Khóa luận Thực trạng giáo dục ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc (1989 - 2009)

pdf 62 trang thiennha21 16/04/2022 4151
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thực trạng giáo dục ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc (1989 - 2009)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_thuc_trang_giao_duc_o_khu_vuc_trung_du_va_mien_nui.pdf

Nội dung text: Khóa luận Thực trạng giáo dục ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc (1989 - 2009)

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA LỊCH SỬ ====== NGUYỄN THỊ HOÀI LINH THỰC TRẠNG GIÁO DỤC Ở KHU VỰC TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC (1989 – 2009) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam HÀ NỘI, 2019
  2. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA LỊCH SỬ ====== NGUYỄN THỊ HOÀI LINH THỰC TRẠNG GIÁO DỤC Ở KHU VỰC TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC (1989 – 2009) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. NGUYỄN VĂN DŨNG HÀ NỘI, 2019
  3. LỜI CẢM ƠN Trong thời gian thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức và cá nhân, gia đình, bạn bè. Em xin chân thành cảm ơn Ban Chủ nhiệm khoa Lịch sử - Trường ĐHSP Hà Nội 2, các thầy cô là giảng viên khoa Lịch sử cùng các thầy, cô giáo giảng dạy chuyên ngành Lịch sử Việt Nam. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Văn Dũng - Người đã tận tình quan tâm, chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành đề tài này trong suốt thời gian vừa qua. Khóa luận tốt nghiệp “Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 2009)” là một đề tài hay và hấp dẫn. Song do còn nhiều hạn chế về thời gian cũng như khả năng tìm kiếm của, tiếp nhận thông tin của bản thân vì vậy không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong thầy cô và các bạn đọc xem xét và đóng góp ý kiến. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2019 Sinh viên Nguyễn Thị Hoài Linh
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình khoa học do mình thực hiện dưới sự hướng dẫn của thầy giáo - TS Nguyễn Văn Dũng, Trưởng khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà Nội 2. Nếu tôi sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng 5 năm 2019 Sinh viên Nguyễn Thị Hoài Linh
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3 3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 5 4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 6 5. Đóng góp của khóa luận 7 6. Bố cục của khóa luận 7 Chương 1 9 GIÁO DỤC Ở KHU VỰC TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC (1989 - 1995) 9 1.1. Những nhân tố tác động đến giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong những năm 1989 - 1995 9 1.1.1. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trước năm 1989 9 1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong những năm 1989 – 1995 12 1.1.3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục trong 10 năm đầu đổi mới 15 1.2. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 1995) 18 1.2.1. Về mở rộng quy mô hệ thống giáo dục các cấp 18 Về quy mô trường, lớp học các cấp 18 Về số lượng học sinh, giáo viên của các cấp 20 1.2.2. Một số chuyển biến về chất lượng giáo dục ở các cấp học 24 1.3. Nhận xét về tình hình giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 1995) 25 1.3.1. Thành tựu 25 1.3.2. Hạn chế 27 1.3.3. Tác động của giáo dục đến kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 - 1995) 28 Tiểu kết chương 1: 29 Chương 2 GIÁO DỤC Ở KHU VỰC TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC (1996 - 2009) 30
  6. 2.1. Những nhân tố tác động đến giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996- 2009) 30 2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong những năm 1996 – 2009 30 2.1.2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa 34 2.2. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996 – 2009) 36 2.2.1. Tình hình biết đọc biết viết 36 2.2.2. Tình hình đi học 38 2.2.3. Trình độ giáo dục đạt được 41 2.3. Một số nhận xét về tình hình giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996 - 2009) 44 2.3.1. Thành tựu 44 2.3.2. Hạn chế 47 2.3.3 Tác động của giáo dục đến kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996 - 2009) 48 Tiểu kết chương 2 : 50 KẾT LUẬN 51 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 53
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong đời sống xã hội, sự nghiệp giáo dục luôn có vai trò quan trọng đặc biệt đối với mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. “Giáo dục, đào tạo góp phần nâng cao trình độ dân trí, và tạo ra nguồn lao động chất lượng cao để thúc đẩy nền kinh tế - xã hội đi lên của mỗi quốc gia”. Đương thời, các nhà tư tưởng triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đã coi giáo dục là nhiệm vụ trọng tâm. Trong tác phẩm: “Bàn về chế độ hợp tác” của V. I. Lênin, ông viết: “Sự thay đổi căn bản đó là ở chỗ: trước đây chúng ta đã đặt và không thể không đặt trọng tâm công tác của chúng ta vào cuộc đấu tranh chính trị, vào cách mạng, vào việc giành lấy chính quyền thì trọng tâm công tác của chúng ta hiện nay quả thật là xoáy vào hoạt động giáo dục” [27, tr.428]. Nelson Mandela- một vị anh hùng tài ba đã lãnh đạo nhân dân Nam Phi thoát khỏi ách nô lệ. Ông đã phát biểu rằng: "Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà bạn có thể dùng để thay đổi thế giới”, ông hiểu rõ rằng, khi nhận thức của người dân còn thấp, nền giáo dục chưa đạt hiệu quả cao thì khi một cuộc cách mạng diễn ra thì kết quả đi tới thành công là con số không, nếu có thì cũng chỉ là thành công mang tính nhất thời, không bền vững, không kéo dài được lâu. Cho nên, chỉ có đầu tư vào giáo dục thì mới thay đổi được nhận thức của người dân và mang lại cho họ một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Ở nước ta cũng vậy, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, ông cha ta đã sớm có ý thức về “tầm quan trọng của giáo dục” và quan niệm rằng: “giáo dục - đào tạo là nhân tố cốt yếu, động lực thúc đẩy đất nước phát triển”. Chính vì vậy, ngay từ thời Lê, Thân Nhân Trung đã khẳng định: “Hiền tài là nguyên khí của đất nước. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà vươn cao; nguyên khí suy thì thế nước yếu mà xuống thấp. Bởi vậy, các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc gây dựng người tài, kén chọn kẻ sĩ, bồi đắp nguyên khí là việc làm đầu tiên” [17, tr.84]. Kế thừa và phát huy truyền thống trọng giáo dục, trọng nhân tài của ông cha ta, kể từ khi nước nhà ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn quan tâm tới giáo dục và khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” vì sự phát triển đi lên của đất nước (trích trong Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VIII), bởi lẽ: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam” [10, tr.77]. Cùng với vai trò quan trọng đó, Đảng đã xác định 3 mục tiêu tiên quyết của 1
  8. sự nghiệp giáo dục đó là: “nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài” trong đó, phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu có ý nghĩa hàng đầu. Trung du và Miền núi phía Bắc Việt Nam nằm ở phía Bắc của đất nước, là nơi sinh sống tập trung của các dân tộc thiểu số với trình độ phát triển khác nhau và có vị trí quan trọng đối với lịch sử của dân tộc. Trong thời kì đổi mới, cùng với nhân dân miền Bắc, nhân dân các dân tộc trên địa bàn của khu vực đã đóng góp hết sức mình vào công cuộc đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Thành tựu mà miền Bắc đạt được trong thời kì này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có sự đóng góp không hề nhỏ của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa miền Bắc nói chung và giáo dục ở các tỉnh Trung du và Miền núi phía Bắc nói riêng. Hơn nửa thế kỷ qua, nền giáo dục nước ta nói chung và thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc nói riêng, đặc biệt là sau công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa 1986 thì sự nghiệp giáo dục nước ta cũng đang có những bước phát triển quan trọng cả về chất và lượng. Những thành tựu đó góp phần vào việc “nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo nguồn lực có chất lượng cao cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới toàn diện đất nước”. Mặc dù đạt được nhiều kết quả tốt như vậy nhưng nền giáo dục Việt Nam đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập như: “cơ sở vật chất - kĩ thuật còn lạc hậu, chưa đảm bảo, thiếu; chất lượng giáo dục còn kém, nhu cầu học tập cũng như điều kiện để phát triển giáo dục giữa các vùng miền có sự chênh lệch lớn, sự mất cân đối về tình hình biết đọc, biết viết, tình hình đi học, trình độ học vấn, trình độ khoa học kĩ thuật, số lượng giáo viên còn thiếu v.v ”, đặc biệt ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc còn tồn tại khá rõ nét so với các vùng miền khác trong cả nước. Trước những thành tựu và thách thức nói trên, yêu cầu đặt ra cho nền giáo dục nước ta nói chung và cả ngành giáo dục của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc nói riêng là cần nắm rõ thực trạng giáo dục của từng vùng, miền và của cả nước để kịp thời đưa ra các giải pháp mang tính chất đột phá cả về quy mô cũng như chất lượng giáo dục. Mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục trong giai đoạn 1986 đến nay, cùng với số liệu đề cập khá rõ ràng của Tổng cục thống kê Việt Nam qua các năm nhưng vẫn chưa có một công trình sử học nào trình bày một cách có hệ 2
  9. thống, toàn diện thực trạng của giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc Việt Nam trong giai đoạn (1989 – 2009). Với lý do đó, tác giả đã chọn “Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 2009)” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nhận thức rõ vai trò đặc biệt quan trọng của sự nghiệp giáo dục trong quá trình phát triển của đất nước nên vấn đề giáo dục luôn là đề tài nhận được sự quan tâm, chú ý của nhiều tác giả, các công trình nghiên cứu khai thác ở các khía cạnh khác nhau đã được thực hiện, đặc biệt là từ sau năm 1986. Một số công trình nghiên cứu về giáo dục Việt Nam đã được thực hiện như: Cuốn sách: “Tổng kết đánh giá 15 năm đổi mới giáo dục (1986 – 1996)” của Bộ Giáo dục và Đào tạo được ban hành năm 1996. Công trình này tập hợp những báo cáo của các địa phương sau 10 năm tiến hành đổi mới giáo dục và được trình bày một cách cụ thể và có hệ thống. Cuốn sách “Giáo dục Việt Nam 1945-2005, tập I” của Bộ Giáo dục và Đào tạo xuất bản năm 2000. Công trình đã mô tả bức tranh về hoạt động giáo dục của cả nước từ bậc mầm non cho tới đại học theo từng giai đoạn lịch sử; quá trình xây dựng và phát triển của giáo dục ở từng vùng tự do, tạm chiến, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; những đóng góp của công tác giáo dục đối với cuộc kháng chiến của dân tộc; các cuộc cải cách giáo dục trong lịch sử. Ngoài ra, công trình còn đề cập đến sự hình thành, phát triển của ngành giáo dục ở các tỉnh, thành phố trong cả nước theo từng giai đoạn lịch sử. Tuy nhiên, nội dung trình bày mang tính chất khái lược giáo dục của các vùng miền trong cả nước là chủ yếu chứ không cụ thể của một vùng miền nào đó. Chính vì vậy, lượng thông tin về tình hình giáo dục của các địa phương ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2009 rất hạn chế. Cuốn sách: “Giáo dục Việt Nam 1945 – 2010” của tác giả Phạm Minh Hạc được xuất bản năm 2000. Cuốn sách gồm 2 tập giúp chúng ta có được một cái nhìn tổng quát về quá trình xây dựng, từng bước trưởng thành của nền giáo dục nước nhà; đồng thời nêu được những nét đặc trưng của sự nghiệp giáo dục của các tỉnh thành qua các thời kì lịch sử. Cuốn sách: “Sơ thảo giáo dục Việt Nam (1945-1992)” của Bộ Giáo dục và Đào tạo xuất bản năm 2005 đã đề cập có hệ thống, chi tiết các ngành học diễn ra từ 3
  10. năm 1945 đến 1995. Trong từng ngành học, cuốn sách trình bày về: lịch sử hình thành, cách thức tổ chức quản lí, chương trình học, loại hình đào tạo cũng như những đóng góp của từng ngành học đối với xã hội; vấn đề giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước, vấn đề hợp tác trong lĩnh vực giáo dục v.v Tuy nhiên, công trình cũng mới dừng lại ở mức độ khái quát về giáo dục của cả nước nói chung nên giáo dục ở miền núi phía Bắc nói riêng không trình bày cụ thể, rõ nét. Cuốn sách: “50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo (1945-1995)” của Bộ giáo dục và Đào tạo xuất bản năm 2006. Công trình mô tả bức tranh tương đối toàn diện về sự phát triển của ngành giáo dục Việt Nam từ khi nước ta giành được độc lập, tự do năm 1945 đến những năm bắt đầu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước năm 1995. Đồng thời, công trình cũng mô tả một cách khá chi tiết và có hệ thống từ các ngành học cho đến việc xây dựng, phát triển giáo dục ở các vùng trong cả nước. Đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu có đề cập tới giáo dục ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã được xuất bản như: Cuốn sách “Một số vấn đề kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc” của Viện Dân tộc học xuất bản năm 2007. Công trình đã tổng hợp các bài viết của nhiều nhà khoa học, trong đó đề cập đến nhiều nội dung: dân cư và lao động; phát huy các thế mạnh để phát triển kinh tế, thế yếu của các tỉnh miền núi phía Bắc; phát triển văn hóa và giáo dục, kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng ở các tỉnh miền núi. Cuốn sách cũng nêu lên thực trạng, khó khăn, tiềm năng của các tỉnh miền núi phía Bắc; đề ra các biện pháp nhằm xây dựng, phát triển miền núi trên các lĩnh vực, trong đó có giáo dục. Cuốn sách Lịch sử giáo dục Việt Nam (năm 2008), Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội của tác giả Bùi Minh Hiền đã trình bày có hệ thống các giai đoạn phát triển của giáo dục Việt Nam, đồng thời cũng xác định mục tiêu, định hướng nhằm phát triển giáo dục Việt Nam trong thời kì mới. Ở Việt Nam xu hướng nghiên cứu về thực trạng, thành tựu, hạn chế, những biện pháp, đề xuất cải tổ, đưa ra các định hướng là một xu hướng chung được giới nghiên cứu lựa chọn nhiều để làm đề tài nghiên cứu của mình. Trong suốt chiều dài lịch sử của sự nghiệp giáo dục nói chung và từ sau khi đổi mới đất nước 1986 đến năm 2000 nói riêng, trên các tạp chí văn hóa - xã hội và giáo dục đề cập khá nhiều, với mật độ bài viết dày đặc, có thể kể đến các tạp chí như: Tạp chí giáo dục, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, Tạp chí khoa học hay Tạp chí khoa học xã hội Các bài viết về giáo dục trên các tạp chí này có giá trị to lớn như một công trình khảo cứu góp một 4
  11. phần tư liệu chuyên sâu về giáo dục Việt Nam từ khi cả nước bước vào thời kì đổi mới đất nước. Có thể thấy rằng, các công trình nghiên cứu về lịch sử ngành giáo dục nói chung và giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc còn khá ít nói riêng là những nguồn tư liệu quan trọng giúp tác giả có thể tìm hiểu, nghiên cứu, sử dụng để thực hiện đề tài: “Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 2009)” của mình. Tuy nhiên tính đến hiện tại, vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào thuộc mã ngành Lịch sử Việt Nam, trình bày một cách có hệ thống về thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 - 2009). 3. Đối tƣợng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc từ 1989 đến 2009. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, khóa luận cần tập trung vào những nhiệm vụ sau: những yếu tố tác động tới nền giáo dục của khu vực: tình hình kinh tế - xã hội; chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục và quá trình thực hiện chủ trương trên được áp dụng ra sao để thấy được thực trạng giáo dục của khu vực, từ đó nhận xét thành tựu và hạn chế của giáo dục trong những năm thực hiện đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt từ năm 1989 trở đi khi hệ thống giáo dục phổ thông thống nhất 12 năm trên toàn quốc. Đồng thời, chỉ ra được một số tác động của giáo dục đến kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 2009). 3.3. Phạm vi nghiên cứu Về mặt nội dung: Khóa luận tập trung nghiên cứu những yếu tố tác động đến giáo dục; thực trạng của giáo dục; những thành tựu, hạn chế của giáo dục; tác động của giáo dụ đến khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc từ năm 1989 - 2009. Về không gian: Khóa luận nghiên cứu về thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc, theo quy định của Tổng cục Thống kê gồm có 13 tỉnh: Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Thái, Cao Bằng, Hà Bắc, Hòa Bình, Lào Cai, Quảng Ninh, Lai Châu, Sơn La, Vĩnh Phúc, Lạng Sơn, Yên Bái. 5
  12. Về mặt thời gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu về thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc từ năm 1989 đến năm 2009. Năm 1989 là thời điểm quan trọng đối với lịch sử Việt Nam kể từ sau ngày nước nhà thống nhất, 2 miền Nam, Bắc sum họp một nhà. Lúc này nền kinh tế Việt Nam đã chuyển hẳn từ chế độ “quan liêu bao cấp” sang cơ chế thị trường. Đồng thời, sau khi nước nhà thống nhất đến năm 1989, thì hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm trên toàn quốc mới được thống nhất, mà trước đó giáo dục hai miền Nam, Bắc khác nhau: từ năm 1954, ở miền Bắc, Nhà nước áp dụng hệ thống giáo dục phổ thông 10 năm, còn ở miền Nam là 12 năm. Năm 2009 là năm đất nước hoàn thành những nội dung cơ bản của chiến lược phát triển giáo dục trong thời kì đổi mới và đề ra những định hướng, biện pháp phát triển cho ngành giáo dục giai đoạn 2009 - 2020. Đồng thời cũng là năm mà Tổng cục thống kê của Bộ kế hoạch và đầu tư đã thực hiện Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009, trong đó có chuyên khảo giáo dục Việt Nam - đó là nguồn tài liệu thống kê hữu ích cho việc nghiên cứu. 4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tư liệu Nguồn tư liệu mà tác giả sử dụng gồm có nguồn tư liệu gốc và các nguồn tư liệu khác cụ thể như sau: Nguồn tư liệu gốc quan trọng và sử dụng chủ yếu nhất trong khóa luận chính là các tư liệu, số liệu được khai thác từ Niên giám thống kê của Tổng cục Thống kê qua các năm như 1989, 1992, 1995, 2000, 2009 ; Chuyên khảo giáo dục Việt Nam lấy 15% số liệu mẫu từ cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 và từ hai cuộc tổng điều tra trước đó là 5% năm 1989 và 3% năm 1999 của Tổng cục thống kê. Nguồn tài liệu này cho ta biết những số liệu chính xác và bao quát nhất về tình hình giáo dục cả nước. Dựa vào đó tác giả có cơ sở để phục dựng lại bức tranh về thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc từ năm 1989 đến năm 2009. Bên cạnh nguồn tư liệu gốc, khóa luận đã khai thác và sử dụng các tư liệu, văn kiện của Đảng trong những năm như: 1991 - 1995; 1996 - 2000; 2001 - 2005, 2006 - 2010. Nguồn tài liệu này cho tác giả biết các chủ trương, chính sách của Đảng đối với kinh tế - xã hội cũng như những đường lối, chủ trương về giáo dục nước ta từ sau đổi mới đến nay. 6
  13. Nguồn tư liệu tiếp theo đó là các công trình (sách, báo, báo cáo đánh giá, tổng kết ) của các nhà nghiên cứu, các tổ chức đã được công bố liên quan trực tiếp tới giáo dục cũng như các mặt khác như kinh tế - xã hội. Qua các nguồn tư liệu này, tác giả có cái nhìn sâu sắc, thấu đáo hơn về quá trình chuyển mình của đất nước trên các lĩnh vực. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các luận văn, luận án cùng với các tạp chí, tác phẩm, bài viết của nhiều tác giả viết có liên quan đến đề tài. Trên cơ sở các nguồn tư liệu đa dạng và phong phú nêu trên, đã góp phần rất lớn cho tác giả trong việc thực hiện đề tài. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng. Lịch sử và lôgic và hai phương pháp chủ đạo được tác giả sử dụng trong quá trình nghiên cứu và trình bày khóa luận. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp khác như: phân tích và tổng hợp, thống kê, vẽ biểu đồ, so sánh, để làm rõ thực trạng và nhận xét về giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong những năm 1989 – 2009. 5. Đóng góp của khóa luận Thứ nhất, khóa luận phác họa lại có hệ thống bức tranh thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc từ năm 1989 đến năm 2009. Thứ hai, khóa luận góp phần tìm hiểu những thành tựu, hạn chế của giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc nói riêng. Thứ ba, khóa luận góp phần thấy được tác động của giáo dục đến kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 2009). Cuối cùng, khóa luận góp phần bổ sung và làm phong phú thêm nguồn tài liệu lưu trữ nhằm phục vụ quá trình nghiên cứu, giảng dạy và đánh giá, tổng kết về lịch sử Việt Nam trong giai đoạn tiến hành đổi mới cũng như lịch sử giáo dục Việt Nam nhất là giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc thời kì sau đổi mới. 6. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo của khóa luận thì khóa luận được cấu trúc thành 2 chương: 7
  14. Chương 1: Giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989- 1995) Chương 2: Giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996- 2009). 8
  15. Chƣơng 1 GIÁO DỤC Ở KHU VỰC TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC (1989 - 1995) 1.1. Những nhân tố tác động đến giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong những năm 1989 - 1995 Khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc tính đến năm 1991 có 13 tỉnh, bao gồm Hà Giang, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Vĩnh Phú, Cao Bằng, Bắc Thái, Lạng Sơn, Lai Châu, Hòa Bình, Yên Bái, Sơn La, Lào Cai, Hà Bắc. Tổng dân số trung bình cả nước là 67774,1 nghìn người, trong đó dân số trung bình khu vực là 11565,8 nghìn người [21, tr.9]. Vùng tập trung chủ yếu là dân tộc ít người như: Tày, Nùng, Dao, Thái, Mường Đây không chỉ là nơi có vị trí chiến lược cách mạng quan trọng trong lịch sử đất nước mà nơi đây còn là vùng giàu tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, hệ sinh thái phong phú và đa dạng giúp phát triển nền kinh tế - xã hội. Sau khi đất nước tiến hành đổi mới năm 1986, được sự quan tâm sát xao của Đảng cùng với đó là mọi nỗ lực cố gắng của nhân dân các địa phương trên địa bàn của khu vực, đã đạt được những thành tựu vượt bậc trên nhiều lĩnh vực trong đó phải kể đến đó là giáo dục. 1.1.1. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trước năm 1989 Tính đến năm 1989, nước ta đã đi qua 3 cuộc cải cách giáo dục: cuộc cải cách lần thứ nhất diễn ra bắt đầu từ năm 1950, mục đích nhằm xây dựng một nền giáo dục của dân và vì dân; lần thứ 2 bắt đầu từ 1956, nhằm hướng tới đào tạo ra những thế hệ thanh niên có đủ năng lực và phẩm chất tốt, có cả đức và tài; và cuộc cải cách lần thứ 3 bắt đầu từ 1979, đã tiến hành cải cách toàn diện về mục tiêu, nội dung, nguyên lý, phương pháp và cơ cấu hệ thống giáo dục, đào tạo; đặc biệt trong thời gian này hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm đã được hình thành trong cả nước. Qua các đợt cải cách giáo dục nói trên, mỗi cuộc cải cách đổi mới giáo dục thì đều có nội dung, tính chất phù hợp với xu thế phát triển của đất nước nói chung và thế giới nói riêng, đã phản ánh kết quả khả quan cả về thành tựu cũng như hạn chế của công tác giáo dục nước nhà. Xét về mặt bằng chung của cả nước thì tỉ lệ biết chữ đã tăng lên đáng kể và tỉ lệ mù chữ đã dần giảm xuống ở mức tương đối, nhờ vậy phần nào đã xóa bỏ nạn mù 9
  16. chữ, nâng cao dần trình độ dân trí cho người dân được thể hiện rõ qua bảng số liệu dưới đây: Bảng 1: Tổng số ngƣời mù chữ từ 10 tuổi trở lên qua 2 đợt tổng điều tra dân số của nƣớc ta năm 1979, 1989 Đơn vị: nghìn người (%) Năm 1979 Năm 1989 Biết chữ Mù chữ Biết chữ Mù chữ Nam 16086 (90%) 1620 (10%) 19854 (93%) 15337 (7%) Nữ 15816 (84%) 1817 (19%) 20512 (84%) 3854 (16%) Tổng số 31902 (85%) 5437 (15%) 40366 (88%) 5391 (12%) Nguồn: Tổng cục Thống kê: Tổng điều tra dân số Việt Nam, “Kết quả điều tra mẫu” năm 1979, 1989. Nhưng điều đáng lo ngại ở đây là mặc dù tổng số người mù chữ trong cả nước không lớn nhưng phần đông trong số họ lại sinh sống tập trung ở những vùng xa xôi, hẻo lánh ở miền núi cao. Do vậy, tỷ lệ biết chữ của khu vực còn thấp so với các vùng khác trong cả nước. Chẳng hạn, ở Hà Giang, Tuyên Quang, tổng số người mù chữ trong độ tuổi 15 – 35 chiếm 34% nhưng con số tương tự ở những huyện vùng cao của tỉnh này đều trên 50% rất nhiều, Ở Tuyên Quang có nhiều xã trắng về giáo dục, số người mù chữ còn lớn. Trong năm học đầu tiên sau khi đất nước thống nhất 1975 – 1976, quy mô học sinh trong cả nước là 10.831 nghìn học sinh tham gia học tập ở cả ba cấp học. Đến năm 1985 – 1986 số học sinh tham gia học tập của cả nước đã lên đến 12.034 nghìn học sinh [19, tr.307]. Tuy nhiên ở khu vực miền xuôi, trẻ em trong độ tuổi đến trường tham gia học tập đạt khoảng 98% thì ở Miền núi, trung du chỉ đạt 80%. Số trẻ em trong độ tuổi đi học tập trung nhiều ở đồng bằng chiếm 70%, còn miền núi phía Bắc, mới có từ 50 – 60% số trẻ em đi học. Ở vùng cao, biên giới phía Bắc tỷ lệ này còn thấp hơn (từ 20 -30%), nhiều xã chỉ có đến lớp 2 từ nhiều năm nay. Đáng chú ý nhất là học sinh bị lưu ban còn chiếm tỉ lệ cao” [26, tr.3]. Tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học giữa các địa bàn, khu vực khác nhau cũng có sự chênh lệch. Ở những tỉnh thuộc khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa do điều kiện khó khăn về mọi mặt nên tỷ lệ này còn khá cao. Trái lại, ở những tỉnh, thành 10
  17. phố nơi có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển thì tỷ lệ này chỉ duy trì ở mức thấp hơn. Điều này đã được minh chứng qua một số tỉnh, thành phố điển hình như tại Hà Nội “tỷ lệ học sinh lưu ban và bỏ học lần lượt là 4,77% và 4,17%. Ngược lại ở các tỉnh miền núi như Hà Tuyên tỷ lệ này lần lượt là 8,65% và 25,79%, tại Lai Châu là 11,83%, và 30,36%” [20, tr.417]. Tại một số tỉnh, nhiều trường đã hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục tiểu học và đang đi vào giai đoạn phổ cập giáo dục cấp trung học cơ sở thì ở một số địa bàn thuộc các tỉnh thuộc khu vực Miền núi, trung du do điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn, vì vậy công việc phổ cập giáo dục tiểu học của vùng còn hạn chế. Điển hình ở một số tỉnh thuộc vùng miền núi, các tỉnh khu vực phía Bắc dao động trong khoảng 20 – 30%. Cũng có những xã trẻ em chưa học qua lớp 2 [4, tr.17]. Ở tỉnh Yên Bái vào những năm 1987 – 1988, học sinh cấp II bỏ học trên 22,4%. Cơ sở vật chất - kỹ thuật có những bước tiến lớn trong việc xây dựng, sửa chữa, nâng cấp và bảo vệ. Tính đến năm 1985 các tỉnh của khu vực đã có hàng vạn trường được xây dựng, rải khắp địa bàn của cả nước. Ở tỉnh Lạng Sơn trong năm học 1985 – 1986 đã có “17 trường cấp III ở tất cả các huyện, thị. Các xã đều có trường phổ thông cơ sở, trên địa bàn tỉnh có 9 trường phổ thông lao động, 3 trường dân tộc nội trú ở các huyện, 1 trường phổ thông lao động, 1 trường văn hóa tại tỉnh” [1, tr.222]. Tuy nhiên cơ sở vật chất, hệ thống trường, lớp nói chung sau năm 1975 vẫn còn nghèo nàn và thiếu thốn như hệ thống trường, lớp học kiên cố chưa có nhiều chủ yếu được xây dựng một cách tạm bợ, vật liệu xây dựng nên chủ yếu được làm từ tre, nứa, lá; số phòng, lớp học thiếu, trong khi đó số lượng học sinh ngày một tăng qua các năm, vì vậy học sinh phải học gộp hoặc tăng ca, có nơi còn một số trường học ba ca/ một ngày, lớp học thiếu ánh sáng, kích thức bàn ghế không tương xứng với người học ; cơ sở kĩ thuật phục vụ quá trình học tập của học sinh cũng như quá trình dạy học của giáo viên không được đảm bảo, còn thiếu thốn, nơi có ít dụng cụ thí nghiệm thì lại chưa dùng tốt, chưa bảo quản tốt. Chất lượng giáo dục còn kém, cách khá xa so với đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội. Ở các tỉnh, huyện miền núi xa xôi hẻo lánh thì nhiều khi số lượng sách giáo khoa thậm chí không có đủ cho học sinh, thiết bị dạy và học còn thiếu nhiều, nội dung chương trình mang tính truyền thống, nặng về lý thuyết hơn là thực tiễn, số lượng giáo viên căn bản còn thiếu trầm trọng, trình độ chưa cao, do vậy chất lượng giáo dục thấp hơn nhiều so với các vùng khác của cả nước, có những lúc 11
  18. chất lượng giáo dục không bao giờ vượt qua mức 30%, chỉ đạt tầm 25 cho đến 30% [17, tr.210]. Trong kí ức của mình, nhà giáo ưu tú Cao Văn Tư - nguyên Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lào Cai đã chia sẻ như sau: “những năm 80 và 90, đời sống kinh tế - xã hội ở Lào Cai rất khó khăn, gây trở ngại lớn cho sự nghiệp giáo dục. Ngày đó, số người mù chữ toàn tỉnh chiếm tới 52% dân số, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi ra lớp mới đạt 35,7%, đặc biệt toàn tỉnh có tới 14 xã trắng về giáo dục. Nhiều trường tiểu học ở vùng cao chỉ có lớp 1, lớp 2, rất ít trường hoàn chỉnh tới lớp 5. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất trường, lớp học hết sức thiếu thốn, chủ yếu là nhà tranh, vách đất, bàn ghế được ghép từ những thanh tre, nứa, vầu. Nhưng khó khăn nhất vẫn là số lượng đội ngũ giáo viên, bởi những năm 80 có nhiều giáo viên bỏ việc, chuyển vùng”[34]. Tựu chung lại, trước năm 1989 tình hình giáo dục của khu vực đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Năm 1975, nước ta hoàn thành thống nhất đất nước, tuy nhiên do hoàn cảnh chiến tranh trước và sau đó là chiến tranh Biên giới phía Bắc năm 1979, một số hệ thống trường lớp xây dựng trong thời kì trước đã bị phá hủy, không được cải tạo hoặc xây dựng lại do vậy không đáp ứng được nhu cầu học tập của học sinh đặc biệt là khi số lượng học sinh ngày càng tăng lên qua các năm, nó đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy và học. Ở các vùng sâu, vùng xa của khu vực do điều kiện kinh tế còn nghèo nàn, đời sống người dân vô cùng khổ cực cũng tác động một phần không nhỏ tới giáo dục, tình trạng lưu bạn, bỏ học diễn ra, công tác vận động học sinh đến trường còn nhiều khó khăn, số lượng trường lớp, giáo viên, trang thiết bị cũng như chính sách thu hút đầu tư còn nhiều hạn chế 1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong những năm 1989 – 1995 Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến lớn, sau gần 5 năm thực hiện đường lối đối mới (1986 – 1990), nước ta đã đạt được một số thành tựu cơ bản nhưng vẫn trong tình trạng lạc hậu, nghèo nàn. Trước tình hình đó, yêu cầu bức thiết đặt ra đối với lĩnh vực kinh tế - xã hội là phải cần phải thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới, nhằm mục đích phát huy những mặt mạnh, khắc phục những yếu kém, hoàn thành mục tiêu chiến lược đề ra. Trước những yêu cầu đó, tại Đại hội lần thứ VII (1991) Đảng ta đã tổng kết, đánh giá những kết quả mà giai đoạn trước đạt được, đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm 12
  19. vụ cho kế hoạch 5 năm tiếp theo (1991 – 1995). Tiếp đó, Đảng ta luôn bổ sung, thay đổi chính sách để phù hợp với tình hình mới. Mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 tiếp theo được Đảng xác định cần: “vượt qua thử thách, ổn định và phát triến kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay” [9]. Để thực hiện được mục tiêu đó, Đảng ta đã vạch ra định hướng chiến lược cho khu vực như sau: “Khu vực Trung du và Miền núi chuyển sang kinh tế hàng hóa, phát huy thế mạnh của vùng như thế mạnh lâm nghiệp; hình thành vùng chuyên canh cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, gắn với công nghiệp chế biến, phát triển chăn nuôi, khai khoáng. Đẩy mạnh việc khai thác khoáng sản và thủy năng, hình thành những trung tâm công thương nghiệp và đô thị gắn với các tổ hợp kinh tế lãnh thổ: than ở Đông Bắc, hóa chất, phân bón, luyện kim, điện ở Tây Bắc và trung du phía Bắc, thủy điện và khai khoáng ở Tây Nguyên. Riêng đối với khu vục miền núi, Nhà nước hỗ trợ về đầu tư, mở mang giao thông vận tải, bảo vệ môi trường, tài trợ cho y tế, giáo dục và đào tạo cán bộ người dân tộc, đồng thời thực hiện chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng, tiền lương để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”[8]. Mục đích cuối cùng nhằm thúc đẩy kinh tế vùng phát triển. Về chính sách xã hội, ta chủ trương thực hiện đồng bộ chiến lược dân số trên cả ba mặt: “quy mô, cơ cấu và sự phân bố dân số; giảm tỷ lệ tăng dân số mỗi năm khoảng 0,4 - 0,6 phần nghìn. Hướng giải quyết việc làm là sử dụng tối đa tiềm năng lao động; chú trọng phát triển những ngành thu hút nhiều lao động như nuôi trồng chế biến nông - lâm - thuỷ sản, hàng xuất khẩu Người lao động chủ động tìm và tạo ra việc làm” [11]. Thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng nêu trên, khu vực đã có một số chuyển biến rõ nét: Về kinh tế: Với sự cố gắng, nỗ lực vươn lên không chỉ ở ban lãnh đạo, mà điều trọng tâm là ở nhân dân, họ đã cùng nhau vượt qua những khó khăn, thử thách, nhằm phát huy được những thế mạnh của khu vực mình, tạo ra sự tăng trưởng nhanh trong đời sống kinh tế, xã hội của vùng. Ở một số địa phương đã xây dựng được các khu công nghiệp lớn, cùng với đó là sự xuất hiện của thị trấn, thị xã mọc lên ngày càng nhiều. Nhiều gia đình từ đồng bằng đã di cư lên miền núi sinh sống và lao động, họ đã đưa kỹ thuật canh tác 13
  20. mới vào sản xuất như thâm canh tăng vụ và một số ngành nghề tiểu thủ công. Dân cư của khu vực dần tiếp cận được những thành tựu của khoa học - kỹ thuật. Tuy nhiên, mức tăng trưởng kinh tế - xã hội tại địa bàn của khu vực còn rất thấp. Kinh tế phát triển chậm chạp, tình trạng tự do di chuyển định cư vẫn chưa được khắc phục; đại bộ phận dân cư trong vùng còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn trong đời sống sinh hoạt thường ngày; tình trạng nghèo đói, không được đi học do vậy nạn mù chữ chiếm số lượng lớn; bệnh dịch chưa được đẩy lùi, nhiều tiêu cực xã hội phát sinh. Trên địa bàn các tỉnh thành đã xuất hiện các khu kinh tế phát triển theo hướng quốc doanh đặc biệt là ở lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp, tuy nhiên năng suất còn thấp, chất lượng hiệu quả không cao; người dân địa phương thậm chí còn thiếu đất để canh tác trong khi đó tình trạng bao chiếm đất đai lại diễn ra phổ biến, đất chưa được sử dụng còn nhiều, tình trạng này đã gây ra mâu thuẫn; nạn chặt phá, khai thác rừng diễn ra bừa bãi và nghiêm trọng Cơ sở hạ tầng đặc biệt là đường giao thông đi lại ở miền núi, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa xôi hẻo lánh hệ thống đường qua lại chưa đảm bảo và còn trắc trở, nhiều tuyến đường chưa thông suốt và nối liền giữa các tỉnh, các vùng với nhau vì vậy đã kìm hãm việc giao lưu, trao đổi qua lại với nhau. Các điểm công nghiệp có quy mô tương đối lớn trong vùng đã được hình thành, hoạt động trên các lĩnh vực khai khoáng, than, công trình thủy điện, hóa chất, chế biến lâm sản, Tuy nhiên, chúng lại hoạt động một cách biệt lập, chưa lôi cuốn cả vùng phát triển. Về xã hội: Cơ cấu dân cư có nhiều biến đổi, tính đến năm 1995 dân số trung bình của khu vực là 9522,9 người [20]. Bảng 2: Cơ cấu dân số của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc 1991- 1995 Đơn vị % 1991 1992 1993 1994 1995 Đông Bắc 11,68 11,67 11,67 11,66 11,67 Tây Bắc 2,8 2,83 2,84 2,85 2,86 Nguồn: [22] 14
  21. Cơ cấu dân số qua các năm có nhiều thay đổi, tiểu vùng Đông Bắc có xu hướng giảm, so với năm 1991 thì tới năm 1995, cơ cấu dân số của tiều vùng giảm 0,1%, trong khi đó, tiểu vùng Tây Bắc thì cơ cấu dân số có xu hướng tăng, so với năm 1991 thì năm 1995 cơ cấu dân số của tiểu vùng tăng 0,6%, nguyên do của thực trạng này là do tình trạng du canh du cư, du canh định cư của những người miền xuôi lên khu vực miền núi sinh sống và lập nghiệp diễn ra phổ biến. Cơ cấu lực lượng lao động: Xét trong 7 vùng kinh tế của cả nước thì “Miền núi và Trung du phía Bắc có tỷ lệ người tham gia lao động với dân số toàn vùng cao nhất (năm 1995 là 70,37%); thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ chỉ đạt 62,45%” [20, tr.38]. Nhưng chính tỷ lệ này cũng phản ánh sự phát triển của từng khu vực, tùng vùng. Số lượng người tham gia lao động của vùng cao nhất cả nước nhưng chất lượng người lao động lại không cao đã làm ảnh hưởng một phần không nhỏ tới sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Nhìn chung, đường lối do Đại hội VII đề ra trong kế hoạch 5 năm (1991 – 1995) đã đạt được một số kết quả đáng khen ngợi, các mục tiêu chủ yếu của kế hoạch đã được thực hiện vượt mức. Đất nước đã ra khỏi tình trạng khủng hoảng, trì trệ về kinh tế, tạo tiền đề để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Nhưng thực tế nước ta vẫn đang ở trình độ phát triển thấp về kinh tế, văn hóa, xã hội. 1.1.3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục trong 10 năm đầu đổi mới Cùng với đường lối đổi mới về kinh tế - xã hội của Đảng thì chủ trương đổi mới giáo dục cũng được đề cập khá rõ trong giai đoạn này. Lúc này, ngành Giáo dục nước ta đang trong lúc thực hiện Nghị quyết 14 (1979) của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khoá IV về “cải cách giáo dục”. Một số việc đang triền khai như: chuyển giáo dục phổ thông sang hệ thống 12 năm thống nhất trong cả nước. Nghị quyết 14 (1979) đã vạch ra những quan điểm, mục tiêu dài hạn cho giáo dục ở nước ta, tuy nhiên, Nghị quyết 14 (1979) chưa nêu được các điều kiện thuận lợi cũng như mọi biện pháp khả thi để hoàn thành các mục tiêu đó, đồng thời quan niệm về giáo dục còn bị hạn chế bởi cách nhìn trước đây. Sau Đại hội VI (tháng 12/1986) của Đảng, để cuộc “cải cách giáo dục” đáp ứng được yêu cầu nói chung, chúng ta đã tiến hành điều chỉnh mục tiêu, nội dung chương trình, sách giáo khoa cũng như đổi mới về quan điểm và cách làm giáo dục. 15
  22. Những năm đầu của thời kỳ đổi mới, nền giáo dục nước ta đứng trước thực trạng: “Suy giảm số lượng và suy thoái về chất lượng trong giáo dục phổ thông; thiếu mối quan hệ chặt chẽ giữa đào tạo và việc làm trong giáo dục chuyên nghiệp; mạng lưới không hợp lý và thiếu mối quan hệ chặt chẽ giữa đào tạo với nghiên cứu, sản xuất, việc làm trong giáo dục đại học; đội ngũ giáo viên yếu về chất lượng và thiếu động lực làm việc; tài chính và cơ sở vật chất kỹ thuật thiếu thốn; tổ chức quản lý và pháp chế chưa thích hợp; hệ thống giáo dục đào tạo chưa phù hợp với xã hội đang chuyển đổi”[3]. Trước thực trạng trên, vấn đề đặt ra cho giáo dục lúc này là cần khắc phục những yếu kém đó, đổi mới phải làm sao cho hệ thống giáo dục góp phần đắc lực phục vụ sự nghiệp “công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Ngay từ đầu của thời kì đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời thay đổi tư duy và cách làm giáo dục, đề ra những chủ trương thích hợp trong giai đoạn chuyển đổi. Định hướng cụ thể đó là: "xây dựng ngành giáo dục mầm non, nâng cao chất lượng nuôi dạy trẻ em, phát triển lớp mẫu giáo xóa bỏ nạn mù chữ lại số địa phương, hoàn thành phổ cập cấp I cho trẻ em, phổ cập cấp II nơi có điều kiện, bước mở rộng giáo dục phổ thông trung học nhiều hình thức đẩy mạnh nghiệp giáo dục miền núi"[7, tr.33]. Trong Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII (1991) đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển. Trước mắt phải phổ cập cấp 1 nâng cao dân trí, đào tạo nghề cho phần lớn thanh niên, tăng nhanh số công nhân lành nghề, đào tạo nghề cho phần lớn thanh niên, tăng nhanh số công nhân lành nghề, đào tạo cán bộ nhiều trình độ, đặc biệt là cán bộ quản lý và kinh doanh, chuyên gia khoa học và công nghệ, chú ý phát triển bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài. Đổi mới nhanh cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo khoa học, công nghệ phù hợp với nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng XHCN gắn chặt với sự phát triển các lĩnh vực này với sản xuất và các mục tiêu kinh tế xã hội. Một mặt Nhà nước tăng đầu tư, mặt khác có chính sách để toàn dân, các thành phần kinh tế cùng làm và đóng góp vào sự nghiệp này. Hầu hết các nước, trước sự nghiệp phát triển của lực lượng sản xuất, đều phải tiến hành cải cách giáo dục để có đội ngũ lao động có trí tuệ thích ứng với bước tiến của khoa học công nghệ. Chúng ta phải có tổng kết cuộc cải cách giáo 16
  23. dục vừa qua để có chủ trương phù hợp cho thời gian tới. Đó là vấn đề chiến lược đồng thời cũng là vấn đề bức xúc cần giải quyết”[7, tr.121-122]. Mục tiêu phát triển giáo dục nhằm: “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Nhà trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng toàn diện và có năng lực chuyên môn sâu, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần"[7, tr. 122]. Nhiệm vụ của giáo dục 5 năm tới (1991 - 1995) là: “Tiếp tục đổi mới, ổn định phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Coi trọng chất lượng giáo dục chính trị, đạo đức cho học sinh và sinh viên; hiện đại hóa môi trường nội dung, phương pháp giáo dục; dân chủ hóa nhà trường và quản lí giáo dục; đa dạng hóa loại hình đào tạo và loại hình trường lớp, từng bước hình thành những trường bản công, dân lập, tư thục (dạy nghề), phát triển loại hình vừa học vừa làm. Mở rộng đào tạo nghề, bồi dưỡng nhiều người giỏi về khoa học, công nghệ, kinh doanh, về quản lí kinh tế, xã hội và nhiều công nhân lành nghề”[7, tr.66]. Về giáo dục phổ thông: “Tập trung thực hiện chương trình phổ cập giáo dục cấp 1 và chống mù chữ, phát triển cấp 2, cấp 3 phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế. Củng cố và phát triển trường phổ thông trẻ em có tật Tăng cường đầu tư cho giáo dục ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số, mở rộng các trường nội trú, quy hoạch đào tạo cán bộ và tri thức người dân tộc” [13, tr194]. Quan điểm chỉ đạo sự nghiệp phát triển giáo dục đào tạo trong giai đoạn này đã được Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương khóa VII diễn ra vào tháng 01/1993, ra Nghị quyết về “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo” nêu lên 4 quan điểm chỉ đạo đó là: “ + Giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ được xem là quốc sách hàng đầu, phải coi đầu tư giáo dục và đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển; huy động toàn xã hội góp sức xây dựng giáo dục. + Giáo dục phải nhằm nâng cao dân chí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành những con người có chất lượng mới, những con người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo. Phải mở rộng quy mô, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. 17
  24. + Giáo dục phải gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại, phải được tổ chức để mọi người đều được học hỏi và học thường xuyên suốt đời. + Đa dạng hóa hình thức giáo dục đào tạo, đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục; người đi học nói chung phải đóng học phí; người sử dụng lao động thông qua đào tạo phải đóng góp chi phí cho đào tạo; Nhà nước có chính sách bảo đảm cho người nghèo và các đối tượng chính sách đều được đi học” [13, tr194]. Như vậy, chủ trương lớn, bao trùm, chi phối toàn bộ quá trình đổi mới giáo dục - đào tạo nước ta trong hơn 10 năm qua là “chuyển đổi hệ thống giáo dục quốc dân từ mục tiêu phục vụ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN” [13, tr 95]. Với những quan điểm chỉ đạo trên, có thể khẳng định Đảng thật sự quan tâm và chú trọng đến sự nghiệp giáo dục của đất nước, không chỉ riêng một khu vực nào đó mà là công tác chiến lược cho từng địa bàn và của cả nước. 1.2. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 1995) Thực hiện các mục tiêu và phương hướng về giáo dục mà Đảng và Nhà nước ta đề ra qua các kì Đại hội, được áp dụng chung trong cả nước; cùng với đó là tác động không nhỏ của kinh tế - xã hội của khu vực trong giai đoạn này. Đồng thời, năm 1989 – 1995 là thời kì đang tiến hành đổi mới toàn diện giáo dục phổ thông ở các cấp học thì giáo dục trên địa bàn các tỉnh thành của khu vực có những nét chuyển biến mới. 1.2.1. Về mở rộng quy mô hệ thống giáo dục các cấp Về quy mô trường, lớp học các cấp Mẫu giáo: số lượng trường, lớp học ngày càng tăng lên qua các năm cho thấy dấu hiệu huy động học sinh đến lớp ngày càng tăng. Tính đến năm học 1991 – 1992, số lượng trường, lớp học của khu vực đã tăng lên đáng kể, lần lượt là 968 trường, 9151 lớp học. Trong đó, tỉnh Vĩnh Phú là nơi có số lượng trường lớp nhiều nhất, ngược lại Hà Giang, một tỉnh miền núi xa xôi, số lượng trường lớp còn hạn chế chỉ có tất cả 4 trường mầm non với 47 lớp học. Đến năm học 1995 – 1996 thì đã tăng lên 1055 trường với 12031 lớp học đáp ứng số lượng học sinh ngày một tăng. 18
  25. Tuy nhiên, trong số các tỉnh của khu vực số lượng trường, lớp tăng lên thì có những tỉnh lại thu hẹp số trường lớp, điển hình là Lạng Sơn và Yên Bái. Tiểu học và Trung học cơ sở: tổng số trường tính đến năm học 1991 – 1992 của khu vực là 3798 trường phổ thông cơ sở, trung học là 250 trường. Đến năm học 1995 – 1996, số lượng tăng lên tương ứng là 4360 và 283. Mỗi năm số lượng trường lớp một tăng ở mức tương đối, đặc biệt ở cấp phổ thông tiểu học tăng 562 trường so với năm 1991. Trường học được xây dựng khang trang với số lớp và phòng học tăng đáng kể. Bảng 1. Số lớp học phổ thông năm học 1991 – 1992 và năm học 1995 – 1996 của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc Tổng số Phổ thông cơ Phổ thông cơ sở Phổ thông trung sở cấp I cấp II học 1991 – 1992 65935 51384 12564 1988 1995 – 1996 88876 66064 19222 3590 Nguồn: Tổng cục thống kê: Niên giám thống kê năm 1992, 1995 Số trường, lớp ở cấp Tiểu học chiếm số lượng nhiều nhất so với các cấp học khác của khu vực, năm học 1991 – 1992 chiếm tới 78% , trong khi đó cấp Trung học cơ sở (19,1%) và Trung học phổ thông (21,1%) chiếm tỉ lệ thấp. So sánh với các vùng khác trong cả nước thì số lượng trường, lớp của khu vực ở thời điểm này đạt mức cao, trong đó, Đồng bằng sông Cửu Long có tổng số trường, lớp học cao nhất cả nước, Tây Nguyên thấp nhất. Trung học chuyên nghiệp: số lượng trường học nhiều nhất nhì cả nước, tính đến năm học 1991 – 1992 khu vực có tất cả 57 trường, tuy nhiên sự phân bố không đều, có tỉnh lại không có trường trung học chuyên nghiệp nào điển hình là tỉnh Yên Bái và Hòa Bình, trái lại ở tỉnh Vĩnh Phú lại có tới 10 trường. Đại học và Cao đẳng: càng lên trình độ cao thì số lượng trường càng ít, tính đến năm học 1991 – 1992, khu vực có tất cả 11 trường. Nếu so quy mô trường học của khu vực với các khu vực khác ở miền Bắc nói chung thì số lượng trường tập trung nhiều nhất ở khu vực Đồng bằng sông Hồng với 43 trường, phân bố thưa dần 19
  26. thậm chí không có cơ sở nào ở các tỉnh miền núi cao, nơi điều kiện còn nhiều khó khăn, học sinh không có điều kiện đến trường, nhận thức còn chưa cao. Về số lượng học sinh, giáo viên của các cấp Quy mô đào tạo ngày một tăng lên, có thể nói trong những năm 1991 số lượng học sinh tăng lên rất nhiều so với trước. Năm học 1991 - 1992 cả nước là 12371,4 nghìn người, trong đó khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc là 2008,9 nghìn người thì đến năm 1995 -1996 cả nước đã lên tới 15561,0 nghìn người, thì khu vực chiếm tới 2769,9 nghìn người, tăng 761 nghìn người so với trước. Khi số lượng trường lớp học xây dựng ngày càng nhiều qua các năm thì chứng tỏ một điều rằng số lượng học sinh tăng qua các năm, khi số lượng học sinh tăng thì đòi hỏi số lượng giáo viên dạy cũng phải tăng lên để có thể đáp ứng nhu cầu dạy và học của học sinh. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tương hỗ với nhau, khi cầu tăng thì cung tăng. Mầm non: số lượng trẻ em đến lớp từ sau khi thực hiện chủ trương cải cách giáo dục thì hầu như trẻ em đều được đến trường, và số lượng giáo viên dạy trẻ tăng dần qua các năm, điển hình là từ năm 1991 trở đi. Bảng 2. Số lƣợng học sinh và giáo viên mẫu giáo năm học 1991 – 1992 và năm học 1995 – 1996 của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc Năm Học sinh Giáo viên 1991 – 1992 227594 11043 1995 – 1996 313999 14267 *Nguồn: Tổng cục Thống kê: Niên giám Thống kê năm 1991, 1995 Nhìn chung số lượng học sinh và giáo viên của khu vực tăng đáng kể qua các năm, và ở mức tương đối cao, trong đó, khu vực Đồng bằng sông Hồng số lượng này đạt mức cao nhất cả nước lần lượt là 391226 học sinh và 19874 giáo viên. Cho thấy rằng số lượng học sinh tập trung đông đúc ở đồng bằng, nơi có điều kiện thuận lợi cả về mặt tự nhiên và kinh tế - xã hội. Tại khu vực số lượng học sinh và giáo viên thưa thớt dần, điển hình nhất là tỉnh Hà Giang, một tỉnh thuộc miền núi xa xôi, 20
  27. số lượng học sinh và giáo viên ở mức thấp nhất so với các tỉnh trong khu vực cũng như với các tỉnh khác trong cả nước, lần lượt là 2175 học sinh và 71 giáo viên. Như vậy, điều này cũng đáng nói lên là tình trạng dân cư nước ta phân bố không đồng đều, mất cân đối giữa các vùng trong cả nước. Phổ thông: ở Phổ thông cơ sở cấp I, học sinh đến trường ở mức cao nhất so với các cấp học khác, càng lên cấp học cao hơn thì số lượng học sinh giảm dần. Tuy nhiên kể từ năm 1991 trở đi, số lượng học sinh đi học ở các cấp đã tăng lên qua các năm so với giai đoạn trước đó. Bảng 3. Học sinh phổ thông năm học 1991 – 1992 và năm học 1995 – 1996 của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc Đơn vị: Nghìn người Năm Tổng Phổ thông cơ sở Phổ thông cơ sở Phổ thông trung cấp I cấp II học 1991 – 1992 2008,9 1543,9 392,5 72,5 1995 – 1996 2769,9 1899,0 711,4 159,6 *Nguồn: Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 1992,1995 So sánh số học sinh phổ thông giữa các cấp có sự chênh lệch nhau lớn, số lượng học sinh Tiểu học năm học 1991 - 1992 chiếm tới 76,9%, trong khi đó, ở cấp THCS chỉ chiếm 19,5% và cấp THPT chiếm 3,6%. Đến năm 1995, số lượng học sinh có sự xê dịch nhẹ, học sinh cấp THCS và THPT đã tăng lên so với năm học trước đó, đó là điều đáng mừng, khi dần dần học sinh qua cấp học I để học lên trình độ nhận thức cao hơn của các cấp học sau đó. Trong đó, cấp Tiểu học chiến 68,8%, cấp Trung học cơ sở chiếm 25,7%, Trung học phổ thông là 5,8%. Giữa các tỉnh của khu vực, số lượng học sinh có sự chênh lệch lớn, đặc biệt ở vùng núi cao, trong đó điển hình là tỉnh Hà Giang số lượng học sinh đi học ở các cấp thấp nhất so với các tỉnh khác. Điều này đặt ra đòi hỏi chủ trương của Đảng cần tập trung hơn vào khu vực còn nhiều khó khăn để có những bước chuyển biến tích cực hơn nữa. Mặc dù so với giai đoạn trước thì có tăng nhưng không đáng kể. Như vậy, nhìn chung số học sinh ở cả 3 cấp phổ thông đã phát triển theo xu hướng tăng, năm sau tăng cao hơn năm trước, đặc biệt từ năm 1992 trở đi. Tuy 21
  28. nhiên, số học sinh phổ thông chỉ phát triển ở cấp TH, THCS đến THPT số học sinh bỏ học nhiều không theo học tiếp. Đây là biểu hiện không tốt trong giáo dục. Trình độ dân trí không tương ứng với tỷ lệ dân số ở từng độ tuổi và như vậy để nâng cao trình độ dân trí phổ cập trung học cơ sở phải có một sự phấn đấu tích cực mới đạt được. Số học sinh trung học chuyên nghiệp, học nghề và học sinh đại học, cao đẳng: Học sinh phổ thông sau khi tốt nghiệp trung học sẽ tiếp tục theo học ở các dạng đào tạo nghề chuyên môn. Đây là sự phân luồng đào tạo nghề cho thanh niên và lực lượng lao động xã hội phục vụ trong các lĩnh vực của xã hội sau này. Từ năm 1989 đến năm 1995, quy mô số lượng học sinh trung học chuyên nghiệp có tăng nhưng không đều, còn chậm, trong đó năm 1991 là 20113 người, đến năm 1995 số học sinh mới tăng lên 21042 người, tuy nhiên giữa các tỉnh của khu vực số lượng học sinh trung học chuyên nghiệp ở nhiều tỉnh giảm lớn nhưng cũng có một vài tỉnh số lượng học sinh tăng lên tuy nhiên không nhiều. Bắc Thái1 là một điển hình, số học sinh trung học chuyên nghiệp năm 1992 là 4250 người, đến năm 1995 đã giảm đi còn 3300 người. Trước kia một vài tỉnh như Lào Cai, Hòa Bình số học sinh trung học chuyên nghiệp thậm chí chưa có số liệu, tuy nhiên đến năm 1995 thì đã có vài trăm người đi học. Còn ở cấp học đại học và cao đẳng, quy mô học sinh đại học, cao đẳng tăng dần lên hàng năm, năm 1991 số học sinh đại học và cao đẳng của khu vực là 6307 người, thì đến năm 1995 đã tăng lên 10842 người. Qua phân tích trên cho thấy xu thế của xã hội về việc chọn nghề của thanh niên sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông chỉ muốn vào học đại học, cao đẳng, học không muốn học các trường trung học chuyên nghiệp. Nếu không vào học đại học chính quy các trường công lập thì họ sẽ vào học các trường dân lập, hoặc học hệ không chính quy, họ không muốn vào học các trường dạy nghề. Nguyên nhân của thực trạng đó bắt nguồn từ nhận thức chưa đúng của xã hội, học cho rằng bậc đại học, cao đẳng mới có thể xin được việc làm tốt, nhiều cơ hội đến , mặt khác những chính sách về lao động, tiền lương đã tác động lớn trong việc chọn ngành nghề của thanh niên. Đây cũng là một yếu tố tác động đến sự phân bố lực lượng lao động của xã hội, chính vì vậy cần phải có kế hoạch đào tạo nhằm mục đích đảm bảo tỷ lệ cân đối giữa các bậc học, giữa các cơ cấu thành phần lao động xã hội. Và để chuẩn bị cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải 1 Năm 1996, tỉnh Bắc Thái tách ra thành 2 tỉnh là: Bắc Kạn và Thái Nguyên 22
  29. có công tác tuyên truyền, hướng nghiệp để phân luồng học sinh chuẩn bị thi tốt nghiệp. Để đáp ứng yêu cầu dạy và học của học sinh thì số lượng giáo viên giảng dạy trực tiếp của các cấp bậc cũng đã tăng qua từng năm so với giai đoạn trước 1989. Bảng 4. Giáo viên trực tiếp giảng dạy phổ thông năm học 1991 -1992 và năm học 1995 - 1996 của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc Đơn vị: người Năm học Tổng Phổ thông cơ Phổ thông cơ Phổ thông cơ sở cấp I sở cấp II sở cấp III 1991 – 1992 79217 50458 23119 5640 1995 – 1996 99099 62926 29610 6563 *Nguồn: Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 1992,1995 Trong tổng số giáo viên trực tiếp giảng dạy cho các lớp thì, đội ngũ giáo viên tập trung nhiều nhất ở phổ thông cơ sở cấp I và quy mô phát triển tương đối ổn định, số lượng đó gấp 2 lần so với các cấp II và gấp 9 lần so với cấp III. Nguyên nhân là do số lượng học sinh ở các cấp cũng chênh lệch nhau khá lớn vì vậy mà số lượng giáo viên cũng có sự chênh lệch giữa các cấp cũng như giữa các tỉnh trong vùng, ở vùng trung du số lượng giáo viên và học sinh bao giờ cũng cao hơn ở các tỉnh miền núi, tính đến năm 1995 tỉnh Hà Bắc, Vĩnh Phú thì số giáo viên trực tiếp giảng dạy của các cấp chiếm tỉ lệ gấp bốn lần so với các tỉnh ở miền núi như Lào Cai, Lai Châu. Trong đó, ở cấp tiểu học đã chiếm quá nửa số lượng giáo viên Như vậy chứng tỏ học sinh ở cấp tiểu học phát triển đều hơn và thực tế, phần lớn ở lứa tuổi này học sinh được đi học, nhưng sang cấp THCS thì tỷ lệ này giảm đi và lên cấp THPT lại càng giảm nhiều. Do đó, số lượng giáo viên cũng phụ thuộc vào số lượng học sinh, trước tình hình đó yêu cầu đặt ra là cần phải thay đổi chính sách phát triển giáo dục các cấp của vùng để có sự phân bố đều của quá trình dạy và học ở các tỉnh trong vùng. Ở cấp Trung học chuyên nghiệp và Đại học, Cao đẳng số lượng giáo viên của khu vực giảm, tuy nhiên, giữa các tỉnh trong vùng lại có bước chuyển biến như sau: ví dụ năm 1991 số lượng giáo viên của tỉnh Yên Bái ít chỉ có 68 giáo viện hệ đại học, cao đẳng thì đến năm 1995 đã tăng lên 97 người, đổi lại các tỉnh trước kia số lượng giáo viên nhiều thì nay số lượng giảm xuống, ví dụ Bắc Thái năm 1991 là 23
  30. 1299 người thì đến năm 1995 đã giảm xuống còn 889 người. Điều đó, cho thấy sự phân bố giáo viên của khu vực đã từng bước được phân bố dải đều khắp các tỉnh chứ không tập trung ở một tỉnh vào đó. Như vậy, qua những phân tích trên ta có nhận xét chung từ năm 1992 trở đi quy mô giáo viên tăng dần lên cùng với số lượng học sinh phổ thông tăng. Những năm về sau tỷ lệ tăng của giáo viên tương đối ổn định, đáng chú ý hơn là từ năm 1992 trở đi quy mô giáo viên cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông, hàng năm tăng lên đáng kể. Nguyên nhân có thể kể đến đó là do Đảng đã quan tâm đặc biệt tới giáo dục, đưa ra các chính sách cụ thể cho ngành giáo dục như thực hiện chính sách phổ cập tiểu học, chính sách phát triển giáo dục vùng miền núi, tăng ngân sách cho các tỉnh các chế độ phụ cấp giảng dạy cho giáo viên. Đồng thời, kinh tế đất nước phát triển, giáo dục được quan tâm cho nên đội ngũ giáo viên hàng năm tăng dần và tương đối ổn định. 1.2.2. Một số chuyển biến về chất lượng giáo dục ở các cấp học Học sinh - chủ nhân tương lai của đất nước, người quyết định đến vận mệnh của đất nước cho nên việc đầu tư cho giáo dục chính là nguồn đầu tư đem lại lợi nhuận có thể nói là cao nhất cho đất nước, do vậy Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng, quan tâm sát sao tới nền giáo dục của nước nhà. Trong những năm trở lại đây, giáo dục của khu vực đã có những khởi sắc so với giai đoạn trước, tỷ lệ học sinh đến trường ngày càng nhiều và chất lượng cũng khá hơn; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp của các cấp học so với tổng số học sinh dự thi đạt kết quả đáng khen ngợi. Bảng 5. Học sinh tốt nghiệp phổ thông năm học 1991-1992 và năm học 1995-1996 của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc Đơn vị: % Năm Phổ thông tiểu học Phổ thông trung Phổ thông trung học cơ sở học 1991 – 1992 94,5 94,8 95,6 1995 – 1996 95 96,4 94,2 Nguồn: Tổng cục Thống kê, “Niên giám thống kê năm 1992,1995” Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy rõ tỷ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông qua các năm của khu vực tăng dần, mặc dù phần trăm gia tăng không nhiều chỉ 1, 2 % nhưng cũng đã phần nào cho thấy giáo dục của vùng đã được chú trọng và quan tâm 24
  31. sát sao hơn, chất lượng được cải thiện. So với các vùng khác trong cả nước thì tỷ lệ tốt nghiệp của vùng cũng đạt mức tương đối cao trong đó, Đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông cao nhất, còn so với tỷ lệ chung của cả nước thì tỷ lệ phần trăm tốt nghiệp của vùng cao hơn so với cả nước. Để đạt được những kết quả đáng mừng đó trước tiên là nhờ vai trò của các thầy cô luôn tận tâm, tận huyết với nghề, luôn truyền cảm hứng cho các em học tập, đặc biệt là sự nỗ lực vươn lên, chăm chỉ và cố gắng từ chính các em học sin, các em đã gạt bỏ mọi khó khăn để phấn đấu đạt kết quả cao nhất. 1.3. Nhận xét về tình hình giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 1995) 1.3.1. Thành tựu Từ năm 1986, thực hiện chủ trương của Đảng đề ra các địa phương trong cả nước đã đạt nhiều kết quả đáng mừng. Diện mạo cuộc sống của người dân ở khu vực đã thay đổi hơn trước; đời sống của người dân từng bước được cải thiện và dần đi vào ổn định, trình độ dân trí ngày được nâng Hệ thống cơ sở như đường giao thông, thủy lợi được xây dựng ở khắc các địa phương. Những thành tựu đạt được đó đã phần nào đánh giá được đường lối đúng đắn của Đảng, nó như một nguồn ánh sáng mới dẫn đường, chỉ lối cho nhân dân thực hiện. Cùng với những bước tiến mới của nền kinh tế thì sự nghiệp giáo dục từ chỗ còn yếu kém đã bị tác động mạnh khiến giáo dục được nâng lên tầm cao hơn, chất lượng và hiệu quả hơn. Trong phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm (1991 - 1995), Đảng đã nêu rõ: “Công tác giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ phải được coi là khâu quan trọng” đây chính là tiền đề để đưa giáo dục của các tỉnh thoát khỏi tình trạng lạc hậu, kém phát triển. Quán triệt đường lối đó, lãnh đạo các tỉnh, phòng giáo dục của tỉnh đã xây dựng kế hoạch cũng như chương trình giáo dục cho tỉnh nhà theo chỉ thị của Bộ Giáo dục. Tuy điều kiện, hoàn cảnh của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc còn nhiều khó khăn, nhưng chính sự quyết tâm, nỗ lực của các cấp, các ngành cho tới nhân dân địa phương, sau quá trình thực hiện chủ trương, đường lối đổi mới giáo dục ở các tỉnh của khu vực đã hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ của Bộ Giáo dục địa phương đề ra và đạt được thành tích đáng khen ngợi. Tỉnh Tuyên Quang là một điển hình, ngành giáo dục của tỉnh đã tích cực huy động trẻ đến lớp ở các độ tuổi, đặc biệt là trẻ 5 tuổi ở các xã, bản vùng cao, vùng sâu, vùng xa gắn nhóm trẻ lớp mẫu giáo với các trường cấp I, trường cấp II. Đến thời điểm tháng 12/1992, toàn tỉnh có 479 nhóm trẻ với 5.040 cháu và 362 lớp mẫu giáo với 8.573 25
  32. cháu. Đến năm 1995, toàn tỉnh có 505 nhóm trẻ, 27 trường Mầm non [6, tr.721]. Ở tỉnh Lào Cai “với sự phối hợp, vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ tỉnh tới cơ sở, ngành Giáo dục và đào tạo tỉnh đã bắt tay ngay vào thực hiện nhiệm vụ phát triển trường, lớp ở các bậc học, tăng nhanh tỷ lệ huy động trẻ trong độ tuổi ra lớp và duy trì tỷ lệ chuyên cần. Do đó, đến năm học 1993 - 1994, toàn tỉnh có thêm 10 xã khôi phục được trường, lớp và đến năm 1995 thì không còn xã trắng về giáo dục” [6, tr.692]. Về quy mô trường lớp, số học sinh đi học: trường lớp được xây dựng ngày càng nhiều, khang trang và phân bố giải khắp đáp ứng nhu cầu đi học của học sinh, từ năm 1989 số lượng học sinh của khu vực là 1.811.675 người, đến năm 1995 tăng lên 2.548.732 người, như vậy từ năm 1989 – 1995 số lượng học sinh của khu vực tăng 737.057 người, tương đương với 1,4 lần. Sau ngày 01/10/1991 tỉnh Yên Bái được tái lập tách ra từ tỉnh Hoàng Liên Sơn, với quy mô 342 trường, 4563 lớp, 124647 học sinh, học viên; phát triển thêm 35 trường, 1308 lớp, 2112 học sinh, học viên; tăng 29% so với năm 1975 – 1976 (trước khi hợp nhất 3 tỉnh) [6, tr.769]. Có thể thấy rằng quy mô giáo dục phổ thông ở các tỉnh đã tăng lên nhanh, đó là điều phấn khởi, biểu hiện rõ quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục, kinh tế - xã hội của khu vực Trung du và Miền núi. Mặt khác chứng tỏ chính sách di dân, điều hòa dân cư giữa các vùng trong nước đã có kết quả khích lệ. Về cơ sở vật chất - kĩ thuật: được đầu tư, Sở Giáo dục và Đào tạo các tỉnh đã dành vốn cũng như huy động sự đóng góp của nhân dân để vừa xây dựng, vừa tu sửa trường lớp, trang bị những thiết bị của quá trình giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu của thầy và trò với mục tiêu cuối cùng là nâng cao trình độ dân trí Về chất lượng giáo dục và đào tạo: Từ năm 1992 trở đi, kinh tế - xã hội của khu vực phát triển mạnh nhờ vậy mà quá trình đầu tư vào giáo dục cũng phát triền tốt hơn: các lớp học, cấp học, số lượng học sinh tăng nhiều hơn nhờ các chính sách huy động học sinh đến lớp cùng với đó là quy mô và chất lượng giáo viên cũng tăng lên rõ rệt nhờ có quá trình tập huấn nhằm bồi dưỡng kiến thức cũng như kĩ năng nghiệp vụ cho giáo viên, chính sách trợ cấp giáo viên, chính sách khen thưởng kịp thời cho học sinh Mục đích là nhằm đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực phục vụ cho công cuộc đi lên xây dựng đất nước. Điển hình ở tỉnh Tuyên Quang “đến năm 1990, tỉnh đã có 145/145 xã, phường, cả 6/6 huyện, thị trong tỉnh đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học; tiếp đó, tháng 8/1995, Tuyên Quang đã là tỉnh thứ 9 và là tỉnh miền núi đầu tiên đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học” [6, tr.723]. 26
  33. Để có được những thành tựu kể trên là kết quả của nhiều yếu tố phối kết hợp lại với nhau như: truyền thống hiếu học của dân tộc ta từ xưa đến nay, toàn dân đã ý thức rõ vai trò của giáo dục đối sự phát triển toàn diện con người. Đồng thời, trong giai đoạn này tình hình chính trị đã ổn định, nền kinh tế - xã hội của khu vực có những chuyển biến tích cực, Đảng quan tâm đặc biệt tới đến giáo dục; sự tâm huyết với nghề của các nhà giáo không ngại khó, ngại khổ trong giai đoạn vừa qua Tất cả những lí do cơ bản nêu trên đã tạo đà cho bước tiến mới của ngành giáo dục của địa bàn cũng như cả nước. 1.3.2. Hạn chế Nhìn chung, trong những năm đầu của thập kỷ 90, sự nghiệp giáo dục của khu vực đã dần hồi phục trở lại, song vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục. Ở các cấp, ngành học: ngành mầm non, cơ sở vật chất còn thiếu nhiều, không đáp ứng được hết yêu cầu của học sinh, đồ chơi cho các em nhỏ không có nhiều, lương giáo viên mẫu giáo thấp thậm chí không đủ sống do vậy nhiều giáo viên phải bỏ nghề; tỷ lệ trẻ em đúng tuổi tham gia học tập ít. Ngành học chưa có các biện pháp để có thể thu hút, lôi cuốn học sinh đến trường, tỉ lệ này chiếm đa số ở các vùng nông thôn do điều kiện không thuận lợi, đặc biệt là ở vùng núi cao, vùng xa xôi hẻo lánh. Đối với ngành phổ thông, số học sinh bỏ học ngày càng nhiều và chiếm tỷ lệ tương đối cao, như ở tỉnh Lạng Sơn trung bình số học sinh bỏ học của các cấp học như sau: Cấp tiểu học: 10%, Cấp trung học cơ sở: 15%, Cấp trung học phổ thông: 12%. Đặc biệt vùng miền núi cao, có nơi học sinh bỏ học tới 20%. Bất bình đẳng trong giáo dục theo giới tính và cả theo nông thôn/thành thị tại khu vực đều có nhiều bất cập, khu vực là nơi bất bình đẳng giáo dục có sự chênh lệch lớn nhất trong cả nước, trong đó tỉ lệ mù chữ của nữ giới chiếm tỉ lệ cao nhất cả nước. Mặt khác, chất lượng toàn diện của học sinh còn tương đối thấp, số lượng và chất lượng giáo viên ở các tỉnh vùng cao, vùng xa còn thiếu và ở trình độ thấp, chưa đạt yêu cầu. Ở tỉnh Lai Châu: “tỉ lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học đạt 96%, trung học cơ sở đạt 88%, trung học phổ thông đạt 71%, bổ túc văn hóa đạt 61%. Giáo viên tiểu học thiếu trầm trọng, giáo viên dưới chuẩn nhiều: tiểu học 70%, mầm non 69%. Công tác xóa mù chữ, phổ cập tiểu học đạt tỷ lệ thấp 50%” [6, tr.188]. Cơ sở vật chất - kĩ thuật của trường còn tạm bợ, không đảm bảo, thiếu thốn nhiều, nhiều cơ sở không được tái thiết lại, thiếu phòng, lớp học, học sinh phải học 27
  34. gộp và tăng ca, sách giáo khoa, tài liệu phục vụ học sinh học còn thiếu; thiếu trang thiết bị kĩ thuật, đội ngũ giáo viên không đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. 1.3.3. Tác động của giáo dục đến kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 - 1995) Giáo dục và kinh tế là hai lĩnh vực riêng biệt nhưng giữa chúng có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Kinh tế tiến bộ thì giáo dục mới tiến bộ được, nền kinh tế không phát triển thì giáo dục cũng không phát triển. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau” [16, tr 337-338]. Giáo dục tạo nên nguồn lực người, yếu tố tác động nhất đến quá trình kinh tế, một nền kinh tế chỉ trở nên vững mạnh và tăng tiến liên tục nếu nó chứa một hệ thống giáo dục có đường lối chính sách, cơ chế tiến bộ, phát triển cân đối về số lượng và chất lượng. Trái lại, giáo dục muốn phát triển theo xu hướng tiến bộ thì lại cần có chỗ dựa và được sự hỗ trợ của một nền kinh tế vững mạnh với nền sản xuất hiện đại và tiên tiến. Tựu chung lại, quan hệ tương hỗ giữa kinh tế, giáo dục đã tác động mạnh mẽ lẫn nhau, tác động đến tình hình đất nước trong tiến trình lịch sử, trong đó, khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc giai đoạn 1989 – 1995 có sự chuyển biến rõ rệt so với thời kì trước đổi mới. Nhìn chung, tình hình kinh tế của khu vực tăng trưởng hơn giai đoạn trước, làm cho cuộc sống của người dân dần đi vào ổn định hơn. Chính vì vậy, nhờ có sự tăng trưởng về mặt kinh tế mà các nguồn lợi đầu tư vào sự nghiệp giáo dục ngày càng nhiều khiến cho nền giáo dục của vùng ngày càng đi lên, có sự tăng trưởng cả lượng và chất, đáp ứng nhu cầu của người dân với mong muốn nâng cao trình độ nhận thức cho người dân, đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề, những lao động có kĩ năng vào làm việc trong các lĩnh vực, từ đó thúc đẩy nền kinh tế - xã hội của vùng ngày một ổn định và phát triển. Kinh tế, giáo dục phát triển giúp xóa đòi giảm nghèo của khu vực, trình độ dân trí cao khiến cơ hội việc làm ngày càng được mở rộng hơn, mức thu nhập của người lao động cũng ngày một tăng, khắc phục được những yếu kém trước đây mà khu vực gặp phải. Tuy nhiên, xét ở khía cạnh nào cũng vậy, đều có hai mặt, do vậy ở khu vực trong giai đoạn này bên cạnh những tích cực đạt được thì còn tồn tại nhiều hạn chế, kinh tế - xã hội và giáo dục của khu vực phát triển không đồng đều. Nếu so với giai đoạn trước thì tốc độ tăng kinh tế có tăng nhưng chưa nhiều, còn thấp, giáo dục tăng, giảm không đều, còn yếu kém về mọi mặt. Các điểm, khu công nghiệp được 28
  35. đặt hay việc đầu tư cho giáo dục chỉ ở những vùng trọng điểm của khu vực, còn ở những vùng sâu, vùng xa, miền núi cao điều kiện còn khó khăn lại chưa được quan tâm, đây là một trong những bất cập của nền giáo dục, kinh tế - xã hội miền núi so với đồng bằng, giữa nông thô/thành thị. Đây chính là một trong những hạn chế cần khắc phục ở giai đoạn sau, để Đảng có cái nhìn đúng đắn, đưa ra đường lối chỉ đạo chiến lược trong giai đoạn tiếp theo nhằm phát huy mặt mạnh, khắc phục những thiếu sót còn tồn tại, đáp ứng sự nghiệp đổi mới đất nước. Tiểu kết chƣơng 1: Chương 1 đã tập trung vào một số vấn đề về chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về sự nghiệp giáo dục và thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc. Qua quá trình nghiên cứu, tổng hợp, phân tích và tìm hiểu tác giả đã góp phần làm rõ hơn thực trạng giáo dục của khu vực trong quá trình thực hiện chủ trương, đường lối đổi mới giáo dục của Đảng. Bởi chỉ có phát triển sự nghiệp giáo dục mới có thể thúc đẩy nền kinh tế, xóa đói giảm nghèo tại các địa phương của vùng. Mặc dù trước năm 1989 và sau đó đến năm 1995 việc triển khai và thực hiện Nghị quyết về cải cách, đổi mới giáo dục đã đạt được kết quả khả quan, tình trạng mù chữ đã có xu hướng giảm, chất lượng giáo dục dần được tăng lên do vậy cuộc sống của người dân cũng dần được thay đổi diện mạo. Tuy nhiên, tỷ lệ học sinh không đi học còn cao, có sự chênh lệch lớn giữa các địa phương, một số địa phương đã xóa được nạn mù chữ cho người dân, đạt được phổ cập giáo dục tiểu học nhưng trong số đó ở những vùng miền núi cao, vùng sâu, vùng xa thì giáo dục vẫn chưa được quan tâm, nạn thất học vẫn còn nhiều. Vì vậy mà từ giai đoạn 1996- 2009, các tỉnh Miền núi và Trung du phía Bắc đã “đẩy mạnh triển khai và vận dụng sáng tạo và có hiệu quả các chủ trương cũng như các chính sách đổi mới giáo dục của Đảng vào địa phương. Chất lượng giáo dục ngày càng cao, đạt được những thành tựu to lớn về mọi mặt, bên cạnh đó vẫn mắc phải một số hạn chế nhất định, cần phải nhanh chóng khắc phục để thực hiện mục tiêu mà Đại hội Đảng đề ra, tiến tới xây dựng mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. 29
  36. Chương 2 GIÁO DỤC Ở KHU VỰC TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC (1996 - 2009) 2.1. Những nhân tố tác động đến giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996- 2009) Khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong giai đoạn này bao gồm 14 tỉnh với 2 tiểu vùng, tiểu vùng Đông Bắc bao gồm: “Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng Ninh; tiểu vùng Tây Bắc bao gồm: Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình. Tính đến năm 2000, tổng dân số trung bình của nước ta là 77685,5 nghìn người, trong đó khu vực là 11240,1 nghìn người” [24]. 2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong những năm 1996 – 2009 Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII (tháng 6/1991), Đại hội VIII (tháng 6/1996) của Đảng đã khẳng định những nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội VII đề ra đã hoàn thành ở mức cơ bản và bắt đầu chuyển sang giai đoạn mới giai đoạn: “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Nhiệm vụ đề ra tại Đại hội Đảng của các khóa VIII (1996), IX (2001), X (2006) tiếp tục đưa ra các quan điểm cũng như xác định mục tiêu cơ bản của thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho tới những năm 2010 của cả nước, trong đó có khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc. Về quan điểm: “Phát triển hiệu quả kinh tế nhanh và bền vững, chủ động phát huy nội lực, đồng thời kết hợp thu hút các nguồn lực bên ngoài, các nguồn tài trợ quốc tế, gia tăng hơn nữa sự trợ giúp từ Trung ương cho đầu tư phát triển, nhất là kết cấu hạ tầng và đào tạo nguồn nhân lực. Tập trung đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, sản phẩm có lợi thế so sánh, cạnh tranh, tạo ra mũi đột phá để lôi kéo từng tiểu vùng và cả vùng cùng phát triển. + Phải giữ vững ổn định chính trị để phát triển kinh tế gắn đi đôi với xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc trên từng địa bàn khu vực, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước. + Phát triển kinh tế đi liền với rút ngắn khoảng cách chênh lệch mức sống so với các vùng khác, bảo đảm công bằng xã hội, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, nâng cao dân trí, thực hiện tốt chính sách dân tộc, xóa đói giảm nghèo, 30
  37. hoàn thành định canh, định cư, đẩy lùi các tệ nạn xã hội; đào tạo nguồn nhân lực, nhất là cán bộ dân tộc thiểu số, đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới. + Thu hút một số bộ phận dân cư ra biên giới định canh, định cư lâu dài, xây dựng tuyến biên giới hòa bình, hữu nghị, cùng phát triển với các nước bạn láng giềng. + Bảo vệ môi trường sinh thái, đặc biệt là phát triển và bảo vệ rừng đầu nguồn của lưu vực sông Ðà, sông Hồng, sông Lô, sông Cầu, để bảo vệ nguồn nước cho các công trình thủy điện lớn của quốc gia, đồng thời góp phần quan trọng phòng tránh lũ và cân bằng nguồn nước cho đồng bằng sông Hồng”[11, tr 256]. Về mục tiêu: “Phát triển kinh tế - xã hội vùng Trung du và Miền núi Bắc Bộ nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thực hiện xóa đói giảm nghèo, rút ngắn khoảng cách về mức sống và tiến bộ xã hội so với các vùng khác trong cả nước; khai thác tiềm năng thế mạnh của vùng về đất đai, rừng, khí hậu, tiềm năng thủy điện, tài nguyên khoáng sản, lợi thế về cửa khẩu, du lịch để phát triển các ngành kinh tế; xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển; thực hiện tốt chính sách dân tộc, hoàn thành định canh, định cư, đưa dân trở lại biên giới, khắc phục tình trạng di dân tự do; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số; gắn phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia”[11, tr237]. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 19/4/2001 đến ngày 22/4/ 2001 đã đưa ra định hướng phát triển theo vùng trong cả nước, trong đó có định hướng khu vực nông thôn trung du, miền núi như sau: “Phát triển mạnh cây dài ngày, chăn nuôi đại gia súc và công nghiệp chế biến. Bảo vệ và phát triển vốn rừng. Hoàn thành và ổn định vững chắc định canh, định cư. Bố trí lại dân cư, lao động và đất đai theo quy hoạch đi đôi với xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội để khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên. Phát triển kinh tế trang trại. Giảm bớt khoảng cách phát triển với nông thôn đồng bằng. Có chính sách đặc biệt để phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, cửa khẩu” [11, tr225]. Trong 10 năm tới, khu vực Trung du và Miền núi Phía Bắc cần đẩy mạnh vào các chiến lược quan trọng như: “Phát triển mạnh cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu, cây đặc sản, chăn nuôi đại gia súc gắn với chế biến. Tạo các vùng 31
  38. rừng phòng hộ đầu nguồn sông Đà, rừng nguyên liệu công nghiệp, gỗ trụ mỏ. Xúc tiến nghiên cứu và xây dựng thủy điện Sơn La. Phát triển công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, nông sản, lâm sản, chú trọng chế biến xuất khẩu. Hình thành một số cơ sở công nghiệp lớn theo tuyến đường 18 gắn với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Phát triển nhanh các loại dịch vụ, chú trọng thương mại. Nâng cấp các tuyến đường trục từ Hà Nội đi các tỉnh biên giới, hoàn thành các tuyến đường vành đai biên giới và các đường nhánh. Phát triển thủy lợi nhỏ gắn với thủy điện nhỏ, giải quyết việc cấp nước sinh hoạt và điện cho đồng bào vùng cao. Phát triển các đô thị trung tâm, các đô thị gắn với khu công nghiệp. Nâng cấp các cửa khẩu biên giới và phát triển kinh tế cửa khẩu. Thực hiện tốt chính sách dân tộc, định canh, định cư vững chắc, ổn định và cải thiện đời sống cho đồng bào dân tộc” [11, tr258]. Tiếp tục Chiến lược 10 năm 2001 - 2010 và các nghị quyết của Bộ Chính trị khoá IX về phát triển các vùng. Trong đó khu vực Trung du và Miền núi Bắc Bộ “cần tập trung mọi nỗ lực phát triển kinh tế nhanh và bền vững, gắn chặt với việc bảo đảm an ninh, quốc phòng. Phát triển mạnh thuỷ điện, công nghiệp khai khoáng, sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác có hiệu quả quỹ đất trồng cây công nghiệp, cây ăn quả xuất khẩu và trồng rừng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến có công nghệ hiện đại. Phát triển du lịch sinh thái và văn hóa dân tộc. Chú trọng mở rộng quan hệ thương mại với các nước láng giềng. Phát triển hài hoà giữa các tiểu vùng, giữa các tầng lớp dân cư và giữa đồng bào các dân tộc” [2]. Thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng nói chung và theo kế hoạch cho từng khu vực nói riêng, thì kết quả cũng như một số mặt chưa đạt được của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc như sau: Kinh tế tăng trưởng cao và liên tục. Về nông nghiệp, nhờ việc áp dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất mà nền kinh tế của vùng đã từng bước thay đổi diện mạo, đời sống được cải thiện hơn trước rất nhiều, vấn đề lương thực, thực phẩm được giải quyết, tình trạng nghèo đói dần được xóa bỏ trên địa bàn của khu vực đến tận vùng xâu vùng xa. Để có được bước tiến như vậy là do nhận thức của người dân đã thay đổi trong phương thức phát triển nền nông nghiệp với việc loại bỏ phương thức cách tác cũ, lạc hậu mà thay vào đó là phương thức canh tác mới như thâm canh tăng vụ, chăn nuôi lớn, trồng các loại cây như: cây công nghiệp, cây ăn quả Đặc biệt, các vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn trong vùng đã được hình thành. 32
  39. Về công nghiệp và dịch vụ: Do sự phát triển của ngành nông nghiệp đã thúc đẩy quá trình ra đời các cơ sở chế biến và sản xuất công nghiệp, bước đầu có sự gắn kết giữa các ngành lại với nhau. Sản phẩm nông, lâm, công nghiệp làm ra ngày càng nhiều đã tác động đến quá trình giao lưu, mở rộng thị trường do vậy ngành dịch vụ cũng có bước phát triển vượt trội so với giai đoạn trước. Quá trình mở cửa giao lưu giữa các nước được thông thương, giúp tăng trưởng kinh tế. Cơ sở vật chất - hạ tầng: Hệ thống đường giao thông, công trình thủy điện, hệ thống thủy lợi cung cấp nước trong nông nghiệp, đường ống dẫn nước sạch cho sinh hoạt, mạng thông tin liên lạc, các trạm y tế ngày càng được đầu tư hiện đại hơn và từng bước mở rộng mạng lưới khắp địa bàn của vùng. Điều đó đã góp phần làm khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc khoác trên mình một diện mai phát triển mạnh và mới. Tổng quan thì ở giai đoạn này, nền kinh tế của khu vực đã có những bước tiến hơn so với giai đoạn trước, ở một khía cạnh sâu hơn thì đây vẫn là vùng kinh tế phát triển chậm và mức thu nhập còn thấp. “Năm 2002 GDP toàn vùng chỉ chiếm 6,5% so cả nước, trong khi dân số chiếm 13,3%; GDP bình quân đầu người chỉ bằng 50% bình quân cả nước (riêng Tây Bắc chỉ bằng 37,5%); tỷ lệ hộ nghèo cao, chiếm 15,2% trong khi cả nước là 12%, điển hình như Lai Châu còn 37%, Bắc Kạn 26,05% ” [38]. Về nông nghiệp: sản xuất diễn ra trên quy mô nhỏ lẻ, năng suất chưa cao, chất lượng còn kém, do vậy mà các sản phẩm chưa có sức cạnh tranh so với các sản phẩm khác. Tỉ lệ đói nghèo trong vùng còn cao, nhất là ở vùng núi cao Tây Bắc. Về công nghiệp và dịch vụ: Các cơ sở sản xuất, chế biến công nghiệp phân bố không đều, có nơi thì tập trung số lượng lớn, có nơi thì lại không có cơ sở nào, ở các địa phương thuộc vùng trung du thì có cơ sở, còn ở miền núi thì hầu như không có. Do vậy cần có sự bố trí các cơ sở công nghiệp một cách hợp lí, tránh sự phát triển không tương xứng giữa các tỉnh thành của vùng. Các cơ sở chế biến, sản xuất công nghiệp của vùng còn ở quy mô khá nhỏ bé, do vậy không đủ sức để có thể tác động vào sự chuyển biến của nền kinh tế. Về dịch vụ, quá trình giao lưu chưa được mở rộng sâu mà mới chỉ phát triển ở các điểm đông dân cư, điều kiện tự nhiên thuận lợi, các khu đô thị, thị trấn, nơi giáp gianh các cửa khẩu quốc tế Về cơ sở vật chất – hạ tầng: Hệ thống giao thông ở miền núi, nông thôn chưa thông suốt, bị chia cắt nhiều, không đảm bảo khiến cho quá trình giao lưu kinh 33
  40. tế trong vùng với các địa phương khác gặp nhiều khó khăn, thậm chí vào mùa mưa nhiều đường ở nông thôn còn không thể đi lại được. Hệ thống thủy lợi dẫn nước cho nông nghiệp cũng như các nguồn nước sạch cung ứng cho sinh hoạt của người dân vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho nhân dân, thậm chí nhiều nơi ở vùng cao của các tỉnh như: Cao Bằng; các huyện Ðồng Văn, Mèo Vạc tỉnh Hà Giang hàng năm vẫn xảy ra tình trạng không có nước cho người dân sinh hoạt hàng ngày Các trang thiết bị, dụng cụ, thuốc thang ở các trạm y tế trên địa bàn còn thiếu thốn và hạn chế Tệ nạn xã hội: Ở các vùng gần biên giới diễn ra tình trạng buôn bán ma túy lớn và nghiêm trọng, tình trang di dân tự do diễn ra phổ biến Nguyên nhân của tình trạng trên bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên của khu vực, nơi có địa hình bị chia cắt, đồi núi hiểm trở, thiên tai thường xuyên xảy ra như: sạt sở, lụt lội, hạn hán, đất đai canh tác ít lại không màu mỡ; cơ sở hạ tầng – vật chất còn hạn chế, trình độ dân trí và học vấn của người dân còn lạc hậu, thấp; phương thức canh tác sản xuất còn lạc hậu, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế như phân bố không đều, đặc biệt vùng nhận được vốn đầu tư ít hơn bởi điều kiện phát triển của vùng chưa thực sự thuận lợi; chưa có các cơ chế, chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư cũng như thu hút được nguồn nhân lực có chất lượng và tay nghề cao từ các vùng miền khác của cả nước cũng như từ bên ngoài nhập cư vào, cán bộ cốt cán còn thiếu về lượng và chất lượng chưa đảm bảo 2.1.2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa Cùng với việc tiến hành đổi mới về kinh tế - xã hội nước ta trong giai đoạn này, đưa nước ta đi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước, do vậy yêu cầu đặt ra cho nền giáo dục lúc này là cũng cần có những bước đổi mới để phát triển toàn diện hơn trên tất cả các mặt, đáp ứng những yêu cầu mà Đảng đã vạch ra cho công cuộc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng với những bước chuyển mình trong kinh tế - xã hội của khu vực sau 10 năm đổi mới, thì sau 10 năm (1986 – 1996) đó nền giáo dục cũng có những chuyển biến tích cực, đạt nhiều thành tựu to lớn, nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập. Năm 1996, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII diễn ra, Đảng đã quyết định: “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Để hoàn thành mục tiêu trên thì: “phát huy 34
  41. nguồn lực con người được coi là nhân tố quyết định, trong đó giáo dục - đào tạo được xem là quan trọng nhất. Với ý nghĩa đó, để thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương đã phân tích thực trạng giáo dục và đào tạo nước ta qua các giai đoạn, trên cơ sở đó đề ra Nghị quyết về định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000” [15]. So với những chủ trương chỉ đạo phát triển giáo dục ở chặng đường đầu của thời kỳ quá độ thì vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước do Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (1996), Đảng đã thay đổi nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của giáo dục trong thời kì này là nhằm: “xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kĩ năng thực hành giỏi; có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỉ luật; có sức khỏe” . Để hoàn thành những nhiệm vụ, mục tiêu đề ra, cần: “Thực sự coi giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu. + Giáo dục – đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Mọi người đi học thường xuyên, học suốt đời. + Phát triển giáo dục – đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa học – công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh. Coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Thực hiện giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học lí luận gắn với thực tế, học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội. + Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo. Tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Người nghèo được Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để học tập. Đảm bảo điều kiện cho những học sinh giỏi phát triển tài năng. + Giữ vai trò nòng cốt của nhà trường công lập đi đôi với đa dạng hóa các loại hình giáo dục – đào tạo. Phát triển các trường bán công, dân lập ở những nơi có điều kiện, từng bước mở các trường tư thục ở một số bậc học như: mần non, phổ 35
  42. thông trung học, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đại học. Mở rộng các hình thức đào tạo không tập trung, đào tạo từ xa, từng bước hiện đại hóa hình thức giáo dục” [13, tr195 - 196]. Nghị quyết Trung ương 2 đã đề ra mục tiêu phát triển giáo dục - đào tạo đến năm 2000 đó là “thực hiện giáo dục toàn diện cả về đức, trí, thể, mĩ ở tất cả các bậc học. Coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành”. Cụ thể là: “Phát triển bậc học mần non phù hợp với điều kiện và yêu cầu của từng nơi. Bảo đảm hầu hết trẻ em 5 tuổi được học chương trình mẫu giáo lớn, chuẩn bị vào lớp 1; Phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước, phần lớn học sinh tiểu học được học đủ 9 môn theo chương trình quy định. Phổ cập trung học cơ sở ở các thành phố, đô thị, các vùng kinh tế trọng điểm và những nơi có điều kiện; Thanh toán nạn mù chữ cho những người trong độ tuổi 15 – 35, thu hẹp diện mù chữ ở các độ tuổi khác, đặc biệt chú ý vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn để tất cả các tỉnh đều đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập tiểu học trước khi bước sang thế kỉ XXI; Tăng quy mô học nghề bằng mọi hình thức để đạt 22 – 25% đội ngũ lao động được qua đào tạo vào năm 2000. Kế hoạch đào tạo nghề phải theo sát chương trình kinh tế - xã hội của từng vùng, phục vụ cho sự chuyển đổi cơ cấu lao động, cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Tăng cường đầu tư, củng cố và phát triển các trường dạy nghề, xây dựng một số trường trọng điểm. Đào tạo đủ công nhân lành nghề cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, có tính đến nhu cầu xuất khẩu lao động; Nâng quy mô giáo dục đại học, cao đẳng lên 1,5 lần so với năm 1995 với cơ cấu đào tạo hợp lí, theo sát nhu cầu của sự phát triển. Tiếp tục sắp xếp lại các trường đại học. Xây dựng một số trường trọng điểm. Xây dựng một số trường cao đẳng cộng đồng ở các địa phương để đào tạo nhân lực tại chỗ; Mở rộng các hình thức học tập thường xuyên, đặc biệt là hình thức học từ xa. Tăng cường đào tạo và bồi dưỡng các bộ lãnh đạo, cán bộ quản lí các cấp các ngành; Đối với miền núi, vùng sâu, vùng khó khăn, xóa điểm trắng về giáo dục ở ấp, bản. Mở thêm các trường dân tộc nội trú ở cụm xã, các huyện, tạo nguồn cho các trường chuyên nghiệp và đại học để đào tạo cán bộ cho các dân tộc, trước hết là giáo viên, cán bộ ý tế, cán bộ lãnh đạo và quản lí” [13, tr196 – 197]. 2.2. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996 – 2009) 2.2.1. Tình hình biết đọc biết viết 36
  43. Tỷ lệ biết đọc, biết viết của khu vực là 87,3% thấp nhất so với cả nước; giữa nam và nữ, giữa nông thôn và thành thị thì tỷ lệ này có khoảng cách chênh lệch lớn nhất. Trong khi đó, Đồng bằng sông Hồng chính là vùng có tỷ lệ cao nhất tới (97,1%). Còn về tỷ lệ biết chữ giữa thành thị và nông thôn của khu vực thì lại chiếm tỷ lệ cao nhất cả nước: 11,6%. Bảng 6: Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết theo giới tính, thành thị/nông thôn và các vùng kinh tế - xã hội, 2009 Đơn vị tính: Phần trăm % Chênh lệch Nơi cư trú/các vùng kinh tế - Tổng Thành thị Nông thôn thành thị - nông xã hội thôn Toàn quốc 93,5 97,0 92,0 5,0 Nam 95,8 98,0 94,8 3,2 Nữ 91,4 96,0 89,3 6,7 Các vùng kinh tế - xã hội: Trung du và Miền núi phía 87,3 97,0 85,3 11,6 Bắc Đồng bằng sông Hồng 97,1 98,7 96,5 2,2 Bắc Trung Bộ và Duyên hải 93,9 96,4 93,1 3,2 miền Trung Tây Nguyên 88,7 96,2 85,5 10,7 Đông Nam Bộ 96,4 97,6 94,7 2,9 Đồng bằng sông Cửu Long 91,6 94,0 90,9 3,1 *Nguồn: [25, tr27] Nguyên nhân của thực trạng trên xảy ra ở tại khu vực là do điều kiện giữa thành thị và nông thôn phát triển không đồng đều. Tuy nhiên, trong những năm trở lại đây sự chênh lệch về tỷ lệ biết chữ giữa thành thị và nông thôn của khu vực cũng 37
  44. đã giảm đáng kể: 11,7 phần trăm (97,0% ở thành thị và 85,3% ở nông thôn), kết quả đó là nhờ có chính sách phổ cập giáo dục tiểu học và xóa nạn mù chữ. Tỷ lệ biết đọc, biết viết ở hai giới của khu vực gần bằng nhau Nam: 92,0%, Nữ: 82,8% [25] điều đó chứng tỏ rằng sự bất bình đẳng về giới trong lĩnh vực giáo dục của khu vực đã dần được xóa bỏ. Tuy nhiên, ở nông thôn thì phụ nữ của khu vực có tỷ lệ biết đọc biết viết vẫn ở mức thấp nhất so với nam và nữ ở các vùng khác trong cả nước, tại các tỉnh như “Lai Châu (29,2%), Điện Biên (25,9%), và Sơn La (22,9%). (tỷ lệ biết đọc biết viết của nam cao hơn của nữ tới 20 điểm phần trăm so với cả nước là 4,4%)” [25]. Hình 1: Tỷ lệ biết đọc biết viết của dân số từ 15 tuổi trở lên theo nhóm tuổi của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc, 2009 100 80 60 94.9 91.6 40 88.9 86.7 87.1 88.7 90 90.4 89.2 20 85.3 71.4 0 15- 19 20- 24 25- 29 30- 34 35- 39 40-44 45- 49 50-54 55- 59 60- 64 65+ Tỉ lệ biết đọc biết viết của dân 94.9 91.6 88.9 86.7 87.1 88.7 90 90.4 89.2 85.3 71.4 số từ 15 tuổi trở lên *Nguồn: Số liệu Tổng cục thống kê, năm 2009 [25, tr75] Nhìn vào bảng số liệu ta dễ nhận thấy, tỷ lệ biết đọc, biết viết đã được cải thiện đáng kể trong thời gian vừa qua, điều đặc biệt là càng ở nhóm tuổi trẻ thì tỷ lệ biết chữ ở mức độ tốt hơn. Nếu, so sánh với các vùng khác trong cả nước thì khu vực có tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết theo nhóm tuổi vẫn thấp nhất, thì Đồng bằng sông Hồng là vùng có tỷ cao nhất cả nước. 2.2.2. Tình hình đi học Khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc là nơi sinh sống tập trung của các dân tộc ít người, địa hình đi lại khó khăn và điều kiện kinh tế thấp hơn so với các 38
  45. vùng khác. Do vậy, tỷ lệ chưa đi học cao nhất cả nước và cao hơn mức đi học chung của cả nước (là 10,4 phần trăm), tỉ lệ đang đi học 24,8%, tỉ lệ đã thôi học là 64,8%. Đổi lại khu vực Đồng bằng sông Hồng là vùng có tỷ lệ chưa đi học thấp nhất (2,2%). Bảng 7: Tỷ trọng dân số từ 5 tuổi trở lên chia theo tình hình đi học, thành thị/nông thôn và khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc, 2009 Đơn vị tính: Phần trăm Nơi cư trú/khu vực kinh tế - xã Đang đi Đã thôi học Chưa bao giờ đi hội học học Toàn quốc 24,7 70,2 5,1 Thành thị 25,7 71,6 2,6 Nông thôn 24,3 69,5 6,2 Trung du và Miền núi phía Bắc 24,8 64,8 10,4 *Nguồn: [25, tr63] Số liệu trên cho thấy tỷ trọng dân số chưa bao giờ đi học ở khu vực nông thôn cao gấp đôi so với khu vực thành thị (6,2% so với 2,6%). Đặc biệt, tỷ trọng chưa đi học của nữ ở khu vực cao hơn nam tới hơn 2 lần (tương ứng là 14,1 và 6,6 điểm phần trăm). Như vậy đã có sự bất bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục tại khu vực, người phụ nữ luôn bị thiệt thòi hơn nam giới về hưởng thụ giáo dục. Trong khi đó, tại Đông Nam Bộ thì ngược lại, tỷ lệ chưa đi học của nữ lại chiếm tỉ trọng cao hơn so với nam, tuy nhiên tỷ lệ này không đáng kể (3,7% so với 2,4%). Đó là sự chênh lệch về giới, còn giữa nông thôn và thành thị thì tỉ lệ chưa bao giờ đến trường ở nông thôn lớn gấp gần 5 lần so với thành thị (tương ứng 11,9% so với 2,4%). 39
  46. Đơn vị: % Hình 2: Tình hình đi học của dân số từ 5 tuổi trở lên theo nhóm tuổi của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc, 2009 100 92.8 88.9 89.7 90.3 89.2 86.5 88.2 90 84.5 85.2 86.2 85.3 80 71.3 70 60 48.2 50 46.7 40 28.7 30 20 13.3 12.9 14.8 11.1 11.3 10 9.6 10.8 7.3 8.47 10 6.5 5.1 3.9 2.5 0.7 1.5 1 0.5 0.3 0.1 0.02 0 0 0 10_ 15_ 20_ 25_ 30_ 35_ 40_ 45_ 50_ 55_ 60_ 5_9 65+ 14 19 24 29 34 39 44 49 54 59 64 tỉ lệ đang đi học của dân 92.8 88.9 48.2 7 2.5 1.5 1 0.5 0.3 0.1 0.02 0 0 số từ 5 tuổi trở lên tỉ lệ đã thôi học của dân 0.7 7.3 46.7 84.5 86.5 85.2 86.2 88.2 89.7 90.3 89.2 85.3 71.3 số từ 5 tuổi trở lên tỉ lệ chưa bao giờ đến trường của dân số từ 5 6.5 3.9 5.1 8.4 11.1 13.3 12.9 11.3 10 9.6 10.8 14.8 28.7 tuổi trở lên *Nguồn: Số liệu của Tổng cục thống kê, năm 2009 [25, tr75] Biểu đồ đã cho ta thấy tỉ lệ đang đi học của dân số từ 5 tuổi trở lên có xu hướng giảm dần theo nhóm tuổi, nhóm tuổi từ 5-14 tuổi tỉ lệ đi học khá cao, tuy nhiên bắt đầu từ nhóm tuổi 20 trở về giảm mạnh thậm chí không còn ai đi học, độ tuổi từ 20 - 24 chỉ chiếm 7% đi học. Tỉ lệ đã thôi học chiếm tỉ lệ nhỏ, nhóm tuổi 5 - 9 chỉ chiếm 0,7%, tuy nhiên từ nhóm tuổi 20 trở về sau, tỉ lệ thôi học lại tăng nhanh ví dụ từ nhóm 20 - 24 chiếm tới 84,5% thôi học. Tỉ lệ chưa bao giờ đến trường ở nhóm tuổi từ 5 – 14 tuổi có tỉ lệ thấp hơn so với các nhóm tuổi từ 20 tuổi trở đi có xu hướng tăng. Năm 1998, Luật Giáo dục Việt Nam được ban hành đã quy định “hệ thống giáo dục phổ thông của Việt Nam được phân chia thành 3 cấp và ngoài phân cấp giáo dục phổ thông 12 năm thì còn có trình độ giáo dục đại học và sau đại học”. 40
  47. Bảng 9: Tỷ lệ nhập học đúng tuổi chia theo các cấp học của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc, 2009 Đơn vị: % Khu vực kinh tế - xã hội Tỉ lệ nhập học đúng tuổi Tiểu học THCS THPT Cao đẳng và ĐH Trung du và Miền núi phía Bắc 92,0 77,2 48,6 5,7 *Nguồn: [25, tr40] Số liệu cho thấy, tỉ lệ nhập học đúng tuổi của khu vực khá cao đạt tới 92,0%, phản ánh xu thế phổ cập giáo dục tiểu học ở khu vực, tuy nhiên so với các vùng khác trong cả nước thì tỉ lệ nhập học đúng tuổi vẫn thấp nhất. Về giáo dục cấp THCS, mức độ nhập học đúng tuổi đạt 77,2%. Trình độ càng cao thì khoảng cách chênh lệch về phổ cập giáo dục, tỷ lệ nhập học đúng tuổi giữa các cấp càng lớn, cụ thể: ở cấp THCS, mức chênh lệch với cấp tiểu học là 14,8 điểm phần trăm; ở cấp THPT, mức chênh lệch là 43,4 điểm phần trăm và ở trình độ cao đẳng và đại học, mức chênh lệch là 86,3 điểm phần trăm. “Ở cấp Tiểu học, 4 tỉnh của khu vực có tỷ lệ nhập học đúng tuổi thấp nhất là Lai Châu (81,2%), Điện Biên (82,8%), Hà Giang (84%), Sơn La (86%). Ở cấp THCS, 3 tỉnh của khu vực có tỷ lệ nhập học đúng tuổi thấp nhất là Lai Châu (50,9%), Hà Giang (51,7%) và Điện Biên (60%). Ở cấp THPT, 3 tỉnh có tỷ lệ nhập học đúng tuổi thấp nhất là Lai Châu (20%), Hà Giang (25,7%). Ở các cấp Cao đẳng và Đại học, 4 tỉnh có tỷ lệ nhập học đúng tuổi thấp nhất là Lai Châu (1%), Lạng Sơn (1,2%), Cao Bằng (1,3%) và Hà Giang (1,4%)”[12]. Điều này cho thấy, tỉ lệ nhập học đúng tuổi cấp THCS và cấp THPT là vấn đề đáng quan tâm của khu vực. 2.2.3. Trình độ giáo dục đạt được Trong Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009, trình độ học vấn được phân bố theo 5 nhóm. Bảng 10: Trình độ học vấn cao nhất đã đạt đƣợc của dân số từ 5 tuổi trở lên của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc, 2009 Đơn vị tính: % Trung du và Miền núi phía Bắc Chưa đi học 10,3 41
  48. Chưa tốt nghiệp tiểu học 22,7 Tốt nghiệp tiêu học 25,6 Tốt nghiệp trung học cơ sở 23,1 Tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên 18,3 *Nguồn: [25, tr48] Mặc dù trình độ học vấn cao nhất đã đạt của dân số từ 5 tuổi trở lên của khu vực trong giai đoạn này có tỉ lệ chưa đi học ở mức cao nhất cả nước (10,3%), trong đó khu vực Đồng bằng sông Hồng tỉ lệ này ở mức thấp nhất chỉ chiếm 2,2%. Nhưng một điểm đáng chú ý là trình độ học vấn của khu vực nếu so sánh với cả nước thì trình độ đạt mức trung bình, không phải cao cũng không phải ở mức thấp nhất. Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ là nơi có nền kinh tế phát triển mạnh, tình hình xã hội ổn định thì giáo dục cũng ở mức vượt trội hơn, số người tốt nghiệp THPT trở lên chiếm tương ứng chiếm 30,1% và 27,2% dân số của vùng. Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên là hai vùng có tỷ trọng những người chưa tốt nghiệp tiểu học cao nhất (các con số tương ứng là 32,8% và 25,7% dân số của vùng; đây cũng là những vùng có tỷ trọng tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên thấp nhất, đặc biệt là Đồng bằng sông Cửu Long (10,7%). Bảng 11: Chỉ số vùng về trình độ học vấn cao nhất đã đạt đƣợc của dân số từ 5 tuổi trở lên theo giới tính, thành thị/nông thôn của khu vực, 2009 Đơn vị: % Trung du và Miền núi phía Bắc Nam Nữ Thành thị Nông thôn Tỷ lệ dân số chưa tốt nghiệp tiểu học 22,8 22,6 14,3 24,3 Tỷ lệ dân số tốt nghiệp tiểu học 26,6 24,5 16,6 27,3 Tỷ lệ dân số tốt nghiệp trung học cơ sở 24,1 22,2 20,1 23,7 Tỷ lệ dân số tốt nghiệp trung học phổ thông 20,0 16,5 46,6 12,8 trở lên *Nguồn: [25, tr52] Trình độ học vấn giữa nam và nữ của khu vực chỉ chênh nhau 2 điểm phần trăm, tuy nhiên hiện nay sự chênh lệch dần được rút ngắn khoảng cách, sự bất bình 42
  49. đẳng về giới dần được xóa bỏ hẳn so với những năm về trước. Giữa thành thị và nông thôn thì tỷ trọng những người có trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên tương ứng là 46,6%, cao hơn 33,8 điểm phần trăm so với nông thôn (12,8%), nguyên nhân là do điều kiện của mỗi vùng phát triển không giống nhau, ở nông thôn còn nhiều khó khăn, trong khi đó, thành thị điều kiện về mọi mặt đã phát triển hơn, đồng thời, tại đây có nhiều khu sản xuất và chế biến công nghiệp, các khu chế xuất đã thu hút nhiều lực lượng lao động đến tập trung sinh sống và làm việc ở đó. Trung du và Miền núi phía Bắc có trình độ chuyên môn kĩ thuật thấp so với cả nước “chỉ có 1,8% tốt nghiệp cao đẳng, 2,7% tốt nghiệp đại học và 0,1% tốt nghiệp thạc sỹ trở lên”, do điều kiện tham gia vào quá trình giáo dục của khu vực còn nhiều hạn chế, tuy nhiên khu vực vẫn chưa phải là nơi có trình độ chuyên môn kĩ thuật thấp nhất mà là vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Trong khi đó, Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ là hai vùng có trình độ cao nhất cả nước. Bảng 12: Trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nhất đã đạt đƣợc của dân số từ 15 tuổi trở lên của khu vực, 2009 Đơn vị: % Trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nhất Trung du và miền núi phía Bắc đã đạt được Sơ cấp 2,4 Trung cấp 6,4 Cao đẳng 1,8 Đại học 2,7 Trên đại học 0,1 *Nguồn: [25, tr58] Tuy nhiên, tỷ lệ dân số có trình độ cao đẳng trở lên ở khu vực chiếm (1,8%) cao hơn so với phía Nam, đặc biệt cao hơn cả vùng Đông Nam Bộ. Nguyên nhân xuất phát từ sự khác biệt về giáo dục của nước ta trước và sau khi kết thúc chiến tranh ở hai miền Nam – Bắc năm 1975. 43
  50. Bảng 13: Chỉ số vùng về trình độ chuyên môn và kỹ thuật cao nhất đã đạt đƣợc của dân số từ 15 tuổi trở lên theo giới tính, thành thị và nông thôn của khu vực, 2009 Đơn vị: % Trung du và Miền núi phía Bắc Nam Nữ Thành thị Nông thôn Tỷ lệ dân số đã tốt nghiệp sơ cấp nghề 3,1 1,7 5,9 1,6 Tỷ lệ dân số đã tốt nghiệp trung học chuyên 7,1 5,7 17,3 4,1 nghiệp Tỷ lệ dân số đã tốt nghiệp cao đẳng 1,4 2,1 4,5 1,2 Tỷ lệ dân số đã tốt nghiệp đại học 3,1 2,3 10,7 1,1 Tỷ lệ dân số đã tốt nghiệp sau đại học 0,1 0,1 0,4 0,01 Nguồn: Tổng cục thống kê: [25, tr87] Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy rằng, tỷ lệ giữa nam và nữ có sự chênh lệch lớn về trình độ ở tất cả các cấp, trừ mức cao đẳng: “tỷ lệ tốt nghiệp cao đẳng của nữ là 2,1%, cao hơn so với tỷ lệ 1,4% của nam; tỷ lệ dân số nông thôn tốt nghiệp cao đẳng thấp hơn 2 lần so với thành thị và thấp hơn tới 9 lần ở trình độ đại học”. Như vậy, càng lên trình độ cao hơn thì sự chênh lệch nhau càng rõ rệt và ở điều kiện đầy đủ như ở thành thị thì bao giờ tỉ lệ đỗ tốt nghiệp ở các mức như cao đẳng, đại học cũng cao hơn so với ở khu vực nông thôn. 2.3. Một số nhận xét về tình hình giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996 - 2009) 2.3.1. Thành tựu Thực hiện chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng về giáo dục, cùng với đó là tác động của nền kinh tế - xã hội tới khu vực trong giai đoạn này thì sự nghiệp giáo dục cả nước nói chung và ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc nói riêng, nhìn một cách tổng quát thì giáo dục của khu vực đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, tạo nên bước chuyển mình tích cực của khu vực: quy mô trường lớp ngày càng mở rộng, chất lượng giáo dục cao hơn trước, nạn mù chữ được xóa bỏ, toàn vùng đã đạt phổ cập giáo dục tiểu học và nhiều địa bàn đang thực hiện phổ cập THCS, các trường học được mở rộng đặc biệt trường dân tộc nội trú mọc lên ngày một nhiều ở những địa bàn vùng cao 44
  51. Về quy mô giáo dục: “từ các trường dân tộc nội trú cho đến trường bán trú dân nuôi phát triển rộng khắp, hệ thống cơ sở giáo dục đa dạng với đầy đủ các cấp, bậc học về cơ bản đáp ứng nhu cầu của việc dạy và học”. Tính đến năm 2000, tất cả các xã trên địa bàn của tỉnh Lai Châu đều có trường Tiểu học, trong đó hầu hết là trường Tiểu học toàn cấp. Số lượng các trường THCS và THPT ngày càng phát triển, mỗi huyện, thị có từ 1-2 trường THPT; trường THPT Chuyên của tỉnh cũng được thành lập. Hệ thống trường DTNT có ở tất cả các huyện, các trường dân nuôi ngày càng phát triển. Số học sinh huy động đến trường hàng năm tăng 11,5%. Hệ thống GDTX đang trên đà phát triển, đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh, cán bộ, nhân dân các dân tộc. Ở tỉnh Lạng Sơn, chỉ trong vòng vài năm trở lại đây từ năm 2006 - 2009, số lượng trường lớp ở Lạng Sơn đã tăng lên nhanh chóng, (từ 580 trường lên 638 trường, tăng 58 trường) tạo điều kiện cho các em học sinh được học lên cao, nâng cao dân trí. Bên cạnh việc tăng về quy mô, số lượng, chất lượng giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng gần biên giới có bước chuyển biến tích cực, không chỉ thực hiện được công bằng trong giáo dục được đảm bảo mà còn “đáp ứng được nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân; nâng cao được trình độ nhận thức và kĩ năng nghề nghiệp của người lao động, góp phần đáp ứng yêu cầu cung cấp một nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Tỉnh Tuyên Quang, đến năm 1996 - 1997, số học sinh tiểu học trong độ tuổi 6 - 14 tuổi đạt tỷ lệ 97%, so với năm học 1992 – 1993 tăng 21,6%. Số học sinh tốt nghiệp tiểu học được huy động không hạn chế vào học THCS, đạt tỷ lệ 97,2%. Tỷ lệ lưu ban trong giai đoạn này giảm đáng kể. Bậc tiểu học gần như không có học sinh lưu ban, bậc THCS và THPT, tỷ lệ này luôn ở dưới mức 1%. Tỷ lệ tốt nghiệp các cấp luôn đạt trên 90%. Tỷ lệ trúng tuyển ĐH, CĐ liên tục tăng lên, năm sau cao hơn năm trước: năm 2006 đạt 10,65%, năm 2007 đạt 14,59%, năm 2008 đạt 16,01% và năm 2009 đạt 16,81%. Cho thấy tỉ lệ dân số biết chữ và được đến trường cũng như đi học đúng độ đuổi đã có chuyển biến tích cực hơn so với giai đoạn trước và không dừng ở mức độ biết chữ mà còn nâng cao trình độ của mình ở các cấp bậc cao hơn. Ở tỉnh Lào Cai giáo dục có những bước khởi sắc rõ nét. “Năm 2000, Lào Cai hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học - chống mù chữ; năm 2005 đạt chuẩn giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; năm 2007 đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở”. Ở tỉnh Lai Châu, “tính đến năm 2009, học lực của các cấp từ mầm non đến giáo dục trung học, giáo dục thường xuyên - chuyên nghiệp có sự cải thiện hơn trước; tỷ lệ huy động trẻ đúng tuổi vào lớp 1 đạt 99,5%; trẻ hoàn thành chương trình Tiểu học và nhập học đúng tuổi vào 45