Khóa luận Sự biến đổi đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên, huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội hiện nay
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Sự biến đổi đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên, huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_su_bien_doi_doi_song_van_hoa_tinh_than_cua_nguoi_n.pdf
Nội dung text: Khóa luận Sự biến đổi đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên, huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội hiện nay
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC Kiều Thị Minh Châu SỰ BIẾN ĐỔI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN XÃ ĐÔNG YÊN, HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X HÀ NỘI, 2019
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC Kiều Thị Minh Châu SỰ BIẾN ĐỔI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN XÃ ĐÔNG YÊN, HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X Người hướng dẫn: TS. Phạm Quỳnh Chinh HÀ NỘI, 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Phạm Quỳnh Chinh. Các tài liệu, tư liệu số liệu, dẫn chứng được sử dụng trong khóa luận là trung thực, khách quan và có nguồn gốc rõ ràng. Nếu có bất kỳ vấn đề gì tôi xin chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 05 tháng 06 năm 2019 Sinh viên Kiều Thị Minh Châu
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành bài khóa luận này, trước tiên, em xin cảm ơn các Thầy, các Cô trong khoa Triết học, Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội suốt bốn năm qua đã dày công dạy dỗ, truyền đạt cho em những kiến thức, phương pháp, kỹ năng trong việc học tập, tìm hiểu, hoàn thiện bài khóa luận. Đồng thời, em cũng xin cảm ơn các vị cán bộ, công nhân viên công tác tại Ủy ban nhân dân xã Đông Yên và đặc biệt là người nông dân tại xã Đông Yên đã cung cấp tài liệu và hướng dẫn sử dụng số liệu phục vụ bài nghiên cứu. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Phạm Quỳnh Chinh – người Thầy vô cùng tâm huyết và tận tình đã chỉ bảo, hướng dẫn, động viên giúp em hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp này Trong quá trình viết bài, do kiến thức của bản thân em còn hạn hẹp cho nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những đóng góp ý kiến quý báu của Thầy, Cô để bài khóa luận của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 05 tháng 06 năm 2019 Sinh viên Kiều Thị Minh Châu
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 4 NỘI DUNG 12 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA, ĐỜI SỐNG VĂN HÓA, ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN ĐÔNG YÊN 12 1.1. Quan niệm về văn hóa, đời sống văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân 12 1.1.1. Quan niệm về văn hóa, đời sống văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần 12 1.1.2. Đặc điểm của giai cấp nông dân Việt Nam 19 1.2. Khái quát về điều kiện địa tự nhiên, kinh tế, xã hội và đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên 24 1.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội 24 1.2.2. Đặc điểm về đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân ở xã Đông Yên 29 CHƯƠNG 2. SỰ BIẾN ĐỔI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN XÃ ĐÔNG YÊN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP 40 2.1. Thực trạng sự biến đổi đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên hiện nay 40 2.1.1. Sự biến đổi trong nhận thức, tư tưởng 41 2.1.2. Sự biến đổi trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ. 45 2.1.3. Sự biến đổi trong đạo đức, lối sống 51 2.1.4. Sự biến đổi trong hoạt động lễ hội, tín ngưỡng, tôn giáo. 54 2.1.5. Sự biến đổi trong hoạt động văn hóa – văn nghệ, thể thao - giải trí. 59 2.2. Nguyên nhân và một số giải pháp phát huy tích cực, hạn chế tiêu cực trong đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên hiện nay. 61 2.2.1 Nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi trong đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên hiện nay 61 1
- 2.2.2. Một số giải pháp phát huy tích cực và hạn chế tiêu cực trong đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên hiện nay 66 KẾT LUẬN 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82 PHỤ LỤC 82 2
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNH: công nghiệp hóa HĐH: hiện đại hóa NTM: nông thôn mới UBND: ủy ban nhân dân 3
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là một nước có phần lớn dân số sống và làm việc tại khu vực nông thôn nên việc nghiên cứu về nông dân và đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân là một việc làm cần thiết và vô cùng quan trọng. Nó sẽ góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước trong giai đoạn đẩy mạnh CNH – HĐH như hiện nay. Đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân Việt Nam nhìn chung là tổng hòa các hoạt động sản xuất, trao đổi và tiêu dùng các giá trị văn hóa và cơ bản là văn hóa gốc nông nghiệp trồng lúa nước. Vì vậy, nó mang nhiều nét hài hòa với tự nhiên nhưng cũng rất đặc sắc, phong phú. Những năm gần đây quá trình CNH – HĐH đất nước đã thúc đẩy kinh tế và văn hóa ở các vùng nông thôn Việt Nam tạo ra sự phát triển nhanh và mạnh, làm thay đổi mọi mặt đời sống của người nông dân. Theo đó, các yếu tố văn hóa mới hình thành, nét văn hóa truyền thống có nhiều biến đổi. Đặc biệt, đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân đã có sự thay đổi vượt bậc. Tuy nhiên, do sự tác động từ nền kinh tế thị trường và sự xâm nhập nhanh chóng của lối sống đô thị gây ra một số tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của họ. Điều này thể hiện rõ trong các lĩnh vực như: lĩnh vực nhận thức, lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ, lĩnh vực đạo đức - lối sống, lĩnh vực tôn giáo – tín ngưỡng, lĩnh vực thể thao – giải trí, Vì vậy, việc nghiên cứu và tìm hiểu sự biến đổi trong đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân là một việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Đông Yên là một xã nằm phía Tây huyện Quốc Oai thuộc thành phố Hà Nội là địa phương làm nông nghiệp truyền thống điển hình với 75% dân số lao động chủ yếu trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi. Không nằm ngoài xu thế phát triển chung, những năm gần đây đời sống sản xuất kinh tế của người nông dân xã Đông Yên gặt hái được nhiều thành tựu to lớn. Do vậy, đời sống vật chất của người nông dân được đảm bảo, đời sống văn hóa tinh thần ngày 4
- càng đa dạng. Song, bên cạnh đó còn nhiều vấn đề nảy sinh, nổi cộm trong việc nâng cao chất lượng đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân nơi đây. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Sự biến đổi đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên, huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm gần đây, có rất nhiều công trình nghiên cứu của tập thể cũng như các nhà khoa học về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và sự biến đổi trong đời sống văn hóa của người nông dân điển hình là: Tập thể nhiều tác giả (2008) trong cuốn Nông dân, nông thôn và nông nghiệp- những vấn đề đang đặt ra, Nxb Tri thức. Nhóm tác giả đã tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, nghiên cứu về vấn đề tam nông. Điển hình là tác giả Tương Lai từ cách tiếp cận xã hội học và căn cứ vào thực trạng ở vùng đồng bằng sông Hồng nhấn mạnh các giải pháp gắn liền mục tiêu phát triển kinh tế với phát triển xã hội. Vấn đề dân chủ cơ sở và nền tảng văn hóa nông thôn cũng được tác giả phân tích sâu sắc. Từ cách tiếp cận kinh tế học, tác giả Đào Thế Tuấn và Đặng Kim Sơn đã đề xuất những giải pháp phát triển kinh tế nông thôn nhằm gắn kết một cách hữu cơ giữa phát triển công nghiệp và phát triển nông nghiệp, giữa đô thị và nông thôn, giữa bảo hộ sản xuất nông nghiệp và hội nhập kinh tế toàn cầu Tác giả Đặng Kim Sơn (2008) trong Kinh nghiệm quốc tế về nông ngiệp, nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, Nxb chính trị Quốc gia Hà Nội. Trên cơ sở tổng hợp, phân tích vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình công nghiệp hóa nhiều nước trên thế giới như Pháp, Đài Loan, Mỹ Latinh, Nhật Bản, Trung quốc, Tác giả đã liên hệ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn như vai trò của nông nghiệp trong công nghiệp hóa, vấn đề cơ cấu sản xuất, giải quyết các vấn đề đất đai, lao động, môi trường trong quá trình CNH – HĐH đất nước. 5
- Vũ Quang Hiển (chủ biên) (2013), Đảng với vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn (1930 – 1975), Nxb Chính trị Quốc gia. Là một trong bốn công trình nghiên cứu tiêu biểu về vấn đề tam nông được đánh giá cao. Nội dung cuốn sách gồm 5 chương. Trong đó chương 1, nhóm tác giả đã đề cập đến những quan điểm lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Bên cạnh đó các tác giả cũng nêu rõ tình hình nông dân, nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam trong thời kì thuộc địa. Đến chương 2 và chương 3, các tác giả giúp người đọc hiểu rõ những chủ trương, chính sách của Đảng về vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) và ở miền ắc (1954-1975). Ở chương 4, nội dung chính là nêu rõ quan điểm của Đảng về nông dân, nông nghiệp và nông thôn ở miền Nam (1954-1975). Chương 5, nhóm tác giả khép lại nội dung cuốn sách bằng vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn trong đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và kh ng định vấn đề tam nông trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước là sự tiếp nối của lịch sử. Tác giả Quý Lâm - Kim Phượng (2014) trong Chính sách quốc gia về đầu tư và phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Nxb Nông nghiệp. Hai tác giả đã triển khai nội dung cuốn sách thành 9 phần. Gồm các nội dung như, bộ tiêu chí quốc gia để đánh giá tiêu chuẩn nông thôn mới, quy chuẩn quốc gia về quy hoạch xây dựng nông thôn mới, tiêu chí xã hội hóa giáo dục – đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường đáp ứng yêu cầu nông thôn mới, Từ đó cho người đọc thấy một bức tranh đầy đủ về những chính sách của Đảng và Nhà nước để xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Tập thể tác giả gồm Đặng Kim Sơn, Đỗ Liên Hương, Phạm Thị Kim Dung, Trần Công Thắng, Võ Thị Thanh Tâm (2014) trong Đổi mới chính sách nông nghiệp Việt Nam – bối cảnh, nhu cầu và triển vọng, Nxb chính trị 6
- Quốc gia. Trình bày nội dung trong 6 chương về tình hình kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay. Bên cạnh đó, đề cập đến những cải cách, chính sách và công tác thi hành các chính sách nông nghiệp trong thời gian qua, phân tích những thách thức và cơ hội cho phát triển nông nghiệp Việt Nam. Trên cơ sở đó, các tác giả đã đưa ra những đề xuất cho đổi mới chính sách nông nghiệp Việt Nam theo hướng phát triển bền vững. Bên cạnh đó, cũng có rất nhiều các công trình nghiên cứu về đời sống văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần như: Trần Hữu Tòng (1998), Hỏi và đáp về văn hóa làng, gia đình văn hóa, nếp sống văn hóa, tổ chức lễ hội truyền thống, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội. Tác phẩm được trình bày dưới dạng hỏi đáp, giải đáp tất cả những vấn đề có liên quan đến việc xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, nếp sống văn hóa và tổ chức các lễ hội truyền thống. Cuốn sách có vai trò tuyên truyền, hướng dẫn mọi người hiểu được bản chất, cách thực hiện những vấn đề đã nêu sao cho phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Trần Văn Giàu (2011), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trong cuốn sách này, từ góc độ sử học, triết học và đạo đức học, tác giả đã đưa ra những kiến giải sâu sắc về các giá trị truyền thống đặc thù của dân tộc Việt Nam. Cuồn sách gồm 11 chương, trong đó 3 chương đầu khái quát cơ bản về các khái niệm giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc, ảnh hưởng của lịch sử đối với việc phát triển các giá trị truyền thống. Từ chương 4 đến chương 10 tác giả tập trung phân tích 7 đức tính tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, đó là: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Cách trình bày các phạm trù có hệ thống và mang tính khoa học với ý nghĩa như một “bảng giá trị tinh thần” của người Việt. Trương Công Thấm, Vũ Hải (biên soạn) (2012), Xây dựng đời sống văn hóa nông thôn mới, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội. Tác giả đã trình những vấn đề của người nông dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới, đặc biệt 7
- nhấn mạnh công tác xây dựng văn hóa cấp cơ sở. Từ đó, cho đọc giả một hình dung rõ nét về nhiệm vụ, việc làm cần thiết của các cấp chính quyền cũng như người nông dân trong việc xây dựng đời sống văn hóa nông thôn mới. Phạm Quỳnh Chinh (2007), Đô thị hóa và ảnh hưởng của nó đến xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở ngoại thành hà nội hiện nay, luận văn thạc sĩ triết học, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. Tác giả dựa trên cơ sở lý luận về đô thị hóa và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần chỉ ra những ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến đời sống văn hóa tinh thần ở ngoại thành Hà Nội. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đời sống văn hóa tinh thần ở ngoại thành Hà Nội trước ảnh hưởng của đô thị hóa. Lương Thị Thu Trang (2012), Tìm hiểu về đời sống văn hóa tinh thần ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ (nghiên cứu trường hợp tại xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình), luận văn thạc sĩ xã hội học, trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. Từ những kết quả thu được từ cuộc khảo sát đời sống văn hóa tinh thần ở xã Vũ Đoài, tác giả đã phân tích các quan điểm sống, cách hưởng thụ văn hóa tinh thần, cách ứng xử với xã hội và sự biến đổi tâm lý của họ trước những ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa – đô thị hóa. Tác giả cũng đưa ra một cái nhìn tổng quan về sự khác biệt của đời sống văn hóa tinh thần giữa các nhóm dân cư ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay đang diễn ra như thế nào. Lê Minh Chi (2015), Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay, LVTS Triết học, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn. Tác giả triển khai nội dung thành hai chương, ở chương một trình bày một số vấn đề lý luận về xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong xây dựng nông thôn mới. Chương hai trình bày thực trạng và giải pháp xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay- qua khảo sát ở tỉnh Thanh Hóa. 8
- Ngoài ra, có một số công trình nghiên cứu khác như: Lê Thị Anh, Ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài đến văn hóa Việt Nam giai đoạn hiện nay, Tạp chí Cộng sản số ra ngày 5/12/2013. Chu Thái Thành, Xây dựng đời sống văn hóa mới trong mỗi cộng đồng dân cư, Tạp chí Cộng sản số ra ngày 25/1/2010. Đỗ Thị Minh Thúy, Các chính sách nhằm tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu văn hóa số 4. Nguyễn Thị Linh Giang, Để phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, Tạp chí cộng sản số ra ngày 18/4/2018, Nhìn chung, có rất nhiều công trình nghiên cứu về đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân. Tuy nhiên, chưa có một bài nghiên cứu một cách hệ thống về đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân ở xã Đông Yên, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. Vì vậy, kế thừa những giá trị nghiên cứu của các tác giả đi trước và dựa trên tình hình thực tế tại xã Đông Yên hiện nay. Tác giả đã lựa chọn nghiên cứu cụ thể về những biến đổi trong đời sống văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần. Từ đó, đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng và làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Trên cơ sở lý luận về văn hóa, đời sống văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân và điều kiện địa tự nhiên, đặc điểm văn hóa của người nông dân ở xã Đông Yên. Khóa luận làm rõ thực trạng và nguyên nhân của sự biến đổi trong đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên, từ đó đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên hiện nay. Nhiệm vụ: 9
- Thứ nhất, đưa ra các quan niệm về văn hóa, đời sống văn hóa và đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân Thứ hai, khái quát về điều kiện địa tự nhiên, kinh tế, xã hội và đặc điểm đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên Thứ ba, làm rõ sự biến đổi đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên hiện nay Thứ tư, phân tích nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp phát huy tích cực và hạn chế tiêu cực trong đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên, Quốc Oai, Hà Nội. Phạm vi nghiên cứu: Sự biến đổi đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên từ năm 2010 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Khóa luận nghiên cứu dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về văn hóa, đời sống văn hóa, về nông nghiệp, nông thôn, nông dân và đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân, Khóa luận cũng tham khảo, kế thừa những thành quả nghiên cứu của các công trình trước đây. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp tổng hợp – phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, \ 10
- 6. Ý nghĩa của khóa luận Về mặt lý luận: Khóa luận góp phần làm sáng tỏ một số khái niệm cơ bản và sự biến đổi trong đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên. Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, học tập của các đề tài liên quan đến người nông dân, nông nghiệp nông thôn và đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân. 7. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết. 11
- NỘI DUNG CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA, ĐỜI SỐNG VĂN HÓA, ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN ĐÔNG YÊN 1.1. Quan niệm về văn hóa, đời sống văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân 1.1.1. Quan niệm về văn hóa, đời sống văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần *Văn hóa Văn hóa ra đời cùng với quá trình lao động, sản xuất của con người. Vì vậy, ngay từ thời cổ đại khái niệm văn hóa đã xuất hiện và ngày càng hoàn thiện hơn. Thời kỳ Trung quốc cổ đại “văn hóa” được hiểu là “văn trị” và “giáo hóa”, nghĩa là dùng cái hay cái đẹp để cảm hóa, giáo dục con người, làm cho trở nên có đạo đức hơn. Thế kỷ thứ IV trước Công nguyên, Khổng Tử đã dùng thuật ngữ “hóa” nghĩa là cải biến, biến đổi và thuật ngữ “văn” có nghĩa là những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống, trong giao tiếp, ứng xử giữa con người với con người. Từ đó, có thể hiểu văn hóa có nghĩa là sự bồi đắp, cải biến, hướng con người đến những giá trị tốt đẹp hơn. Văn hóa là khác biệt, văn hóa là đa dạng, văn hóa là hồn cốt của một dân tộc. Nó là tất cả những hoạt động lao động, sáng tạo và cả những giá trị tinh thần được sinh ra từ quá trình sản xuất vật chất và tinh thần trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Văn hóa là một khái niệm mang nội hàm rộng lớn với nhiều cách tiếp cận khác nhau, trên nhiều lĩnh vực, nó liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất, đời sống tinh thần của con người và xã hội. Vì vậy, khái niệm về văn hóa được tiếp cận dưới nhiều góc độ, nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong tác phẩm Những cơ sở triết học của thời đại - cội nguồn của thế kỷ XX Sapovalop đã nhận định rằng văn hóa là một khái niệm không thích hợp với những loại định nghĩa chỉ có một định nghĩa. 12
- Tại Hội nghị liên chính phủ về chính sách văn hóa tại Venise năm 1970, F. Mayor nguyên tổng giám đốc UNESCO cho rằng: Văn hóa là “tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và các cộng đồng) trong quá khứ và hiện tại” [46, 798]. Qua các thế kỉ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành trên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu- những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Còn nhà dân tộc văn hóa Anh E. . Taylor cho rằng: “Văn hóa hoặc văn minh là một chỉnh thể phức hợp bao gồm trí thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập tục và bất kì năng lực thói quen nào khác mà con người cần có với tư cách là mọt thành viên của xã hội”[46, 798] Chủ nghĩa Mác - Lênin khi đề cập đến vấn đề văn hóa cho rằng con người chính là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, sáng tạo ra các giá trị văn hóa. Theo nghĩa đó văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn, văn hóa là sự biểu hiện năng lực bản chất con người. Quá trình nghiên cứu quy luật phát triển của xã hội loài người, chủ nghĩa Mác - Lênin đã khái quát quá trình hoạt động xã hội cơ bản của xã hội thành hai hoạt động cơ bản là sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần, xét theo hình thái giá trị thì tương ứng với văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Trong đó, văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được kết tinh trong các sản phẩm vật chất. Văn hóa tinh thần là những sản phẩm lao động trí óc của con người được sáng tạo trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại. Đó là tổng thể các tư tưởng, lý luận và các giá trị được sáng tạo trong đời sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người được biểu hiện dưới dạng các hiện tượng tinh thần. Văn hóa tinh thần bao gồm các giá trị trong hoạt động giáo dục, tư tưởng, tôn giáo, lễ hội, mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Ở Việt Nam, học giả Đào Duy Anh là người đầu tiên đưa ra khái niệm về văn hóa (năm 1938). Ông cho rằng: “văn hóa là chỉ những học thuật tư tưởng. Có lẽ gì văn hóa của các dân tộc lại khác nhau đến thế? Vì rằng cách 13
- sinh hoạt của các dân tộc không giống nhau. Chính vì những điều kiện tự nhiên về địa lí khiến mỗi dân tộc sinh hoạt ở trên cơ sở kinh tế khác nhau, cho nên cách sinh hoạt cũng khác nhau vậy”. Ông còn kh ng định “nghiên cứu xem sự hoạt động để sinh hoạt về các phương diện của một dân tộc nay chuyển biến thế nào, là nghiên cứu văn hóa lịch sử của dân tộc ấy vậy” [1; 10, 11]. Như vậy, tác giả Đào Duy Anh quan niệm dựa trên những điều kiện khác nhau sẽ tạo nên nền văn hóa không giống nhau. Kế thừa tất cả những quan điểm đó, trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng cộng sản Việt Nam luôn đề cao vị trí, vai trò của văn hóa. Năm 1943 trong Đề cương văn hóa Việt Nam, Đảng đã xác định văn hóa là một trong ba mặt trận quan trọng của đất nước đồng hành cùng kinh tế và chính trị. Đến Nghị Quyết Trung Ương 5, khóa VIII (1998) của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, lần đầu tiên văn hóa được đề cập đến trên phạm vi rộng lớn. Ngoài văn học, nghệ thuật còn có cả môi trường văn hóa, xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống, phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, hệ thống thông tin đại chúng, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa và văn hóa các dân tộc thiểu số, chính sách văn hóa đối với tôn giáo, hoàn thiện thể chế văn hóa, Từ đó Đảng cộng sản Việt Nam đi đến kết luận: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Quan điểm này cho thấy góc độ tiếp cận văn hóa ở bề sâu bởi có những giá trị do chính nó tạo nên. Trong nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân cùng xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Kh ng định những nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống và loại dần những yếu tố không phù hợp nhằm tạo nên những điểm hợp lý cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện đổi mới của đất nước. Tính đến nay, có hàng trăm ngàn định nghĩa về văn hóa, các định nghĩa nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau nhưng đều thống nhất khi cho rằng: Văn hóa là một dấu ấn đặc trưng cho xã hội loài người, khác về cơ bản với tổ 14
- chức của xã hội động vật. Mọi văn hóa đều được hình thành và phát triển từ các hoạt động lao động, sáng tạo của con người trong toàn bộ tiến trình lịch sử của các dân tộc và toàn thể nhân loại. Văn hóa chỉ có ở con người và đó là quá trình sáng tạo đặc trưng của con người, do con người và vì con người. Văn hóa thường được phân chia thành hai dạng là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, chúng có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Tuy nhiên, cách chia này chỉ mang tính tương đối. Trong một số trường hợp văn hóa vật chất là dạng tồn tại, thể hiện, chất chứa trong nó các giá trị văn hóa tinh thần, những giá trị thẩm mỹ, tốt đẹp mang đậm cá tính của người sáng tạo ra các giá trị tinh thần dưới cái vỏ bọc của vật chất, ẩn chứa trong các sản phẩm của văn hóa vật chất. Kế thừa tất cả những quan điểm trên và dựa trên góc độ nghiên cứu của chủ nghĩa xã hội khoa học, trong phạm vi của khóa luận, tác giả đồng tình với quan điểm của Hồ Chí Minh khi kh ng định “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [29; 431]. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa là một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về nguồn gốc, phạm vi và sự biểu hiện của văn hóa trong toàn bộ đời sống sinh hoạt của con người. Nguồn gốc của văn hóa là do lẽ sinh tồn và mục đích sống của con người. Trải qua hàng ngàn năm thích nghi và cải tạo thế giới, những kinh nghiệm mà con người có được là cơ sở để hình thành văn hóa. Với sự khắc nghiệt của môi trường tự nhiên và tính quy luật nghiêm khắc của môi trường xã hội buộc con người phải có sự sáng tạo, phải lao động để tạo ra các giá trị văn hóa sâu sắc, đậm đà bản sắc dân tộc. 15
- *Đời sống văn hóa Từ những năm 80, 90 của thế kỷ XX, trong các công trình nghiên cứu về văn hóa cụm từ “Đời sống văn hóa” được sử dụng tương đối rộng rãi. Tiền thân của cụm từ này là cụm từ “Đời sống mới”. Đây là tiêu đề của bài viết dưới dạng hỏi - đáp của tác giả Tân Sinh - một bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh được công bố vào năm 1947. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản nhân dân ta vùng lên làm cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 đánh đuổi thực dân Pháp và xóa bỏ chế độ phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (mồng 2 tháng 9 năm 1945). Đây cũng là lúc cụm từ “Đời sống mới” xuất hiện trong văn kiện đường lối của Đảng. Sau khi giành chính quyền nhân dân ta bắt tay vào xây dựng sự nghiệp kiến quốc. Nhiệm vụ cấp bách đối với văn hóa lúc bấy giờ là diệt giặc dốt, cổ động toàn dân tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, diệt giặc đói, cổ vũ tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm, xây dựng đạo đức cách mạng, chỉnh đốn sửa đổi lề thói sinh hoạt trong đời sống của mỗi người, mỗi nhà, mỗi làng bản, mỗi đơn vị. Những nhiệm vụ này dưới sự lãnh đạo của Đảng lần đầu tiên được thực hiện dưới chính quyền nhân dân còn non trẻ. Trong suốt lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc chưa từng có những nhiệm vụ nào như vậy cho nên gọi là xây dựng “Đời sống mới”. Trong bối cảnh trình độ học vấn của dân ta lúc bấy giờ còn thấp, hơn 90% người dân mù chữ nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng từ “mới” thay cho từ “văn hóa” để cho dân dễ hiểu về xây đựng đời sống văn hóa. Cụm từ “đời sống văn hóa” xuất hiện trong Văn kiện Đại hội Đảng IV (1976) đoạn viết: “Hết sức quan tâm tổ chức tốt đời sống văn hóa ở các vùng kinh tế mới, các nông trường, lâm trường, công trường ở các vùng dân tộc, ở miền núi, hải đảo” [15]. Cho đến Đại hội V (1982) Đảng ta đã xác định rõ hơn nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa và đặc biệt nhấn mạnh đời sống văn hóa ở cơ sở, coi đó là chủ trương quan trọng có ý nghĩa chiến lược xây dựng văn hóa và con người: “Một nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hóa là đưa văn 16
- hóa thâm nhập vào cuộc sống hằng ngày của nhân dân. Đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, đảm bảo mỗi nhà máy, công trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã, hợp tác xã, phường ấp, đều có đời sống văn hóa” [16]. Mỗi cá nhân có đời sống văn hóa riêng. Tuy nhiên, đời sống văn hóa cá nhân khi đi theo cùng một xu hướng thì sẽ hình thành đời sống văn hóa cộng đồng. Do vậy, sau Đại hội V, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở trở thành một phong trào phát triển sâu rộng trong các hộ gia đình, địa bàn dân cư, đơn vị học tập, công tác, sản xuất tác động trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức và nhu cầu hương thụ, sáng tạo văn hóa trong đời sống của mọi tầng lớp nhân dân. Từ đó khái niệm đời sống văn hóa ngày một phổ biến và sáng tỏ. Năm 1987, cuốn sách Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam đã kh ng định: Đời sống văn hóa chính là những hành vi sống biểu hiện một trình độ văn hoá, bao gồm các hoạt động của xã hội, của tập thể, của từng cá nhân, nhằm mục đích văn hóa hoá tức là hoàn thiện con người. Năm 2000, cuốn Giáo trình Lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng cộng sản Việt Nam đưa ra khái niệm: “Đời sống văn hóa là bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm các yếu tố văn hóa tĩnh tại (các sản phẩm văn hóa vật thể, các thiết chế văn hóa) cũng như các yếu tố văn hóa động thái (bao gồm con người và các dạng hoạt động văn hóa của nó)”[30, 268]. Năm 2007, cuốn Lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng cho rằng đời sống văn hoá bao gồm 4 yếu tố: văn hoá vật thể và phi vật thể, cảnh quan văn hoá, văn hoá cá nhân, văn hoá của các "tế bào" trong mỗi cộng đồng, từ đó đưa ra khái niệm: “Đời sống văn hoá là một bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm tổng thể những yếu tố hoạt động văn hoá vật chất và tinh thần, những tác động qua lại lẫn nhau trong đời sống xã hội để tạo ra những quan hệ có văn hoá trong cộng đồng, trực tiếp hình thành nhân cách và lối sống của con người”[32, 434]. Như vậy, có thể hiểu “đời sống văn hóa” là tất cả những hoạt động của con người tác động vào đời sống vật chất, đời sống tinh thần, đời sống xã hội 17
- để hướng con người vươn lên theo quy luật, chuẩn mực của cái đúng, cái đẹp, cái chân - thiện - mỹ đồng thời loại bỏ những biểu hiện tha hóa, tiêu cực trong đời sống con người. Đời sống văn hóa là quá trình diễn ra sự trao đổi thông qua các hoạt động văn hóa nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống. Việc tiếp thu các yếu tố văn hóa vào đời sống của con người không chỉ diễn ra một chiều mà luôn có mối quan hệ biện chứng. Các yếu tố văn hóa mà con người tiếp thu sẽ có tác động trở lại vào chính mỗi đời sống cá nhân, đời sống vật chất, đời sống tinh thần và đời sống xã hội. Nó góp phần điều chỉnh các hành vi ứng xử của cá nhân và cho cá nhân phương thức lựa chọn lối đi tốt nhất cho mình, giúp biến đổi môi trường tự nhiên tạo lập môi trường nhân văn làm ra những sản phẩm vật chất cho xã hội. Nó cũng sẽ tác động vào đời sống tinh thần để con người thỏa mãn những nhu cầu chủ quan và đáp ứng những yêu cầu về tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống của cộng đồng, hình thành nên hệ thống các giá trị chuẩn mực. Qua việc nghiên cứu các khái niệm khác nhau về đời sống văn hóa, tác giả đồng ý với quan niệm của Tác giả Trần Đức Ngôn trong tạp chí Lý luận văn hóa khi cho rằng: “Đời sống văn hóa là kết quả của hoạt động tương tác giữa con người với môi trường văn hóa tạo nên diện mạo cũng như chiều sâu của đời sống tinh thần con người, thể hiện chất lượng sống và góp phần hình thành nhân cách”[31, 6]. *Đời sống văn hóa tinh thần Đời sống văn hóa tinh thần là một bộ phận của đời sống văn hóa, nó bao gồm tất cả các hoạt động lao động, sáng tạo, kế thừa, phát huy, của con người nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ở con người. Theo lẽ đó “Đời sống văn hóa tinh thần là tổng hòa sống động các hoạt động sản xuất, trao đổi, tiêu dùng các giá trị văn hóa tinh thần, làm cho các giá trị đó thấm sâu vào từng con người, từng cộng đồng người, trở thành yếu tố khăng khít của toàn bộ cuộc sống, hoạt động và quan hệ con người đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần đa dạng và không ngừng tăng lên của mọi thành viên xã hội”[8; 15]. 18
- Đời sống tinh thần có cái hay, cái dở, có mặt tốt, mặt không tốt tuy nhiên khi nói đến đời sống văn hóa tinh thần là để nhấn mạnh những nét đẹp có giá trị nhằm hướng con người tới những giá trị cao đẹp của Chân - Thiện - Mỹ. Đời sống văn hóa tinh thần là khái niệm đề cập đến chất lượng của đời sống tinh thần. Trên cơ sở đó, đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân chính là tổng hòa sống động các hoạt động sản xuất, trao đổi, tiêu dùng các giá trị tinh thần mà các giá trị tinh thần đó mang đặc trưng đời sống sản xuất nông nghiệp. Dựa trên khái niệm, tiến trình vận động và phát triển, đời sống văn hóa tinh thần lần lượt trải qua năm khâu gồm: nhu cầu văn hóa tinh thần, sản xuất (sáng tạo) giá trị văn hóa tinh thần, bảo quản (lưu giữ) các giá trị văn hóa tinh thần, trao đổi (giao tiếp) chuyển giao các giá trị văn hóa tinh thần, tiêu dùng các giá trị văn hóa tinh thần. Bên cạnh đó, đời sống văn hóa tinh thần có thể biểu hiện thông qua các hoạt động như: hoạt động nhận thức, hoạt động giáo dục- đào tạo, hoạt động tư tưởng, lối sống, hoạt động tôn giáo tín ngưỡng, hoạt động lễ hội, hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí, 1.1.2. Đặc điểm của giai cấp nông dân Việt Nam Nông dân Việt Nam là giai cấp xã hội đặc biệt được hình thành trong quá trình tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy và quá trình phát triển của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Giai cấp nông dân tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Với nền sản xuất nhỏ, sở hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, họ là những người sống ở nông thôn và chủ yếu làm nông nghiệp. Bản thân người nông dân vừa là nhà sở hữu vừa là người lao động. Họ sở hữu ruộng đất, canh tác trên chính mảnh đất đó có thể đủ hoặc không đủ nuôi sống bản thân và gia đình họ, sản xuất ra lương thực, thực phẩm để cung cấp cho xã hội, sản xuất ra công cụ lao động phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Người nông dân Việt Nam không xa lạ gì với hình ảnh “ Con trâu đi trước, cái cày theo sau”. Nó phản ánh phương thức sản xuất nông nghiệp có phần lạc 19
- hậu, thô sơ. Với tính chất cá thể, tự cấp, tự túc là chủ yếu đúng như C.Mác đã nhận định: “Mảnh đất cỏn con, người nông dân và gia đình anh ta, cạnh đó lại một mảnh đất cỏn con khác, một nông dân khác và một gia đình khác. Một nhóm những đơn vị ấy tập hợp thành một làng, một nhóm làng tập hợp thành tỉnh. Và có khi cả cái khối lớn dân tộc cũng được hình thành bằng cách đơn giản cộng những đại lượng cùng tên lại, đại khác cũng giống như một cái bao tải đựng những củ khoai tây hình thành một bao tải khoai tây vậy” [6; 264]. Tính chất cá thể đã tách biệt mỗi gia đình thành một đơn vị kinh tế độc lập, rời rạc với phương thức sản xuất phân tán. Vì vậy, người nông dân không có sự liên kết chặt chẽ về kinh tế, tư tưởng, tổ chức, vì vậy trong lịch sử, giai cấp nông dân không có hệ tư tưởng độc lập mà chủ yếu phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội. Người nông dân cũng không phải là một tập đoàn xã hội thống nhất. Trong sự phát triển của lịch sử, tính chất xã hội và cơ cấu xã hội thay đổi theo từng loại hình xã hội, các hình thái sản xuất, các phương thức sản xuất khác nhau. Song, không thể phủ nhận vai trò của giai cấp nông dân trong lịch sử. Khi đề cập đến sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân C. Mác và Ph. Ăngghen đã kh ng định nông dân là người bạn đồng minh tự nhiên của giai cấp công nhân. Các ông cũng nhấn mạnh vai trò của giai cấp nông dân trong việc thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ công nhân – nông dân là cái gốc của cách mạng. Cho đến nay, giai cấp nông dân ở nhiều quốc gia vẫn là lực lượng xã hội quan trọng quyết định đến sự phát triển của đất nước. Với những điều kiện quy định nên bản chất của mình giai cấp nông dân Việt Nam bao gồm các đặc điểm sau: Thứ nhất, Giai cấp nông dân Việt Nam có phương thức sản xuất trồng lúa nước là căn bản Do điều kiện địa tự nhiên của Việt Nam với những vùng đồng bằng rộng lớn, nằm trong khu vực Đông Nam Á với khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, 20
- mưa nhiều thích hợp cho việc trồng lúa nước. Mặc dù có “rừng vàng, biển bạc” nhưng những người nông dân nơi đây không dựa hoàn toàn vào rừng và biển, mà chủ yếu dựa vào việc làm nông nghiệp. Với đồng bằng châu thổ phì nhiêu như đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long có truyền thống lúa nước lâu đời, lại có mật độ dân số khá cao nên từ lâu cư dân nông nghiệp Việt Nam đã luôn tiến hành thâm canh cây lúa và trồng hoa màu để đạt năng suất cao, giải quyết bài toán về mật độ dân số và lương thực. Vì vậy, sản xuất lúa gạo làm lương thực chính đã trở thành phương thức sản xuất và sinh sống truyền thống của hầu hết các làng xã Việt Nam trong lịch sử. Khi nhắc đến văn hóa Việt Nam không thể không nhắc đến làng xã và văn minh lúa nước với vai trò quan trọng đối với người nông dân. Cả hai yếu tố này cùng quyết định đời sống nông nghiệp của người nông dân ở nông thôn. Do đó, có thể thấy đặc trưng đầu tiên của người nông dân được thể hiện trong lối sống, nếp nghĩ chính là sự trọng nông, trọng kinh nghiệm và rất thực tiễn. Chính điều này đã tạo nên tính ổn định, bền vững, tính cố kết chặt chẽ, tính cộng đồng, tính hướng nội trong văn hóa làng Việt. Thứ hai, nông dân vừa là một giai cấp vừa không phải là một giai cấp. Nông dân là một giai cấp bởi lẽ họ là những người có sở hữu tư liệu sản xuất trong tay và là lực lượng hết sức đông đảo trong xã hội. Trong lịch sử, giai cấp nông dân thể hiện vị trí và vai trò của mình thông qua việc liên minh với giai cấp công nhân để giải phóng chính mình và toàn xã hội khỏi ách áp bức, bóc lột. Hiện nay, người nông dân lại tiếp tục kh ng định vị trí của mình trong công cuộc đổi mới đất nước bằng cách CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn, nâng cao chất lượng đời sống giai cấp mình. Tuy nhiên họ lại là những người tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, cụ thể là đất đai. Hơn nữa, các mảnh đất do người nông dân sở hữu không tập trung ở một chỗ mà phân tán khắp nơi. Đó là điều kiện chủ yếu hình thành nên tính manh mún, nhỏ lẻ trong cách thức sản xuất và phương thức sinh sống của người nông dân. 21
- Nông dân không phải là một giai cấp. Bởi lẽ, phương thức sản xuất nông nghiệp manh mún, lạc hậu, nhỏ lẻ làm sản sinh tính biệt lập nhất định giữa các làng xã. Sự liên kết trong tư tưởng, sản xuất kinh tế, trao đổi sản phẩm mang tính chất rời rạc, cho nên giai cấp nông dân không có điều kiện hình thành cho mình một hệ tư tưởng chung, thống nhất. Do vậy, lợi ích chung của nông dân không hợp thành một lợi ích độc lập mà phụ thuộc vào lợi ích của các giai cấp thống trị, giai cấp địa chủ, giai cấp tư sản – vì thế, nông dân không có hệ tư tưởng, không có khả năng tổ chức ra các đảng chính trị của riêng mình. Sống trong chế độ xã hội nào thì nông dân bị chi phối bởi lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội ấy, bị phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Trên thực tế chúng ta nhận thấy: trong xã hội Phong kiến ở Việt Nam, lợi ích của nông dân bị phụ thuộc vào lợi ích của giai cấp địa chủ trong mối quan hệ “phát canh thu tô”; đời sống tinh thần của nông dân là đời sống của “thần dân”, của tá điền. Nhân dân ở nhiều nước trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nông dân bị giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản bóc lột dưới hình thức lợi nhuận trong nông nghiệp và địa tô tư bản chủ nghĩa. Chỉ khi làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mới được giải phóng triệt để. Thứ ba, giai cấp nông dân vừa có tinh thần cách mạng, vừa mang tư tưởng bình quân, cục bộ. Giai cấp nông dân luôn giữ vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử. Đứng trên quan điểm duy vật, lịch sử các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã xác định vị trí, vai trò to lớn của giai cấp nông dân trong lịch sử xã hội loài người. Trong học thuyết của mình, Mác, Ăngghen, Lênin đã chỉ ra nông dân là nhân tố rất cơ bản của dân cư, của nền sản xuất và của lực lượng chính trị. Mác và Ăngghen cho rằng trong quá trình cách mạng của giai cấp công nhân không thể thiếu vai trò của giai cấp nông dân, đồng thời, người nông dân cũng hiểu rõ đâu mới là người bạn thực sự của giai cấp mình, “Người nông dân thấy rằng giai cấp vô sản thành thị- giai cấp có sứ mệnh lật đổ chế độ tư sản 22
- là người bạn đồng minh, là người lãnh đạo tự nhiên của mình” [6; 269]. Ở đại đa số quốc gia trên thế giới, nông dân là lực lượng xã hội to lớn, là lực lượng cách mạng quan trọng. Vận dụng một cách sáng tạo những quan điểm, tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lê nin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra tính cách mạng của giai cấp nông dân. Người nhận định: nông dân Việt Nam chiếm đại bộ phận trong dân cư, họ là giai cấp chịu nhiều tầng áp bức bóc lột, thực dân, phong kiến và cả một bộ phận phú nông. Hồ Chí Minh nhìn thấy ở người nông dân sức mạnh tiềm tàng, mặc dù bị áp bức dã man về kinh tế, chính trị, bị đầu độc về tinh thần những họ không chỉ chịu đựng. Dưới ách áp bức, bóc lột người nông dân đã nuôi ý chí, tinh thần phản kháng mãnh liệt. Họ gắn bó máu thịt với quê hương, đất nước, với nền văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc. Người cũng nhận định rằng giai cấp nông dân sẽ cùng giai cấp công nhân và các tầng lớp khác đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời muốn đẩy mạnh nông nghiệp phát triển và xây dựng nông thôn mới trước hết cần phải chú ý đến người nông dân. Cũng chính là xây dựng mọi mặt trong đời sống người nông dân. Tinh thần đoàn kết cách mạng thể hiện đặc tính cố kết cộng đồng bền chặt của người nông dân. Tuy nhiên tính cộng hữu, cộng mệnh, cộng cảm cũng có những phái sinh thể hiện ra là tính bình quân và cục bộ địa phương. Nó xuất phát từ trong điều kiện của lịch sử và chế độ xã hội ở nước ta. Khi công cụ lao động còn thô sơ, kỹ thuật sản xuất còn hạn chế, người nông dân làm nông nghiệp chủ yếu dựa trên kinh nghiệm. Họ kết nối với nhau để cùng cấy cày, cùng chăm bón, cùng thu hoạch sản phẩm. Họ hợp tác để cùng phòng chống thiên tai, địch họa, chiến tranh, ách áp bức bóc lột do đó mối quan hệ giữa những thành viên cùng sống trong làng vô cùng chặt chẽ. Người nông dân mang lòng tự tôn của làng mình, sống tuân theo lệ làng, chết tuân theo luật làng. Làng đối với họ là một khái niệm thiêng liêng cho nên người nông dân bám làng mà sinh sống. Vận mệnh của họ gắn chặt với vận mệnh của 23
- làng, do vậy không có nhiều cơ hội tiếp xúc với thế giới bên ngoài cho nên tầm nhận thức, tư duy chỉ gói gọn sau cổng làng, ít người đã vượt khỏi ranh giới ấy. Vì vậy, phần lớn người dân mang tính cục bộ địa phương. Hơn nữa, nền kinh tế nước ta có giai đoạn theo chế độ bao cấp với chủ trương công hữu tất cả của cải xã hội. Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý, phân phối theo tem phiếu. Đây là mảnh đất màu mỡ cho tính tập thể bình, tư tưởng bình quân trỗi dậy. Nó dẫn tới việc ỷ lại, trông chờ vào người khác, người nông dân luôn bị động, chậm trễ. Vì vậy, nó hạn chế sự phát triển của nông thôn, nông nghiệp và đời sống người nông dân. C. Mác sớm đã nhìn ra tính chất này “Tiểu nông là một khối quần chúng đông đảo mà tất cả các thành viên đều sống trong một hoàn cảnh như nhau, nhưng lại không nằm trong mối quan hệ nhiều mặt với nhau. Phương thức sản xuất của họ không làm cho họ liên hệ với nhau mà lại làm cho họ cô lập với nhau” [6, 264]. Trong giai đoạn hiện nay, người nông dân cũng đã có nhiều thay đổi về phương thức sinh hoạt cũng như lối sống. Song, do ảnh hưởng của phương thức sản xuất nông nghiệp nên tính cào bằng, cục bộ vẫn còn tồn tại chưa khắc phục được triệt để hoàn toàn. 1.2. Khái quát về điều kiện địa tự nhiên, kinh tế, xã hội và đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên 1.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội Đông Yên là một xã thuộc phía Tây huyện Quốc Oai cách Thị trấn Quốc Oai 6 km, cách trung tâm thành phố Hà Nội 30km về phía Tây. Hiện nay xã có bốn thôn Đông Hạ, Đông Thượng, Yên Thái, Việt Yên. Địa hình xã Đông yên khá phức tạp nằm trong vùng bán sơn địa, đồng ruộng xen lẫn gò đồi. Đây là vùng tiếp giáp giữa trung du và đồng bằng cho nên có sự chênh lệch độ cao rất lớn. Cao độ giảm dần từ Tây ắc xuống Đông Nam. Phía ắc Đông Yên giáp với xã Hòa Thạch cùng huyện Quốc Oai. Phía Nam giáp với xã Thủy Xuân Tiên và thị trấn Xuân Mai thuộc huyện Chương Mỹ. Phía Tây giáp với xã Hòa Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa ình. Phía Đông giáp với xã Cấn Hữu, cùng huyện Quốc Oai và xã Đông Sơn thuộc huyện Chương Mỹ. 24
- Đông Yên được bao bọc bởi hệ thống đường bộ và đường sông. Phía nam là con đường quốc lộ 6A - con đường huyết mạch nối từ thủ đô Hà Nội lên các tỉnh tây bắc tổ quốc. Phía Tây là quốc lộ 21A con đường chạy từ Xuân Mai lên ngã ba Hòa Lạc. ên trong đường 21A là rừng Ngang, núi Voi, núi Vua à. Phía Đông là hạ lưu con sông Tích Giang- phát nguyên từ Ba Vì chảy tiếp đên Tân Trượng rồi nối với sông Bùi. Nhờ vị trí địa lý ấy Đông Yên trở thành những tuyến giao thông huyết mạch, có vị trí trọng yếu về phòng thủ và chiến đấu trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc đồng thời mang tầm chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của thủ đô Hà Nội và của đất nước. Cũng nhờ đó người dân có nhiều cơ hội giao lưu kinh tế- văn hóa- xã hội với các địa phương trong và ngoài huyện. Những điều kiện tự nhiên như vậy đã mang đến cho Đông Yên một vẻ đẹp tự nhiên hài hòa giữa đất trời rộng lớn, vừa có núi vừa có sông. Diện tích xã Đông Yên hiện nay khoảng 10.787,8 km2 trong đó đất canh tác có 2.338 mẫu ắc ộ nằm ở 30 quả đồi khác nhau. Kể từ khi thành lập xã ( 7-1948) bình quân diện tích đất canh tác gần 7 sào ắc ộ/ người. Đến năm 2011, hiện trạng các loại đất của xã như sau: + Đất nông nghiệp: 790,24 ha (chiếm 70,63% tổng diện tích đất tự nhiên toàn xã). + Đất phi nông nghiệp (không bao gồm đất ở): 325,77 ha (chiếm 29,12% diện tích đất tự nhiên) + Đất ở nông thôn: 209,95ha (chiếm 18,77% diện tích đất tự nhiên) Dân số toàn xã Đông Yên kể từ khi thành lập năm 1948 là 3380 người, đến năm 2018 là 13,786 người phân bố ở bốn thôn với mật độ 918 người/km2, đều thuộc dân tộc Kinh. Hiện nay, cơ cấu việc làm của người dân rất đa dạng. Có 75% lao động trong nông lâm ngư nghiệp, 14% lao động trong công nghiệp, 11% lao động trong thương mại- dịch vụ, hành chính sự nghiệp. Lao động qua đào tạo chiếm 30% chủ yếu qua đào tạo nghề ngắn ngày. Đến năm 2018, số hộ nghèo của xã còn 16 hộ chiếm 0,43% tổng số hộ dân, hộ cận nghèo là 205, chiếm 5,67%. 25
- Cơ cấu việc làm của người nông dân xã Đông Yên dần chuyển hướng từ nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp, thủ công nghiệp và dịch vụ. Hiện nay, được phân chia thành các nhóm xã hội như: + Nhóm nông dân nhận ruộng khoán (ruộng, ao, đầm, ) và sản xuất nông nghiệp thuần túy + Nhóm nông dân nhận ruộng khoán (ruộng, ao, đầm, )và kết hợp sản xuất nông nghiệp với các hình thức tiểu- thủ công nghiệp, dịch vụ hay lao động làm thuê trong và ngoài địa phương + Nhóm nông dân nhận ruộng khoán (ruộng, ao, đầm, ) và thuê thêm ruộng khoán để sản xuất- kinh doanh nông nghiệp dưới hình thức trang trại hoặc gia trại bằng lao động gia đình hoặc lao động thuê ngoài + Nhóm nông dân chuyên làm dịch vụ, + Nhóm nông dân không có ruộng (do cho thuê, cầm cố, bán hoặc những gia đình trẻ mới tách hộ, phải làm thuê trong nông nghiệp và tại địa phương hay trong các khu công nghiệp ( làm người giúp việc ở đô thị, công nhân ở các cơ sở công nghiệp, dịch vụ trong nước, các công ty nước ngoài trên địa bàn huyện, tỉnh lân cận, ) Như vậy, trong lực lượng nông dân xã Đông Yên đã hình thành và phát triển những người lao động làm thuê, chủ sản xuất kinh doanh hộ gia đình (trang trại, gia trại), kinh tế tư nhân và kinh tế hợp tác kiểu mới. Các nhóm nông dân sản xuất hàng hóa nông nghiệp, nông dân- lao động tiểu, thủ công nghiệp, nông dân- công nghiệp, nông dân- dịch vụ, ngày càng trở nên phổ biến. Họ không còn lao động thuần túy bằng sức người mà còn có sự hỗ trợ đắc lực của máy cơ giới, điện, sản phẩm công nghệ, ở các mức độ khác nhau. Hầu như không có sự phân định rạch ròi người nông dân thuộc nhóm nhất định nào, để đảm bảo nhu cầu ngày càng cao của mình họ trở nên năng động, sáng tạo hơn. Một người nông dân có thể vừa canh tác trên lĩnh vực nông nghiệp, vừa lao động trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, có thể vừa 26
- kinh doanh, dịch vụ, Tính mềm dẻo, uyển chuyển nhanh chóng thích nghi với điều kiện mới là điểm sáng trong tính cách của những người làm nông nghiệp. Đông Yên nằm trong khu vực tiểu Đồng bằng Bắc Bộ và chịu ảnh hưởng của tiểu vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Một năm có bốn mùa xuân, hè, thu, đông tuy nhiên thời tiết phân thành hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa hè nóng ẩm mưa nhiều kéo dài từ khoảng tháng 4 đến tháng 10. Mùa đông lạnh, khô hanh thường kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình trong năm là 23℃ cao nhất là 38℃ - 40℃, thấp nhất 9℃ - 13℃. Nhiệt độ trung bình cao nhất trong năm khoảng tháng 5 - 6 , thấp nhất là vào tháng 12 - 1. Lượng mưa phân bố không đều theo các tháng trong năm chủ yếu tập trung từ tháng 5 đến tháng 10 chiếm tới 60% - 70%. Lượng mưa trung bình hàng năm 1500 - 1800mm. Lượng mưa lớn đảm bảo cung cấp nước tưới dồi dào cho các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi nông nghiệp. Tuy nhiên, do ở gần sông, diện tích ao hồ lớn mùa mưa bão thường gây ngập úng, mùa đông thời tiết hanh khô kéo dài, lượng mưa ít, nước ở sông, ao hồ đều cạn ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống của người dân. Đông Yên chịu ảnh hưởng của hai hướng gió chính: gió Đông bắc thổi vào mùa lạnh và gió Đông Nam thổi vào mùa nóng. Điều kiện khí hậu cho phép người nông dân xã Đông Yên có thể canh tác 2 vụ/ năm. Vụ đông xuân (vụ chiêm) kéo dài từ tháng 1 đến tháng 5 và vụ hè thu (vụ mùa) kéo dài từ tháng 5 đến 8 hằng năm. Với điều kiện địa tự nhiên thuận lợi cho phát triển các ngành trồng trọt, chăn nuôi cho nên nhân dân xã Đông Yên sản xuất nông nghiệp là chính. Ngoài trồng lúa nước người dân trồng thêm nhiều loại cây hoa màu khác như lạc, sắn, ngô, khoai lang, khoai tây, củ từ, và trồng thêm rau sạch vừa tận dụng khai thác quỹ đất vừa để cung cấp lương thực cho gia đình và vật nuôi. Vườn đồi chiếm diện tích lớn, đất đồi thích hợp trồng các loại cây ăn quả như mít, bưởi, thị, đặc biệt khi nói đến Đông yên người ta sẽ nhớ đến câu: “ Chè Yên Thái - Gái Đông La”. Vùng gò đồi ở xã Đông Yên người ta hay trồng 27
- thêm chè tươi (trà xanh) nhưng chỉ có chè trồng ở đất Yên Thái là ngon nhất. Câu ví có vế sau là Gái Đông La - chỉ những người con gái ở vùng Đông Hạ - một làng thuộc xã Đông Yên là “ Những người thắt đáy lưng ong- Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con” vừa đảm đang khéo léo, lại cần cù chịu thương chịu khó. Do đặc điểm địa hình đa dạng ở xã Đông Yên mà các giống vật nuôi cũng hết sức phong phú. Các gò đồi xen kẽ ruộng đồng rộng lớn thảm thực vật trù phú thích hợp để nuôi gà, trâu, bò, lợn, Do ở gần sông hơn nữa có nhiều vùng trũng, ruộng sâu tạo điều kiện tốt để nuôi trồng thủy - hải sản nước ngọt, hệ thống sông nước, ao, hồ ở xã Đông Yên vô cùng đa dạng, khí hậu thích hợp cho các loài cá, ếch, ốc, trai, hến, ngao sinh sống và phát triển. Dựa trên điều kiện địa tự nhiên như vậy, người nông dân tại xã Đông Yên dần mở rộng quy mô chăn nuôi, trồng trọt. Kết hợp mô hình kinh tế vườn – ao – chuồng nhằm khai thác hết thế mạnh về địa lý, thảm thực vật, điều kiện khí hậu ở địa phương. Đặc biệt người nông dân đã thay đổi tư duy trong làm kinh tế nông nghiệp, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống của chính mình. Những năm gần đây hệ thống đường, trường, trạm được các cấp lãnh đạo quan tâm, nâng cấp ngày một khang trang hơn, trong xã có một cơ sở y tế phục vụ khám chữa bệnh cho bà con trong và ngoài xã với đội ngũ cán bộ ngày càng chuyên nghiệp, chu đáo. Hằng năm vẫn thường tổ chức tiêm vắc xin, uống vitamin A cho trẻ nhỏ và cho phụ nữ mang thai, khám bệnh miễn phí cho người già. Kết hợp cùng sở y tế và bệnh viện huyện mở đợt khám chữa bệnh miễn phí cho bà con nhân dân, Hiện nay trong xã có 4 trường mẫu giáo nằm ở bốn thôn với cơ sở vật chất tiện nghi, hiện đại, đầy đủ, 4 trường tiểu học, 1 trường Trung học cơ sở. Năm 2017 trường Trung học cơ sở Đông Yên vinh dự đón nhận danh hiệu trường đạt chuẩn Quốc gia của bộ giáo dục và đào tạo thành phố Hà Nội. Nhắc đến quê hương Đông Yên là nhắc đến mảnh đất anh hùng, trượng nghĩa. Qua tổng kết năm 1995 tổng người tham gia cách mạng ở xã Đông Yên là 2.361 người trong đó có 239 liệt sỹ, riêng liệt sỹ dưới 25 tuổi là 146 người. 28
- Những sự hy sinh thầm lặng của ông cha nhắc nhở con cháu Đông Yên phải nhớ lấy đạo lý “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu Quốc Đông Yên đã góp 10.000 tấn lương thực, 109.648 kg thịt lợn, 7.504kg cá, 19.264 quả trứng, 10.324 kg rau xanh, 80.000 ngày công phục vụ bộ đội đứng chân trên địa bàn và tham gia hàng ngàn ngày công làm mới tu sửa, nâng cấp đường quân sự [51; 56]. Đông Yên được xác định là căn cứ địa của huyện Quốc Oai suốt những năm kháng chiến cứu quốc. Năm 1997, Chủ tịch nước tặng thưởng nhân dân và cán bộ Đông Yên Huân chương Kháng chiến hạng Nhất. Năm 1998 Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang Đông Yên vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu “ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Trong thời chiến hay thời bình nhân dân Đông Yên đều cùng nhân dân cả nước chung tay chung sức trên mọi mặt trận. Với những nỗ lực không ngừng của Đảng bộ và nhân dân Đông Yên hiện nay cả bốn thôn thuộc xã đều đã được cấp giấy công nhận làng văn hóa của Ủy ban nhân dân Huyện Quốc Oai. 1.2.2. Đặc điểm về đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân ở xã Đông Yên Thứ nhất, phương thức lao động nông nghiệp, dựa trên kinh nghiệm là chính khiến đời sống khó khăn, từ đó hình thành lối sống giản dị, tiết kiệm, cần cù, chăm chỉ ở người nông dân xã Đông Yên. Người nông dân ở xã Đông yên cũng giống như người nông dân Việt Nam nói chung có tính thuần nông, họ chủ yếu trồng trọt và chăn nuôi để sống. Cây lúa nước, cây ngô, cây khoai, cây sắn là các cây lương thực được trồng chủ yếu ở vùng này. Trong tư duy của người nông dân họ cho rằng “có thực mới vực được đạo”, nên công việc trồng trọt chăn nuôi sẽ cho con người ăn no, mặc ấm và sinh tồn được. Vì vậy, họ đề cao nghề nông hơn bất kỳ nghề nào khác. Trong xã hội nông thôn truyền thống trước đổi mới, tư tưởng “sĩ, nông, công, thương” đã vô tình tạo ra rào cản cho sự phát triển đời sống người nông dân Đông Yên nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung. Thêm 29
- nữa, kỹ thuật canh tác lạc hậu, dựa trên kinh nghiệm là chính dẫn đến năng suất mùa màng kém, quanh năm suốt tháng phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” vẫn chưa đủ sống. Lối sống khép kín của làng cộng với thương nghiệp chưa có cơ hội phát triển, chưa có sự trao đổi, lưu thông rộng rãi là yếu tố kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình kinh tế tập trung, hình thức thành lập hợp tác xã nông nghiệp đã đem đến một cách tổ chức quản lý mới. Tuy nhiên, hình thức sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất cùng với chủ trương công hữu tất cả tài sản của xã hội, phân chia thành quả lao động dựa trên hình thức tem phiếu dẫn đến tình trạng “cha chung không ai khóc”, “ lỗ nhà nước bù, lãi nhà nước thu”. Tình hình lao động, sản xuất của người nông dân Đông Yên trong thời đoạn ấy chủ yếu phụ thuộc vào tiếng mõ, người làm nhiều hay làm ít, chăm chỉ hay lười biếng đứng ngoài đồng hết ngày là được tính công. Tình trạng ấy không những tạo ra mâu thuẫn trong mối quan hệ của những người nông dân mà còn khiến cho nền nông nghiệp địa phương không có động lực để phát triển. Người dân cày khổ cực vẫn khổ cực, nghèo vẫn hoàn nghèo. Theo quy luật con người nghèo thường dẫn đến hèn, tâm lý thụ động, phụ thuộc, sùng bái tự nhiên hình thành. Họ không có “gan” thay đổi, sợ đi theo hướng mới sẽ thất bại. Lao động nông nghiệp mang tính cá thể, lạc hậu khép kín, hơn nữa đã trải qua một thời đoạn dài bị áp bức, bóc lột nên đời sống người nông dân nhìn chung là khó khăn, do vậy, tiết kiệm, giản dị trong tiêu dùng là điểm đặc biệt của người nông dân Đông Yên. Vì cần phải “ăn bữa nay, lo bữa mai” nên tính cần kiệm ăn sâu vào nếp sống, họ nhắc nhở nhau, dặn dò con cháu “năng nhặt, chặt bị” nhưng không được trở thành bần tiện, sẵn sàng “nhường cơm sẻ áo” cho những hoàn cảnh khốn khó hơn mình. Tinh thần tiết kiệm của người nông dân không chỉ trong phương diện ăn uống mà còn thể hiện trong cách mặc, ở, Hình ảnh ngôi nhà đất, sau này là nhà sàn hay mái nhà ngói, sân gạch với đồ dùng đơn sơ chủ yếu làm bằng tre làm nên nét mộc mạc, đơn sơ trong đời sống của họ. Hiện nay, sản xuất nông nghiệp cũng như đời sống của 30
- người nông dân đã và đang dần thay đổi, hiện đại hơn trước rất nhiều nhưng tính giản dị, cần cù tiết kiệm đã ăn sâu vào lối sống, nếp sống của người nông dân xã Đông Yên. Phương thức lao động nông nghiệp dựa trên kinh nghiệm là chính phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, khí hậu. Do vậy, người nông dân xã Đông Yên phải làm việc rất vất vả. Lâu dần hình thành nên đức tính cần cù, chăm chỉ trong lao động. Nó được thể hiện ra là sự chăm sóc kỹ lưỡng các giống con, giống cây kể từ khi còn là một hạt giống cho đến khi thu hoạch cho năng suất cao. Trên tất cả, những người nông dân Đông Yên hiểu rằng, chỉ có chăm chỉ lao động mới có thể tạo ra nhiều của cải cho xã hội. Chỉ có lao động mới giúp con người có những bước tiến dài đến xã hội văn minh, hiện đại. Thứ hai, người nông dân xã Đông Yên có tinh thần cố kết cộng đồng cao có lối sống trọng đạo đức, danh dự, tình nghĩa. Tinh thần cố kết cộng đồng của người nông dân xã Đông Yên được thể hiện trong tính cộng cư, cộng cảm, cộng hữu, cộng mệnh trong phạm vi mỗi làng. Cùng sinh sống trong một không gian văn hóa chung là làng, người dân chịu sự chi phối của luật lệ, hương ước trong làng. Phương diện cộng cư này hình thành lợi ích chung nhất định của các nhóm dân cư. Đòi hỏi mọi người phải có ý thức gắn kết với nhau để bảo vệ văn hóa làng, bảo vệ các giá trị văn hóa, lễ hội, phong tục truyền thống của làng mình. ởi vì, chính những giá trị đó tạo nên điểm khác biệt trong đời sống văn hóa, cốt cách con người giữa các làng với nhau. Tính cộng cảm của người nông dân được thể hiện ra là việc gắn kết mọi người trong làng với nhau. Họ cùng nhau tổ chức các hoạt động tế lễ, hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Dựa trên điểm chung về đời sống tín ngưỡng tôn giáo, nhân dân cùng nhau chứng kiến, tự hào hòa vào không khí thiêng liêng, hứng khởi của các giá trị văn hóa và tâm linh. Khi đó, cách biệt xã hội giữa các cá nhân thường ngày dường như bị xóa nhòa, mọi người đồng 31
- cảm với nhau, góp phần xây dựng tinh thần đoàn kết, tính cố kết cộng đồng cao. Tính cộng cảm còn được thể hiện qua những sinh hoạt chung trong đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên. ằng tinh thần “nhường cơm xẻ áo” yêu thương đùm bọc lẫn nhau, tình nghĩa thủy chung, ăn sâu vào ý thức, trở thành lẽ sống của người nông dân nơi đây. Do điều kiện sinh sống cùng với sự quy định chặt chẽ của lệ làng, các gia đình dựa vào nhau mà sống sẵn sàng “chia ngọt sẻ bùi” “tối lửa tắt đèn có nhau”. Giữa các gia đình trong làng có mối quan hệ thân tộc chằng chịt, họ sống với nhau bằng tình nghĩa thủy chung. Tính cộng hữu là một trong bốn nhân tố làm bền vững tinh thần cố kết cộng đồng của người nông dân. “Cộng hữu” được hiểu là sự gắn kết về sở hữu tài nguyên và hợp tác đôi bên cùng có lợi. Nó được thể hiện ra bằng các hoạt động đóng góp sức người, sức của để cùng xây dựng các cơ sở văn hóa chung như đình, chùa hoặc tổ chức lễ hội, thực hành tôn giáo góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần. Đổi lại, mọi người dân đều cảm thấy vinh dự khi được đóng góp cho hoạt động sinh hoạt cộng đồng chung. Họ thông qua lễ hội giao tiếp với đấng siêu nhiên, các vị thần cầu cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu, đời sống xã hội ổn định tiếp đó là được thỏa mãn nhu cầu vui chơi, thưởng ngoạn gắn kết cá nhân với cộng đồng sau những ngày làm việc vất vả. Nếu như, trong đời sống thường ngày người nông dân có tranh chấp trong làm ăn, ruộng đồng ở mức độ khác nhau thì khi tham gia lễ hội điều này không còn tồn tại. Mặt khác, tính cộng hữu cho phép người nông dân hợp tác trong hoạt động sản xuất nông nghiệp góp phần tạo nên năng suất và chất lượng nông sản cao hơn, thu lợi nhuận nhiều hơn, đời sống vật chất được no đủ hơn. Từ lâu trong lịch sử, người nông dân Đông Yên nảy sinh nhu cầu cùng làm, cùng hưởng, bởi lẽ, phương thức sản xuất nông nghiệp dựa trên hoạt động trồng cây lúa nước là chính, kiến thức trồng trọt, chăn nuôi dựa trên kinh nghiệm. Dưới những tác động của thời tiết, khí hậu thay đổi thất thường khiến cho nghề làm nông gặp không ít khó khăn. Tất yếu dẫn đến các công việc chung như trị thủy, đắp đê, tát nước, đòi hỏi phải có sức mạnh của đông 32
- đảo người dân. Vì vậy, tính cố kết cộng đồng bắt đầu hình thành và theo thời gian ăn sâu vào lối sống của người nông dân nói chung và người nông dân xã Đông Yên nói riêng. Trong lịch sử, tính cộng mệnh của người nông dân Đông Yên được biểu hiện thành tinh thần đoàn kết dân tộc, cùng nhau chống giặc ngoại xâm. Cùng khai phá đất hoang, đất rừng để lập ấp, xây dựng quê hương, sản xuất nông nghiệp. Ngày nay, đó là sự đồng lòng của toàn thể bà con nông dân trong công cuộc đưa đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về nông dân, nông nghiệp, nông thôn vào hiện thực. Gắn vận mệnh của mình với vận mệnh của nền nông nghiệp nước nhà. Ngoài ra, tính cộng mệnh của người nông dân xã Đông Yên còn được thể hiện trong đời sống tôn giáo, tín ngưỡng. Họ có niềm tin tôn giáo giống nhau, đều tin vào đạo Phật, thống nhất trong cách nghĩ, cách sống. Khi xảy ra biến cố người nông dân cho rằng đó là số mệnh chung. “Mắt toét là do hướng đình - cả làng mắt toét chứ mình em đâu”. Sự phồn vinh của làng ảnh hưởng đến từng cá nhân trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đời sống tôn giáo, tín ngưỡng. Do vậy, đối với người nông dân, khái niệm làng phần nào nói lên tính cố kết bền chặt của những cư dân sinh sống trong khoảng không gian đó. ên cạnh tinh thần cố kết cộng đồng, người nông dân xã Đông Yên là những người có lối sống trọng đạo đức, danh dự, tình nghĩa. Xuất phát từ truyền thống đoàn kết cộng đồng, sự thiếu thốn về vật chất, hạn chế về phương tiện trong cuộc sống sinh hoạt, nên những lúc khó khăn, hoạn nạn, ốm đau, lúc công to việc lớn như lấy vợ, làm nhà , người nông dân thường nhờ vào sự giúp đỡ của hàng xóm, láng giềng “bán anh em xa mua láng giềng gần”. Vì vậy, họ có thói quen xử lý mọi vấn đề bằng tình cảm, coi trọng tình cảm trong các mối quan hệ xã hội. Dưới các hình thức và mức độ khác nhau, tình cảm thâm nhập vào toàn bộ cuộc sống và hoạt động của người tiểu nông từ nhận thức tới hành động, từ đạo đức đến lối sống, từ phong cách đến tính cách. Họ quan niệm “một vạn cái lý không bằng một tí cái tình”, mọi vấn đề trong đời sống đều là kết quả của lối tư duy cảm tính. Tình cảm đó còn được 33
- thể hiện ở sự tôn trọng người cao tuổi , kính nể bậc hiền tài, coi trọng người có đạo đức, có học thức Người nông dân Đông Yên cũng luôn nhấn mạnh sự khoan dung giữa tình cảm yêu thương với nghĩa vụ con người. Sự gắn bó giữa tình và nghĩa đã tạo nên một lối ứng xử thuần hậu. Ở đó, người ta điều hoà được các quan hệ cá nhân và gia đình, lý trí và tình cảm, trách nhiệm và nghĩa vụ để tạo dựng một cuộc sống hài hoà và ổn định. Điều đó đã làm cân bằng cán cân xã hội, dù mọi vật xoay vần, tạo hóa biến chuyển khôn lường thì cuộc sống người nông dân ngàn đời nay vẫn tạo được cho mình sự bình yên, êm ả riêng có của nó. Sức mạnh của lối ứng xử tình nghĩa thể hiện rất rõ trong một khoảng trời rất riêng của mỗi con người - đó là gia đình. Song, chính những quan hệ và lối ứng xử bằng tình cảm, coi trọng tình cảm này lại nảy sinh tâm lý ngại va chạm, ngại đấu tranh cho lẽ phải, “dĩ hoà vi quý”, thiếu tinh thần dân chủ ở người nông dân. Thứ ba, do đặc điểm sản xuất nông nghiệp, đời sống người nông dân xã Đông Yên có hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng vô cùng phong phú. Nằm trong khu vực đồng bằng sông Hồng, người nông dân xã Đông Yên sinh sống bằng nghề trồng lúa nước là chính. Do vậy, đời sống tín ngưỡng tôn giáo vừa mang đặc trưng của đời sống nông nghiệp vừa thể hiện tín ngưỡng dân gian phong phú. Quá trình sản xuất nông nghiệp dựa trên kinh nghiệm là chính, phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên “Trông trời, trông đất, trông mây - trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm”. Trước những biến đổi khó lường của tự nhiên, họ sinh ra sợ hãi do đó tín ngưỡng thờ thần sấm, thần sét, thần gió, thần mưa, thần cây, thần núi, thần sông với mong muốn mưa thuận gió hòa. Hơn nữa, người nông dân tin rằng mọi vật đều có linh hồn, đặc biệt là các sự vật liên quan đến nông nghiệp. Cho nên, họ thờ với mục đích là mong mùa màng bội thu, đời sống ấm no hạnh phúc. ên cạnh tín ngưỡng thờ cúng tự nhiên, tục thờ tổ tiên và cúng giỗ những người đã mất trong gia đình là một phong tục đã có từ lâu đời ở Đông Yên. Để tưởng nhớ công lao của người đã khuất, người ta chọn vị trí giữa nhà 34
- hoặc vị trí trang trọng nhất trong ngôi nhà để đặt bàn thờ. Mồng một, ngày rằm, tết nhất, cưới hỏi hay nhà có việc, người ta đều thắp hương, làm cỗ dâng lên các vị thần linh và tổ tiên trong nhà với mong muốn được che chở, phù hộ. ên cạnh việc cúng giỗ tổ tiên, dòng họ, mỗi làng ở xã Đông Yên đều có đình, chùa, miếu. Trong đó, đình Đông Hạ thờ Đặng Long Uyên một vị tướng trong đời vua Hùng thứ 18 và Mai Trang công chúa – vị nữ tướng của Hai à Trưng. Đình Yên Thái thờ Đặng Công Oánh - một vị tướng nổi tiếng với đức độ và tài thao lược để thu phục quân thù. Đình Đông Thượng thờ tướng quân Đặng Long Uyên. Đình Thượng làng Việt Yên thờ Tản Viên Sơn Thánh tam vị quốc chúa Đại Vương, đình Hạ thờ Mai Trang công chúa. Đặc biệt, gác chùa Việt Yên với kiến trúc hai tầng, tám mái là gác chuông đẹp nhất nhì huyện Quốc Oai. Hiện nay, các đình chùa ở xã Đông Yên đều được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa và di sản văn hóa lịch sử. Tiếp nối truyền thống từ lâu đời của quê cha, đất tổ, đều đặn 5 năm một lần các làng thay nhau tổ chức lễ hội. Mỗi hội đình làng đều có hai phần là phần lễ và phần hội. Phần lễ bao gồm lễ, tế, rước chủ yếu thể hiện tấm lòng thành kính và biết ơn của nhân dân đối với các vị Thành hoàng làng, các vị anh hùng dân tộc. Phần hội gồm những hoạt động trò chơi dân gian như đánh cờ người, kéo co, vật, thổi cơm thi vừa để thử sức khỏe, tài năng trí tuệ của người chơi vừa là cách thức giải lao sau mỗi mùa vụ vất vả của bà con nhân dân. Song song với đời sống tín ngưỡng, đời sống tôn giáo của nhân dân Đông Yên tuy chủ yếu theo đạo Phật và Công giáo nhưng các hoạt sinh hoạt tôn giáo không kém phần đa dạng, phong phú được thể hiện trong lễ phật đản, lễ giáng sinh, Cuộc sống của họ không vì thế mà xảy ra xung đột giữa bên đạo bên lương, cả hai bên đều sống với nhau hòa hợp, đùm bọc, giúp đỡ nhau. Đặc biệt, với tính cách dễ thích nghi, lòng bao dung, rộng lượng nên người nông dân nhanh chóng hòa hợp giữa Nho – Phật – Đạo, các trường phái, tư tưởng tôn giáo khác biệt. 35
- Nhìn chung, những tính cách của người làm nông nghiệp đã góp phần hình thành nên đời sống tín ngưỡng dân gian vô cùng phong phú của người nông dân xã Đông Yên. Họ không phải là những người cuồng tín nhưng đa tín, có thể thấy hoạt động tôn giáo tín ngưỡng phản ánh đúng đặc trưng của đời sống nông nghiệp. Mặt khác, nó góp phần làm cho đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân ngày càng phong phú hơn. Thứ tư, do nằm trong vùng đất ngàn năm văn hiến nên đời sống tinh thần người nông dân xã Đông Yên cũng rất phong phú, đa dạng bởi các lễ hội. ên cạnh sự đa dạng trong hoạt động tôn giáo tín ngưỡng, đời sống tinh thần người nông dân còn được làm phong phú thêm bởi các lễ hội truyền thống và hiện đại. Có thể nói lễ hội là môi trường thuận lợi cho các yếu tố văn hóa truyền thống được bổ sung, hoàn thiện, vận hành cùng tiến trình lịch sử của mỗi địa phương trong lịch sử phát triển chung của đất nước. Đó chính là tinh hoa được đúc rút, kiểm chứng, hoàn thiện trong suốt chuỗi ngày dài từ quá khứ đến hiện tại của xã Đông Yên. Lễ hội được tổ chức ở các làng vô cùng lôi cuốn, hấp dẫn, nó trở thành nhu cầu, khát vọng của người nông dân cần được đáp ứng và thỏa nguyện dù cho ở thời đại nào. Hơn năm mươi lễ hội được tổ chức hàng năm như làm rạng rỡ thêm nét văn hóa truyền thống của mảnh đất kinh kỳ. Thường lễ hội gắn với đời sống tôn giáo tín ngưỡng vì nó mang tính thiêng. Ngày nay, dưới những tác động trong quá trình đổi mới, các lễ hội hiện đại xuất hiện nhiều mang nội dung và hình thức rất phong phú. Điểm khác biệt giữa lễ hội truyền thống so với lễ hội hiện đại nằm ở chỗ, trong lễ hội truyền thống phần lễ sẽ có thời lượng nhiều hơn, đầu tư hơn phần hội. Các lễ hội cổ truyền ở xã Đông Yên tiêu biểu là hội làng, lễ hội tịch điền, lễ cúng cơm mới, lễ giết sâu bọ, trong lễ hội tính cộng cảm được bộc lộ mạnh mẽ. Họ cùng hưởng thụ văn hóa, cùng sáng tạo văn hóa thông qua việc tham gia lễ tế, rước và cùng chơi các trò chơi tập thể. Nó thể hiện sự ôn lại, tiếp thu các 36
- giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời cũng sản sinh ra các giá trị văn hóa mới phù hợp với thời đại. ên cạnh đó, các lễ hội mới xuất hiện như festival nông nghiệp, lễ hội nông sản, lễ hội trái cây, lễ hội kỷ niệm ngày đón làng văn hóa, Chúng được phân biệt với các lễ hội truyền thống ở chỗ thời lượng và kinh phí đầu tư cho phần hội nhiều hơn phần lễ. Tạo không khí sôi động, mới mẻ thu hút sự quan tâm của thế hệ trẻ. Đó cũng là cơ hội để cho người nông dân xã Đông Yên quảng bá ẩm thực và các sản phẩm nông nghiệp, đặc sản vùng miền, giới thiệu nét văn hóa truyền thống, tính cách, con người của quê hương cho du khách thập phương. Nhân đó, tạo thiện cảm và mở rộng các mối quan hệ. Tóm lại, các lễ hội truyền thống hay các lễ hội hiện đại đều sinh ra từ đời sống nông nghiệp của người nông dân. Do vậy, gìn giữ các lễ hội cổ truyền và tổ chức các lễ hội hiện đại khoa học, hợp lí gắn với nhu cầu chân chính của nhân dân là một trong những nhiệm vụ để xây dựng và phát huy yếu tố văn hóa. Hơn nữa, cần có chính sách, chủ trương để xây dựng và phát triển đời sống nông dân, xác định đúng đắn vị trí, vai trò của người nông dân, xây dựng đời sống văn hóa đặc biệt là đời sống văn hóa tinh thần cho người nông dân. Khi có chỗ dựa tinh thần vững chắc người nông dân sẽ an tâm thực hiện các nhiệm vụ của mình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Thứ năm, người nông dân xã Đông Yên sản xuất nông nghiệp dựa trên kinh nghiệm là chính, mang tư tưởng bình quân, ngại đổi mới, tính tùy tiện và chưa có thói quen chấp hành pháp luật. Sản xuất nông nghiệp của người nông dân xã Đông Yên dựa trên nền tảng kinh tế hộ gia đình là chính, họ trồng trọt chăn nuôi từ kinh nghiệm “cha truyền con nối” đời này qua đời khác. Trên mảnh đất nhỏ bé của người nông dân là cả một bầu trời riêng đã cột chặt họ trong những khuôn khổ chật hẹp. Từ đời cha đến đời con, “họ cày cấy trên mảnh đất của mình hoàn toàn theo lối thô sơ cũ của ông cha họ và chống lại mọi điều mới mẻ với sự ngoan cố vốn có của người nô lệ của tập quán trải qua bao nhiêu đời kiếp vẫn không 37
- thay đổi”[5; 340]. Chính vì vậy, theo thời gian, họ càng trở nên bảo thủ ghê gớm. Hậu quả cuối cùng là tính bảo thủ đã đưa người nông dân đến chỗ lạc hậu, thụt lùi quá xa so với bước tiến chung của cả xã hội. Người nông dân sống và làm việc theo những tập quán cổ truyền, bám chắc vào cái cũ mà không dám thử nghiệm những cái mới. Họ bằng lòng với cuộc sống đạm bạc, bình ổn, tạm đủ, ít quan tâm và thậm chí không muốn quan tâm đến những cái mới diễn ra ngoài phạm vi hoạt động nhỏ hẹp của họ. Mặt khác, phương pháp canh tác cổ truyền được kế thừa từ đời này sang đời khác khiến năng suất lao động thấp, sản phẩm chỉ đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của bản thân, gia đình và cộng đồng nhỏ hẹp của người nông dân. Điều đó đã chi phối các mối quan hệ của họ, làm cho các mối quan hệ này chỉ dừng lại trong phạm vi gia đình, họ hàng, làng xóm. Thêm vào đó, sự kém phát triển của cơ sở hạ tầng và phương tiện giao thông cùng với cuộc sống bấp bênh, nghèo khó đã kìm hãm việc mở rộng mối quan hệ của họ. Tất cả những điều kiện góp phần làm nảy sinh và nuôi dưỡng tư tưởng bình quân của người tiểu nông. Xuất phát từ phương thức sản xuất của người nông dân có phần tự phát, với mục đích tự cung, tự cấp, tự túc, họ sản xuất cho mình, vì mình. Điều này tạo nên tính tuỳ tiện, thiếu kỷ luật, kỷ cương, chưa có thói quen sống và làm việc theo pháp luật của người nông dân nói chung. Họ vốn đề cao và sống theo “lệ làng”. Người dân trong làng chấp hành những quy định của “lệ làng” một cách tự nguyện và nghiêm túc. Họ sống theo lệ làng, theo tục lệ, lề thói, ít quen với pháp luật. Họ chỉ sợ lệ, sợ dư luận của làng, mà không sợ luật, thậm chí không tuân thủ pháp luật “phép vua thua lệ làng”. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng ý thức chấp hành, tôn trọng pháp luật của người dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước ta hiện nay. Tóm lại, do điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội tại xã Đông Yên nói riêng và của Việt Nam nói chung quy định nên đời sống nông nghiệp của người nông dân, là nhân tố làm thay đổi bộ mặt của nông thôn. Các đức tính cần cù chịu khó, tiết kiệm giản dị, nhanh nhạy, cố gắng nỗ lực của người nông dân hay lối sống trọng tình nghĩa, đạo đức và giàu lòng yêu 38
- nước, đã làm nên tính cách của người nông dân Việt Nam. Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước khi đưa ra chủ trương chính sách về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân cần phải gắn với hiện thực xã hội từng địa phương để tìm ra đường hướng phù hợp nhất. Không thể phủ nhận sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước các cấp chính quyền và đặc biệt là công lao của những người lao động mà kinh tế đất nước ngày một vững mạnh, đời sống người dân không chỉ có “ăn chắc, mặc bền” mà được “ăn no, mặc ấm, ở sang trọng”. Tuy nhiên, các hạn chế như tư tưởng bình quân, bảo thủ, ngại đổi mới, bị động và tinh thần chấp hành pháp luật chưa cao, ở một bộ phận người nông dân làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển chung của xã hội, suy đồi giá trị đạo đức, hao mòn văn hóa truyền thống lâu đời của dân tộc, làm giảm chất lượng đời sống vật chất, khiến cho đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân trở nên cằn cỗi. Đứng trước tình hình đó, nhiệm vụ trước mắt của Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền và nhân dân là tìm ra nguyên nhân, khắc phục hạn chế bằng các giải pháp cả về mặt nhận thức và hành động. Có như vậy, sự nghiệp CNH – HĐH đất nước với mau chóng thành công, trong điều kiện “nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh, hiện đại” sẽ là mảnh đất màu mỡ, vững chắc cho đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân thêm phong phú. 39
- CHƯƠNG 2. SỰ BIẾN ĐỔI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN XÃ ĐÔNG YÊN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP 2.1. Thực trạng sự biến đổi đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên hiện nay Người nông dân được trả lại đúng vị trí làm chủ tư liệu sản xuất của mình khi công cuộc đổi mới là Đảng lãnh đạo bắt đầu. Mốc đánh dấu sự biến đổi ấy là nghị quyết 10 của Bộ chính trị hay còn gọi là khoán 10 (4-1988) với nội dung cơ bản là giải phóng sức sản xuất nhằm khai thác hợp lý tiềm năng lao động, đất đai, tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, lấy hộ xã viên làm đơn vị kinh tế tự chủ. Sau khoán 10 là luật đất đai năm 1993 với nhiều chủ trương, chính sách hợp lý của Đảng và Nhà nước đã góp phần tạo ra chế độ sở hữu mới của người nông dân đối với tư liệu sản xuất nông nghiệp. Trên cơ sở được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ, bình đ ng với mọi thành phần kinh tế, các hộ nông dân được toàn quyền quyết định hoạt động sản xuất trên chính mảnh đất mình sở hữu. Họ tự tìm cách, lên kế hoạch, tính toán và chịu trách nhiệm đóng thuế cho Nhà nước. Sản phẩm được làm ra tiêu dùng hoặc bán ở đâu là do hộ nông dân tự quyết định, chính điều này đã làm nông dân Đông Yên trở nên tự chủ, năng động và có động lực để sản xuất hiệu quả hơn. Đó là kết quả tất yếu khi người nông dân được thực sự làm chủ tư liệu sản xuất của mình. Quá trình xây dựng nông thôn mới dưới tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, quá trình toàn cầu hóa, đã làm nên những nét đột phá trong đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người nông dân xã Đông Yên. Ngày nay, nông dân xã Đông Yên đang biến đổi theo xu hướng đa dạng về cơ cấu xã hội, giảm về số lượng và nâng cao về chất lượng. Năm 2012, nhằm thực hiện một trong số các tiêu chí của chương trình xây dựng nông 40
- thôn mới, công tác “dồn điền đổi thửa” nhanh chóng hoàn thành, ruộng đất được quy hoạch thành những diện tích lớn, giúp tiết kiệm thời gian, công sức di chuyển cho người dân. Hơn nữa, do tư duy làm kinh tế của họ đã thay đổi, một bộ phận đông đảo người nông dân phát triển mô hình vườn – ao – chuồng theo quy mô lớn nhỏ khác nhau. Kể từ đây, xuất hiện sự đan xen giữa bộ phận nông dân sản xuất hàng hóa với các hộ sản xuất thuần nông tự cung tự cấp; sự đan xen giữa các hộ nông dân tham gia hoạt động kinh tế hợp tác xã hoặc tổ hợp kiểu mới với các hộ nông dân tự chủ, sự đan xen giữa sản xuất cơ giới và lao động chân tay. Dựa trên nền tảng chuyển biến mạnh mẽ của tồn tại xã hội tất yếu sẽ dẫn đến sự biến đổi của ý thức xã hội. Cụ thể là trong điều kiện đời sống vật chất ngày càng no đủ thì tương ứng với nó đời sống văn hóa tinh thần ngày càng phong phú, nhu cầu thõa mãn tinh thần của họ ngày càng cao. Do đó, đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên dựa trên cái vỏ bọc mới của đời sống vật chất có sự biến đổi cơ bản trên 5 lĩnh vực sau: 2.1.1. Sự biến đổi trong nhận thức, tư tưởng Muốn phát triển kinh tế nông nghiệp, muốn nâng cao chất lượng đời sống văn hóa tinh thần cho người nông dân, trước hết phải thay đổi nhận thức của Đảng bộ, các cấp chính quyền và chính bản thân giai cấp nông dân. Bởi vì, nhận thức đúng sẽ dẫn tới hành động đúng, quá trình nhận thức nhanh chóng, kịp thời góp phần xây dựng hệ tư tưởng mới phù hợp với những biến đổi của thời đại. Đóng vai trò là gốc rễ cho mọi hành động, hoạt động nhận thức tư tưởng giữ vị trí quan trọng nhất đối với nhiệm vụ nâng cao chất lượng đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên. Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân xã Đông Yên năm 2018, lĩnh vực trồng trọt đạt 35 tỷ 800 triệu đồng, chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản đạt 186 tỷ 433 triệu đồng bằng 263,7% so với cùng kỳ. Những kết quả đạt được cho thấy sự nỗ lực của các cấp chính quyền trong việc thay đổi nhận thức, tư tưởng đưa ra các chính sách mới nhằm phát triển kinh tế tại địa phương. Trên 41
- cơ sở tiếp thu chủ trương Đảng và chính sách của Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn với quá trình CNH – HĐH, năm 2012 Đảng bộ và nhân dân Đông Yên cùng thực hiện công cuộc dồn điền đổi thửa, chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Đây cũng là một tiêu chí nằm trong chương trình xây dựng nông thôn mới. Theo đó, diện tích đất trồng trọt, canh tác của mỗi hộ gia đình được quy hoạch thành một đến hai mảnh lớn, hoàn toàn xóa bỏ tình trạng phân bố nhỏ lẻ, manh mún tạo điều kiện thuận lợi đưa máy móc công nghiệp vào sản xuất nông nghiệp. Nếu như trước đây, người nông dân chủ yếu cày cấy bằng sức người, sức trâu bò thì bây giờ máy cày, máy bừa, máy gặt lúa, máy phụt lúa, dần đảm nhiệm những công việc vất vả đó. Hệ thống chuồng trại chăn nuôi được tính toán kỹ lưỡng, lắp đặt máy làm mát, máy cấp nước, máy vệ sinh chuồng trại tự động thậm chí một số hộ gia đình đầu tư máy kiểm tra chất lượng dinh dưỡng trong đất trồng, trong thức ăn chăn nuôi đảm bảo chất lượng đầu ra theo tiêu chuẩn của ISO, vietGAP, Một số hộ gia đình chuyển đổi mục đích sử dụng đất, thay vì trồng lúa hết mảnh ruộng đó họ bắt tay vào làm kinh tế mới với mô hình vườn – ao - chuồng. Kết hợp giữa trồng trọt cây ăn quả với chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản nước ngọt đem lại lợi nhuận cao. Để hỗ trợ tốt nhất cho sản xuất kinh tế Đảng bộ và chính quyền địa phương đẩy nhanh tiến độ sửa sang, làm mới các công trình công cộng đặc biệt là hệ thống mương máng và giao thông nội đồng. Do địa hình ở xã Đông Yên chủ yếu là gò đồi cho nên không thể thiếu các kênh dẫn nước, trước đây do hạn chế kinh phí xây dựng người dân thường phải tát nước từ dưới ruộng sâu lên đến chín mười bậc nhưng bây giờ hệ thống mương máng đã được hoàn thiện đảm bảo nước tưới cho tất cả các diện tích trồng trọt. Bức tranh đồng ruộng tại xã Đông Yên hiện nay như được tô vẽ thêm bởi những con đường bê tông kiên cố vắt ngang dọc qua cánh đồng. Nếu như trước đây bà con nhân dân phải đi lại trên con đường đất, lầy lội vào mùa mưa và bụi bặm vào mùa khô thì hiện nay hơn 90% đường nội đồng được bê tông hóa, diện 42
- tích đất nông nghiệp gần hoặc sát đường cái, tạo điều kiện thuận lợi giúp người nông dân tập trung sản xuất, tiết kiệm thời gian và công sức di chuyển. Hơn nữa, năm 2017 Ủy ban nhân dân xã Đông Yên triển khai mở “phòng một cửa”. Nó cho phép tiếp nhận, nhanh chóng xử lý tất cả các yêu cầu của bà con nhân dân, thủ tục hành chính không rườm rà, không cần đợi lâu. Đặc biệt, đẩy nhanh tiến độ giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến sản xuất và tiêu thụ nông sản kích thích quá trình trao đổi, phân phối sản phẩm. Cho phép người nông dân mở rộng thị trường, liên kết làm ăn kinh tế với các cá nhân, tổ chức trong và ngoài địa phương. Những nỗ lực của Đảng bộ và chính quyền xã Đông Yên khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế ở địa phương nhanh chóng, bộ mặt nông thôn khoác lên một tấm áo mới. Cùng với đó là đời sống vật chất của bà con nhân dân tăng lên, tỉ lệ hộ nghèo giảm xuống. Bên cạnh chính sách phát triển kinh tế, các cấp chính quyền quan tâm hơn đến việc nâng cao chất lượng đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Công trình đình, chùa, miếu, nhà văn hóa, sân chơi thể thao, được sửa sang, xây mới phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của bà con nhân dân. Những năm gần đây, các câu lạc bộ múa, câu lạc bộ hát của hội phụ nữ và đoàn thanh niên bắt đầu hoạt động trở lại. Đảng ủy, chính quyền địa phương trực tiếp chỉ đạo, hỗ trợ kinh phí tổ chức liên hoan văn nghệ vào dịp tết trung thu, đêm giao thừa, các hoạt động vui chơi thể dục, thể thao tết nguyên đán, ở mỗi làng. Không chỉ có vậy, các câu lạc bộ thể thao như cầu lông, bóng đá, bóng chuyền, cũng được các cấp chính quyền, ban ngành đoàn thể hỗ trợ quỹ thành lập, duy trì hoạt động thường xuyên tổ chức các buổi giao hữu giữa các xã, huyện trên địa bàn. Như vậy, nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền tại xã Đông Yên có nhiều thay đổi tích cực trong chính sách phát triển kinh tế địa phương và ý thức tốt việc nâng cao chất lượng đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân. Tuy nhiên, để đạt được những thành quả đó không thể thiếu được vai trò của giai cấp nông dân – những người trực tiếp lãnh hội và thực hiện chính sách. 43
- Người nông dân tại xã Đông Yên hiện nay không chỉ mong muốn được “ăn no, mặc ấm” mà hơn thế họ muốn được “ăn no, mặc đẹp, ở sang trọng”. Sự biến đổi trong nhu cầu hưởng thụ đó phản ánh tư tưởng tiến bộ trong phát triển kinh tế hộ gia đình, hai nữa là sự tự nhận thức của người nông dân về nâng cao chất lượng đời sống văn hóa tinh thần của chính bản thân mình. Công cuộc dồn điền đổi thửa xóa bỏ tình trạng manh mún, nhỏ lẻ, người nông dân được sở hữu từ một đến hai mảnh ruộng lớn tạo điều kiện cho họ sản xuất tập trung, quy mô lớn. Hiện nay, nhiều hộ gia đình ở xã Đông Yên dần chuyển từ mô hình kinh tế thuần nông sang mô hình kết hợp vườn – ao – chuồng. Nếu như trước đây người nông dân bị động trước tự nhiên và các chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước thì bây giờ họ chủ động tìm nguồn vốn đầu tư máy móc, trang thiết bị hiện đại như máy bừa, máy gặt, máy sấy lúa, máy ấp trứng, vừa phục vụ cho gia đình vừa kiếm thêm thu nhập. Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân xã Đông Yên năm 2010 và năm 2018 cho thấy thu nhập bình quân đầu người từ mức 20 triệu 539 nghìn đồng/ người/ năm tăng lên 41 triệu 365 nghìn đồng/ người/ năm, con số này cho thấy biến đổi tích cực trong tư duy làm nông nghiệp của người nông dân. Mô hình kinh tế mới cho phép người nông dân mở rộng quy mô làm ăn, liên kết giữa các hộ gia đình với nhau chịu trách nhiệm trên từng công đoạn, họ bắt đầu làm quen với hình thức hợp tác rộng rãi, đôi bên cùng có lợi. Không chỉ có vậy, người nông dân biết cách giới thiệu sản phẩm đến đông đảo người tiêu dùng thông qua các trang mạng trực tuyến, mạng xã hội, Hình thức quảng bá sản phẩm này không chỉ giới hạn mức độ tiếp cận giữa làng này với làng khác mà được mở rộng trong phạm vi cả nước. Trên cơ sở đời sống vật chất khá giả hơn, trình độ dân trí ngày một cao người nông dân dần ý thức việc nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho chính mình và cho toàn xã hội. Nó thể hiện ra là tính tự giác của họ trong đóng góp tiền của, sức lực để xây dựng đình, chùa, công trình công cộng, tổ chức lễ hội, liên hoan văn hóa văn nghệ, theo báo cáo của ủy ban nhân dân 44
- xã Đông Yên năm 2015, số tiền quyên góp để tu tạo đình, chùa, xây dựng nhà văn hóa trong toàn xã là 925 triệu đồng. Một số câu lạc bộ thể dục, thể thao, múa hát được thành lập, hoạt động trong khuôn khổ làng, thường xuyên tổ chức các buổi giao hữu, giao lưu giữa các làng với nhau thậm chí giữa các xã với nhau nhằm tăng tính đoàn kết, mở rộng mối quan hệ, học tập lẫn nhau. Bên cạnh những điểm tích cực đó còn tồn tại một số hạn chế như các cấp chính quyền và bản thân người nông dân chưa nhận thức được đầy đủ vị trí, vai trò trong quá trình phát triển kinh tế địa phương cũng như nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho chính mình. Khi tiếp nhận chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước một bộ phận cán bộ địa phương tỏ ra lúng túng, không nắm bắt hết nội dung dẫn đến hiệu quả thực thi kém. Một số cán bộ chuyên trách văn hóa coi hoạt động văn hóa chỉ là một phong trào, mang tính thời điểm chưa chú ý xây dựng chương trình, kế hoạch lâu dài cho việc xây dựng đời sống văn hóa cấp cơ sở. Chưa tạo được dòng chảy liên tục, chưa làm cho văn hóa thấm sâu và nếp nghĩ, nếp cảm mỗi hành vi ứng xử của con người. Hai nữa, một bộ phận người nông dân muốn sống và làm việc theo thói quen, kinh nghiệm cũ, ngại đổi mới, không có niềm tin vào thành tựu của khoa học – công nghệ hiện đại. Vì vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế tại xã Đông Yên chưa tương xứng với tiềm lực phát triển, đời sống văn hóa tinh thần có phần cẵn cỗi. 2.1.2. Sự biến đổi trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ. Đảng ta đã kh ng định, phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng đồng thời là động lực để đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước. Do vậy, người nông dân xã Đông Yên ngày càng quan tâm đến trình độ học vấn của bản thân cũng như các thành viên trong gia đình, nhất là đối với thế hệ con trẻ. Theo biên bản phỏng vấn số 1 (bà Nguyễn Thị A, 46 tuổi) cho rằng: “Bây giờ mà không cho đi học thì đời chúng nó lại khổ như chúng tôi. Suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời không mấy khi được nhàn rỗi. Cho nó đi học để sau này nó được ngồi 45
- văn phòng, làm công nhân nhà máy hay làm gì thì làm miễn là thoát khỏi cày cấy, chăn nuôi. Thời này mà không có học thiệt thòi lắm, đi xin việc người ta không tuyển, chỉ có nước làm việc chân tay thôi”. Mặt khác, con người vừa là trung tâm đồng thời là chủ thể của phát triển. Vì vậy, hoạt động giáo dục - đào tạo , khoa học – công nghệ trên địa bàn xã Đông Yên ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm từ các cấp chính quyền và nhân dân. Trước đây, chúng ta được bao cấp hoàn toàn từ hạt muối, củ khoai cho nên mọi vấn đề “tinh thần” đều dựa trên tiền đề vật chất ấy mà xuôi theo. Con người trở nên thụ động, dựa dẫm, an phận. Sự thành đạt của mỗi cá nhân dựa vào lý lịch gia đình và công việc của bố mẹ. Lúc bấy giờ cụm từ “con ông cháu cha” nói một thực trạng đáng lo ngại trong xã hội. Con cái đi học đã có nhà trường lo hộ, học dốt thì đúp lại học tiếp, ch ng phải lo nghĩ miếng cơm, manh áo vì đã có nhà nước cung cấp. Học hết phổ thông lên đại học, ra trường đi làm được phân sẵn vị trí vào các cơ quan Nhà nước, hưởng biên chế th ng và cứ an ổn ở chỗ ấy đến cuối đời. Ngày nay, sự xâm nhập của lối sống đô thị, nền kinh tế hàng hóa đã chạm đến cả những mặt “đóng kín” của văn hóa làng cho nên các chính sách và lối sống bao cấp trước kia dần được xóa bỏ. Trong điều kiện mới, tri thức cá nhân và thành quả lao động mới là thước đo của giá trị, sự thành đạt của mỗi người không phụ thuộc vào bất kỳ thành phần gia đình nào mà nằm ở phẩm chất, năng lực của mỗi người. Đặc biệt, sau khi nước ta ra nhập tổ chức WTO thì người nông dân, nông thôn, nông nghiệp Việt Nam càng phải nỗ lực để hòa nhập và phát triển. Nằm trong guồng quay chung của thời đại, người nông dân xã Đông Yên hiện nay hiểu rằng giáo dục – đào tạo và các tri thức về khoa học – công nghệ là vốn sống, là những yếu tố hình thành nên năng lực con người. Trong những năm trở lại đây, hoạt động giáo dục – đào tạo trên địa bàn xã Đông Yên có nhiểu đổi mới trong quy mô, cơ sở vật chất và nội dung, chất lượng giáo dục. 46
- Về quy mô giáo dục: Nếu như trước đây, các trường mầm non, cấp một vẫn còn học nhờ ở trong đình, chùa, nhà văn hóa thì giờ đây đã được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất khang trang đáp ứng đầy đủ nhu cầu học tập của học sinh. Tại xã Đông Yên có ba cấp trường phân bổ như sau, bốn trường mầm non, bốn trường tiểu học ở bốn thôn và một trường trung học cơ sở hiện nay đều đã được quy hoạch tập trung, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất khang trang, hiện đại, kiên cố. Ngày trước, do kinh tế hộ gia đình trong xã còn nghèo mục đích cho con đến trường là để xóa mù chữ, vì thế, trình độ học vấn con em những gia đình làm nông nghiệp chỉ dừng lại ở tốt nghiệp trung học - nghĩa là chỉ học hết lớp 9. Số lượng học sinh theo học hết lớp 12 rất ít, tuy nhiên theo thống kê của phòng giáo dục và đào tạo huyện Quốc Oai năm 2018, trên địa bàn xã Đông Yên 98% học sinh ở độ tuổi đi học được đến trường, số lượng tăng từ 2628 học sinh năm 2010 lên 3296 học sinh năm 2018 gấp khoảng 1,25 lần. Kết quả đó cho thấy phong trào học tập ở địa phương diễn ra ngày càng sôi nổi từ cấp mầm non lên đến đại học. Các vị phụ huynh là nông dân dần nhận thức được vai trò của giáo dục tri thức và giáo dục gia đình. Họ chủ động gắn kết với nhà trường, xã hội tạo môi trường giáo dục cho con em mình phát triển toàn diện. Điều đó, một mặt phản ánh mức sống và nhu cầu được giáo dục ngày một cao của người nông dân. Họ sẵn sàng “nhịn ăn, nhịn mặc” để cho con đến trường học tập tri thức, khám phá khoa học – công nghệ sau này trở thành những người công nhân trong nhà máy, những nhân viên hành chính, các nhà khoa học, thoát ly h n nỗi vất vả, nghèo khó của nghề làm nông. Trong tư duy của người nông dân Đông Yên truyền thống họ rất kiêng kỵ việc “ly hương, cầu thực” nhưng bây giờ một khi có cơ hội, họ khuyến khích con cháu mình ra ngoài xã hội học tập, thậm chí đi du học ở nước ngoài để mở mang hiểu biết. Có thể thấy tầm nhìn của người nông dân đã không còn nằm trong lũy tre làng, nó vượt ra khỏi những chật trội, gò ép bên trong cổng làng. Nhu cầu giáo dục ngày một tăng lên tạo tiền đề thực hiện xã hội hóa giáo dục, giúp người nông dân nâng cao chất lượng đời sống văn hóa tinh thần. 47
- Về cơ sở vật chất giáo dục, tính đến năm 2018 các trường mẫu giáo, cấp một, cấp hai trên địa bàn xã được sửa chữa, xây mới, mở rộng nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh. Phòng học tin học, phòng thí nghiệm hóa – sinh, phòng thực hành vật lý, nhà tập thể thao được đầu tư trang thiết bị hiện đại cho phép học sinh trực tiếp áp dụng lý thuyết vào thực tế, tăng hiệu quả học tập. Nhiều năm qua, để khích lệ tinh thần hiếu học xã Đông Yên thành lập quỹ “Khuyến học” từ năm 1995 nhằm mục đích khen thưởng, tặng bằng khen cho học sinh giỏi, các em gia cảnh nghèo khó vươn lên học tập tốt, con ngoan – trò giỏi, học sinh tài năng, công tác khen thưởng đến nay vẫn được duy trì, các em lấy đó làm động lực phấn đấu. Về hình thức, nội dung và chất lượng đào tạo: Các khu công nghiệp điện tử, các khu chế xuất, nhà máy, xí nghiệp luôn có đòi hỏi nhất định đối với trình độ học vấn của người lao động. Do vậy, người dân hiểu rằng sẽ không có việc làm và không được trả mức lương tốt nếu như kiến thức của bản thân còn hạn chế. Nhu cầu học tập, tìm tòi kiến thức ngày càng cao đòi hỏi chất lượng và số lượng của các cán bộ giáo dục trên địa bàn phải tương ứng. Đối với chất lượng cán bộ đào tạo tại các trường đều được chuẩn hóa theo quy định của Bộ giáo dục, trải qua các kỳ thi tuyển chọn của trường mới có thể vào làm việc. Hằng năm, phòng giáo dục - đào tạo huyện Quốc Oai kết hợp với nhà trường thường tổ chức cuộc thi giáo viên dạy giỏi ở các bộ môn thuộc chương trình cấp tiểu học và cấp trung học cơ sở. Đồng thời, cũng tổ chức các cuộc thi viết chữ đẹp, vẽ tranh, cuộc thi học sinh giỏi. Ngoài ra, các phong trào, hội thi tìm hiểu pháp luật với mục đích nâng cao ý thức chấp hành luật pháp cho học sinh. Cuộc thi học sinh thanh lịch, giọng ca vàng, được tổ chức hàng năm nhằm giáo dục nhận thức thẩm mỹ, lối ứng xử phù hợp với cuộc sống hiện đại, bồi đắp tinh thần cho các em sau những giờ học căng th ng. Tính đến năm 2018 trường mầm non Đông Yên, trường tiểu học Đông Yên và trường Trung học cơ sở Đông Yên đều đạt danh hiệu trường chuẩn Quốc gia. 48
- Bên cạnh hoạt động giáo dục – đào tạo tri thức, chính quyền các cấp xã Đông Yên mở các lớp đào tạo nghề, đặc biệt là các nghề phụ mang lại thu nhập cao giúp người nông dân trang trải cuộc sống. Theo báo cáo tổng kết cuối năm 2018 của Ủy ban nhân dân xã Đông Yên, có 3 lớp dạy nghề chổi chít, 3 lớp dạy mộc nề, 5 lớp dạy mây tre đan, đan cót, 4 lớp dạy hàn inox, 10 lớp dạy may quần áo thu hút khoảng 1000 lao động. Sau khi kết thúc khóa học, các học viên được cấp chứng chỉ nghề giúp họ dễ dàng xin việc vào doanh nghiệp hoặc công ty. Trong sản xuất nông nghiệp, mở các lớp dạy trồng trọt, chăn nuôi trên quy mô lớn cung cấp kiến thức và kỹ năng mới cho bà con nông dân. Đi đôi với hoạt động giáo dục - đào tạo kiến thức là hoạt động đào tạo cán bộ chuyên về lĩnh vực văn hóa. Nếu như trước đây, có tình trạng cán bộ truyền thông kiêm nhiệm vụ của cán bộ văn hóa thì bây giờ, 100% các cán bộ văn hóa yêu cầu phải tốt nghiệp chuyên ngành văn hóa từ cao đ ng trở lên. Cách thức tuyển chọn cán bộ văn hóa mới hướng tới tính chuyên môn và hiệu quả công việc, đồng thời cho thấy quyết tâm từ Đảng bộ và chính quyền địa phương nhằm đưa phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa cấp cơ sở” đến toàn thể nhân dân. Trong thời đại khoa học - công nghệ phát triển như hiện nay, các tri thức khoa học dần thay thế kinh nghiệm, tư duy cảm tính dần nhường chỗ cho tư duy lý tính. Do vậy, hoạt động giáo dục – đào tạo không thể tách rời các kiến thức khoa học – công nghệ. Thông qua hệ thống truyền thông, sách, báo, tivi, nông dân ngày ngày được bồi dưỡng tri thức về khoa học, công nghệ. Đặc biệt là lớp lao động trẻ, ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường họ đã được tiếp xúc với các sản phẩm khoa học công nghệ hiện đại từ đó làm thay đổi căn bản tư duy và phương thức sản xuất nông nghiệp truyền thống. Họ tận dụng hết khả năng của khoa học, máy móc, công nghệ sinh học, công nghệ giống, nhằm tăng năng suất và đảm bảo chất lượng. Người nông dân xã Đông Yên không chỉ quan tâm đến năng suất tốt mà họ ngày càng chú trọng 49
- đến chất lượng của sản phẩm theo tiêu chuẩn ISO, vietGAP, chú ý xây dựng thương hiệu, tạo niềm tin cho người tiêu dùng trong và ngoài địa phương. Thêm nữa, trình độ của đội ngũ trí thức ngày càng phát triển, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ được nâng lên góp phần tích cực trong xây dựng cơ chế, chính sách, chiến lược phát triển nông nghiệp lâu dài tại địa phương. Những năm gần đây, số lượng các nhà khoa học trẻ có trình độ, chuyên môn cao có xu hướng ngày càng tăng về số lượng và chất lượng, tuy nhiên do chế độ đãi ngộ không tốt, hành lang pháp lý còn chưa thông thoáng cho nên rất ít người quay về phục vụ quê hương. Nhìn chung, hoạt động đào tạo – giáo dục, khoa học – công nghệ ngày càng chú trọng nâng cao chất lượng, hình thức, nội dung và quy mô. Tuy nhiên, trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo nảy sinh một số tiêu cực. Trong trường học có hiện tượng bệnh thành tích, mua điểm, điểm ảo hay dựa vào mối quan hệ để có bảng điểm đẹp. Hoạt động “thương mại hóa giáo dục” của một số thầy cô giáo làm cho môi trường giáo dục thiếu lành mạnh. Chương trình dạy học mang nặng lý thuyết, ít thực hành. Học sinh coi thường các môn phụ như đạo đức, mỹ thuật, giáo dục thể chất. Các tệ nạn xã hội trong trường học gia tăng đặc biệt là tệ nạn hút chích, đập đá, quan hệ tình dục sớm trong tuổi vị thành niên đã và đang có những biểu hiện đáng lo ngại. Lối sống phương Tây buông thả bản thân không ít các bạn trẻ chạy theo mốt thời trang quần, áo rách, tóc nhuộm xanh, nhuộm đỏ, dày dép không phù hợp với nếp sống của mình. Đối với các cán bộ hiện tượng mua bằng bán chức, học ngang, học tắt để nhanh chóng đáp ứng yêu cầu của công việc vẫn tiếp diễn. Còn tình trạng “một người làm quan, cả họ được nhờ” cất nhấc người nhà đảm nhiệm các vị trí khác nhau trong bộ máy chính quyền. Đối với các lớp tổ chức đào tạo nghề cho người dân còn mang tính hình thức, chưa đạt chất lượng tốt. Vậy làm thế nào để các chính sách giáo dục – đào tạo hỗ trợ đắc lực cho quá trình xây dựng đời sống văn hóa tinh thần cho người nông dân xã Đông Yên. 50
- 2.1.3. Sự biến đổi trong đạo đức, lối sống Dưới tác động của nhiều yếu tố khách quan, chủ quan dẫn đến sự biến đổi về cơ cấu lao động, việc làm, đời sống kinh tế và môi trường xã hội ở nông thôn. Đạo đức, lối sống là một trong những yếu tố cấu thành nên ý thức xã hội, trước những thay đổi căn bản của tồn tại xã hội tất yếu sẽ nảy sinh yếu tố đạo đức, lối sống mới. Sự biến đổi nổi bật nhất trong lĩnh vực đạo đức xã hội được thể hiện thông qua việc hình thành ý thức đạo đức mới, thiết lập các mối quan hệ rộng rãi, xây dựng lối ứng xử đẹp cho người nông dân. Năm 2018 Đoàn thanh niên huyện Quốc Oai phối hợp với Đoàn thanh niên các xã trên địa bàn, tổ chức thi tuyên truyền “Quy tắc ứng xử nơi công cộng trên địa bàn thành phố Hà Nội và trong huyện Quốc Oai” nhằm tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh, đúng mực ở nông thôn trong giai đoạn mới. Năm 2018 Ủy ban nhân dân kết hợp với Ủy ban mặt trận tổ quốc hỗ trợ xây mới 1 ngôi nhà, sửa chữa 2 ngôi cho thân nhân liệt sỹ, thương binh, bệnh binh với tổng kinh phí là 80.000.000 đồng. Bên cạnh đó, chính quyền huy động sức người, sức của từ nhân dân tu sửa bia mộ liệt sỹ, vào ngày 27-07 hàng năm xã tổ chức thắp nến dâng hoa đối với người có công ở nghĩa trang liệt sỹ xã Đông Yên. Hội thanh niên và hội phụ nữ thay phiên nhau quét dọn, cắt cỏ, vệ sinh khu vực nghĩa trang, khu vực nhà văn hóa, bảo vệ cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp nơi công cộng. Chính quyền kêu gọi thành lập quỹ “đền ơn đáp nghĩa” giúp đỡ người thân, gia đình người có công trong các cuộc kháng chiến. Tìm hiểu, quan tâm giúp đỡ trẻ em mồ côi, tàn tật, người già neo đơn không nơi nương tựa theo tinh thần “lá lành đùm lá rách” Năm 2018 vừa qua, xã khảo sát thông tin về trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, thành lập ban chỉ đạo vận động quỹ chăm sóc bảo vệ trẻ em. Tổ chức lớp tập huấn chương trình chăm sóc và bảo vệ trẻ em khỏi bị xâm phạm, phòng chống tai nạn thương tích cho các bà mẹ nuôi con nhỏ, nhờ đó tỉ lệ trẻ em bị xâm hại và tai nạn giảm đáng kể. Phối hợp với hội người cao tuổi tổ chức thăm và tặng quà cho người cao tuổi nhân dịp tết nguyên đán và ngày Quốc tế người cao tuổi mùng 01 tháng 10. Trong 51
- năm 2018 cả bốn thôn đến 95% hộ gia đình đăng ký danh hiệu “gia đình văn hóa”. Khoảng cách giữa các thế hệ thu hẹp, truyền thống hiếu thuận của con cái với ông bà, cha mẹ được phát huy hay sự quan tâm, chăm sóc của ông bà, cha mẹ với con cháu. Các phong trào gia đình văn hóa, làng văn hóa, “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được phát huy. Những hành động đẹp ảnh hưởng sâu rộng đến ý thức đạo đức góp phần hình thành những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của người nông dân nói riêng và nhân dân xã Đông Yên nói chung. Công tác tuyên truyền gương người tốt, việc tốt, chương trình học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, các cá nhân, hộ gia đình làm kinh tế giỏi thường xuyên được biểu dương trên các phương tiện thông tin đại chúng của xã. Thông qua đó, ý thức đạo đức và lối sống của người nông dân được nâng cao. Đồng thời, tạo điều kiện học hỏi kinh nghiệm làm nông nghiệp tiến bộ, tiếp cận với trình độ khoa học công nghệ mới, tiếp thu những kiến thức bổ ích để làm kinh tế. Sự biến đổi trong lối sống của người nông dân xã Đông Yên được biểu hiện rất rõ rệt. Trước hết, là lối sống tích cực, chủ động trong lao động, trước đây ông cha quen sống lệ thuộc vào tự nhiên chỉ biết “trông trời, trông đất, trông mây, trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm” để điều chỉnh hoạt động sản xuất. Thái độ thuận theo tự nhiên và hòa đồng với tự nhiên thậm chí sùng bái tự nhiên đã tồn tại rất lâu trong lối sống của người nông dân. Quá trình quan sát, lao động, sản xuất là nguồn gốc thực tiễn để sự hiểu biết và nhận thức của người nông dân về các hiện tượng quanh mình đầy đủ hơn. Do vậy, sự chủ động của họ trong cách thức tổ chức lao động sản xuất ngày càng cao, từng bước làm chủ , cải tạo và khai thác tự nhiên. Nó được thể hiện ra bằng hoạt động xây dựng hệ thống đê điều dọc theo bờ sông Tích nhằm ngăn chặn lũ lụt, ngập úng vào mùa mưa, bảo vệ diện tích lúa ven sông. Hoạt động xây dựng khu trồng trọt rau, củ, quả có hệ thống phun nước tự động và có mái che, không sợ nắng, mưa to ảnh hưởng đến chất lượng và sản lượng cây trồng. Năm 2012, Ủy ban nhân dân huyện Quốc Oai căn cứ vào Quyết định số 2219/QĐ-UBND về việc phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch, xây dựng NTM xã 52