Khóa luận Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí

pdf 53 trang thiennha21 16/04/2022 5861
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_tim_hieu_gia_tri_noi_dung_va_nghe_thuat_tac_pham_n.pdf

Nội dung text: Khóa luận Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA: NGỮ VĂN HOÀNG THỊ QUỲNH PHƢƠNG TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TÁC PHẨM NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI – 2017
  2. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA: NGỮ VĂN HOÀNG THỊ QUỲNH PHƢƠNG TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TÁC PHẨM NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HẰNG HÀ NỘI - 2017
  3. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khoá luận tốt nghiệp em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của các thầy cô trong Khoa Ngữ văn, các thầy cô trong tổ văn học Việt Nam và đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn Thị Việt Hằng, đã giúp đỡ chỉ bảo tận tình và hướng dẫn em thực hiện khoá luận này. Bước đầu nghiên cứu khoa học khoá luận chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong sự chỉ bảo, góp ý của thầy cô và bạn đọc. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 4 năm 2017 Sinh viên Hoàng Thị Quỳnh Phƣơng
  4. LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan những nội dung trình bày trong khóa luận là kết quả nghiên cứu của bản thân dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Việt Hằng. Kết quả thu được hoàn toàn trung thực và không trùng khớp với các công trình nghiên cứu khác. Nếu sai sót, em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà nội, tháng 4 năm 2017 Sinh viên Hoàng Thị Quỳnh Phƣơng
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử nghiên cứu 2 3. Mục đích nghiên cứu 5 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 5 5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 5 6. Phương pháp nghiên cứu 5 7. Đóng góp khoa học của khóa luận 6 8. Kết cấu của khóa luận 6 NỘI DUNG 7 Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 7 1.1. Thể loại tiểu thuyết chương hồi trong văn học trung đại Việt Nam 7 1.1.1. Khái niệm 7 1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển 8 1.2. Tác giả và tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí 10 1.2.1. Tác giả 10 1.2.2. Tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí 11 Chƣơng 2. NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ TÁI HIỆN BỨC TRANH TOÀN CẢNH LỊCH SỬ THẾ KỈ XVI – THẾ KỈ XVII 16 2.1. Sự hình thành ba vùng thế lực Mạc – Trịnh – Nguyễn 16 2.2. Cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh 19 2.3. Cuộc chiến giành quyền lực trong nội bộ các tập đoàn phong kiến 26 2.4. Đời sống nhân dân trong thời kì loạn lạc 30
  6. Chƣơng 3. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT CỦA TIỂU THUYẾT NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ 33 3.1. Kết cấu 33 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 35 3.3. Không gian, thời gian nghệ thuật 40 3.3.1. Không gian nghệ thuật 40 3.3.2. Thời gian nghệ thuật 41 KẾT LUẬN 44 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  7. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Văn học trung đại vốn là một di sản của quá khứ, đây là một thách thức khá lớn đối với độc giả hiện đại. “Văn học trung đại Việt Nam phát triển liền mạch từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX với hàng ngàn tác gia và tác phẩm. Mở đầu là những thi thoại vừa hấp dẫn, vừa đáng tự hào ở thời Lê Hoàn (979 - 1005) gắn liền với tên tuổi các thi nhân Đỗ Pháp Thuận, Khuông Việt và sau đó, thế kỉ XVIII – XIX, những cây đại thụ tỏa bóng đến muôn đời đã khép lại văn học trung đại: bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, đại thi hào Nguyễn Du, nữ sĩ tài hoa xứ Kinh Bắc Đoàn Thị Điểm, rồi Nguyễn Khoa Chiêm, Ngô Gia Văn Phái, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Chứ” [15, 5]. Những thành tựu giai đoạn văn học này đã đạt được vẫn luôn là niềm tự hào của dân tộc. Theo đó, lựa chọn nghiên cứu văn học trung đại là một việc làm sáng suốt. Tiểu thuyết chương hồi là một trong những thành tựu nổi bật của văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại. Chỉ với vỏn vẹn vài tác phẩm nhưng thể loại này đã phát huy được khả năng rộng lớn của nó trong việc tái hiện lại những giai đoạn lịch sử nhiều biến động của dân tộc. Ngoài Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm nổi bật, được giảng dạy trong chương trình Đại học và có những trích đoạn trong chương trình Phổ thông, các tác phẩm còn lại vẫn còn khá xa lạ với độc giả. Điều này cho thấy, việc nghiên cứu thể loại tiểu thuyết chương hồi nói chung và một tác phẩm cụ thể nói riêng là điều hết sức cần thiết. Nam triều công nghiệp diễn chí được coi là tác phẩm mở đầu cho thể loại tiểu thuyết chương hồi ở Việt Nam, giá trị nội dung và nghệ thuật của nó đã được giới nghiên cứu đánh giá khá cao, song lại chưa được quan tâm tìm hiểu một cách thỏa đáng. Cho đến nay, vẫn chưa xuất hiện một công trình nào khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Hơn nữa, nội dung tác 1
  8. phẩm phản ánh lịch sử gần một trăm ba mươi năm của nước ta, trong đó nổi lên là cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh. Chính vì vậy, nghiên cứu tác phẩm này đồng nghĩa với việc mở ra một hướng tiếp cận lịch sử mới cho độc giả, tiếp cận từ góc độ văn chương. Cuối cùng, đã là sinh viên đại học khoa Ngữ Văn, việc nắm bắt một cách sâu rộng văn học trung đại và đặc biệt về thể loại tiểu thuyết chương hồi là một việc vô cùng có ích, không chỉ mở mang kiến thức mà còn giúp đỡ cho công việc sau này. Từ những lí do trên, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài “Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí”. 2. Lịch sử nghiên cứu Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm là tác phẩm đầu tiên, mở màn cho sự ra đời của tiểu thuyết chương hồi ở Việt Nam. Thể loại này trong văn học trung đại Việt Nam có số lượng hạn chế, gồm một số tác phẩm chính: Hoan châu kí, Nam triều công nghiệp diễn chí, Thiên Nam liệt truyện, Hoàng Lê nhất thống chí, Hoàng Việt long hưng chí, Việt Nam tiểu lục Như đã nói ở trên, khác với Hoàng Lê nhất thống chí, tác phẩm này chưa được đưa vào nghiên cứu một cách đầy đủ và chi tiết, nó còn là một đề tài mới mẻ và hấp dẫn với nhiều độc giả. Theo “Lời giới thiệu” sách Nam triều công nghiệp diễn chí của Ngô Đức Thọ - Nguyễn Thúy Nga dịch, chú và giới thiệu thì người nói đến tác phẩm này sớm nhất là danh sĩ triều Nguyễn Trịnh Hoài Đức (1765 - 1825) – Phó tổng tài sử quán triều Minh Mệnh. “Trong Gia Định thành thông chí (Q.3, tờ 4b), ông đã dẫn một ghi chép của Nguyễn Bảng Trung (tức Nguyễn Khoa Chiêm) để so sánh với Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn” [5, 6]. 2
  9. Trong Nhận diện Hoan châu ký và Nam triều công nghiệp diễn chí truyện chương hồi trước Hoàng Lê nhất thống chí đăng trên Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, số 2/1990 và sau đó được đưa vào in trong Khảo và luận một số thể loại tác gia – tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, Tập I, NXB Giáo dục, 1999, Bùi Duy Tân đã chứng minh Nam triều công nghiệp diễn chí là tác phẩm ra đời trước Hoàng Lê nhất thống chí chứ ông chưa có sự đi sâu nghiên cứu về tác phẩm này. Trong bài Sơ bộ tiểu thuyết chương hồi Việt Nam viết bằng chữ Hán của tác giả Trần Nghĩa đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 1/1994 cũng đã đề cập đến một vài vấn đề trong tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí, song đây chỉ là một sự liệt kê sơ bộ về những tiểu thuyết chương hồi Việt Nam chứ chưa đi vào nghiên cứu nội dung, nghệ thuật hay bất kì một phương diện nào của tác phẩm. PGS.TS. Nguyễn Đăng Na trong cuốn Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại những vấn đề văn xuôi tự sự viết năm 1999 cũng đã có những nghiên cứu nhất định về đặc điểm của tiểu thuyết chương hồi Việt Nam nói chung và tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí nói riêng. Ông nhận định: “Nếu truyện Song tinh mở đầu cho loại hình truyện Nôm thì Nam triều công nghiệp diễn chí lại khai sinh ra nền tiểu thuyết chương hồi Việt Nam” [15, 55]. Ông đã đặt tác phẩm của Nguyễn Khoa Chiêm trong thế đối sánh với tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa là Tam Quốc chí diễn nghĩa. “Khi viết Nam triều diễn chí chắc Nguyễn Khoa Chiêm đã đọc Tam Quốc chí diễn nghĩa. Nhưng diễn nghĩa ảnh hưởng đến tác phẩm của ông tới mức độ nào? Giải đáp được vấn đề đó sẽ cho phép ta thấy rõ những nét đặc sắc và sự sáng tạo của Nguyễn Khoa Chiêm. Muốn vậy ta cần làm phép so sánh” [15, 60]. Qua sự so sánh đó, tác giả đã chỉ rõ đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết chương hồi Việt Nam, đồng thời đã đưa ra ý kiến khái quát những khía cạnh về nội dung và 3
  10. nghệ thuật một số tiểu thuyết chương hồi nổi bật của Việt Nam trong đó có Nam triều công nghiệp diễn chí. Từ những năm 2000 trở lại đây, đã có những luận văn thạc sĩ nghiên cứu về một số khía cạnh của Nam triều công nghiệp diễn chí như: Năm 2004, công trình nghiên cứu Nghệ thuật tiểu thuyết chương hồi Việt Nam trung đại qua Hoan châu ký, Nam triều công nghiệp diễn chí, Hoàng Lê nhất thống chí và Hoàng Việt long hưng chí của Trương Vũ Bình, Trường Đại học Sư phạm Huế đã chỉ ra những đặc sắc nghệ thuật của tiểu thuyết chương hồi Việt Nam và đưa đến cho độc giả một cái nhìn khái quát về thể loại văn học này. Đến năm 2008, công trình nghiên cứu Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm do tác giả Vy Thị Bích Thủy, Đại học Vinh thực hiện đã thực sự đi vào tìm hiểu một cách chi tiết nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác phẩm. Tác giả công trình này đã nhận định: “Thủ pháp xây dựng nhân vật chính là sự cụ thể hóa của nghệ thuật xây dựng nhân vật, nó là cách mà tác giả làm cho nhân vật hiện lên trong tác phẩm. Ở đây, người viết không đi theo từng thủ pháp xây dựng nhân vật mà xét theo từng phương diện khắc họa nhân vật để tìm ra những thủ pháp cơ bản mà tác giả đã sử dụng trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, từ đó nhận diện những nét riêng, độc đáo của tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí so với thể loại tiểu thuyết cổ điển” [theo 19]. Và gần đây nhất là công trình nghiên cứu Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm do tác giả Nguyễn Thùy Linh, Đại học Sư phạm Thái Nguyên viết năm 2012 đã đưa đến cho độc giả những cái nhìn mới mẻ về nghệ thuật tự sự trong tác phẩm 4
  11. Như vậy, những khía cạnh cơ bản của tác phẩm đã được những người đi trước quan tâm tìm hiểu, đây chính là những gợi ý quý báu giúp chúng tôi thực hiện đề tài này. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích của khóa luận với đề tài “Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí” nhằm bao quát toàn bộ nội dung và nghệ thuật trong tiểu thuyết chương hồi Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất, chỉ ra được tác giả Nguyễn Khoa Chiêm cùng tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí của mình đã đánh dấu mở đầu cho sự phát triển thể loại tiểu thuyết chương hồi lịch sử ở Việt Nam. Nhiệm vụ thứ hai, việc chỉ ra nội dung và nghệ thuật của tác phẩm góp phần cung cấp cho người đọc vốn hiểu biết nhất định về thể loại tiểu thuyết chương hồi trong văn học trung đại Việt Nam nói chung mà cụ thể ở đây là tiểu thuyết chương hồi Nam triều công nghiệp diễn chí. Đồng thời, vì đây là tiểu thuyết chương hồi lịch sử cho nên cũng phần nào cung cấp cho người đọc những kiến thức về lịch sử thời đại phong kiến lúc bấy giờ và nhất là về cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. 5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí, được Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga giới thiệu, dịch, chú và giới thiệu (1994), Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội. Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong khóa luận này có sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: 5
  12. + Phương pháp nghiên cứu liên ngành: văn hóa, lịch sử, văn học. + Phương pháp nghiên cứu văn hóa sử. + Phương pháp nghiên cứu thống kê, phân loại. + Các thao tác lập luận, chứng minh, phân tích tổng hợp. 7. Đóng góp khoa học của khóa luận Đưa ra một công trình nghiên cứu bài bản và logic về giá trị nội dung và nghệ thuật trong tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí. 8. Kết cấu của khóa luận Kết cấu của khóa luận bao gồm ba phần: Mở đầu, Nội dung và Kết luận. Trong phần Nội dung khóa luận được chia thành ba chương: Chương 1: Những vấn đề chung Chương 2: Nam triều công nghiệp diễn chí tái hiện bức tranh toàn cảnh lịch sử thế kỉ XVI – thế kỉ XVII Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật của tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí 6
  13. NỘI DUNG Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Thể loại tiểu thuyết chƣơng hồi trong văn học trung đại Việt Nam 1.1.1. Khái niệm Xét về hình thức thể loại, Nam triều công nghiệp diễn chí mang rõ nét đặc trưng thể loại tiểu thuyết chương hồi của văn học trung đại Việt Nam. Nguyễn Đăng Na khi viết Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại những vấn đề văn xuôi tự sự đã xếp Nam triều công nghiệp diễn chí, Hoàng Việt Long hưng chí, Việt Lam tiểu sử, Hoàng Lê nhất thống chí vào mục tiểu thuyết chương hồi và nhấn mạnh rằng “sở dĩ chúng tôi xếp chúng vào loại tiểu thuyết chương hồi vì, chúng trước hết có lối kết cấu chương hồi theo kiểu Thủy hử truyện, Tam quốc chí diễn nghĩa của Trung Hoa; sau nữa, chúng mang một quy mô lớn. Mỗi tác phẩm viết về một vấn đề trọn vẹn và dài tới trên trăm trang” [15, 14]. Theo Từ điển văn học, tiểu thuyết chương hồi là “Thuật ngữ chỉ một dạng thức tiểu thuyết trường thiên quan trọng trong văn học cổ điển Trung Quốc và Việt Nam. Tiểu thuyết viết theo dạng này, phân chia tác phẩm thành các hồi khác nhau, phát triển từ lối giảng sử thoại bản (kể chuyện lịch sử) thời Tống - Nguyên. Giảng sử thoại bản là hình thức kể chuyện (chủ yếu là truyện lịch sử) được những người kể chuyện trong dân gian (thuyết thư nhân - người kể sách, thuyết thoại nhân - người kể chuyện) các đời kể lại; đối với những câu chuyện có dung lượng lớn, họ không kể xong ngay trong một lần nên buộc phải ngắt thành các phần khác nhau, một phần được đặt một tiêu đề để 7
  14. tóm lược nội dung, đó chính là cơ sở hình thành các hồi và tiêu đề các hồi của tiểu thuyết chương hồi về sau” [10, 1723]. 1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển Thế kỉ XVI – XVII, xã hội phong kiến Việt Nam xảy ra nhiều biến động to lớn. Chính trong giai đoạn này, trên đất nước ta đã hình thành cục diện tam phân Mạc – Trịnh – Nguyễn khiến non sông chìm trong cảnh hỗn loạn của những trận binh đao. Chiến tranh Lê – Mạc chưa kết thúc thì nội chiến Trịnh – Nguyễn lại nổ ra. Nguyễn Đăng Na nhận xét: “Trong vòng 150 năm, kể từ 1527 đến 1677, đất nước lâm vào cảnh nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn. Suốt một thế kỉ rưỡi này biết bao xương rơi máu chảy và kết quả thu được những gì? Bên thua (nhà Mạc) thì bị tiêu diệt; bên thắng (Lê, Nguyễn) cũng phải đổi bằng chết chóc đau thương và cay đắng hơn, đất nước chịu cảnh cắt chia, nhân dân lầm than đau khổ. Cái giá mà dân tộc phải trả cho một thế kỉ rưỡi kia quá đắt; của hao người tổn, kinh tế kiệt quệ, đất nước đổ nát” [15, 42]. Từ bối cảnh lịch sử - xã hội đầy đau thương đó dẫn tới một yêu cầu bức thiết, lịch sử cần được ghi chép lại. Điều này đã thôi thúc khiến những người cầm bút phải trăn trở tìm kiếm một loại hình văn học phù hợp với yêu cầu đặt ra. Và loại hình văn học phù hợp nhất đáp ứng được nhu cầu đó là tiểu thuyết chương hồi. Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thời trung đại là thành tựu được tiếp thu từ văn học Trung Hoa. Các tác giả nước ta tiếp nhận thành tựu này khi nó đã phát triển hoàn thiện trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật, để cho ra đời những tác phẩm có giá trị. Ở Trung Hoa, tiểu thuyết chương hồi xuất hiện khá sớm, từ thời Minh – Thanh và phát triển rực rỡ qua nhiều thời kì với nhiều bộ tiểu thuyết kinh điển như Tam quốc diễn nghĩa, Hồng lâu mộng, Tây du kí Cùng với lịch sử, tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa phát triển ngày một lớn mạnh và vươn ra ngoài 8
  15. phạm vi quốc gia, ảnh hưởng đến nhiều nước, đặc biệt là một số nước láng giềng trong khu vực, trong đó có Việt Nam. Do điều kiện lịch sử văn hóa xã hội nên trong quá trình tiếp thu từ Trung Hoa, tiểu thuyết chương hồi Việt Nam đã tiếp nhận một cách chọn lọc và có nhiều phát triển mới. Khoảng thế kỉ thứ XVIII, ở Việt Nam đã hình thành một thể loại tiểu thuyết mới là tiểu thuyết chương hồi. Tuy mang nhiều đặc điểm giống tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa nhưng ở Việt Nam thể loại này mang trong mình nhiều điểm mới, độc đáo hơn, mang dấu ấn riêng của quốc gia, dân tộc. Tác phẩm mở đầu, đặt nền móng cho thể loại tiểu thuyết này là Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm. Tiếp đến là sự ra đời của một số tiểu thuyết chương hồi: Hoan Châu kí, Hoàng Lê nhất thống chí, Việt Nam sử lược, Hoàng Việt long hưng chí, Việt Lam tiểu sử Tiểu thuyết chương hồi ra đời đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại. Cũng từ đây văn xuôi tự sự Việt Nam đã đủ sức đảm nhiệm trọng trách phản ảnh những vấn đề lịch sử - xã hội rộng lớn của dân tộc. Ngay từ khi mới ra đời, tiểu thuyết chương hồi đã không được coi trọng do quan niệm và tâm lí thời đại lúc bấy giờ. Nguyễn Đăng Na khi nghiên cứu về thể loại này từng khẳng định: “Một tâm lí chi phối khá sâu sắc các tác gia Việt Nam suốt thời trung đại là, văn chương tiểu thuyết thấp kém hơn văn chương lịch sử và văn lịch sử không trang trọng bằng văn thần phả” [15, 47]. Ông còn chỉ rõ: “Ở phương Đông trung đại, người ta cho văn chương tiểu thuyết là thứ mạt hạng, những chuyện ngoài đường trong ngõ – “nhai đàm hạng ngữ”, mà ta nghe ngoài đường rồi truyền lại ở ngoài đường – “đạo thính đồ thuyết”, một thứ chẳng quan thiết gì đến đạo tu, tề, trị, bình của bậc quân tử. Quan niệm này cũng nảy mần bén rễ trong đầu óc các nhà nho Việt Nam Tâm lí này ngự trị khá dai dẳng ở Việt Nam và tới giữa thế kỉ XX vẫn 9
  16. còn hết sức nặng nề.” [15, 56]. Cũng bởi tâm lí này, nhiều tác phẩm khi mới ra đời, rõ ràng mang đặc điểm của tiểu thuyết nhưng bản thân tác giả lại không thừa nhận đó là tiểu thuyết mà luôn biến tấu để gán thêm cho nó cái mác của thể sử. Nhiều dịch giả sau khi dịch, vì không muốn tác phẩm bị liệt vào hàng tiểu thuyết nên đã tự ý thay đổi tên mặc dù không có đóng góp gì về nội dung. Chính những việc làm này đã vô tình kìm hãm sự phát triển của thể loại tiểu thuyết chương hồi ở Việt Nam. Tuy gặt hái được nhiều thành công trên phương diện nội dung và nghệ thuật nhưng số lượng tác phẩm lại tương đối hạn chế. 1.2. Tác giả và tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí 1.2.1. Tác giả Bảng Trung hầu Nguyễn Khoa Chiêm sinh năm 1659 mất năm 1736. Theo Đại Nam liệt truyện tiền biên, tiên tổ của Nguyễn Khoa Chiêm gốc ở xứ Hải Dương. Ông nội của Nguyễn Khoa Chiêm là Nguyễn Đình Thân, là thuộc hạ của Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng. Khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa thì Đình Thân đi theo chủ tướng rồi nhập tịch ở huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa (nay là huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế), đổi làm họ Nguyễn Khoa – khởi tổ của một dòng vọng tộc ở cố đô Huế [5, 5]. Nguyễn Khoa Chiêm, tự là Bảng Trung, là nhà văn – nhà hoạt động chính trị danh tiếng thời chúa Nguyễn Minh Vương ở Đàng Trong. Thuở trẻ, Nguyễn Khoa Chiêm theo Nho học rồi được bổ chức Thủ hạp, từng ra Quảng Bình đốc suất quân sĩ đắp Chính lũy. Năm Canh Dần (1710), ông được thăng chức Cai hạp ở Chính doanh, kiêm chức Tri bạ. Năm Ất Mùi (1715), ông được thăng đến chức Câu kê kiêm Tri bạ, được dự bàn việc triều chính. Năm Mậu Tuất (1718), ông được thăng làm Cai bạ Phó đoán sự. Năm Giáp Thìn (1724), ông thăng đến chức Tham chính, Chánh đoán sự sau đó về Trí sĩ rồi 10
  17. mất ở quê nhà, thọ 78 tuổi. Sau khi mất, ông được tặng hàm Đại lý thượng khanh, được ban tên thụy là Thuần Hậu. [5, 5 – 6]. 1.2.2. Tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí 1.2.2.1. Hoàn cảnh ra đời Theo Nguyễn Đăng Na, Nam triều công nghiệp diễn chí do Nguyễn Khoa Chiêm hoàn thành năm vào năm thứ 22 đời chúa Minh Vương (1719) ở Đàng Trong. Tác phẩm được Dương Thận Trai viết đề Tựa, Nguyễn Giản viết lời Bạt và Dương Công Tòng nhuận chính rồi đổi tên thành Việt Nam khai quốc chí truyện. Tác phẩm có rất nhiều tên gọi khác nhau như: Việt Nam khai quốc chí truyện, Nam triều công nghiệp diễn chí, Nam triều chí, Trịnh – Nguyễn diễn chí, Hoàng triều khai quốc chí, Công nghiệp chí Tác phẩm ra đời trong bối cảnh xã hội phong kiến đang trên đà suy thoái, các thế lực thi nhau tranh giành quyền lực. Đất nước tạo thành cục diện tam phân Mạc – Trịnh – Nguyễn. Chiến tranh Trịnh – Mạc chưa kết thúc thì nội chiến Trịnh – Nguyễn đã xảy ra. Không chỉ có thế, trong nội bộ các tập đoàn phong kiến cũng liên tục xảy ra những cuộc giao tranh đẫm máu. Binh biến liên miên, đất nước rơi vào cảnh hỗn loạn, đời sống nhân dân lầm than, khổ cực, một cổ đôi ba tròng. 1.2.2.2. Tình trạng văn bản Hiện nay có tất cả bốn truyền bản của Việt Nam khai quốc chí truyện đều ở dạng viết tay: một bản của Viện Hán Nôm, kí hiệu A.24/1-2; một bản của Viện Sử học, kí hiệu HV.503; hai bản của Thư viện Hiệp hội châu Á Paris, kí hiệu HM.2140 và HM.2141. Tất cả đều mang tiêu đề Việt Nam khai quốc chí truyện. Các bản này đều có Tựa của Phong Sơn Dương Thận Trai, Bạt của tri huyện Phù Ninh là Giản. 11
  18. Qua khảo sát văn bản và những tư liệu liên quan có thể nhất trí về tên gọi của tác phẩm này, hoặc gọi theo tên bản đầu là Nam triều công nghiệp diễn chí, hoặc gọi theo tên văn bản hiện còn là Việt Nam khai quốc chí truyện. Các truyền bản của Việt Nam khai quốc chí truyện hiện còn đều có những đoạn bị thiếu tương ứng với những chỗ phân chia chương hồi. Chưa rõ đó là nguyên trạng của tác phẩm hay là vấn đề của các truyền bản chép tay. Chúng tôi có nghĩ rằng ở những thập niêm đầu thế kỉ này người ta thường coi trọng loại sách lịch sử, còn tiểu thuyết Hán văn Việt Nam chưa được chú ý mấy, có thể vì thế mà ranh giới phân chia chương hồi trong đã bị lược bỏ đi trong quá trình sao chép các truyền bản Việt Nam khai quốc chí truyện. 1.2.2.3. Tóm tắt tác phẩm Tác phẩm bắt đầu từ sự kiện Nguyễn Hoàng dẫn hơn một nghìn quân thủy vượt biển vào trấn thủ Thuân Hóa năm 1558. Nói là trấn thủ nhưng thực chất ông đã cùng các tướng sĩ đấu tranh giành lấy phần đất phía nam Đèo Ngang từ tay nhà Mạc. Sau khi giành được quyền trấn thủ Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng vẫn giữ thái độ phiên thần với vua Lê – chúa Trịnh ở Đàng Ngoài nhưng cũng đồng thời xây dựng lực lượng ở Đàng Trong phía Nam của Đèo Ngang. Khi anh rể là chúa Trịnh Kiểm mất năm 1570, Nguyễn Hoàng vẫn giữ trọn đạo và nể tình nghĩa mà sai người mang lễ vật ra phúng tang. Nhưng đầu năm 1593, khi quân Lê – Trịnh đuổi được nhà Mạc, thu phục Kinh đô, Nguyễn Hoàng phải về kinh chúc mừng vua Lê, rồi bị vua Lê giữ lại Thăng Long giữ chức Hữu thừa tướng, ngôi vị chỉ xếp sau Trịnh Tùng – con trai Trịnh Kiểm. Lúc đầu tình cảm giữa Nguyễn Hoàng và Trịnh Tùng rất tốt vì hai người vốn là cậu cháu. Tuy nhiên, dần dần tình cảm này không còn được nguyên vẹn như trước vì càng ngày Trịnh Tùng càng nhận thấy Nguyễn Hoàng bộc lộ tài năng là con người mưu trí nên lấy làm lo ngại. Phải mất sáu 12
  19. năm ở Đàng Ngoài, sau đó Nguyễn Hoàng mới lập mưu xui Phan Ngạn và Bùi Văn Khuê làm phản rồi ông xin với Trịnh Tùng để mình đem quân đi đánh dẹp nhưng thực ra là nhân cơ hội đó mà bí mật dẫn quân ra cửa Chính Đại dong buồm trở về Thuận Hóa (1600). Từ đó cho đến khi qua đời, Nguyễn Hoàng liên tục khuyến khích, tạo điều kiện cho dân chúng an cư lập nghiệp, bờ cõi một vùng được hưng thịnh. Sau khi Nguyễn Hoàng mất, Đàng Trong do chúa Nguyễn Phúc Nguyên – con trai thứ sáu của Nguyễn Hoàng lên cai quản. Từ đời Nguyễn Phúc Nguyên, quan hệ giữa chính quyền Thuận Quảng với triều đình ngày càng căng thẳng. Năm 1620, nhân dịp anh em chúa Nguyễn ở Đàng Trong vì tranh giành quyền lực mà lục đục, Nguyễn Khải phụng lệnh Trịnh Tráng đem năm nghìn quân vào đóng ở bờ Bắc sông Nhật Lệ để chờ cơ hội lấy cớ can thiệp mà tiến quân vào. Tuy không thực hiện được âm mưu can thiệp nhưng sự kiện này càng khiến mối quan hệ Trịnh – Nguyễn trở nên căng thẳng hơn. Đến năm 1627, cuộc giao tranh giữa hai thế lực Trịnh – Nguyễn chính thức bắt đầu, khai mào cho thời kì nội chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Viện cớ chúa Nguyễn ở Đàng Trong không phụng lệnh cống nộp của vua Lê, quân Trịnhđưa quân tiến vào Nam Bố Chánh, vượt sông Nhật Lệ, tiến công các thủy trại của quân Nam. Quân Nam do Nguyễn Phúc Vệ làm Tiết chế và Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật làm Giám chiến đặt sẵn thế trận thủy bộ chờ quân Trịnh. Sau đó, Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật cho gián điệp của mình cải trang trà trộn về kinh thành phao tin Thăng Long có biến, Trịnh Tráng được tin lấy làm lo lắng, quân sĩ nhà Trịnh từ đây cũng trở nên chán nản với việc chính trường. Giữa lúc đó, nhà Nguyễn bất ngờ phản công khiến quân Trịnh trở tay không kịp, Trịnh Tráng thấy tình hình bất lợi bèn thu quân về. 13
  20. Trận chiến thứ hai nổ ra từ năm 1630, trong thời gian này Đào Duy Từ được chúa Nguyễn Phúc Nguyên vô cùng trọng dụng. Sau khi đắp lũy Trường Dục ở bờ Nam sông Nhật Lệ, quân Nguyễn tiến ra đánh quân Trịnh, chiếm phần phía Nam châu Bố Chánh, tức phần đất phía Bắc sông Nhật Lệ đến phía Nam sông Gianh. Trận chiến lần thứ ba năm 1634, quân Trịnh lại đem quân tiến sát bờ Nhật Lệ nhưng do chần chừ chờ nội ứng nên bị quân Nam đánh bại, phải rút chạy về Bắc. Lần thứ tư năm 1643 và lần thứ năm năm 1648 ,quân Trịnh lại tiếp tục đem quân đánh Đàng Trong nhằm thu phục vùng Nam Bố Chánh nhưng kết quả đều thất bại. Trận chiến lần thứ sáu (1655), lần này quân Nguyễn đem quân ra Bắc đánh quân Trịnh. Trận chiến kéo dài trong gần 5 năm. Tuy có dành được nhiều thắng lợi nhưng do thời gian kéo dài, lương thực và đạn dược vận chuyển khó khăn nên kết quả bại trận và phải rút về phía Nam sông Gianh. Năm 1662, chưa đầy một năm sau, Trịnh Tạc sai con trai là Trịnh Căn đưa đại quân vào đánh nhà Nguyễn. Nhà Nguyễn dùng kế nhất quyết cố thủ để chờ quân Trịnh mệt mỏi và mất cảnh giác, rồi dồn quân đánh lúc quân Trịnh không đề phòng khiến quân Trịnh thất bại thảm hại, phải rút chạy về Bắc. Vẫn chưa dừng lại ở đó, mười năm sau, Trịnh – Nguyễn lại dung hết sức mạnh trong trận chiến cuối cùng, trận chiến lần thứ tám. Đây là trận chiến lớn nhất trong thời kì nội chiến, hai bên đã vận dụng toàn bộ sức lực, sử dụng hết mọi phương pháp, phương tiện cho trận đánh. Chiến dịch diễn ra trong suốt 55 ngày đêm, tổn hao không biết bao nhiêu binh lực cùng của cải. Sau cùng, quân Trịnh lại phải rút quân về Bắc, chiến trường Trịnh – Nguyễn từ đó im ắng. Sau nhiều năm tranh chấp, hai phe dần đi vào thế đình chiến. 14
  21. Cùng với nội chiến Trịnh - Nguyễn phân tranh, tác phẩm cũng đề cập đến nhiều sự kiện nổi bật khác ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài. Ở Đàng Ngoài, Trịnh Xuân âm mưu giết hại cha là Trịnh Tùng để cướp quyền nhưng bị lại cha con Trịnh Đỗ bầy mưu giết chết, sau cùng cha con Trịnh Đỗ lại bại dưới tay Trịnh Tráng. Ngoài ra còn có các cuộc nổi loạn của Phan Ngạn, Bùi Văn Khê, các tướng họ Trịnh khiến cho Đàng Ngoài không có ngày yên ổn. Ở Đàng Trong, anh em chúa Nguyễn cũng liên tục diễn ra các cuộc tranh chấp đẫm máu. Nguyễn Phúc Nguyên với hai người anh em cùng cha khác mẹ là Nguyễn Phúc Hiệp và Nguyễn Phúc Trạch cũng xảy ra tranh chấp. Phúc Hiệp và Phúc Trạch không đồng ý việc cha để Phúc Nguyên lên nắm quyền, từ đó sinh nghi kị nên đã âm mưu định lật đổ Phúc Nguyên, giành ngôi chúa nhưng không thành. Tiếp tục đến đời con chúa Phúc Nguyên cũng xảy ra tranh chấp quyền lực giữa Phúc Anh và Phúc Lan Xuyên suốt nội dung tác phẩm Nam tiều công nghiệp diễn chí là thời kì lịch sử kéo dài hơn một trăm ba mươi năm của nước ta với cảnh binh đao lửa đạn bao trùm lên cả xã hội. Hết nội chiến Trịnh – Nguyễn lại đến chiến tranh nội bộ. Tất cả đều chỉ vì tranh giành quyền lực. Cùng với đó, tác phẩm cũng góp phần phản ánh đời sống cơ cực của nhân dân ta trong khoảng một trăm ba mươi năm chiến tranh phong kiến với cảnh gia đình li tán, đói rách, chết chóc bủa vây lấy con người . Đời sống nhân dân rơi vào lầm than, khổ cực. Tác phẩm kết thúc vào đời Ngãi vương Nguyễn Phúc Trăn năm 1689. 15
  22. Chương 2 NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ TÁI HIỆN BỨC TRANH TOÀN CẢNH LỊCH SỬ THẾ KỈ XVI – THẾ KỈ XVII 2.1. Sự hình thành ba vùng thế lực Mạc – Trịnh – Nguyễn Nam triều công nghiệp diễn chí là tác phẩm Nguyễn Khoa Chiêm viết về những sự kiện lịch sử cách thời ông khoảng một thế kỉ, bắt đầu từ việc Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa lần thứ nhất năm 1558. Với cách ghi lại thời gian theo lối biên niên, khung cảnh lịch sử được tác giả ghi lại chính là những sự kiện hình thành nên thế cục ba triều đại nắm quyền Mạc – Trịnh – Nguyễn. Tên tác phẩm được đặt là Nam triều công nghiệp diễn chí chứng tỏ rằng thiên kiến chính trị của Nguyễn Khoa Chiêm đặt ở triều Nguyễn, tất yếu sẽ đưa đến cảm nhận cho độc giả rằng ông ít nhiều sẽ bị chi phối khi triển khai câu chuyện kể của mình, song điều đó lại hoàn toàn không xảy ra. Tác giả đã rất khách quan khi cho người đọc thấy một khung cảnh chính trị với cục diện phân tranh khá hấp dẫn. Với nhà Mạc, kẻ tiếm quyền của nhà Lê mà bản thân ông gọi hành động đó là “cướp”, dung lượng tác phẩm dành cho dòng họ này không nhiều. Trong con mắt của Nguyễn Khoa Chiêm, Mạc Đăng Dung vốn là triều thần của nhà Lê nhưng lại không giữ trọn đạo vua - tôi, quân - thần. Nhân lúc nhà Lê suy yếu, Đăng Dung phận làm tôi, không ra sức phò vua giúp nước mà lại tranh quyền, đoạt vị, giết hại vua Lê Chiêu Tông rồi đứng ra xưng vương, gây dựng nên nhà Mạc. Chỉ thông qua vài câu văn ngắn gọn, tác giả đã tái hiện lại một cách chính xác quá trình hình thành nên nhà Mạc với nhân vật khai triều là Mạc Đăng Dung: “Triều Lê truyền ngôi qua các đời Thái Tông, Nhân 16
  23. Tông, Thánh Tông cho đến Chiêu Tông hoàng đế. Nhưng vì Chiêu Tông nhu nhược, rốt cuộc bị cường thần Mạc Đăng Dung cướp ngôi. Chiêu Tông phải chạy ra ngoài, trở về đất gốc Thanh Hóa, lấy làm hổ thẹn vì nỗi sinh linh phải chịu lầm than, xã tắc biến thành gò đống. Vua bèn thu thập tàn binh, chí muốn diệt Mạc, một phen quyết chiến với Mạc Đăng Dung, phục thù cho tông xã. Không may Chiêu Tông bị Đăng Dung bắt, rồi bị giết hại. Họ hàng con cháu nhà Lê phải chạy trốn” [5, 24]. Có vẻ như việc lập lên triều đại nhà Mạc không nhận được sự đồng tình của tác giả bởi trong tác phẩm của mình, ông đã sử dụng cụm từ “nghịch Mạc”, “giặc” để chỉ triều đại này hay khi nói về người sáng lập triều đại ông đã dùng từ “cướp”, “cường thần” Đối với nhà Trịnh, dung lượng tác phẩm dành cho dòng họ này khá lớn và luôn được đạt trong thế tương quan so sánh với nhà Nguyễn. Trên phương diện chính trị, nhà Trịnh không phải là dòng họ đứng đầu nhưng lại nắm thực quyền trong tay. Trong thế cục ba triều đại, nhà Trịnh nắm vai trò hết sức to lớn. Nhà Lê, xét trên thực tế vẫn là dòng họ nắm quyền nhưng dấu ấn lưu lại trong tác phẩm lại vô cùng mờ nhạt. Sau khi mất kinh đô vào tay nhà Mạc, con cháu họ Lê lưu lạc khắp nơi. Lê Ninh – con của Chiêu Tông, phải cùng mẹ chạy trốn sang đất Ai Lao nhưng sau được cựu thần nhà Lê là An Tĩnh hầu Nguyễn Kim cùng Trịnh Duy Sản tìm về và lập lên làm vua. Nguyễn Kim ra sức phò Lê diệt Mạc, tìm cách lấy lại kinh đô. Tuy nhiên, nghiệp lớn chưa thành, Nguyễn Kim bị Mạc Đăng Dung cho người đầu độc chết. Sau khi Nguyễn Kim mất, rể của hầu là Trịnh Kiểm lên nắm giữ binh quyền, tiếp tục sự nghiệp trùng hưng nhà Lê đang còn dang dở. Nhà Lê sau khi mất ngôi vốn đã không còn đủ sức để giành lại chính quyền nếu không có sự phò trợ của Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm. Họ Trịnh sau khi Trịnh Kiểm mất thì con trai là Trịnh Tùng lên thay. Trịnh Tùng trong tác phẩm hiện lên là con người mưu lược, có tài chinh chiến. Trịnh Tùng chính là người có công giúp nhà Lê lấy 17
  24. lại kinh đô từ tay nhà Mạc. Tuy nhiên cũng chính từ đây, nhà Lê chỉ còn là cái bóng hữu danh vô thực. Với lối kể chuyện cuốn hút, tác giả khiến người đọc cảm nhận như chính ông đang đứng trong thế cuộc đó mà thuật lại toàn bộ sự việc. Không chỉ có lối kể cuốn hút, tác giả còn xây dựng lên hình ảnh nhà Trịnh đầy quyền lực với những nhân vật tiêu biểu như Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng. Cả hai đều là những nhân vật có tài trí nhưng cũng mang đầy khuyết điểm. Trịnh Kiểm vì quyền lực hết lần này đến lần khác bày mưu giết hại em vợ là Nguyễn Hoàng. “Kiểm bèn tâu với vua cho Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa. Trước đó đất Thuận Hóa do quân tướng nhà Mạc đóng giữ. Mưu của Kiểm sai Hoàng vào trấn thủ ở đó là có ý muốn mượn tay họ Mạc để giết Hoàng” [5, 26] Trịnh Tùng cũng là nhân vật tài trí hơn người nhưng chính bởi cậy tài mà Trường quốc công Trịnh Tùng “thu gồm hào kiệt, chiêu tập những kẻ ngoan ngạnh quật cường, uy hiếp công khanh, ngầm có ý lấn vượt” [5, 42] Về phần nhà Nguyễn, đây là dòng họ được tác giả đặc biệt dành nhiều cảm tình và dung lượng nhất trong tác phẩm. Hình thành ở phía nam Đèo Ngang từ năm 1558, người đầu tiên có công gây dựng lên nhà Nguyễn là Nguyễn Hoàng. Tác giả thông qua tác phẩm đã tái hiện lại một vương triều nhà Nguyễn từ khi hình thành một cách vô cùng tỉ mỉ và chi tiết. Nhân vật có công gây dựng lên triều đại này được tác giả đặc biệt ưu ái, miêu tả cặn kẽ. Nguyễn Hoàng là con trai của Nguyễn Kim. Lúc cha mất ông còn nhỏ nên chưa thể nắm giữ binh quyền. Nguyễn Hoàng “bẩm tính thông minh mẫn tiệp, trí tuệ hơn người” [5, 25] lớn lên theo anh rể là Trịnh Kiểm đi khắp nơi chinh chiến, lập nhiều công trạng, nhiều lần được vua gia phong. Lo sợ quyền lực bị lung lay, Trịnh Kiểm hết lần này đến lần khác bầy mưu, tính kế muốn trừ diệt Nguyễn Hoàng. Cục diện bất lợi, Nguyễn Hoàng cùng chị là Nguyễn Thị bàn nhau lừa xin Trịnh Kiểm đồng ý cho vào trấn thủ vùng Thuận Hóa. Đa nghi 18
  25. nhưng Trịnh Kiểm đã có những suy tính riêng, muốn mượn tay nhà Mạc ở Thuận Hóa để trừ diệt Nguyễn Hoàng. “Thái sư Minh Khang vương thầm nghĩ: Xứ ấy có quân đồn trú của nhà Mạc, cứ cho y đến đó, kể như mượn tay họ Mạc, ta khỏi phải mang tiếng không biết dùng người. Nghĩ vậy Kiểm mới chịu ưng” [5, 28]. Nhưng với tài trí hơn người, sau khi vào đất Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng cho quân dò xét tình hình, lập kế sách trừ được quân tướng nhà Mạc đang canh giữ nơi đây và giành quyền trấn thủ vùng đất này. Sau khi giành được Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng vẫn giữ đạo phiên thần với chính quyền Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài nhưng cũng đồng thời cho xây dựng lực lượng ở phía nam Đèo Ngang. Tác giả rõ ràng đã dành rất nhiều tình cảm cho dòng họ này, đặc biệt có thể nhận thấy thông qua nhân vật Nguyễn Hoàng. Ngay từ đầu tác phẩm, Nguyễn Hoàng – nhân vật đại diện cho sự ra đời của nhà Nguyễn đã được miêu tả chi tiết từ ngoại hình, tính cách cho tới từng biến cố trong cuộc đời. Như vậy, đến năm 1600, trên đất nước ta tồn tại thế cục ba nhà Mạc – Trịnh – Nguyễn. Ba thế lực phong kiến này luôn luôn trong trạng thái đối đầu căng thẳng và đã không ít lần xảy ra giao tranh. Nguyên nhân sâu xa nhất chính là vì “quyền lực”. Vì quyền lực mới xảy ra giao tranh Trịnh – Mạc, cũng vì đó mà nổ ra chiến tranh Trịnh – Nguyễn. 2.2. Cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh Theo Nam triều công nghiệp diễn chí, ba vùng thế lực Mạc – Trịnh – Nguyễn tồn tại không lâu, đến năm 1592, nhà Mạc bị mất Kinh đô, lực lượng dần dần bị thu hẹp và cuối cùng chỉ còn tồn tại nhỏ yếu, không đáng kể ở một số vùng núi của Cao Bằng. Như vậy, đến khoảng đầu thế kỉ XVII, trên đất nước ta đã không còn cục diện ba nhà Mạc – Trịnh – Nguyễn mà lúc này chỉ còn tồn tại hai thế lực phong kiến chủ yếu là nhà Trịnh ở Đàng Ngoài và nhà Nguyễn ở Đàng Trong. 19
  26. Ở Đàng Ngoài, đứng đầu là chúa Trịnh Tùng. Còn ở Đàng Trong, sau khi chúa Nguyễn Hoàng mất, chúa Nguyễn Phúc Nguyên lên thay cha tiếp quản binh quyền. Cũng từ đây thế lực của chúa Nguyễn ở Đàng Trong ngày một không hòa hợp được với triều đình Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài. Sự kiện Nguyễn Khải phụng mệnh chúa Trịnh đem năm nghìn quân kéo vào đóng ở bờ Bắc sông Nhật Lệ đã khai mào khiến cho mối quan hệ Trịnh – Nguyễn ngày một trở nên căng thẳng, gay gắt. Nguyễn Khoa Chiêm qua Nam triều công nghiệp diễn chí đã diễn tả một cách chân thực và sinh động toàn bộ diễn biến lịch sử của cuộc nội chiến phân tranh lớn nhất trong lịch sử nước ta cùng với những con người thật, sự kiện có thật. Năm 1627, cuộc nội chiến chính thức bắt đầu cho đến khi kết thúc vào năm 1673, trong vòng gần nửa thế kỉ, hai bên đã xảy ra tổng cộng tám cuộc giao tranh lớn nhỏ. Cả tám cuộc giao tranh giữa hai bên đều đã được Nguyễn Khoa Chiêm thuật lại một cách đầy đủ và chi tiết. Dưới cái nhìn đầy khách quan ở ngôi kể thứ ba, tác giả đã cho người đọc thấy được cục diện chính trị rối ren lúc bấy giờ một cách chính xác nhất và chân thực nhất. Đây cũng chính là điểm đặc sắc về nội dung của Nam triều công nghiệp diễn chí. Tác phẩm này được Nguyễn Khoa Chiêm viết nhằm mục đích chính là ca ngợi công lao và sự nghiệp của Nam triều, từ đó các sự kiện liên quan đến quá trình hình thành triều đại này cũng được khắc họa một cách rõ nét. Trong trận đánh thứ nhất, năm 1627, Thanh Đô vương Trịnh Tráng muốn tiến đánh nhà Nguyễn nhưng chưa có cớ nên sai trung sứ là An Toàn hầu Lê Đại Nhậm đi Thuận Hóa vào phủ chúa bẩm với Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên rằng: “Hoàng thượng có lệnh truyền cho Nam chúa phải đưa công tử cưng nhất về kinh chầu hầu làm con tin. Một là chầu cửa vua để vẹn đạo quân thần, hai là hầu việc ở Vương phủ để thể hiện tình anh em với chúa Trịnh. Lại phải chọn voi đực ba mươi con, thuyền biển ba mươi chiếc cùng 20
  27. lúc đưa ra nộp ở triều đình để làm lễ cống cho nhà Minh còn thiếu mấy năm trước, phải mau mau sai người đem ra tiến nộp chớ để chậm trễ. Trái lệnh vua là phạm tội không thể dung tha, chẳng có lý lẽ gì để oán trách nữa” [5, 157]. Sãi vương nghe xong rất tức giận nhưng đã bình tĩnh từ chối khéo. Tuy nhiên, sau khi sứ giả về báo lại, Thanh Đô vương nghe xong vô cùng tức giận và cũng đúng với ý định ban đầu cố ý làm khó Sãi vương, nếu Sãi vương nghịch ý, không ưng thuận sẽ xua quân đánh xứ Nam. Trận giao tranh đầu tiên xảy ra do nhà Trịnh khơi mào, “Tháng ba, Thanh Đô vương đích thân thống lĩnh đại quân thủy bộ rước xa giá vua Lê đi đánh phạt xứ Nam. Tháng tư, đại quân tiến đến cửa Nhật Lệ, chia quân đóng trại đồn trú, làm thành thế trận để phối hợp tiến đánh”, cứ vậy quân Trịnh mang quân tiến đánh nhà Nguyễn. Nhà Nguyễn chống trả, dung mưu làm lay động ý chí quân Trịnh: “Ngày 13, giám chiến Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật, cùng với Lương quận công Trương Phúc Gia bàn mưu thi hành kế phản gián. Sai gián điệp lẻn ra miền Bắc tung tin đồn rằng: Anh em của chúa là bọn quận Gia, quận Mạc cùng mưu dấy loạn ở kinh đô muốn đoạt ngôi chúa. Chẳng mấy hôm lời phao đồn bay đến miền Nam hà, Thanh Đô vương nghe biết cả kinh. Từ đó, vua tôi anh em nghi ngờ lẫn nhau, trễ biếng việc đánh chác, quân sĩ không muốn chiến đấu. Thanh Đô vương Trịnh Tráng bèn rút quân về kinh đô để giữ chắc căn bản” [5, 159]. Trận giao tranh này chính là mở màn cho cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Trong trận này, cả hai bên đều xuất hiện những nhân vật có tài điều binh. Quân Trịnh nổi lên là hình ảnh Thanh đô vương Trịnh Tráng oai phong “đích thân thống lĩnh đại quân thủy bộ” đi đánh nhà Nguyễn. Quân Nguyễn nổi lên hình ảnh Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật, người đã có công bày mưu giúp quân Nguyễn đánh bại quân Trịnh. 21
  28. Trận thứ hai, bắt đầu từ năm 1630, quân Nguyễn sau khi đắp xong lũy Trường Dục thì tiếp tục tiến hành đắp thêm lũy ở cửa biển Nhật Lệ. “Lộc Khê vâng lệnh cùng với Chiêu Vũ đến dinh phủ Quảng Bình hạ lệnh cho quân dân đắp lũy ở cửa biển Nhật Lệ địa thế lũy này dựa núi gần khe, chỉ hơn một tháng là đắp xong rất chắc chắn, ngăn cách đất Bắc, hiểm trở chẳng khác gì đường đi vào đất Thục Từ đó thành chắc thế mạnh, các quan triều đình ngày tháng hội họp bàn định kế sách thu phục kinh đô” [5, 170]. Sau khi thành chắc thế mạnh, quân Nguyễn liền bàn mưu tiến đánh các đồn trại trấn thủ của quân Trịnh, chiếm được phần phía Nam châu Bố Chánh (tức phần đất từ phía bắc sông Nhật Lệ ở Đồng Hới đến phía nam sông Gianh). Trong trận chiến thứ hai, quân Nguyễn nổi lên hình ảnh một mưu sĩ tài ba là Lộc Khê Đào Duy Từ. Đào Duy Từ hiện lên trong tác phẩm là nhân vật tài ba xuất chúng, là “bậc cao minh”, “bác cổ kim thông”. Đào Duy Từ đã có công lớn trong việc đắp lũy giúp nhà Nguyễn giữ vững bờ cõi, khiến cho quân Trịnh khó lòng tiến công. Đến cuối năm 1633 - đầu năm 1634, Trịnh Tráng lại tiếp tục đem quân đánh nhà Nguyễn. “Mùa đông, tháng mười, Thanh đô Vương lại đem đại binh thủy bộ rước xa giá vua Lê đi đánh Nam hà. Tháng chạp, quân đến cửa Nhật Lệ, Thanh Đô chia quân đi đóng trại, đầu dưới tiếp ứng với nhau, thế trận rất nghiêm chỉnh” [5, 188]. Nhưng do chần chừ đợi nội ứng “bấy giờ Thanh Đô vương Trịnh Tráng rước xa giá vua Lê đến phía ngoài cửa biển Nhật Lệ bắn ba phát sung làm hiệu, không thấy Dương Nghĩa ra hàng. Thanh Đô vương lấy làm ngờ bèn cho quân lui ra xa mặt lũy đóng trại để chờ tin tức của Dương Nghĩa hầu, đợi đến hơn mười ngày. Các đạo quân Nam thấy quân Bắc trễ nải không có ý phòng bị, bèn đồng loạt xong ra đánh lớn quân Trịnh thua rạp, vất bỏ xe pháo mà chạy không dám ngoái đầu, thấy chất cao thành đống” [5, 22
  29. 189]. Trịnh Tráng thấy vậy bèn rước vua Lê về bên bờ sông Gianh điểm lại binh mã, chết đến quá nửa, kinh hãi rồi đưa quân về kinh. Vẫn chưa dừng lại ở đó, trận thứ tư và trận thứ năm lần lượt diễn ra vào hai năm 1643 và năm 1648, nhà Trịnh đem quân tiến đánh nhà Nguyễn nhằm thu phục Nam Bố Chánh nhưng không thành. Bị quân Nam đánh trả dẫn đến thua trận phải rút về Bắc. Trận chiến lần thứ sáu năm 1655, do nhà Nguyễn phát binh đánh trước. “Lại nói chuyện năm Ất Mùi, niên hiệu Thịnh Đức thứ ba (1655), tháng giêng, chúa Nam triều là Hiền vương từ khi nghe trấn thủ dinh Bố Chính là Phù Dương báo tin tướng Trịnh là Hàn Tiến sai quân quấy nhiễu vùng ven, rất lấy làm tức giận, bèn gọi các tướng văn võ hội họp để bàn định” [5, 222]. “Tháng ba, Hiền vương sai mời văn chức Chiêu Vũ vào trong chướng bàn kín, gia cho Chiêu Vũ ra dinh Bố Chính điều tra tin tức và quan sát địa thế, đường sá núi sông, các ngả tiến lui ra vào” [5, 224]. “Tháng ấy, ngày mười ba Thuận Nghĩa và Chiêu Vũ truyền lệnh cho các nơi cửa biển đặt đài hỏa hiệu, một mặt sức cho dân ở dinh Bố Chính không kể già trẻ, đàn ông, đàn bà đều phải đi làm kho ở xã Trường Dục, suốt cả ngày đêm. Lại mật truyền cho các trại quân thủy bộ đóng ở phía Nam sông Gianh phải canh phòng nghiêm ngặt, không cho bất cứ người nào ở dinh Bố Chính qua song sang bờ bắc, kẻ nào trái lệnh xử chém. Ngày mười bốn, vào khoảng giờ Mùi, đốc chiến Chiêu Vũ truyền lệnh mật cho trấn thủ dinh Quảng Bình là Nghĩa Lâm hầu sai người đến các Thủ Cừ, Đông Hải chọn lấy một trăm chiếc ghe sắp sẵn chờ lệnh để chở quân bộ và khí giới ở dinh Quảng Bình qua sông. Lệnh cho thủy dinh Quảng Bình dung hai mươi chiến thuyền chở đủ các thứ quân nhu chiến cụ đậu sẵn ở cửa Nhật Lệ, chờ hiệu lệnh thủy bộ cùng tiến. Ngày mười lăm, giờ Dậu, phát binh vượt biển đến bờ Nam sông Gianh” [5, 236 – 237]. Nhà Nguyễn vượt Đèo Ngang, chiếm Dinh Cầu (Kỳ Anh, Nghệ 23
  30. Tĩnh) rồi chiếm luôn bảy huyện ở bờ nam sông Lam đóng giữ tại đó trong gần 5 năm. Gần 5 năm giao tranh, cả hai bên đều chịu nhiều tổn thất nặng nề. Cuối cùng do khó khăn về vận chuyển quân lương, khí giới trong khi tướng lại bất hòa nên nhà Nguyễn phải rút về phía nam sông Gianh năm 1660. Trận đánh thứ bảy năm 1662, quân Trịnh vượt sông Gianh tiến sát đến lũy Nhật Lệ. “Năm Nhâm Dần, niêm hiệu Thịnh Đức thứ mười (1662), trung tuần tháng giêng, nguyên súy bên quân Nam là công tử Hiệp Đức sau khi dời quân đến đóng dồn ở xã Vô Xá bèn cho triệu các tướng đến hội họp để bàn cách tiến đánh quân Trịnh” [5, 487]. Sau khi quân tướng bàn bạc liền thống nhất: “Các tướng vái tạ vâng lệnh, ai nấy trở về bản doanh, chia quân đóng giữ cẩn mật không để một người nào ra khỏi lũy” [5, 488], quyết tâm cố thủ. Chờ cho quân Trịnh hết lương thảo hoặc chán nản muốn bỏ về, “chờ cho bọn chúng mệt mỏi kéo về, quân ta chặn đường đón đánh tất là thắng lớn” [5, 488]. Quân Nam cứ vậy, quyết theo kế hoạch đã bàn. Về phía quân Bắc “bấy giờ bọn quân Đương, quận Hào do lâu ngày không được chiến đấu, quân tướng đều có ý trễ nải, không đề phòng khả năng bị đánh bất ngờ. Trong giấc ngủ say mơ màng ai nấy nghe tiếng súng vang dội, lại nghe trong doanh trại dậy tiếng ồn ào, choàng tỉnh ngước đầu nhìn ra thấy bên ngoài lửa cháy phần phật, mới hay quân Nam đã thọc đánh vào trong trại, nhưng địch quân người ngựa nhiều ít ra sao không biết rõ” [5, 493]. Quân Trịnh hoảng loạn thi nhau rút chạy về Bắc. Quân Nam do đốc chiến Chiêu Vũ thúc quân đuổi theo nhưng quân Trịnh đã chạy xa, không đuổi kịp bèn chỉ thu khí giới mang về cho công tử Hiệp Đức. Trận đánh cuối cùng, chiến dịch Trấn Ninh năm 1672 là trận đánh cuối cùng trong thế kỉ XVII. Bên Trịnh, Tây Định vương Trịnh Tạc “sai đô đốc Hào Nam Lê Thì Hiến làm tiên phong, Tây Định làm nguyên súy, rước vua Lê ngự giá cầm quân đi tiếp ứng. Lại sai thiếu bảo Phú quân công Trịnh Căn 24
  31. làm nguyên súy thủy quân” [5, 523]. Thủy bộ tất cả mười vạn nhưng nói phao lên là mười tám vạn tiến đánh nhà Nguyễn. Về phía nhà Nguyễn: “Nay bọn Tây Định lại ép thiên tử dấy quân vào xâm lấn cõi ta, vậy các tướng hãy cùng nhau bàn xem nên cử tướng nào làm ngyên súy nắm quyền quân đi chặn địch, quyết bắt cho được họ Trịnh, phá tan ổ chuột củ chúng ở Trung đô” [5, 519]. Cuối cùng quân Nam đã quyết định chọn công tử Hiệp Đức làm nguyên súy “Hiền vương cả mừng, bèn phong cho công tử Hiệp Đức làm nguyên súy, vệ úy Phú Lĩnh, ký lục Xuân Đài làm tham mưu, các văn chức ở ty tướng thần lại là Minh Tiến, Văn Cảnh, Văn Linh, Văn Học và viên vũ lược tên là Cường cùng đi. Lại sai phò mã trưởng cơ Đức Kiêm và Tiến Đức làm tả hữu tiên phong, chọn ngày xuất quân đi cự địch, vương đích thân đem đại quân đi sau tiếp ứng” [5, 519 – 520]. Trận chiến diễn ra trong suốt 55 ngày đêm đã tiêu hao không ít sức người và của của cả hai phe Trịnh – Nguyễn. Trận đánh này đã huy động toàn bộ lực lượng của cả hai bên. Quân Trịnh huy động thủy quân gồm gần một nghìn chiến thuyền, trên mười vạn quân do Tây Định vương Trịnh Tạc đích thân làm nguyên súy, Thế tử Trịnh Căn chỉ huy thủy quân, rước cả vua Lê Gia Tông cùng đi giám chiến. Quân Nguyễn do công tử Hiệp Đức làm nguyên súy, Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật làm tiết chế, sử dụng rất hữu hiệu hệ thống phòng thủ dày đặc đã bố trí nhiều năm trước để thực hiện một cuộc phản công quyết liệt với niềm tin chắc thắng. Cuối cùng quân Nguyễn bại trận, quân Nam dồn đuổi “bắt được mấy tên quân Bắc tụt lại đằng sau, tra hỏi thì bọn chúng đều khai là vua Lê và chúa Tây Định đã lui về trước, đại tướng Hào Man chạy trốn theo sau Nguyên súy Hiệp Đức cả mừng, vái tạ trời đất thần linh rồi sai Minh Tiến về triều báo tin thắng trận” [5, 571]. Cứ như vậy, từng trận đánh được tác giả miêu tả một cách chân thực và chính xác. Tác giả cũng đưa ra được đầy đủ các sự kiện, các địa điểm, các 25
  32. mốc thời gian cụ thể giúp người đọc có thể hình dung một cách rõ ràng nhất về cuộc nội chiến. Đồng thời, thông qua từng trận đánh, tác giả cũng đã làm nổi bật lên các nhân vật anh hùng, có tài mưu lược của cả hai bên. Nhà Trịnh có Trịnh Tráng, Trịnh Kiều, Trịnh Căn, cùng các tướng nhà Trịnh như Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Thực, Nguyễn Khải Nhà Nguyễn thì có chúa Nguyễn Phúc Nguyên, không chỉ có tài mưu lược mà còn là con người nhân nghĩa, có lòng thương người và các chúa Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tân, cùng các tướng nhà Nguyễn như Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật Nội chiến Trịnh – Nguyễn diễn ra được Nguyễn Khoa Chiêm miêu tả như một điều tất yếu của lịch sử. Trong tác phẩm của mình đã vô cùng thành công khi diễn tả lại chi tiết diễn biến của cuộc nội chiến. Họ Trịnh phò Lê diệt Mạc nhưng cũng đồng thời dồn vua Lê vào thế bù nhìn “khoanh tay rủ áo” mặc cho sự xắp xếp của chúa Trịnh. Lợi dụng nhà Lê, chúa Trịnh phát động chiến tranh với mục đích thôn tính nhà Nguyễn ở Đàng Trong, đoạt ngôi vị bá chủ. Trong khi nhà Nguyễn, sau khi xây dựng cơ đồ vững chắc cũng đối đầu với nhà Trịnh. Đất nước từ nay chia cắt, binh đao xảy ra liên miên. 2.3. Cuộc chiến giành quyền lực trong nội bộ các tập đoàn phong kiến Liên quan đến cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn, tác giả đã khai thác nhiều sự kiện chính trị ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài. Đi liền với nội chiến là những trận giao tranh đẫm máu, là những âm mưu phế lập, biến loạn được tác giả kể lại một cách “xác tạc” khiến người đọc có cảm nhận như đang tận mắt chứng kiến. Không chỉ là chủ tớ bất hòa, anh em mưu hại lẫn nhau mà ngay cả cha con cũng xảy ra tranh chấp. Tình cảm gia đình – tình cảm thiêng liêng nhất của con người vậy mà khi đứng trước quyền lực dường như cũng không còn giá trị. Tình cảm đã bị vứt bỏ qua một bên để nhường chỗ cho 26
  33. những mưu cầu cá nhân. Vì quyền lực mà con người có thể làm mọi thứ, giao tranh xảy ra khốc liệt không kém gì nội chiến. Ở Đàng Ngoài, đầu tiên phải nhắc đến sự việc Trịnh Xuân mưu hại cha là Trịnh Tùng: “Mùa hạ, tháng sáu, con của vương phi là thái bảo Vạn quận công Trịnh Xuân oán giận vương về việc bị phạt khi trước, nay thấy vương bệnh tình nguy kịch bỗng lại nổi tà tâm tặc tử, âm mưu muốn cướp ngôi chúa, tranh quyền với anh, bèn hội họp bàn mưu với quân sĩ” [5, 121 – 122]. Quyền lực đã khiến không chỉ anh em tương tàn mà ngay cả cha con cũng mưu hại nhau. Người thân không can ngăn mà còn “đục nước béo cò” “Thằng Xuân đã dấy binh làm loạn, cướp bác mày đem về nhà hắn. Mày mau đem quân đi chặn đường cướp kiệu bác đem về trong dinh nhà ta. Rồi lập mẹo lừa bọn con bác vào trong phủ mà giết đi thì ngôi chúa sẽ sang tay nhà ta!” [5, 122]. Đó là những lời thái tể Phụng quốc công nói với con trai mình là quận Thạch. Quận Thạch và cha thực hiện y kế hoạch đã bàn, Trịnh Xuân mắc mưu rồi bị giết chết. Trịnh Tráng nhờ nghe lời khuyên can của viên quan văn là đô cấp sự trung Lưu Đình Chất nên không mắc mưu cha con quân Thạch nhưng phải đem quân lánh về Ninh Giang rồi mời các vương tử khác đến họp bàn kế sách thu phục kinh đô. Bình An vương Trình Tùng bệnh tình ngày một nguy kịch rồi mất, bị cha con quận Thạch bỏ ở bên cầu, may được một thuộc hạ mang thi hài về cho Trịnh Tráng. Trịnh Tráng mai táng cha xong xuôi đem quân quay trở lại kinh đô, cha con quận Thạch thấy tình hình bất lợi liền đem hết vàng bạc châu báu đến cống nộp, cầu xin chịu tội mong được giảm nhẹ. Trịnh Tráng nể tình anh em, chú cháu nên tha cho hai cha con. Trước đó, Phan Ngạn, Bùi Văn Khuê, hai viên tướng dưới quyền nhà Trịnh cũng dấy binh làm phản. Sự vụ này bắt nguồn từ khi Nguyễn Hoàng ra Bắc rồi được vua Lê giữ lại ngoài Bắc. Ban đầu Nguyễn Hoàng cùng Trịnh Tùng vì vốn là cậu cháu nên rất thân. Nhưng sau thấy Nguyễn Hoàng thông 27
  34. minh, tài trí nên Trịnh Tùng sinh lòng ngờ vực, lo sợ và muốn trừ bỏ. Nguyễn Hoàng biết được bèn lập mưu xúi Phan Ngạn và Bùi Văn Khuê làm phản để nhân cớ đó tìm cách trở về Thuận Hóa. “Bọn Ngạn, Khuê cảm tạ, khóc vái lĩnh mệnh ra về, quyết chí mưu phản” [5, 76]. Nguyễn Hoàng sau khi xúi Phan Ngạn và Bùi Văn Khuê tạo phản lại dùng kế để nói với Trịnh Tùng, xin Trịnh Tùng cho đem quân đi trừ Ngạn, Khuê nhưng thực chất là âm thần đưa quân ra cửa biển trở về Thuận Hóa. Sau khi Nguyễn Hoàng rời đi, Ngạn, Khuê liền mang quân vây kinh thành, phóng hỏa đốt cháy doanh trại, phố xá. Quân triều đình nhiều lần đánh nhưng đều thua, Trịnh Tùng phải đem vua Lê rời về Thanh Hoa chờ dò xét tình hình. Ngạn và Khuê thấy vậy lấy làm đắc chí, thi nhau vơ vét của cải rồi xảy ra tranh chấp. Khuê thấp mưu hơn, bị Phan Ngạn đánh úp chết ở sông Nhị Hà. Phan Ngạn ngày một đắc chí, vốn là người háo sắc nên từ khi bắt được Triệu thị, vợ Khuê thì sinh lòng tà dâm muốn lấy làm vợ. Dựa theo kế đó, Triệu thị vờ đồng ý lấy Phan Ngạn rồi lập mưu giết chết, trả thù cho chồng. Trịnh Tùng nghe được tin đó lấy làm mừng, đem quân trở lại kinh đô, cho sửa sang lại cung điện, lầu gác, ban thưởng cho Triệu thị. Không chỉ nội bộ Đàng Ngoài lục đục, Đàng Trong cũng không mấy bình yên. Sau khi Nguyễn Hoàng mất, Nguyễn Phúc Nguyên lên thay cha nắm giữ binh quyền. Phúc Hiệp (Văn Nham) và Phúc Trạch (Thạch Xuyên) cũng là con của Nguyễn Hoàng nhưng vì không có được quyền lực, không hài lòng liền bàn nhau tìm cách lật Phúc Nguyên. Một hôm Thạch Xuyên đến phủ doanh của Văn Nham than: “Anh em ta vẫn cùng một mẹ sinh ra, tài đức chẳng kém gì người, nhưng lệnh quyền đều trao vào tay vương huynh cả. Bọn ta được nhờ chút phú quý, nếu ngày sau tôn mẫu chúng ta qua đời thì dòng dõi anh em ta biết nhờ cậy vào đâu?” [5, 110]. Văn Nham thoạt đầu khuyên em nên suy nghĩ kĩ nhưng khi nghe Thạch Xuyên nói nhờ cậy quân Trịnh làm 28
  35. ngoại ứng thì liền ưng thuận. Rồi sau đó hai anh em viết thư cho Thanh quận công Trịnh Tráng. Trịnh Tráng cũng cho đây là cơ hội tốt để tiến đánh nhà Nguyễn nên liền sai Nguyễn Khải đưa năm nghìn quân vào phía nam cửa biển Bố Chính, Nhật Lệ chờ tin Văn Nham và Thạch Xuyên. Lại nói phần Văn Nham, Thạch Xuyên sau khi viết thư cho Trịnh Tráng thì cũng âm thầm chuẩn bị binh lực, khí giới chờ thời cơ. Phúc Nguyên nghe tin quân Trịnh đang lâm le liền gọi quân tướng vào họp bàn. Văn Nham, Thạch Xuyên y kế đã định hùa nhau tâu với chúa Phúc Nguyên để Tuyên Lộc cầm quân đi đánh dẹp quân Trịnh nhưng đã bị Tuyên Lộc vạch trần âm mưu: “Mưu mô của hai chú chẳng che mắt được thằng cháu này đâu! Bây giờ nếu cháu đem quân rời phủ doanh đi đến Quảng Bình, hai chú tất dấy binh làm nội phản để thu lợi ngư ông, có gì mà phải nói. Loạn từ đây mà ra!” [5, 115]. Âm mưu bại lộ, Văn Nham và Thạch Xuyên càng quyết chí làm phản, sai lính chở binh đạn, khí giới để chuẩn bị công kích. Dân chúng thấy vậy báo đến tai Phúc Nguyên. Phúc Nguyên cả giận, sai người đến nói chuyện với Văn Nham và Thạch Xuyên nhưng Nham và Xuyên vẫn một mực theo ý đã định. Phúc Nguyên nổi giận dẫn binh đi dẹp Văn Nham và Thạch Xuyên. Văn Nham và Thạch Xuyên đánh không lại được Phúc Nguyên bèn cắm đầu bỏ chạy nhưng rồi bị bắt lại. Phúc Nguyên nể tình anh em nên không giết Văn Nham và Thạch Xuyên nhưng hạ lệnh giam giữ tại nhà. Văn Nham, Thạch Xuyên sau ốm bệnh mà chết Trận binh biến nội bộ thứ hai diễn ra ở đời sau của Nguyễn Phúc Nguyên. Ở ngôi hai mươi ba năm, Phúc Nguyên mất. Con là Nguyễn Phúc Lan lên thay. Nhưng một người con nữa của chúa Phúc Nguyên là Nguyễn Phúc Anh (Dương Nghĩa hầu) vốn không hài lòng với cha và ganh tị với Nguyễn Phúc Lan nên âm mưu dấy binh làm phản, không về chịu tang cha. “Dương Nghĩa là đồ lục súc không nghĩ đến công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ! 29
  36. Nay hắn đã dấy binh làm loạn, tội khó dung tha! Còn phải hồ nghi gì nữa?” [5, 200]. Lại một trận binh biến nữa xảy ra. Quận Tường sai quân đi dẹp Phúc Anh, Phúc Anh ra sức chống trả nhưng kết quả vẫn bại trận, bị bắt giải về Cả Đàng Trong và Đàng Ngoài đều liên tiếp xảy ra những cuộc lục đục nội bộ vô cùng đẫm máu. Không chỉ là tướng sĩ có lòng bất trung, âm mưu tạo phản mà còn là anh em bất hòa, tranh giành quyền lực, chém giết lẫn nhau. Thậm chí dù là quan hệ cha con cũng vẫn xảy ra những trận đổ máu vì quyền lực. Tất cả chỉ vì hai chữ quyền lực. Vì quyền lực, con người trở nên hung bạo, ngang tàn và máu lạnh. Vì quyền lực mà họ trở nên mất hết tính người, sẵn sàng chiến đấu đến một mất một còn để đạt được mục đích, tranh giành quyền lực. Dù cho đó có là anh em họ, anh em ruột hay là cha con thì cũng không thay đổi được khi dục vọng quyền lực của con người đã quá lớn. Như đã nói ở trên, dù thiên kiến chính trị luôn được đặt ở triều Nguyễn nhưng tác giả không miệt thị các chúa Trịnh một cách vô căn cứ, lại càng không hoàn toàn bênh vực, bao che để chính quyền chúa Nguyễn trở nên tốt đẹp hơn. Tác giả luôn dùng sự khách quan vốn có của mình để tường thuật lại những bê bối của cả hai chính quyền Trịnh – Nguyễn một cách tự nhiên nhất, như những gì nó vốn xảy ra. 2.4. Đời sống nhân dân trong thời kì loạn lạc Trong toàn bộ tác phẩm, tác giả không dành quá nhiều dung lượng để miêu tả đời sống nhân dân trong thời kì loạn lạc. Nhưng chỉ bằng một vài câu văn ngắn gọn, tác giả đã vẽ lên một bức tranh sinh động về cuộc sống của con người trong chiến tranh. Từ xưa đến nay, cho dù là nguyên nhân nào thì chiến tranh luôn luôn là phi nghĩa. Đứng trước chiến tranh, nhân dân luôn là những người hứng chịu hậu quả. Trong Nam triều công nghiệp diễn chí cũng có lúc nhân dân được hưởng cảnh thái bình, yên ấm nhưng những ngày tháng đó không kéo dài, nhân dân chưa kịp hưởng trọn niềm vui thì chiến tranh đã ập 30
  37. tới. Không chỉ là nội chiến Nam Bắc triều mà còn là cả những cuộc chiến nội bộ tranh giành quyền lực. Chiến tranh khiến nhân dân ta phải hứng chịu cảnh chia li tang tóc, khiến dân ta trở lên lầm lũi, trai tráng thì phải lên đường ra trận và có những người ra đi rồi mãi mãi không trở về. Ở các miền quê chỉ còn lại các ông bà cụ và những người phụ nữ cùng những đứa trẻ thơ. Cảnh mẹ góa con côi, mẹ già chờ con, vợ trẻ chờ chồng và con thơ chờ bố đã không còn là hình ảnh xa lạ trong các cuộc chiến. Chiến tranh luôn đồng nghĩa với đau thương, mất mát. Không chỉ là nỗi đau chia li, chiến tranh còn khiến dân ta sống trong lầm than, khổ cực, “dân chúng mất nhà cửa, áo không đủ che thân, cơm ăn không no bữa, đói rét cùng khổ” Hết trận binh đao này lại đến trận binh đao khác. Nhân dân sống trong thiên tai đã khổ cực nay gặp cảnh chiến tranh lại thêm phần khổ cực. “Lại nói năm Ất Hợi, niên hiệu Đức Long thứ bảy (1635), tháng ba, bấy giờ Bắc triều trời đại hạn, lúa má héo khô, cây cối hoa màu héo rụng, khắp nơi dân chúng đói kém, dân xiêu tán rất nhiều, trách oán rằng: vua chúa chỉ làm những chuyện chính sự vu vơ, đến nỗi ta họa giáng xuống đầu dân đen, hậu thổ hoàng thiên bỏ mặc không phù hộ”. Hình như tác giả đang mượn lời nhân dân để phản đối nhưng cuộc chiến tranh phong kiến vô nghĩa. Tiểu kết Về phương diện nội dung, Nam triều công nghiệp diễn chí đã ghi lại những sự kiện xảy ra trong suốt hơn một trăm ba mươi năm có lẻ của nước ta với bao cuộc biến động lịch sử. Trong đó tiêu biểu nhất là cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh trong lịch sử nước ta. Chiến tranh kéo dài gần nửa thế kỉ khiến nhân dân ta sống trong cảnh đau thương mất mát cũng trong từng ấy thời gian. Nam triều công nghiệp diễn chí đã cung cấp cho ta những nội dung vô cùng quý báu về một giai đoạn lịch sử kéo dài gần một trăm ba mươi 31
  38. năm của dân tộc, nhất là về cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh. Chân dung nhưng nhân vật anh hùng cung được tác giả khác họa chi tiết và ro nét qua từng trận đánh. Tác giả với lối kể chuyện khách quan đã góp phần làm cho nội dung tác phẩm hiện nên một cách chính xác hơn, chân thực hơn. Đây cũng là điểm đặc sắc giúp cho tác phẩm trở lên lôi cuốn hơn, hấp dẫn hơn đối với bạn đọc. 32
  39. Chương 3 MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT CỦA TIỂU THUYẾT NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ 3.1. Kết cấu Nam tiều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm là tác phẩm có kết cấu chương hồi vô cùng độc đáo. Trong cuốn Từ điển văn học (Bộ mới) các tác giả cũng đã khái quát đặc điểm này như sau: “Sự phân chia cốt truyện thành các hồi là đặc trưng thể loại của tiểu thuyết chương hồi. Mỗi hồi bao giờ cũng có tiêu đề để tóm lược nội dung được trình bày trong hồi Cuối mỗi hồi thường có một bài thơ ngắn để đánh giá sự kiện hay nhân vật trong hồi và sau đó kết thúc bằng câu đại loại như: “Muốn biết sự việc diễn ra thế nào xem hồi sau sẽ rõ”. Sang hồi mới, vấn đề lại được triển khai với một nhan đề mới” [9, 1723]. Tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí sau quá trình chỉnh lí thì không xác định chính xác được là có bao nhiêu hồi nhưng tương truyền tác phẩm bao gồm ba mươi hồi. Mỗi hồi trình bày về một sự kiện nhất định. Đầu mỗi hồi thường có hai câu thơ khái quát nội dung chủ yếu sẽ diễn ra trong hồi đó nhưng trong nhiều bản chỉnh lí các câu thơ đầu mỗi hồi đã bị lược bỏ. Điều này xảy ra là do quan niệm thời bấy giờ không coi trọng văn chương tiểu thuyết, cho văn chương tiểu thuyết là thứ mạt hạng nên trong quá trình cải biên đã tự ý sửa đổi tác phẩm. Tuy nhiên vẫn còn một số bản truyền lưu lại được kết cấu chương hồi và câu thơ đầu mỗi hồi trong tác phẩm. Ví dụ như ở hồi thứ nhất: “Lánh Trịnh Kiểm, Đoan quốc công đem quân vào Thuận Hóa Nắm quyền binh, Trịnh Đô tướng lập vua nhỏ Duy Đàm.” Hay hồi thứ hai: “Diệt Hồng Ninh, Bình An vương rước vua về đô cũ 33
  40. Rời Thuận Hóa, Nguyễn thái úy lại ra Bắc chầu mừng.” Hay như ở hồi thứ mười sáu: “Đại Nài thất lợi, Thuận Nghĩa dừng chân cố thủ Bình Hồ thắng lớn, Chiêu vũ muốn tiến ra Vinh.” Hồi thứ hai mươi: “Tây Định Vương sai dụ hàng Chiêu Vũ Ký lục Hồ sa lưới mắng Hào Man.” Ngoài những câu thơ mở đầu tóm tắt nội dung chính của mỗi hồi thì ở cuối hồi thường có lời dẫn dắt đến hồi tiếp theo, đây là đặc điểm mà người cải biên đã không để ý tới và cũng là đặc điểm không thể lẫn của tiểu thuyết chương hồi. Chẳng hạn ở cuối quyển IV, tác giả có viết: “Chưa biết bọn Tú Phượng vào Nam báo tin ra sao, xem hồi sau sẽ rõ” [5, 347]. Hay ở cuối quyển V, tác giả cũng viết: “Chưa biết sự việc thực hư ra sao, xem hồi sau sẽ rõ” [5, 446]. Cuối quyển VII, tác giả cũng viết: “Năm Quý Sửu, niên hiệu Dương Đức thứ hai (1673), hạ tuần tháng hai, Hiền vương truyền lệnh đem quân về phủ Phú Xuân. Vương cho mở tiệc lớn mừng thắng trận, khen thưởng quân thần. Chưa biết sự việc về sau ra sao, xem hồi sau sẽ rõ” [5, 580]. Qua đó ta có thể thấy, kết cấu chương hồi trong tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí là tương đối rõ nét. Không chỉ có câu thơ mở đầu tóm lược nội dung của hồi mà ở cuối mỗi hồi còn có lời dẫn dắt đến hồi tiếp theo. Thêm vào đó là nhưng sự kiện được đẩy lên đến cao trao khiến độc giả tò mò muốn biết diên biến hồi tiếp theo. Ví dụ như ở cuối quyển V, trước khi đưa ra lời dẫn dắt tác giả đã đẩy sự kiện lên đến cao trào, tạo hứng thú để độc giả theo doi hồi tiếp theo bàng sự việc “năm Thịnh Đức thứ tám (1660) hạ tuần tháng giêng có người dân binh ở miền thượng đạo đến trình báo với tiết chế Thuận Nghĩa rằng các tướng sĩ mới về hàng đều có manh tâm làm phản, rủ nhau tụ họp ở chỗ kín để mưu đồ khác ý” [5, 446] 34
  41. Với kết cấu chương hồi đặc biệt, tác giả đã vận dụng một cách hiệu quả đặc trưng này trong việc thể hiện nhằm làm nổi bật nội dung của tác phẩm. Ghi chép cả một thời đại lịch sử kéo dài gần một trăm ba mươi năm của nước ta với những cuộc binh biến mà mỗi khi nhắc đến ai cũng phải khiếp sợ, việc lựa chọn kết cấu này là hoàn toàn chính xác. Nhờ kết cấu chương hồi mà các sự kiện diễn ra trong tác phẩm, các trận đánh được thể hiện rõ ràng, rành mạch và chi tiết. 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Văn học ra đời nhằm mục đích chính là phản ánh lại chính cuộc sống sinh hoạt hằng ngày hay những sự kiện tiêu biểu của con người nói riêng và xã hội loài người nói chung vào trong văn chương. Nhân vật trong văn chương chính là hiện thân của con người trong đời sống. Giống như trong cuộc sống không thể thiếu vắng bóng dáng của con người thì trong văn chương cũng không thể thiếu đi các nhân vật. Nhân vật chính là yếu tố tất yếu để hình thành nên một tác phẩm văn học dù là trong thơ ca hay văn xuôi. Dù nhân vật ẩn mình không xuất hiện thì đâu đó trong câu văn cũng sẽ xuất hiện hình bóng của nhật vật. Dù đậm nét hay mờ nhạt thì mỗi tác phẩm đều có những nhân vật của mình. Nam triều công nghiệp diễn chí là tác phẩm lịch sử kể về một chặng đường dài một trăm ba mươi năm có lẻ trong lịch sử dân tộc. Số lượng nhân vật trong tác phẩm là tương đối lớn, bao gồm tất cả các tầng lớp trong xã hội từ vua – chúa cho đến các tướng sĩ, quân lính, dân thường Nghệ thuật xây dựng của tác giả vô cùng độc đáo. Các nhân vật tùy thuộc vào vai trò cũng như vị trí của mình trong tác phẩm mà tác giả sẽ có nhưng cách miêu tả khác nhau. Chẳng hạn, với nhân vật Nguyễn Hoàng, đây là nhân vật được tác giả ưu mến dành nhiều lời khen ngợi nhất. Nhân vật này được tác giả miêu tả chi 35
  42. tiết từ ngoại hình cho đến tính cách, hành động. Miêu tả nhân vật cả trực tiếp lẫn gián tiếp qua lời nhận xét của tác giả hay chính là lời của người kể chuyện. “An tĩnh hầu có con là Nguyễn Hoàng, bẩm tính thông minh mẫn tiệp, trí tuệ hơn người [5, 25] Lại nói chuyện năm Quý Sửu, niêm hiệu Hoằng Định thứ mười bốn (1613), Nam chúa Đoan vương Nguyễn Hoàng tướng mạo đĩnh đạc khác kẻ bình thường, bản tính thông minh xuất chúng, có khi phách như Tống Tổ, Đường Tông, từ khi cai quản hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam nhân chính ban khắp gần xa, ơn đức bao chùm mọi chốn, người người yêu mến ngưỡng mộ như cha mẹ, trên thuận đạo trời, dưới hợp tình dân, đúng là bậc minh chúa tài ba sáng suốt” [5, 92] đó là qua lời nhận xét của tác giả. Tác giả cũng để nhận vật của mình tự bộc lộ nhân phẩm thông qua ngôn ngữ và hành động. Nguyễn Hoàng là người rất trọng dụng và biết cách đối xử với thuộc hạ. Trong lần đi đánh Thuận Hóa năm 1558, chỉ có một nghìn lính thủy nên việc đối đầu với nhà Mạc là rất khó khăn. Điều tra được quận Lập của nhà Mạc là kẻ vốn ham vinh hoa lại háo sắc, Nguyễn Hoàng đã cử Ngô Thị Lâm, người con gái xinh đẹp, mưu trí và gan dạ đi, dùng kế mĩ nhân để lừa quận Lập. Thị Lâm ban đầu nhất mực từ chối nhưng nghe Nguyễn Hoàng phân tích thì cuối cùng cũng đã ưng thuận. Sau khi dành được thắng lợi, Nguyễn Hoàng lại không quên ban thưởng cho Thị Lâm, không muốn nàng phải chịu đựng khổ cực: “Trừ diệt được phe đảng của quận Lập, ấy là nhờ công lao của nàng. Ta muốn kén chọn người tài trí gả chông cho nàng để tại thành địa vị khanh tướng, khỏi phải lóc lóc làm kẻ nô tỳ, cũng là để làm cho hiện rạng công lớn” [5, 33]. Qua lời nói của Nguyễn Hoàng ta có thể nhận thấy đây là một nhân vật vừa mưu trí vừa có tài đức. Nguyễn Khoa Chiêm đã xây dựng nên Nguyễn Hoàng, cũng là một thế lực phong kiến thống trị nhưng mang hình bóng của một con người kinh bang mở thế, một vị chúa 36
  43. anh minh mẫn tiếp, có công khai phá bờ cõi, khuyến khích nhân dân làm ăn, một vùng yên ấm. Khi miêu tả Thị Lâm, tác giả cũng lựa chọn cách trực tiếp miêu tả nhân vật. Tuy chỉ bằng vài câu văn ngắn gọn nhưng cũng đủ để bao quát toàn bộ về nhân vật này: “Bấy giờ chúa có nàng hầu xinh đẹp quê ở xã Thế Lại xứ Thuận Hóa tên là Ngô Thị Lâm, tuy là phận gái nhưng có mưu trí gan dạ, nói năng nhanh nhẹn dễ nghe, ứng đối trôi chảy, về nhan sắc thì nguyệt mờ hoa thẹn, dáng điệu cá lặn nhạn rơi, dẫu là đối với nàng Tây Thi ở Hàm Đan cũng không chịu thua kém mấy” [5, 30]. Chỉ bằng mấy câu văn vỏn vẹn nhưng dù là tài năng hay nhan sắc cả Thị Lâm thì cũng được hiện lên vô cùng rõ nét. Khi miêu tả Trịnh Kiểm, tác giả tuy không miêu tả chi tiết đến ngoại hình của nhân vật nhưng tài năng, phẩm chất cũng như những mưu toan, tính toán của nhân vật này đều được tác giả miêu tả hết sức rõ nét: “Rể của hầu là Trịnh Kiểm vốn người có sức có tài, được quân sĩ tuân phục” [5,26], “lại nói năm Kỷ Tị, niêm hiệu chính trị thứ mười hai (1569) ở Bắc Triều, thái sư Minh Khang vương Trịnh Kiểm đánh lấy được miền Sơn Tây” [5, 34], “Nay chúa Tiên vào trấn thủ hai xứ Thuận, Quảng, Minh Khang vương ngầm sai an hem quận Mỹ lựa chọn binh lính khỏe mạnh người bản xứ, nhân lúc sơ hỏe mà đánh úp để dứt mối lo về sau, xong việc sẽ có gia thăng trọng thưởng” [5, 35], “Năm Canh Ngọ, niêm hiệu Chính Trị thứ mười ba (1570), ngày mười tám tháng hai. Ở Bắc triều thái sư thượng phụ Minh Khang vương Trịnh Kiểm mất, thọ sáu mươi tám tuổi. Khang vương phò tá cơ nghiệp nhà Lê không sợ gian lao vất vả. Nhưng vì việc dẹp trừ phe đảng nhà Mạc chưa xong, vương thường đau tiếc rơi lệ, ăn ngủ đều kém sút” [5,38]. Ngoài Nguyễn Hoàng, Trịnh Kiểm hay Thị Lâm thì trong tác phẩm còn rất nhiều các nhân vật khác cũng được tác giả miêu tả rất rõ nét như Trịnh Tùng, Trịnh Tráng, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Anh, Nguyễn Phúc 37
  44. Lan, công tử Hiệp Đức, Văn Nham, Thạch Xuyên, các tướng như Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Hữu Dật, Đào Duy Từ, Phan Ngạn, Phan Khuê Nổi lên trong các tướng lĩnh cũng có những nhân vật được tác giả xây dựng với hình tượng nhân vật anh hùng tài hoa kiệt xuất như Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật, Lộc Khê Đào Duy Từ, Phùng Khắc Khoan, Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Tiến Tác giả đã xây dựng được một hệ thống các nhân vật lịch sử hết sức rõ ràng, chi tiết thông qua việc miêu tả trực tiếp công – tội trạng của từng nhân vật, thông qua hành động và ngôn ngữ của từng nhân vật và đôi khi là cả lời nhận xét của nhân vật khác. Tuy nhiên, ngoài những nhân vật có cả ngoại hình, tính cách, công – tội trạng thì cũng có những nhân vật có thể chỉ được miêu tả tính cách, có nhân vật có thể chỉ miêu tả công trạng nhưng cũng có những nhân vật chỉ xuất hiện với một câu nói mà không hề có ngoại hình hay tính cách. Ví dụ như nhân vật bà mẹ của Lê Ninh, nhân vật này không có ngoại hình, không có tính cách và thậm chí không có cả tên. Trong tác phẩm còn có những nhân vật không xác định được danh tính thật sự mà chỉ có những tên hiệu mà thôi. Ví dụ như nhân vật Trung Hậu hầu của nhà Mạc “Bên Mạc ngầm sai tướng là Trung Hậu hầu làm kế trá hàng. An Tĩnh hầu cả tin thu nhận rồi sau đó bị trung Hậu hầu đầu độc mà chết” [5, 25]. Sự phong phú về số lượng nhân vật đồng nghĩa kéo theo đó là sự phong phú về thủ pháp miêu tả cũng như xây dựng các nhân vật đó. Tuy nhiên, dù là nhân vật tốt hay xấu thì cũng được tác giả sử dụng hai thủ pháp miêu tả cơ bản là miêu tả nhân vật một cách trực tiếp và miêu tả nhân vật theo gián tiếp, thông qua nhiều yếu tố như: ngôn ngữ, hành động, lời nhận xét của tác giả hay chính là lời của người kể chuyện, lời nhận xét của các nhân vật khác hoặc lời nhận xét của nhân dân 38
  45. Ngôn ngữ của các nhân vật cũng là một trong những yếu tố quan trọng góp phần hình thành nên hình tượng nhân vật. Trong tác phẩm, có rất nhiều các đoạn độc thoại nội tâm hay nhưng đoạn hội thoại giao tiếp giữa các nhân vật cũng góp phần giúp ta có cái nhìn chính xác hơn về nhân vật, hình tượng nhân vật cũng hiện lên rõ nét hơn, chi tiết hơn và đầy đủ hơn. Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, Nguyễn Khoa Chiêm đã chú trong xây dựng ngôn ngữ nhân vật như một yếu tố thể hiện rõ nét tính cách nhân vật. Ở nhân vật Phùng Khắc Khoan trong cuộc đối đáp mang tính chất đấu trí với vua Minh: Vua Minh nói: “Ngươi là Trạng nguyên nước Nam, hẳn là thông kim bác cổ. Nay trẫm thử hỏi ngươi: việc trong thiên hạ rất dễ mà cũng rất khó. Vậy thì việc gì dễ nhất, việc gì khó nhất?”. Khắc Khoan tâu đáp: “Người ta sinh ra trong cõi đời phàm những chuyện về thiên văn địa lý, nhân sự, tam giáo cửu lưu, bách công kỳ nghệ đều là việc dễ! Duy chỉ có hai chữ thanh sắc là khó mua, khó cầu, ấy là việc khó có được” [5, 67]. Hay như Thụy quốc công, vốn con người điềm đạm bao dung nhưng cũng không tránh khỏi những cảm xúc nóng giận đời thường của con người. Khi bọn Văn Nham, Thạch Xuyên quyết mưu phản, Chúa cả giận mắng: “Đồ súc sinh ngỗ ngược như thế! Ta lấy tình thân ái mà đối đãi, nhưng nó lấy gian xảo hung ác phản lại ta!” [5, 117] Thường các nhân vật sẽ thông qua ngôn ngữ hoặc hành động mà bộc lộ rõ nét về bản thân nhân vật, nhất là tính cách và phẩm chất của nhân vật. Thông qua nghệ thuật xây dựng nhân vật, các nhân vật lịch sử hiện lên chân thực và sinh động, gần gũi với đời thường. Tuy nhiên, vì đây là nhân vật lịch sử nên thường có xu hướng thiên về ngoại hình và hành động. Các nhân vật hầu như không được miêu tả về thế 39
  46. giới nội tậm hay nói cách khác là không có thế giới nội tâm. Với kiểu nhân vật lịch sử thì việc miêu tả thế giới nội tâm là không cần thiết. 3.3. Không gian, thời gian nghệ thuật 3.3.1. Không gian nghệ thuật Trong cuốn Từ điển thuật ngữ Văn học, Lê Bá Hán cho biết: “Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong trường nhìn nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn bộ quảng tính của nó: cái này bên cạnh cái kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao, thấp, xa, gần, rộng, dài, tạo thành viễn cảnh nghệ thuật. Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian, nên mang tính chủ quan. Ngoài không gian vật thể, có không gian tâm tưởng” [9, 160]. Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, không gian bao trùm lên toàn bộ tác phẩm chính là không gian chiến trận của các cuộc nội chiến phân tranh, đẫm máu. Đất nước đâu đâu cũng có binh đao, khói lửa cùng những tiếng kêu khóc thấu trời. Ấn tượng mạnh mẽ qua tác phẩm là dằng dặc những khói lửa chiến tranh phong kiến, là những đoàn quân kéo đi không ngớt, cờ xí đầy trời, những chiếc chiến thuyền tấp nập qua lại ngoài khơi Đèo Ngang Không gian trong tác phẩm không cụ thể ở một địa điểm nhất định mà trải dài trên cả nước, từ đất liền cho đến cửa biển. Nơi nào có chiến tranh nơi đó chính là không gian của tác phẩm. Nhưng không gian được nhắc tới nhiều nhất và xuất hiện nhiều nhất trong tác phẩm chính là không gian ở cửa Nhật Lệ, sông Gianh, sông Lam, Đây chính là những địa điểm chính, được nhắc tới nhiều nhất trong cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh. Không gian được sử dụng trong tác phẩm là không gian vô cùng rộng lớn. Đặt tác phẩm trong không gian như vậy, tác giả đã đạt được dụng ý nghệ 40
  47. thuật của mình. Không gian càng rộng lớn, tầm vóc của sự kiện lịch sử cũng như con người càng trở lên lớn lao. Không gian càng rộng lớn những cuộc giao tranh mới càng trở nên quyết liệt, như chính sự tàn khốc vốn có của nó. Khi tái hiện lại lịch sử, tác giả đã vô cùng thành công trong việc vận dụng yếu tố không gian vào trong tác phẩm. Đây chính là một điểm nhấn trong đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm. 3.3.2. Thời gian nghệ thuật Thời gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Thời gian nghệ thuật chính là thời gian thể hiện các sự kiện diễn ra trong tác phẩm. Tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm là tác phẩm luôn đi theo trình tự thời gian. Thời gian trong tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí được xác định một cách rõ ràng, chính xác. “Năm Canh Thân niên hiệu Vĩnh Tộ thứ hai (1620), năm Kỉ Hợi niêm hiệu Quang Hưng thứ hai mươi hai (1599), năm Mậu Dần niêm hiệu Quang Hưng thứ nhất (1578), năm Tân Mão niên hiệu Quang Hưng thứ mười bốn (1591), năm Nhâm Dần niên hiệu Thịnh Đức thứ mười (1662), PGS.TS. Nguyễn Đăng Na đã từng nhận xét về yếu tố thời gian trong tác phẩm: “Tuân thủ tuyến tính thời gian và thời gian luôn được đặt lên trước như kiểu biên niên sử là đặc điểm của Tam Quốc chí diễn nghĩa. Truyện của Nguyễn Khoa Chiêm cũng đi theo lộ trình này. Tuy nhiên, lối ghi thời gian của Nguyễn Khoa Chiêm nghiêm ngặt hơn ở chỗ, ông chú ý đến ba yếu tố: niên hiệu, tuế thứ và can chi. Chẳng hạn, ở Quyển I có viết; “Hoằng Định thập ngũ niên, Giáp Dần ” nghĩa là năm Giáp Dần niên hiệu Hoằng Định năm thứ 15 Ghi thời gian chuẩn xác đến tận can chi là nét riêng ở Nguyễn Khoa Chiêm.” [15, 61]. Chính điểm đặc biệt này đã tạo nên khác biệt cho thể loại tiểu thuyết chương hồi Việt Nam nói chung và dâu ấn cá nhân cho tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí. 41
  48. Tác phẩm diễn tả lại một khoảng thời gian lịch sử tương đối dài của đất nước ta, khoảng một trăm ba mươi năm. Thời gian trong tác phẩm được tác giả vận dụng một cách hết sức linh hoạt, co duỗi dịp dàng theo các sự kiện chính mà tác phẩm đề cập tới. Có những sự kiện thời gian được kéo căng hết mức có thể, chi tiết đến từng ngày, từng giờ để có thể tái hiện lại từng chi tiết một cách tỉ mỉ nhất, cách gay cấn nhất. Nhưng có những lúc thời gian một năm trôi qua chỉ trong chớp mắt, các sự kiện chỉ được điểm qua chứ không được miêu tả chi tiết, cụ thể. Việc vận dụng linh hoạt yếu tố thời gian trong tác phẩm giúp cho qua trình miêu tả các sự kiện chính diễn ra trong tác phẩm không bị mờ nhạt như các sự kiện khác mà phải được nổi lên một cách rõ nét. Trong tiểu thuyết chương hồi mà nhất là thể loại tiểu thuyết chương hồi lịch sử như Nam triều công nghiệp diễn chí thì vấn đề thời gian nghệ thuật là yếu tố vô cùng quan trọng và cần thiết. Thời gian xác định khiến cho tác phẩm trở nên chắc chắn hơn, dễ thuyết phục độc giả hơn, khiến cho độc giả tin tưởng hơn vào vào các sự kiện mà tác giả đề cập trong tác phẩm. Đồng thời, việc thời gian nghệ thuật được xác định một cách rõ ràng trong thể loại tiểu thuyết chương hồi lịch sử như Nam triều công nghiệp diễn chí cũng giúp người đọc dễ nắm bắt được nội dung của tác phẩm cũng như các chi tiết, sự kiện diễn ra trong tác phẩm, giúp cho tác phẩm trở nên rành mạch, rõ ràng, tạo cho người đọc sự lôi cuốn chứ không phải cảm thấy mung lung, nhàm chán. Không gian và thời gian nghệ thuật trong tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí là không gian, thời gian rộng, thoáng phù hợp với thể loại, góp phần làm nổi bật nội dung, đặc điểm của tác phẩm. Từ đó, có thể thấy thời gian và không gian trong tác phẩm cũng là những yếu tố hết sức quan trọng làm nên thành công của tác phẩm. 42
  49. Tiểu kết: Về phương diện nghệ thuật, tuy đây là tác phẩm đầu tiên mở màn cho sự ra đời của thể loại tiểu thuyết chương hồi ở Việt Nam nhưng Nguyễn Khoa Chiêm cũng đã gặt hái được những thành công nhất định. Nổi bật nhất phải kể đến thành công trên các phương diện kết cấu, nghệ thuật xây dựng nhân vật và sự lựa chọn không gian, thời gian trong tác phẩm. Về kết cấu, tác giả đã xây dựng kết cấu hết sức chặt chẽ, tiêu biểu cho thể loại, góp phần làm nổi bật nổi dung tác phẩm. Về nghệ thuật xây dựng nhân vật, các nhân vật lịch sử thông qua tác phẩm hiện lên một cách sinh động, rõ nét. Về không gian, thời gian được xây dựng một cách phù hợp, linh hoạt, chính xác, tạo sự lôi cuốn hấp dẫn cho tác phẩm. 43
  50. KẾT LUẬN Đề tài “Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí” là một vấn đề còn mới mẻ, nhưng nó thực sự có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá những đóng góp của Nguyễn Khoa Chiêm đối với thể loại tiểu thuyết chương hồi nói riêng và văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam nói chung. Qua quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài chúng tôi đi đến kết luận: Việc tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí đã cung cấp cho ta thêm nhiều tri thức về một tác giả, tác phẩm văn học còn khá xa lạ. Trong quá trình nghiên cứu khóa luận, ta đã có thêm những hiểu biết về cuộc đời và những đóng góp của Nguyễn Khoa Chiêm trong việc đặt nền móng cho sự ra đời thể loại tiểu thuyết chương hồi trong văn học trung đại Việt Nam. Hiểu và nắm bắt được nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí để từ đó có cái nhìn bao quát và toàn diện hơn về tác phẩm cũng như thể loại của nó. Nam triều công nghiệp diễn chí xét về cả nội dung và thời gian ra đời có thể khẳng định đây là tiểu thuyết chương hồi đầu tiên của văn học trung đại Việt Nam. Về mặt nội dung, ngay từ nhan đề chúng ta đã biết, tác phẩm đề cấp đến công lao sự nghiệp của Nam triều. Cụ thể hơn, nó phản ảnh giai đoạn lịch sử trong một trăm ba mươi năm có lẻ của dân tộc với bao biến cố lịch sử. Nổi bật lên trong số đó là cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh lớn nhất trong lịch sử phong kiến nước ta. Nội chiến diễn ra trong gần nửa thế kỉ khiến nhân dân rơi vào cảnh lầm than, đất nước tiều điều, xơ xác. Các thế lực phong kiến dù thắng hay thua vẫn chịu nhiều tổn thất cả về người và của. Về mặt nghệ thuật, đây là tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết chương hồi lịch sử. Với kết cấu chương hồi rõ nét, nghệ thuật xây dựng nhân độc đáo 44
  51. kết hợp với việc lựa chọn không gian, thời gian phù hợp đã góp phần tạo nên thành công trên phương diện nghệ thuật cho tác phẩm. Tác phẩm đã dựng lên tượng đài những nhân vật lịch sử vô cùng chân thực và gần gũi như Nguyễn Hoàng, con người “kinh bang, mở thế” xây dựng nên triều đình nhà Nguyễn ở Đàng Trong; là các tướng Lộc Khê Đào Duy Từ, Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật, Thuận Nghĩa Nguyễn Hữu Tiến Thông qua một tác phẩm, một tác giả, ta đã lĩnh hội được nhiều tri thức mới đồng thời cũng góp phần đưa tác phẩm đến gần hơn với độc giả. Đây có thể sẽ là một bước khởi đầu cho những nghiên cứu sâu hơn nữa về tác phẩm trong tương lại. Cũng có thể trong tương lai tác phẩm sẽ được đưa vào chương trình giảng dạy. Qua đây có thể thấy, kho tàng văn học Việt Nam nói chung và văn học trung đại nói riêng là vô cùng phong phú, cần được tiếp tục đào sâu nghiên cứu và tìm hiểu, nhất là những tác phẩm mới chưa được quan tâm. 45
  52. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lại Nguyên Ân – Bùi Văn Trọng Cường (1995), Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội. 2. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 3. Trương Vũ Bình (2004), Nghệ thuật tiểu thuyết chương hồi Việt Nam trung đại qua Hoan châu ký, Nam triều công nghiệp diễn chí, Hoàng Lê nhất thống chí và Hoàng Việt long hưng chí, Trường Đại học Sư phạm Huế, Huế. 4. Nguyễn Huệ Chi, Đỗ Đức Hiểu, Trần Hữu Tá, (2004), Từ điển văn học, Nxb. Khoa học xã hội. 5. Nguyễn Khoa Chiêm – Ngô Đức Thọ - Nguyễn Thúy Nga (1994), Việt Nam khai quốc chí truyện (Nam triều công nghiệp diễn chí), Nxb. Hội Nhà Văn, Hà Nội. 6. Nguyễn Khoa Chiêm – Ngô Đức Thọ (1990), Mộng Bá Vương: Việt Nam khai quốc chí truyện tập 1, Nxb. Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp. 7. Nguyễn Khoa Chiêm – Ngô Đức Thọ (1990), Mộng Bá Vương: Việt Nam khai quốc chí truyện tập 2, Nxb. Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp. 8. Vũ Thanh Hà (2009), Thể loại tiểu thuyết chương hồi chữ Hán Việt Nam, Viện Văn học, Hà Nội. 9. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb. Giáo dục. 10. Đỗ Đức Hiểu - Nguyễn Huệ Chi - Phùng Văn Tửu - Trần Hữu Tá (Đồng chủ biên) (2004), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb. Thế giới, Hà Nội. 45
  53. 11. Nguyễn Thuỳ Linh (2012), Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm, Đại học Sư phạm Thái Nguyên, Thái Nguyên. 12. Nguyễn Đăng Na (1997), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại tập 1, Nxb. Giáo dục. 13. Nguyễn Đăng Na (2001), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại tập 2, Nxb. Giáo dục. 14. Nguyễn Đăng Na (2000), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại tập 3, Nxb. Giáo dục. 15. Nguyễn Đăng Na (2003), Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại – Những vấn đề văn xuôi tự sự, Nxb. Giáo dục. 16. Trần Nghĩa (1994), Sơ bộ tìm hiểu tiểu thuyết chương hồi viết bằng chữ Hán của Việt Nam, Tạp chí Hán Nôm số 1/1994. 17. Trần Nghĩa (1996), Tổng tập văn học Việt Nam T.8A, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 18. Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận một số thể loại tác gia – tác phẩm văn học trung đại Việt Nam tập 2, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 19. Vy Thị Bích Thủy (2008), Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm, Đại học Vinh, Vinh. Một số trang web tham khảo: 1. ểu_thuyết 2. ều_công_nghiệp_diễn_chí – Nam triều công nghiệp diễn chí – Wikipedia tiếng việt 3. hannom.org.vn/web/tchn/data/9401v.htm 4. 123.doc.org/document/3135412-khong-gian-nghe-thuat.htm 46