc tiền bối, trước hết là nhà tư tưởng vĩ đại Schopenhauer, mà “ý chí” vô thức có thể được đồng nhất với dục vọng tâm thần trong phân tâm học” [19, 148]. Có thể lý giải “sự lãng quên” của Freud về các nguồn gốc triết học trong tư tưởng của mình là vì ông muốn thể hiện dưới mắt mọi người như một nhà khoa học chân chính, xây dựng học thuyết của mình không phải dựa trên những tư biện trừu tượng đáng hoài nghi như nhiều nhà triết học vẫn làm, mà dựa trên dữ kiện kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn lâm sàng, từ cuộc sống hiện thực. Do vậy, ông kiên trì và nỗ lực công khai khước từ triết học, cố gắng đặt lên hàng đầu tư liệu lâm sàng hay kết quả tự phân tích trong các tác phẩm của mình. Chính thái độ của ông kiên trì phủ định triết học buộc chúng ta phải thận trọng trong vấn đề này. Vả lại bản thân Freud cũng khẳng định rằng, con người không những thường không trung thực trong những vấn đề bắt buộc họ phải thừa nhận một điều gì đó họ không mong muốn, mà còn chống lại việc những hồi tưởng từng bị bác bỏ không bùng phát trên bề mặt của ý thức. Sử dụng hệ thuật ngữ của Freud, có thể nói rằng, ý nghĩa của các cội nguồn triết học đối với sự xuất hiện các tư tưởng phân tâm học đã bị gạt ra khỏi ý thức của Freud do ông lo ngại rằng học thuyết của ông bị đồng nhất với một hệ thống triết học đã có, khiến ông bị nghi ngờ nghiêng về tư duy siêu hình học. Đó là một trong những lý do có thể cho phép lý giải việc Freud tránh nhắc tới các bậc tiền bối triết học trong những tác phẩm của mình. 13
- Trên phương diện triết học, lý thuyết về cái vô thức và việc ứng dụng nó để lý giải tồn tại người của Freud đã góp phần định hướng phát triển cho nhiều trào lưu triết học phương Tây hiện đại. Thực tế cho thấy, các trào lưu triết học thế kỷ XX ở phương Tây như triết học hiện sinh, hiện tượng học, nhân học triết học đều ít nhiều, trực tiếp hay gián tiếp quan tâm, xem xét các quan niệm triết học của Freud. Những khám phá về cái vô thức của Freud đã mở ra một chân trời mới cho nền triết học hiện đại. Lý thuyết vô thức của được ông áp dụng vào lý giải bản tính người đóng vai trò quan trọng trong việc phê phán quan niệm duy lý phiến diện về con người. Chủ nghĩa duy lý trước sau đều coi lý tính và niềm tin khoa học là chìa khoá vạn năng để giải quyết tất cả những vấn đề liên quan đến sự tồn tại của con người trong thế giới. Từ đó nó coi bản chất bên trong của con người là cái không đáng tin và tước bỏ bản tính người, khía cạnh xã hội trong con người. Do đó theo chủ nghĩa duy lý, khi đứng trên đỉnh cao khoa học, với lý tính có sẵn con người có thể làm chủ cuộc sống của mình một cách sáng suốt. Trong khi đó, vô thức mà Freud đưa ra không phải chỉ là bản năng, mà gần như là tất cả đời sống tinh thần. Khám phá đó đã đề cao cái vô thức. Câu chuyện lý trí và bản năng, linh hồn và thể xác không thể đem ra nói bằng ngôn ngữ của triết học truyền thống, không thể coi là những sự kiện ngăn cách, mà phải đặt ra hướng tiếp cận mới cho triết học hiện đại, đặc biệt là trong quan niệm về con người. Sở dĩ, phân tâm học Freud và Hiện tượng học Husserl có mối quan hệ với nhau bởi cả hai ông đều là học trò xuất sắc của Brentano trong việc kế thừa và phát triển quan điểm về tính ý hướng. “Song mỗi ông đều lĩnh hội nó theo cách riêng của mình. Freud đặt trọng tâm vào tính ý hướng “cảm xúc”, Husserl phát triển quan niệm về tính ý hướng “giác tính” [14, 461]. Cả hai ông cố gắng đặt vấn đề tri thức một cách rộng lớn, bao quát và sâu xa, thoả mãn được mọi đòi hỏi của mọi ngành học vấn. Cái “tâm” con người coi như trung tâm của sự hiểu biết; người ta nhận thấy cần phải đặt lại vấn đề tâm thức và luôn thể cả vấn đề vô thức. Hiện tượng học đã có cái may mắn khởi xướng quan niệm tương quan giữa cá nhân với ngoại giới, con người mật thiết với người khác và cảnh vật quanh mình, họ lập những tương quan qua lại trong một thế liên lập và hỗ tương ảnh hưởng, hay hỗ tương trong biện chứng. Do đó mà có vấn đề người khác trong ta, vấn đề liên chủ quan tính, vấn đề 14
- hữu thể-tại thế. Tâm lý xã hội cũng không thể quan niệm ở ngoài khái niệm chủ quan và khách quan tương hệ mật thiết. Ta có cảm tưởng như một trào lưu suy tưởng rộng lớn đang cố gắng hoà giải cá nhân với cộng đồng, quân bình thiên nhiên với yêu cầu thực tế. Có một vấn đề yếu tính (essence) của Siêu hình học mà Hiện tượng học phải chấp nhận nền móng khi áp dụng phương pháp Hiện tượng học để tìm hiểu về tồn tại người. Yếu tính của lý học không phải yếu tính của tâm thần, bởi vì những vấn đề tâm trạng của ta không thể so với hiện tượng lý học và đem ra nghiên cứu như vậy. Chấp nhận như thế thì ta thấy xuất hiện những khó khăn nan giải của cái vô thức theo kiểu Phân tâm học của Freud. Bởi vì yếu tính của lương tâm (tâm thức) là sống động, là tự nó bộc lộ cho nó biết nó. Tâm thức không hiểu được vô thức, vậy thì sao có thể nói vô thức cùng yếu tính với tâm thức được? Vì sự tôn trọng nguyên lý chỉ đạo, hiện tượng học không chấp nhận vô thức, tuy không hề phủ nhận những hiện tượng thuộc loại vô thức. Người ta tìm một cách dung hoà là xếp những hiện tượng ấy vào khái niệm tâm thức tiềm ẩn (hay ý thức tiềm ẩn). Sở dĩ có sự khác biệt như vậy là vì, sự quy giản của Husserl cuối cùng là để đạt tới là ý thức về một cái gì đó, còn vô thức của Freud là vô thức định hướng vào một cái gì hay ai đó [14, 462]. Tuy bất đồng ý kiến trong quan niệm vô thức nhưng phân tâm học và hiện tượng học hoạt động song song và bổ sung cho nhau. Kết quả đạt được của ngành nọ xác định sự đích xác của ý kiến ngành kia. Phân tâm học tìm ý nghĩa kín đáo của những phát hiện của dòng sống; người ta “sống” biết bao hiện tượng mà không “suy tư” được nó, không thể diễn tả nó ra thành ngôn từ. Freud làm công việc ấy, phải chăng đã “làm” một cách tự nhiên, trước khi có tư trào Hiện tượng học thực sự? Vì hiện tượng học cũng theo đuổi mục đích tìm hiểu ý nghĩa những đường lối ứng xử của con người. Hiện nay, các nhà Phân tâm học muốn có một quan niệm về vô thức gần với quan niệm ý thức tiềm ẩn của Hiện tượng học. Đối với Lacan, một nhà Phân tâm học uy tín ngày nay, thì quy luật của Ngôn ngữ học và Ý nghĩa học đều đồng tính chất với quy luật của vô thức [16, 67]. Heidegger cũng tỏ thái độ phê phán đối với các quan niệm phi duy lý về con người trong đó có Freud. Ông cho rằng, Freud đã quá nhấn mạnh đến đam mê vô thức để dẫn đến việc coi nó như nhân tố định trước bản tính người. Nếu Freud cố 15
- gắng xem xét các bộ phận cấu thành cấu trúc của tâm thần thông qua vô thức, thì Heidegger lại hướng vào các cấu trúc bản thể của tồn tại người từ góc độ quan niệm tiền phản tư, tức vô thức về chúng. Freud nhận thấy cội nguồn đau khổ của con người ở các xung đột đam mê vô thức bẩm sinh với các giá trị của văn hóa, văn minh; Heidegger xuất phát từ những bất an hiện sinh, thực chất là từ những mâu thuẫn nội tại của tồn tại trong thế giới, nơi mà hiện sinh người đông thời là “tính cởi mở” và “tính khép kín”, siêu việt và hiện hữu [12, 489-490]. Bên cạnh đó, Freud còn chịu những ảnh hưởng triết học F.Brentano từ việc trao đổi thư từ với Brentano. Freud thừa nhận “tôi quyết định phấn đấu có được bằng tiến sĩ về triết học do ảnh hưởng của Brentano”. Theo chỉ dẫn của Brentano mà Freud đã dịch tập 12 của J.Mill sang tiếng Đức, trong đó có đề cập tới học thuyết Platon về hồi tưởng. Như vậy, có thể khẳng định, việc say mê triết học đã để lại dấu ấn sâu đậm ở tư duy của Freud. Freud còn chịu ảnh hưởng bởi quan niệm của T.Lips, người được ông coi là “trí tuệ lớn nhất trong số các nhà triết học hiện đại” về quá trình tâm thần vô thức qua tác phẩm Những vấn đề cơ bản của đời sống tâm thần (1883). Trong tác phẩm của mình, Lips bảo vệ tư tưởng cho rằng, những quá trình vô thức là cơ sở của mọi quá trình hữu thức. Freud tách biệt luận điểm này và nhận xét: “những sự kiện của đời sống tâm thần không phải là những quá trình cấu thành nội dung của ý thức, mà là những quá trình vô thức tự thân của chúng” [2,75]. Như vậy, cần lưu ý rằng quá trình hình thành phân tâm học của Freud thực sự cũng phụ thuộc vào các tiền đề triết học xét trên nhiều phương diện. Freud không muốn công khai thừa nhận chúng, nhưng không thể coi ý định của ông muốn quay lưng lại với triết học là bằng chứng và hơn nữa là sự khẳng định rằng, phân tâm học là khoa học không có điểm nào chung với tri thức triết học. Có nhiều khi điều người ta muốn che đậy hay chối bỏ lại là điều cố hữu ở người đó. 1.3. Cuộc đời, sự nghiệp và những tác phẩm chủ yếu của S.Freud 1.3.1. Đôi nét về cuộc đời Sigmund Freud Sigmund Freud tên đầy đủ là Sigmund Schlomo Freud (1856 – 1939) sinh ngày 6 tháng 5 năm 1856 tại Freiberg ở Moravia, một thành phố nhỏ ở Tiệp Khắc hiện nay. Cha mẹ ông là người Do Thái và bản thân ông cũng luôn là người Do 16
- Thái. Ông được đưa tới thành Vienna thủ đô nước Áo vào năm lên bốn tuổi và đã sống gần suốt tuổi trưởng thành tại đây. Theo Ernest Jone, người viết tiểu sử chính của Freud thì ông đã được thừa hưởng của cha ông là một nhà buôn len tính hoài nghi sâu sắc về những tai biến bất thường của cuộc đời, thói quen dùng giai thoại Do Thái để châm biếm các quan điểm đạo đức, không tín ngưỡng những vấn đề tôn giáo. Mẹ Freud sống tới 59 tuổi, bản tính năng động và nhanh nhẹn. Sigmund Freud là đứa con cưng đầu lòng của bà. Sau này chính Freud đã viết “một người từng là con yêu đặc biệt của một bà mẹ thì suốt đời người ấy có cảm giác là một kẻ chính phục và chính cái lòng tin chiến thắng ấy luôn đem lại thành công thực sự”. Cuộc đời của Freud gắn liền với nước Áo. Ngoại trừ việc trải qua thời thơ ấu ở Moravia Leibzig và những năm tháng cuối đời sống lưu vong, Freud sống trọn đời ở Viên. Năm 1873, Freud đỗ vào ngành y học trường đại học tổng hợp Viên. Năm 1881, Freud nhận được học vị tiến sĩ y học và thực hành với tư cách nhà thần kinh lâm sàng. Năm 1882 - 1885, Freud làm việc tại Viện đa khoa Viên, đi sâu về bệnh lý học thần kinh và đã tích cực sử dụng phương pháp thôi miên và thanh trừ. Năm 1900, ông xuất bản cuốn Lý giải những giấc mơ, một tác phẩm chính đã đánh dấu sự thành công của ông. Giai đoạn 1990 - 1910 vị thế chuyên môn của Freud được củng cố một cách nhanh chóng. 1902, ông cùng A. Adler thành lập Hội các nhà phân tâm học. Đời tư và thời thơ ấu cũng như hoạt động khoa học của S. Freud có nhiều sự kiện để lại dấu ấn không phai mờ và chúng đã trực tiếp góp phần vào việc hình thành phân tâm học và tư tưởng đạo đức học của ông sau này. Vào những năm đầu của cuộc đời, Freud rất tin vào thuyết Darwin vì ông thấy rằng “Những thuyết ấy làm cho người ta có thể hy vọng vào những bước tiến phi thường trong việc tìm hiểu thế giới”. Dự định sẽ trở thành thầy thuốc, ông đã theo học trường Đại học Y khoa thành Viên và ông đã đỗ bác sỹ năm 1881. Là một thầy thuốc trẻ tuổi của bệnh viện đa khoa, chữa trị đủ mọi loại bệnh, ông tiếp tục nghiên cứu môn thần kinh bệnh học và giải phẩu thần kinh. Ít năm sau, số mệnh xoay chiều và bất thần làm tên tuổi ông nổi tiếng khắp thế giới. Một bạn đồng nghiêp của ông đã đi sang Paris và ông bèn đi theo sang thành phố này. Tại đây, ông cùng làm việc với Jean Charcot, lúc ấy đã là một nhà bệnh lý học và thần kinh học người Pháp nổi tiếng. Ở đây, lần đầu tiên ông được tiếp xúc với công trình của Charcot về bệnh 17
- loạn thần kinh và cách dùng phương pháp thôi miên để điều trị bệnh này. Freud đã thỏa mãn khi thấy Charcot chứng minh “bệnh loạn thần kinh thật và loạn thần kinh giả do dùng thôi miên tạo ra”. Nhận thấy sự hạn chế của việc áp dụng thuật thôi miên cho mục đích nội khoa, tuy nhiên, sau khi trở lại thành Viên, Freud không làm thế nào để thuyết phục được các bác sỹ đồng nghiệp: họ không tin là phương pháp chữa bệnh loạn thần kinh bằng thôi miên lại có cơ sở khoa học. Con người ta rất dễ bị cầm tù bởi những quan niệm, những hiểu biết cũ kĩ đã được thấy trong sách, đã được học trong nhà trường. Nếu thấy ở đâu đó có điều gì không phù hợp với những điều đã học, đã đọc là bác bỏ ngay không cần đắn do gì. Và người ta còn trừng phạt những ý nghĩ quá táo bạo của ông bằng cách đuổi ông ra khỏi phòng thí nghiệm giải phẫu thần kinh. Từ đấy Freud tách khỏi môi trường đại học và không còn còn tiếp tục tham gia những buổi họp của giới trí thức ở Viên nữa. Trong lúc hành nghề bác sỹ tư, ông tiếp tục dùng phương pháp thôi miên để thí nghiệm trong nhiều năm nữa, nhưng dần dần ông đã bỏ phương pháp điều trị này chỉ vì ít người hợp với lối chữa bằng thôi miên và cũng vì đôi khi thôi miên có những hiệu quả không hay với nhân cách người bệnh. Thay vào đó, Freud bắt đầu phát triển một phương pháp mới, ông đặt tên là “tự do liên tưởng”. Ông không còn còn ý định quy các quá trình tâm lý về các quá trình sinh lý, mặc dù vẫn tiếp tục sử dụng các mô hình cơ học và năng lượng để lý giải chúng. Về sau kỹ thuật này đã trở thành một tiêu chuẩn thực hành của khoa học phân tâm học. Freud đã từng khẳng định như sau: “Môn Phân tâm học chỉ ra đời khi người ta bỏ không dùng thôi miên nữa”. Trong cuối những năm 90 của thế kỷ XIX, đã diễn ra quá trình hình thành các khái niệm cơ bản trong học thuyết của ông mà sau này người ta gọi là thuyết Freud. Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng sau này, cho tới tận ngày nay, thuật ngữ “thuyết Freud” vẫn được sử dụng lúc thì như đồng nghĩa với thuật ngữ “phân tâm học”, thể hiện các quan điểm của bản thân Freud và các môn đệ chính thống của ông. Khái niệm “phân tâm học” thường được sử dụng với nghĩa rộng hợn: nó bao gồm các trường phái, các học thuyết và thực tiễn rất khác nhau, bắt nguồn từ học thuyết Freud, nhưng lại có khá nhiều luận điểm khác nhau về thuyết Freud. Ngoài ra thuyết Freud trước hết có liên hệ đến các luận điểm cơ bản của một học thuyết, trong khi 18
- đó phân tâm học, ngoài siêu hình tâm lý học (tức những luận điểm, giả thuyết triết học, tâm lý học, tâm thần học), còn bao hàm hàng loạt lý luận chữa bệnh chuyên sâu, phương pháp và quy trình chữa bệnh, các nghiên cứu ứng dụng khác nhau, Tâm phân học hiện nay được nhiều nhà khoa học cũng như đại chúng coi như một lý thuyết (theorie) hoàn chỉnh. Thậm chí còn được nâng lên thành một chủ nghĩa (doctrine, isme). Đó là chủ nghĩa Freud. Phương pháp Phân tâm học là một phương pháp điều trị mới mẻ mà vào thời kì đó người thầy thuốc chưa bao giờ được học trong nhà trường. Đây là phương pháp chữa bệnh chỉ bằng sự trò chuyện giữa người thầy thuốc và người bệnh. Freud đã khẳng định: “Khi điều trị một bệnh trong môn này, người thầy thuốc chẳng làm gì khác hơn là trò chuyện với người bệnh”. Người thầy thuốc Phân tâm học đối với người bệnh không phải như một vị hoàng đế đối với thần dân của người. Đối với người bệnh người thầy thuộc lại không có bất cứ một quyền lực nào dù cho là nhỏ bé nhất. Cho nên người thầy thuốc Tâm phân học lại phải trông chờ ở chính người bệnh và chỉ có con đường trò chuyện dể xây dựng mối quan hệ thân thiện với họ. “Phương pháp Phân tâm học đòi hỏi phải trò chuyện với người bệnh trong khi họ thức chứ không phải trong giấc ngủ nhân tạo bằng thôi miên”. Kỹ thuật do Freud phát minh ra để giải tỏa với mọi “dồn nén” và loại bỏ mọi đối kháng là phương pháp “gợi tự do liên tưởng”: Những lời nói thao thao bất tuyệt có ý thức của người bệnh khi nằm trên cái giường của nhà phân tâm học trong cảnh đèn sáng mờ mờ, nhà phân tâm học kích thích, khêu gợi để người bệnh không nghĩ một cách có ý thức về bất cứ chiều hướng nào, Freud cho rằng phương pháp “kích thích tự do liên tưởng” là phương pháp duy nhất hữu hiệu để chữa bệnh tâm thần. Ông cũng chủ trương là phương pháp ấy “hoàn thành được điều mà người ta trông đợi, nghĩa là đưa những mong muốn bị sức đối kháng dồn nén từ xưa ta lĩnh vực ý thức”. Cộng sự của Freud đã mô tả cách Freud chữa bệnh như sau: “Ông thuyết phục con bệnh gạt mọi suy nghĩ có ý thức, tự buông thả mình vào một trạng thái tập trung bình thản, tự phó mặc theo những cảm xúc và suy nghĩ nảy sinh, rồi thuật lại tất cả những điều đó cho ông biết. Nhờ phương pháp ấy, ông đưa dần bệnh nhân tới trạng thái “tự do liên tưởng”; và nhờ nghe người bệnh tự do liên tưởng, mà thầy 19
- thuốc có thể tìm ra được nguồn gốc sâu xa của các triệu chứng”. Sự việc đã quên rồi nay lại được người bệnh kéo ra khỏi cõi vô thức, có khi phải sau hàng tháng trời điều trị bằng phương pháp phân tâm. Nguồn gốc thường là một sự việc nào đó đau đớn, khó chịu, đang sợ hay nói cách khác đáng ghét, từ trong quá khứ của bệnh nhân. Đó chính là những “kỷ niệm” mà người bệnh hoàn toàn không muốn nhớ lại một cách có ý thức. Trong quá trình tự do liên tưởng, những hồi tưởng lông bông ấy không tránh khỏi tạo ra một mớ lộn xộn, rối rắm những sự kiện lờ mờ không rõ, và tưởng như vô ích. Vì vậy, người thầy thuốc như nhiều nhà phê bình cho biết, gần như có vô vàn cách giải thích những dữ kiện ấy. Vì thế nhà phân tâm học phải hết sức sáng suốt và có tài khéo léo. Với Freud, người sáng lập ra môn Tâm phân học, thì trước hết nó vẫn là một phương pháp thiết thực để điều trị những chứng bệnh tâm thần và ngăn ngừa những người khỏe mạnh rơi vào bệnh hoạn bằng cách làm chủ bản thân và đừng bao giờ trở thành nô lệ của những ham muốn thấp hèn, tự biến mình thành những con người sa đọa về cả thể chất lần tinh thần. Nhiều lắm thì Freud cũng chỉ gọi Phân tâm học là một môn tâm lý học về cái vô thức, về những miền sâu thẳm trong tâm hồn con người. Vào năm 1900, tác phẩm chính đầu tay Lý giải giấc mơ của Freud đã được công bố, đến tận bây giờ nó vẫn dược coi là “Kinh Thánh” đối với các môn đệ của ông. Sau đó Freud đã công bố các cuốn sách và các bài viết về những vấn đề khác nhau của tâm lý học, y học và tâm lý học đại cương, phân tâm học ứng dụng (dân tộc học, nghệ thuật, tôn giáo học, ): Ba lược khảo về lý thuyết tình dục” (1906), Totem và tabu (1913), Đứng ở phía bên kia nguyên tắc thỏa mãn (1919), Tôi và nó (1923), Tương lai của một ảo tưởng (1927), Bất mãn với văn hóa (1930), Một nhóm học trò đã tập hợp xung quanh Freud, lúc đầu họ hình thành Hội phân tâm học Viên, sau đó là Hội phân tâm học quốc tế. Bất chấp những sự chia rẽ, sự ra đi của các học trò độc đáo như A.Adler và C.Jung, phong trào phân tâm học vẫn có ảnh hưởng ngày một lớn hơn ở châu Âu, đặc biệt ở Mỹ từ những năm 30. Nhiều nhà phân tâm học đã tới đây từ Đức và Áo. Đến tận lúc mất, Freud vẫn thường xuyên lãnh đạo đội ngũ những người cùng tư tưởng và những môn đệ ngày một tăng. Còn các tác phẩm của ông cho tới nay vẫn được sử dụng làm cơ sở lý luận cho đa số các 20
- nhà phân tâm học. Vào năm 1938, sau khi nước Aó đầu hàng Đức phát-xít, Freud đã dang sống lưu vong tại Anh và mất tại đây vào ngày 23 tháng 9 năm 1939. 1.3.2. Nguồn gốc của phân tâm học Sigmund Freud Một số nhà nghiên cứu phương Tây khẳng định rằng, học thuyết phân tâm học của Freud căn cứ trên quan sát lâm sàng. Trước hết, thần kinh học và phân tâm học không phải hai từ đồng nghĩa. Phân tâm học có thể được coi như một ngành của thần kinh học và chỉ áp dụng cho những trường hợp khó khăn nhất là rối loạn nhân cách. Cho nên, phân tâm học có thể được định nghĩa như một phương pháp dùng để trị những bệnh rối loạn tâm lý và thần kinh. Cơ sở của phân tâm học là các quan điểm tâm thần học và sinh lý học cuối thế kỷ XIX. Còn đối với các tư tưởng triết học theo các nhà nghiên cứu phương Tây thì chúng hoàn toàn không có ảnh hưởng tới Freud, vì ông không những có thái độ đề phòng đối với những suy luận trừu tượng của các nhà triết học, mà còn tỏ ra ít quan tâm đến các tác phẩm triết học. Chẳng hạn, J.Brown khẳng định “Freud không có một quan điểm triết học nào”. Một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng, một số tư tưởng triết học hoàn toàn có thể ảnh hưởng đến việc hình thành các quan điểm phân tâm học khác nhau. Trong các công trình nghiên cứu gần đây, phần lớn các nhà nghiên cứu dều cho rằng không nên chỉ bàn về các tiền đề thuần túy khoa hoc tự nhiên của phân tâm học, rằng phân tâm học cũng có nguồn gốc triết học của mình. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa triết học và phân tâm học vẫn là một vấn đề ít được các nghiên cứu đề cập tới. Những tài liệu công bố gần đây chứng tỏ Freud đã quay lại quan tâm đến triết học chính vào thời điểm mang tính bước ngoặt trong sự nghiệp của mình, khi những tư tưởng phân tâm học tản mạn không những bắt đầu được phác họa rõ, mà còn được hợp nhất thành một hệ thống những tiền đề đóng vai trò cơ sở cho học thuyết phân tâm học. Có thể nói, giống như các tiền đề khoa học tự nhiên, các nguồn gốc triết học của phân tâm học đã bộc lộ hoàn toàn rõ ràng. Không ai có thể bác bỏ được ảnh hưởng của các nguồn gốc triết học đến quá trình hình thành học thuyết phân tâm học của Freud. Trong tác phẩm cơ bản “Lý giải giấc mơ” xuất bản năm 1899, tác phẩm về thực chất đánh dấu “khám phá” ra phân tâm học đối với với độc giả, Freud viện dẫn vào nhiều nhà triết học, nhắc đến và bình chú luận điểm của họ về bản chất của giấc 21
- mơ, cũng như về các quá trình diễn ra trong miền sâu tâm thần con người. Khi Freud còn sống, tác phẩm này đã được tái bản 8 lần. Trong những lần tái bản sau, Freud bổ sung và chỉnh lý nhiều, nên khó xác định được ông đã dựa vào các tư liệu nào cho tác phẩm của mình. Nhưng trong lần xuất bản thứ ba vào năm 1911, trong danh mục tài liệu tham khảo có tên Platon, Aristotle, Lucretius, Hegel, Kant, Fichte, Schubert, Fehner, Schleiermacher, Herbart, Hartmann, Lipps, Bundt, Schopenhauer Chỉ riêng thực tế này đã cho phép rút ra kết luận rằng, Freud là một người có học vấn triết học sâu sắc. Thái độ “lãng quên” của Freud đối với các nguồn gốc triết học của mình, được lý giải là vì ông muốn thể hiện dưới mắt mọi người với tư cách là một nhà khoa học chân chính, xây dựng học thuyết của mình không phải dựa trên những sự tư biện trừu tượng đang hoài nghi mà nhiều nhà triết học vẫn thường vấp phải, mà dựa trên tư liệu kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn lâm sàng, từ cuộc sống hiện thực. Do vậy, ông kiên trì và nỗ lực công khai khước từ triết học, cố gắng đặt lên hàng đầu tư liệu lâm sàng hay kết quả tự phân tích trong các tác phẩm của mình. Cần lưu ý rằng quá tình hình thành học thuyết phân tâm học của Freud thực sự được chế định bởi các nguồn gốc triết học xét trên nhiều phương diện. Freud không mong muốn công khai thừa nhận các nguồn gốc này, mong muốn phân định với triết học, không thể được lĩnh hội như là bằng chứng và hơn nữa là sự khẳng định rằng, phân tâm học là khoa học không có điểm nào chung với tri thức triết học. Ngược lại, được Freud tán thành và được các nhà phân tâm học ủng hộ, định hướng như vậy tất yếu cần phải dẫn đến câu hỏi: Phải chăng thực sự có triết học phân tâm học – mà Freud không muốn nói tới do những nguyên nhân nêu trên – nhưng lại cơ cấu thành hạt nhân, bản chất của học thuyết phân tâm học? Việc trả lời câu hỏi này đòi hỏi chúng ta phải trực tiếp chú ý đến phương diện triết học trong học thuyết phân tâm học của Freud. Việc làm sáng tỏ mối liên hệ giữa triết học và phân tâm học chưa trở thành căn cứ đầy đủ để xem xét học thuyết này với tư cách là một hệ thống triết học. Trên thực tế ông nhấn mạnh tính khoa học của phân tâm học, không đồng ý với các tự biện siêu hình về con người, lên tiếng chống lại đồng nhất phân tâm học với triết học. Nhưng tư tưởng của ông lại có những luận điểm đối lập như: ông chỉ ra vị trí trung gian giữa y học và triết học hay 22
- quan điểm về cái tâm thần vô thức: “Nếu ai không có đầy đủ tri thức triết học hay không có thiên hướng về hệ thống triết học thì sẽ bác bỏ khả năng của cái tâm thần vô thức”. Tuy nhiên, có thể khẳng định, phân tâm học đã phát triển từ thực tiễn chữa bệnh tâm thần và các giả thuyết riêng của tâm lý học y học tới tâm lý học phổ quát và học thuyết triết học xã hội. Freud gọi tổng thể các định đề chung của phân tâm học là siêu tâm lý học. Nó được ông sử dụng cả làm phương pháp luận nghiên cứu các quá trình tâm lý vô thức, lần làm cơ sở cho phân tâm học ứng dụng, tức là áp dụng các phương pháp phân tâm học vào xã hội học, dân tộc học, nghiên cứu văn học, thẩm mỹ học, tôn giáo và các môn khoa học khác. 1.3.3. Những nền tảng triết học phân tâm học Những nền tảng triết học – phân tâm học cho đạo đức học của Freud thể hiện nội dung nhân học triết học của Freud và phát triển trên một số phương diện cơ bản sau đây: a. Nguyên tắc thỏa mãn và nguyên tắc thực tại Sau nhiều năm tìm tòi vào thập kỷ cuối của thế kỷ XIX, Freud đã đưa ra quan niệm về cái tâm lý vô thức. Quan điểm này khác căn bản so với các lý thuyết trước đó. Freud không phải là người đã phát hiện ra cái vô thức, vì các nhà triết học và các nhà y học đã nói tới nó trước ông. Điểm mới trong học thuyết của ông là ở chỗ, ông đưa ra quan điểm động thái về tâm lý, trong đó ông lý giải được một cách logic không những một số lượng lớn bệnh rối loạn tâm thần mà cả mối liên hệ qua lại giữa các quá trình vô thức và ý thức. Thêm vào đó là các quá trình vô thức được nhất quán và đồng nhất với những kích thích mang tính bản năng, trước hết là dục vọng. Con người thể hiện ra đối với Freud là homo natura (một thực thể tự nhiên), khác với các động vật khác ở một khối lượng trí nhớ lớn hơn và ở chỗ ý thức của con người bắt đầu trung gian hóa quan hệ với môi trường bao quanh trong quá trình tiến hóa. “Mọi động vật đều tồn tại theo nguyên tắc thỏa mãn, tức chúng cố gắng đáp ứng nhu cầu của mình và né tránh đau khổ. Con người khác với con vật ở chỗ, nó hoãn việc đáp ứng dục vọng hay thậm chí đè nén chúng, nếu việc trực tiếp đáp ứng chúng đe dọa sự sống còn. Qua đó, con người thay thế nguyên tắc thỏa mãn bằng nguyên tắc thực tại”. [11;106 ] 23
- Theo Freud, mọi động vật đều tồn tại theo nguyên tắc thỏa mãn, tức chúng cố gắng đáp ứng nhu cầu của mình và né tránh đau khổ. Con người khác với con vật ở chỗ, nó hoãn việc đáp ứng dục vọng hay thậm chí đè nèn chúng, nếu việc trực tiếp đáp ứng chúng đe dọa sự sống còn. Qua đó, con người thay thế nguyên tắc thỏa mãn bằng nguyên tắc thực tại. Vào thời thơ ấu, đứa trẻ mới thoát ra từ bụng mẹ không biết đến những hạn chế và không có trí tuệ phát triển, do vậy nó chỉ tồn tại theo nguyên tắc thỏa mãn bằng nguyên tắc thực tại. Những dục vọng của giai đoạn này vẫn được giữ lại trong tâm lý con người sau này, nhưng chúng bị đè nén và bị đẩy xuống lĩnh vực cái vô thức, chúng được bộc lộ ra trong các giấc mơ hay triệu chứng mắc bệnh tâm thần. Dục vọng xung đột với các chuẩn tắc xã hội và các quy định đạo đức. Sự sinh tồn của con người luôn là trận chiến giữa những khát vọng mang tính bản năng và những yêu cầu của văn hóa có định hướng khác nhau. Như vậy, việc làm sáng tỏ bản chất của cái vô thức, vị thế của nó trong chỉnh thể tâm thần người là xây dựng quan niệm triết học về bản tính người. So sánh tâm linh con người với một tảng băng, mà tới tám chín phần mười tảng băng này chìm dưới nước biển, Freud cho rằng phần chính tâm lý con người cũng được ẩn giấu trong cõi vô thức. Bên dưới lớp vỏ ngoài, vì những lý do nào đó, những cảm giác và những mục đích mà một cá nhân đã không những giấu kín người khác mà còn tự giấu ngay chính bản thân mình nữa. Trong tâm lý học Freud, cõi vô thức là tối thượng và mọi hoạt động ý thức chỉ có một vị trí phụ thuộc. Nếu hiểu được cái thầm kín bí mật sâu xa của vô thức ắt chúng ta hiểu được bản chất nội tâm của con người. b. Thứ hai là hai mô hình về bản tính người Freud phân biệt khái niệm mô tả và khái niệm hệ thống về cái vô thức. Thuật ngữ “cái vô thức” có quan hệ với các biểu tượng tâm lý được suy xét. Freud đưa ra mô hình tâm lý thứ nhất của ông trong các tác phẩm ở đầu thế kỷ XX. Ông phân biệt ba thang bậc; ý thức, tiềm thức và vô thức. Khái niệm mô tả về cái vô thức của Freud không khác gì nhiều các quan điểm trước đó (cái tiềm thức của nhà tâm lý học người Pháp, P.Janer) và quan điểm của một số “tà giáo”. Tất cả những người ủng hộ tâm lý học nội quan đều nhất trí rằng, ngoài các quá trình tâm lý được chúng ta ý thức, thì còn các quá trình không được ý 24
- thức. Có một cái gì đó từ bề sâu tâm lý từ bề sâu tâm lý vượt lên trên khoảng trung gian giữa những tư tưởng rõ ràng và rành mạch của chúng ta, hơn nữa là ý định nắm bắt những biểu tượng này thường xuyên vấp phải sự phản kháng – một cái gì đó cản trở chúng ta đi vào ý thức. Trong tác phẩm Bệnh lý học sinh hoạt hàng ngày, Freud chỉ ra rằng chúng ta có quan hệ với sự can thiệp của cái vô thức trong các tình huống sinh hoạt hàng ngày bình thường nhất. Mỗi người chúng ta đều gặp phải một thực tế là: chúng ta có lúc không thể nhớ nổi tên người quen, quên nghĩa của từ tiếng nước ngoài đã biết rõ, để ở đâu đó cuốn sách cần tìm, những câu nói lỡ lời, Đó là tất cả những hành vi xảy ra một cách bất thần, dường như vô nghĩa, vô tội vạ mà mỗi người chúng ta đều đã không ít lần phạm phải nhưng đều bỏ qua vì chúng chẳng có gì đáng quan tâm. Những sự việc như vậy không phải là ngẫu nhiên, chúng được quy định bởi các động cơ vô thức. Giống như trong giấc mơ, sự cố gắng đi vào ý thức và những biểu tượng bị loại ra, bị cấm đoán. Xuất hiện tình trạng xuyên tạc trí nhớ của chúng ta hay tạo ra thế giới của những giấc mơ kỳ lạ. Ảo giác của những người bị bệnh tâm thần, ảo ảnh của các nhà thần bí hay của các nhà thơ, giâc mơ của mỗi người đều có nguồn gốc từ hoạt động của cái vô thức. Người ta thường hiểu tiềm thức là một hiện tượng tinh thần không còn thuộc ý thức nữa nhưng cũng chưa hoàn toàn vô thức. Còn tiền ý thức, theo Freud là một hiện tượng tinh thần được xét theo chiều ngược lại, nó không còn là vô thức nữa nhưng nó cũng chưa trở thành ý thức. Nó là một hình thức tinh thần trung gian trong quá trình chuyển biến cái vô thức thành cái hữu thức, thành ý thức. Để nói thay cách diễn giải của Phân tâm học về cái vô thức và sự chuyển dịch của nó qua tiềm thức, để trở thành ý thức trở thành hữu thức, Freud đưa ra mô hình tâm lý thứ nhất, ông phân biệt ba thang bậc: ý thức, tiềm thức và vô thức. Freud đã lấy ví dụ sau đây: ông hình dung có hai căn phòng liền nhau và có một cái cửa thông giữa hai phòng đó. Ngồi ở cửa thông này là một người gác cửa. Trong phòng thứ nhất chứa đầy cái vô thức. Một số cái vô thức tìm cách lọt qua mắt người gác để sang phòng thứ hai trong đó dành cho cái hữu thức. Một số cái vô thức đã qua được sự kiểm soát của người gác nhưng chưa vào được hẳn phòng thứ hai là nơi cư trú của cái hữu thức. Vì vậy, những cái vô thức này chưa trở thành hữu thức những cũng không là vô thức nữa và được gọi là tiềm thức. 25
- Nếu so sánh cái Tôi của chúng ta với ánh sáng, thí dụ như ngọn nến ở trong một căn phòng nào đó, thì lĩnh vực ý thức bao gồm những cái đang được chiếu sáng vào thời điểm đó. Nếu chúng ta ở trong một căn phòng lớn, thì ngọn nến chiếu sáng một khoảng không gian không lớn, cũng giống như ở mỗi thời điểm chúng ta ý thức được một số lượng không lớn đối tượng bên ngoài, hình ảnh trong ký ức của chúng ta. Số lượng những cái có thể ý thức được thực ra là rộng hơn nhiều: chúng ta có vô số hồi tưởng, chúng ta có thể chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác. Đó chính là lĩnh vực tiềm thức, tức cái không được ý thức một cách thực tại nhưng lại có thể đạt tới đối với ý thức. Cũng trong phòng tối đó, chúng ta chuyển từ một bức tranh này sang bức tranh khác, phát hiện ra cửa dẫn tới các gian phòng khác mà chúng ta có thể đi sang đó. Chẳng hạn, tôi không thể nhớ cách tính tích phân như thế nào, nhưng nếu giờ tôi xem lại các công thức đó, tôi có thể giải được. Cho đến hôm nay mọi người đều thừa nhận rằng vô thức là cái mang tính sinh lý tự nhiên, là cái mang tính bản năng di truyền bẩm sinh từ đời nọ sang đời kia. Freud đồng ý như vậy. Nhưng cái vô thức không phải chỉ có như vậy. Ông thừa nhận những đặc tính đó trong Phân tâm học, chúng ta có thể gặp không ít lần những từ như bẩm sinh, bản năng, di tuyền để nói về cái vô thức. Nhưng điều quan trọng với ông là cái vô thức không chỉ có thế, nên ông đã bổ sung một điều qua trọng là cái vô thức ngoài nguồn gốc có tính sinh lý bẩm sinh do cơ quan sinh lý phát động còn có sự tác động từ bên ngoài xã hội. Ông thường quả quyết rằng nếu không có sự tác động bên ngoài từ xã hội thì làm sao hình thành được cái vô thức. Như vậy, theo Phân tâm học ngoài mặt sinh lý bẩm sinh, bản năng, cái vô thức còn có mặt khác, đó là hoàn cảnh sống của mỗi người trong xã hội. Chính sự tác động từ bên ngoài này quyết định sự hình thành cái vô thức và nội dung của nó chẳng có gì ngoài cái người đời đã từng gặp phải trong cuộc sống của mình. Nội dung của cái vô thức bao gồm tất cả những biến cố, những kỷ niệm mà con người đã trải qua trong quá trình sống trước đấy, những tình cảm đó có được sau những biến cố, những kỷ niệm đó và cuối cùng là tất cả những ước muốn chưa được thực hiện do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân xã hội giữu vai trò to lớn và thường giữa vai trò quyết định. Vô thức - mảng lớn nhất - nằm bên trong tâm thức con người. Cái vô thức mà Phân tâm học quan tâm nhiều hơn cả là cái trước đây đã từng là cái hữu 26
- thức nhưng bị dồn vào vô thức nên đã trở thành cái vô thức mà đương sự cũng không hề hay biết. Cái đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm thần của chúng ta, theo Freud, là hầm ngầm, là bóng tối bên trong mà chúng ta đã bỏ một cái gì đó rất quan trọng vào đó – di sản thời thơ ấu của chúng ta. Tất cả chúng ta đều trở thành bản thân mình ở những năm tháng đầu tiên của cuộc đời, nhưng lại không nhớ gì về nó. Có một cái gì đó giống như sự kiểm duyệt cản trở trên con đường hồi tưởng. Trên cơ sở các ý tưởng trên, vào những năm 20 của thế kỷ XX, Freud đã xem xét và đưa ra một mô hình cấu trúc tâm lý khác: Freud phân loại mọi hoạt động tinh thần của mỗi nhân con người được thể hiện thành ba cấp độ được ông gọi là Bản ngã, (Id. Soi hay bản năng, cái nó); Tự Ngã (ego moi hay còn gọi là cái tôi) và Siêu Ngã (superego Surmoi hay còn gọi là cái siêu tôi). Quan trọng số một là cái Id, Freud bảo: Phạm vi của bản năng là phần nhân cách tối tăm và không thể đi đến được của chúng ta. Bản thân ta chỉ biết chút ít về cái bản năng qua nghiên cứu các giấc mộng và qua sự biểu hiện các triệu chứng bên ngoài của bệnh tâm thần, bản năng là nơi trú ngụ các bản năng nguyên thuỷ và các xúc cảm đi ngược lên tới cái quá khứ xa xưa khi mà con người còn là một con thú, bản năng có tính chất thú vật và bản chất của nó là thuộc về dục tính (sexual in nature), nó vốn vô thức. Cái Bản ngã được hiểu một cách đơn giản và ngắn gọn là những con người chưa thực sự thành nhân hay những phần trong nhân cách biểu thị một lối sống tự nhiên, bản năng tự phát. Một con người sống theo “chiều gió” chưa có khả năng làm chủ cuộc sống người của mình. Điều đó nói lên một nhân cách với lối sống mà định hướng chưa được xác định rõ ràng. Họ chưa có ý thức gì về cuộc sống nói chung cũng như mọi hoạt động của chính mình. Vận dụng nội dung ý tưởng thứ nhất nói trên thì đây là những con người mà ước vọng chưa được hình thành một cách chủ động. Mục đích của cuộc sống nói chung và mục đích của mỗi hành vi nói riêng không rõ rệt hoặc chưa được hoạch định trước. Họ tìm kiếm những khoái cảm theo kiểu được đến đâu hay đến đó, không có chủ đích nhất định. Với ý tưởng thứ hai thì loại người Bản ngã lại tìm kiếm những khoái cảm bất chấp nguyên tắc thực tế, bất chấp lợi ích hơn thiệt, nghĩa là không mang nội dung kinh tế vì họ không cần biết và cũng không quan tâm đến những hao phí sức lực nhiều hay ít trong việc thỏa 27
- mãn tình dục, tìm kiếm khoái lạc. Ở họ không có một tính toán gì cả trong việc trả giá cho những khoái cảm. Tất cả những ý nghĩ cũng như hành động của họ cũng như không thuộc về họ với tư cách là một chủ thể đang sống, suy nghĩ và hành động. Họ sống như vay mượn ở nơi khác, xa lạ với chính bản thân mình. Vận dụng ý tưởng thứ ba ở những người Bản ngã hay cái phần bản ngã trong một con người, chúng ta thấy chủ thể không phân biệt được đâu là ý tưởng ý thức, đâu là ý tưởng vô thức. Đương nhiên cũng không phân biệt được những định luật tác động nơi ý thức cũng như nơi những vô thức để từ đó làm chủ những tác động mang tính quy luật này. Cấp độ Bản ngã có thể tương ứng với sự hoạt động và chi phối một cách mù quáng của cái vô thức thuần túy. Cái Bản ngã này là cái Tự ngã chưa có ý thức gì về mình và cuộc sống cũng như hành vi của ình. Một cuộc sống đến đâu biết đến đó. Tất cả trông chờ vào sự may rủi. Những kích động nơi cái Bản ngã này được xem như những kích động sơ khởi của chính chủ thể. Nhiều hành vi ở cấp độ này chỉ là sự tự phát vô tổ chức ví như phá hoại chứ không nghĩ gì tới những quy phạm về pháp luật hay đạo đức xã hội và cũng không biết sợ những hậu quả do việc làm đó gây ra. Mọi hành vi đều mang tính bộc phát. Sự lệ thuộc của nó vào nguyên tắc khoái cảm thực là rõ nét và chỉ nhằm có mục đích đó. Cái Tự ngã hay cái Tôi chủ động và có khả năng kiểm soát mọi ý tưởng, mọi cảm nghĩ và nói chung là mọi hoạt động tinh thần như cái người ta thường gọi là sự tự ý thức. Đây là cái Tôi biểu hiện của mọi khuynh hướng xã hội, sống và làm việc với những quy định của xã hội một cách nghiêm túc. Đó là cái Tôi đã thành nhân có khả năng định hướng được cuộc sống của mình. Dù cho những khích động như thế nào từ bên trong cũng như từ bên ngoài mang lại, cái Tôi xã hội này luôn hướng những khát vọng của mình vào việc tìm kiếm những thỏa mãn hợp với nền luân lý xã hội dù cho nó có hợp lý hay không; đồng thời kiểm soát nghiêm ngặt những ước vọng mà xã hội cấm kỵ dù cho nó có chính đáng đến đâu. Cái Tôi này sống và làm việc theo đúng nguyên tắc thực tế, theo nguyên tắc lợi ích để tự bảo tồn cá nhân ngay cả khi không thể bảo tồn dược trong thực tế. Tình hình đó cũng xảy ra tương tự khi nó tự bảo tồn giống nòi. Sự hưởng thụ khoái cảm, sự dễ chịu, sự sung sướng cũng luôn được tính đến ý nghĩa kinh tế của sự hưởng thụ sao cho sự tiêu phí sức lực ít nhất, vào lúc đó lợi nhất mà cũng không ảnh hưởng gì đến những hoạt động 28
- khác mà trước mắt là tránh rơi vào bệnh hoạn. Cái Tôi này thành cái Tôi đại diện cho cái hữu thức, cho ý thức và luôn đối lập với cái vô thức. Cái Tôi này luôn hành động theo ý chí và chỉ do lý trí mà thôi. Nó không biết gì đến cái vô thức và dung nạp được cái vô thức trong cuộc sống của mình. Nó là đại diện cho một thành phần của cơ cấu toàn diện về nhân cách như là một cái Tôi có tổ chức. Nó là khuynh hướng gây ức chế và mọi cấm đoán đối với những gì mà xã hội không chấp nhận. Nó còn là đại diện cho xã hội để tiến hành trừng phạt khi cần thiết. Đây là cái Tôi nghiêm khắc và nghiêm nghị trong mọi trường hợp. Nó sống bằng lý chứ không bằng tình. Nó thực sự là đại diện cho một con người “mực thước”. Freud cho rằng đó chính là con người kiểm duyệt của cái Tôi: ý thức con người. Chính ý thức này kiểm duyệt các giấc mơ, đó chính là nơi xuất phát của những sự dồn ép các ham muốn không thể chấp nhận được. Chịu ảnh hưởng của thói quen hay quan sát ý thức bị tan rã và cho ta biết nguồn gốc của nó; đó là những ảnh hưởng của cha mẹ, những nhà giáo dục, bầu không khí xã hội xung quanh, đồng hóa với một vài người mà người ta chịu ảnh hưởng. Tâm lý học cổ điển, chỉ biết đến vai trò của ý thức thì đúng là một mẫu người xã hội mà mọi người “đoan chính” cần noi theo. Nó rất phù hợp với những đòi hỏi của xã hội dù cho những đòi hỏi đó có chính đáng hay không, có phù hợp với con người vừa là sản phẩm của giống nòi (di truyền) có nhiệm vụ bảo tồn dòng giống lại vừa là con người xã hội sống với những quy định xã hội do con người đặt ra và tôn sùng. Chúng ta có thể hiểu đây là một mẫu người nêu chúng ta muốn gọi thì đó chính là những con người một chiều, chỉ biết có cái hữu thức. Tâm phân học rất coi trọng vai trò của ý thức, của cái hữu thức, của đời sống xã hội với những đòi hỏi thực tế, nhưng Tâm phân học không muốn nhân cách con người chỉ hoàn thiện ở cấp độ như vậy. Vì thế Phân tâm học còn chú ý đến một cấp dộ nhân cách toàn diện mà người ta gọi là cái siêu Tôi. Nếu mà cái cái Nó chỉ biết đến cái vô thức, chỉ sống và hành động theo sự hướng dẫn mù quáng của cái vô thức, cái Tôi ý thức lại chỉ biết đến suy nghĩ và hành động theo sự hướng dẫn của cái hữu thức với tư cách là một thực thể xã hội, thì cái Siêu Tôi lại suy nghĩ và hành động trên cơ sở hiểu biết đúng đắn cả cái ý 29
- thức và cái vô thức bao gồm cả những quy luật hoạt động của chúng. Nó được hiểu theo tâm lý học về cơ cấu nhân cách toàn diện như là lý tưởng sống của những con người có nhân cách phát triển dù chưa đủ chín chắn để vừa ý thức được những đòi hỏi hợp tình hợp lý của cuộc sống lại vừa kiềm chế được những ham muốm riêng tư tầm thường trước mắt, đồng thời hướng nó vào những mục tiêu cao cả có ích cho đời cũng như cho bản thân. Đây là những con người có tố chất đặc biệt trong con người họ khiến họ không bao giờ dám phạm phải những lỗi lầm mới nảy sinh trong suy nghĩ. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ có một cái gì đó luôn là quan tòa dể phán xét ngay cả những ý tưởng xấu xa. Họ không phải là loại người không làm những sai trái là do phải giữ những quy phạm về đạo đức xã hội, về luật pháp của nhà nước mà là do sự phán xét lương tâm của họ. Suy nghĩ và hành động của cái Siêu Tôi là cái được sự hướng dẫn của sự kết hợp hài hòa giữa cái hữu thức và cái vô thức. Trong cái Siêu Tôi, cái hữu thức và cái vô thức đã được thuần dưỡng, đã được nhận thức, đã được hướng vào những mục tiêu có ý thức gần hay xa, trực tiếp hay gián tiếp tương đối rõ rệt. Như việc hướng những uốn nắn tình dục ngay cả theo nghĩa hẹp vào những mục tiêu cao cả mà sự sung sướng, những khoái cảm mang lại không kém gì những khoái cảm khi khát dục được thỏa mãn, không chỉ cho riêng họ mà còn cho cả nhân loại, cho đời. Những ý tưởng ngông cuồng vô thức đã trở thành mục tiêu thực hiện trong một phạm vi nào đó mà họ đã phấn đấu một cách có ý thức đầy đủ. Ngay cả những cuồng vọng vô thức, những đam mê vô thức cũng có thể trở thành những động lực có sức mạnh to lớn để hoàn thành những công việc to lớn có ích cho đời. Trong cái Siêu thức, cái Siêu Tôi, cái hữu thức đã trở nên mềm mỏng hơn, biết điều hơn, biết đối xử gượng nhẹ hơn đối với cái vô thức. Nó không là cái hữu thức vô đoán, quá khắt khe và thô bạo như trước. Cái Siêu Tôi được hướng dẫn của sức mạnh nội tâm lành mạnh, tạo ra một lương tâm trong sáng, cái mà người đời từ xưa đến nay luôn đề cao và có vai trò có ý nghĩa hàng đầu trong mọi suy nghĩ và hành động của con người. Cái mà chúng ta gọi là lương tâm đó như là một cái gì hư ảo nhưng thực ra nó lại có một sức mạnh rất cụ thể nhiều khi còn mạnh hơn cả những quy phạm về đạo đức, những thể chế, những luật lệ xã hội gấp nhiều lần. Sự phán xét của lương tâm chính lại là sự phán xét công minh, nghiêm khắc và có hiệu quả 30
- hơn bất kỳ một tòa án nào trên đời. Và người đời đã từ lâu rất coi trọng cái tòa án lương tâm này. Thiếu nó thì chẳng có một có một tòa án nào ngoài đời có thể làm được cái gì đáng kể và lâu bền. c. Số phận của dục vọng Trong Phân tâm học, vấn đề tình dục có một vị trí vô cùng quan trọng vì như trên đã nói, cái vô thức có liên quan chặt chẽ với nội dung tình dục mà vấn đề tình dục lại có liên quan đến việc tìm hiểu các chứng bệnh tâm thần và cuối cùng để chữa trị các chứng bệnh này sao cho có hiệu quả nhất. Tâm phân học là môn học về các hoạt động tinh thần, đương nhiên nó nghiên cứu những vấn dề trên cũng theo hướng tìm ra ý nghĩa tinh thần của vấn đề đó. Nếu Phân tâm học có đề cập đến mặt sinh lý của vấn đề thì cũng không phải để tìm ra cơ chế hoạt động của những cơ quan sinh lý mà là tìm ra ảnh hưởng của nó về mặt tâm lý, về mặt tinh thần và đi sâu mổ xẻ cơ chế, tổ chức hoạt động của những hoạt động tinh thần này. Cách đây một trăm năm cũng như hiện nay, trước mắt mọi người, vấn đề tình dục vẫn thường là cái gì khó nói. Những thành kiến lệch lạc đối với tình dục hiện nay tuy có một vài điều tiến bộ nhưng nói chung cách nhìn nhận sự việc vẫn còn mang nhiều ảnh hưởng của thời xa xưa mà hai khuynh hướng chủ yếu vẫn là: đề cao quá đáng hay xem thường, thiêng liêng hóa vấn đề lại coi là chuyện tục tĩu. Việc cần thiết lúc này là hãy nhìn thẳng, không kiêng kị và đối xử với nó bằng một thái độ trong sáng, lành mạnh giữa những con người, một thái độ thấu tình đạt lý. Đó là toàn bộ vấn đề chứ không phải là tránh né nó, cứ để cho nó tự do tác động một cách mù quáng dẫn con người đến tình trạng đau khổ, dẫn đến bao bi kịch nhiều khi làm thương tổn đến nền tảng đạo đức xã hội, đến luân thường đạo lý mà chính xã hội đã vô tình gây ra mà cứ cho nó là do những lực lượng nào đó phá phách. Đặc tính chung nhất, đồng thời cũng chỉ mục đích của mọi hành vi tình dục đó là những khoái cảm, sự dễ chịu, là phút giây sung sướng trong sự thỏa mãn. Sự sung sướng trong vấn đề thỏa mãn tình dục này được Phân tâm học gọi là sự khoái cảm bao gồm những cảm xúc mạnh đạt trình độ cao trong mọi cảm xúc. Cũng chính vì vậy trong phần khái luận chúng ta đã nói rằng tình dục phải được hiểu theo nghĩa rất rộng bao gồm mọi tình yêu. Chúng ta còn nói thêm rằng tình yêu này phải có khả năng khi được thực hiện, được thỏa mãn thì nó sẽ mang lại cho con người 31
- những cảm xúc đặc biệt, những khoái cảm đặc biệt và như vậy có thể gọi tình dục là loại tình yêu đặc biệt theo cách nói trên, chứ không phải bất cứ loại tình yêu nào mà chỉ mang lại những cảm xúc thông thường. Đây là loại tình yêu có sức mạnh to lớn. Ở đâu có loại tình yêu này là có khả năng tạo ra cho con người một trạng thái tinh thần, một trạng thái tâm lý hưng phấn cao làm động lực cho sự sáng tạo có ý nghĩa, những phút xuất thần và nói chung là một sự thăng hoa nơi nhân cách, một bước nhảy vọt về tâm hồn đều thuộc phạm trù tình dục theo quan niệm của Phân tâm học. Một thứ tính dục lành mạnh có ích cho đời cũng như cho chính bản thân mỗi người. Còn những hành vi tình dục khác như tình dục sa đọa cũng có thể mang lại những cảm xúc mạnh, những khoái cảm mãnh liệt nên cũng được xem là những hoạt động tình dục nhưng hậu quả của nó lại làm cho nhân cách bị sa sút nhiều khi còn rơi vào vòng tội lỗi. Trong trường hợp này người ta không thấy một sự thăng hoa nào. Bản thân tình dục sa đọa chỉ làm cho con người sa sút cả về mặt thể xác và tâm hồn. Bởi vậy, Phân tâm học có nhiệm vụ nghiên cứu những phương cách khác nhau trong việc thỏa mãn tình dục nhằm phân biệt đâu là tình dục bình thường, lành mạnh là động lực cho những sáng tạo và sự thăng hoa của nhân cách; đâu là loại tình dục sa đọa, không bình thường, tục tĩu chỉ có tác dụng phá hoại tâm hồn và thể xác con người để tìm ra cách giải quyết có lợi cho xã hội cũng như một cá nhân. Phân tâm học yêu cầu chúng ta hãy xem xét những hành vi tình dục bất bình thường xem nó có liên quan gì đến những hành vi tình dục bình thường. Khâu trung tâm và gây nhiều tranh cãi nhất trong phân tâm học là lý luận về bản năng hay dục vọng do Freud đưa ra. Vào cuối thế kỷ XIX chưa có khoa học về hành vi của động vật, như tập tính học, các lý thuyết rất phổ biến khi đó là các lý thuyết tìm kiếm bản năng cho mỗi loại hình hành vi bẩm sinh. Freud quy định mọi hành vi đa dạng ấy về hai hành vi cơ bản: kế tục loài và tự vệ; phù hợp với chúng ta là tình dục và cái gọi là các bản năng của cái Tôi. Sau một thời gian, ông quy định loại thứ hai về loại thứ nhất. Rốt cuộc, mọi quá trình tâm lý là những biểu hiện của năng lượng tâm lý cơ bản – libido (năng lượng tình dục). Mặc dù bản thân Freud không phân biệt rành mạch giữa dục vọng và bản năng, song không phải ngẫu nhiên mà ông lại thường sử dụng thuật ngữ “dục vọng”, vì khác với cơ chế sinh lý thuần túy của bản năng, dục vọng là một thực tại 32
- tâm lý nào đó. Chúng ta thể nghiệm một dục vọng nào đó mà không biết chính xác các nguyên nhân của nó; chúng ta biết tới cơ chế của bản năng nhờ sự nhận thức khách quan. Nói cách khác, dục vọng là sự tái hiện quá trình sinh học trong tâm lý, nó nằm giữa các quá trình sinh lý ở ngoài ý thức và nguyện vọng được ý thức hay hành vi có ý chí. Cái vô thức thể hiện là căn cứ được chế định về mặt sinh học của ý thức, nhưng khác với quá trình thuần túy tự nhiên: nó có nghĩa và có thể được lý giải, trong khi quá trình tự nhiên không những đòi hỏi lý giải mà còn cả giải thích về mặt nhân quả. Freud không phải là người đầu tiên phát hiện ra cái vô thức. Nhưng chính quan điểm toàn vẹn về tâm lý như sự thống nhất của các quá trình vô thức và ý thức đã đi vào khoa học tâm lý cùng với các tác phẩm của ông. Đối với Freud thì quan hệ giữa chúng thể hiện trước hết như là xung đột của những dục vọng do bản tính con người quy định với các chuẩn tắc xã hội và các giá trị văn hóa. Chính việc đè nén dục vọng tự nhiên đã dẫn tới đa số bệnh tâm thần. Bất kỳ văn hóa nào cũng được xây dựng dựa vào việc khước từ, dáp ứng những dục vọng, vào những cấm đoán đối với việc trực tiếp thực hiện các nhu cầu sinh học. Mọi người sinh ra đều có xung đột tính dục hay bản năng tính dục. Lịch sử tính dục của con người bắt đầu từ mới sinh, đứa trẻ đó tìm khoái lạc tính dục ở bất kì bộ phận nào trên cơ thể nó. Việc tìm kiếm mục đích và đối tượng cụ thể để thỏa mãn ham muốn tính dục đòi hỏi phải có kinh nghiệm, đó là quá trình học hỏi phức tạp có thể dẫn đến sai lạc. Tòa nhà văn hóa càng được nâng cao bao nhiêu thì áp lực của nó đối với bản tính con người càng mạnh hơn bấy nhiêu. Tuy nhiên, khác với một số môn đệ của mình, Freud không phải là người ủng hộ cho việc giải phóng tình cảm. Việc đè nén dục vọng là một tất yếu nghiệt ngã. Một mặt, không tuân thủ nguyên tắc thực tại thì nói chung không thể có sự tồn tại của con người. Mặt khác, việc đáp ứng các dục vọng bẩm sinh đe dọa không những một thứ văn hóa đàn áp nào đó, mà còn đe dọa sự kế tục của nòi giống người. Ngoài tình dục (eros) hay bản năng sống, còn có dục vọng khác – bản năng chết, dục vọng hiếu chiến hay dục vọng phá hủy (tanatos). Freud đã điều chỉnh siêu tâm lý học của mình để giải thích không những một số loại bệnh tâm thần mà còn cả nhiều hiện 33
- tượng xã hội. Không ngẫu nhiên ông suy ngẫm về dục vọng vào thời kỳ chiến tranh thế giới thứ nhất. Đối với Freud, quy luật nhiệt động lực học thứ hai cũng là quy luật của đời sống tâm lý giống như ở mọi vật chất có tổ chức cao: hướng đến sự đơn giản hóa entropy (một kiểu chết nhiệt). Mọi cái hữu sinh đều cố quay trở về trang thái vô sinh, bất kỳ tâm lý nào cũng bao hàm trong mình ý muốn quay trở lại trạng thái tiền tâm lý. Chúng ta cảm thấy thỏa mãn khi giải tỏa được sự căng thẳng tâm lý, cũng như mọi sự sống, vì toàn bộ ý thức của chúng ta thực chất là sự căng thẳng, nên sự tự phá hủy của nó thể hiện là cái đem lại một sự thỏa mãn đặc biệt. Mọi cái hữu sinh đều cố hướng tới cái chết, tới sự phá hủy có định hướng vào bên trong hay ra bên ngoài, thể hiện qua hành vi đàn áp. Về dục vọng hiếu chiến và phá hủy: mới đầu ông ủng hộ liên minh Áo - Đức vì có con ông đang chiến đấu, nhưng sau đó ông không ủng hộ nữa: “nền văn minh của chúng ta bị biến dạng vì một sự đạo đức giả khổng lồ, liệu có bao giờ ta lại có thể nói mình đã được văn minh hóa hay chăng”, điều đó lý giải cho việc toàn bộ ý thức của chúng ta thực chất là sự căng thẳng lên sự tự phá hủy nó thể hiện là cái đem lại một sự thỏa mãn đặc biệt. Năm 1917, tại nơi ông sống cuộc sống rất khó khan (thiếu thức ăn, nhiên liệu, thuốc lá, ), sự tang tóc và u sầu khiến con người cảm thấy muốn tự sát, điều đó lý giải cái hữu sinh. TIỂU KẾT CHƯƠNG I Bối cảnh kinh tế xã hội và văn hóa tinh thần cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã tác động và có những ảnh hưởng nhất định đến việc hình thành tư tưởng triết học của Freud. Mặt khác, ông còn chịu ảnh hưởng rất nhiều từ các khuynh hướng đa dạng phong phú của triết học, khoa học tự nhiên và thực tiễn chữa trị bệnh tâm thần. Ông sống trong thời đại khoa học và tư duy duy lý cho nên mục đích theo đuổi của ông là dựa trên những thành tựu khoa học đương thời để chứng minh tính hợp lý trong tư tưởng của mình. Bản thân ông cũng luôn mong muốn theo đuổi chân lý khoa học. Như vậy, việc xem xét lịch sử xuất hiện tư tưởng triết học của Freud cho thấy, các luận điểm cơ bản của phân tâm học nói chung, cũng như triết học nói riêng, đã được các nhà tư tưởng bàn luận từ trước đó, nhưng nó còn rời rạc và chưa có hệ thống. Công lao lớn nhất của Freud là ông đã biết liên kết các ý tưởng rời rạc 34
- thành một hệ thống lý luận hoàn chỉnh đồng thời ông cũng chỉ ra được khái niệm nền tảng trong toàn bộ học thuyết của ông chính là cái vô thức. Khi phân tích thế giới nội tâm của con người, Freud đã không hạ thấp hình ảnh con người vốn được đề cao và trân trọng. Freud đã lý giải, phân tích để thấy rõ được những nguyên nhân tác động đến đời sống cá nhân và xã hội. Đồng thời, ông cũng bộc lộ mong muốn con người có khả năng tiến bộ, khả năng làm xuất hiện những hình ảnh dự phóng từ cuộc hành trình tinh thần của chúng ta khi con người có ý thức và trách nhiệm với bản thân. Từ những lý luận nhân cách, Freud đã giới thiệu cho chúng ta một trình tự phát triển hợp logic, vạch ra con đường nhận thức cái vô thức để từ đó từng bước hiểu được bí mật của tồn tại người. Và từ đó, Freud đã mở rộng quan niệm của mình để phân tích và giải thích các hiện tượng xã hội và văn hóa. Chính điều đó đã thêm cho quan niệm của ông sắc thái triết học. Đóng góp của Freud là kể từ đây, người ta bắt đầu ý thức được cần xem xét con người một cách chăm chú và sâu sắc hơn so với trước. Con người không những là một sinh thể duy lý; nó thực ra là “giao điểm giữa hai thế giới” - thế giới tâm linh cao cả và thế giới tự nhiên thấp hèn. Đó chính là nét đặc thù của con người như là loại hiện tồn đặc biệt. Đây cũng chính là giá trị phương pháp luận quan trọng đối với vấn đề nhận thức về đạo đức và nhân cách con người, sử dụng con người như là một tài sản vô giá và mục đích tối cao của sự phát triển xã hội. 35
- CHƯƠNG 2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỌC S.FREUD Phân tâm học là một học thuyết triết học mang đậm sắc thái đạo đức học được khởi thảo bởi Sigmund Freud, một bác sĩ người Áo. Đạo đức học phân tâm học thuộc một trào lưu chủ yếu của xu hướng đạo đức nhân bản phi duy lý. Việc xem xét tồn tại người trong thế giới, như mục đích chủ yếu của triết học phân tâm học, đòi hỏi phải quan tâm đến phương diện đạo đức, vì việc làm rõ bản tính người có liên hệ mật thiết với nhận thức các vấn đề về thiện và ác, các động cơ của hoạt động và các cấm đoán đạo đức, tự do ý chí và số phận, lương tâm và tội lỗi. Do vậy, điều dễ hiểu là Freud phải giải quyết hệ vấn đề bản thể luận và nhận thức luận nhằm mục đích đưa ra quan điểm riêng của mình về các cơ sở đạo đức của con người. Mặc dù Freud không có tác phẩm dành cho xây dựng học thuyết đạo đức, song ông thường xuyên đề cập đến những vấn đề đạo đức trong các tác phẩm khác nhau của mình. Triết học phân tâm hướng tới vạch ra các cơ sở đạo đức của tồn tại người. Sự giải mã ngôn ngữ biểu tượng cái vô thức, lý giải giấc mơ, kiến giải các triệu chứng phân ly bệnh tật của thế giới nội tâm của cá nhân - tất cả đã dẫn đến thừa nhận khởi điểm “ác độc”, “xấu xa” trong con người. Một khía cạnh khác là ở chỗ, sự triển khai cái tâm thần vô thức diễn ra không chỉ bằng sự trượt xuống khởi điểm những ham muốn bản năng thấp nhất của tồn tại người, mà còn bằng cả hoạt động kiến tạo các giá trị tinh thần cao nhất của cuộc sống, dù đó là dạng sáng tạo nghệ thuật, khoa học hay là các dạng sáng tạo nào đi nữa. Trong đạo đức học phân tâm có dấu vết tư tưởng của Kant về “mệnh lệnh tuyệt đối” được xét với tư cách một cơ chế tâm lý đặc thù hoàn toàn xác định từ trước thường điều chỉnh hoạt động của con người. Mệnh lệnh đó chính là lương tâm có tác dụng gạt bỏ hay đè nén các dục vọng tự nhiên của con người. Như vậy, triết học Freud ghi nhận tính hai mặt của tồn tại người trong thế giới gắn với tính bị quyết định tự nhiên và đạo đức của hoạt động sống con người. 36
- 2.1. Quan niệm về thiện ác, lương tâm, nghĩa vụ, tự do, trách nhiệm và bản chất của tư tưởng đạo đức học trong phân tâm học của Freud Quan tâm đến phương diện đạo đức để làm rõ bản tính người, Freud đã nghiên cứu đạo đức từ lập trường cái vô thức do mình khởi xướng để làm rõ vấn đề thiện ác, các động cơ của hoạt động trong tương quan với cấm đoán đạo đức, lương tâm và tội lỗi. Do là nhà nghiên cứu tâm lý tinh thần nên quan điểm đạo đức của ông có nhiều điểm khác so với các quan niệm truyền thống. Sigmund Freud: “Con người đạo đức hơn ta nghĩ, nhưng cũng rất vô đạo đức hơn ta tưởng”. Freud nhìn thấu bản chất ấy và nhận ra hai xu hướng bản năng đối lập mà ông gọi là Eros và Thanatos: Eros và Thanatos là hai nhân vật đối lập trong thần thoại Hy Lạp: Eros là thần của sắc đẹp, tình yêu nhục dục và sự sinh sản; Thanatos là thần chết. Eros là một từ gốc Hy Lạp, Ἔρως, được Freud sử dụng để biểu thị cái “libido” hoặc bản năng sống hướng tới thoả mãn các ham muốn dục vọng và sự sống còn. Ham ăn, ham uống, ham sắc dục, ham của cải vật chất, ham tiền bạc, ham danh lợi, là những thứ ham muốn nằm trong cái Eros nói chung. Những ham muốn này là tự nhiên, xuất phát từ bản năng sinh tồn. Đối lập với bản năng sinh tồn là bản năng Thanatos. Thanatos cũng là một từ gốc Hy Lạp, Θάνατος, dịch ra tiếng Anh là “death wish”. Freud sử dụng thuật ngữ này để chỉ trạng thái “muốn huỷ hoại” – một trạng thái tâm lý tiêu cực như muốn đập phá, huỷ hoại mọi thứ bất chấp cái chết để giải quyết những bế tắc, căng thẳng trong cuộc sống. Biểu lộ thấp nhất của cái Thanatos là thói tự ái, nóng giận, nổi khùng mà ai cũng có thể có. Rất nhiều đổ vỡ trong hôn nhân hay trong quan hệ giữa người với người nói chung xuất phát từ những cơn tự ái bất chấp. Đó là lúc bản năng Thanatos trỗi dậy, không thể kiểm soát. Sự ghen tức, đố kị dẫn tới hãm hại lẫn nhau là biểu hiện cao hơn của Thanatos. Thù oán, giận dữ đến mức giết hại đồng loại là biểu hiện tột cùng của Thanatos. Hoạt động của con người bị quy định bởi sự tương tác và nhân nhượng của hai loại bản năng đó, tương ứng với hai loại ý chí đối nghịch với nhau hoạt động một cách vô thức: ý chí hướng đến cuộc sống và ý chí hướng đến cái chết. Những lực 37
- lượng vô thức của tâm lý này dường như điều khiển hoạt động của con người cá nhân. Theo Freud, trình độ khởi đầu của đời sống tâm lý này quy định nội dung ý thức và tất cả các hình thức của hoạt động văn hóa trong đó có đạo đức và tôn giáo. Cả hai bản năng nói trên không chỉ tồn tại trong từng cá thể, mà có thể tồn tại ngay cả trong một cộng đồng xã hội, tạo nên một xu thế sống trong cộng đồng đó. Những vụ tự tử tập thể là một bằng chứng. Chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan, bề ngoài được che đậy bởi mục tiêu tôn giáo, nhưng thực chất cũng là một biểu hiện của cái Thanatos lên tới cực điểm. Có thể chỉ ra hàng đống ví dụ khác để thấy vai trò của Thanatos tác động tiêu cực đến xã hội loài người như thế nào. Tất nhiên bản năng vô thức bị kiềm chế bởi lý trí – ý thức làm cho con người hơn hẳn con vật. Nhưng khả năng kiềm chế của lý trí lớn đến đâu? Lý trí có thể chiến thắng bản năng Eros và Thanatos hay không? Đây chính là câu hỏi khó nhất và cũng là quan trọng nhất khi nhận định về tương lai của nền văn minh. Nếu lý trí thắng, nền văn minh sẽ tiến lên. Nếu bản năng thắng, nền văn minh sẽ sụp đổ. Thực tế cho thấy tuỳ theo từng trường hợp, từng hoàn cảnh cụ thể, từng cá nhân mỗi con người hoặc từng xã hội, khả năng và mức độ kiểm soát của lý trí đối với bản năng Eros và Thanatos là khác nhau. Những cá nhân như Nguyễn Đức Nghĩa và Lê Văn Luyện có lẽ thuộc loại thuần tuý bản năng. Trước khi thực hiện hành vi man rợ, chúng tính toán kế hoạch rất tỉ mỉ. Những kế hoạch này càng quỷ quái ranh ma bao nhiêu càng chứng tỏ cái bản năng Eros và Thanatos lớn bấy nhiêu. Có những xã hội cũng hành động điên rồ như những cá nhân tội phạm. Chủ nghĩa quốc xã Đức là cái gì nếu không phải là một tập thể hành động theo cái Eros (tranh giành quyền lợi) và Thanatos (tiêu diệt người Do Thái, lập nên những trại tập trung, lò thiêu người, ). Những mồ chôn tập thể của Khơ Me đỏ những năm 1970 hay của Gaddafi mới được phát hiện vào tháng 9/2011 là cái gì nếu không phải là kết quả của một nền chính trị bị chi phối bởi những con quỷ Eros và Thanatos? Đôi khi những con quỷ ấy bị nguyền rủa như một thứ “bản năng dã thú” hay “bản năng súc vật”. Sự nguyền rủa này có phần oan uổng cho loài vật, vì thú dữ chỉ dữ khi chúng đói hoặc bị tấn công. Khi chúng được ăn no, chúng trở nên hiền lành đến mức có thể sai bảo. Đó là bí quyết của các môn xiếc động vật. Nói cách khác, 38
- bản năng của động vật là có giới hạn, và giới hạn này do Tự Nhiên quy định, đó chính là luật cân bằng sinh thái. Chỉ có con người mới phá vỡ luật cân bằng sinh thái, đơn giản vì cái Eros và Thanatos ở con người không có giới hạn, đúng như ngạn ngữ Việt Nam đã nói: “Lòng tham không đáy!”. Thật vậy, cái Eros của con người vượt xa con vật. Đã có 1 tỷ đô-la lại muốn có 10 tỷ, bỏ ngoài tai lời tâm sự của Warren Buffet: “Khi tôi đã có 1 tỷ, mọi đồng tiền kiếm thêm đều vô nghĩa”. Trong hơn 7 tỷ người trên trái đất, có bao nhiêu người thấm thía ý kiến của Honoré de Balzac trong “Tấn trò đời”: “Đằng sau những tài sản kếch xù đều là máu và nước mắt”? Bao nhiêu người lắng nghe Lão tử: “Hoạ mạc đại ư bất tri túc; cữu mạc đại ư dục đắc. Cố tri túc chi túc, thường túc hĩ” (Không cái hoạ nào lớn hơn là không biết tri túc; không sai lầm nào lớn hơn là tham lam. Cho nên kẻ biết cái đủ là đủ thì không bị nhục và bao giờ cũng thấy đủ)? Vì thế không ngạc nhiên khi thấy Sigmund Freud, ngay từ năm 1930, trong tác phẩm “Civilization and Its Discontents” (Nền văn minh và sự bất mãn của nó), đã sớm có một cái nhìn đầy bi quan về mối quan hệ xung đột giữa nền văn minh với chính chủ thể sáng tạo ra nền văn minh đó: Nền văn minh muốn tiến lên để đem lại hạnh phúc cho con người, nhưng luôn luôn bị chệch hướng và thậm chí bị huỷ hoại bởi cái Eros và Thanatos. Freud đáng được thông cảm, bởi ông đã chứng kiến cuộc Thế chiến I. Ở một mức nào đó, cảm nhận của ông về tương lai của nền văn minh nhuốm vẻ tiên tri – chưa bao giờ xã hội loài người lâm vào tình trạng mất cân đối nghiêm trọng như hiện nay: mất cân bằng sinh thái; chiến tranh khu vực; khủng bố; suy đồi đạo đức; khủng hoảng tội ác; đám mây hạt nhân treo lơ lửng trên bầu trời; bất công xã hội lên đến mức vô đạo (90% của cải vật chất tập trung vào 5% dân số thế giới, bất chấp ngót 1,5 tỷ người đang sống nghèo đói và bệnh tật); Bình luận về vấn đề này, học giả David Peat nêu ra ý kiến rằng: lý trí, cái vốn được coi là nền tảng chắc chắn của một xã hội, thực ra chỉ là bề nổi của một đại dương vô thức mênh mông – một tầng tâm lý nằm sâu bên dưới, ẩn giấu những khát vọng điên cuồng và những cơn bốc đồng thôi thúc. Sức mạnh của cái vô thức này thường xuyên đe doạ nổ tung trong cuộc sống tỉnh thức của chúng ta Theo 39
- Freud, tình trạng căng thẳng này là không thể giải quyết được, do đó không bao giờ có thể có một xã hội thật sự lý tưởng, cũng như không bao giờ có một hạnh phúc và sự hài hoà thuần khiết của con người. Có lẽ đây là lý do căn bản để sự cùng khốn, bất công xã hội, và sự bất bình đẳng chính trị châm ngòi cho sự bùng nổ bạo lực và những căng thẳng xã hội. Tuy nhiên nguồn gốc sâu xa của những căng thẳng đó chính là cái Thanatos – trạng thái muốn huỷ hoại được phóng chiếu lên các quốc gia, các nhóm sắc tộc, và các cá nhân. Vì cái Eros và Thanatos không thể hoà giải được với nhau nên tội lỗi của con người và sự thiếu vắng của một hạnh phúc trọn vẹn là điều khó tránh. Tất cả mọi hình thái của nền văn minh, từ nền tảng cốt lõi của chúng, đã là một sự đối kháng đối với xu thế bản năng và khát vọng căn bản nhất của chúng ta. Đáng tiếc là Freud có một số quan điểm thái quá khi bàn đến bản năng dục vọng cách nhìn bi quan của ông về con người và tương lai của nền văn minh cũng khiến một số người kết tội ông là hạ thấp gía trị của con người, thiên về cái xấu của con người thay vì đề cao giá trị của ý thức. Tuy nhiên, sẽ có ý nghĩa tích cực nếu ta coi ý kiến của Freud như những lời cảnh tỉnh. Chẳng hạn, ông nói: “Cái tôi không phải là ông chủ trong căn nhà của chính nó” (The ego is not master in its own house), đại ý ông muốn nói: thay vì làm chủ được chính mình, con người chỉ là những tên nô lệ của bản năng mà thôi. Nhận định này có thể đúng với người này, sai với người khác. Nhưng người nào càng tự phụ cho rằng ý thức của mình mạnh hơn bản năng, người ấy càng có nguy cơ rơi vào cạm bẫy của bản năng nhiều hơn. Chúng ta phải hiểu rõ vấn đề này để tránh sa vào các cạm bẫy cám rỗ không thể ngờ tới. Trong tác phẩm Tâm lí học đám đông và phân tích cái tôi con người, Freud còn đưa hai phát hiện cơ bản lớn của ông vào phân tích mối quan hệ giữa con người với con người. Sự phân tích đó đã chỉ ra cho thấy "mối liên hệ của tình yêu" được xây dựng trên cơ sở bản năng, là sự ràng buộc các cá nhân trong tập thể, là sức mạnh trung tâm trong quan hệ giữa người với người. Freud nói: trong quan hệ người với người, đã có thể thấy quan hệ tự yêu, tự thương để bảo tồn cá nhân. Điều này có ý nghĩa vì nó tạo nên sự khoan dung lẫn nhau trong tập thể làm cho con người chuyển từ "con người vị kỉ sang con người vị tha" [7, 369]. Một ứng dụng 40
- nữa trong phân tâm học là Freud đã ứng dụng phân tâm học vào nghiên cứu nguồn gốc của đạo đức và tôn giáo, ông coi "mặc cảm Ơdip" là căn nguyên cuối cùng của đạo đức và tôn giáo. Vấn đề này được Freud trình bày trong Nguồn gốc của văn hóa và tôn giáo. Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Freud xác định cấu trúc tâm lý con người gồm 3 yếu tố: “cái Nó” (cái vô thức); “cái Tôi” (ý thức) và “cái Siêu Tôi” (yếu tố văn hóa – đạo đức – xã hội), trong đó “cái Siêu Tôi” là yếu tố quan trọng nhất, mà biểu hiện khách quan của nó là môi trường văn hóa xã hội gắn liền với các cơ chế quy định về xã hội đối với hành vi con người như các tập quán, truyền thống, các điều cấm kỵ, các yêu cầu của tôn giáo, tín ngưỡng, đặc biệt là các chuẩn mực đạo đức tác động đến con người từ thời thơ ấu. Từ quan điểm của Freud, “cái Siêu Tôi” với tính cách là yếu tố văn hóa – đạo đức xã hội đóng vai trò trung gian giữa “cái Nó” và “cái Tôi”. Theo Freud, giữa “cái Tôi” và “cái Nó”, tức là giữa cái vô thức và ý thức, thường xuyên diễn ra cuộc đấu tranh trong đó “cái Tôi”, ý thức không thể luôn luôn kiềm chế một cách thành công những bản năng vô thức. Ngoài ra, Freud còn sử dụng các khái niệm cái Nó, cái siêu Tôi và cái Tôi để trình bày mối quan hệ giữa lý tính và dục vọng, dùng lý tính xã hội đè bẹp, điều khiển bản năng động vật trong hình thức tâm lý văn hoá của con người. Điều tiết hoạt động này là do “nguyên tắc thực tại”; nó làm cho con người trở thành thành viên sống và tồn tại trong xã hội nhưng dục vọng của bản năng động vật bị đè bẹp, điều khiển. Song những ham muốn ấy vẫn không thể mất, mà thường thể hiện trong giấc mơ, trong nghệ thuật và trong những hành động vượt ngoài khuôn khổ. Kết tinh lý tính hoàn toàn không thể thay thế và khống chế tất cả. Giá trị sự sinh tồn, cuộc sống, sinh mệnh của con người và ý nghĩa của đời người cũng không hoàn toàn đồng nhất với đạo đức luân lý và trật tự lý tính. Thế nên, một mặt, như nhiều nhà sinh vật học hiện nay cho rằng động vật sống bầy đàn cũng có đạo đức luân lý, không khác gì con người, hoàn toàn không xem thường hoặc chê bai cơ cấu tâm lý văn hoá chỉ có ở con người - ý chí tự do thuộc kết tinh lý tính, là phiến diện. Mặt khác, như Kant coi tự giác đạo đức thuộc kết tinh lý tính này chính là mục đích cuối cùng và kẻ kiểm duyệt tối cao của con người, coi đó là bản thể, xem thường và chê 41
- bai sự chính đáng và quan trọng của tình dục cảm tính động vật của con người, cũng là phiến diện. Thừa nhận hoạt động chủ yếu của trạng thái tâm thần người là do những ham muốn bản năng chi phối, Freud cho rằng, con người có thiên hướng “đeo mặt nạ” để hóa trang, che đậy những dục vọng bẩm sinh. Trong quá trình nhận thức cái vô thức trên cơ sở giải mã những hành vi sai lạc và giấc mơ, Freud cho rằng cần phải nhận thấy trong con người đằng sau cái cao cả là những dục vọng thấp hèn. Vì thế, Freud thừa nhận ác là bản tính đầu tiên trong con người và cũng bởi con người luôn có mong muốn theo đuổi những đam mê và hiếu chiến. Trong khi đó, đạo đức chính là những cấm đoán xã hội (Kategorischer Imperativ trong đạo đức học của Kant), là những quy tắc, chuẩn mực có tính cưỡng chế và bắt buộc mọi người phải tuân thủ, nên đôi khi gây hậu quả khôn lường. Bởi vì, dù chịu sự chế tài của xã hội nhưng cá thể vẫn có những hoạt động riêng. Vì thế, sẽ dễ nảy sinh những mâu thuẫn giữa những đòi hỏi chân chính của con người và các lực lượng cưỡng chế của xã hội. Con người sẽ không còn thực sự là chính mình nữa mà sẽ chỉ hành động bởi được xã hội tán đồng mà thôi. Từ lập trường ấy, Freud không đồng ý với quan điểm cho rằng Phân tâm học không đề cập đến đạo đức mà chỉ nói đến những điều bẩn thỉu, tục tĩu vốn bị văn hóa Thanh giáo cố tránh, không chấp nhận. Văn hóa Thanh giáo nhấn mạnh đến nhu cầu tự xét mình, nghiêm khắc tự kiểm điểm mọi hành vi và kiềm chế những cảm xúc, ham muốn trong đời sống hằng ngày. Đối với các tín đồ Thanh giáo, người có đạo đức là người biết tiết chế và làm trong sạch lối sống, suy nghĩ của mình trong quan hệ với Chúa và với nhau trong xã hội. Với ông, việc thực hiện những quy tắc đó là căn nguyên dẫn đến lối sống đạo đức giả - một lối sống phổ biến ở thành Viên lúc bấy giờ. Freud coi đây là một căn bệnh của thời hiện đại, và cho rằng nhiệm vụ của đạo đức học phân tâm là phải đi sâu phân tích mổ sẻ căn bệnh tâm thần để giải tỏa tâm lý, đưa con người trở về với phẩm chất của con người thực vừa có phần bản năng sinh học vừa có phần Người. Như vậy, ông cho rằng, việc chỉ trích “Phân tâm học không lưu ý đến cái cao nhã, đạo đức, siêu việt trong con người” [2, 255] là nhận xét chủ quan. Ông chứng minh: “Về phương diện lịch sử, Phân tâm học đã gán cho khuynh hướng đạo đức và 42