Khóa luận Tế cấp bát điều của Nguyễn Trường Tộ từ góc nhìn thể loại
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tế cấp bát điều của Nguyễn Trường Tộ từ góc nhìn thể loại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_te_cap_bat_dieu_cua_nguyen_truong_to_tu_goc_nhin_t.pdf
Nội dung text: Khóa luận Tế cấp bát điều của Nguyễn Trường Tộ từ góc nhìn thể loại
- TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== VÕ THỊ THỦY TẾ CẤP BÁT ĐIỀU CỦA NGUYỄN TRƢỜNG TỘ TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. LÊ THỊ HẢI YẾN HÀ NỘI - 2017
- LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc nhất đến ThS. Lê Thị Hải Yến - Giảng viên Tổ Văn học Việt Nam, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo Tổ Văn học Việt Nam cùng các thầy, cô trong Khoa Ngữ Văn - Trường Đại Học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này. Khóa luận được hoàn thành song không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, tôi rất mong nhận được những đóng góp ý kiến từ phía thầy cô và các bạn để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2017 Tác giả khóa luận Võ Thị Thủy
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận này là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của ThS. Lê Thị Hải Yến, kết quả này không trùng với nghiên cứu của các tác giả khác. Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2017 Tác giả khóa luận Võ Thị Thủy
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 2 3. Mục đích nghiên cứu 6 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 6 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 6 6. Phƣơng pháp nghiên cứu 6 7. Cấu trúc khóa luận 7 NỘI DUNG 8 Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 8 1.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX 8 1.2. Tác giả Nguyễn Trƣờng Tộ 13 1.2.1. Cuộc đời 13 1.2.2. Con người 16 1.2.3. Trước tác 18 1.3. Tác phẩm “Tế cấp bát điều” 20 1.3.1. Hoàn cảnh ra đời 20 1.3.2. Ý nghĩa nhan đề 22 1.3.3. Thể loại 22 Tiểu kết chƣơng 1 26 Chƣơng 2. NỘI DUNG ĐIỀU TRẦN TRONG TẾ CẤP BÁT ĐIỀU 27 2.1. Điều trần về chính trị, quân sự 27 2.1.1. Thiết lập lại bộ máy hành chính nhà nước 27 2.1.2. Sửa đổi võ bị 29
- 2.1.3. Sửa sang lại biên giới 34 2.2. Điều trần về kinh tế 35 2.2.1. Xây dựng kinh tế nước nhà 35 2.2.2. Điều chỉnh thuế ruộng đất 39 2.3. Điều trần về văn hóa - xã hội 42 2.3.1. Vấn đề sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng 42 2.3.2. Xây dựng luật lệ nhà nước 46 2.3.3. Chăm lo đời sống nhân dân 47 Tiểu kết chƣơng 2 49 Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT VĂN CHÍNH LUẬN TRONG TẾ CẤP BÁT ĐIỀU 50 3.1. Kết cấu và lập luận 50 3.2. Ngôn ngữ 52 3.3. Giọng điệu 56 Tiểu kết chƣơng 3 58 KẾT LUẬN 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Cuối thế kỉ XIX, sự xâm lược của thực dân Pháp đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử Việt Nam. Đứng trước vấn đề sống còn của dân tộc, nhiều nhà nho có đầu óc nhạy bén đã đề xuất chủ trương canh tân đất nước chống lại kẻ thù. Trong số những nhân vật đó, đáng chú ý nhất là Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) mà người đời vẫn truyền tụng là Trạng Tộ. Là một con người có trí tuệ, nhãn quan vượt tầm thời đại ông đã dâng lên nhà vua hàng loạt bản điều trần, phúc trình (khoảng 58 bản điều trần và 30 bản phúc trình). Những trước tác của Nguyễn Trường Tộ để lại cho đến ngày nay được giới nghiên cứu chú ý tìm hiểu, đánh giá, nhất là từ góc độ tư tưởng. Từ góc độ văn học, những áng văn chính luận vừa duy lý vừa trữ tình của ông chưa được xem xét khái quát. Đáng lưu ý nhất trong số trước tác của Nguyễn Trường Tộ là 58 bản điều trần được ông viết để dâng lên vua Tự Đức trình bày kế sách canh tân đất nước, chống chọi lại kẻ thù. Trong đó, Tế cấp bát điều là bản điều trần được lựa chọn giới thiệu, giảng dạy trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11 với đoạn trích Xin lập khoa luật. Đó là những lí do chúng tôi lựa chọn nghiên cứu Nguyễn Trường Tộ và Tế cấp bát điều của ông. Trên hành trình tiếp cận với tác phẩm văn học, chúng tôi thấy có nhiều hướng khai thác (diễn ngôn, loại hình, ). Nhưng dù có khám phá bằng cách nào đi chăng nữa cũng không thể bỏ qua đặc trưng thể loại của tác phẩm. Nói như M. Bakhtin “thể loại mới chính là nhân vật số một của văn học”. Chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu Tế cấp bát điều từ góc độ thể loại là cần thiết và ý nghĩa. Ngoài ra, bản thân là một giáo viên trong tương lai, với mong muốn được bổ sung thêm kiến thức chuyên ngành, nghiên cứu sẽ giúp tôi có thêm 1
- những hiểu biết sâu sắc về thể loại văn chính luận trung đại nói chung và Tế cấp bát điều nói riêng để phục vụ tốt hơn cho công việc giảng dạy sau này. Đó là những lí do khích lệ tôi lựa chọn đề tài “Tế cấp bát điều của Nguyễn Trường Tộ từ góc nhìn thể loại”. Hi vọng rằng, nghiên cứu này sẽ phần nào làm rõ đặc trưng về nội dung, nghệ thuật văn chính luận thời trung đại cũng như đánh giá đúng vị trí của Nguyễn Trường Tộ trong dòng chảy văn học Việt Nam trung đại. 2. Lịch sử vấn đề Khi tìm hiểu Tế cấp bát điều và Nguyễn Trường Tộ chúng tôi có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu như sau: - Giám mục Trương Bá Cần là người đã bỏ ra rất nhiều công sức nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trường Tộ, sưu tầm và tổng hợp lại gần như đầy đủ những bản điều trần mà Nguyễn Trường Tộ đã viết để gửi lên triều đình trong cuốn sách Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo (1988), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình gồm 600 trang đánh máy, 3000 chữ, bao gồm phần giới thiệu của tác giả và toàn bộ bản dịch 58 di thảo của Nguyễn Trường Tộ. Trong phần đầu tiên, Trương Bá Cần đã phân tích rất chi tiết những chặng đường đầy sóng gió của Nguyễn Trường Tộ cũng như khao khát canh tân đất nước của ông. Phần thứ hai là phần có giá trị nhất của cuốn sách bởi lẽ đó là tập hợp gần như đầy đủ năm mươi tám di thảo của Nguyễn Trường Tộ. Trương Bá Cần đã có công lao lớn trong việc lưu giữ những giá trị dân tộc to lớn của một nhà nho đương thời đáng được kính trọng. Trong tác phẩm này, tác giả viết “Còn như các văn bản của Nguyễn Trường Tộ gởi cho triều đình Huế, thì có những bản là cả một bài luận văn dài” [3;103 - 104]. Tuy nhiên, công trình mới dừng lại ở tính chất tổng hợp, sưu tầm chứ chưa đi sâu tìm hiểu kĩ những giá trị của từng bản di thảo sáng tác của Nguyễn Trường Tộ trong đó có Tế cấp bát điều 2
- - Giáo sư Hoàng Thanh Đạm trong cuốn Thời thế và tư duy canh tân (2001), Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh có phân tích kĩ về tính khả thi và hữu dụng của bản điều trần Tế cấp bát điều. Khi viết về chính sách quân sự trong điều thứ nhất của Tế cấp bát điều “Xin gấp rút sửa đổi việc võ bị”, Hoàng Thanh Đạm viết: "Chữ hòa của Nguyễn Trường Tộ trong Thiên Hạ Đại Thế Luận chỉ có nghĩa là tạm hòa, xuất phát từ tình hình thực tế trên chiến trường là sức ta quá yếu so với quân địch. Trong lịch sử chiến tranh, khi kẻ địch đang ở thế áp đảo mà ta phải tạm hòa là điều thông thường." [6; 113]. Tác giả cũng phê phán những ai đã và đang hạ thấp uy tín của Nguyễn Trường Tộ: “Đọc hết cuốn sách của hai bạn Việt kiều ở Mỹ, những người kính yêu Nguyễn Trường Tộ không khỏi liên hệ đến cách nhìn của các nhân vật chủ chiến thời Tự Đức từng để ra khẩu hiệu Bình Tây Sát Tả, và từng kiến nghị triều đình xử tử Nguyễn Trường Tộ. Cuốn sách của hai bạn không phải là vô tình mà là cố ý chôn vùi một danh nhân đất nước trong khi hầu hết các học giả trong nước đều tôn vinh ông, nhất là trong thời đại ngày nay, yêu cầu đổi mới đất nước đang là một yêu cầu nóng bỏng để đưa dân tộc ta tiến kịp đà văn minh thế giới hiện đại” [6; 123]. Trong tác phẩm, ông cũng chỉ ra những hạn chế trong tư tưởng cải cách nhưng vẫn luôn nể phục một nhân tài như Nguyễn Trường Tộ. “Ông là người đầu tiên ở châu Á biết áp dụng một kiểu tư duy mới, hoàn toàn trái ngược với lối tư duy giáo điều chỉ để minh hoạ một chân lý có sẵn và xong xuôi theo ông không có gì là bất biến ở tự nó cả, mọi tình trạng lạc hậu hiện nay của Việt Nam đều xuất phát từ một cách nhận định là con người có thể chuyển cái thực tế bất lợi thành một thực tế có lợi để giành độc lập và phồn vinh của đất nước.” [6; 9]. Tác giả đồng thời cũng phần nào tìm hiểu rõ về những tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ, giá trị thực tiễn của nó trong công cuộc xây dựng đất nước. Tuy nhiên, mới chỉ dừng lại ở giá trị lịch sử là chính chứ chưa chú trọng về giá trị văn học của tác phẩm. 3
- - Từ điển văn học (bộ mới) mục Nguyễn Trường Tộ(2004), tác giả Nguyễn Huệ Chi khẳng định: “ Văn chương của Nguyễn Trường Tộ là lối văn chính luận, vừa phải đảm bảo sự chặt chẽ, sắc bén, khúc chiết trong phân tích, trong dẫn chứng nhưng cũng vừa thấm đậm cảm hứng trữ tình của tác giả, nên có sức thuyết phục rất mạnh”.[4; 1209] - Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường trong cuốn Từ điển văn học Việt Nam: từ nguồn gốc đến thế kỉ XIX (2005), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội nhận định: “ Các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ là những tác phẩm chính luận viết bằng văn xuôi chữ Hán Việc đề xuất cải cách của Nguyễn Trường Tộ không thực hiện được, tuy vậy không làm mất ý nghĩa to lớn của các bản điều trần của ông”.[1; 439] - Khi nói về nghệ thuật văn chính luận trong các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ, tác giả Trần Hữu Tá trong bài viết “Nguyễn Trường Tộ - Một bi kịch lạc quan”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 1 năm 2012 viết “vấn đề được đặt rõ ràng, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng cụ thể, sống động. Tư duy lí luận của ông rất vững nhưng thật kì lạ và thú vị, chất trữ tình thấm đẫm trong từng trang viết” [28; 29]. - Tác giả Vương Đình Chữ trong cuốn Nguyễn Trường Tộ hôm qua và hôm nay(2014), Nxb Tri Thức, có viết: “Có thể thấy trên đây là cả một kế hoạch toàn diện nhằm chấn hưng đất nước và dân sinh. Nhưng triều đình đã không ngó ngàng đến những tâm huyết này” [9; 68]. Ở cuốn sách này, tác giả đã nghiên cứu một cách tỉ mỉ các đề nghị cải cách mà Nguyễn Trường Tộ viết trong các bản điều trần mà cụ thể nhất là Tế cấp bát điều Ông nêu ra những ưu điểm và hạn chế của các chính sách về chính trị, quân sự, văn hóa, Thông qua đó tác giả bày tỏ sự ngưỡng mộ của bản thân đối với Nguyễn Trường Tộ. - Nguyễn Đức Thăng trong đề tài khoa học Văn chính luận trung đại 4
- Việt Nam và Trung Quốc - tiếp biến và phát triển (2015) đã nhận xét văn chính luận của Nguyễn Trường Tộ “đó là những áng văn chính luận xuất sắc” [33; 103] và “Văn chính luận của Nguyễn Trường Tộ cũng như của nhiều nhà nho canh tân khác là những biểu hiện mới của nội dung yêu nước trong văn học trung đại, in đậm chất thời đại của những con người hết lòng vì đất nước” [33; 103]. - Trong hội thảo “ Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước” (1992), Nguyễn Thị Thanh Xuân với bài viết Nguyễn Trường Tộ- người cách tân thể văn chính luận đã chỉ ra sự mới mẻ trong đề tài văn chính luận của ông: “ Ông bàn về hàng loạt vấn đề thiết thực, cấp bách của đất nước trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa xã hội, nhằm làm cho dân giàu nước mạnh mà lời bản nào cũng mới mẻ, xác đáng, thể hiện một lí trí sáng suốt, một trách nhiệm vượt đời” [36; 117]. Ngoài ra, tác giả còn nhận định: “ Từ trò chơi chữ, đánh đố nhau bằng những điển tích hiểm hóc hoàn toàn xa lạ với cuộc sống, Nguyễn Trường Tộ đã kéo nó trở về với cuộc sống đấu tranh sôi động và quyết liệt của dân tộc, biến nó thành một loại văn luận chiến vừa mới mẻ vừa thuyết phục. Văn nghị luận của Nguyễn Trường Tộ đó là tâm hồn, là trí tuệ cúa người Việt Nam. Đó chính là tư tưởng Việt Nam thế kỉ XIX” [36; 125] Các tác giả đã có sự nghiên cứu kĩ lưỡng những di thảo để lại của Nguyễn Trường Tộ đặt trong bối cảnh lịch sử của dân tộc lúc bấy giờ. Chúng tôi nhận thấy Nguyễn Trường Tộ đã được nghiên cứu nhiều từ góc độ lịch sử với tư cách nhà cải cách. Những tư liệu này là cơ sở quan trọng, quý báu đối với chúng tôi. Tuy nhiên, tất cả các tác giả trên chưa tập trung đi sâu vào phân tích kĩ những giá trị văn học trong thơ văn Nguyễn Trường Tộ. Đặc biệt, chưa ai nghiên cứu bản điều trần Tế cấp bát điều từ góc nhìn thể loại. Do vậy, hướng đi của chúng tôi hứa hẹn mang đến cái nhìn mới về tác phẩm Tế cấp 5
- bát điều của Nguyễn Trường Tộ. 3. Mục đích nghiên cứu Chỉ ra được những đặc điểm thể loại của Tế cấp bát điều trên hai phương diện: nội dung và nghệ thuật. Góp phần tìm hiểu và đánh giá được đúng đắn về vị trí của Nguyễn Trường Tộ trong nền văn học Việt Nam trung đại. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được các mục đích trên, chúng tôi xác định và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Đọc, tập hợp và phân tích hệ thống tài liệu liên quan đến tác phẩm Tế cấp bát điều của Nguyễn Trường Tộ. - Vận dụng cơ sở lí thuyết đã xây dựng về thể loại văn chính luận để nghiên cứu Tế cấp bát điều. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu Tế cấp bát điều của Nguyễn Trường Tộ từ góc nhìn thể loại. 5.2. Phạm vi nghiên cứu Khóa luận tìm hiểu, nhận diện được giá trị thơ văn của Nguyễn Trường Tộ từ góc nhìn thể loại qua bản điều trần Tế cấp bát điều được in trong cuốn Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo của Trương Bá Cần (1988), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp chủ yếu sau: - Phương pháp nghiên cứu văn học sử - Phương pháp loại hình. - Phương pháp hệ thống 6
- - Phương pháp so sánh, đối chiếu. 7. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung của khóa luận được cấu trúc theo ba chương: Chương 1: Những vấn đề chung Chương 2: Nội dung điều trần trong Tế cấp bát điều Chương 3: Nghệ thuật văn chính luận trong Tế cấp bát điều 7
- NỘI DUNG Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX Kể từ năm 1802 - 1858, triều đình nhà Nguyễn đã có hơn 50 năm xây dựng và củng cố. Thực dân Pháp đã có ý đồ xâm chiếm nước ta từ lâu, từ cuối thế kỉ XVIII, nhưng âm mưu này chưa thực hiện được. “Cuộc chiến bị chậm lại một mặt là do những biến động chính trị trong nội tình nước Pháp, mặt khác là bởi cung cách ứng xử của các vua Nguyễn” [22; 264]. Cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp lấy cớ triều đình nhà Nguyễn đã bắn giết các giáo sĩ và ngăn chặn thông thương nên đã chính thức xâm lược Việt Nam. Thực dân Pháp mất gần 40 năm mới đặt ách thống trị trên đất nước ta và gần một thế kỉ nhân dân ta phải sống dưới sự cai trị của Pháp. Cuối thế kỉ XIX, sự kiện Pháp xâm lược Việt Nam là sự kiện quan trọng, nổi bật, chi phối các sự kiện khác và có sự ảnh hưởng rất lớn đến mọi tầng lớp trong xã hội. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam đã có những biến chuyển to lớn. Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần túy đã biến thành một xã hội thuộc địa, mặc dù thực dân còn duy trì một phần tính chất phong kiến. Song khi đã hình thành thuộc địa thì tất cả các mặt của xã hội đều nằm trong quỹ đạo chuyển động đó. Trong lòng chế độ thuộc địa của thực dân Pháp, ở Việt Nam đã hình thành những mâu thuẫn đan xen nhau. Tuy nhiên, cơ bản và chủ yếu nhất là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Trong tình hình đất nước lúc bấy giờ, nền kinh tế Việt Nam cũng chịu nhiều ảnh hưởng. Nông nghiệp sa sút, nhiều cuộc khẩn hoang được tổ chức khá quy mô, và cuối cùng đất đai khai khẩn lại rơi vào tay địa chủ. Hiện tượng dân lưu tán trở nên phổ biến, đê điều không được chăm sóc, nạn mất mùa, đói kém xảy ra liên miên. Công thương nghiệp bị đình đốn, xu hướng 8
- độc quyền công thương của nhà nước đã hạn chế sự phát triển của sản xuất và thương mại. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân ta đấu tranh chống Pháp quyết liệt. Giai cấp phong kiến lúc đầu còn chống đối nhưng ngày càng yếu ớt và cuối cùng thì nhượng bộ, thỏa hiệp, đầu hàng thực dân Pháp. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của nông dân chống triều đình phong kiến đầu hàng và chống Pháp xâm lược như cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn, Hữu Trưng, Ba Cai Vàng, Phong trào đấu tranh yêu nước của các sĩ phu, các thủ lĩnh đã lãnh đạo nhân dân chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương, nổ ra rầm rộ kéo dài từ Bình Định, Quảng Bình ra đến Hưng Yên, Thái Bình, Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như: Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân, Hoàng Hoa Thám, Phong trào chống Pháp tuy diễn ra sôi nổi, rộng khắp nhưng không có lực lượng hậu thuẫn làm nòng cốt nên dẫn tới kết quả thất bại nặng nề. Tuy thất bại nhưng cũng chứng tỏ được tình thần yêu nước nồng nàn, dũng cảm của nhân dân ta. Thực dân Pháp xâm lược đã làm cho giai cấp phong kiến bị phá vỡ, tan rã thành nhiều mảnh. Ngoài triều đình Huế mê muội, bọn địa chủ phong kiến hám danh, hám lợi thì vẫn còn một số đông các trí thức phong kiến ý thức được trách nhiệm của mình với dân với nước. Trái ngược với một số sĩ phu thiếu hoài bão, ý chí đã chọn lối sống ẩn dật, trốn tránh sự đời, không màng thế sự. Có những người bày tỏ thái độ bất mãn trước hiện thực đất nước nhưng lại chỉ khoanh tay đứng nhìn mà không hành động. Trong khi đó, Nguyễn Trường Tộ - một nhà nho lỗi lạc đã có những hành động thiết thực để góp phần canh tân đất nước. Trước những biến chuyển sâu sắc của xã hội, các giai cấp có sự phân hóa rõ rệt. Một thực tế không thể phủ nhận là tầng lớp trí thức lúc bấy giờ rất lung túng khi đối diện với kẻ thù mới đến từ văn minh phương Tây. Họ đã bị phân 9
- hóa sâu sắc trên nhiều phương diện. Đó là tầng lớp trí thức nho học Việt Nam đã gắn bó chặt chẽ với chế độ phong kiến, do sự thu hẹp nhãn quan tư duy đã khiến họ phản ứng với mọi sinh hoạt văn hóa phi tôn giáo. Sự đối diện với thực dân Pháp đã khiến người trí thức nước Việt đứng trước những con đường khác nhau. Như Nguyễn Xuân Ôn (1825 - 1889), Phan Đình Phùng (1847 - 1895) muốn đánh Pháp nhưng không chịu canh tân đất nước. Hay Phan Thanh Giản (1796 - 1867), Nguyễn Trường Tộ muốn hòa hoãn với Pháp để có thời gian, sự ổn định để đổi mới đất nước. Điều này khiến việc phân loại trí thức Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX gặp nhiều khó khăn. Trong các giai cấp phong kiến, có một số sĩ phu yêu nước, các trí thức đã tiếp thu truyền thống yêu nước của dân tộc, họ sống chan hòa và cùng nhân dân chống giặc như Nguyễn Xuân Ôn, Tôn Thất Thuyết (1839 - 1913), Một số nhà thơ, nhà văn yêu nước đã dùng ngòi bút chiến đấu để nói lên tâm tư, nguyện vọng, thái độ của bản thân trước hoàn cảnh đất nước chiến tranh như Nguyễn Quang Bích (1832 - 1890), Nguyễn Khuyến (1835 - 1909), Đến giữa thế kỉ XIX, cùng với sự hèn yếu của triều đình nhà Nguyễn, sự xâm lược của thực dân Pháp và bước đầu tiếp cận với nền văn minh phương Tây, tầng lớp nho sĩ ở nước ta đã phân hóa sâu sắc. Lúc này, ở Việt Nam diễn ra sự va chạm giữa hai nền văn minh Á - Âu, giữa văn hóa Nho giáo và văn hóa Thiên chúa giáo du nhập từ phương Tây. Trước đây, nền tảng xã hội là Nho giáo, nó là gốc rễ của mọi hệ tư tưởng. Hiện tại, khi thực dân Pháp xâm lược, Nho giáo đã không thể giữ vững vị trí độc tôn và lãnh đạo dân tộc được nữa. Biểu hiện rõ nhất là việc xuất hiện những nhóm sĩ phu tiến bộ có đầu óc canh tân đất nước. Những nhân vật điển hình có thể kể đến là: Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871), Phạm Phú Thứ (1820 - 1883), Nguyễn Tư Giản (1823 - 1890), Nguyễn Lộ Trạch (1852 - 1895), Đây là những sĩ phu có đầu óc canh tân đầu tiên trong lịch sử nước ta, đặt nền móng cho cuộc vận động 10
- giải phóng dân tộc vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Khi đối diện với vấn đề xâm lược của Pháp, họ phân hóa thành ba khuynh hướng: chủ chiến, chủ hòa và không chiến cũng không hòa. “Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, vấn đề được quan tâm nhiều nhất, có ý nghĩa sống còn là câu hỏi: chiến hay hòa?” [22; 267]. Chủ chiến có thể kể đến những cái tên như Đốc học Phạm Văn Nghị (1805 - 1884), Phan Đình Phùng, Nguyễn Xuân Ôn, Trần Xuân Soạn (1849 - 1923), Tôn Thất Thuyết (1839 - 1913) trong phong trào Cần Vương. “Là người trí thức phong kiến, họ yêu nước, quyết tâm cứu nước thoát khỏi khổ nạn, nhưng lại cố làm sao cho hành động của mình vẫn nằm trong giới hạn cương thường” [22; 268]. Đó là những người có lòng yêu nước sâu sắc, họ sẵn sàng hi sinh tính mạng cứu nước. Tuy nhiên, do tư tưởng Nho giáo in sâu, họ không thoát khỏi sự bảo thủ đối với việc canh tân đất nước, xem đó là hành động đi sai luân thường đạo lí. Về phía chủ hòa, chia thành chủ hòa hoàn toàn và chủ hòa để canh tân đất nước. Trong đó, các nhà nho canh tân còn theo xu hướng cũ và mới. Có thể kể đến các nhân vật tiêu biểu cho chủ hòa hoàn toàn như: Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành (1813 - 1883), Sự phân hóa này còn bắt nguồn từ sự lúng túng trước một kẻ thù mới hoàn toàn khác với các tập đoàn phong kiến phương Bắc trước đây. Dù Vương triều Nguyễn là một trong số những Vương triều tiếp xúc và am hiểu nhiều về sức mạnh của phương Tây từ sớm, từ thời Nguyễn Phúc Ánh còn đang tranh chấp với triều Tây Sơn. Nếu như khuynh hướng chủ chiến hay chủ hòa đã rõ nét thì khuynh hướng không chiến cũng không hòa khá phức tạp. Tư tưởng của khuynh hướng này là giặc từ xa đến trước hết chúng ta phải thủ rồi từ từ mà tiến thoái. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là các nhà nho như: Trương Đăng Quế (1793 - 1865), Lâm Duy Hiệp (1806 - 1863), Đội ngũ trí thức nho học giai đoạn này còn phải đối diện với việc gìn giữ 11
- những giá trị truyền thống nho học đã tồn tại nghìn năm nay hay cải cách đổi mới theo nền văn minh phương Tây tiến bộ hơn. Sự phân hóa này chiếm vai trò chủ đạo trong nửa cuối thế kỉ XIX. Vấn đề canh tân đất nước đã trở thành một mối quan tâm lớn của tầng lớp trí thức khi một số quốc gia lân cận nhờ cải cách mà thoát khỏi sự kìm hãm của chủ nghĩa tư bản. Đại diện cho khuynh hướng chủ hòa để canh tân có thể kể đến như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ, Họ tiêu biểu cho một nhóm trí thức đã kịp thức tỉnh, thoát khỏi ý thức hệ phong kiến mà nắm bắt được bước tiến của thời đại. Trong con người họ luôn trăn trở, lo âu với sự đổi mới canh tân đất nước. Nhờ tiếp xúc với luồng tư tưởng tiến bộ của phương Tây, họ luôn mong muốn dùng tư duy và trí tuệ của mình để đưa đất nước đi lên. Còn bộ phận còn lại luôn ra sức bảo vệ những giá trị truyền thống nho học lâu đời, chống phá lại những tư tưởng canh tân đất nước lúc bấy giờ. Một phần nguyên nhân có thể do những người thuộc phái canh tân là người Công giáo như Nguyễn Trường Tộ. Tuy nhiên, định kiến xã hội chính là rào cản lớn nhất, nó khiến cho những người theo Công giáo như ông khó có thể phát huy hết những khả năng vốn có của mình. Vị thế của Nguyễn Trường Tộ chỉ được nhìn nhận và đánh giá ở một mức độ nhất định. Thực tế là sự nghi kị của triều đình về con người Nguyễn Trường Tộ cũng như những đề nghị cải cách của ông vẫn tồn tại. Ngoài những vấn đề nói trên, sự phân hóa trong tư tưởng của nho sĩ đương thời còn thể hiện ở việc xuất và xử. Những cái xử của nho sĩ lúc bấy giờ không giống như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp mà là sự bất hợp tác với kẻ thù, quyết bảo vệ tiết tháo nhà nho. Đối lập với khuynh hướng xử thế là khuynh hướng xuất thế, họ có xu hướng hợp tác với Pháp. Tuy nhiên, trong nhóm xuất cũng có những sự phân hóa khác nhau. Nhìn chung, giai đoạn này tầng lớp nho sĩ Việt Nam có sự phân hóa mạnh mẽ và sâu sắc. Sự phân hóa này mang tính chất lịch sử cụ thể, bởi đó là 12
- sự lúng túng trước một kẻ thù mới với nền văn minh tiến bộ. Bởi nho sĩ là tinh hoa của xã hội cho nên sự phân hóa của họ đã có tác động to lớn đến phong trào yêu nước Việt Nam. Như vậy, những biến cố lịch sử trong nửa cuối thế kỉ XIX đã làm phân hóa hệ tư tưởng phong kiến Việt Nam tồn tại bao đời nay. Điều này đã tác động không nhỏ đến quan điểm sáng tác cũng như nội dung phản ánh trong các tác phẩm văn học nghệ thuật. Cũng như các trí thức nho học khác, Nguyễn Trường Tộ tất nhiên cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng của luồng tư tưởng thời đại ấy. Trong bối cảnh lịch sử những năm cuối của thế kỷ XIX, tình hình Việt Nam có nhiều biến động. Vì những nguyên nhân khách quan và chủ quan, vị thế của Nguyễn Trường Tộ chưa được nhìn nhận hợp lý. Cũng vì vậy, triều đình mới thực hiện được phần nào những kiến nghị của ông, còn đa phần những chủ trương cải cách của Nguyễn Trường Tộ vẫn nằm im trên giấy tờ. 1.2. Tác giả Nguyễn Trƣờng Tộ 1.2.1. Cuộc đời Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871), con cụ lang Nguyễn Quốc Thủ, tại thôn Xã Đoài, nay thuộc huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Xã Đoài là thôn theo đạo công giáo từ xa xưa. Năm 1846, giáo phận Vinh được thành lập với giáo mục tiên khởi là Gauthier Hậu. Ông ta liền lấy Xã Đoài làm trụ sở. Khi ấy Nguyễn Trường Tộ đã thông thạo nho học với tứ thư ngũ kinh, sử sách Đông phương, và được mệnh danh là Trạng Tộ. Ông từng mở trường dạy học tại gia, đức cha Hậu biết ông là người tài đức, liền mời ông làm người dạy các chúng sinh của giáo phận. Đồng thời Nguyễn Trường Tộ cũng nhờ cậy đức cha để học thêm tiếng Pháp và nghiên cứu nền văn minh phương Tây cùng sự thay đổi của các quốc gia trên thế giới. Năm 1858, ông được giám mục Gauthier đưa qua Hương Cảng (Hồng Kông), Tân Gia Ba (Singapore), Thụy Sỹ, Rôma, rồi qua ngụ tại Pháp. 13
- Trong khoảng hai năm ở đây, ông đã có điều kiện học tập, nâng cao kiến thức nhiều mặt như kinh tế, chính trị, ngoại giao, quốc phòng, Ngoài sự hiểu biết về khoa học - kĩ thuật, ông còn có trình độ như một kiến trúc sư, một người giỏi kĩ thuật khai mỏ và một số hoạt động công nghệ của Pháp. Cuối 1858, Nguyễn Trường Tộ cùng với Giám mục Gauthier vào Đà Nẵng tránh nạn (phân tháp) rồi đầu năm 1859 sang Hồng Kông. Năm 1861, Nguyễn Trường Tộ trở về Sài Gòn với một hoài bão lớn là đem những hiểu biết thu thập được của mình để giúp đất nước canh tân, tự cường, tự lực để mong tránh được sự mất nước, ông làm chức từ - hàn (thông dịch viên) và bị triều đình nghi kị là tay sai của ngoại bang. Do sống trong lòng địch nên việc phải làm việc với quân Pháp là bất đắc dĩ. Ông làm công việc phiên dịch các công hàm trao đổi giữa triều đình Huế với Soái phủ Pháp ở thành Gia Định. Nhiều lần ông có sửa đi một số chữ nghĩa trong công hàm của hai bên để tránh những lời lẽ quá khích, xúc phạm tới triều đình và gây hại cho việc tạm hòa. Ngoài ra, một số lần ông còn thông báo cho một số đại thần của triều Nguyễn như Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ những âm mưu của thực dân Pháp. Do ông là người công giáo, có thời gian làm việc với thực dân Pháp lâu dài, và triều đình lại luôn căm ghét đạo Ki - tô cho nên triều đình cũng như nhân dân luôn có thái độ không tin tưởng đối với ông. Chính điều này cho nên một người tài năng, thông minh, giàu lòng yêu nước như ông lại không được đánh giá đúng và tin dùng như một số người khác. 1862, ông xin thôi chức Từ - hàn, lui về quê, ông dồn hết tâm trí vào việc thảo kế hoạch giúp nước. Cho tới tháng 5 - 1863, ông đã thảo sẵn ba văn bản, làm thành một kế hoạch hoàn chỉnh gửi lên triều đình Huế là Tế cấp luận, Giáo môn luận và Thiên hạ phân hợp đại thế luận. Sau khi thảo xong ba văn bản quan trọng này, Nguyễn Trường Tộ còn thảo thềm bài Trần tình để phân trần về tâm tư và hoàn cảnh riêng của mình, bởi ông sợ triều đình nghi ngờ vì 14
- mình đã từng làm việc với giáo sĩ Pháp. Trong lúc chờ đợi ở Sài Gòn, sau khi thôi làm phiên dịch cho Pháp ông đã giúp xây cất tu viện dòng thánh Phaolo, số 4 Tôn Đức Thắng hiện nay. Công cuộc xây dựng được bắt đầu tháng 9 năm 1862 và hoàn tất vào 18 - 7 - 1864. Cũng trong thời gian này, Nguyễn Trường Tộ sống trong những ngày buồn tẻ và bệnh tật. Ông còn bị bệnh tê thấp, chính căn bệnh này đã hạn chế phần nào những hoạt động của ông. Từ 1861 - 1866, Nguyễn Trường Tộ chủ yếu ở Sài Gòn, không về Nghệ An, ông cũng ít đi Huế, cho tới giữa năm 1866 mới được về Xã Đoài. Trong năm này, ông được mời về Huế, đây là những năm tháng đầy triển vọng của ông. Trong thời gian này, ông được vua Tự Đức chú ý đến và được triệu vào kinh giải quyết vấn đề tàu London. Tuy nhiên, triều đình không sử dụng và nhà vua cũng nghe theo, cuối cùng Nguyễn Trường Tộ thấy mình ở Huế cũng không có gì để làm nên đã xin đi ra Quảng Bình để về Nghệ An. 10 - 4 - 1866, Nguyễn Trường Tộ cùng với linh mục Croc và Nguyễn Hoàng rời Huế để đi Bố chính. Sau đó ông cùng giám mục Gauthier đi về Xã Đoài, Nghệ An. Nhưng không lâu sau ông quay lại Huế. Lần quay lại này Nguyễn Trường Tộ thấy bức xúc về việc canh tân đất nước nhưng ông cũng thấy được rõ ràng và sâu sắc hơn những khó khăn trước mắt. Vua thì nghi ngờ ông vì ông là người công giáo, các quan trong triều thì cổ hủ không hiểu về hoàn cảnh thực tế mà luôn ghen ghét sinh lòng đố kị với nhau. 1867, Nguyễn Trường Tộ đã cùng với giám mục Gauthier và một số người khác đáp tàu đến Pháp. Đây là giai đoạn mà Nguyễn Trường Tộ viết dâng lên triều đình Huế nhiều bản điều trần có giá trị nhằm góp phần cho công cuộc canh tân đất nước. Gần 60 di thảo của ông được người đời sau sưu tầm và gìn giữ đã thể hiện tài năng, tư duy tài tình của ông trên nhiều phương diện về chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự, 15
- Trong những năm cuối đời (1868 - 1871), Nguyễn Trường Tộ có góp phần quan trọng trong việc xây dựng nhà chung Xã Đoài, đồng thời ông cũng có nhiều liên lạc với triều đình Huế, khoảng hai mươi văn bản trong số đó hiện có ba văn bản chưa tìm thấy ở đâu. Ngày 3 - 1 - 1871, Nguyễn Trường Tộ được tổng đốc Nghệ An cử đi Huế với lí do là để đem học sinh đi du học. Trong những ngày ở Huế, ông đã lặng lẽ gặp gỡ nhiều quan chức trong triều đình và ông cũng để lại nhiều văn bản thôi thúc triều đình mở rộng bang giao, canh tân đất nước, Sau một thời gian ở Huế bệnh cũ tái phát, Nguyễn Trường Tộ về Nghệ An. Ông từ trần ngày 22 - 11 - 1871 trong niềm tiếc nuối của nhiều người. Nguyễn Trường Tộ là một cái tên ngày càng đến gần với thế hệ ngày nay. Với tư duy và sự cống hiến của mình, ông được người đời gọi với những tên cao quý “người yêu nước sáng suốt”, “nhà cải cách lớn của dân tộc”, ông xứng đáng là một danh nhân lịch sử của dân tộc với những công lao to lớn mà ông đã đóng góp cho sự phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. 1.2.2. Con người Nguyễn Trường Tộ sinh ra trong hoàn cảnh đất nước ta hết sức bi đát. Vua không phải bậc minh quân, đầu óc thủ cựu, xem người phương Tây là trên hết, chỉ biết vui chơi hưởng lạc. Nguyễn Trường Tộ được du học thành tài và tiếp thu được tư tưởng tiến bộ, đồng thời ông thấy được hoàn cảnh đất nước hiện giờ, do đó ông luôn canh cánh nỗi ưu tư vì nước. Ông thâu gom được nhiều kiến thức quý báu, cộng với tấm lòng yêu nước thương nòi thiết tha, ông đã ôm một giấc mơ canh tân đất nước, làm cho nước Việt trở thành một nước lớn mạnh. Nguyễn Trường Tộ thông minh, học giỏi và tài năng, ông được dân gian truyền tụng là trạng Tộ. Tuy nhiên, ông không đỗ đạt gì, có thể vì ông là người công giáo nên không được đi thi hoặc là ông không muốn đi theo con đường khoa cử. Do sớm tiếp xúc với phương Tây nên Nguyễn 16
- Trường Tộ rất giỏi ngoại ngữ, ông thông thạo nhiều thứ tiếng. Đồng thời, ông là người đầu tiên chỉ ra những thiếu sót, khuyết điểm của chính quyền nhà Nguyễn. Ông bày tỏ đã làm quan là phải thanh liêm, tích cực, nhiều kinh nghiệm đề có thể hoàn thành nhiệm vụ, làm việc có ích cho dân. Ngoài ra ông còn phản đối nền giáo dục lạc hậu, luôn lo lắng cho giáo dục nước nhà. Nguyễn Trường Tộ không chỉ là một nhà cải cách nổi tiếng, một người Công giáo yêu nước tha thiết, mà còn là một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam trong thế kỉ XIX. Mặc dù bị hạn chế bởi thế giới quan duy tâm tôn giáo nhưng Nguyễn Trường Tộ đã có những tư tưởng triết học độc đáo về nhân sinh, xã hội, so với các nhà tư tưởng Việt Nam cùng thời. Bên cạnh đó ông còn đưa ra không ít những kiến nghị trong nhiều lĩnh vực, từ khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội, quốc phòng, ngoại giao. Đọc năm mươi tám di thảo của ông chúng ta thấy được sự am hiểu sâu sắc của ông về nhiều lĩnh vực. Song ông không chỉ là một nhà yêu nước mà còn là một triết gia lớn của Việt Nam. Từ những di thảo của ông, độc giả dễ dàng nhận thấy rất nhiều luận điểm triết học có giá trị. Ông bỏ ra cả cuộc đời để học tập và suy nghĩ cho dân tộc, vì dân tộc. Ông tiên đoán trước mười lăm năm rằng thế nào đất nước cũng sa vào tình thế khốn quẫn, bi đát. Ông trải lòng mình, suy nghĩ của mình lên những trang điều trần, ông ý thức được ý nghĩa những bản điều trần ấy cho tới mai sau vẫn còn giá trị. Trí tuệ lỗi lạc của Nguyễn Trường Tộ đã vượt hẳn lên trên tầm thời đại giữa thế kỉ XIX ở Việt Nam. Vua Tự Đức tuy đã có lúc tin dùng ông tuy nhiên nhà vua cũng như các nho sĩ, văn thân thời ấy chưa hiểu được luồng tư tưởng của ông nên chưa coi trọng đúng mức những kiến nghị canh tân của ông. Trí tuệ ông như một luồng ánh sáng soi vào thời đại nhưng lại bị lãng quên. Tuy bị phản đối và những bản điều trần gửi lên không được chấp nhận nhưng Nguyễn Trường Tộ vẫn luôn kiên trì, nhẫn nại. Trong vòng mười năm, 17
- ông liên tục gửi lên vua Tự Đức và triều đình Huế rất nhiều bản điều trần. Điều này cho chúng ta thấy được một con người luôn hết lòng vì nước vì dân. Giáo sư Nguyễn Hữu Tá đã từng nói: “Ở tuổi ba mươi, Nguyễn Trường Tộ đã có một vốn kiến thức rộng và sâu cả về phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật. Với tiềm lực chất xám rất quý như thế, nếu ông được tin dùng, được tạo điều kiện để hoạt động, tình thế có thể sẽ rất khác. Bi kịch của Nguyễn Trường Tộ, ngẫm ra là một nghịch lí khó tin nhưng có thật. Yêu nước nhưng không được giúp nước vượt qua đại họa ngoại xâm, thực sự có tài năng xuất chúng nhưng vấp phải vật cản quá lớn - sự trì trệ bảo thủ, dị ứng với chủ trương duy tân, tự cường của triều đình Tự Đức và sự nghi ngờ dai dẳng của họ với những người tin theo Công giáo” Với tư duy hơn người, nếu như những cải cách của Nguyễn Trường Tộ được thực hiện thì rất có thể Việt Nam đã thoát khỏi nạn mất nước năm 1884. Tư tưởng của ông đã vượt ra khỏi những giáo lí nho giáo để đối diện với thực tế thời đại. Năng lực tư duy sắc bén đã giúp ông hoàn thành nên những bản điều trần nhằm canh tân đất nước. Tư tưởng, hành động của ông xứng đáng là người đại biểu tiến bộ cho một mô hình nho học sau này. Nguyễn Trường Tộ còn là người có nhân cách cao đẹp, ngay từ những ngày đầu tuổi trẻ, dưới mái trường “Cửa Khổng sân Trình”, Nguyễn Trường Tộ đã có khát vọng riêng cho đời. Ông từ giã con đường tiến thân bằng khoa cử, chính lí tưởng khác với một số người đương thời đã đưa Nguyễn Trường Tộ lên một tầm cao hơn. Mặt khác, ông còn là một người có lòng yêu nước chân thành, đứng trước hoàn cảnh đất nước chịu xâm lược, Nguyễn Trường Tộ đã luôn cố gắng hết mình đi tìm con đường đổi mới đất nước. 1.2.3. Trước tác - Các bản điều trần và phúc trình Hòa từ (Bàn về hòa) gửi tướng Nguyễn Bá Nghi (1861) 18
- Tế cấp luận (Bàn về những việc khẩn cấp, tháng 3 - 4 năm 1863, hiện chưa tìm thấy) Giáo môn luận (Bàn về việc tự do tôn giáo, 26 tháng 3 năm 1863) Thiên hạ phân hợp đại thế luận (Bàn về những thế lớn phân và hợp trong thiên hạ). Đây là bài "Hòa từ" được sửa chữa lại (1863) Điều trần (7 tháng 5 năm 1863) Lục lợi từ (Kế hoạch làm cho dân giàu, tháng 6 năm 1864) Khai hoang từ (Bàn về việc khai hoang, tháng 2 năm 1865) Điều trần khả năng lấy lại ba tỉnh miền Đông [Nam Kỳ] (1866) Kế hoạch vận động ở Pháp để giữ ba tỉnh miền Tây [Nam Kỳ] (1866) Báo cáo về việc gặp viên Lãnh sự Tây Ban Nha (1866) Kế ly gián giữa Anh và Pháp (1866) Điều trần về hội nước ngoài (1866) Phúc trình về việc ký hợp đồng với các hội nước ngoài (gửi về khi sang Pháp năm 1887) Về tám điều cần bàn gấp (gửi về khi sang Pháp năm 1867) Điều trần về việc tiễu trần giặc biển (tháng 8, 1868) Điều trần về việc tái tu võ bị (1869) Kế hoạch nội công ngoại kích thu hồi sáu tỉnh Nam Kỳ (tháng 11, 1870) Bổ sung kế hoạch sai sứ đi Tây và đánh úp Gia Định (tháng 11, 1870) Bàn về việc cho Pháp thông thương để đổi lại sáu tỉnh (tháng 19
- 2, 1871) Kế hoạch thương nghị với Pháp và vận động sự giúp đỡ của các nước khác (tháng 2, 1871) Kế hoạch vay tiền để dùng vào việc binh (tháng 2, 1871) Về việc gửi học sinh sang Singapore học sinh ngữ (tháng 2, 1871) Về việc nhờ Giám mục Hòa giúp lấy lại 6 tỉnh (tháng 3, 1871) Tu võ bị (bàn về việc chỉnh đốn quân đội và quốc phòng, tháng 5, 1871) Về việc cần canh tân, quảng giao để giữ nước (tháng 8, 1871) Về việc nông chính (tháng 8, 1871), v.v - Di cảo thơ Đà Nẵng ngẫu bạc Bát nguyệt sơ cửu nhật du Ngũ Hành Sơn tự kỳ 1 Bát nguyệt sơ cửu nhật du Ngũ Hành Sơn tự kỳ 2 Cần Giờ phong cảnh Chu thứ dữ biện lý viên tác biệt tập cổ tại Cần Giờ hải khẩu Chu thứ tống lễ bộ viên ngoại hồi ngụ dưỡng bệnh Chu thứ trung thu Hải thuyền dạ vũ Quá Hoành Sơn quan hữu cảm + Thạch Bi sơn ngẫu thành 1.3. Tác phẩm “Tế cấp bát điều” 1.3.1. Hoàn cảnh ra đời Sau khi mất Nam Kỳ, nhà nước Việt Nam phong kiến dưới triều Tự Đức 20
- càng trở nên rối ren phức tạp. Uy tín của chính quyền dân chủ từ trung ương đến địa phương bị giảm mạnh. Các cuộc khởi nghĩa, bạo loạn chống lại triều đình đã từng bị đàn áp khốc liệt vẫn tiếp tục nổ ra gây một cục diện vô cùng nguy hiểm, nhất là khi Tổ quốc đang lâm nguy trước nạn ngoại xâm. Chỉ tính từ tháng 7 - 1867 đến 1874, theo thống kê chưa đầy đủ đã có hàng chục cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ nổ ra ở Bắc Kỳ: Khởi nghĩa của Tạ Văn Sơn, Đặng Văn, Hoàng Dụ Thắng, Vì phải vừa lo đối phó với giặc ngoại xâm, vừa phải đem quân đi đánh các vụ nổi loạn cho nên binh lính của triều đình bị san sẻ, sa sút. Phần lớn binh lính là những người nông dân bị bắt đi lính, bị ngược đãi, tình trạng đảo ngũ diễn ra thường xuyên, vũ khí thì thô sơ chỉ là giáo mác, mã tấu, sung đại bác, thần công, việc tập luyện của quân đội thì diễn ra sơ sài, tùy tiện. Quân đội dưới thời Vua Tự Đức nói chung là yếu kém, không có sức chiến đấu,như vậy thì làm sao có thể đánh thắng được một đế quốc hùng mạnh như Pháp. Về kinh tế - xã hội, cuộc xâm lược của Pháp đã làm cho kinh tế xã hội nước ta khủng hoảng trầm trọng. Nông ngiệp bị đình đốn. Năm 1866, theo báo cáo của các tỉnh, cả nước có tới 900000 mẫu ruộng bị bỏ hoang. Do bận việc chiến tranh nên mặc dù có ý thức cho công tác bảo vệ đê điều đã bị sao nhãng hoặc phải đặt xuống hàng thứ yếu. Theo lịch sử triều Nguyễn, tình hình vỡ đê từ năm 1858 đến năm 1874 đã xảy ra rất nhiều lần cho nên đời sống của nhân dân vô cùng khó khăn và khổ cực. Công nghiệp và thủ công nghiệp thì bị đình đốn. Việc buôn bán với nước ngoài được cởi mở hơn trước, nhưng hoạt đông ngoại thương của ta chủ yếu vẫn do thương nhân Hoa kiều chi phối. Triều đình thiếu kinh nghiệm và nhân viên chuyên môn nên không thể kiểm soát được cơ chế của thương nghiệp nước ngoài. Kết quả là thông thương trong và ngoài nước đều gặp khó khăn, làm cho tình hình kinh tế xã hội nước ta thêm phức tạp. Con buôn người Hoa 21
- được dịp tung hoành trục lợi. Giáo dục Việt Nam thời kì này nhìn chung vẫn bị đóng khung trong khuôn khổ của giáo dục nho học, ít có tác dụng thiết thực đối với việc cải biến kinh tế - xã hội của đất nước. Trong bối cảnh đó, thì chưa nói đến việc đế quốc Pháp hùng mạnh như thế nào mà chỉ cần một cuộc bạo loạn trong nước cũng đã đủ khiến triều đình Huế bị điêu đứng và lung lay. Xuất phát từ thực tế trên, Nguyễn Trường Tộ đã gửi tới triều đình nhà Nguyễn bản điều trần Tế cấp bát điều với mong muốn canh tân đất nước. 1.3.2. Ý nghĩa nhan đề Nguyễn Trường Tộ đặt tên cho bản điều trần số 27 là Tế cấp bát điều. Cũng giống như các tác phẩm khác của mình, ông thể hiện một phần nội dung thông qua nhan đề. Tế cấp bát điều có nghĩa là tám việc cần làm gấp. Với nhan đề trên, Nguyễn Trường Tộ đã tóm gọn nội dung của bản điều trần. Trong hoàn cảnh đất nước lúc bây giờ, thực dân Pháp đang có ý đồ xâm chiếm, việc cần làm ngay lập tức là những việc liên quan đến vận mệnh dân tộc. Đó là những vấn đề về chính trị, quân sự, ngoại giao, giáo dục, Nguyễn Trường Tộ với tư duy nhạy bén và vốn hiểu biết của mình đã tìm ra được những việc cần làm mà cụ thể là tám việc. Không mang ý nghĩa tượng trưng cao siêu, nhan đề là câu nói thẳng thắn, không vòng vo, đề cập đến vấn đề một cách chính xác nhất. Nguyễn Trường Tộ đặt nhan đề là Tế cấp bát điều nhằm nhấn mạnh tám điều để người đọc có thể tìm hiểu thật kĩ khi đọc nội dung, qua đó thấy được việc quan trọng đối với đất nước lúc này là tám việc mà tác giả nêu ra. 1.3.3. Thể loại “Thể loại văn học trong bản chất phản ánh những khuynh hướng phát triển vững bền, vĩnh hằng của văn học, và các thể loại văn học tồn tại để gìn 22
- giữ, đổi mới thường xuyên các khuynh hướng ấy” [10; 300]. Văn học trung đại là loại hình văn học nguyên hợp, “văn, sử, triết bất phân”. Do đó, thể loại văn học trung đại vừa mang đặc điểm chức năng của văn học lại vừa mang đặc điểm của các chuyên ngành khác. Văn chính luận là một thể loại xuyên suốt trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam. “Chính luận là văn nghị luận bàn về các vấn đề hiện thực trong lĩnh vực tư tưởng, chính trị, lịch sử. Đó là những lĩnh vực mà đúng sai, thật giả, phải trái, lợi hại thường không dễ nhận ra.” [27; 390]. Chức năng, nội dung, tính chất, là những tiêu chí khác nhau để phân loại văn chính luận. Khi xét về chức năng trong giao tiếp, hành chính, “văn chính luận từ xưa đã chia thành các loại cáo, chiếu, biểu, tấu, thư, luận, tự, bạt, văn tế, hịch, điều trần, bình sử, ” [27; 391]. Nội dung quan trọng nhất của văn chính luận là phản ánh các vấn đề có tính thời sự, cấp thiết. Thông qua đó, tác giả nêu lên quan điểm của bản thân một cách khách quan chứ không phải đứng trên lập trường của riêng. Đặc điểm nghệ thuật của văn chính luận thể hiện qua nhiều phương diện như: kết cấu, lập luận, giọng điệu, ngôn ngữ, Tất cả các yếu tố nghệ thuật kết hợp với nhau góp phần làm rõ nội dung được biểu hiện. Điều trần là một trong những loại thuộc văn chính luận và nó mang đầy đủ đặc trưng thể loại của văn chính luận về cả nội dung và nghệ thuật. Điều trần là thể văn chính luận trình bày vấn đề theo từng điều mục. “Hai chữ điều trần, để nói về các văn bản của Nguyễn Trường Tộ có lẽ đã được sử dụng nhiều trong Tạp chí Nam Phong, số 100, số đăng tải văn bản đầu tiên của Nguyễn Trường Tộ với đầu đề “Nguyễn Trường Tộ điều trần, thiên hạ đại thế nguyên tập” [3; 103]. Theo Trương Bá Cần, hai chữ điều trần thực ra, theo đúng nghĩa của chúng, chỉ là: “Trình bày rõ ràng theo từng điểm, từng việc. Nhưng hai chữ điều trần, do được sử dụng để nói về các văn bản 23
- của Nguyễn Trường Tộ, đã được thông dụng đến độ trở thành một thuật ngữ để chỉ các văn bản gởi lên nhà cầm quyền” [3; 103]. Điều trần có nội dung khá phong phú, nó viết về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, giáo dục, Viết để dâng lên vua nên tư tưởng được nêu ra trong các bản điều trần đều có căn cứ rõ ràng và nhất định từ thực tế. Thông qua cơ sở đó, người viết trình bày được rõ nét các nội dung cần bàn luận, người đọc cũng dễ dàng lĩnh hội và tiếp thu hơn. Nghiên cứu điều trần từ góc nhìn thể loại là điều hợp lí để có thể hiểu sâu sắc nội dung và hình thức nghệ thuật tồn tại trong đó. Như đã nói ở trên, Nguyễn Trường Tộ có gần 60 di thảo, là các bản điều trần mà ông viết để gửi lên triều đình nhà Nguyễn với mong muốn canh tân đất nước. Tế cấp bát điều là một trong những bản điều trần tiêu biểu cho phong cách văn chính luận của ông. Những đặc trưng về nội dung và nghệ thuật của văn chính luận cũng là đặc trưng về nội dung, nghệ thuật của các bản điều trần. Việc sáng tạo ra tác phẩm không nhằm khơi gợi thế giới quan duy mĩ mà qua đó ông muốn bày tỏ một cách thẳng thắn, mạnh mẽ thái độ của bản thân trước thực tại của đất nước. Khi nghiên cứu Tế cấp bát điều từ góc độ thể loại cần chú trọng vào các đặc trưng văn chính luận đã nói ở trên. Bản điều trần được xem như một cách giải quyết thiết thực bởi nó mang khuynh hướng tư tưởng, thuyết phục người đọc và có tác dụng thực tiễn rõ rệt. Không chỉ thể hiện qua nội dung về các vấn đề như chính trị, quân sự, văn hóa, giáo dục, , đặc trưng thể loại trong Tế cấp bát điều còn biểu hiện qua nghệ thuật. Đó không chỉ là sự chặt chẽ, linh hoạt, sáng tạo trong diễn đạt mà còn là sự truyền cảm, thuyết phục trong ngôn ngữ, giọng điệu. Điều này đã tác động tới lí trí độc giả khiến những vấn đề trừu tượng hiện lên một cách rõ nét. Ngoài những cách hiểu trên, điều trần cũng có thể hiểu là một văn bản trình bày vấn đề một cách quy mô và có độ dày của nó. Dù với cách hiểu nào 24
- thì điều trần vẫn là một thể văn chính luận có nhiều giá trị thực tiễn trải dài hàng thế kỉ qua. Tế cấp bát điều vẫn luôn xứng đáng là bản điều trần tiêu biểu nhất của Nguyễn Trường Tộ. 25
- Tiểu kết chƣơng 1 Ở chương một, chúng tôi đã nghiên cứu về tác giả Nguyễn Trường Tộ và tác phẩm Tế cấp bát điều. Ông là nhà thơ, nhà văn có tư tưởng canh tân đất nước tiêu biểu cuối thế kỉ XIX và có nhiều đóng góp cho nền văn học trung đại Việt Nam. Ảnh hưởng của Nguyễn Trường Tộ đến các trí thức có tâm huyết với đất nước sau đó rất mạnh. Là người mở đầu cho trào lưu canh tân đất nước ở nửa sau thế kỷ XIX, tư tưởng của ông đã khởi nguồn cho một dòng chảy canh tân sôi động trong lịch sử dân tộc. Những tư tưởng tiến bộ ấy đã được thể hiện rõ qua Tế cấp bát điều. Thuộc thể loại điều trần, tác phẩm đã mang đậm những đặc trưng về nội dung cũng như nghệ thuật của văn chính luận. Tiếp cận Tế cấp bát điều từ góc độ thể loại là hướng đi đúng đắn, góp phần đánh giá được vị trí văn chính luận của Nguyễn Trường Tộ trong dòng chảy văn chính luận trung đại. 26
- Chƣơng 2. NỘI DUNG ĐIỀU TRẦN TRONG TẾ CẤP BÁT ĐIỀU Trong tiến trình văn học Việt Nam, văn chính luận với nội dung về chính trị, đạo đức, quân sự, có vai trò vô cùng to lớn. Giai đoạn lịch sử cam go, quyết liệt nhất là lúc văn chính luận thể hiện được giá trị của bản thân nó. Bởi lẽ nó như mũi dao găm, là thuốc nổ chống lại mọi sự bất công, cường quyền. 2.1. Điều trần về chính trị, quân sự Nguyễn Trường Tộ không phải là một nhà chính trị, đứng trên lập trường khách quan, ông không tham gia chính quyền, nếu theo cách hiểu hiện đại thì ông là một trí thức độc lập. Nguyễn Trường Tộ chỉ là một nhà cải cách chính xác hơn là người có tư tưởng canh tân đất nước thông qua nhà vua và các quan lại triều đình. Thế nên, ông đã gửi những đề nghị cải cách của mình lên triều đình Huế, và chỉ gửi cho những người có chức có quyền trong bộ máy nhà nước. Với một hướng đi như vậy, Nguyễn Trường Tộ chủ trương tôn trọng chế độ vua đang hiện hữu. Và điều này cũng được thể hiện rõ trong tác phẩm Tế cấp bát điều của ông. Nghiên cứu tác phẩm này, độc giả sẽ dễ dàng tìm hiểu về lĩnh vực chính trị. Đó là lĩnh vực ông không đề nghị thay đổi gì cả, ông chỉ muốn củng cố trật tự xã hội lúc bấy giờ. 2.1.1. Thiết lập lại bộ máy hành chính nhà nước Nguyễn Trường Tộ đề nghị sát nhập một số tỉnh, huyện để tinh giảm biên chế và tăng lương cho các viên chức, như chúng ta thường nói ngày nay. Ông nói: “Hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây hợp lại có thể gấp đôi nước ta. Một huyện của Trung Quốc có thể tương đương một tỉnh của ta. Trên thế giới còn nhiều nước phân chia tỉnh huyện còn lớn hơn cả Trung Quốc nữa. Trung Quốc có nhiều vị quan xin giảm bớt số viên chức hợp tỉnh huyện lại, ý cho rằng nhiều quan thì triều đình tốn nhiều lương bổng, dân gian bận rộn đón đưa, yêu sách.” [3; 239]. “Phủ huyện Trung Quốc lớn thế còn đòi cắt giảm 27
- quan lại, huống hồ là ta Vậy xin gấp rút xem xét địa thế, hợp hai ba tỉnh thành một tỉnh, hoặc ba bốn huyện thành một huyện, lấy sổ lương dư ra cấp thêm cho các quan hiện chức”. [3; 239 - 240] Ông thấy được tình trạng các quan ở Kinh thành bận rộn công việc không kể ngày đêm nhưng các quan ở tỉnh huyện thì đàn hát ca xướng vịnh. Ông còn so sánh quan viên ngày xưa và ngày nay, ngày xưa có đức độ, biết giáo hóa dân chúng, đi tuần hành trong dân gian nhưng dản dị dễ dàng cho dân. Trong khi đó quan viên ngày nay ngồi giữa công đường ngoài cái án thư bàn độc ra không còn biết việc gì khác. Ông cho rằng vì lương bổng của quan lại thấp nên mới gây ra tình trạng tham ô, tham nhũng “Tôi thấy lương bổng một năm, tính hết tất cả các khoản của một lục bộ đại thần nước ta không bằng hai ngày rưỡi lương của một nguyên soái nước Pháp”. [3; 240]. Cho nên cần lựa chọn những người có tài thật sự, thải bớt người cũ không có năng lực về quê làm công dịch, trả mức lương xứng đáng với công việc của họ. Chúng ta thấy được những tư tưởng trên đây của ông là điều rất đỗi tiến bộ, ông đã chỉ ra được một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tham nhũng của quan lại là do lương bổng của triều đình cấp quá thấp. Đồng thời ông cũng đưa ra được một biện pháp khả thi và tích cực để giải quyết tình trạng trên là cắt giảm những quan lại không có năng lực, sử dụng hợp lí những người có tài, giảm bớt một số quan lại trung gian không làm việc được đến nơi đến chốn. Nhờ vậy mà giảm bớt được gánh nặng cho triều đình và nhân dân, thay vào đó có thể tăng lương cho những người có năng lực làm việc. Ngày này, tình trạng một bộ phận công chức nhà nước ngày càng giàu sang do ăn hối lộ. Tình trạng tham nhũng, quan liêu hách dịch đối với người khác vẫn còn rất phổ biến thậm chí nó đã trở thành một vấn nạn của toàn đất nước. Từ đó, chúng ta thấy được tầm nhìn của Nguyễn Trường Tộ lúc bấy giờ lớn lao biết bao và ngày nay chúng ta cũng có thể áp dụng những tư tưởng 28
- tiến bộ ấy về việc giải quyết vấn đề nêu trên. 2.1.2. Sửa đổi võ bị Nguyễn Trường Tộ là một người sớm được qua phương Tây du học, ông có dịp qua La Mã, Hồng Kông, Pháp, và thấy rõ lực lượng của nước họ. Ông đã thấy rõ tổ chức quân đội của tư bản chủ nghĩa, võ khí trang bị của quân đội ấy. Nhờ việc trang bị tốt như thế mà họ có thể đánh thắng kẻ thù ngoại xâm, dẹp được nổi loạn, và còn đi đánh chiếm được các nước yếu kém khác. Ông cũng biết rõ các nước phương Tây đang mở rộng chinh phục các nước phương Đông. Ở Việt Nam, cùng với quá trình mở rộng xâm lược của bọn thực dân, Nguyễn Trường Tộ ngày càng nhận rõ hơn dã tâm xâm lược của chúng. Hơn nữa, ông còn thấy bọn giặc bể, bọn thổ phỉ đang hoành hành quấy rối cướp bóc nhân dân ta ở khắp mọi nơi. Hai mối lo ngại “ngoại xâm và nổi loạn” là một thực tế ở nước ta cuối thế kỉ XIX. Chính vì thế, mặc dù là người “chủ hòa” nhưng trong bản điều trần Tế cấp bát điều của mình, ông đã nêu lên nhiệm vụ hàng đầu đó là “gấp rút chấn chỉnh võ bị”. Nguyễn Trường Tộ thấy rõ hơn ai hết sự yếu kém và tan rã của quân đội nhà Nguyễn. Tình hình quân đội nhà Nguyễn lúc bấy giờ là liên tục thất bại trước kẻ thù. Binh lính thì bị bọn vua quan bạc đãi, đói khổ, không chăm luyện tập nên không có tinh thần chiến đấu. Hơn nữa họ lại bị đem đi đàn áp phong trào nông dân khởi nghĩa, tàn phá xóm làng và giết chóc bà con thân yêu của họ, cho nên đến thời Tự Đức, binh lính đã bỏ trốn về, và triều đình gặp nhiều khó khăn trong việc bắt lính. Để bù cho đủ quân số, bọn quan lại đã bắt bọn du thủ du thực vào lính để khỏi phải tội và dễ dàng chế ngự. Tài chính đất nước ngày càng suy sụp, thì binh lính càng bị đói. Hơn nữa trang bị của quân đội lại rất kém, phần lớn chỉ là mã tấu, còn súng thì rất ít mà súng thì cũng đã rất lạc hậu. Phần chỉ là súng đồng, đại bác lớn thì triều đình phong 29
- chức, phong thần, khi bắn thì phải cúng tế, khi ốm thì phải “đổ thuốc”. Quân lính năm mươi người thì mới có một súng châm ngòi, mỗi năm chỉ được tập bắn một lần, và được bắn sáu phát. Như vậy, một quân đội như thế không thể nào đương đầu được với quân đội xâm lược hùng mạnh của phương Tây. Xuất phát từ mối nguy hại của kẻ xâm lược, nổi loạn trong nước và quân đội triều đình thì yếu kém, không có sức chiến đấu. Cho nên ông rất quan tâm đến võ bị. Ông nói với triều đình phải “Gấp rút chấn chỉnh biên phòng Xiết chặt hàng ngũ”, “Phải có một hàng ngũ mạnh mẽ”, “Thì mới khỏi bị các nước phương Tây đến viếng”. Trong hầu hết các bản điều trần của mình từ 1863 đến năm 1871 ông đều nhắc đến vấn đề này, riêng trong Tế cấp bát điều, ông nói đến đầy đủ hơn cả, trong đó ông nhấn mạnh đến ý nghĩa quan trọng của vấn đề quân sự mà ông cho là “vấn đề đại sự”, và ông đã trình bày kế hoạch cụ thể để xây xựng quân đội nhà nước. Thứ nhất, ông nhấn mạnh, nếu có được quân đội mạnh thì mới bảo vệ được đất nước cho nên nhà nước phải trọng võ. Ông chống lại quan niệm cho rằng “một lời nói mạnh hơn mười vạn quân”, tức là quan niệm đương thời chỉ coi trọng văn chương phù phiếm. Ông nói khi giặc đến không thể đem kinh Xuân Thu ra làm chúng khiếp sợ và cũng không thể ngâm một bài thơ, nói một câu mà đuổi được giặc. Quan hệ giữa “văn” và “võ” được ông phát biểu rằng bên văn sự muốn mở mang lễ nhạc (văn hóa) phải chờ có võ sự trước đã. Văn ví như cái áo đẹp, võ không khác gì đồ ăn, tẩm bổ khí huyết. Người mà không có khí huyết thì chết, dẫu có cái áo tốt cũng vô dụng. Các nước phương Tây họ rất coi trọng võ và chính vì vậy mà họ mới dong duổi khắp nơi, dọc ngang bốn bể, lập công càng lớn, được báo đáp càng to. Và ông nhấn mạnh bây giờ đây, nếu nước ta không gấp rút sửa đổi theo mới để võ bị ngày càng suy, nhân tâm càng yếu thì lấy gì bảo vệ nhân dân. Theo ông, học quân sự bây 30
- giờ phải theo cái mới, không theo lối quân sự trước kia. Và để chống lại quan điểm cho rằng học võ là dễ, ông đã phân tích cái khó của học võ so với học văn. Ông chỉ ra rằng võ sự rất là khó, học cũng khó mà làm cũng khó, nó khó gấp ba văn sự. Thứ hai, ông đề cập những biện pháp để chấn chỉnh quân đội. Theo ông, quân đội phải được huấn luyện khoa quân sự mới, phương châm là lí thuyết phải gắn với thực hành, học võ là học các sách binh thư đồ trận. Học việc gì phải thực tập việc ấy. Nội dung thưc tập gồm nhiều mặt: cách bắn súng, đâm lê, cách đánh đồn, phục kích, cách sử dụng địa hình. Ông còn đề nghị triều đình phải soạn binh thư cho binh lính học tập, còn việc soạn binh thư thì triều đình phải dựa theo sách binh pháp cũ, loại bỏ những phần không thích hợp và tham khảo binh thư phương Tây bổ sung vào. Ngoài ra phải thu nhặt ý kiến của người giỏi quân sự trong nước để thêm vào binh thư. Đây quả là tư duy sáng suốt của một nhà cải cách quân sự, cải cách nhưng không có nghĩa là phủ nhận sạch trơn những gì tiến bộ của cha ông, học hỏi những cái hay cái mới, thậm chí đó là những cái của kẻ thù. Một lần nữa, tư tưởng học đi đôi với hành của ông lại được áp dụng trong quân sự. Thứ ba, về tổ chức, ông đề nghị triều đình nên theo các nước phương Tây xây dựng các chế độ cho binh lính và võ quan. Các võ quan khi về hưu vẫn được lĩnh lương như khi còn ở tại chức và khi chết cũng vậy. Các võ quan phạm tội thì bị tội, nhưng không nên không giảm lương bổng, giáng chức hoặc làm khổ nhục thân họ. Với những chính sách như vậy sẽ khiến binh lính hết lòng phục vụ cho triều đình, đây quả là một cách làm hay. Ông đề nghị triều đình phải thải bớt những người bất tài vì theo ông, võ quan cần giỏi chứ không cần nhiều và võ quan mà bớt đi thì lại có điều kiện tăng lương cho binh lính. Tướng tá chỉ cần những người giỏi, chứ dở dầu nhiều cũng vô ích, Cho nên ông cho rằng nếu võ quan mà bất tài thì cho dù họ là con cháu những vị 31
- công thần trước kia cũng phải thải vì để họ chỉ huy quân sự sẽ có hại hơn là cho họ ngồi không hưởng bổng lộc. Đây là quan điểm rất sáng suốt của ông. Ông cũng nêu lên tình trạng dốt nát của sĩ quan lúc bấy giờ như nhiều người chỉ biết viết hai chữ “tuân phụng” và đề nghị phải tuyển những người đậu cử nhân, tú tài rồi cho đi học võ bị. Đối với binh lính, nhà nước phải tuyển dụng những binh tráng từ 20 tuổi trở lên, chưa có vợ con và thải bớt những người già yếu về nhà để lấy số lương ấy cấp thêm cho binh lính tại ngũ. Võ quan phải dành thì giờ cho binh lính tập quân sự, không nên bắt họ làm công việc khác. Nếu có công việc kiến thiết nên huy động dân quan và tù nhân làm. Các võ quan không được coi họ như tôi tớ trong nhà hay sỉ nhục ngược đãi họ. Đời sống vật chất của binh lính phải được chú ý, không nên cho binh lính ăn gạo cũ, mặc rét, Các thương binh phải được hưởng lương bổng và chăm sóc chu đáo. Đây là chính sách quân sự mang đầy tính nhân đạo và tiến bộ, thể hiện tài năng nhìn xa trông rộng của ông, chăm lo cho cả đời sống của binh lính, nếu thực hiện được như vậy không những binh lính phục tùng mà còn hết lòng vì triều đình. Ngoài ra, để tăng cường lực lượng binh bị giữ làng, giữ nước, ông đề nghị triều đình phải chú ý xây dụng đội ngũ quân dân. Đây là lực lượng khá quan trọng, khi xảy ra loạn lạc hay họa xâm lăng, dân quân sẽ làm nhiệm vụ tự vệ hay phối hợp với quân đội triều đình chiến đấu. Đội quân này tổ chức thành đội ngũ, có những vũ khí thông thường như giáo mác, và chủ yếu là giữ làng và bảo vệ an ninh ở địa phương. Họ vẫn tham gia sản xuất làm ăn như người bình thường, khi cần họ còn làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực, xây dựng đường sá, đào vét sông ngòi và các việc công ích khác. Họ không có lương bổng như binh lính nên khi huy động họ làm việc công ích thì nhà nước phải cấp tiền gạo cho họ. Đây là một trong những tư tưởng cải cách rất hay về quân đội của ông, chẳng những tăng cường và mở rộng sức mạnh cho quân đội triều đình mà còn tăng cường tinh thần đoàn kết giữa 32
- quân và dân, huy động được sức mạnh của nhân dân, mặt khác tạo ra một vòng bảo vệ chắc chắc thứ hai, cản bước chân quân địch, làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến. Và chính sách này cho tới ngày nay chúng ta vẫn sử dụng nó một cách hiệu quả ở mỗi địa phương. Ông còn xin triều đình lập một số binh chủng mới. Ngoài bộ binh ra, còn phải có đội kị binh để tuần tiễn nơi biên phòng miền núi và đội thủy binh để ứng phó mặt biển. Các đội bộ binh, thủy binh, kị binh đều phải liên hệ với nhau và do bộ binh của triều đình thống lĩnh. Ông cũng nêu lên biện pháp cụ thể để xây dựng đội thủy binh và kị binh. Về thủy binh, triều đình phải có mua tàu có đại bác lớn và thuê người Pháp hoặc người Anh huấn luyện hải quân. Về kị binh, triều đình phải phái người sang Ma - ni mua độ 4,5 trăm con ngựa đã được huấn luyện cho kị binh của ta. Rõ ràng ông có thể nhận thấy những điểm yếu của quân đội triều đình, chỉ chú trọng bộ binh mà chưa thật sự chú trọng tới quân đội ở biển và vùng biên giới hiểm. Bốn là vấn đề vũ khí cũng được ông hết sức quan tâm. Ông đề nghị triều đình phải mua vũ khí tối tân của các nước để trang bị cho quân đội và nhờ họ huấn luyện cho quân đội của ta. Cụ thể là triều đình nên phái người sang Anh, sang Pháp mua loại súng liên thanh bắn mỗi phút 100 viên đạn, mua đại bác có xe chở để trang bị cho quân đội của ta. Nhưng chủ yếu là triều đình phải lập những xưởng đúc súng, dựa vào súng của họ mà đúc ra súng của ta. Những xưởng đúc súng phải giữ bí mật. Đồng thời để đáp ứng nhu cầu đúc súng phải tăng cường khai thác các mỏ kim loại, làm hạt nổ thuốc súng và mời kĩ sư người Tây về giúp đỡ. Việc này phải tiến hành nhanh để sau một thời gian ta có thể tự túc được súng. Năm là ông đề cập tới vấn đề tổ chức phòng thủ. Triều đình phải dần dần xem xét địa hình chuẩn bị xây cất đồng lũy để khống chế những chỗ quan yếu. Miền duyên hải từ Quảng Yên đến kinh đô phải được xem xét để xây 33
- đồn lũy kiểu mới và phải chở đá đến hai bên cửa biển phòng khi hữu sự. Miền biên giới Trung Hoa cũng cần được nghiên cứu xây dựng thêm nhiều đồn lũy, nhất là trên những con sông chảy vào nước ta Tất cả các đồn lũy phải có binh lính canh phòng, lúc nào cũng phải coi như có giặc tới tấn công. Trong đồn phải trồng nhiều cây cối và phải hớt ngọn chỉ để cao bằng thành đồn. Qua đó, ta thấy mặc dù ông là người chủ hòa nhưng không phải là đầu hàng giặc mà chủ hòa để có thời gian canh tân đất nước, trong đó có việc coi trọng võ bị, nâng cao sức chiến đấu của quân dân ta. Theo ông, có coi trọng võ bị thì mới tránh khỏi tình trạng hiện nay vì ta không phô trương võ lực được với các nước xung quanh, cho nên họ mới đem binh đến xâm lược ta. Nếu ta không có ý xâm lược ai đi chăng nữa, cũng phải gấp rút chấn chỉnh biên phòng của ta, xiết chặt hàng ngũ của ta, có một lực lượng mạnh mẽ đủ sức xâm lăng nước khác nhưng chỉ ngồi nhà đợi chờ họ đến như thế mới khỏi bị họ đến viếng ta. Đây là quan điểm đúng đắn của ông. Cũng như nước ta hiện nay tuy đã hòa bình nhưng công cuộc xã hộ chủ nghĩa thì phải đi liền với độc lập dân tộc, không được xem nhẹ vấn đề an ninh quốc phòng, an ninh xã hội. 2.1.3. Sửa sang lại biên giới Nguyễn Trường Tộ nhận thấy, để quản lí quốc gia, trong Tế cấp bát điều ông đề nghị vẽ bản đồ biên giới cũng như điều tra dân số và là thống kê về tất cả mọi mặt sinh hoạt của đất nước như vẽ bản đồ tất cả các xứ trong nước. Về địa phận mỗi tỉnh, huyện, xã, thôn, phường, sách, động, trang phải đo đạc lại hết cho phù hợp bốn bên, xa gần, rộng hẹp, đồng thời mô tả tình thế mặt đất ròi ghi chú rõ rang vào bản đồ cả nước. Vẽ bản đồ phải thực hiện nhiều loại, có loại vẽ phân tích ra từng phần, có loại vẽ tổng hợp chung tất cả các phần vào một như lối vẽ của phương Tây, nói chung các bản đồ đều phải lấy độ số bằng dặm vuông để dễ suy toán. Ông cho rằng vì trước giờ nước ta luôn xem thường việc này và hình như 34
- cho là chưa cần thiết cho nên đã làm ảnh hưởng lớn đến lợi ích đất nước. Ông dẫn ra dẫn chứng về việc tiên triều đắp đê Đính Nhĩ nhưng thất bại là do không nắm rõ địa thế mà lại bắt chước Trung Quốc. Cũng chính do đó mà ngàn năm nay đê vẫn cứ vỡ, dân thì bị thiệt hại, quốc gia thì tốn kém vô cùng. Từ đó ông phân biệt chỗ thành công của đê Trung Quốc và chỗ thất bại của đê nước ta. Qua việc dẫn ra dẫn chứng cũng như lí lẽ thuyết phục triều đình, ông đã chốt lại vấn đề đó là mong muốn của người đi học tập khoa này. Bởi đây là điều quan trọng đối với chính sự quốc gia, không nên cho là cao xa khó làm mà không chịu hết lòng hết sức. 2.2. Điều trần về kinh tế 2.2.1. Xây dựng kinh tế nước nhà Nguyễn Trường Tộ là một người luôn canh cánh với vấn đề chấn chỉnh kinh tế nước nhà góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, ngày càng cường thịnh. Trải qua gần mười năm, ông đã gửi lên triều đình Tự Đức rất nhiều bản điều trần về kinh tế và nêu ra những biện pháp thiết thực để phát triển nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp. Trong bản điều trần Tế cấp bát điều ông đã nêu lên được những biện pháp cụ thể để phát huy lợi thế của đất nước, ổn định được kinh tế và nền tài chính trong nước. - Về nông nghiệp Thứ nhất, ông cho rằng cần có tri thức về ngành kinh tế này, trong Tế cấp bát điều khi nói đến cải cách học thuật, môn đầu tiên được đưa vào chương trình đó là khoa nông chính. Khoa nông chính này cũng chỉ thu thập kinh nghiệm của nông dân khắp nơi để soạn ra sách “Nông chính toàn thư” cho nhân dân học tập. Đây quả là một điều mới mẻ, tiến bộ của ông, chứng tỏ ông là người rất coi trọng khoa học, ông muốn vận dụng khoa học, vận dụng tri thức vào sản xuất, mặt khác cũng thấy được ông luôn chú trọng tới phát triển nông nghiệp vì ông hiểu rõ, nông nghiệp là thế mạnh cũng là nền tảng 35
- kinh tế cho nước ta từ xưa tới nay. Thứ hai, theo ông cần phải có một đội ngũ quan lại chuyên phụ trách về mảng phát triển nông nghiệp như ngôn ngữ hiện đại thì cần có cơ quan, đội ngũ cán bộ chuyên môn phụ trách dám sát, giúp đỡ nhân dân bảo vệ mùa màng, tránh sâu bệnh, tăng năng suất, phát triển sản xuất. Trong Tế cấp bát điều ông đã có nhiều ý kiến về lợi ích to lớn và thiết thực của việc trồng cây gây rừng và việc bảo vệ muông thú. Nguyễn Trường Tộ đã nhận thấy rõ tình hình suy đốn của nông nghiệp nước ta còn rất lạc hậu. Bởi lẽ, nhân dân ta chưa biết tận dụng thiên thời địa lợi sẵn có, cho nên muốn phát triển nông nghiệp cần phải khắc phụ tình trạng lạc hậu trên. Thứ ba, để chấn hưng nông nghiệp, trong điều thứ 6 của Tế cấp bát điều, Nguyễn Trường Tộ đề cập tới vấn đề sửa sang cương giới, bởi vấn đề này có liên quan đến vấn đề mở rộng diện tích trồng trọt để tăng thu nhập hằng năm cho nhân dân và nhà nước. Nguyễn Trường Tộ đã trình bày vấn đề một cách chi tiết và kĩ lưỡng. Ông cho rằng nhà nước phải nắm được diện tích của nước, phải biết rừng núi, ruộng nương, sông nước, việc đó rất quan trọng cũng như chủ nhà phải biết nhà biết nhà mình có bao nhiêu gia sản, ruộng vườn. Suy cho cùng, theo ông trị nước phải biết “Kinh lí cương giới” để nắm vững tài nguyên trong nước, có kế hoạch kinh doanh khai thác. Ông nhấn mạnh rằng các nước phương Tây rất coi trọng vấn đề này, vì có sửa sang cương giới thì mới củng cố và phát triển mọi mặt trong nước. Ngay khi Pháp đến Gia Định, họ đã lo tìm hiểu đất đai miền ấy và tiến hành khai hoang. Nhưng ở nước ta việc này rất coi nhẹ cho nên việc sản xuất không có kế hoạch vì vậy công quỹ nhà nước bị thiếu hụt, nhân dân thường sinh kiện cáo, tranh chấp ruộng đất. Nhà nước đầu tiên phải lo vẽ địa đồ toàn quốc ghi rõ vị trí, địa thế, diện tích, tài nguyên, Sau đó mỗi tỉnh, mỗi xã phải vẽ địa đồ trong tỉnh, trong xã cuả mình. Ông nhấn mạnh rằng việc vẽ địa đồ, ông cũng 36
- am hiểu có thể phụ trách được và đó là việc cần thiết phải làm “Nước ta xưa nay vẫn xem thường việc này, hình như cho là chưa cần thiết, nhưng thật sự nó có ích cho ta rất nhiều không thể kể hết” [3; 262]. Thứ tư, đó là khi vẽ được địa đồ rồi thì phải tính việc khai hoang mở rộng diện tích canh tác. Ông nhấn mạnh rằng đất đai nước ta phì nhiêu nhưng ruộng đất bỏ hoang còn nhiều như ven sông Cửu Long cần được khai thác. Đối với miền xa xôi không có nhân công khai phá thì ông đề nghị chính sách dinh điền, di dân nghèo ở những làng đông dân và dùng tù nhân để khai thác. Những chính sách của ông khác hẳn chủ trương của triều đình dùng chính sách cưỡng bức lao dịch đối với tù nhân trong các đồn điền nhà nước, họ phải đeo gông trong lúc làm việc, chịu đòn roi của lính tráng và không được hưởng gì. Ông đề nghị cho họ mang cả vợ con và khai thác được bao nhiêu thì sở hữu hoàn toàn. Thứ năm, vấn đề mà ông quan tâm nhiều nhất đó là thủy lợi, vì sản xuất nông nghiệp thì luôn phải gắn liền với vấn đề này. Về vấn đề thủy lợi, ông nêu lên lợi ích của việc đào kênh không những giúp cho việc dẫn nước tưới khi hạn hán mà còn giúp cho giao thông được thuận lợi. Ông còn nói đào kênh còn tránh được nạn lụt do nước nguồn gây ra. Nước ta là một nước có mưa nhiều, đến mùa mưa thường gây nạn lụt lớn, gây thiệt hại lớn về người và của cho nhân dân. Cho nên việc đào kênh còn liên quan đến việc bảo vệ đê điều. Trong Tế cấp bát điều, Nguyễn Trường Tộ đã nêu rõ những nguyên nhân vỡ đê ở nước ta đó là vì độ dốc sông rất cao, nhưng lòng sông thì lại hẹp, cho nên vào mùa mưa không đê nào có thể chịu nổi. Ông đã trình bày kế hoạch bảo vệ đê, ông đề nghị phải đào nhiều kênh ở tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Hà Nội, Ninh Bình, để phân tán lượng nước, do đó hạn chế được 37
- sức nước chạy mạnh. Sau đó lại phải xem địa thế để đào thêm kênh nhỏ, và ở xứ ta ông cho rằng kênh không phải vét, mà do nước chảy, kênh mỗi ngày sẽ rộng và sâu thêm. Ngoài ra còn phải xây những đập giữ nước, tháo nước, đào những hồ chứa nước lớn để điều hòa, và giữ nước tưới ruộng. Công trình thủy lợi theo ông là một công trình to lớn mà nhà nước nên khuyến khích nhà giàu bỏ tiền cho vay và khen thưởng những người có sáng kiến trong việc đắp đê, chứa nước, chống úng, đào giếng, Chúng ta có thể thấy rằng, trong bản điều trần này Nguyễn Trường Tộ đã có những tư tưởng tiến bộ trong việc khôi phục và phát triển nền nông nghiệp của nước ta lúc bấy giờ. Cho đến ngày này, những tư tưởng của ông vẫn đang được người đời sau áp dụng và thực hiện một cách hiểu quả. - Thương nghiệp Ông chủ trương giao lưu hàng hóa bằng ngoại thương cũng như nội thương. Về nội thương, ông nhấn mạnh việc bảo vệ hàng nội hóa theo chế độ mậu dịch của các nước phương Tây, phàm là ngoại quốc bất luận là hàng gì thì tùy theo giá đắt rẻ mà đánh thuế nặng nhẹ nhưng đều phải đánh thuế gấp đôi hàng hóa trong nước. Tất cả những hàng hóa nào không cần thiết cho sự sống thì đánh thuế thật là nặng. Nhưng mối băn khoăn lớn nhất của ông khi nói về nội thương đó là đường giao thông vận chuyển hàng hóa. Bởi vì nước ta là một nước có chiều dài và lúc bấy giờ vận chuyển từ Bắc vào Nam chủ yếu bằng đường biển thì lại bị đe dọa bởi gió bão, cướp biển. Đó là chưa nói đến khi xảy ra biến cố thì tàu địch có thể phong tỏa như Pháp đã làm năm 1862. Việc giao lưu hàng hóa từ Bắc vào Nam sẽ bị ngưng lại, Nguyễn Trường Tộ đã nhìn thấu đáo vấn đề này. Xúc tiến việc đào kênh trong nội địa thay thế cho việc vận chuyển đường biển để tránh nạn cướp bóc, bão táp, ông đề nghị nhà nước đào một con kênh từ Hải Dương vào kinh và ông tự nguyện trông nom về kĩ thuật và đốc thúc tiến hành. Ông nghĩ rằng, bây giờ nên xem 38
- xét địa thế từ Hải Dương đến kinh đô để đào một con kênh lớn cho thuyền nhà nước hay thương nhân lớn nhỏ đều thông thương được, rồi lập trạm thu thuế và đóng thuyền vận tải theo kiểu phương Tây. Hai bên bờ kênh xem chỗ nào có thể đắp đường được, cứ đắp đường cho trâu ngựa kéo, đỡ nhọc sức người, Như vậy, không những nhà nước và các tỉnh đều được lợi lâu dài mà dân gian buôn bán làm ăn, đi Nam về Bắc dầu ít vốn cũng làm được. Nói tóm lại, ông tha thiết muốn thương nghiệp nước ta phát triển, ông đã nêu lên một số biện pháp tích cực để mở mang thương nghiệp. Những chính sách về nông nghiệp và thương nghiệp mà Nguyễn Trường Tộ nêu ra có ý nghĩa thiết thực đối với tình hình đất nước hiện tại. Nó góp phần tăng cường khả năng kinh tế cho nhà nước, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng đói nghèo. Tuy còn nhiều hạn chế trong các chính sách nhưng đã cho thấy được tư duy nhạy bén của ông về vấn đề này. 2.2.2. Điều chỉnh thuế ruộng đất Đối với Nguyễn Trường Tộ, thuế là nghĩa vụ của công dân đối với việc chung của đất nước, nhưng thuế lại phải công bằng và hợp lí. Đầu tiên ông đề nghị chấn chỉnh thuế điền thổ, nhưng mục đích không phải là tăng thuế mà làm cho việc đóng góp của nhân dân được hợp lí và tránh sự gian lận thuế má. Ông từng nói “Điều tôi xin đề nghị đây không phải xin tăng thuế nhiều thêm mà xin cân bằng lại chỗ thừa chỗ thiếu” [3; 259]. Ông nhấn mạnh vào tình trạng không chính xác của sổ sách điền thổ lúc bấy giờ. Tình hình ruộng đất thay đổi, có nơi đất đá bị lở, hoặc bị sa bồi, thu hoạch kém trước, cũng có nơi ruộng đất được bồi thêm dư ra nhưng trong sổ điền vẫn không sửa, ruộng đất công tư lẫn lộn, từ đó nạn lậu thuế ngày càng tăng cao, thu nhập nhà nước ngày càng sút kém. Nhưng triều đình vẫn không chú ý và vẫn để tình trạng ấy kéo dài. Trên cơ sở nắm được tình hình ấy, nhà nước mới xét lại thuế má, nơi nào đất xấu thu hoạch ít thì giảm, nơi nào ruộng đất 39
- thật sự bỏ hoang thì miễn thuế, nơi nào ruộng đất tăng thì phải thêm thuế. Nhờ đó nhà nước sẽ thu được đúng mức thuế, có lợi rất lớn, công bằng, nhân dân không oán than. Thứ hai, bên cạnh việc chỉnh lí điền thổ, Nguyễn Trường Tộ đề cập đến vấn đề điều tra hộ khẩu, biên rõ số người để việc đóng thuế được công bằng và hợp lí hơn. Ông nhấn mạnh vào nhiệm vụ của triều đình phải nắm vững sự tăng giảm của dân số, tình hình nghề nghiệp và sinh hoạt của họ. Việc điều tra dân số sẽ giúp cho nhà nước điều chỉnh được thuế đinh và chấm dứt được mọi dự gian lận do bọn cường hào gây ra. Ông đề nghị nhà nước bắt tổng lí các xã phải biên rõ số người trong xã đầy đủ và rõ ràng. Họ phải thống kê trong xã có bao nhiêu nam, phụ, lão, ấu, bao nhiêu người ở lâu, bao nhiêu người mới đến, bao nhiêu người có nghề và làm nghề gì như làm quan, đi buồn, đi lính, thầy thuốc, xem số, hàng năm phải điều chỉnh một lần vì có người đổi nghề, hoặc chết và mới sinh. Những đề nghị này của ông đã phản ánh phần nào tình hình nước ta lúc bấy giờ. Nạn kiêm tinh ruộng đất của bọn địa chủ rất nghiêm trọng, người nông dân bị mất ruộng đất và bị phá sản phải lưu vong khắp nơi. Sự tranh chấp ruộng đất diễn ra hằng ngày giữa nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Ruộng đất bỏ hoang và nông dân phải lưu tán trở thành phổ biến. Bọn cường hào nhân cơ hội lại trốn thuế lậu đinh của nhà nước. Cho nên dân nghèo bị tăng cường bóc lột mà thuế má của triều đình bị bọn cường hào bỏ túi nên vẫn thiếu hụt. Nhưng do hạn chế giai cấp, nên ông cho rằng gian lận thuế má là do bọn cường hào lũng loạn nhưng cũng do dân nữa và chính các biện pháp mà ông nêu ra trong Tế cấp bát điều là để giải quyết tình trạng đó. Thứ ba, để cho thuế má công bằng và hợp lí, ông tuy chưa đề cập đến vấn đề giảm thuế cho dân nghèo nhưng ông đã đề nghị nhà nước phải đánh thuế nặng nhà giàu. Ông vạch rõ tệ xấu của nước ta, người giàu đóng thuế bao nhiêu thì người nghèo đóng thuế bấy nhiêu. Đó là một sự bất hợp lí,vì theo 40
- ông, người giàu mang ơn nặng của người nghèo. Ông chỉ ra rằng cướp cũng muốn cướp của nhà giàu, trộm cũng muốn trộm của nhà giàu, thù cũng thù người giàu, oán cũng oán người giàu, hăm dọa cũng hăm dọa nhà giàu. Trong khi đó cho vay nặng lãi, làm những việc bất nghĩa khiến dân ngày một nghèo, đó là bọn nhà giàu. Họ sở dĩ yên hưởng được sự giàu sang là nhờ hành chánh và an ninh quốc gia. Nếu không, cái nhà họ ở để bảo vệ gia sản đó, bất cứ ai cũng có thể đốt được, thử hỏi họ có yên ổn ca vịnh được không? Tô điểm nhà mình cho đẹp đẽ chi bằng bỏ ra chút ít để tô đắp thành trì cho đất nước được vững chắc. Thành có vững chắc nhà mới vững chắc. Chưng dọn khí mãnh trong nhà cho khéo cho tinh chi bằng bỏ ra chút ít để làm cho khí giới của nước nhà tinh nhuệ. Vì vậy, các nước phương Tây lấy thuế nặng nhà của của người giàu, thế mới hợp lẽ công bằng. Đánh thuế nhà giàu theo ông còn hợp với tình cảm con người, biết đem chỗ thừa bù chỗ thiếu. Ông còn chỉ ra tình trang nước ta nhà giàu không những được đóng thuế ít mà còn lợi dụng lúc dân nghèo thiếu thuế mà bóp nặn. Khi thiếu thuế, người nghèo phải vay tiền nhà giàu thì họ lấy lãi cắt cổ, thậm chí nhờ có tiền vay lãi mà họ còn được miễn tiền sưu dịch, nhờ có tiền mà họ đứng ra chứa bạc, lợi dụng kẻ thua bạc mà mua rẻ ruộng đất. Thứ tư, ngoài ra để bổ sung cho nền tài chính trong nước, đồng thời để bài trừ những tệ lậu trong xã hội, ông đề nghị triều đình đánh thuế nặng các thứ như bạc, rượu, thuốc lá, thuốc phiện, chè, các hàng xa xỉ và hát xướng. Đây cũng là một biện pháp tiến bộ và có hiệu quả nhất định trong việc gìn giữ trật tự xã hội lúc bấy giờ, thậm chí cho tới nay biện pháp này cũng được chúng ta áp dụng. Thứ năm, ông còn đề nghị quản lí chặt chẽ các nguồn tài chính trong nước như phải biết rõ số hàng hóa xuất nhập, số tàu bè qua lại, số chợ búa, nhà trọ, giá hàng đắt rẻ. Nhà nước cũng cần phải nắm sự chi dùng và sự sản xuất trong nước 41
- để điều chỉnh giữa sản xuất và tiêu dùng, đồng thời cũng phải nắm vững gia sản của nhân dân, của người giàu, người nghèo. Việc nắm vững được những vấn đề nêu trên sẽ giúp cho triều đình có thể quản lí tốt nền kinh tế, cũng như có những biện pháp kịp thời để điều hòa khi kinh tế nước nhà. Tuy nhiên, đối với ông, thuế cần được chấn chỉnh, nhưng đó chỉ là một nguồn thu có giới hạn nhất định mà thôi, điều cần nhất là phải làm cho của cải thêm nhiều. Như vậy, những tư tưởng cải cách của ông về kinh tế căn bản đã góp phần đáp ứng nhu cầu bấy giờ. Tư tưởng này khá toàn diện, nếu được thực hiện thì cũng tạo điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở nước ta. Nhưng do điều kiện lịch sử và điều kiện giai cấp hạn chế, những cải cách của ông không khỏi có những thiếu sót. Mặc dù vậy, qua những tư tưởng cải cách trên đã nói lên khát vọng tha thiết muốn đuợc làm cho dân giàu nước mạnh. 2.3. Điều trần về văn hóa - xã hội Bởi sớm được sang phương Tây du học mà tư duy văn hóa của Nguyễn Trường Tộ phát triển qua một quá trình tiếp xúc với văn hóa phương Tây, tuy nhiên vẫn giữ vững cốt cách của văn hóa phương Đông và dân tộc Việt Nam. Bàn về nội dung canh tân văn hóa của ông người ta thường nhắc đền ba văn bản là điều trần về việc học thực dụng, điều thứ tư trong Tế cấp bát điều, điều trần về cải cách phong tục. 2.3.1. Vấn đề sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng Sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng là “Học những gì chưa biết, để biết mà đem ra thực hành (Nhưng thực hành cái gì? Thực hành ở đâu?). Đó là thực hành những gì thực tế trước mắt mà còn để lại lợi ích cho đời sau nữa” [3; 248]. Trong bản điều trần về việc học thực dụng, ông kiến nghị triều đình nên 42
- cho các trường quốc học, các trường tư, các trường tỉnh đều dạy những điều thiết thực và khi ra bài thi hương, thi hội, thì chú trọng về tình hình hiện tại như luật, lịch, binh quyền, chính trị, việc của các bộ công, bộ hình, bộ lễ, bộ lại, Cần phải cho các thí sinh nói thẳng, không dấu diếm cái gì, cái gì tệ hại, cái gì hay ho, cái gì nên để lại, cái gì nên thay đổi, cái gì là cần thiết ngay trước mắt, Bài thi nào phân tích xác đáng, hợp thời thế được coi là đúng cách, còn những chuyện cũ văn chương, sách vở, thánh hiền thì coi là thứ yếu. Đây quả là một tư duy mới mẻ của ông đáp ứng được nhu cầu của thời đại bấy giờ. Tế cấp bát điều là một tập luận văn dài nhất trong 58 di thảo của Nguyễn Trường Tộ, thể hiện rõ nét tài kinh bang tế thế lỗi lạc của ông. Trong tám điều kiến nghị, có điều thứ tư tập trung bàn về văn hóa: “Xin sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng”. Phần kiến nghị này đi sâu thêm một bước so với bản điều trần về việc học thực dụng nêu ở trên. Ở đây ông đã bàn kĩ thêm về học thuật, không có một nền học thuật sáng suốt thì ngày càng bại hoại, lòng người ngày càng giả dối, phù phiếm, trống rỗng. Nó được thể hiện cụ thể như sau: Đầu tiên, ông đã phê phán sự học ở nước ta thời đó, những điều thầy dạy trò học đều là những chuyện xa xưa. Học thuật thời xưa nói chung không còn phù hợp với đời nay nữa. Lúc nhỏ học thiên văn địa lí, chính sự, phong tục bên Tàu mà nay họ đổi khác hết rồi. Lớn lên ra làm việc thì lại dùng địa lí, thiên văn, chính trị, phong tục nước ta hoàn toàn khác khác hẳn. Quả thật lạ đời! Người Nhật Bản, Cao Ly tuy cũng đọc sách Tàu, nhưng chỉ để làm vui, còn ra làm việc thì theo sách của họ. Nước ta đâu phải là một nước phụ dung của nước Tàu mà cứ phải theo học sách Tàu là chính. Nước ta cũng có tổ tiên, có vua quan đời trước, có sự tích lưu truyền, có thể cho ta tìm thấy nguyên nhân của sự được mất, khảo xét lí do của sự trị loạn. Nước ta hiện nay đang ở trong cái thể bốn bề bị ép, người ngoài sắp chiếm làm hang ổ. Đó là lúc chúng 43
- ta phải khiến dân trí khôn, sức lực để chống giữ, bảo vệ nước nhà. Hai là, ông xin triều đình lập ra bốn khoa: khoa nông chính, khoa thiên văn và địa lý, khoa công kỹ nghệ, khoa luật học nhằm phát triển nền giáo dục của nước nhà, đào tạo ra những đội ngũ tri thức trong lĩnh vực đáp ứng được nhu cầu phát triển đất nước. Trong cảnh ngộ éo le đang bị nghi ngờ, hiềm khích Nguyễn Trường Tộ nói rằng ông không dám phê phán trực diện đường lối học thuật kém sáng suốt của Triều đình. Nguyên nhân của sự yếu kém đó một phần do sách vở, một phần do Triều đình chưa nghĩ đến mà thôi. Ông chỉ nêu lên mấy điều kiến nghị thiết thực về mặt học thuật. Ông xin lập ra bốn khoa: khoa nông chính, khoa thiên văn và địa lý, khoa công kỹ nghệ, khoa luật học. - Về nông chính: Ông đề nghị trước hết xin phát hành một bộ sách Nông chính toàn thư. Để biên soạn bộ sách này, triều đình nên sức cho các địa phương, ở đâu có phương pháp nông nghiệp thích hợp với đất đai, thời tiết như thế nào, trồng loại lúa gì, chăn nuôi giống gì, thu hoạch nhiều ít ra sao báo cáo tất cả về tỉnh, tỉnh đệ lên bộ sách có tài liệu ghi vào sách nông chính. Có điều gì mới phát minh trong dân gian thì soạn thành sách riêng để học. Lại xin lập ra bộ nông nghiệp như các nước phương Tây, bởi nông nghiệp là gốc, ăn mặc và hàng trăm nhu cầu khác cho đời sống đều nhờ nông nghiệp. - Về thiên văn và địa lý: Ông viết hai khoản này là gốc của mọi việc. Xin gấp rút duyệt lại các sách thiên văn địa lý ở nước ta từ trước tới đến nay, chỉ chọn lấy những gì hợp với thiên thời địa thế Việt Nam, chắc chắn, hợp lí, đúng với sự thật mà gạt bỏ hết những chuyện thuật số, phong thủy, những chuyện phù phiếm, quàng xiên rồi chọn thành sách ban hành. Lại phải xem lại các sách thiên văn địa lý phương Tây, mướn người ra dịch để bổ sung thành sách của ta. - Về khoa công nghệ kĩ nghệ: Hãy tìm trong các sách nho, có chỗ nào nói đến cơ xảo, đủ được vài câu cũng nhặt ra, mà sửa lại cho đúng. Nhưng cái 44
- chính là phải tìm đọc sách phương Tây, nhất là sách nói về khai thác nguồn lợi khoáng sản, nói về máy móc. Nên tập hợp các linh mục thạo tiếng Việt về kinh, nhờ họ dịch thuật, và cùng với học giả Việt Nam biên soạn thành sách. Lại xin mua một máy in để xuất bản các sách công nghệ nói trên. Nếu không coi trọng các khoa học thuật này thì các nhà Nho cứ vẫn văn tự, đua nhau theo cái học khoa cử mà thôi. - Về khoa luật học: Ông kiến nghị bất luận quan hay dân, mọi người đều phải học luật nước. Quan dùng luật để cai trị, dân theo luật để giữ gìn, bất cứ một hình phạt nào trong nước đều không được vượt qua ngoài luật. Ông nói ở phương Tây ngành tư pháp có quyền độc lập, được thong dong trong việc chấp hành pháp luật mà không bị một bó buộc nào cả. Ngay như nhà vua cũng không được đoàn phạt một người trong bộ nào theo ý riêng của vua, mà không có chữ kí của các quan trong bộ ấy. Để chứng minh sự cần thiết phải có khoa luật, ông nhắc lại thời vua Khổng Tử: “ta chưa hề thấy ai tự thấy được lỗi của mình, mà lại biết tự trách phạt” [3; 253]. Và ông kết luận: “Nếu tận dụng cái lẽ công bằng ở trong luật mà sử sự thì mọi quyền pháp đề là đạo đức. Có cái đức nào hơn chí công vô tư hay không?” [3; 254] Ba là, sau khi bàn về việc thành lập bốn khoa nói trên để trau dồi học tập. Nguyễn Trường Tộ đưa ra một sáng kiến: dùng quốc âm. Đoạn này được ông coi là kiến nghị thứ năm trong việc sửa đổi học luật. Ông viết: nước ta là một nước có tên tuổi thuộc hạng nhì của phương Đông. Vậy mà chỉ một mình nước ta không có chữ viết, phải dùng chữ nho để viết thay, mà phát âm thì không theo như giọng Trung Quốc, lại cũng không phải là tiếng nói phổ thông của người Việt Nam, thành ra đem nói với người Tàu họ chẳng nghe ra, mà đọc cho người không biết chữ nho cũng chẳng ai hiểu. “Thông cáo yết thị của nhà nước truyền xuống phải qua người biết chữ đọc và dịch lại cho dân, 45
- nhưng phần nhiều viện dẫn thất thiệt, giảng nghĩa không tỏ, khiến dân thường không hiểu hết, ý chí của triều đình bị xuyên tạc”.[3; 255] Đứng trước sự bất tiện như trên, ông đã đề nghị bây giờ ta cứ lấy chữ Hán chuyển đọc ra quốc âm, không cần học nghĩa. Như vậy ai cũng dễ hiểu có phải là vừa dễ dàng vừa bớt được bao nhiêu phiền phức hay không. Ông tính ra quốc âm Việt Nam thời ấy ước chừng hơn một vạn tiếng trong đó chỉ có khoảng 3000 tiếng không thể viết ra chữ Hán được, trường hợp đó có thể dùng chữ Hán tương tự ghi thêm dấu vào bên là được còn 7000 chữ kia viết được như chữ Hán mà cứ đọc thành quốc âm Việt Nam. Như vậy gọi là “chữ Hán quốc âm”. Nếu triều đình chấp nhận đó là kế hoạch lâu dài, giản tiện thì xin làm thử xem sao. Với kế sách này cần phải ấn hành một tờ báo đăng tải các tiêu chí, sở, dụ, những việc làm của các bậc danh tiếng, những công vụ quốc gia hiện thời, cho học sinh đọc để biết công việc trong nước. Tóm lại, chúng ta có thể thấy rõ những tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ về vấn đề giáo dục mang nhiều giá trị tích cực, có nhiều tư tưởng của ông cho đến nay vẫn còn phù hợp. 2.3.2. Xây dựng luật lệ nhà nước Nguyễn Trường Tộ đề xuất với triều đình "lập khoa luật", điều này đã nói lên sự quan tâm của ông đến "kỉ cương, uy quyền, chính lệnh quốc gia". Đây là điều mà mọi chế độ, mọi nhà nước luôn đặt lên hàng đầu. Theo ông: "bất luận quan hay dân, mọi người đều phải học luật nước Ai giỏi luật sẽ được làm quan" [3; 253]. Ngay trong bản điều trần, Nguyễn Trường Tộ đã viết "Quan dùng luật để trị, dân theo luật mà giữ gìn. Bất cứ một hình phạt nào trong nước đều không vượt ra ngoài luật" [3; 253]. Nhà nước và nhân dân ta ngày nay đang nêu cao vai trò trách nhiệm của ngành tư pháp là phải xử đúng luật, đúng người, đúng tội, tránh xử oan sai. Muốn làm tốt điều này, theo ông, phàm những ai đã nhập ngạch Bộ Hình xử đoán các vụ kiện tụng thì 46
- chỉ có thăng trật chứ không bao giờ bị biếm truất. Dù vua, triều đình cũng không giáng chức họ được một bậc. Như vậy là để giúp cho các vị này được thong dong trong việc chấp hành luật pháp không bị một bó buộc nào cả. Đây chính là thể hiện rõ quan điểm tam quyền phân lập. Giữa cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải đảm bảo tính độc lập khách quan. Ông cho rằng: "làm thế là để cho dân chúng thấy rõ đạo công bằng" [3; 253]. Trong bản điều trần, Nguyễn Trường Tộ đã mạnh dạn phê phán: "các sách Nho chỉ nói suông trên giấy, không làm cũng chẳng bị ai phạt, có làm cũng chẳng ai thưởng" [3; 253]. Rõ ràng trong xã hội, cơ quan, vấn đề thưởng phạt phải kịp thời, đúng mức, thì mới có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển của xã hội, sự tiến bộ của mọi người. Nguyễn Trường Tộ đề cao việc con người sống đúng luật pháp, làm theo luật pháp là đạo sống, là đức trời. Đây là một quan điểm đúng đắn. Xã hội ta ngày nay đang thực hiện cải cách hành chính, đang soạn thảo thêm các điều luật và chỉnh sửa luật pháp cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử đất nước trong thời đại mới. Tư tưởng pháp trị của Nguyễn Trường Tộ hôm nay vẫn nguyên giá trị. 2.3.3. Chăm lo đời sống nhân dân Viện Dục Anh được lập ra để nuôi dưỡng, chăm sóc những đứa trẻ mồ côi. Trại Tế Bần là nơi nuôi người nghèo khổ, không nơi nương tựa. Nhìn thấu được tình hình hiện tại của đất nước mà đặc biệt là trẻ em và người nghèo, Nguyễn Trường Tộ đã đưa ra những cải cách tiến bộ. Theo Nguyễn Trường Tộ, triều đình nhà Nguyễn cần phải có chính sách giúp đỡ những người nghèo khổ trong xã hội và có nơi nuôi dưỡng những đứa trẻ mồ côi. Do dưới triều nhà Nguyễn việc chăm lo cho những người bất hạnh trong xã hội như nuôi nấng trẻ mồ côi, giúp đỡ người tàn tật và già yếu neo đơn, nghèo đói, nếu có thì cũng chưa hiệu quả và thành hệ thống. Ông từng nói “Tôi thấy hiện nay triều đình có xuất công quỹ lập viện tế bần để nuôi 47
- người nghèo khổ. Nhưng do người thừa hành không làm hết nhiệm vụ, nên chỉ có danh nghĩa mà thực tế những người nghèo khổ không được hưởng sự trợ giúp bao nhiêu” [3; 275]. Ông kiến nghị, “về mặt nhà nước thì cấm tuyệt không cho kẻ đi ăn xin. Nếu ai vô cớ đi ăn xin dọc đường thì đó rõ ràng là kẻ gian trá hình, bất cứ ở đâu hễ gặp là bắt ngay đem về tra xét rồi xiềng lại sung vào công dịch” [3; 275]. Trong tác phẩm Tế cấp bát điều, ở điều thứ 8, ông đã đề nghị nếu triều đình cho rằng việc này nên làm thì sẽ nhờ các giám mục mời người đến, mở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ, không bao lâu sẽ thấy kết quả ngay. Ông cho rằng những trẻ mồ côi của ta không được nuôi nấng sớm muộn cũng chết thì để nguời Tây nuôi lấy cũng được. Huống chi nhà trẻ dù lập ở đâu, bọn trẻ con khi lớn khôn cũng sẽ phân tán tại các nơi đó. Dân là dân của ta, có người bỏ tiền bỏ công ra xin nuôi dạy. Nguyễn Trường Tộ đã thể hiện được những tư tưởng của mình thông qua những lời lẽ nhẹ nhàng, tình cảm. Từ đó, nhận thấy được văn chính luận không chỉ bàn về vấn đề cứng nhắc mà còn bàn về những tâm tư, tình cảm của con người. Thông qua đó, chúng ta có thể thấy được tấm lòng nhân đạo, yêu nước thương dân, luôn lo lắng cho vận mệnh đất nước của một người làm cải cách xuất phát từ tình yêu thương con người kết hợp với tầm nhìn sâu rộng của mình ông đã đề ra được những biện pháp chính sách xã hội mang tính chất tiến bộ và vô cùng nhân đạo. Tuy nhiên giữa lúc triều đình chỉ lo bảo vệ quyền lợi và danh dự của mình nên đã không còn để tâm lo cho số phận của những kẻ bần cùng trong xã hội, đây chính là lí do làm cho những chính sách của ông không được thực hiện. 48
- Tiểu kết chƣơng 2 Ở chương hai, chúng tôi đã nghiên cứu đặc điểm nội dung điều trần trong Tế cấp bát điều. Những vấn đề cơ bản nhất mà Nguyễn Trường Tộ viết đều liên quan đến kế sách canh tân đất nước, từ chính trị, quân sự, kinh tế cho đến văn hóa - xã hội. Không chỉ quan tâm tới triều đình, quan lại mà ông còn lo nghĩ cho nhân dân lao động. Nhà canh tân không ngần ngại vạch rõ tình hình nước ta để rồi đưa ra những tư tưởng tiến bộ dâng lên triều đình . Từng vấn đề được ông đề cập một cách sâu sắc, tường tận, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế cũng như cách khắc phục nó. Đằng sau nội dung đó là tấm lòng yêu nước, một tư tưởng canh tân của nhà nho tiến bộ đương thời. Tuy những tư tưởng của ông đa số không được chấp nhận và bị vua quan nhà Nguyễn cho vào quên lãng, nhưng xét một cách khách quan, đó là những tư duy logic, tiến bộ và hợp thời, nó dựa trên tình hình hiện tại của đất nước ta lúc này. Qua đó, cho thấy được tầm nhìn xa trông rộng của Nguyễn Trường Tộ. 49
- Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT VĂN CHÍNH LUẬN TRONG TẾ CẤP BÁT ĐIỀU Văn chính luận là loại văn dùng để trực tiếp phục vụ cho các cuộc đấu tranh chính trị, vận động văn hóa và có chức năng tuyên truyền sự thật và chân lí, cổ vũ khích lệ nhân dân, đả phá những lời dối trá, “Mặc dù không ít trường hợp có người thường dùng văn chính luận để tuyên truyền xuyên tạc sự thật, song bản chất của loại văn này là trình bày sự thật và chân lí” [26; 393]. Chính vì vậy, về mặt hình thức, văn chính luận cũng bị chi phối bởi các đặc điểm này. Chúng tôi nghiên cứu đặc trưng nghệ thuật trong tác phẩm dựa trên 3 đặc điểm sau: kết cấu và lập luận, ngôn ngữ, giọng điệu. 3.1. Kết cấu và lập luận Nói đến kết cấu của văn chính luận là nói đến cách tổ chức hệ thống lập luận trong văn bản chính luận. Hiểu theo nghĩa này bởi lập luận là cách triển khai, tổ chức các cấp độ, các yếu tố của tác phẩm. Trong văn chính luận, để làm nổi bật được những vấn đề chính trị, xã hội có tính thời sự nóng hổi và để thể hiện được quan điểm thái độ của mình thì buộc các nhà chính luận phải có sự lập luận chặt chẽ. Điều này phải đòi hỏi sự bố trí, sắp xếp, triển khai các luận điểm, luận cứ một cách thuyết phục. Thông qua hệ thống luận điểm, luận cứ và luận chứng, văn chính luận đã tác động trực tiếp vào lí trí người đọc và người nghe một cách dễ hiểu nhất. Ở Tế cấp bát điều, Nguyễn Trường Tộ đã đưa ra hệ thống lí lẽ và dẫn chứng phong phú để làm rõ cho luận điểm của mình. Những dẫn chứng cụ thể, xác đáng và có tính thuyết phục cao giúp cho người đọc dễ dàng lĩnh hội những nội dung mà ông muốn truyền đạt. “Luận điểm là những tư tưởng, quan điểm, chủ trương chứa đựng trong tác phẩm chính luận” [26; 404]. Trong Tế cấp bát điều, Nguyễn Trường Tộ không nêu luận điểm đầu tiên của bản điều trần mà ông mở đầu bằng sự lập luận đầu logic về tình thế hiện tại 50
- của đất nước ta. Đó là tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, đứng trước nguy cơ xâm lược của nhiều nước khác. Việc lập luận này đã dẫn đến những luận điểm chính của tác phẩm. Theo như bản điều trần, chúng ta thấy được có tám điều cần làm, tương ứng với tám luận điểm mà ông đặt ra. Nói cách khác, luận điểm được Nguyễn Trường Tộ nêu ra chính là hệ thống vấn đề dính kết chặt chẽ với tư tưởng và chủ đề tác phẩm. Ví như ở điều thứ nhất, khi nói về việc chấn chỉnh võ bị, Nguyễn Trường Tộ đầu tiên đã so sánh giữa văn và võ, sau đó nêu ra những ví dụ điển hình ở phương Tây để làm nổi bật đặc điểm quân sự nước ta. Ông nói “Tôi thấy các binh sĩ phương Tây đã giỏi về quân sự mà trước khi hành quân ai nẩy nhảy nhót reo hò như sắp được đến nơi vui sướng” [3; 234], hay như nói về tình hình nước ta “Quan chức nước ta phần nhiều ngược hẳn lại, đối với binh lính lại càng tệ hơn” [3; 235]. Từ việc so sánh ta với phương Tây, Nguyễn Trường Tộ đã dẫn ra rằng “Những điều trên đây là những điều cần yếu, phải học tập theo cách đó mới đủ sức điều khiển quan binh, và Triều đình cũng phải hậu đãi quan binh như thế để sử dụng họ khi hữu sự” [3; 236]. Bằng những dẫn chứng cụ thể và thuyết phục, Nguyễn Trường Tộ đã giúp độc giả hiểu rõ ràng và sâu sắc hơn vấn đề mà ông bàn luận. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trường Tộ ở điều thứ ba “Xin gây tài chính bằng cách đánh thuế xa xỉ”, ông cũng nêu ra rất nhiều dẫn chứng xác đáng “Vì vậy các nước phương Tây đánh thuế cờ bạc rất gắt. Ai cờ bạc trái phép sẽ bị phạt rất nặng. Nếu không tiền nộp phạt phải bị tù mấy năm” [3; 244], “Ở phương Tây, khi quốc gia hữu sự, các nhà giàu đua nhau quyên tiền để giúp, thường thường, số tiền quyên góp quá dư nhà nước phải trả lại” [3; 245], Những luận cứ mà ông đưa ra là những sự việc mà hầu hết các quan lại thời bấy giờ đều biết rõ. Nhưng thông qua tác phẩm, ông nhằm nhấn mạnh lại vấn đề cấp thiết là tình trạng đất nước rối ren, phức tạp. Để mọi người hiểu 51
- rõ hơn dụng ý của mình, Nguyễn Trường Tộ khẳng định “Tôi không phải hạng người chỉ biết góp nhặt lợi nhuận, đưa ra bảy khoảng trên là vì thấy nó hợp lí và chính đáng” [3; 248]. Nguyễn Trường Tộ thật tài hoa khi rút lại toàn bộ những lập luận bằng một câu văn có tính thuyết phục cao, từ đó mà góp phần làm cho bản điều trần thêm phần thực tế hơn. Vừa chứng minh, giải thích, vừa bình luận, Nguyễn Trường Tộ đã làm rõ vấn đề mà ông nói tới. Độc giả có thể hiểu từ chung đến riêng, từ khái quát đến cụ thể để nắm bắt được những gì mà ông truyền đạt. Ngoài những điều nói trên, hầu hết ở tất cả các điều mà bản thân đưa ra, Nguyễn Trường Tộ luôn lấy sự khách quan là trên hết, ông xây dựng và sắp xếp các luận cứ, luận chứng một cách xác đáng vô cùng để làm nổi bật nội dung bài viết. Qua kết cấu và lập luận được thể hiện, nhận thấy được Nguyễn Trường Tộ là nhà văn chính luận tài năng khi làm sáng tỏ vấn đề một cách thấu đáo và tường tận. 3.2. Ngôn ngữ Ngôn ngữ trong văn chính luận thường sử dụng nhiều thuật ngữ chính trị, văn nghệ, quân sự, khoa học, lịch sử, Các thuật ngữ chuyên môn tuy không nhiều như trong văn bản khoa học nhưng việc sử dụng rộng rãi đã góp phần làm cho các vấn đề xã hội được đi sâu vào các lĩnh vực đời sống. Ngôn ngữ chính luận có những đặc trưng cơ bản như: tính công khai về quan điểm chính trị, tính chặt chẽ trong diễn đạt và suy luận và tính truyền cảm, thuyết phục. Trong tác phẩm Tế cấp bát điều, ngôn ngữ rất giản dị, dễ hiểu, ngắn gọn nhưng lại diễn đạt được nội dung phong phú. Ví như Nguyễn Trường Tộ viết: “Nhưng nếu bàn về việc phải làm thức thời, mà bảo rằng tổ tiên xưa nghèo nay ta cũng phải nghèo không được bắt chước kinh doanh làm ăn, tổ tiên xưa là thường dân, nay ta cũng phải là người dân thường, không được học hành để 52
- mưu cầu quan chức”[3; 225]. Với lời lẽ ngắn gọn, nhưng mỗi câu, mỗi chữ ông nêu ra đều ý nghĩa, súc tích, gợi ra được mong muốn và ý nguyện mà ông muốn đề cập đến. Hay như trong điều thứ nhất về vấn đề sửa đổi việc võ bị, ông nêu “Việc võ thực là rất khó! Học khó, hành khó so với văn gấp mấy lần.” [3; 230]. Chỉ với một câu văn ngắn gọn thế thôi mà độc giả đã phần nào hình dung được sự khác nhau giữa văn và võ, từ đó đi sâu vào tìm hiểu những khác biệt mà ông nêu ra. Ngoài ra, ở điều thứ hai “Xin hợp tỉnh, huyện để giảm bớt số quan lại và khóa sinh”, ông còn viết “Phàm làm quan, cần phải thanh liêm, có tài cán và siêng năng sáng suốt mới làm tròn chức phận, lại phải khéo điều đình phân xử mới giảm bớt những phiền nhiễu cho dân”[3; 239]. Thông qua ngôn ngữ, người đọc dễ dàng hiểu được ý nghĩa trong câu văn mà ông diễn đạt, đó là cái “tài” và cái “đức” cần thiết phải có của một người làm quan. Ngôn ngữ hàm súc mà mang nhiều ý nghĩa đã giúp cho việc tiếp nhận thuận lợi dù rằng đó là một tác phẩm mang đậm tính chính trị, lịch sử. Ngoài ra, trong Tế cấp bát điều Nguyễn Trường Tộ còn dùng nhiều từ ngữ mang tính chính trị, quân sự. Ở điều thứ nhất ông viết “Nay tôi xin hay đem các sách binh thư xưa nay (tôi có chút am hiểu việc này) ra xét lại. Phàm sách nào, chỗ nào nghĩa lí không xác đáng, khí giới lỗi thời, kĩ thuật không hiệu nghiệm, địa thế không cho phép, khí hậu không hợp và tất cả những gì thi hành sẽ không kết quả phải bỏ hết” [3; 233]. Hầu hết các từ ngữ được ông sử dụng đều thuộc trường nghĩa về chính trị, quân sự như: “sách binh”, “khí giới”, “kĩ thuật”, “địa thế”, Đây là những từ ngữ quen thuộc khi bàn về quân sự. Những người dân thường khá là khó hiểu bởi lẽ nhiều người không thạo binh thư, tuy nhiên với triều đình nhà Nguyễn đặc biệt là các quan võ, việc Nguyễn Trường Tộ dâng lên bản điều trần này là rất phù hợp. Ông còn nói “Nước sở dĩ đứng vững được là nhờ binh lương. Binh để giữ nước. Lương 53
- để nuôi binh. Thế mà trong dân gian còn nhiều người chưa hiểu lí lẽ ấy” [3; 260]. Những từ ngữ được ông ưu tiên sử dụng là những từ thiên về chính trị bởi trên hết đây là bản điều trần gửi lên triều đình nhà Nguyễn, với tư cách là một quan viên với tầm hiểu biết sâu rộng, ông đã dùng những từ ngữ sao cho hợp lí mà được nhiều người trong triều đình hiểu nhất. Trong Tế cấp bát điều, ngôn ngữ mang tính thông tin khách quan, thể hiện được đường lối, quan điểm, thái độ chính trị của người viết một cách công khai, dứt khoát, không che giấu, úp mở. Ông viết “Tôi nói điều này thật không có ý gì khác. Đó là lẽ tự nhiên của trời đất, chỉ bởi người không hiểu mà thôi. Nay xin trước hết hãy chọn người thực tâm giúp việc, tuyệt đối không nhận lời nhắn nhe gởi gắm của ai” [3; 260]. Ở đây ông đã thẳng thắn nói lên suy nghĩ của mình, đồng thời khẳng định mình không có gì khác mà toàn bộ đều vì nước vì dân. Ông còn nêu ra tình trạng gởi gắm quan lại và mong muốn không để nó xảy ra. Không một sự e ngại, dò xét, ông nói thẳng vấn đề mình băn khoăn, thật là một vị quan thanh liêm, chính trực. Nguyễn Trường Tộ viết “Còn ta cũng lập pháp mà không ngăn chặn nổi tệ đoan là vì luật pháp nước ta chưa chặt chẽ, còn sơ hở để tệ đoan sinh ra. Họ cũng người, cũng nước, cũng dân, sao luật pháp thi hành được còn ta thì không?” [3; 270]. Ông nêu rõ tình hình hiện tại của nước ta, về những hạn chế đang mắc phải, đó là luật pháp chưa nghiêm. Ông không sợ triều đình bắt tội vì lời lẽ khoáng đạt mà ngược lại, ông tự do trình bày những suy nghĩ của bản thân mình. Cái gì có ông nói có, cái gì không thì không thể làm cho nó thành có được. Hiếm có thể tìm thấy được một người công tư phân minh như ông trong chốn quan trường lúc bấy giờ. Một đặc điểm khác trong Tế cấp bát điều của Nguyễn Trường Tộ là ngôn ngữ được cân nhắc kĩ càng, thể hiện được lập trường, tư tưởng, quan điểm của ông. Nói một cách dễ hiểu hơn, ngôn ngữ được Nguyễn Trường Tộ sử dụng 54
- chính xác, chuẩn mực. Tuy nhiên, sự chính xác không làm nghèo nàn , mà trái lại còn làm phong phú cho ngôn ngữ chính luận. Ông nói “phàm đã là việc từ thiện thì bất cứ Đông, Tây, Nam, Bắc đều xuất phát từ cái đức của trời mà ra cả. Vì vậy cái gì làm theo được cứ làm, không ngại gì cả. Đừng cho rằng hợp tác làm như vậy sợ người ta dị nghị. Làm công việc từ thiện như thế mà còn có người chê bai chống báng, tôi không hiểu những hạng người ấy lòng dạ như thế nào?” [3; 276]. Ông cân nhắc kĩ khi sử dụng từ ngữ, một mặt để người đọc để hiểu, mặt khác để làm rõ cho lập trường mà ông xây dựng. Mỗi lời lẽ đều đanh thép, hùng hồn nhằm thể hiện được nội dung mà Nguyễn Trường Tộ muốn hướng đến. Ông không viết một cách hời hợt, cho qua mà ông suy nghĩ thấu tình đạt lí để câu văn được rõ nghĩa hơn. Ông luôn nêu ra tình hình hiện tại của nước ta, rồi những hạn chế trong đất nước, tuy nhiên những từ ngữ được ông sử dụng lại được gọt giũa, trau chuốt kĩ, bởi lẽ ông không lấy việc chê bai làm thú vui. Tuy nói về nhược điểm nhưng ông rất nghiêm túc, đứng đắn, không vội vã, bông đùa. Thế nên dù như thế nào thì ngôn ngữ ông sử dụng cũng nghiêm túc, đúng tác phong của một vị quan mẫu mực. Mặc dù đặc thù của văn chính luận là bàn bạc về các vấn đề chính trị - xã hội song nó không phải hoàn toàn khô cứng mà ngôn ngữ vẫn bộc lộ rất rõ cảm xúc của người viết. Trong Tế cấp bát điều, Nguyễn Trường Tộ dùng lời lẽ đanh thép nói về các vấn đề đưa ra, nhưng không vì thế mà những cảm xúc của ông mất đi. Điều đó khiến cho văn chính luận của ông bên cạnh tính chất duy lý còn có tính trữ tình, dễ tác động đến tình cảm của người đọc. Ông viết “Nay thử bắt một đứa nhỏ rời vú mẹ đem bỏ ở chỗ hẻo lánh không người. Không cha mẹ nuôi nấng che chở chắc phải chết, làm sao khôn lớn nên người được. Vậy thì cái ơn sinh ra đó cũng như không sinh. Nếu sinh ra mà đẻ cho khổ não đến chết là không làm hết cái đạo làm người, thế cho bằng đừng sinh còn hơn”[3; 273]. Ta thấy Nguyễn Trường Tộ đã gửi gắm vào đó những nỗi 55
- niềm, tâm tư của mình, ông lo cho dân, cho nước, đó luôn là tư tưởng mà ông hết mình cống hiến. Tóm lại, ngôn ngữ trong Tế cấp bát điều của Nguyễn Trường Tộ là ngôn ngữ mang đậm màu sắc chính trị, quân sự, kinh tế, Đó còn là thứ ngôn ngữ khách quan, công khai và được cân nhắc một cách kĩ lưỡng. Từ đó, tư tưởng và lập trường của ông đã được thể hiện rõ ràng và minh bạch. 3.3. Giọng điệu Vấn đề được bàn đến trong các văn bản chính luận là những vấn đề chính trị, xã hội. Khi bàn bạc về các vấn đề đó, các nhà chính luận bao giờ cũng phải tỏ rõ quan điểm, thái độ chính trị của mình một cách công khai. Viết văn bản chính luận, người viết không chỉ xuất phát từ ý nghĩ, nhu cầu riêng mà phải đứng trên lập trường chung của một tập thể, tổ chức, giai cấp, thậm chí là một quốc gia để bàn bạc. Do đó, giọng điệu của người viết là giọng dứt khoát, đanh thép, cương quyết thể hiện thái độ, quan điểm hết sức rõ ràng. Tuy nhiên, giọng điệu còn biến đổi linh hoạt để phù hợp với nội dung cần truyền đạt. Trong Tế cấp bát điều, Nguyễn Trường Tộ nêu ra lí lẽ, dẫn chứng thông qua một giọng điệu hùng hồn, đanh thép để làm rõ được tình thế cấp bách của nước ta lúc bấy giờ. Khi nói về những tệ đoan, ông không thể nhẹ nhàng mà ca ngợi được, ông gửi vào từng câu văn giọng điệu riêng của ông, đó là sự căm phẫn, khinh bỉ “Nói chung các nước nổi tiếng ở phương Đông như Trung Quốc, Mông Cổ, Ả Rập, Ba Tư tuy đã có lần quấy động xâm lấn các nước chung quanh nhưng cũng tựa hồ như những anh láng giềng đánh đấm lẫn nhau thôi chứ chưa có khả năng dọc ngang bốn biển như người phương Tây ngày nay” [3; 226]. Ông còn mạnh mẽ phê phán chế độ quan chế nước ta “Quan chế nước ta phần nhiều ngược hẳn lại, đối với binh lính lại càng tệ hơn” [3; 235]. Giọng điệu thật mạnh mẽ, cương quyết, ông không ngần ngại 56