Khóa luận Thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về diện và hàng thừa kế

pdf 20 trang tranphuong11 27/01/2022 8320
Bạn đang xem tài liệu "Khóa luận Thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về diện và hàng thừa kế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_thuc_tien_ap_dung_va_phuong_huong_hoan_thien_phap.pdf

Nội dung text: Khóa luận Thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về diện và hàng thừa kế

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ-LUẬT KHOA LUẬT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ SVTH: VŨ MINH HIẾU MSSV: K165031950 TP. HCM, NĂM 2020
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ-LUẬT KHOA LUẬT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ SVTH: VŨ MINH HIẾU MSSV: K165031950 TP.HCM, NĂM 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp “ thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về diện và hàng thừa kế “ là công trình nghiên cứu của bản thân. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo trong luận án đã được nêu rõ trong phần tài liệu tham khảo. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận án là hoàn toàn trung thực, nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm, mọi kỉ luật của khoa và nhà trường đề ra. TP.Hồ Chí Minh , ngày tháng năm Vũ Minh Hiếu
  4. LỜI CẢM ƠN “Lời đầu tiên, em xin trân trọng cảm ơn thầy đã hướng dẫn em là TS. Nguyễn Đình Huy, thầy đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình học tập cũng như hoàn thành luận văn. Xin chân thành cảm ơn quý thầy,cô khoa Luật của trường Đại học Kinh Tế -Luật đã tận tình giảng dạy cho em tận tình trong thời gian em theo học tại trường. Do giới hạn kiến thức và khả năng lý luận của bản thân còn nhiều thiếu sót và hạn chế, kính mong sự chỉ dẫn và đóng góp ý kiến của quý thầy, cô để bài luận văn của em hoàn thiện thêm. Em xin chân thành cảm ơn!”
  5. DANH MỰC TỪ VIẾT TẮT Chữ cái viết tắt/ký Cụm từ đầy đủ TT hiệu BLDS 2015 Bộ luật Dân sự năm 2015 BLTTDS 2015 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Luật HN&GĐ 2014 Luật Hôn nhân&gia đình 2014 PLTK Pháp lệnh thừa kế SL Sắc lệnh TANDTC Tòa án nhân dân tối cao TANDCC Tòa án nhân dân cấp cao UBND Ủy ban nhân dân
  6. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 1.Tính cấp thiết của đề tài 1 2.Tình hình nghiên cứu 2 3.Phạm vi nghiên cứu của đề tài 4 4.Phương pháp nghiên cứu 4 5.Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài 4 6.Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn 5 7.Kết cấu của luận văn 5 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ 6 1.1 Khái niệm chung 6 1.1.1 Thừa kế và quyền thừa kế 6 Một trong những yếu tố để đánh giá sự vững mạnh của một quốc gia đó chính là sự bảo hộ của Nhà nước về các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như việc kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Trên tinh thần đó, quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ. 6 1.1.2 Di sản thừa kế 7 1.1.3. Người để lại di sản thừa kế 8 1.1.4. Người thừa kế 8 1.2 Diện và hàng thừa kế 9 1.2.1 Khái quát chung về diện và hàng thừa kế 9 1.2.2 Cơ sở xác định diện và hàng thừa kế 12 1.3 Diện thừa kế theo pháp luật Việt Nam 13 1.3.1 Diện thừa kế theo quan hệ hôn nhân 14 1.3.2 Diện thừa kế theo quan hệ huyết thống 18 1.3.3 Diện thừa kế theo quan hệ nuôi dưỡng 25 1.4 Hàng thừa kế theo pháp luật 30 1.4.1 Hàng thừa kế thứ nhất 33 1.4.2 Hàng thừa kế thứ 2 36
  7. 1.4.3 Hàng thừa kế thứ 3 37 Kết luận chương 1 40 CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ 41 2.1.Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế 41 2.1.1:Thực trạng giải quyết tranh chấp về thừa kế những năm gần đây 41 2.1.2 Nguyên nhân của thực trạng những vướng mắc khi xử lý vụ án về diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam 45 2.1.3 Diện và hàng thừa kế theo pháp luật- Một số điểm hạn chế 48 2.1.4 Kiến nghị hoàn thiện 51 2.2 So sánh diện và hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt nam với quy định của một số nước trên thế giới 53 2.2.1 Diện và hàng thừa kế của Nhật Bản 53 2.2.2 Diện và hàng thừa kế theo pháp luật cộng hòa Pháp 55 2.2.3 Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Nga 56 2.2.4 Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Iran 58 KẾT LUẬN 59 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  8. 1 LỜI MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Quyền thừa kế ra đời là một trong những phương thức pháp lý để bảo toàn và gia tăng tích lũy của cải trong xã hội. Nhà nước đã công nhận quyền thừa kế của cá nhân đối với tài sản, coi thừa kế là một trong những căn cứ xác lập quyền sở hữu. Điều này không chỉ có tác dụng kích thích tính tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng mà còn tạo động lực đẩy mạnh niềm say mê, kích thích sự quản lý năng động của mỗi con người tạo ra khối tài sản của mình. Khi một người chết đi, tài sản của họ để lại sẽ trở thành di sản và được phân chia cho các thế hệ con cháu, sự dịch chuyển di sản theo chế định thừa kế chính là sự nối tiếp về quyền sở hữu. Pháp luật công nhận quyền thừa kế đã đáp ứng phần nào mong ước của con người là tồn tại mãi mãi. Chính vì thế, pháp luật thừa kế trên thế giới nói chung và pháp luật thừa kế ở Việt Nam nói riêng đã không ngừng phát triển và hoàn thiện chế định này. Tại Việt Nam, sớm nhận thức được vai trò đặc biệt quan trọng của thừa kế, nên ngay những ngày đầu mới dựng nước, các triều đại Lý, Trần, Lê cũng đã quan tâm đến ban hành pháp luật về thừa kế. Pháp luật thành văn về thừa kế ở nước ta, lần đầu tiên được quy định trong chương "Điền sản" của Bộ Luật Hồng Đức dưới triều vua Lê Thái Tổ. Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng, xây dựng CNXH ở nước ta, các quy định này đã được ghi nhận, mở rộng, phát triển và được thực hiện trên thực tế tại các Điều 19 Hiến Pháp 1959 "Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo vệ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân". Điều 27 Hiến Pháp 1980 "Nhà nước bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân", Điều 58 Hiến Pháp1992, Hiến Pháp 2013 và đặc biệt là sự ra đời của Bộ luật Dân sự 1995, Bộ Luật Dân Sự 2005 và sau đó là BLDS 2015.Bộ luật đã đánh dấu một bước phát triển của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng. Bộ Luật Dân Sự 2015 được xem là kết quả cao của quá trình pháp điển hoá những quy định của pháp luật về thừa kế. Nó kế thừa và phát triển những quy định phù hợp với thực tiễn, không ngừng hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của người thừa kế một cách có hiệu quả nhất. Hiện nay các tranh chấp về thừa kế có xu hướng ngày càng gia tăng và trở nên phức tạp hơn. Sự nhận thức không đầy đủ về pháp luật của cá nhân, sự áp dụng pháp luật không
  9. 2 thống nhất giữa các cấp Tòa án là những yếu tố làm cho các vụ kiện gặp nhiều khó khăn, thời gian giải quyết kéo dài, ảnh hưởng không tốt đến truyền thống đạo đức tốt đẹp vốn có từ lâu đời của dân tộc Việt Nam ta. Đặc biệt hơn, một trong những khó khăn vướng mắc lớn nhất khi áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp về thừa kế chính là vấn đề xác định làm sao cho đúng về diện và hàng thừa kế. Trong vấn đề thừa kế theo pháp luật, nó là vấn đề vô cùng quan trọng. Nó xác định phạm vi và thứ tự được hưởng thừa kế của những người được hưởng thừa kế. Hiện nay quy định của pháp luật tuy đã khá chặt chẽ nhưng thực tế vẫn còn những điểm cần khắc phục, bởi vậy em đã chọn đề tài “Thực tiễn áp dụng pháp luật và phương hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế” để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, phân tích, kiến nghị để làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về diện và hàng thừa kế trong chế định thừa kế theo pháp luật là một đòi hỏi tất yếu, khách quan cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế. 2.Tình hình nghiên cứu Hiện nay, các đề tài nghiên cứu về thừa kế tương đối nhiều và ở các cấp độ khác nhau như khóa luận cử nhân, luận văn cao học và các luận án tiến sĩ. Ngoài ra, còn một số bài viết trong các tạp chí luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội, tạp chí dân chủ và pháp luật của Bộ Tư pháp, tạp chí Tòa án nhân dân + Các luận án tiến sĩ: - Phùng Trung Tập: “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay”. Luận án nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của thừa kế theo pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Nội dung chủ yếu của luận án làm rõ các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến việc điều chỉnh pháp luật về diện và hàng thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam. - Phạm Văn Tuyết: “Thừa kế theo di chúc bộ luật dân sự Việt Nam”. Đề tài nghiên cứu những vấn đề như: khái niệm về di chúc, quyền của người lập di chúc, các điều kiện có hiệu lực của di chúc. +Luận văn cao học: - Nguyễn Thị Vĩnh: “Thừa kế theo pháp luật trong BLDS Việt Nam”. Nội dung chủ yếu gồm các vấn đề sau: khái niệm thừa kế theo pháp luật, diện và hàng thừa kế, thừa kế thế vị, các trường hợp thừa kế theo pháp luật.
  10. 3 - Nguyễn Thị Hồng Bắc: “Một số vấn đề thừa kế theo pháp luật trong BLDS Việt Nam”. Đề tài nghiên cứu có tính sơ lược về lịch sử của thừa kế theo pháp luật ở Việt Nam, một số nguyên tắc chủ yếu của thừa kế, các trường hợp thừa kế theo pháp luật, căn cứ phân chia hàng thừa kế. + Các công trình nghiên cứu khác: - Viện khoa học pháp lý: “Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của BLDS”. Các tập bình luận phân tích nội dung cơ bản của qui định trong BLDS 1995 nói cung và các quy định về thừa kế nói riêng. - Việc nghiên cứu về nhà nước và pháp luật:” Những vấn đề cơ bản về BLDS Việt Nam”. Đây là số tạp chí chuyên đề về BLDS (số 5/1995). Trong đó có chuyên đề về chế định thừa kế trong BLDS. Chuyên đề này nghiên cứu các nguyên tắc cơ bản của điều chỉnh pháp luật về thừa kế, căn cứ khoa học để phân chia các hàng thừa kế. - Trường Đại học Luật Hà Nội, số tạp chí chuyên đề về BLDS (1996). Trong đó có bài viết về những điểm mới của di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS so với pháp lệnh thừa kế 1990 - Tòa án nhân dân tối cao: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các tranh chấp thừa kế tại tòa án nhân dân”. Đây là công trình nghiên cứu về thừa kế, nội dung chủ yếu của đề tài là các vấn đề thực tiễn xét xử của tòa án trong việc giải quyết tranh chấp về thừa kế. - Nguyễn Ngọc Điện: “Một số suy nghĩ về thừa kế trong BLDS”. Tác giả so sánh pháp luật về thừa kế của Việt Nam qua các thời kỳ phát triển và so với chế định thừa kế trong bộ luật dân sự Pháp. Do tầm quan trọng của vấn đề thừa kế nên nội dung này đã được rất nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm, nghiên cứu. Nguyễn Ngọc Điện là tác giả của cuốn "Bình luận khoa học về thừa kế trong Bộ luật dân sự Việt Nam". Đinh Văn Thanh - Trần Hữu Biền có tác phẩm "Hỏi đáp về pháp luật thừa kế". Tất cả các công trình nghiên cứu trên có phạm vi rộng, mang tính toàn diện, bao quát cả chế định pháp luật về thừa kế, và đưa ra những kiến nghị để ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về thừa kế. Riêng với đề tài " Diện và hàng thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam ", tác giả tập trung đi sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung, bản chất của diện và hàng thừa kế được quy định trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra
  11. 4 một số kiến nghị mang tính giải pháp để ngày càng hoàn thiện hơn những quy định về nội dung này trong luật. Đây thực sự là những công trình có giá trị lớn trong cả khoa học lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này hoặc đề cập đến những vấn đề mang tính khái quát chung về chế định thừa kế qua các thời kỳ hoặc chỉ đi sâu vào phân tích một quan hệ thừa kế nhất định chứ chưa nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về vấn đề thừa kế theo pháp luật hiện hành. Thừa kế theo pháp luật nói chung hay diện và hàng thừa kế theo pháp luật nói riêng không phải là đề tài mới nhưng với sự thay đổi từng ngày từng giờ của các quan hệ xã hội, quan hệ tài sản đòi hỏi phải có những quy phạm pháp luật mới để điều chỉnh. Do đó, việc nghiên cứu kịp thời để có hướng đề xuất các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề này cho phù hợp với thực tiễn là hết sức cần thiết. 3.Phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, nội dung, bản chất quy định của pháp luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế. Khi nghiên cứu đề tài, tác giả sẽ tham khảo toàn bộ các quy định pháp luật của nước ta về diện và hàng thừa kế gắn với từng giai đoạn trong lịch sử theo sự phát triển của đất nước, trong các sách chuyên khảo, đặc biệt là các quy định trong Bộ Luật Dân Sự 2015, so sánh với các quy định của một số nước trên thế giới về diện và hàng thừa kế qua đó có cái nhìn về diện và hàng thừa kế theo pháp luật hiện hành một cách tổng quát hơn, cụ thể hơn. 4.Phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên cơ sở lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Bên cạnh đó còn có sự phối hợp với một số phương pháp khác như: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và phương pháp tổng hợp. 5.Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ nội dung và bản chất của diện và hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam qua từng giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, xác định đúng, chính xác những người thuộc diện thừa kế và thứ tự hưởng ưu tiên theo quy định của BLDS năm 2015. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả rút ra những vướng mắc còn tồn tại khi áp dụng quy định của pháp luật về diện và hàng thừa kế. Từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị mang
  12. 5 tính giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại, góp phần hoàn thiện hơn các quy định về thừa kế 6.Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực thừa kế. Có những công trình khoa học nghiên cứu vấn đề nội dung này một cách toàn diện, bao quát, nhưng cũng có những công trình chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhỏ của chế định thừa kế. Đề tài luận văn này không phải là đề tài nghiên cứu mới. Đã có những tác giả chọn để làm công trình nghiên cứu riêng của mình ở nhiều cấp độ khác nhau. Tuy nhiên khi chọn đề tài nghiên cứu này tôi đã nghiên cứu một cách chi tiết về từng diện và từng hàng thừa kế gắn với từng quy định của mỗi giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, tôi đã so sánh với các quy định của một số nước về diện và hàng thừa kế qua đó làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hiện hành và tìm ra những vướng mắc còn tồn tại trên thực tế để đề xuất kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế. 7.Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: lý luận chung về diện và hàng thừa kế Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật và phương hướng hoàn thiện pháp luật về diện và hàng thừa kế
  13. 6 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ 1.1 Khái niệm chung 1.1.1 Thừa kế và quyền thừa kế Một trong những yếu tố để đánh giá sự vững mạnh của một quốc gia đó chính là sự bảo hộ của Nhà nước về các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như việc kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Trên tinh thần đó, quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ. Để hiểu và nhận thức sâu sắc về khái niệm quyền thừa kế trước hết phải làm sáng tỏ nội dung khái niệm thừa kế. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì "Thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống" hay theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp thì thừa kế được giải thích là "Sự dịch chuyển tài sản của người chết cho người còn sống. Thừa kế luôn gắn với sở hữu. Khi nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ sở hữu và quan hệ thừa kế đã tồn tại như một tất yếu khách quan. Thừa kế xuất hiện phụ thuộc vào quan hệ sở hữu. Nếu sở hữu là yếu tố quyết định thừa kế, thì thừa kế là phương tiện duy trì và củng cố quan hệ sở hữu. Nghiên cứu tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người đã chỉ ra rằng quan hệ thừa kế xuất hiện như một tất yếu khách quan cùng với quan hệ sở hữu. Khi thừa kế tài sản chưa có sự can thiệp của Nhà nước thì thừa kế đơn thuần chỉ là quan hệ xã hội mang tính kinh tế. Khi Nhà nước ra đời, thông qua các quy phạm pháp luật, Nhà nước đã điều chỉnh, tác động đến quá trình dịch chuyển tài sản nói trên bao gồm cả quyền để lại tài sản cũng như quyền hưởng di sản của các chủ thể được gọi chung là quyền thừa kế. Như vậy, khác với thừa kế xuất hiện ngay từ thời kỳ sơ khai, khi xã hội chưa có sự phân chia giai cấp, khái niệm quyền thừa kế chỉ xuất hiện khi có sự xuất hiện của Nhà nước và pháp luật. Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế có thể được hiểu là một chế định pháp luật bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quá trình dịch chuyển tài sản từ người chết cho người còn sống. Theo nghĩa hẹp, quyền thừa kế có thể được hiểu là một quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể có quyền để lại di sản thừa kế hoặc có quyền hưởng di sản thừa kế của người chết để lại theo ý chí của người đó khi còn sống (bằng di chúc) hoặc theo điều kiện, trình tự và thủ tục do pháp luật quy định (thừa kế theo pháp luật). Pháp luật thừa kế ở nước ta trước hết nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động, tôn trọng thành quả lao động do họ làm ra cũng như chuyển thành kết quả đó cho những người thừa kế sau khi họ chết. Mặt khác, quyền thừa kế ở nước ta là một trong những phương tiện
  14. 7 để củng cố và phát triển các quan hệ hôn nhân gia đình, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể trong quan hệ thừa kế, đặc biệt bảo vệ lợi ích của người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động. Qua đó góp phần bảo đảm quyền sở hữu cho mọi cá nhân trong xã hội. Tóm lại, thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của một người đã chết sang cho người còn sống theo những trình tự luật định. Quyền thừa kế của một cá nhân gắn bó chặt chẽ với quyền sở hữu của cá nhân đó. Quyền sở hữu là tiền đề, là cơ sở của quyền thừa kế và ngược lại, quyền thừa kế là căn cứ thiết lập quyền sở hữu mới. Vì vậy, hệ thống pháp luật dân sự của tất cả các nước trên thế giới bao giờ cũng qui định về vấn đề thừa kế như là một phương thức bảo đảm quyền sở hữu của chủ sở hữu. Thừa kế theo pháp luật về bản chất vừa bảo vệ quyền đương nhiên của người có tài sản được để lại tài sản của họ khi họ chết, vừa bảo vệ quyền của những người có quan hệ huyết thống, gia đình hay thân thuộc với người đã chết có tài sản để lại. 1.1.2 Di sản thừa kế Theo Từ điển tiếng Việt: "Di sản là của cải, tài sản của người chết để lại" Điều 612 BLDS năm 2015 quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác". Di sản được Điều 612 BLDS quy định một cách ngắn gọn nhưng khá đầy đủ và có tầm khái quát cao, không dùng phương pháp liệt kê bao gồm những tài sản gì như những quy định trước đây. Như vậy, di sản là toàn bộ những tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đã chết cũng như các quyền về tài sản của người đó bao gồm: Tư liệu sinh hoạt; Tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý được dùng làm đồ trang sức hoặc dùng làm của cải để dành, tiền tiết kiệm ngân hàng, tiền lương, tiền thưởng chưa lĩnh; Nhà ở thuộc sở hữu của người chết; Vốn, cổ phần, vật tư, tư liệu sản xuất của người chết; Tài liệu, dụng cụ máy móc của người làm công tác nghiên cứu; Cây cối mà người được giao sử dụng đất trồng và hưởng lợi trên đất đó; Các quyền về tài sản đó là quyền đòi nợ đồ vật đã cho mượn, cho thuê, chuộc lại tài sản đã cầm cố, quyền đối với tài sản đã thế chấp, đã bồi thường thiệt hại về tài sản, hưởng những quyền lợi của tác giả hoặc chủ sở hữu văn bằng, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, quyền tác giả đối với tác phẩm.
  15. 8 Tóm lại, di sản được Điều 612 BLDS quy định một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ và có tính khái quát cao. Điều này thể hiện trình độ và kỹ thuật lập pháp của nước ta đã đạt được một kết quả nhất định. Tuy nhiên, đây là một vấn đề phức tạp và có liên quan đến nhiều vấn đề khác trong quan hệ thừa kế mà chỉ được quy định trong một điều luật nên khi nghiên cứu cũng như khi xét xử phải đặt nó trong mối liên hệ biện chứng với các quy phạm pháp luật khác liên quan trực tiếp đến việc xác định và phân chia di sản. Bởi vậy, việc xác định quyền sở hữu của một người để từ đó xác định di sản khi người đó chết còn gặp nhiều vướng mắc về mặt lý luận cũng như thực tiễn. 1.1.3. Người để lại di sản thừa kế Quyền để lại thừa kế là một quyền cơ bản của cá nhân được pháp luật Việt Nam ghi nhận và bảo hộ. Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu của mọi cá nhân đối với những thu nhập hợp pháp của họ. do đó bất kỳ cá nhân nào cũng có quyền quyết định đối với các loại tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của mình. Vì thế cá nhân có quyền lập di chúc cho người khác hưởng tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của mình sau khi mình chết, nếu không có di chúc thì tài sản này được chia theo pháp luật. Cần lưu ý rằng, người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân, không thể là các pháp nhân hay tổ chức. Các pháp nhân hay tổ chức được thành lập với những mục đích và nhiệm vụ khác nhau và tài sản của các pháp nhân, tổ chức đó nhằm để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của chính pháp nhân, tổ chức. Khi các pháp nhân, tổ chức đó đình chỉ hoạt động của mình (phá sản, giải thể ) tài sản của các pháp nhân, tổ chức được giải quyết theo các quy định của pháp luật. Các pháp nhân, tổ chức chỉ tham gia quan hệ thừa kế với tư cách là người được hưởng di sản theo di chúc. 1.1.4. Người thừa kế Người thừa kế là người hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân, tổ chức nhưng người thừa kế theo pháp luật thì chỉ có thể là cá nhân và phải có quan hệ hôn nhân, gia đình hoặc nuôi dưỡng đối với người để lại di sản. Giữa người để lại di sản và người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ pháp lý với nhau. Người thừa kế có quyền sở hữu đối với phần di sản thừa kế, đồng thời họ phải có trách nhiệm với những nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản. Điều 613 BLDS năm 2015 quy định:
  16. 9 “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm 1 mở thừa kế” . • Trường hợp người không được quyền hưởng di sản: Là những trường hợp người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật bị tước quyền hưởng di sản vì họ không xứng đáng được hưởng quyền đó. Khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015 quy định những trường hợp không được quyền hưởng di sản. Mặc dù những trường hợp nói trên là những trường hợp không được quyền hưởng di sản nhưng khoản 2 Điều 621 BLDS 2015 quy định những người đó vẫn được hưởng di sản "nếu người để lại di sản biết những hành vi của những người đó nhưng vẫn cho họ hưởng thừa kế theo di chúc". Việc không cho hưởng quyền nhận di sản được thực hiện sau khi mở thừa kế. Trong thực tế xảy ra trường hợp làm giả mạo giấy tờ về người thừa kế khác từ chối nhận di sản thừa kế để cho người đó được hưởng nhiều hơn. Giấy tờ này không có giá trị pháp lý nhưng pháp luật không quy định trường hợp này là trường hợp không được hưởng quyền nhận di sản. Đây là một vấn đề mà các nhà lập pháp cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật hơn nữa. 1.2 Diện và hàng thừa kế 1.2.1 Khái quát chung về diện và hàng thừa kế * Diện thừa kế Diện thừa kế là một trong những nội dung quan trọng của chế định thừa kế, tuy nhiên vấn đề này lại chưa thực sự được các nhà làm luật quan tâm quy định cụ thể, chi tiết trong luật. Khái niệm diện thừa kế chỉ được quan tâm nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học pháp lý. Còn luật thực định từ trước đến nay chưa có văn bản nào quy định cụ thể về vấn đề này. BLDS 1995, 2005 cũng như BLDS năm 2015 chưa có nội dung nào quy định về khái niệm diện thừa kế là gì và diện thừa kế bao gồm những ai? Đây là một vấn đề cần được khắc phục trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam. 1 BLDS 2015
  17. 10 Theo giáo trình Luật dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội diện thừa kế được hiểu là "phạm vi những người có quyền hưởng di sản của người chết theo quy định của pháp luật"2. Nhìn chung, khái niệm nêu trên đã phản ánh đầy đủ nội dung cũng như bản chất của diện thừa kế. Diện thừa kế chỉ được đặt ra trong trình tự thừa kế theo pháp luật. Mà pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào quan hệ sản xuất của từng giai đoạn phát triển xã hội. Vì thế ở mỗi một chế độ xã hội nhất định mà phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật lại được quy định ở diện rộng hẹp khác nhau. Tiếp cận và tìm hiểu những quy định của pháp luật của một số nước trên thế giới về diện thừa kế cho thấy mặc dù có sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhưng nhìn chung dù ở chế độ xã hội nào những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật đều có đặc điểm chung là những người thân thích gần gũi với người để lại di sản thừa kế và do quan hệ hôn nhân và gia đình chi phối. Pháp luật của Nhật và các nước Nam Mỹ quy định diện thừa kế bao gồm các con của người chết; cha, mẹ, anh, chị, em ruột của người chết; bà con xa, gần khác. Một số nước như Đức, áo, Thụy Sĩ quy định: Bà con bậc trên, thế hệ trên của người chết như: cha, mẹ, cố, cụ; bà con bậc dưới, thế hệ dưới của người chết như con, cháu. Điều 1629 Bộ luật thương mại Thái Lan quy định diện thừa kế là: Con cái; bố, mẹ; anh, chị, em cùng huyết thống; anh, chị, em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà; chú, bác, cô, dì; người vợ (hoặc người chồng còn sống). Ở nước ta, trước năm 1945 dưới chế độ thực dân phong kiến, tư tưởng trọng nam khinh nữ nặng nề đã ảnh hưởng sâu sắc đến việc xác định diện thừa kế. Địa vị của người vợ trong quan hệ gia đình luôn bị đẩy xuống bậc thứ yếu so với các con và người chồng trong những quan hệ xã hội thông thường và ngay cả trong quan hệ thừa kế. Ngược lại với bản chất pháp luật của chế độ thực dân, phong kiến, pháp luật thừa kế dưới chế độ mới ở nước ta đã được thể hiện rõ bản chất ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Điều 9 Hiến pháp 1946 quy định: "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện", trong đó người vợ có quyền thừa kế như những người con khác khi chồng chết trước. Đặc biệt, khi sắc lệnh số 97-SL ngày 22 tháng 5 năm 2 Giáo trình Luật dân sự- Đại học Luật Hà Nội , tr.266
  18. 11 1950 được ban hành, diện thừa kế theo pháp luật theo tinh thần của Điều 10 và Điều 11 bao gồm: con cháu, vợ hay chồng của người để lại di sản. Như vậy, diện thừa kế theo pháp luật dưới chế độ mới ở nước ta kể từ năm 1945 đến nay luôn được xác định theo quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng giữa người để lại di sản và người thừa kế. Một người có thể trở thành người thừa kế theo pháp luật đối với di sản của người chết thì giữa họ phải có mới quan hệ nhất định khi người để lại di sản còn sống. Mối quan hệ này là sợi dây ràng buộc họ bởi quyền của người này và nghĩa vụ của người kia hoặc là bổn phận và trách nhiệm giữa họ khi người để lại di sản còn sống. Những mối quan hệ được bắt nguồn từ sâu xa của giá trị đạo đức truyền thống cùng sự phù hợp với pháp luật của một chế độ xã hội nhất định. Theo BLDS hiện hành thì những người thuộc diện thừa kế gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, mẹ nuôi, cha nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh, chị, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. Tóm lại, diện thừa kế bao gồm các cá nhân còn sống có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản được tính đến thời điểm mở thừa kế của người đó và những cá nhân sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Phạm vi những cá nhân thuộc diện thừa kế được xác định theo số người được pháp luật chỉ định trong các hàng thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. * Hàng thừa kế Khác với thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật phải xác định được người thuộc diện thừa kế là ai? Nhưng không phải tất cả những người thuộc diện thừa kế đều được hưởng di sản thừa kế như nhau, mà theo mức độ quan hệ với người để lại di sản thừa kế, pháp luật phân những người thuộc diện thừa kế thành các hàng thừa kế. Những nhóm người được pháp luật xếp trong cùng một hàng được hưởng phần di sản bằng nhau được gọi là hàng thừa kế. Không phải tất cả những người thuộc diện được hưởng thừa kế đều được hưởng phần di sản như nhau, mà tùy thuộc vào mức độ quan hệ với người để lại di sản, pháp luật phân những người thuộc diện được hưởng thừa kế thành các hàng