Khóa luận Thể luận trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thể luận trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_the_luan_trong_van_hoc_trung_dai_viet_nam_giai_doa.pdf
Nội dung text: Khóa luận Thể luận trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX
- TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== KHÚC THỊ HÀ THỂ LUẬN TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI - 2018
- TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN === === KHÚC THỊ HÀ THỂ LUẬN TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. LÊ THỊ HẢI YẾN HÀ NỘI - 2018
- LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc nhất đến ThS. Lê Thị Hải Yến - Giảng viên Tổ Văn học Việt Nam, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo Tổ Văn học Việt Nam cùng các thầy, cô trong Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này. Khóa luận được hoàn thành song không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, tôi rất mong nhận được những đóng góp ý kiến từ phía thầy cô và các bạn để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 26 tháng 04 năm 2018 Tác giả khóa luận Khúc Thị Hà
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận này là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn của ThS. Lê Thị Hải Yến. Nếu phát hiện có bất kỳ gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng, cũng như kết quả khóa luận của mình. Hà Nội, ngày 26 tháng 04 năm 2018 Tác giả khóa luận Khúc Thị Hà
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3 3.1. Mục đích 3 3.2. Nhiệm vụ 4 4. Đối tƣợng nghiên cứu 4 5. Phạm vi nghiên cứu 4 6. Phƣơng pháp nghiên cứu 4 7. Đóng góp của khóa luận 5 8. Bố cục khóa luận 5 NỘI DUNG 6 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 6 1.1. Thể luận trong văn học trung đại Việt Nam 6 1.1.1. Nguồn gốc, khái niệm 6 1.1.2. Diện mạo 8 1.2. Thể luận trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX 11 1.2.1. Tình hình lịch sử xã hội, văn hóa tư tưởng Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX 11 1.2.2. Hai tác giả tiêu biểu 16 1.2.2.1. Nguyễn Trường Tộ 16 1.2.2.2. Nguyễn Lộ Trạch 19 Tiểu kết chƣơng 1 24 Chƣơng 2: HỆ THỐNG VẤN ĐỀ BÀN LUẬN CHỦ YẾU 25
- TRONG THỂ LUẬN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX 25 2.1. Kế sách canh tân đất nƣớc 25 2.1.1. Về chính trị, quân sự 25 2.1.2. Về kinh tế 31 2.1.3. Về văn hóa - xã hội 34 2.2. Kế sách chống chọi với kẻ thù 40 Tiểu kết chƣơng 2: 48 Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT 49 3.1. Kết cấu và lập luận 49 3.2. Ngôn ngữ 54 3.3. Giọng điệu 58 Tiểu kết chƣơng 3: 61 KẾT LUẬN 62 TÀI LIỆU THAM KHẢO
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Luận là một thể văn của văn chính luận. Trên hành trình tiếp cận với tác phẩm văn học, không thể bỏ qua đặc trưng thể loại của tác phẩm. Như M. Bakhtin đã nói “thể loại mới chính là nhân vật số một của văn học”. Chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu các tác phẩm viết bằng thể luận từ góc độ thể loại là cần thiết và ý nghĩa. Vấn đề về thể luận được nhiều nhà văn chính luận quan tâm và tìm hiểu. Tuy nhiên chưa có giáo trình nào viết về thể luận và cũng chưa có công trình nghiên cứu nào được thực hiện. Chính vì vậy, chúng tôi quyết định chọn đề tài Thể luận trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX để nghiên cứu nhằm thấy được những vấn đề về: khái niệm, diện mạo, phương diện nội dung và nghệ thuật của thể luận. Khẳng định những đóng góp của thể luận trong văn học trung đại Việt Nam. Trong những năm nửa cuối thế kỷ XIX, sự xâm lược của thực dân Pháp đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử Việt Nam. Một vấn đề được đặt ra trong chính sách đối ngoại của các nước phương Đông là làm thế nào để bảo vệ được nền độc lập dân tộc và bảo tồn được các giá trị văn hóa trước sự bành trướng và xâm lược của thực dân phương Tây. Trong giải pháp của các nước Đông Bắc Á được xây dựng trên nền tảng Nho Giáo như Trung Quốc, Nhật Bản ta có thể tìm thấy một nét chung là: cố gắng hòa nhập yếu tố cũ và mới, truyền thống và hiện đại trên bước đường phát triển của đất nước. Nhưng tình hình ở nước ta dưới triều Nguyễn lại diễn ra hoàn toàn khác. Trước vận mệnh sống còn của đất nước những nhà văn chính luận thức thời lúc đó đã trăn trở, suy ngẫm và cuối cùng bật lên những tư tưởng sáng chói tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch. Những tác phẩm viết bằng thể luận của Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch góp phần quan trọng trong công 1
- cuộc đấu tranh dựng nước, giữ nước và thể hiện sâu sắc tư tưởng của con người Việt Nam. Ngoài ra, bản thân là một giáo viên trong tương lai, với mong muốn được bổ sung thêm kiến thức chuyên ngành, nghiên cứu sẽ giúp tôi có thêm những hiểu biết sâu sắc về thể luận và những tác phẩm thuộc thể loại luận. Đặc biệt, có cái nhìn rộng hơn về văn học thời trung đại. Đó là những lí do mà chúng tôi chọn đề tài “Thể luận trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX”. Hi vọng rằng, nghiên cứu về đề tài này sẽ phần nào làm rõ đặc trưng về nội dung, nghệ thuật cũng như đánh giá đúng vai trò của thể luận trong văn học trung đại Việt Nam. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Khi nghiên cứu về thể luận trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX trước hết chúng tôi đi nghiên cứu về thể luận nói chung. Để tìm hiểu về thể luận đã có cuốn sách viết về thể luận tiêu biểu là: Thi pháp Văn học trung đại Việt Nam của Trần Đình Sử, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội (2005). Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã đưa ra khái niệm về thể luận và khái quát được diện mạo của thể luận qua các giai đoạn với những tác phẩm viết bằng thể luận. Tiếp theo, nghiên cứu về thể luận giai đoạn cuối thế kỷ XIX có cuốn tiêu biểu là : Văn chính luận trung đại Việt Nam và Trung Quốc - tiếp biến và phát triển của Nguyễn Đức Thăng trong đề tài khoa học năm 2015. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả cũng đã dẫn ra được khái niệm đồng thời nêu ra được một số đặc trưng về phương diện nội dung, nghệ thuật của thể luận thông qua một số tác phẩm viết bằng thể luận. Bên cạnh đó, để nghiên cứu đề tài này chúng tôi cũng tìm hiểu những tác phẩm của Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch tiêu biểu có những tác phẩm sau: 2
- “Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ cuối thế kỷ XIX” của Chương Châu (1961), Nxb Giáo dục. Công trình nghiên cứu này, khái quát nội dung tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ cuối thế kỷ XIX. “Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo” của Trương Bá Cần (1988), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình nghiên cứu này, đã đề cập tương đối đầy đủ về con người và tư tưởng canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ. “Nguyễn Lộ Trạch điều trần và thơ văn” của Mai Cao Chương - Đoàn Lê Giang (1995), Nxb khoa học xã hội. Công trình nghiên cứu này, đề cập đến cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng canh tân đất nước của Nguyễn Lộ Trạch. “Tư tưởng canh tân đất nước dưới triều Nguyễn” của Đỗ Bang (1999), Nxb Thuận Hóa. Công trình nghiên cứu này, đề cập đến cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ (1828 - 1871). Nguyễn Lộ Trạch (1853 - 1895) những đề xuất trong tư tưởng canh tân ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên, tất cả các tác giả trên chưa tập trung đi sâu vào phân tích kĩ những đặc trưng tiêu biểu của thể loại luận. Vấn đề được nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc nêu khái niệm và kể tên một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu thuộc thể luận. Vẫn còn khoảng trống về diện mạo phát triển qua các giai đoạn, đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thể luận. Vẫn chưa khẳng định được những đóng góp của thể luận trong văn học trung đại Việt Nam. Đặc biệt, chưa ai nghiên cứu những tác phẩm này theo góc nhìn từ góc nhìn thể loại. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Khái quát cơ bản những vấn đề về: khái niệm, diện mạo, đặc trưng thể luận giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX. 3
- Chỉ ra những đặc điểm về phương diện nội dung và nghệ thuật của thể luận. Khẳng định những đóng góp của thể luận trong văn học trung đại Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ Để làm sáng tỏ vấn đề thể luận trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX thì nhiệm vụ của khóa luận đặt ra là: Thứ nhất: đọc, tập hợp và phân tích hệ thống tài liệu liên quan đến thể luận. Thứ hai: thống kê số lượng tác phẩm viết bằng thể luận. Thứ ba: đi vào vào nghiên cứu kế sách canh tân đất nước và chống chọi với kẻ thù của Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch để thấy được đặc trưng nội dung, nghệ thuật của thể luận. 4. Đối tƣợng nghiên cứu Thể luận trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX. Cụ thể là qua các tác phẩm thuộc thể loại luận của hai tác giả tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch. 5. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nội dung: thể luận trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX. Phạm vi tư liệu: Chúng tôi tìm hiểu các tác phẩm thuộc thể luận giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX. Đi sâu vào tìm hiểu những bài luận của hai tác giả Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch. Những tư liệu chúng tôi dùng để nghiên cứu là: Tế cấp luận (1863), Giáo môn luận (1863), Thiên hạ phân hợp đại thể luận (1863), Thời vụ sách thượng (1877), Thời vụ sách hạ (1882), Thiên hạ đại thế luận (1892). 6. Phƣơng pháp nghiên cứu 4
- Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp chủ yếu sau: - Phương pháp nghiên cứu văn học sử. - Phương pháp loại hình. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành. - Các thao tác phân tích, tổng hợp, so sánh. 7. Đóng góp của khóa luận Khái quát lại diện mạo, đặc trưng nội dung và nghệ thuật của thể luận trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX. 8. Bố cục khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, khóa luận tốt nghiệp kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung Chương 2: Hệ thống vấn đề bàn luận chủ yếu trong thể luận Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật 5
- NỘI DUNG Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Thể luận trong văn học trung đại Việt Nam 1.1.1. Nguồn gốc, khái niệm Thể luận là thể văn đã có từ rất lâu đời trong nền văn học cổ Trung quốc. Văn học Trung Quốc có một truyền thống luận rất hùng hậu. Ví như Hàn Dũ có Tranh thần luận; Liễu Tôn Nguyên có Phong kiến luận; Âu Dương Tu có Bản luận, Bằng đảng luận ; Tăng Củng có Đường luận; Tô Tuân có Dịch luận, Nhạc luận, Thi luận, Tư luận; Tô Thức có Phạm Tăng luận, Tu Hầu luận, Lưu Hầu luận, Giả Nghị luận Như vậy thể luận ở Trung Quốc có từ xưa. Thể văn này đã du nhập vào Việt Nam cùng với thời gian Trung Quốc đô hộ Việt Nam. Cụ thể là xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng thế kỷ XIII tiêu biểu là Trần Thái Tông, Lê Văn Hưu và đạt thành tựu tiêu biểu vào nửa cuối thế kỷ XIX với các nhà văn chính luận tiêu biểu như Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch [24; 253, 254]. Để đưa ra một khái niệm thống nhất về luận, chúng tôi tiến hành tìm hiểu thông qua cuốn từ điển. Theo từ điển tiếng Việt: Danh từ (Từ cũ) bài tập làm văn viết bài luận Động từ 1 (Từ cũ) bàn về vấn đề gì, có phân tích lí lẽ luận việc thời sự luận văn chương 2 dựa vào lí lẽ, ý nghĩa mà suy ra chữ viết quá mờ, rất khó luận [40; 758]. 6
- Cuốn Thi pháp văn học trung đại Việt Nam nhà nghiên cứu Trần Đình Sử viết: Luận là một thể văn nhằm phân tích sự lí, phán đoán đúng sai. Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long mục “Luận thuyết” nói “thuật kinh kể lý thì gọi là luận”. “Luận là tổ chức, sắp xếp các ý kiến để làm sáng rõ một chân lí nào đó”. Luận bắt đầu từ Khổng Tử trước đó không có chữ luận. “Luận là thứ tự, sắp xếp các lý lẽ cho có thứ tự, không bị sơ hở thì thành ý không bị sụp đổ”. [24; 203]. Cuốn Văn chính luận Việt Nam và Trung Quốc - tiếp biến, phát triển, Nguyễn Đức Thăng dẫn: “Luận là một thể văn phân tích sự lí, phán đoán đúng sai. Luận là tổ chức, sắp xếp các ý kiến để làm sáng rõ một chân lí nào đó. Luận bắt đầu từ Khổng Tử, trước đó không có chữ luận. Luận khác sử luận vì nó chủ về đạo lí. Tuân Tử có Lễ luận, Nhạc luận, Hán nho có Thạch cừ luận, Bạch hồ luận ” [31; 84]. Tóm lại, theo chúng tôi luận là thuyết minh lí lẽ, đạo đức, phân tích đúng sai, biện bác ý kiến người khác. Ngôn ngữ của luận phải chặt chẽ, có ví dụ thực tế để chứng minh. Cách tổ chức, sắp xếp các ý kiến, triển khai các luận điểm, luận cứ phải theo một thứ tự để làm sáng rõ một chân lí nào đó. Thông qua hệ thống luận điểm, luận cứ và luận chứng, tác động trực tiếp vào lí trí người đọc và người nghe một cách dễ hiểu nhất. Qua đó người đọc thấy được một quan điểm, tư tưởng, lập trường có cơ sở lý luận trong đời sống và học thuật. 7
- 1.1.2. Diện mạo Bảng thống kê các tác phẩm viết bằng thể luận trong văn học trung đại Việt Nam: Giai đoạn Tác giả Tác phẩm Thế kỷ X - hết thế kỷ - Trần Thái Tông Khóa hư lục có: XIV (1218 - 1277) - Phổ huyết sắc thân - Thu giới luận - Niệm phật luận - Tọa thiền luận - Tuệ giáo giám luận - Giới định túc luận - Lê Văn Hưu - Sử luận (1230 - 1322) Thế kỷ XV - đến hết thế - Ngô Sỹ Liên (khoảng - Sử luận kỷ XVII đầu thế kỷ XV - ?) - Bùi Kỷ (1888 - 1960) - Thân thể luận Nửa đầu thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX (thể luận không xuất hiện) Cuối thế kỷ XIX - Vũ Phạm Hàm - Hòa Nhung luận (1807 - 1872) - Nguyễn Trường Tộ - Thiên hạ phân hợp đại (1830 - 1871) thể luận 8
- Giai đoạn Tác giả Tác phẩm - Tế cấp luận - Giáo môn luận - Nguyễn Lộ Trạch - Thiên hạ đại thể luận (1853 - 1895) - Thời vụ sách thượng - Thời vụ sách hạ Giai đoạn từ thế kỷ X - hết thế kỷ XIV diện mạo của thể luận trong văn học trung đại Việt Nam chưa được phong phú. Đời Trần, Trần Thái Tông có Khóa Hư Lục, đây là một kiệt tác phẩm của nền văn học Phật giáo dân tộc, thế kỷ XIII. Về nội dung cuốn sách tác giả đã trình bày những tư tưởng triết lý đại tạng Phật giáo nhằm mục đích tự thức tỉnh mình và đồng thời có tính cách giáo dục quần chúng, nói lên niềm thao thức khổ đau cùng sự giác ngộ của một con người có trách nhiệm với mình, với đời và với đồng bào, nhân loại. Trong sách này có các thiên Thu giới luận, Niệm Phật luận, Tọa thiền luận, Tuệ giáo luận, Giới định túc luận. Có thể nói Phật giáo đã mở đầu thể luận ở nước ta. Tiếp đến Lê Văn Hưu là người mở đầu Sử luận. Ông không viết thành bài luận riêng mà dựa vào sự thực lịch sử mà vạch ra ý nghĩa của nó. Với tư cách là nhà Sử học, ông lấy trách nhiệm của Sử thần mà phát biểu ý kiến riêng, ý kiến này có giá trị độc lập tương đối so với việc chép sử. Ví dụ bài Luận về Hai Bà Trưng hay đoạn luận về việc nhà Lý sùng Phật. Giai đoạn từ thế kỷ XV - đến hết thế kỷ XVII: thời Lê Sơ nhà Sử học Ngô Sĩ Liên có Sử luận. Tác phẩm hoàn toàn theo quan điểm của nho gia, tin mệnh trời, xét đạo đức theo các phạm trù lễ, nghĩa, tín Cuối triều Lê, Bùi Kỷ giới thiệu bài luận của ông tự làm là Thân thể luận. Giống như các thế hệ nhà nho trước kia, thơ văn Bùi Kỷ là nơi để nói chí, tỏ lòng, thể hiện thế giới 9
- tinh thần của mình trong những nét thanh cao với nhiều ưu tư lo đời, thương đời, cũng là để răn mình, răn đời. Giai đoạn nửa đầu thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX thể luận không xuất hiện. Ở giai đoạn này nó đã vắng bóng. Trải qua gần chín thế kỷ có thể thấy thể luận của nước ta hiếm đến cỡ nào, không thấy để lại mẫu mực. Có lẽ điều đó ứng với nhận định của học giả thời nay: “Tổ tiên ta ít làm lý luận. Không phải không có nhưng rất ít” [24; 257]. Giai đoạn cuối thế kỷ XIX khi đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng, họa ngoại xâm khó bề lẩn tránh, đất nước lạc hậu tiêu điều thì xuất hiện những bài luận. Ví như Hòa Nhung luận của Vũ Phạm Hàm (1807 - 1872). Dưới triều vua Tự Đức, Nguyễn Trường Tộ đã gửi triều đình Huế 58 bản điều trần và những bản văn xuất sắc Tế cấp luận (Bàn về những vấn đề khẩn cấp, 1863), Giáo môn luận (Bàn về tự do tôn giáo, 1863), đặc biệt, Thiên hạ phân hợp đại thế luận (Bàn về những thế lớn phân và hợp trong thiên hạ). Sau đó, có thể kể đến Nguyễn Lộ Trạch với Thời vụ sách thượng, Thời vụ sách hạ, nhất là tập Thiên hạ đại thế luận (Bàn về thế lớn trong thiên hạ, cụ thể bàn về tình thế của các nước Đông Á trước nguy cơ thôn tính của phương Tây). Phải chăng khi xã hội có biến động lớn thì buộc người ta phải suy nghĩ, mới có nhiều điều phải luận. Bởi vậy giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX thể luận đã đạt được thành tựu tiêu biểu. Nhìn chung thể luận trong văn học trung đại Việt Nam xuất hiện từ triều đại nhà Trần và kết thúc khi thực dân Pháp xâm lược và cai trị Việt Nam. Trải qua những thăng trầm trong lịch sử, thể loại luận đã để lại những tác phẩm giá trị, đạt giá trị cao về tư tưởng nghệ thuật trở thành những tác phẩm mang màu sắc cổ điển trong kho tàng văn học trung đại Việt Nam. 10
- 1.2. Thể luận trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX 1.2.1. Tình hình lịch sử xã hội, văn hóa tư tưởng Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, năm 1858 là mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cuộc xâm lăng do thực dân Pháp phát động đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử dân tộc. Sự kiện này đã kéo theo những biến động ghê gớm, những đổi thay sâu sắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực đời sống của nhân dân. Thực dân Pháp đã có ý đồ xâm lược nước ta từ lâu, từ cuối thế kỷ XVIII nhưng âm mưu này chưa thực hiện được. “Cuộc chiến bị chậm lại một mặt là do những biến động chính trị trong nội tình nước Pháp, mặt khác là bởi cung cách ứng xử của các vua Nguyễn” [20; 264]. Đến cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp lấy cớ triều đình nhà Nguyễn đã bắn giết các giáo sĩ và ngăn chặn thông thương nên đã chính thức xâm lược Việt Nam. Chúng đã phải mất gần 40 năm mới đặt được ách thống trị trên đất nước ta và gần một thế kỷ nhân dân ta phải sống dưới sự cai trị của Pháp. Trong tình hình xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX thì sự kiện Pháp xâm lược Việt Nam là sự kiện quan trọng, nổi bật, chi phối các sự kiện khác và có ảnh hưởng rất lớn đến mọi tầng lớp người trong xã hội. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam đã có những biến chuyển to lớn. Việt Nam từ một xã hội phong kiến đã biến thành một xã hội thuộc địa, mặc dù thực dân còn duy trì một phần tính chất phong kiến. Song khi đã hình thành thuộc địa thì tất cả các mặt của xã hội đều nằm trong quỹ đạo chuyển động đó. Trong lòng chế độ thuộc địa của thực dân Pháp, ở Việt Nam đã hình thành những mâu thuẫn đan xen nhau, đó là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn 11
- giai cấp. Tuy nhiên, mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Trong tình hình đất nước lúc bấy giờ, nền kinh tế Việt Nam cũng chịu nhiều ảnh hưởng. Nông nghiệp sa sút, nhiều cuộc khẩn hoang được tổ chức khá quy mô và cuối cùng đất đai khai khẩn lại rơi vào tay địa chủ. Hiện tượng dân lưu tán trở nên phổ biến, đê điều không được chăm sóc, nạn mất mùa, đói kém xảy ra liên miên. Công thương nghiệp bị đình đốn, xu hướng độc quyền công thương của nhà nước đã hạn chế sự phát triển của sản xuất và thương mại. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân ta đã đấu tranh chống thực dân Pháp quyết liệt. Giai cấp phong kiến lúc đầu còn chống đối nhưng ngày càng yếu ớt và cuối cùng thì nhượng bộ, thỏa hiệp, đầu hàng thực dân Pháp. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp mọi nơi tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của nông dân chống triều đình phong kiến đầu hàng và chống Pháp xâm lược. Chẳng hạn như cuộc khởi nghĩa của Ba Cai Vàng, Ðoàn Hữu Trưng, Trần Tấn Phong trào đấu tranh yêu nước của các sĩ phu, các lãnh binh đã lãnh đạo nhân dân chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương cũng nổ ra rầm rộ kéo dài từ Bình Ðịnh, Quảng Bình ra đến Hưng Yên, Thái Bình, Tây Bắc. Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như Phan Ðình Phùng, Ðinh Công Tráng, Tống Duy Tân, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám Phong trào chống Pháp tuy sôi nổi, đều khắp nhưng không có lực lượng hậu thuẫn làm nòng cốt nên cuối cùng phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân ta bị thất bại. Tuy thất bại nhưng chứng tỏ được tinh thần yêu nước nồng nàn, tinh thần dũng cảm của nhân dân và khẳng định phong trào đấu tranh mang tính nhân dân sâu sắc. Có thể nói, đây là giai đoạn lịch sử đau thương mà hùng tráng của dân tộc, nhiều hi sinh mất mát nhưng rất tự hào, giai đoạn Khổ nhục nhưng vĩ đại. 12
- Trước những biến cố lớn lao, xã hội nước ta có sự phân hóa giai cấp sâu sắc. Mỗi tầng lớp bị phân hóa đều mang sắc thái tâm lý và thái độ chính trị riêng. Giai cấp thống trị cũ của xã hội, thái độ của họ không giống nhau nhưng tâm lý chủ yếu của tầng lớp này là đầu hàng và thỏa hiệp. Bên cạnh đó một số sĩ phu, trí thức phong kiến thấy rõ quyền lợi của phong kiến cũng chỉ là quyền lợi làm tay sai cho đế quốc nên họ tiếp thu truyền thống yêu nước của dân tộc, sống gần gũi với nhân dân và hăng hái cùng với nhân dân chống giặc. Số khác là những nhà thơ, nhà văn yêu nước họ đã dùng ngòi bút để chiến đấu, để nói lên tâm tư, nguyện vọng và thái độ của mình trước cảnh nước mất, nhà tan. Bên cạnh lực lượng nho sĩ, nhiều tầng lớp mới xuất hiện như tư sản, tiểu tư sản và vô sản, quyền lợi đối lập nhau. Giai cấp tư sản mới hình thành nên chưa đủ sức mạnh để chống lại tư sản chính quốc, cũng chưa đủ sức để vươn cao ngọn cờ yêu nước. Giai cấp vô sản đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, giai cấp này lớn mạnh nhanh chóng nhất là sau chiến tranh thế giới I. Tuy nhiên, sáng tác văn học giai đoạn này vẫn thuộc về giai cấp cũ nên văn học vẫn chịu sự chi phối của ý thức hệ phong kiến. Đến giữa thế kỉ XIX, cùng với sự hèn yếu của triều đình nhà Nguyễn, sự xâm lược của thực dân Pháp và bước đầu tiếp cận với nền văn minh phương Tây, tầng lớp nho sĩ ở nước ta đã phân hóa sâu sắc. Lúc này, ở Việt Nam diễn ra sự va chạm giữa hai nền văn minh Á - Âu, giữa văn hóa Nho giáo và văn hóa Thiên chúa giáo du nhập từ phương Tây. Trước đây, nền tảng xã hội là Nho giáo, nó là gốc rễ của mọi hệ tư tưởng. Hiện tại, khi thực dân Pháp xâm lược, Nho giáo đã không thể giữ vững vị trí độc tôn và lãnh đạo dân tộc được nữa. Biểu hiện rõ nhất là việc xuất hiện những nhóm sĩ phu tiến bộ có đầu óc canh tân đất nước. Những nhân vật điển hình có thể kể đến là: Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871), Nguyễn Lộ Trạch (1853 - 1895) Đây là 13
- những sĩ phu có đầu óc canh tân đầu tiên trong lịch sử nước ta, đặt nền móng cho cuộc vận động giải phóng dân tộc vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Khi đối diện với vấn đề xâm lược của Pháp, họ phân hóa thành ba khuynh hướng: chủ chiến, chủ hòa và không chiến cũng không hòa. “Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, vấn đề được quan tâm nhiều nhất, có ý nghĩa sống còn là câu hỏi: chiến hay hòa?” [20; 267]. Chủ chiến có thể kể đến những cái tên như Đốc học Phạm Văn Nghị (1805 - 1884), Phan Đình Phùng, Nguyễn Xuân Ôn, Trần Xuân Soạn (1849 - 1923), Tôn Thất Thuyết (1839 - 1913) trong phong trào Cần Vương. “Là người trí thức phong kiến, họ yêu nước, quyết tâm cứu nước thoát khỏi khổ nạn, nhưng lại cố làm sao cho hành động của mình vẫn nằm trong giới hạn cương thường” [20; 268]. Đó là những người có lòng yêu nước sâu sắc, họ sẵn sàng hi sinh tính mạng cứu nước. Tuy nhiên, do tư tưởng Nho giáo in sâu, họ không thoát khỏi sự bảo thủ đối với việc canh tân đất nước, xem đó là hành động đi sai luân thường đạo lí. Về phía chủ hòa, chia thành chủ hòa hoàn toàn và chủ hòa để canh tân đất nước. Trong đó, các nhà nho canh tân còn theo xu hướng cũ và mới. Có thể kể đến các nhân vật tiêu biểu cho chủ hòa hoàn toàn như: Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành (1813 - 1883) Sự phân hóa này còn bắt nguồn từ sự lúng túng trước một kẻ thù mới hoàn toàn khác với các tập đoàn phong kiến phương Bắc trước đây. Dù Vương triều Nguyễn là một trong số những Vương triều tiếp xúc và am hiểu nhiều về sức mạnh của phương Tây từ sớm, từ thời Nguyễn Phúc Ánh còn đang tranh chấp với triều Tây Sơn. Nếu như khuynh hướng chủ chiến hay chủ hòa đã rõ nét thì khuynh hướng không chiến cũng không hòa cũng khá phức tạp. Tư tưởng của khuynh hướng này là giặc từ xa đến trước hết chúng ta phải thủ rồi từ từ mà tiến thoái. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là các nhà nho như: Trương Đăng Quế (1793 - 1865), Lâm Duy Hiệp (1806 - 1863) 14
- Đội ngũ trí thức nho học giai đoạn này còn đối diện với việc gìn giữ những giá trị truyền thống nho học đã tồn tại nghìn năm nay hay cải cách đổi mới theo nền văn minh phương Tây tiến bộ hơn. Sự phân hóa này chiếm vai trò chủ đạo trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX. Vấn đề canh tân đất nước đã trở thành một mối quan tâm lớn của tầng lớp trí thức khi một số quốc gia lân cận nhờ cải cách mà thoát khỏi sự kìm hãm của chủ nghĩa tư bản. Đại diện cho khuynh hướng chủ hòa để canh tân đất nước có thể kể đến như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ. Họ tiêu biểu cho một nhóm trí thức đã kịp thức tỉnh, thoát khỏi ý thức hệ phong kiến mà nắm bắt được bước tiến của thời đại. Trong con người họ luôn trăn trở, lo âu với sự đổi mới canh tân đất nước. Nhờ tiếp xúc với luồng tư tưởng tiến bộ của phương Tây, họ luôn mong muốn dùng tư duy và trí tuệ của mình để đưa đất nước tiến bộ. Còn bộ phận còn lại họ luôn ra sức bảo vệ những giá trị truyền thống nho học lâu đời, chống phá lại những tư tưởng canh tân đất nước lúc bấy giờ. Ngoài những vấn đề nói trên, sự phân hóa trong tư tưởng của nho sĩ đương thời còn thể hiện ở việc xuất và xử. Những cái xử của nho sĩ lúc bấy giờ không giống như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp mà là sự bất hợp tác với kẻ thù và quyết bảo vệ tiết tháo nhà nho. Đối lập với khuynh hướng xử thế là khuynh hướng xuất thế. Họ có xu hướng hợp tác với Pháp tuy nhiên trong nhóm xuất cũng có những sự phân hóa khác nhau. Nhìn chung, giai đoạn này tầng lớp nho sĩ Việt Nam có sự phân hóa mạnh mẽ và sâu sắc. Sự phân hóa này mang tính chất lịch sử cụ thể, đó là sự lúng túng trước một kẻ thù mới với nền văn minh tiến bộ. Bởi nho sĩ là tinh hoa của xã hội cho nên sự phân hóa của họ đã có tác động to lớn đến phong trào yêu nước Việt Nam. Như vậy, những biến cố lịch sử trong nửa cuối thế kỉ XIX đã làm phân hóa hệ tư tưởng phong kiến Việt Nam tồn tại bao đời nay. 15
- Điều này đã tác động không nhỏ đến quan điểm sáng tác cũng như nội dung phản ánh trong các tác phẩm văn học nghệ thuật. 1.2.2. Hai tác giả tiêu biểu 1.2.2.1. Nguyễn Trường Tộ Cuộc đời Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1830 ở làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình theo đạo Gia tô. Cha là Nguyễn Quốc Thủ, một người hay chữ, một thầy thuốc Đông y có tiếng, nhưng mất sớm. Thuở ấu thơ, Nguyễn Trường Tộ học chữ Hán với cha và các thầy ở trong vùng: Tú Giai ở Bùi Ngõa, Cống Hữu ở Kim Khê và quan huyện Địa Linh về hưu ở Tân Lộc. Ông thông minh, học giỏi nên được truyền tụng là "Trạng Tộ" . Ông từng mở trường dạy học tại nhà, đức cha Hậu biết ông là người tài đức, liền mời ông làm người dạy các chúng sinh của giáo phận. Đồng thời Nguyễn Trường Tộ cũng nhờ cậy đức cha để học thêm tiếng Pháp và nghiên cứu nền văn minh phương Tây cùng sự thay đổi của các quốc gia trên thế giới. Năm 1858, Giám mục Gauthier đưa ông sang Hương Cảng (Hồng Kông), Tân Gia Ba (Singapore), Thụy Sỹ, Rôma, rồi cuối cùng sang Paris(Pháp) theo học trong gần 2 năm. Khoảng thời gian ở Paris, chẳng những ông hiểu biết nhiều về khoa học - kỹ thuật, có trình độ như một kiến trúc sư, một người biết khai mỏ, mà còn đọc rộng về các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, pháp luật, và tìm hiểu được một số hoạt động công nghệ của nước Pháp. Cuối 1858, Nguyễn Trường Tộ cùng với Giám mục Gauthier vào Đà Nẵng tránh nạn (phân tháp) rồi đầu năm 1859 sang Hồng Kông. Năm 1861, Nguyễn Trường Tộ trở về Sài Gòn với một hoài bão lớn là đem những hiểu biết thu thập được của mình để giúp đất nước canh tân, tự cường, tự lực để mong tránh được sự mất nước, ông làm chức từ - hàn (thông 16
- dịch viên) và bị triều đình nghi kị là tay sai của ngoại bang. Do sống trong lòng địch nên việc phải làm việc với quân Pháp là bất đắc dĩ. Ông làm công việc phiên dịch các công hàm trao đổi giữa triều đình Huế với Soái phủ Pháp ở thành Gia Định. Nhiều lần ông có sửa đi một số chữ nghĩa trong công hàm của hai bên để tránh những lời lẽ quá khích, xúc phạm tới triều đình và gây hại cho việc tạm hòa. Ngoài ra, một số lần ông còn thông báo cho một số đại thần của triều Nguyễn như Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ những âm mưu của thực dân Pháp. Do ông là người công giáo, có thời gian làm việc với thực dân Pháp lâu dài, và triều đình lại luôn căm ghét đạo Ki - tô cho nên triều đình cũng như nhân dân luôn có thái độ không tin tưởng đối với ông. Chính điều này cho nên một người tài năng, thông minh, giàu lòng yêu nước như ông lại không được đánh giá đúng và tin dùng như một số người khác. 1862, ông xin thôi chức Từ - hàn, lui về quê, ông dồn hết tâm trí vào việc thảo kế hoạch giúp nước. Năm 1863, Nguyễn Trường Tộ tìm cách thoát ra khỏi khu vực chiếm đóng của quân Pháp, liên hệ được với triều đình Huế. Từ đây cho đến cuối đời ông viết hàng loạt điều trần, luận văn, tờ bẩm, trình nhiều kiến nghị có tầm chiến lược nhằm canh tân đất nước, tạo thế vươn lên cho dân tộc để giữ nền độc lập một cách khôn khéo mà vững chắc cho quê hương đất nước. Trong lúc chờ đợi ở Sài Gòn, sau khi thôi làm phiên dịch cho Pháp ông đã giúp xây cất tu viện dòng thánh Phaolo, số 4 Tôn Đức Thắng hiện nay. Công cuộc xây dựng được bắt đầu tháng 9 năm 1862 và hoàn tất vào 18 - 7 - 1864. Cũng trong thời gian này, Nguyễn Trường Tộ sống trong những ngày buồn tẻ và bệnh tật. Ông còn bị bệnh tê thấp, chính căn bệnh này đã hạn chế phần nào những hoạt động của ông. Từ 1861 - 1866, Nguyễn Trường Tộ chủ yếu ở Sài Gòn, không về Nghệ An, ông cũng ít đi Huế, cho tới giữa năm 1866 mới được về Xã Đoài. Trong 17
- năm này, ông được mời về Huế, đây là những năm tháng đầy triển vọng của ông. Trong thời gian này, ông được vua Tự Đức chú ý đến và được triệu vào kinh giải quyết vấn đề tàu London. Tuy nhiên, triều đình không sử dụng và nhà vua cũng nghe theo, cuối cùng Nguyễn Trường Tộ thấy mình ở Huế cũng không có gì để làm nên đã xin đi ra Quảng Bình để về Nghệ An. 10 - 4 - 1866, Nguyễn Trường Tộ cùng với linh mục Croc và Nguyễn Hoàng rời Huế để đi Bố chính. Sau đó ông cùng giám mục Gauthier đi về Xã Đoài, Nghệ An. Nhưng không lâu sau ông quay lại Huế. Lần quay lại này Nguyễn Trường Tộ thấy bức xúc về việc canh tân đất nước nhưng ông cũng thấy được rõ ràng và sâu sắc hơn những khó khăn trước mắt. Vua thì nghi ngờ ông vì ông là người công giáo, các quan trong triều thì cổ hủ không hiểu về hoàn cảnh thực tế mà luôn ghen ghét sinh lòng đố kị với nhau. 1867, Nguyễn Trường Tộ đã cùng với giám mục Gauthier và một số người khác đáp tàu đến Pháp. Đây là giai đoạn mà Nguyễn Trường Tộ viết dâng lên triều đình Huế nhiều bản điều trần có giá trị nhằm góp phần cho công cuộc canh tân đất nước. Gần 60 di thảo của ông được người đời sau sưu tầm và gìn giữ đã thể hiện tài năng, tư duy tài tình của ông trên nhiều phương diện về chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự Trong những năm cuối đời (1868 - 1871), Nguyễn Trường Tộ có góp phần quan trọng trong việc xây dựng nhà chung Xã Đoài, đồng thời ông cũng có nhiều liên lạc với triều đình Huế, khoảng hai mươi văn bản trong số đó hiện có ba văn bản chưa tìm thấy ở đâu. Ngày 3 - 1 - 1871, Nguyễn Trường Tộ được tổng đốc Nghệ An cử đi Huế với lí do là để đem học sinh đi du học. Trong những ngày ở Huế, ông đã lặng lẽ gặp gỡ nhiều quan chức trong triều đình và ông cũng để lại nhiều văn bản thôi thúc triều đình mở rộng bang giao, canh tân đất nước Sau một thời gian ở Huế bệnh cũ tái phát, Nguyễn 18
- Trường Tộ về Nghệ An. Ông chết âm thầm ở làng quê Bùi Chu ngày 10 tháng 10 năm Tự Đức thứ 24, tức 23 tháng 11 năm 1871. Sự nghiệp Nguyễn Trường Tộ đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, cả văn và di thảo thơ gồm khoảng 36 tác phẩm trong đó có 3 tác phẩm được viết bằng thể luận đó là: Tế cấp luận (Bàn về những vấn đề khẩn cấp, 1863) mà cụ thể là vấn đề về chính trị - quân sự, kinh tế, văn hóa – xã hội. Giáo môn luận (Bàn về tự do tôn giáo, 1863) ông kêu gọi triều đình phải có chính sách bao dung, nhân ái đối với những tín đồ Công giáo. Đặc biệt, Thiên hạ phân hợp đại thế luận (Bàn về những thế lớn phân và hợp trong thiên hạ) ông trình bày những chiến lược cơ bản về những thế lớn phân và hợp trong thiên hạ. Ông đề nghị triều đình chủ hòa nhưng không phải là chủ hàng. 1.2.2.2. Nguyễn Lộ Trạch Cuộc đời Nguyễn Lộ Trạch tự Tổn Tu, Hà Nhân, hiệu Kỳ Am, Hồ thiên Cư Sĩ, Bàn Cơ Điếu Đồ, Tùng Linh, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1853 tại Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên, quê gốc của ông là làng Kế Môn, huyện Phong Ðiền, tỉnh Thừa Thiên (nay thuộc xã Điền Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế). Tổ tiên ông có lẽ là người Hoan Ái (tức vùng Thanh Hóa-Nghệ An-Hà Tĩnh ngày nay), đến thế kỷ XVI, theo tướng Nguyễn Hoàng vào vùng Thuận Hóa. Họ Nguyễn Thanh truyền đến Nguyễn Lộ Trạch là 12 đời. Cha ông là Nguyễn Thanh Oai (1816-1876), đỗ Tiến sĩ năm 1843 dưới triều vua Thiệu Trị (cùng khoa với danh thần Phạm Phú Thứ), từng giữ chức quyền Thượng thư bộ Hình, Tổng đốc Ninh Thái (gồm Bắc Ninh và Thái Nguyên) Nguyễn Lộ Trạch có tiếng là thông minh, tài giỏi, nhưng không theo lối mòn vạch sẵn thời bấy giờ: đi học, đi thi, làm quan - có lẽ vì ông thấy được sự 19
- bất tài của đám quan lại và cái vô nghĩa của lối học cử tử lúc bấy giờ. Ông đọc nhiều sách, biết nghề thuốc, có kiến thức sâu rộng, nhưng không đi thi, chỉ chú tâm vào con đường thực dụng. Ông thường ngao du khắp các tỉnh miền Trung, tìm người cùng chí hướng kết giao, được người đương thời gọi là "cậu ấm tàng tàng". Năm 20 tuổi, ông kết hôn với Trần Thị Nhàn, con gái Phụ chính Trần Tiễn Thành. Chính ở văn phòng cha vợ, ông đã đọc được nhiều sách tân thư của Trung Quốc, đọc được cả bản những bản điều của Nguyễn Trường Tộ, và chịu ảnh hưởng những tư tưởng canh tân này. Năm Tự Đức thứ 30 (Đinh Sửu, 1877), kỳ thi Hội ở Huế, có lấy chuyện "Sứ Pháp vào chầu, hòa hiếu hợp lễ" làm đề thi. Tuy không dự thi, nhưng với tấm lòng luôn băn khoăn day dứt về tình hình đất nước, Nguyễn Lộ Trạch đã dâng lên một bản "Thời vụ sách thượng", vạch rõ mưu kế giả vờ hòa nghị của thực dân Pháp, đồng thời khuyên triều đình nên "gấp lo tự cường tự trị" để cứu nước. Mặc dù, Thời vụ sách thượng không được triều đình thi hành, nhưng cũng đã gây được tiếng vang lớn. Đầu năm Nhâm Ngọ 1882, Cơ mật viện có ý cử ông sang Hương Cảng (Hồng Kông) học kỹ thuật, nhưng về sau không thành. Sau đó, ông có gửi thư lên cha vợ là Trần Tiễn Thành đề nghị ông nhắc nhở triều đình là "phải biết tự cường, tự trị, đồng thời phải biết mật giao với các cường quốc thù địch của Pháp như Anh, Đức để làm thế chân vạc kiềm chế Pháp". Tự Đức xem xong và phê rằng "Ngôn hà quá cao" (Nói sao quá cao!) rồi thôi. Tháng 4 năm đó, quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ hai. Nguyễn Lộ Trạch liền dâng bản "Thời vụ sách hạ". Trong bản điều này, ông chỉ rõ những điểm cụ thể cần làm ngay và chủ trương rất mạnh mẽ, kiên quyết: xây dựng thủ đô ở Thanh Hóa để chuẩn bị kháng chiến, tổ chức lại quân đội, ngoại giao 20
- với Đức, Anh để kiềm chế Pháp Song lần này, triều đình nhà Nguyễn cũng đã làm ngơ trước các đề nghị của ông. Tháng Giêng năm Giáp Thân (1884), Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường mời ông và Phạm Phú Đường (con trai Phạm Phú Thứ) đến kinh đô Huế bàn việc nước. Để nhắc lại lần nữa những luận điểm cơ bản trong kế sách chống ngoại xâm của mình. Khi trở về, Nguyễn Lộ Trạch đã thảo một bức thư có tên là "Dữ Phạm Phú Đường thướng Phụ chính đại thần" (Thư đứng tên cùng Phạm Phú Đường gửi Phụ chính đại thần), rồi dâng lên ông Tường. Tháng 5 năm Ất Dậu (tháng 7 năm 1885), kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi chạy ra chiến khu Quảng Trị, ban bố dụ Cần Vương. Năm 1888, vua Hàm Nghi bị quân Pháp bắt, đồng thời phong trào Cần Vương bị đàn áp khốc liệt, Nguyễn Lộ Trạch đành phải lui về ở ẩn song vẫn không nguôi lưu tâm đến việc nước. Năm 1892 dưới triều Thành Thái, lại có kỳ thi Hội ở Huế. Tuy không đi thi, nhưng nhân đầu đề hỏi về "đại thế hoàn cầu", ông cũng viết một bài có tên là "Thiên hạ đại thế luận" (Bàn về thế lớn trong thiên hạ) bàn về tình thế các nước Á Đông trước nguy cơ thôn tính của một số nước ở Phương Tây. Sau khi phân giải, ông đã chỉ ra đại để rằng: dã tâm xâm lược của thực dân Pháp đã có từ lâu, không vì chúng ta sợ sệt cầu hòa mà họ ngừng lại, cũng không vì chúng ta khiêu khích mà họ dấy binh nhiều hơn. Nay nhà vua và triều đình chỉ còn cách: - Từ bỏ hẳn tệ quan liêu, tham nhũng, thói chuộng hư danh thì "biết đâu một ngày kia lại không thể tung hoành làm nên nghiệp lớn". - Cần nắm lấy, kịp thời sửa sang chính trị, giáo dục để không khỏi phụ lòng mong mỏi của nhân dân. Ông viết bài luận này cốt để khơi gợi cho vua Thành Thái và các quan đầu triều gấp lo phục hưng đất nước, nhưng khi được công bố, nó đã gây 21
- được tiếng vang rộng rãi, được đông đảo sĩ phu và những người có tư tưởng cách tân tìm đọc và tán thưởng, trong số đó có Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Vũ Phạm Hàm, Trương Gia Mô Về cuối đời, ông lại tiếp tục ngao du đây đó, tìm người tài giỏi kết bạn tri âm. Năm Ất Mùi (1895), ông làm một chuyến Nam du vào Phan Thiết - trung tâm “tỵ địa” của nhóm sĩ phu Nam Trung Bộ thuở ấy. Ông còn tính chuyện xuất dương nhưng chưa thực hiện được đã lâm bệnh nặng rồi mất tại Bình Định vào năm 1895, lúc 42 tuổi. Năm 1957, con cháu Nguyễn Lộ Trạch đã đưa di cốt ông từ Bình Định về táng tại nghĩa trang của làng Kế Môn, thuộc xã Ðiền Môn, huyện Phong Ðiền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Mộ ông hình tròn đơn giản, đường kính 3 m, thành cao 40 cm, dày 20 cm; và đã được nhà nước công nhận là di tích quốc gia theo quyết định số 52/2001/QÐBVHTT ngày 28 tháng 12 năm 2001. Sự nghiệp Tác phẩm của Nguyễn Lộ Trạch phần lớn đều bằng chữ Hán, gồm có: - Quỳ Ưu lục: là tập hợp các bài văn nghị luận của ông (trong đó có "Thời vụ sách I, II", và "Thiên hạ đại thế luận"), do tự tay ông sắp xếp vào năm 1884. - Kỷ trào lục (Tự nhạo mình như người nước Kỷ) - Kỳ Am dã thoại (Những lời quê mùa của Kỳ Am) - Kỳ Am thi văn toàn tập (Toàn tập thơ văn của Kỳ Am) - Quốc ngữ thị phụ giai ẩn từ (Bài ca quốc ngữ khuyên vợ cùng đi ẩn). Song phần lớn thơ văn trên đều đã thất lạc, chỉ còn lại tập Kỳ Am Nguyễn Lộ Trạch di văn (Những bài văn còn lại của Kỳ Am Nguyễn Lộ Trạch) do người đời sau góp nhặt. Trong đó có Quỳ Ưu lục, một số thư từ và 15 bài thơ. 22
- Nhìn chung, thơ ông mang âm hưởng trầm buồn. Văn nghị luận của ông, ngoài sự nhiệt huyết ra còn hấp dẫn người đọc ở những ví dụ giàu sức biểu cảm, vừa tác động vào cảm xúc, vừa có ý vị trào lộng hài hước, khiến người đọc không ai có thể thờ ơ. 23
- Tiểu kết chƣơng 1 Ở chương một, chúng tôi đã tìm hiểu những vấn đề về thể luận trong văn học trung đại Việt Nam. Chúng tôi cũng khái quát cơ bản những vấn đề về: khái niệm, diện mạo, đặc trưng thể luận giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX. Đồng thời nghiên cứu về tác giả Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch. Các tác phẩm của Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch đã mang đậm những đặc trưng về nội dung cũng như nghệ thuật của thể loại luận. Tiếp cận các tác phẩm của Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch là hướng đi đúng đắn, góp phần đánh giá được vị trí văn chính luận của Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch trong dòng chảy văn chính luận trung đại. 24
- Chƣơng 2: HỆ THỐNG VẤN ĐỀ BÀN LUẬN CHỦ YẾU TRONG THỂ LUẬN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX Trong tiến trình văn học trung đại, thể luận với nội dung chính về chính trị - quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội góp phần quan trọng trong đấu tranh dựng nước, giữ nước và thể hiện sâu sắc tư tưởng của con người Việt Nam. Giai đoạn đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng, lạc hậu, tiêu điều thì thể luận xuất hiện và đạt được những thành tựu tiêu biểu. Điều đó được thể hiện cụ thể qua kế sách canh tân đất nước và kế sách chống chọi với kẻ thù của Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch. Bởi lẽ nó như mũi dao găm, là thuốc nổ chống lại mọi sự bất công, cường quyền. 2.1. Kế sách canh tân đất nƣớc 2.1.1. Về chính trị, quân sự Trong Thiên hạ phân hợp đại thể luận Nguyễn Trường Tộ trình bày những chiến lược cơ bản về những thế lớn phân và hợp trong thiên hạ. Ông đề nghị triều đình chủ hòa nhưng không phải là chủ hàng. Trong bài Tế cấp luận Nguyễn Trường Tộ đã đề cập đến việc canh tân và phát triển đất nước. Đối với tình thế nước ta, ông đã đưa ra những điều cần phải làm ngay. Thứ nhất: xin gấp rút sửa đổi võ bị. Xuất phát từ mối nguy hại của kẻ xâm lược, nổi loạn trong nước và quân đội triều đình thì yếu kém, không có sức chiến đấu nên ông rất quan tâm đến võ bị. Ông nói với triều đình phải “Gấp rút chấn chỉnh biên phòng Xiết chặt hàng ngũ”, “Phải có một hàng ngũ mạnh mẽ”, “Thì mới khỏi bị các nước phương Tây đến viếng”. Ông nhấn mạnh, nếu có được quân đội mạnh thì mới bảo vệ được đất nước cho nên nhà nước phải trọng võ. Ông chống lại quan niệm cho rằng “một lời nói mạnh hơn 25
- mười vạn quân”, tức là quan niệm đương thời chỉ coi trọng văn chương phù phiếm. Ông đề cập những biện pháp để chấn chỉnh quân đội. Theo ông, quân đội phải được huấn luyện khoa quân sự mới với phương châm là lí thuyết phải gắn với thực hành, học võ là học các sách binh thư đồ trận. Học việc gì phải thực tập việc ấy. Nội dung thực tập gồm nhiều mặt như: cách bắn súng, đâm lê, cách đánh đồn, phục kích, cách sử dụng địa hình. Ông còn đề nghị triều đình soạn binh thư cho binh lính học tập. Việc soạn binh thư thì triều đình phải dựa theo sách binh pháp cũ, loại bỏ những phần không thích hợp và tham khảo binh thư phương Tây bổ sung vào. Ngoài ra phải thu nhặt ý kiến của người giỏi quân sự trong nước để thêm vào binh thư. Qua đó cho thấy Nguyễn Trường Tộ có tư duy sáng suốt của một nhà cải cách quân sự, cải cách nhưng không có nghĩa là phủ nhận sạch trơn những gì tiến bộ của cha ông, học hỏi những cái hay cái mới, thậm chí đó là những cái của kẻ thù. Về tổ chức, ông đã đề nghị triều đình nên theo các nước phương Tây xây dựng các chế độ cho binh lính và võ quan. Các võ quan khi về hưu vẫn được lĩnh lương như khi còn ở tại chức và khi chết cũng vậy. Các võ quan phạm tội thì bị tội, nhưng không nên không giảm lương bổng, giáng chức hoặc làm khổ nhục thân họ. Với những chính sách đó sẽ khiến binh lính hết lòng phục vụ cho triều đình, đây thật là một cách làm hay. Ông đề nghị triều đình phải thải bớt những người bất tài. Theo ông, võ quan cần giỏi chứ không cần nhiều và võ quan mà bớt đi thì lại có điều kiện tăng lương cho binh lính. Tướng tá chỉ cần những người giỏi, chứ dở dầu nhiều cũng vô ích Cho nên ông cho rằng nếu võ quan mà bất tài thì cho dù họ là con cháu những vị công thần trước kia cũng phải thải vì để họ chỉ huy quân sự sẽ có hại hơn là cho họ ngồi không hưởng bổng lộc. Đây là quan điểm rất sáng suốt của ông. Ông còn nêu lên tình trạng dốt nát của sĩ quan lúc bấy giờ như nhiều người chỉ biết viết hai chữ 26
- “tuân phụng” và đề nghị phải tuyển những người đậu cử nhân, tú tài rồi cho đi học võ bị. Đối với binh lính, ông đề nghị nhà nước phải tuyển dụng những binh tráng từ 20 tuổi trở lên, chưa có vợ con và thải bớt những người già yếu về nhà để lấy số lương ấy cấp thêm cho binh lính tại ngũ. Võ quan phải dành thì giờ cho binh lính tập quân sự không nên bắt họ làm công việc khác. Nếu có công việc kiến thiết nên huy động dân quan và tù nhân làm. Các võ quan không được coi họ như tôi tớ trong nhà hay sỉ nhục, ngược đãi họ. Đời sống vật chất của binh lính phải được chú ý, không nên cho binh lính ăn gạo cũ, mặc rét Các thương binh phải được hưởng lương bổng và chăm sóc chu đáo. Đây là chính sách quân sự mang đầy tính nhân đạo và tiến bộ. Qua đó thể hiện tài năng nhìn xa trông rộng của ông. Ngoài ra, để tăng cường lực lượng binh bị giữ làng, giữ nước, ông đề nghị triều đình phải chú ý xây dựng đội ngũ quân dân. Đây là lực lượng khá quan trọng, khi xảy ra loạn lạc hay họa xâm lăng, dân quân sẽ làm nhiệm vụ tự vệ và phối hợp với quân đội triều đình chiến đấu. Đội quân này tổ chức thành đội ngũ, có những vũ khí thông thường như giáo mác, và chủ yếu là giữ làng và bảo vệ an ninh ở địa phương. Họ vẫn tham gia sản xuất làm ăn như người bình thường, khi cần họ còn làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực, xây dựng đường sá, đào vét sông ngòi và các việc công ích khác. Họ không có lương bổng như binh lính nên khi huy động họ làm việc công ích thì nhà nước phải cấp tiền gạo cho họ. Đây là một trong những tư tưởng cải cách rất hay về quân đội của ông, chẳng những tăng cường và mở rộng sức mạnh cho quân đội triều đình mà còn tăng cường tinh thần đoàn kết giữa quân và dân, huy động được sức mạnh của nhân dân, mặt khác tạo ra một vòng bảo vệ chắc chắc thứ hai, cản bước chân quân địch, làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến. Chính sách này cho tới ngày nay chúng ta vẫn sử dụng nó một cách hiệu quả ở mỗi địa phương. Ông còn xin triều đình lập một số binh chủng mới. Ngoài bộ binh ra, còn phải có đội kị binh để 27
- tuần tiễn nơi biên phòng miền núi và đội thủy binh để ứng phó mặt biển. Các đội bộ binh, thủy binh, kị binh đều phải liên hệ với nhau và do bộ binh của triều đình thống lĩnh. Ông cũng nêu lên biện pháp cụ thể để xây dựng đội thủy binh và kị binh. Về thủy binh, triều đình phải có mua tàu có đại bác lớn và thuê người Pháp hoặc người Anh huấn luyện hải quân. Về kị binh, triều đình phải phái người sang Ma - ni mua độ 4, 5 trăm con ngựa đã được huấn luyện cho kị binh của ta. Rõ ràng có thể nhận thấy ông đã tìm ra những điểm yếu của quân đội triều đình, chỉ chú trọng bộ binh mà chưa thật sự chú trọng tới quân đội ở biển và vùng biên giới hiểm. Vấn đề vũ khí cũng được ông hết sức quan tâm. Ông đề nghị triều đình phải mua vũ khí tối tân của các nước để trang bị cho quân đội và nhờ họ huấn luyện cho quân đội của ta. Cụ thể là triều đình nên phái người sang Anh, Pháp mua loại súng liên thanh bắn mỗi phút 100 viên đạn, mua đại bác có xe chở để trang bị cho quân đội của ta. Nhưng chủ yếu là triều đình phải lập những xưởng đúc súng và dựa vào súng của họ mà đúc ra súng của ta. Những xưởng đúc súng phải giữ bí mật. Đồng thời để đáp ứng nhu cầu đúc súng phải tăng cường khai thác các mỏ kim loại, làm hạt nổ thuốc súng và mời kĩ sư người Tây về giúp đỡ. Việc này phải tiến hành nhanh để sau một thời gian ta có thể tự túc được súng. Vấn đề tổ chức phòng thủ thì triều đình phải dần dần xem xét địa hình chuẩn bị xây cất đồng lũy để khống chế những chỗ quan yếu. Miền duyên hải từ Quảng Yên đến kinh đô phải được xem xét để xây đồn lũy kiểu mới và phải chở đá đến hai bên cửa biển phòng khi hữu sự. Miền biên giới Trung Hoa cũng cần được nghiên cứu xây dựng thêm nhiều đồn lũy, nhất là trên những con sông chảy vào nước ta Tất cả các đồn lũy phải có binh lính canh phòng, lúc nào cũng phải coi như có giặc tới tấn công. Trong đồn phải trồng nhiều cây cối và phải hớt ngọn chỉ để cao bằng thành đồn. 28
- Thứ hai: sửa sang lại biên giới. Ông đề nghị vẽ bản đồ biên giới cũng như điều tra dân số và thống kê tất cả mọi mặt sinh hoạt của đất nước như vẽ bản đồ tất cả các xứ trong nước. Về địa phận mỗi tỉnh, huyện, xã, thôn, phường, sách, động, trang phải đo đạc lại hết cho phù hợp bốn bên, xa gần, rộng hẹp. Đồng thời mô tả tình thế mặt đất rồi ghi chú rõ ràng vào bản đồ cả nước. Vẽ bản đồ phải thực hiện nhiều loại, có loại vẽ phân tích ra từng phần, có loại vẽ tổng hợp chung tất cả các phần vào một như lối vẽ của phương Tây, nói chung các bản đồ đều phải lấy độ số bằng dặm vuông để dễ suy toán. Bên cạnh đó, Nguyễn Lộ Trạch viết Thời vụ sách hạ nhằm chỉ trích thói ươn hèn, cầu an, bất lực của triều đình nhà Nguyễn. Để đối phó với tình hình khó khăn, ông đề nghị biện pháp tích cực có tính chất cứu nguy là dựa vào địa thế hiểm yếu để giữ vững gốc nước. Khi phân tích vị trí của Kinh thành Huế, Nguyễn Lộ Trạch cho rằng: vị trí kinh thành Huế sớm muộn gì cũng bị tàu Pháp uy hiếp, mà khả năng phòng thủ về mặt biển thì không có gì đảm bảo ngăn được tàu giặc, nên Nguyễn Lộ Trạch đề xuất xây dựng kinh đô thứ hai ở Thanh Hóa. Nguyễn Lộ Trạch chọn địa bàn Thanh Hóa để đặt kinh đô kháng chiến cho thấy con mắt sáng suốt của nhà chiến lược. Nơi đây có những địa thế về kinh tế, chính trị, quân sự trong thời chiến. Việc ông đề xuất rời đô ra Thanh Hóa là một suy nghĩ táo bạo, sáng suốt mà chưa có nhà cải cách nào đương thời nêu lên. Ông cũng đưa ra biện pháp huấn luyện binh lính để có đủ binh lực. Có thể thấy Nguyễn Lộ Trạch bàn đến cải cách quân đội, trang bị lại vũ khí và tổ chức tập luyện. Ông bàn sâu về bộ binh chứ không bàn về thủy binh như Thời vụ sách thượng. Vì xây dựng thủy quân là việc lâu dài cần có thời gian hòa bình nhất định mà trước mắt không còn cơ hội đó. Quan điểm chủ yếu của Nguyễn Lộ Trạch về tổ chức quân đội là phải tinh nhuệ. Điều này không có gì mới so với lý thuyết quân đội thời xưa, nhưng lại là một yêu cầu cao đối với 29
- thực trạng quân đội triều Nguyễn lúc bấy giờ. Vì quân đội đã sa sút đến mức thảm hại không còn sức chiến đấu: “Nay trong số ngạch binh có cả trẻ con non choẹt. Lùa đám dân chưa được huấn luyện ra chống giặc khác nào đem thí bỏ đâu. Huống nữa việc tạp dịch không được miễn thì việc huấn luyện không được chuyên - lên núi đốn gỗ, lam chướng nhiễm vào mười phần chết một, hai, thế thì quân đội không được bảo toàn lực lượng. Đến như lương tháng quá ít, muối mắm không cấp, đóng góp lung tung, khiến thân người như không còn chỗ nguyên vẹn” [3; 117]. Ông chủ trương chia quân đội ra làm 3 loại, có tiêu chuẩn đãi ngộ rõ ràng, sử dụng đúng theo khả năng và đối tượng tác chiến. Ông chú trọng chất lượng một cách nghiêm ngặt: “Còn nếu như bảo rằng: quân số ngày nay thường chỉ có danh sách ma, lựa chọn càng nghiêm thì quân số càng ít. Nhưng thà có một người mà dùng được một người còn hơn có 10 người mà không dùng được một Quả thật là quân đội có cần gì phải nhiều đâu!” [3; 118]. Nguyễn Lộ Trạch cũng không quên đội quân hương dũng ở làng xã, đề nghị tổ chức lại theo tinh thần “dụng tinh bất dụng đa”, đảm bảo luyện tập hẳn hoi, miễn phu dịch, khi hữu sự mới có thể điều động nhanh chóng và có công hiệu. Ông còn quan tâm đặc biệt đến trang bị vũ khí, đề nghị thay loại súng “điểu sang” cũ kỹ bằng súng “hỏa sang” hiện đại: “Binh khí ngày nay không còn gì hơn súng hỏa sang. Hỏa sang lợi hại vì nó mau lẹ và tinh xảo. Còn súng đểu sang của ta thì vụng về thô nặng, chậm chạp khó đeo mang, lỗ châm ngòi nghiêng lệch, tro và thuốc đạn lẫn lộn, khi lâm trận phải quay nòng lại nhồi thuốc, bắn không chính xác, dẫu có ngàn khẩu thì cũng không bằng dùng một khẩu, tiếng là có vũ khí mà kỳ thực cũng chỉ như tay không mà thôi. Tôi xin hãy bỏ hết súng cũ của ta, đổi sang dùng súng kiểu mới của Phương Tây, giúp mang nhẹ bắn nhanh, tiện lợi cho việc hành quân đường xa. Nếu nói súng ấy không phải sản xuất trong nước, mua sắm khó khăn, để rồi lại 30
- theo thói quen cũ thì lại cũng sẽ cẩu thả qua loa cho xong chuyện mà thôi, làm sao có được quân đội hùng mạnh” [3; 119, 120]. Nguyễn Lộ Trạch đưa ra biện pháp mở rộng ngoại giao với các nước châu Âu, nhất là nước Đức và nước Anh để nhờ ủng hộ, kiềm chế Pháp. Nguyễn Lộ Trạch đề nghị biện pháp ngoại giao rộng rãi với các cường quốc phương Tây để nhờ họ dùng thanh thế kiềm chế thế lực của Pháp. Đây là một nhận thức nhạy bén phù hợp với những bước tiến của lịch sử. Nhu cầu ngoại giao giữa các nước là vấn đề quốc tế hàng ngày, chúng ta không được buông lơi. Nguyễn Lộ Trạch còn chỉ ra mối quan hệ quốc tế sẽ giúp ta có khả năng khai thác sự chế ngự lẫn nhau giữa các nước tư bản và sẽ tạo ra thế yên bình: "Hiện nay các nước Phương Tây lớn nhỏ giằng nhau, mạnh yếu cưỡng chế nhau cũng như cái lối hợp tung đời Chiến quốc" [3; 124]. Đây là cái nhìn thực sự sắc sảo, vì mở cửa giao tiếp chính là khai thông con đường canh tân đất nước để giúp ta tự lực tự cường. Còn với Thiên hạ đại thể luận, lần đầu tiên Nguyễn Lộ Trạch tìm ra nguyên nhân thịnh suy, tồn vong của một quốc gia ở vấn đề “chính giáo”: “Sự còn mất của quốc gia là do chính trị - giáo dục, chứ không phải do mạnh - yếu, lớn - nhỏ. Chính trị - giáo dục được sửa sang cất cử thì dầu nhỏ yếu cũng chưa thể mất được” [3; 138]. Ông đề cập đến vấn đề chính trị - giáo dục và mong muốn phải được sửa sang. 2.1.2. Về kinh tế Để xây dựng kinh tế nước nhà, Nguyễn Trường Tộ đề nghị chấn hưng "nông, công, thương nghiệp" để làm cho dân giàu nước thịnh, bằng những hành động cụ thể như: tổ chức khai hoang, bảo vệ rừng, thành lập các đoàn tàu đem hàng nông sản đi bán, cử người thăm dò tài nguyên, khai thác mỏ, thành lập các cơ sở sản xuất công nghệ và đào tạo thợ kỹ thuật Và để nền 31
- kinh tế cả nước có thể giao thông dễ dàng, thì phải chú ý đến việc làm mới và tu bổ đường bộ và đường thủy Điều chỉnh thuế ruộng đất, ông đề nghị chấn chỉnh thuế điền thổ. Mục đích không phải là tăng thuế mà làm cho việc đóng góp của nhân dân được hợp lí và tránh sự gian lận thuế má. Ông từng nói “Điều tôi xin đề nghị đây không phải xin tăng thuế nhiều thêm mà xin cân bằng lại chỗ thừa chỗ thiếu” [2; 259]. Ông nhấn mạnh vào tình trạng không chính xác của sổ sách điền thổ lúc bấy giờ. Tình hình ruộng đất thay đổi, có nơi đất đá bị lở, hoặc bị sa bồi, thu hoạch kém trước, có nơi ruộng đất được bồi thêm dư ra nhưng trong sổ điền vẫn không sửa, ruộng đất công tư lẫn lộn, từ đó nạn lậu thuế ngày càng tăng cao, thu nhập nhà nước ngày càng sút kém. Nhưng triều đình vẫn không chú ý và vẫn để tình trạng ấy kéo dài. Trên cơ sở nắm được tình hình ấy, nhà nước mới xét lại thuế má, nơi nào đất xấu thu hoạch ít thì giảm, nơi nào ruộng đất thật sự bỏ hoang thì miễn thuế, nơi nào ruộng đất tăng thì phải thêm thuế. Nhờ đó nhà nước sẽ thu được đúng mức thuế, có lợi rất lớn, công bằng, nhân dân không oán than. Bên cạnh việc chỉnh lí điền thổ, Nguyễn Trường Tộ đề cập đến vấn đề điều tra hộ khẩu, biên rõ số người để việc đóng thuế được công bằng và hợp lí hơn. Ông nhấn mạnh vào nhiệm vụ của triều đình phải nắm vững sự tăng giảm của dân số, tình hình nghề nghiệp và sinh hoạt của họ. Việc điều tra dân số sẽ giúp cho nhà nước điều chỉnh được thuế đinh và chấm dứt được mọi sự gian lận do bọn cường hào gây ra. Ông vạch rõ tệ xấu của nước ta, người giàu đóng thuế bao nhiêu thì người nghèo đóng thuế bấy nhiêu. Đó là một sự bất hợp lí, vì theo ông, người giàu mang ơn nặng của người nghèo. Ông đề nghị triều đình đánh thuế nặng các thứ như bạc, rượu, thuốc lá, thuốc phiện, chè, các hàng xa xỉ và hát xướng. Đây cũng là một biện pháp tiến bộ và có hiệu quả nhất định trong việc gìn giữ trật tự xã hội lúc bấy giờ, thậm chí cho tới nay biện pháp này cũng được chúng ta áp dụng. Ông còn 32
- đề nghị quản lí chặt chẽ các nguồn tài chính trong nước như: phải biết rõ số hàng hóa xuất nhập, số tàu bè qua lại, số chợ búa, nhà trọ, giá hàng đắt rẻ. Nhà nước cũng cần phải nắm sự chi dùng và sự sản xuất trong nước để điều chỉnh giữa sản xuất và tiêu dùng. Đồng thời cũng phải nắm vững gia sản của nhân dân, của người giàu, người nghèo. Việc nắm vững được những vấn đề nêu trên sẽ giúp cho triều đình có thể quản lí tốt nền kinh tế, cũng như có những biện pháp kịp thời để điều hòa khi kinh tế nước nhà. Tuy nhiên, đối với ông, thuế cần được chấn chỉnh, nhưng đó chỉ là một nguồn thu có giới hạn nhất định mà thôi, điều cần nhất là phải làm cho của cải thêm nhiều. Biện pháp mà Thời vụ sách hạ của Nguyễn Lộ Trạch nêu lên là tích lũy tiền gạo để có đủ lương thực cụ thể là làm đồn điền. Biện pháp này được nhiều người quan tâm. Vì đây là biện pháp quen thuộc chóng có hiệu quả. Ông đề nghị lập đồn điền để tăng nguồn lương thực nuôi quân trong hoàn cảnh thời chiến. Tuy nhiên khi đề xuất ông cũng đã lường trước những khó khăn như: vốn liếng, trâu bò, nông cụ cần phải được sự hỗ trợ của nhà nước. Địa điểm khai khẩn chọn nơi phì nhiêu, tránh nơi hoang vu nước độc để đảm bảo sản xuất có kết quả. Điều quan trọng hơn cả là cách thức tiến hành làm sao để khắc phục những tệ lậu trong khi làm đồn điền. Bên cạnh làm đồn điền, Nguyễn Lộ Trạch còn đề xuất việc thông thương để làm giàu cho đất nước. Ông viết: “Đây chỉ là cứu chữa việc gấp gáp nhất thời mà ta tạm quyền biến. Nhưng xem chuyện biến đổi trong toàn cầu, thì các nước thường mượn tiếng thông thương mà đi khắp nơi dò xét tình hình để bổ sung cái mình còn thiếu sót” [3; 116]. Như vậy, những tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch về kinh tế căn bản đã góp phần đáp ứng nhu cầu bấy giờ. Tư tưởng này khá toàn diện, nếu được thực hiện thì cũng tạo điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở nước ta. Nhưng do điều kiện lịch sử và 33
- điều kiện giai cấp hạn chế, những cải cách đó không tránh khỏi những thiếu sót. Mặc dù vậy, qua những tư tưởng cải cách trên đã nói lên khát vọng tha thiết muốn đuợc làm cho dân giàu nước mạnh. 2.1.3. Về văn hóa - xã hội Vấn đề sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng. Đầu tiên, Nguyễn Trường Tộ đã phê phán sự học ở nước ta thời đó, những điều thầy dạy trò học đều là những chuyện xa xưa. Học thuật thời xưa nói chung không còn phù hợp với đời nay nữa. ông xin triều đình lập ra bốn khoa: khoa nông chính, khoa thiên văn và địa lý, khoa công kỹ nghệ, khoa luật học. Điều này nhằm phát triển nền giáo dục của nước nhà, đào tạo ra những đội ngũ tri thức trong lĩnh vực đáp ứng được nhu cầu phát triển đất nước. Nguyễn Trường Tộ đưa ra một sáng kiến là dùng quốc âm. Đoạn này được ông coi là kiến nghị thứ năm trong việc sửa đổi học thuật. Ông viết: nước ta là một nước có tên tuổi thuộc hạng nhì của phương Đông. Vậy mà chỉ một mình nước ta không có chữ viết, phải dùng chữ nho để viết thay, mà phát âm thì không theo như giọng Trung Quốc, lại cũng không phải là tiếng nói phổ thông của người Việt Nam, thành ra đem nói với người Tàu họ chẳng nghe ra, mà đọc cho người không biết chữ nho cũng chẳng ai hiểu. “Thông cáo yết thị của nhà nước truyền xuống phải qua người biết chữ đọc và dịch lại cho dân, nhưng phần nhiều viện dẫn thất thiệt, giảng nghĩa không tỏ, khiến dân thường không hiểu hết, ý chí của triều đình bị xuyên tạc” [2; 255]. Đứng trước sự bất tiện như trên, ông đã đề nghị bây giờ ta cứ lấy chữ Hán chuyển đọc ra quốc âm, không cần học nghĩa. Như vậy ai cũng dễ hiểu có phải là vừa dễ dàng vừa bớt được bao nhiêu phiền phức hay không. Ông tính ra quốc âm Việt Nam thời ấy ước chừng hơn một vạn tiếng trong đó chỉ có khoảng 3000 tiếng không thể viết ra chữ Hán được, trường hợp đó có thể dùng chữ Hán tương tự ghi thêm dấu vào bên là được còn 7000 chữ kia viết được như chữ Hán mà cứ đọc thành quốc âm Việt Nam. 34
- Như vậy gọi là “chữ Hán quốc âm”. Nếu triều đình chấp nhận đó là kế hoạch lâu dài, giản tiện thì xin làm thử xem sao. Với kế sách này cần phải ấn hành một tờ báo đăng tải các tiêu chí, sở, dụ, những việc làm của các bậc danh tiếng, những công vụ quốc gia hiện thời, cho học sinh đọc để biết công việc trong nước. Tóm lại, chúng ta có thể thấy rõ những tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ về vấn đề giáo dục mang nhiều giá trị tích cực, có nhiều tư tưởng của ông cho đến nay vẫn còn phù hợp. Vấn đề xây dựng luật lệ nhà nước Nguyễn Trường Tộ đã đề xuất với triều đình "lập khoa luật", điều này đã nói lên sự quan tâm của ông đến "kỉ cương, uy quyền, chính lệnh quốc gia". Đây là điều mà mọi chế độ, mọi nhà nước luôn đặt lên hàng đầu. Theo ông: "bất luận quan hay dân, mọi người đều phải học luật nước Ai giỏi luật sẽ được làm quan" [2; 253]. Ngay trong bản điều trần, Nguyễn Trường Tộ đã viết "Quan dùng luật để trị, dân theo luật mà giữ gìn. Bất cứ một hình phạt nào trong nước đều không vượt ra ngoài luật" [2; 253]. Nhà nước và nhân dân ta ngày nay đang nêu cao vai trò trách nhiệm của ngành tư pháp là phải xử đúng luật, đúng người, đúng tội, tránh xử oan sai. Muốn làm tốt điều này, theo ông, phàm những ai đã nhập ngạch Bộ Hình xử đoán các vụ kiện tụng thì chỉ có thăng trật chứ không bao giờ bị biếm truất. Dù vua, triều đình cũng không giáng chức họ được một bậc. Như vậy là để giúp cho các vị này được thong dong trong việc chấp hành luật pháp không bị một bó buộc nào cả. Đây chính là thể hiện rõ quan điểm tam quyền phân lập. Giữa cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải đảm bảo tính độc lập khách quan. Ông cho rằng: "làm thế là để cho dân chúng thấy rõ đạo công bằng" [2; 253]. Trong bản điều trần, Nguyễn Trường Tộ đã mạnh dạn phê phán: "các sách Nho chỉ nói suông trên giấy, không làm cũng chẳng bị ai phạt, có làm 35
- cũng chẳng ai thưởng" [2; 253]. Rõ ràng trong xã hội, cơ quan, vấn đề thưởng phạt phải kịp thời, đúng mức, thì mới có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển của xã hội, sự tiến bộ của mọi người. Nguyễn Trường Tộ đề cao việc con người sống đúng luật pháp, làm theo luật pháp là đạo sống, là đức trời. Đây là một quan điểm đúng đắn. Xã hội ta ngày nay đang thực hiện cải cách hành chính, đang soạn thảo thêm các điều luật và chỉnh sửa luật pháp cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử đất nước trong thời đại mới. Tư tưởng pháp trị của Nguyễn Trường Tộ hôm nay vẫn nguyên giá trị. Ở Thời vụ sách hạ Nguyễn Lộ Trạch đưa ra biện pháp học kỹ thuật để chống giặc. Nguyễn Lộ Trạch thực sự là người cầu thị. Mặc dù là một nhà nho không được trực tiếp tiếp xúc với phương Tây nhưng ông không mang tư tưởng bảo thủ, lạc hậu. Ông không những công nhận kỹ thuật của phương Tây đạt đến trình độ tinh xảo mà còn muốn mình cũng nên tìm cách để học họ. Ông nói: "Ví như tàu máy, hỏa pháo của phương Tây kỹ thuật hơn hẳn xưa nay, các nước trên thế giới đều học theo, để chế tạo, lúc đầu ở Anh, Pháp, Phổ và kế đến Nhật Bản, sau cùng Trung Hoa. Thế mà mấy chục năm nay nước ta rốt cuộc không có lấy một" [3; 117]. Quả thực đây là một sự chậm trễ rất tai hại. Với tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, nhà Nguyễn không những không muốn học kỹ thuật của Pháp mà lại còn tỏ vẽ coi khinh. Vì học kỹ thuật chẳng qua chỉ là làm ông Nghè, ông Cống vinh thân phì gia mà vênh vang với đời. Tư tưởng này đã tạo một tâm lý phổ biến trong xã hội là ít ai muốn đi học kỹ thuật. Do vậy Nguyễn Lộ Trạch đề nghị nên có chính sách khuyến khích ưu đãi nhằm lôi cuốn những người thông minh đi học kỹ thuật. Có thể nói, học kỹ thuật của phương Tây để chế ngự kỹ thuật ưu thắng của họ là một biện pháp rất tích cực thể hiện tầm nhìn chiến lược của ông. Chỉ tiếc rằng triều đình phong kiến hủ bại đã không làm được điều đó. 36
- Vấn đề chăm lo đời sống nhân dân thì Viện Dục Anh được lập ra để nuôi dưỡng, chăm sóc những đứa trẻ mồ côi. Trại Tế Bần là nơi nuôi người nghèo khổ, không nơi nương tựa. Nhìn thấu được tình hình hiện tại của đất nước mà đặc biệt là trẻ em và người nghèo, Nguyễn Trường Tộ đã đưa ra những cải cách tiến bộ. Theo Nguyễn Trường Tộ, triều đình nhà Nguyễn cần phải có chính sách giúp đỡ những người nghèo khổ trong xã hội và có nơi nuôi dưỡng những đứa trẻ mồ côi. Do dưới triều nhà Nguyễn việc chăm lo cho những người bất hạnh trong xã hội như nuôi nấng trẻ mồ côi, giúp đỡ người tàn tật và già yếu neo đơn, nghèo đói, nếu có thì cũng chưa hiệu quả và thành hệ thống. Ông từng nói “Tôi thấy hiện nay triều đình có xuất công quỹ lập viện tế bần để nuôi người nghèo khổ. Nhưng do người thi hành không làm hết nhiệm vụ, nên chỉ có danh nghĩa mà thực tế những người nghèo khổ không được hưởng sự trợ giúp bao nhiêu” [2; 275]. Ông kiến nghị, “về mặt nhà nước thì cấm tuyệt không cho kẻ đi ăn xin. Nếu ai vô cớ đi ăn xin dọc đường thì đó rõ ràng là kẻ gian trá hình, bất cứ ở đâu hễ gặp là bắt ngay đem về tra xét rồi xiềng lại sung vào công dịch” [2; 275]. Nguyễn Trường Tộ đã dùng những lý lẽ của trời đất và các chứng cớ lịch sử để kêu gọi triều đình phải có chính sách bao dung, nhân ái đối với những tín đồ Công giáo. Điều đó được thể hiện ở bản "Giáo môn luận". Ông đã đưa ra những lý lẽ của trời đất: “Trộm nghĩ rằng cái đức lớn của trời đất là sự sống. Sống là gì? Là làm cho muôn vật đều được bảo toàn thiên tính của nó. Vì vậy mà trên trời có sao sáng mây đẹp thì cũng có gió lớn mưa to; dưới đất có lúa tươi thóc tốt thì cũng có cỏ xấu sâu độc. Tuy tốt xấu khác nhau nhưng đều được sinh nở không cái nào bị hại. Như vậy mới sáng tỏ cái đại toàn của trời đất. Chứ cái gì đẹp thì tô bồi, cái gì xấu thì dẹp bỏ, cái gì hay thì che chở, cái gì dở thì huỷ hoại thì không làm sao thấy được cái vĩ đại, 37
- cái kỳ diệu của tạo vật. Vì sao lại nói như vậy? Bởi vì nếu trên đời này có ngọt mà không có đắng, người ta sẽ không biết vị ngọ là đáng yêu; có ấm mà không có lạnh, người ta sẽ không biết được cái thích thú của sự ấm áp; có trắng mà không có đen, trắng không thể tự một mình phô bày cái đẹp được; có hoa mà không có gai, hoa cũng không thể một mình tốt tươi được. Cho nên trời đất không vì tốt xấu mà phân biệt mưa xương, không vì văn minh dã man mà phân biệt sự che chở. Muôn vật sống chung đụng với nhau nhưng mỗi vật đều thuận theo tính của nó, đều tự thích nghi, thành hoại thông với nhau, tán mạn đặc thù đều quy về một mối, không bỏ một vật nào cũng không riêng tác thành cho một vật nào cả. Sở dĩ trời đất vĩ đại là vì thế. Tại sao riêng loài người lại không như thế?” [2; 115]. Ông đã đưa ra lý lẽ chứng minh cho người đọc thấy được cái đức lớn của trời đất là sự sống và muôn vật trong trời đất đều được bảo toàn không phân biệt nhau. Vì thế mà ông mong con người hãy vĩ đại như thế. Tiếp đến là đưa ra chứng cứ lịch sử: “Xét ra đạo Công giáo vào nước ta từ thời Lê. Trước tiên các giáo sĩ Bồ Đào Nha đến giảng đạo ở tỉnh Hưng Yên, tiếp đến có các giáo sĩ người Pháp, người Y Pha Nho đến, được nhiều người tin theo. Lúc bấy giờ giáo dân và những người trong ba đạo (Phật, Lão, Khổng) tuy tín ngưỡng khác nhau nhưng vẫn ân ái tiếp đón nhau, lễ nghĩa đối đãi nhau, năng lui tới với nhau không có gì hiềm nghi, đều là con dân của nước nhà mà thôi. Từ khi ban hành lệnh nghiêm cấm thì mới sinh ra ghen ghét kỳ thị nhau, do ghen ghét kỳ thị nhau mới sinh ra tội lệ. Từ đấy giáo dân bị phiền nhiễu đến nỗi phải lưu ly thất sở mà mắc vào vòng hình phạt. Nước vốn trong, có quấy lên mới bị đục, nếu ngừng thì chốc lát sẽ trong trở lại” [2; 116]. Ông thật tinh tế khi đưa ra chứng cứ từ lịch sử, đó là điều hiển nhiên thuyết phục được con người. Ông cho rằng từ đời xưa mặc dù tín ngưỡng khác nhau nhưng họ vẫn đón tiếp, đối đãi tốt với nhau vậy sao chúng ta không 38
- làm được. Bằng sự lập luận sắc sảo, phân tích logic Nguyễn Trường Tộ đã nêu lên được điều mà ông mong muốn rằng triều đình phải có chính sách bao dung với người Công giáo. Ông đã kêu gọi sự đoàn kết: “Giáo dân cũng là người trong nước, đều là người cả, cũng là dân của trời, sự ăn ở có liên quan nhau, vui buồn liên quan nhau. Lẽ nào bên này động mà bên kia lại yên được sao? Một nước ví như một thân thể. Một chỗ bị đau thì toàn thân cũng không yên. Một cục thịt thừa, một ngón tay đeo thật hết sức vô dụng thế mà cắt bỏ đi thì đau, huống chi là tay chân hữu dụng!” [2; 116]. Từ lý lẽ của trời đất hay những chứng cứ lịch sử thì đều thấy rằng con người trong cùng một nước đều hòa hợp bao dung nhau. Qua sự lập luận và phân tích cuối cùng ông cũng đã mạnh dạn nói lên suy nghĩ và mong muốn của mình mục đích để canh tân đất nước. Thông qua đó, chúng ta có thể thấy được tấm lòng nhân đạo, yêu nước thương dân, luôn lo lắng cho vận mệnh đất nước của một người làm cải cách xuất phát từ tình yêu thương con người kết hợp với tầm nhìn sâu rộng của mình ông đã đề ra được những biện pháp chính sách xã hội mang tính chất tiến bộ và vô cùng nhân đạo. Tuy nhiên giữa lúc triều đình chỉ lo bảo vệ quyền lợi và danh dự của mình nên đã không còn để tâm lo cho số phận của những kẻ bần cùng trong xã hội, đây chính là lí do làm cho những chính sách của ông không được thực hiện. Dù những quan điểm canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch không được triều đình thực hiện, hoặc thực hiện nửa vời không đi đến đâu, nhưng toàn bộ tư tưởng cải cách của hai ông đã được nhiều thế hệ đánh giá cao và để lại cho đời nhiều di sản quý báu. Những vấn đề mà Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch nêu ra ở thời đại đến nay vẫn còn nóng hổi tính thời sự đối với chúng ta khi mà đất nước đang bước vào thời kỳ đổi mới, hướng tới mục tiêu dân giàu nước mạnh. 39
- 2.2. Kế sách chống chọi với kẻ thù Trong bối cảnh lịch sử cam go, Nguyễn Trường Tộ viết Thiên hạ phân hợp đại thể luận gửi cho triều đình Tự Đức vào tháng 3 - 4 năm 1863. Ông trình bày những chiến lược cơ bản, về những thế lớn phân và hợp trong thiên hạ. Không hề ảo tưởng về dã tâm của thực dân Pháp, nhưng ông rất sáng suốt chủ trương tạm hòa hoãn với Pháp, gợi ý với nhà vua về lợi ích lớn của việc mở rộng quan hệ với Pháp. Đây chính là một sách lược để thực hiện canh tân, chuẩn bị các điều kiện và khi có thời cơ thì đánh đuổi Pháp. Nguyễn Trường Tộ đã tổ chức sắp xếp các lý lẽ và phân tích sự lý để đưa ra kế sách chống chọi kẻ thù đúng đắn nhằm giúp đất nước thoát khỏi cảnh lầm than. Xưa nay, trong chiến tranh - kể cả chiến tranh vệ quốc - việc đánh hay hòa cũng là chuyện bình thường, và Việt Nam cũng vậy. Hòa để bảo toàn lực lượng, để mở rộng căn cứ (như trong khởi nghĩa Lam Sơn), hòa để lùi một bước tiến hai bước, có khi vừa đánh vừa đàm Thế nhưng hoàn cảnh Việt Nam những năm 60 - 70 của thế kỷ XIX mà nói chuyện “hòa” với thực dân Pháp để tiến hành canh tân đất nước thì e rằng người Pháp không chịu. Vì sao vậy? Ở Thiên hạ phân hợp đại thể luận Nguyễn Trường Tộ đã đưa ra dẫn chứng rằng tất cả các nước lớn trên thế giới đều bị Pháp xâm chiếm: “Ngày nay các nước phương Tây, đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ châu Phi cho tới Thiên Phương, Thiên Trúc, Miến Điện, Xiêm La, Tô Môn Đáp Lạp, Trảo Oa, Lữ Tống, Cao Ly, Nhật Bản, Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển, kể cả Tây Châu, không đâu là không bị họ chẹn họng bám lưng. Nước Nga thì từ Tây Bắc đến Đông Nam gồm tất cả các nước Đại Uyển, Cốt Lợi Cán, Mông Cổ và các xứ ở phía Bắc Mãn Châu, không đâu là không chiếm đất và nô dịch dân những nơi đó.”; “Đến như địa thế Trung Hoa chiếm 1 phần 3 Đông phương nhân số đến 360 triệu, uy thế lẫy lừng, ai cũng 40
- phải thần phục họ cả, thế mà từ thời Minh về sau, người Tây phương vượt biển sang Đông, hai bên đánh nhau, thây chất thành đống, sau phải giảng hòa không biết bao nhiêu lần. Còn như ta là một xứ nóng, gần kề Quế Hải, là trạm nghỉ chân của người Tây phương trên đường sang Đông. Con giao long khi thấy đầm vực thì nghĩ cách đầm mình chứ không thể chịu bỏ mà đi” [2; 107]. Theo Nguyễn Trường Tộ, nước Pháp cũng như các nước phương Tây là một nước rất mạnh : “Vì ở Châu u việc võ bị chỉ có nước Pháp là đứng hạng nhất, hùng mạnh nhất. Họ lại có tính khẳng khái, hiếu chiến, uy phong của một quân đội có xe sắt. Khi kéo quân đi đánh thì khí thế hiên ngang, thái độ hân hoan. Khi lâm trận thì xông pha tới trước, không chịu tụt lùi. Khi thắng trận thì cả nước hoan hô, dù tổn thất nghìn muôn người cũng chẳng tiếc, chỉ sao cho uy danh hùng tráng, quốc thể được bảo toàn làm trọng. Các tướng thì gan dạ, nhiều mưu trí, thạo binh pháp, thuỷ chiến, lục chiến đều rất giỏi”; “Ở trên lục địa, tất cả những chỗ nào có xe thuyền đi đến, con người đi qua, mặt trời mặt trăng soi chiếu, sương mù thấm đọng thì người u đều đặt chân tới, như tằm ăn cá nuốt, ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa; ai hòa với họ thì được yên, ai cự lại thì dùng binh lực giao tranh; trong thiên hạ không ai dám kháng cự lại họ. Huống hồ nước Việt ta là một nước bé nhỏ, tại sao lại muốn trái đạo trời mà làm những việc thiên hạ khó làm được”? [2; 108]. Nguyễn Trường Tộ cũng tiên liệu rằng : “Nếu như ngày kia Pháp đưa quân đến thì việc vượt biển cũng như đi trên đất bằng, trèo non như đi trên đường bộ. Nước ta tựa núi kề biển, địa thế như một con rắn dài đầu đuôi không liên lạc được với nhau, nếu họ đánh một trận thì ta đã bị cái thế chia năm xẻ bảy ” [2; 108]. Trong lúc đó, vẫn theo Nguyễn Trường Tộ, “quân lính của ta lại chuyên dùng gươm dao gậy gộc, không thạo súng ống, dù phục binh cài bẫy, nhưng 41
- trận đồ như vậy chỉ hợp cho những tình thế không cấp bách, chỉ đánh được gần chứ không đánh được xa. Nếu họ dùng súng trường từ xa bắn suốt tới, thì quân ta chưa giáp trận mà gươm giáo đã tan tành. Khi họ đến gần thì dùng lưỡi lê xung phong một người đương được cả 100 người, xông lên như nước sông chảy xiết. Lúc ngừng lại thì như núi dựng, xông vào chẳng qua cũng như chuồn chuồn lay cột đá mà thôi.( ). Đem quân nhút nhát của mình ra đánh lại quân vô địch của họ thật chẳng khác nào như bắt muỗi đội núi, đem dê đấu hổ ( ). Quân Pháp đánh thành không cần dùng những phương pháp bắc thang, đường hầm, xe kiếm, bao đất, mà đại pháo bắn ra thì núi lở, gò sập ( ), trèo thành như lên đệm gối, sở dĩ lâu nay họ chưa dùng đến là vì cắt cổ gà cần gì phải dùng dao mổ trâu ” [2; 108]. Theo phân tích của Nguyễn Trường Tộ thì nước Việt Nam đứng bên cạnh nước Pháp chẳng khác nào một đứa trẻ gầy còm đứng bên cạnh một người khổng lồ. Hẳn rằng Nguyễn Trường Tộ chỉ muốn nói lên điều ông nghĩ, không có ý “hù dọa” vua quan triều Nguyễn. Sở dĩ chúng tôi trích dẫn hơi rườm rà những đoạn trong Di thảo của Nguyễn Trường Tộ, là vì từ trước tới nay trong giới nghiên cứu chẳng hiểu vì sao mà chưa mấy ai thực sự lưu ý những chi tiết như trên; mặt khác chúng tôi cũng muốn được hiểu rằng: Nguyễn Trường Tộ thật lòng muốn vua quan triều Nguyễn hãy mở to đôi mắt để nhìn cho rõ quân lính của nước Pháp hùng mạnh như thế nào, mà quân lính của triều đình thì yếu nhược ra làm sao. Nếu thực tế đã là như vậy mà đòi chống cự với nước Pháp, liều mình như chẳng có, thì khác nào tự sát. Tóm lại, muốn sống thì phải hòa (hòa chứ không phải đầu hàng), không hòa là mất hết, làm gì còn ngai vàng, còn đất nước mà canh tân, mà độc lập để phát triển ! Và Nguyễn Trường Tộ khẳng định: “Sự thế hiện nay chỉ có hòa 42
- ( ) không hòa mà chiến thì chẳng khác gì cứu hỏa mà đổ thêm dầu, không những không cứu được mà còn cháy cả mình nữa” [2; 108]. Ông chân thành mách bảo triều Nguyễn rằng: “không thể tiếc rẻ vài mảnh đất mà để mất cả giang sơn. Vua quan nhà Nguyễn chỉ mới “trao tặng” ba tỉnh miền Đông, tiện thể họ lại “xin” nốt ba tỉnh miền Tây: nếu vua quan không rút kinh nghiệm ngay mà cứ nhùng nhằng thì có khi họ sẽ nổi nóng bắt “trao tặng” luôn cả nước, bấy giờ có hối tiếc thì đã muộn”! Về điểm này, Nguyễn Trường Tộ giải thích khá cặn kẽ: “Hòa thì trên không cưỡng lại ý trời, dưới có thể làm cho dân khỏi khổ, chấm dứt được sự dòm ngó của bọn gian nghịch, ngăn chặn được sự tranh giành của nước ngoài, thật là hay không thể kể xiết. Còn việc binh đao thì thật là tai họa nó là cho vợ goá con côi, tổn thương hòa khí của trời đất, sinh ra hạn hán lụt lội. Thánh nhân bất đắc dĩ mới phải dụng binh dẹp loạn. Nếu không đánh mà khuất phục được binh lính người mới là đánh giỏi. Nay có đánh họ cũng không đi, hòa họ cũng không đi. Họ chỉ xin mình miếng đất mà thôi, nếu cứ kiên quyết không cho, họ sẽ lập mưu cướp hết, từ khách quay lại làm chủ. Như thế là tiếc một hai mảnh đất mà đem cả nước trao cho họ. Nếu biết rõ, họ đã đến là không đi, họ ỷ thế vào những nước khác, thì đánh với họ tức là mất cái lớn không đáng mất mà còn tỏ ra mất đó là vì bất lực, không hợp tình, không kêu nài gì được; chi bằng hòa mà chịu mất cái nhỏ không thể không mất mà còn tỏ ra mình ngoại giao biết điều và là việc hợp tình hợp lý có hơn không”? “Hoặc giả có người nói đất đai tổ tiên để lại không được đưa gang tấc nào cho kẻ khác. Như vậy là quá câu chấp mà để hỏng việc nước. Sao không xem xưa nay có ai làm chủ giang sơn mãi đâu ( ) . Vả lại những điều mà nước Pháp xin, chẳng qua là để mở bến tàu, lập phố xá, thông cửa bể để buôn bán ” [2; 110]. Và để cho vua quan triều Nguyễn yên tâm hơn, Nguyễn Trường Tộ cam đoan 43
- như đinh đóng cột : “Xưa nay chưa có ai buôn bán mà âm mưu chiếm nước người ta bao giờ” [2; 111]. Chỉ tiếc rằng Nguyễn Trường Tộ lo ngại vua quan triều Nguyễn hoang mang, nên ông chưa muốn nói rõ cho họ hiểu cặn kẽ hơn tâm địa thực sự của thực dân Pháp đối với nước ta, ít nhất là từ ngày họ nổ súng bắn vào Đà Nẵng giữa năm 1858; mà tâm địa này thì một người thông kim bác cổ như Nguyễn Trường Tộ thấu hiểu hơn ai hết. Có lẽ cũng chính vì vậy mà cho mãi đến năm 1871 Nguyễn Trường Tộ vẫn cứ thúc giục vua quan triều Nguyễn phải chớp ngay “thời cơ đã đến” để thực hiện canh tân đất nước! Nếu như trong Thiên hạ phân hợp đại thể luận Nguyễn Trường Tộ bàn về các tình thế lớn trong thiên hạ và đưa ra chủ trương tạm hòa hoãn và mở rộng quan hệ với Pháp thì trong Thời vụ sách thượng Nguyễn Lộ Trạch như tiếp nối chủ trương của Nguyễn Trường Tộ. Ông nhận định tình hình địch - ta và nêu nguyên nhân đất nước ngày càng suy yếu. Bằng lý luận sắc bén và có tính luận chiến, ông đã phê phán đường lối sai lầm và thái độ hèn nhát cầu an của triều đình. Ông nói: “Tình thế nước ta hiện nay cũng như một khối ung nhọt lớn vậy. Trị chăng? Trị thì không có cách! Không trị chăng? Không trị thì cũng không thể ôm bệnh mà ngồi nhìn được! Nếu may mà có cách trị thì lại đòi có hiệu quả ngay trong một sớm một chiều, rồi bó buộc bằng phép tắc này nọ, thì cách chữa trị sẽ thi thố vào đâu được! Nhưng nếu so sánh giữa ngồi ôm bệnh với trị bệnh có hiệu quả hơi lâu một chút, thì kẻ chữa trị biết nên chọn đằng nào rồi. Cho nên người xưa cho sự an vui là thuốc độc, mà việc tự cường, tự trị thì cần phải kịp thời” [3; 86]. Nguyễn Lộ Trạch quan niệm trong tình hình suy yếu, lạc hậu của đất nước phải có hòa bình để bồi bổ sức lực, xây dựng lực lượng, chuẩn bị khi thời chiến đến giành chiến thắng, chứ không phải hòa để xoa tay cho là yên ổn và không hành động gì để xoay chuyển tình thế. Ông nói: “Vả lại thế sự 44
- ngày nay không có cách gì hơn hòa nữa, nhưng lấy hòa làm quyền nghi nhất thời thì có thể được, chứ nếu trông cậy làm kế lâu dài thì tôi đây dầu rất ngu dại, cũng biết là không nên” [3; 88]. Ông phân tích lý do không thể lấy hòa làm “kế lâu dài” một cách hết sức sáng suốt. Trước hết là giặc Pháp đã có âm mưu thôn tính nước ta từ lâu, mặc dù lúc này đã chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ, nhưng so với tham vọng của chúng còn quá ít ỏi, chưa thể thỏa mãn chúng được. Hai là chúng biết ta yếu nên dùng cách hòa nghị để nắm phần lợi, “ngầm tiêu hao máu mỡ của ta làm cái kế “tằm ăn lá dâu” gặm dần đất ta, rồi tiến tới thôn tính toàn bộ đất nước. Ông còn cho rằng hòa chỉ có ý nghĩa, nếu triều đình biết tranh thủ nó để lo tự cường, tự trị: “May gặp lúc này, hòa nghị mới xong, triều đình rảnh việc, thế mà không gấp rút tự cường tự trị, nếu rủi ro sau này có thể xảy ra như chuyện ở Hà Nội, Ninh Bình thì chẳng lẽ cũng dùng miệng lưỡi đối phó với giặc sao?” [3; 90]. Nguyễn Lộ Trạch cũng như một số người cấp tiến lúc bấy giờ luôn nhấn mạnh đến công cuộc tự cường tự trị. Nhằm làm cho dân giàu nước mạnh. Tự cường đòi hỏi phải khôn khéo và táo bạo, không quá lệ thuộc vào Pháp nhất là về lĩnh vực quân sự và ngoại giao. Quan niệm về chiến - thủ - hòa của Nguyễn Lộ Trạch rất đúng đắn. Lúc này phái chủ hòa đang thắng thế, phái chủ chiến gặp khó khăn. Ông còn phê phán kịch liệt quan niệm chủ hòa mà không chiến. Ông cũng không tán thành chủ trương chỉ thủ một cách bị động. Ông không tách rời chiến - thủ - hòa ra mà phân tích mối quan hệ tương hỗ giữa chúng một cách sáng suốt để đi đến đích cuối cùng là đánh địch và thắng địch: “Nay những kẻ bàn bạc trước sau chỉ có một điều hòa rồi kế đến là thủ, còn chiến thì chưa hề đề cập đến T uy muốn hòa, há mình tự hòa được sao? Muốn thủ, há mình tự thủ được sao? Nếu ta không thể chiến bèn vội nói thủ, thì tàu địch nhanh, ta đi bộ chậm, địch giương đông đánh tây, ta sẽ mệt mỏi vì chạy theo ứng phó; huống nữa cửa 45
- biển lại đang rộng lớn, bờ biển trải dài, ta há có thể dãi binh để phòng thủ chắc chắn được chăng? Vì ta không thể chiến mà nói chuyện hòa thì chúng sẽ dùng cái thế “muốn chiến” của chúng để áp đảo cái thế “muốn hòa” của ta, Nay nói chiến đã khó rồi, nhưng không thể chiến thì thủ không thể vững được; thủ không vững thì hòa không có chỗ dựa. Ôi, ngày nay nói chiến vốn đã khó, mà nói không chiến, chỉ thủ lại càng khó hơn.” [3; 92, 93]. Có thể nói quan điểm chiến lược của ông lúc này là chiến để thủ, và trên cơ sở thủ vững chắc mới có thể thực hiện được hòa theo cách quyền nghi, nghĩa là hòa để tự cường tự trị. Nguyễn Lộ Trạch còn chủ trương khắc phục sự chênh lệch về quân đội và vũ khí giữa địch và ta bằng cách học lấy cái sở trường của địch, tức là tàu và súng hiện đại hóa quân đội ta “làm cách nào cho thế và lực ngang với họ”. Ông đề nghị phòng thủ trên biển để hạn chế sở trường của địch, chứ không nên cố thủ một cách thụ động: “ Việc thủ ngoài biển là kế sách trọng yếu ngày nay, mà muốn thủ được ngoài biển thì ngoài tàu và pháo ra, thật chẳng có kế gì khác” [3; 96]. Có thể thấy đây là một ý kiến táo bạo nằm trong dự liệu hòa cuộc của Nguyễn Lộ Trạch. Với Thời vụ sách thượng Nguyễn Lộ Trạch đã thể hiện một nhãn quan sáng suốt, một tầm nhìn xa trông rộng, một kiểu suy nghĩ mới lạ và nhiệt tình yêu nước cháy bỏng của mình. Tiếc thay ý kiến của ông đã không được triều đình tiếp thu. Mặc dù vậy ông không nản chí mà vẫn tiếp tục theo dõi thời cuộc và trình bày những suy nghĩ, đề ra biện pháp khả di cứu nước. Tóm lại để chống chọi với kẻ thù Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch đã đề ra chủ trương hòa hoãn với Pháp. Đây chính là một sách lược để thực hiện canh tân, chuẩn bị các điều kiện và khi có thời cơ thì đánh đuổi Pháp. Nếu như chúng ta kính phục Nguyễn Trường Tộ, nhà cải cách đi tiên phong có những điều trần mới mẻ và táo bạo thì chúng ta càng quý trọng 46
- Nguyễn Lộ Trạch, coi ông như người nối tiếp sự nghiệp cải cách mà Nguyễn Trường Tộ còn làm dang dở. Qua đó cho thấy tấm lòng yêu nước, thương dân vô bờ bến của hai nhà cải cách vĩ đại nửa cuối thế kỷ XIX. 47
- Tiểu kết chƣơng 2: Ở chương hai, chúng tôi đã nghiên cứu đặc điểm nội dung của thể luận trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX. Nội dung mà thể luận đề cập đến chính là về chính trị - quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội góp phần quan trọng trong đấu tranh dựng nước, giữ nước và thể hiện sâu sắc tư tưởng của con người Việt Nam. Để làm nổi bật nên nội dung của thể loại này chúng tôi đã đi sâu vào nghiên cứu những tác phẩm viết bằng thể luận của hai tác giả Nguyễn Trường Tộ và nguyễn Lộ Trạch. Những tác phẩm đều liên quan đến kế sách canh tân đất nước, từ chính trị, quân sự, kinh tế cho đến văn hóa - xã hội và kế sách chống chọi với kẻ thù. Nguyễn Trường Tộ và nguyễn Lộ Trạch không chỉ quan tâm tới triều đình, quan lại mà ông còn lo nghĩ cho nhân dân lao động. Vấn đề được hai tác giả đề cập một cách sâu sắc, tường tận, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế cũng như cách khắc phục nó. Tuy những tư tưởng này đa số không được chấp nhận và bị vua quan nhà Nguyễn cho vào quên lãng, nhưng xét một cách khách quan, đó là những tư duy logic, tiến bộ và hợp thời, nó dựa trên tình hình hiện tại của đất nước ta lúc này. Qua đó, cho thấy được tầm nhìn xa trông rộng của Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch. 48
- Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT Ngôn ngữ của luận phải chặt chẽ, có ví dụ thực tế để chứng minh. Chức năng của luận là vũ trang cho người đọc một quan điểm, tư tưởng, lập trường có cơ sở lý luận trong đời sống và học thuật. Thể loại luận là loại văn dùng để trực tiếp phục vụ cho các cuộc đấu tranh chính trị, vận động văn hóa và có chức năng tuyên truyền sự thật và chân lí, cổ vũ khích lệ nhân dân, đả phá những lời dối trá. Nó góp phần quan trọng trong đấu tranh dựng nước, giữ nước và thể hiện sâu sắc tư tưởng của con người Việt Nam. Chính vì vậy, về mặt hình thức, thể luận nổi bật bởi các phương diện: kết cấu, lập luận, ngôn ngữ và giọng điệu. 3.1. Kết cấu và lập luận Nói đến kết cấu của thể luận là nói đến cách tổ chức sắp xếp hệ thống lập luận trong văn bản chính luận. Hiểu theo nghĩa này bởi lập luận là cách triển khai, tổ chức các cấp độ, các yếu tố của tác phẩm. Trong thể luận, để làm nổi bật được những vấn đề chính trị, xã hội có tính thời sự nóng hổi và để thể hiện được quan điểm thái độ của mình thì buộc các nhà chính luận phải có sự lập luận chặt chẽ. Điều này phải đòi hỏi sự bố trí, sắp xếp, triển khai các luận điểm, luận cứ một cách thuyết phục. Thông qua hệ thống luận điểm, luận cứ và luận chứng, văn chính luận đã tác động trực tiếp vào lí trí người đọc và người nghe một cách dễ hiểu nhất. Các bài luận của Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch đã đưa ra hệ thống lí lẽ và dẫn chứng phong phú để làm rõ cho luận điểm của mình. Những dẫn chứng cụ thể, xác đáng và có tính thuyết phục cao giúp cho người đọc dễ dàng lĩnh hội những nội dung mà ông muốn truyền đạt. “Luận điểm là những tư tưởng, quan điểm, chủ trương chứa đựng trong tác phẩm chính luận”. 49
- Điểm nổi bật trong phong cách lập luận của Nguyễn trường Tộ, trước hết là tư tưởng và lập luận xuất phát từ hiện thực: Việt Nam lạc hậu đang đối đầu với các nước phương Tây hiện đại. Tư tưởng và cách lập luận của ông khác trước, ông không bắt đầu từ những lời dạy bảo của thánh hiền, hay tư tưởng triết lí của Khổng - Mạnh. Những lập luận của ông dựa trên hiện thực và biện chứng làm nên những bản văn sinh động, có sắc thái riêng biệt in đậm chất hiện đại. Trong Thiên hạ phân hợp đại thế luận Nguyễn trường Tộ kiến nghị nước ta nên hòa với Pháp, vì ta chưa đủ lực chống Pháp. Nhìn cục diện đông Nam Á, ông nhận thấy nhiều nước đã bị phương Tây chiếm đóng, ngay cả Trung Quốc là nước lớn mà cũng bất lực trước sức mạnh tấn công của Anh và Pháp. Hơn thế nữa, thực tế Việt Nam lúc này (1863), sau hòa ước Giáp Tuất (1862), Pháp đã làm chủ Sài Gòn, Biên Hóa, Mỹ Tho và còn muốn thôn tính Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. So sánh sức mạnh quân sự thì ta kém thua xa người Pháp. Ta chỉ có gươm, giáo, gậy gộc, những khẩu súng cổ thì “bắn mười phát không đậu một”, tinh thần quân lính thì bạc nhược. Ngược lại, quân Pháp có vũ khí hiện đại, quân lính đầy dũng khí, thế trận của giặc “xông lên thì như nước chảy xiết, ngừng lại thì như núi dựng”. Hiện tình trong nước lại rối loạn, ở triều đình, “quan chỉ biết xu nịnh, làm trò hề”, dân chúng phân tán, lòng người rời rạc. Không hòa với Pháp, tất chúng sẽ gây chiến, ta sẽ thất bại. Điểm thứ hai trong phong cách lập luận của Nguyễn Trường Tộ là lập luận có sự vận động mạnh mẽ, linh hoạt, đạt đến đích điểm. Luận bàn về cải cách võ bị, để quân đội mạnh mẽ tạo uy vũ cho đất nước, Nguyễn Trường Tộ nhận định tướng cần giỏi, quân phải tinh nhuệ: “Cứ xem năm trước, Anh, Pháp Bắc Kinh, chỉ có hai vạn năm nghìn quân thì đủ biết quân cần tinh nhuệ chứ không cần nhiều”. Do vậy, nay xin triều đình sửa dần dần, chọn lấy tránh binh từ hai mươi trở lên, chưa có gia đình. Ngoài ra thải bớt binh lính già yếu. 50
- Bớt đi một nửa số lính về sĩ quan điều khiển cũng phải bớt đi nửa số. Quan võ cần giỏi chứ không cần nhiều: “Nay một vệ sư đổi lại còn một ngàn người, một đội còn một trăm người và chỉ cần một chánh, một phó quân vệ cũng đủ điều khiển. Cho nên phải cẩn trọng chọn quan giỏi đó phải là hạng người có trí thuật hơn người và không chỉ khảo hạch một lần mà phải hết sức phân biệt, nghiệm xét mới được”. Tướng giỏi, quân tinh nhuệ, song chỉnh đốn uy lực quốc gia còn cần phải sửa sang đồn lũy, chế tạo vũ khí mới lạ, tỉnh thành phải trồng nhiều cây xanh, kinh thành phải xây dựng lại cho hợp binh pháp Điểm sau cùng, phong cách lập luận của Nguyễn Trường Tộ là luận cứ, luận chứng lấy từ cuộc sống đa dạng, phức tạp hướng theo tinh thần thời đại. Trong bài Giáo môn luận, Nguyễn Trường Tộ ban đầu đưa ra lý lẽ của trời đất. Ông nói: “Trộm nghĩ rằng cái đức lớn của trời đất là sự sống. Sống là gì? Là làm cho muôn vật đều được bảo toàn thiên tính của nó ” [2; 115]. Có nghĩa là ông bàn về sự sống của con người trên lãnh thổ. Rồi ông đưa ra những dẫn chứng trong lịch sử là “Đạo Công giáo đã xuất hiện ở nước ta từ thời Lê. Lúc bấy giờ giáo dân và những người trong ba đạo (Phật, Lão, Khổng) tuy tín ngưỡng khác nhau nhưng vẫn ân ái tiếp đón nhau, lễ nghĩa đối đãi nhau, năng lui tới với nhau không có gì hiềm nghi, đều là con dân của nước nhà mà thôi ” [2; 116]. Lối hành văn tài tình điêu luyện của Nguyễn Trường Tộ như: “Cái gì không chứa đựng được hết gọi là lớn, chồng chất thành đống nhiều lớp mà không chống chọi nhau gọi là khéo, nhiều thế lực khác nhau, nhiều tính tình khác nhau mà hợp được làm một gọi là giỏi” [2; 116]. Từ những dẫn chứng cụ thể và thuyết phục ông đã kêu gọi sự đoàn kết của dân chúng và kêu gọi triều đình phải có chính sách bao dung, nhân ái đối với những tín đồ Công giáo. Ngoài những điều nói trên, hầu hết ở tất cả các điều mà bản thân đưa ra, Nguyễn Trường Tộ luôn lấy sự khách quan là trên hết, ông xây dựng và sắp 51
- xếp các luận cứ, luận chứng một cách xác đáng vô cùng để làm nổi bật nội dung bài viết. Qua thấy được tài năng của Nguyễn Trường Tộ khi làm sáng tỏ vấn đề. Bên cạnh những bài luận của Nguyễn Trường Tộ thì những bài luận của Nguyễn Lộ Trạch cũng có kết cấu và lập luận một cách logic để làm sáng tỏ những vấn đề mà ông luận bàn trong những sáng tác của mình. Trong Thời vụ sách hạ để đối phó với tình hình khó khăn, ông đề nghị 5 biện pháp tích cực có tính chất cứu nguy. Ở mỗi biện pháp ông đều phân tích cụ thể rõ ràng. Biện pháp thứ nhất là dựa vào thế hiểm yếu để giữ vững gốc nước. Ông đã đưa ra ba điều: “địa thế bốn mặt có quan ải, quân lính trăm vạn dặm, đồng ruộng phì nhiêu ngàn dặm, trong ba điều ấy nếu thiếu một thì không được” [3; 108]. Từ những lý lẽ đó ông đã chọn Thanh Hóa làm địa thế để giữ gốc nước. Ông đã chứng minh rằng: “Thanh Hóa phía Tây Nam có non cao núi lớn Phía Bắc thì dãy núi Tam Điệp chặn ngang Phía Nam có miền Lãnh Thủy, Hoàng Mai Phía Đông là một dải cát dài Dân miền Hoan, Diễn siêng năng, nghĩa dũng, có thể vỗ về mà thu phục, nhờ đấy có được binh lính Vùng này đất rộng người đông, phong tục thuần hậu, đồng ruộng phì nhiêu” [3; 108]. Những lý lẽ và dẫn chứng xác đáng Nguyễn Lộ Trạch đã làm cho người đọc có sức thuyết phục. Biện pháp thứ hai là tích lũy gạo tiền để có đủ lương thực. Với luận điểm này ông lại đưa ra hàng loạt những lý lẽ và dẫn chứng để làm sáng tỏ luận điểm của mình. Ông nói rằng: “Xưa nay những nước yếu hèn lâu ngày đều bị khốn đốn về binh lực và tiền của. Mà binh lực yếu thường do tiền của thiếu thốn ” [3; 111]. Ông cho rằng sự thiếu thốn về binh lực và tiền của là do chưa có đủ lương thực. Chính vì vậy ông đã kêu gọi nhân dân ta lập đồn điền để tích lũy lương thực: “Lấy 5 vạn người làm đồn điền, mỗi năm thu được hơn 70 vạn hộc thóc, tích lại đến 10 năm thì nước ta nhất định giàu vậy” [3; 114]. Biện pháp thứ ba là huấn luyện binh lính để có 52
- đủ binh lực. Để làm sáng tỏ vấn đề này ông nói: “Muốn quân đội hùng mạnh thì trước hết dân phải giàu, mà dân giàu thì không ngoài hai điều nuôi và dạy” [3; 116]. Ngoài những biện pháp trên ông còn đưa ra biện pháp là học kỹ thuật để chống giặc và ngoại giao rộng rãi để nhờ ủng hộ. Ông sắp xếp thứ tự các luận điểm, các lý lẽ một cách logic qua đó nhằm làm sáng tỏ một vấn đề đó chính là muốn canh tân đất nước giúp nhân dân thoát khỏi tình trạng khó khăn, lạc hậu, tiêu điều. Hay trong Thời vụ sách thượng Nguyễn Lộ Trạch đưa ra kế sách chống chọi với kẻ thù bằng chủ trương hòa hoãn với Pháp. Để chứng minh đây là kế sách đúng đắn ông đã đưa ra hàng loạt những dẫn chứng thuyết phục. Trước hết ông nếu ra tình thế của nước ta: “Tình thế nước ta hiện nay cũng như một khối ung nhọt lớn vậy” [3; 86]. Rồi phân tích thế lực của giặc: “Tây Dương là bọn giặc mạnh xưa nay chưa từng có. Chúng hành binh ở ngoài trùng dương bảy vạn dặm mà không phải mệt nhọc dầm mưa dãi nắng vận chuyển ” [3; 87]. Trước tình thế đó ông chọn kế sách hòa. Ông phân tích lý do không thể lấy hòa làm “kế lâu dài” một cách hết sức sáng suốt. Trước hết là giặc Pháp đã có âm mưu thôn tính nước ta từ lâu, mặc dù lúc này đã chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ, nhưng so với tham vọng của chúng còn quá ít ỏi, chưa thể thỏa mãn chúng được. Hai là chúng biết ta yếu nên dùng cách hòa nghị để nắm phần lợi, “ngầm tiêu hao máu mỡ của ta làm cái kế “tằm ăn lá dâu” gặm dần đất ta, rồi tiến tới thôn tính toàn bộ đất nước”. Bằng những lập luận sắc xảo luận điểm được Nguyễn Lộ Trạch nêu ra chính là hệ thống vấn đề dính kết chặt chẽ với tư tưởng và chủ đề tác phẩm. Qua kết cấu và lập luận được thể hiện, nhận thấy được Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch là nhà văn chính luận tài năng khi làm sáng tỏ vấn đề một cách thấu đáo và tường tận. 53
- 3.2. Ngôn ngữ Ngôn ngữ trong thể luận thường sử dụng nhiều thuật ngữ chính trị, văn nghệ, quân sự, khoa học, lịch sử Các thuật ngữ chuyên môn tuy không nhiều như trong văn bản khoa học nhưng việc sử dụng rộng rãi đã góp phần làm cho các vấn đề xã hội được đi sâu vào các lĩnh vực đời sống. Ngôn ngữ của thể luận có những đặc trưng cơ bản như: tính công khai về quan điểm chính trị, tính chặt chẽ trong diễn đạt và suy luận và tính truyền cảm, thuyết phục. Ngôn ngữ rất giản dị, dễ hiểu, ngắn gọn nhưng lại diễn đạt được nội dung phong phú. Ví như trong Thiên hạ phân hợp đại thể luận Nguyễn Trường Tộ viết: “Sự thế hiện nay chỉ có hòa. Hòa thì trên không cưỡng lại ý trời, dưới có thể làm cho dân khỏi khổ, chấm dứt được sự dòm ngó của bọn gian nghịch, ngăn chặn được sự tranh giành của nước ngoài, thật là hay không thể kể xiết”; “Không hòa mà chiến, khác nào cứu lửa đổ thêm dầu, không những không cứu được mà còn cháy nhanh hơn nữa.” [2; 108]. Với lời lẽ ngắn gọn, nhưng mỗi câu, mỗi chữ ông nêu ra đều ý nghĩa, súc tích, gợi ra được mong muốn và ý nguyện mà ông muốn đề cập đến đó là thực hiện kế sách hòa hoãn với Pháp. Nhiều từ ngữ mang tính chính trị, quân sự. Trong Thiên hạ phân hợp đại thể luận Nguyễn Trường Tộ sử dụng những từ ngữ mang tính chính trị, quân sự: “Nước ta tự núi kề biển, địa thế như một con rắn dài”; “Hơn nữa, họ đã lão luyện chiến trận những phương pháp của Đông phương như dụ địch, kiêu binh, địa lôi, hỏa công, sập hầm, thuốc độc họ đều biết cả, dù có người trí xảo đến mấy cũng không nhử được họ”. “Sự thế hiện nay chỉ có hòa. Hòa thì trên không cưỡng lại ý trời, dưới có thể làm cho dân khỏi khổ, chấm dứt được sự dòm ngó của bọn gian nghịch, ngăn chặn được sự tranh giành của nước ngoài, thật là hay không thể kể xiết. Còn việc binh đao thì thật là tai họa 54
- nó là cho vợ goá con côi, tổn thương hòa khí của trời đất, sinh ra hạn hán lụt lội. Thánh nhân bất đắc dĩ mới phải dụng binh dẹp loạn.” [2; 110]. Những từ ngữ mang tính chính trị, quân sự mà Nguyễn Trường Tộ sử dụng là: địa thế, dụ địch, kiêu binh, địa lôi, hỏa công, sập hầm, thuốc độc, hòa, binh đao, dụng binh Ví như trong thời vụ sách thượng Nguyễn Lộ Trạch viết: “Tuy muốn hòa, há mình tự hòa được sao? Muốn thủ, há mình tự thủ được sao? Nếu ta không thể chiến bèn vội nói thủ, thì tàu địch nhanh, ta đi bộ chậm, địch giương đông đánh tây, ta sẽ mệt mỏi vì chạy theo ứng phó; huống nữa cửa biển lại đang rộng lớn, bờ biển trải dài, ta há có thể dãi binh để phòng thủ chắc chắn được chăng?” [3; 92]. Hay trong Thời vụ sách hạ: “địa thế bốn mặt có quan ải, quân lính trăm vạn dặm, đồng ruộng phì nhiêu ngàn dặm, trong ba điều ấy nếu thiếu một thì không được” [3; 108]. Số cường tráng thì đưa lên làm thượng quân Đấy là việc huấn luyện trung đẳng Số còn lại biên chế làm hạ quân.” [3; 117, 118] ; “Binh khí ngày nay không có gì hơn súng hỏa sang” [3; 119]. Hầu hết các từ ngữ được Nguyễn Lộ Trạch sử dụng đều thuộc trường nghĩa về chính trị, quân sự như: chiến, thủ, hòa, dãi binh, phòng thủ, địa thế, quan ải, thượng quân, trung đẳng, hạ quân, binh khí Ngôn ngữ mang tính thông tin khách quan, thể hiện được đường lối, quan điểm, thái độ chính trị của người viết một cách công khai, dứt khoát, không che giấu, úp mở. Trong Thiên hạ phân hợp đại thể luận, Nguyễn Trường Tộ viết: “Tôi ở nước ngoài đã lâu biết rõ sức của họ, tinh tường tình hình của họ”; “Tôi xin gởi kèm theo đây một bản đồ để chú giải rõ những điều nói trên đây” [2; 112]. Ở đây ông đã thẳng thắn nói lên suy nghĩ của mình, đồng thời khẳng định lời nói của mình là đúng và có căn cứ bằng cách gửi kèm theo một bản đồ để làm bằng chứng. 55
- Trong Thời vụ sách hạ của Nguyễn Lộ Trạch, ở biện pháp học thuật kỹ thuật để chống giặc ông cũng đưa ra thông tin rất khách quan: “Có người cho rằng: người Pháp sẽ giấu nghề mà không chịu truyền dạy. Thế thì Nhật Bản, Trung Hoa có thể chế được khí cụ, vậy họ học ở đâu? Vả lại chuyên nghề kỹ thuật không phải chỉ có riêng nước Pháp, nếu ta không ngại tốn kém mà lễ nhiều để giao du rộng rãi thì đi đâu mà chẳng học được” [3; 118]. Ở đây ông đã thể hiện được đường lối của mình bằng cách khuyên dân chúng học kỹ thuật từ nước Pháp. Bên cạnh đó ông còn phê phán một cách trực diện đường lối sai lầm và thái độ hèn nhát cầu an của triều đình. Ông không sợ triều đình bắt tội vì lời lẽ khoáng đạt mà ngược lại, ông tự do trình bày những suy nghĩ của bản thân mình. Cái gì có ông nói có, cái gì không thì không thể làm cho nó thành có được. Hiếm có thể tìm thấy được một người công tư phân minh như ông trong chốn quan trường lúc bấy giờ. Ngôn ngữ được cân nhắc kĩ càng, thể hiện được lập trường, tư tưởng, quan điểm của ông. Nói một cách dễ hiểu hơn, ngôn ngữ được Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch sử dụng chính xác, chuẩn mực. Tuy nhiên, sự chính xác không làm nghèo nàn , mà trái lại còn làm phong phú cho ngôn ngữ chính luận. Trong Thiên hạ phân hợp đại thể luận Nguyễn Trường Tộ nói: “Nếu bảo quân ta mạnh, lúa gạo ta nhiều, chưa chi đã vội hòa sợ thiên hạ cười chê chăng? Nói như thế tức là không nhịn nhục việc nhỏ để làm việc lớn vậy”; “Hoặc giả có người nói đất đai tổ tiên để lại không được đưa gang tấc nào cho kẻ khác. Như vậy là quá câu chấp mà để hỏng việc nước” [2; 111]. Lý lẽ ông đưa ra rất chính xác và dễ hiểu nhằm chứng minh cho kế sách hòa hòa là thượng sách. Hay trong Giáo môn luận ông thể hiện qua điểm của mình về vấn đề trung hiếu: “Phàm con người sinh ra trong trời đất, trung hiếu vốn là bản tính chứ không phải cái gì giả tạo từ bên ngoài gán vào. Ví cũng như nước lửa thuận theo thế của nó thì nước chảy vào chỗ trũng, lửa cháy nơi 56
- khô. Nếu có cái thế khác làm rối loạn không cho lửa bốc lên, nước chảy xuống, thì đó chỉ là tạm thời mất sự bình thường mà thôi, còn bản tính của nó vẫn không bao giờ mất” [2; 116]. Ông cân nhắc kĩ khi sử dụng từ ngữ, một mặt để người đọc để hiểu, mặt khác để làm rõ cho lập trường mà ông xây dựng. Mỗi lời lẽ đều đanh thép, hùng hồn nhằm thể hiện được nội dung mà Nguyễn Trường Tộ muốn hướng đến. Ông không viết một cách hời hợt, cho qua mà ông suy nghĩ thấu tình đạt lí để câu văn được rõ nghĩa hơn. Bên cạnh đó trong Thời vụ sách hạ Nguyễn Lộ Trạch đã cân nhắc kĩ càng khi đưa ra quan điểm của mình: “Bàn về địa thế, ắt phải là: tiến có thể làm nên chuyện, mà lui cũng có thể tự giữ vững, muốn bảo vệ thì có quân lính mà tài vật cũng đủ để tự cấp” [3; 108]. Ông đã thẳng thắn nêu lên quan điểm của mình, mỗi lời lẽ đều đanh thép hùng hồn, qua đó thể hiện tấm lòng yêu nước của ông. Mặc dù đặc thù của thể luận là bàn bạc về các vấn đề chính trị - xã hội song nó không phải hoàn toàn khô cứng mà ngôn ngữ vẫn bộc lộ rất rõ cảm xúc của người viết. Trong Giáo môn luận Nguyễn Trường Tộ dùng lời lẽ đanh thép nói về các vấn đề đưa ra, nhưng không vì thế mà những cảm xúc của ông mất đi. Ông nói: “ nếu trên đời này có ngọt mà không có đắng, người ta sẽ không biết vị ngọt là đáng yêu; có ấm mà không có lạnh, người ta sẽ không biết được cái thích thú của sự ấm áp; có trắng mà không có đen, trắng không thể tự một mình phô bày cái đẹp được; có hoa mà không có gai, hoa cũng không thể một mình tốt tươi được” [2; 115]. Ở đây ông kêu gọi triều đình phải có chính sách bao dung, nhân ái đối với những tín đồ Công giáo. Tóm lại, ngôn ngữ của thể luận là ngôn ngữ mang đậm màu sắc chính trị, quân sự, kinh tế Đó còn là thứ ngôn ngữ khách quan, công khai và được cân nhắc một cách kĩ lưỡng. Từ đó, tư tưởng và lập trường của Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch đã được thể hiện rõ ràng và minh bạch. 57
- 3.3. Giọng điệu Vấn đề được bàn đến trong các văn bản thể luận là những vấn đề chính trị, xã hội. Khi bàn bạc về các vấn đề đó, các nhà chính luận bao giờ cũng phải tỏ rõ quan điểm, thái độ chính trị của mình một cách công khai. Viết văn bản chính luận, người viết không chỉ xuất phát từ ý nghĩ riêng, nhu cầu riêng mà phải đứng trên ý nghĩ chung của một tập thể, một tổ chức, một giai cấp, thậm chí là một quốc gia để bàn bạc. Do đó, giọng điệu của người viết là giọng dứt khoát, đanh thép, cương quyết thể hiện thái độ, lập trường hết sức rõ ràng. Tuy nhiên, giọng điệu còn biến đổi linh hoạt để phù hợp với nội dung cần truyền đạt. Trong Thiên hạ phân hợp đại thể luận Nguyễn Trường Tộ nêu ra lí lẽ, dẫn chứng thông qua một giọng điệu hùng hồn, đanh thép để làm rõ được tình thế cấp bách của nước ta lúc bấy giờ: “Hiện nay tình hình trong nước rối loạn. Trời thì sanh tai biến để cảnh cáo, đất thì hạn hán tai ương, tiền của sức lực của dân đã kiệt quệ, việc cung ứng cho quân binh đã mệt mỏi, trong Triều đình quần thần chỉ làm trò hề cho vui lòng vua, che đậy những việc hư hỏng trong nước, ngăn chặn những bậc hiền tài, chia đảng lập phái khuynh loát nhau, những việc như vậy cũng đã nhiều; ngoài các tỉnh thì quan tham lại nhũng xưng hùng xưng bá tác phúc tác oai, áp bức tàn nhẫn kẻ cô thế, bòn rút mỡ dân, đục khoét tuỷ nước, việc đó đã xảy ra từ lâu rồi. Những kẻ hận đời ghét kẻ gian tà, những kẻ thất chí vong mạng, phần nhiều ẩn núp nơi thao dã, chính là lúc Thắng, Quảng sẽ thừa cơ nổi dậy. Thế mà sao đối ngoại thì không có cách nào để động đến một mảy may lông của quân Pháp, cũng chẳng thuyết phục được ai để giải vây cho, lại đi tàn sát dân mình, giận cá chém thớt, khiến cho dân bị cái hại “cháy nhà vạ lây” [2; 110]. Khi nói về những tệ đoan, ông không thể nhẹ nhàng mà ca ngợi được, ông gửi vào từng câu văn giọng điệu riêng của ông, đó là sự căm phẫn, khinh bỉ. 58