Khóa luận Quan niệm của I. Kant về tự do

pdf 53 trang thiennha21 15/04/2022 7621
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Quan niệm của I. Kant về tự do", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_quan_niem_cua_i_kant_ve_tu_do.pdf

Nội dung text: Khóa luận Quan niệm của I. Kant về tự do

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC NGUYỄN THỊ TÚ UYÊN QUAN NIỆM CỦA IMMANUEL KANT VỀ TỰ DO KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Hà Nội - 2020
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC NGUYỄN THỊ TÚ UYÊN Khoa:Triết học Mã sinh viên : 16031924 QUAN NIỆM CỦA IMMANUEL KANT VỀ TỰ DO KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền Hà Nội – 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan : Khóa luận “Quan niệm của I. Kant về tự do” là do tôi viết và chưa công bố. Các trích dẫn trong khóa luận đều là trung thực và có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này . Hà Nội , ngày 18 tháng 5 năm 2020.
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp : “ Quan niệm về tự do của Immanuel Kant” bằng tình cảm chân thành, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Khoa Triết học – trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện cho em có môi trường học tập tốt trong suốt thời gian tôi học tập, nghiên cứu tại trường. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn tới cô PSG.TS Nguyễn Thị Thanh Huyền đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành đề tài luận văn tốt nghiệp này. Đồng thời, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn tới thầy cô và bạn bè trong Khoa đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp lần này Em xin chân thành cảm ơn!
  5. MỤC LỤC Phần mở đầu 1 Phần nội dung 6 Chương 1. Hoàn cảnh ra đời quan niệm của I.Kant về tự do 6 1.1. Điều kiện kinh tế- xã hội và văn hóa 6 1.2. Quan niệm về tự do trước Kant: 11 1.3. Quan niệm về con người – cơ sở của quan niệm tự do của Kant 15 1.4. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Kant 21 Chương 2 . Nội dung cơ bản quan niệm của Kant về tự do 24 2.1. Khái niệm của I. Kant về tự do 24 2.2. Quan niệm của I.Kant về mối quan hệ giữa tự do và tất yếu 26 2.3. Tự do thực hành 29 2.4. “Tự do” là cơ sở để nhận thức sự Thiện- tối cao 35 2.5. Đánh giá quan niệm về tự do của Kant 40 2.5.1. Giá trị của quan niệm tự do của Kant 40 2.5.2. Hạn chế của quan niệm tự do của Kant 42 Phần kết luận 43
  6. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kể từ thời cổ đại đến nay, tự do vẫn luôn là cái đích mà loài người hướng đến, con người đã trải qua các cuộc đấu tranh phá bỏ gông cùm, xiềng xích về mọi mặt để vươn mình đến với tự do theo nghĩa đầy đủ nhất. Với tư cách là một phạm trù triết học, khái niệm tự do không ngừng vận động, phát triển qua từng thời kì, gắn với quan điểm của các nhà tư tưởng khác nhau. Tự do là khát vọng thường trực trong mỗi con người. Tự do đã trở thành bản chất tự nhiên, bản năng sống còn của con người. Càng thiếu tự do, con người càng ao ước nó. Chính vì thế, không một con người nào yên phận sống trong sự nô dịch của người khác và không một dân tộc nào cam chịu sống trong sự kìm kẹp của dân tộc khác. Các cuộc kháng chiến chính là để giải phóng con người ra khỏi sự nô dịch và áp bức. Tự do là một chủ đề xuất hiện sớm và được bàn luận nhiều nhất ở phương Tây, kể từ thời Hy Lạp cổ đại. Nhưng có lẽ phải đến thời kỳ Khai sáng mới đánh dấu một bước ngoặt không chỉ trong lịch sử hướng tới văn hoá, văn minh, mà còn trong nhận thức của con người. Các nhà tư tưởng thời kỳ này không phải những người đầu tiên bàn về tự do nhưng họ là những người có công rất lớn trong việc xây dựng những nhận thức mới về tự do và thức tỉnh nhân loại về các giá trị của nó. Kant chính là một trong số những nhà tư tưởng tiêu biểu đó. Để cho thấy tính chất thực tại khách quan của tự do, chúng ta cần tìm hiểu những tương quan giữa tự do và các yếu tố khác như: tất yếu, các quy luật đạo đức Từ đó, ta sẽ thấy được tự do theo Kant được quy định như thế nào, và có ý nghĩa như thế nào đối với con người. Việc Kant đưa ra quan điểm về tự do đã góp phần như thế nào trong việc phát triển con người. Đi sâu nghiên cứu quan niệm của Kant về tự do góp phần khẳng định giá trị của quan niệm triết học Kant nói chung và quan niệm về tự do nói riêng. 1
  7. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, thì tự do vẫn luôn là vấn đề quan trọng trong xã hội. Do sự phát triển ngày càng cao của xã hội, nên nhận thức về tự do cũng ngày càng khác biệt. Ở nước ta, nhận thức về tự do cũng có sự khác nhau giữa các tầng lớp người trong xã hội, xuất hiện những quan niệm đặc biệt ở lớp trẻ về việc Việt Nam không có tự do, hay quyền tự do bị xâm phạm. Để có cái nhìn đúng về vấn đề này thì việc nâng cao nhận thức cho mỗi người về tự do có ý nghĩa quan trọng. Việc trở lại nghiên cứu quan niệm của các nhà triết học trong lịch sử về vấn đề tự do sẽ giúp chúng ta có được một cơ sở lý luận cho cách hiểu về tự do. Với những lý do trên, tôi chọn: “Quan niệm của I.Kant về tự do” làm đề tài khóa luận của mình. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài: Immanuel Kant là nhà triết học có ảnh hưởng lớn đến nền triết học phương Tây nói chung và đặc biệt là triết học Cổ Điển Đức nói riêng. Điều này được thể hiện qua hơn 1000 luận văn chuyên đề và những tập tiểu luận được phát hành năm 2004, kỉ niệm 200 ngày qua đời của ông. 1100 người đã tham dự Hội nghị quốc tế Kant lần thứ IX tại Berlin năm 2000 . Công trình Nghiên cứu Kant (Kant-Studien) được Hans Vaihinger thành lập năm 1896 với hơn 25 luận văn mỗi năm, sau được xem là diễn đàn của Học hội Kant (Kant-Gesellschaft) tại Halle/Saale, được thành lập năm 1904 kỉ niệm 100 năm ngày mất của ông. Có Viện nghiên cứu Kant (Kant-Forschungsstelle) tại đại học Mainz, một công trình tại Bonn nhằm công bố các tác phẩm của ông bằng những phương tiện điện toán cũng như Kho tư liệu Kant tại Marburg (Marburger Kant-Archiv). Cũng có một số triết gia Nhật Bản theo học thuyết của Immanuel Kant và họ cũng lập một Học hội Kant riêng. Tại thủ đô Tōkyō, trong đền Triết gia, người ta treo một bức tranh mang tên "Bốn người minh triết trên thế gian", trên đó thể hiện hình ảnh Đức Phật, Khổng Phu Tử, Sokrates và Kant. Có thể thấy từ ngày ông mất, những tư tương , quan điểm của hệ thống triết học của ông đã được rất nhiều nhà triết gia nghiên cứu lại ở nhiều lĩnh vực khác nhau như : chính trị, đạo đức, pháp quyền, lịch sử , Và ở Việt Nam, những vấn đề trong hệ thống triết 2
  8. học của Kant vẫn là đề tài hấp dẫn các nhà nghiên cứu, các triết gia . Tuy nhiên, những vấn đề , những tài liệu liên quan đến Kant không được dịch ra tiếng Việt nhiều, trong chương trình giảng dạy có đưa vào giảng dạy nhưng nó còn quá ít để tầng lớp trẻ ngày nay hứng thú và tìm hiểu. Mặc dù vậy, ở Việt Nam vẫn có rất nhiều học giả đã công bố và xuất bản chính thức các công trình nghiên cứu về triết học của Kant ở nhiều vấn đề phương diện khác nhau . Trong đó, các học giả cũng dành một phần đáng kể để luận giải về đạo đức của ông, đặc biệt khái niệm “tự do” . Cụ thể , trong cuốn I.Cantơ người sáng lập nền triết học cổ điển Đức của viện Triết học , do nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành năm 1997, các tác giả không chỉ luận giải về triết học Kant , mà còn đề caapk đến những vấn đề trọng tâm trong đạo đức học của ông như con người và tương lai của loài người, “tự do”, “quy luật đạo đức” , “đức tin”, Tương tự trong Triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII-XIX – triết học Immanuin Cantơ của Nguyễn văn Huyên , do nhà sản xuất bản Khoa học xã hội phát hành năm 1996, tác giả xungz đề cập một cách trực diện đến những khái niệm quan trọng trong đạo đức học của I, Kant như “mệnh lệnh tuyệt đối”, “tự do” . Còn trong triết học Cổ Điển Đức : những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học của trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn , Đại học Quốc gia Hà Nội , do nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát hành năm 2005, các học giả cũng không bỏ qua cơ hội để cùng nhau bàn luận về các chủ đề chính yếu trong đạo đức học của Kant , chẳng hạn như : “ bổn phận” , “trách nhiệm”, “nghĩa vụ”, “ mệnh lệnh tuyệt đối” , “tự do”, “mục đích tự thân”, “những nguyên tắc đạo đức”, “hạnh phúc”, “đức tin” , ý nghĩa của học thuyết đạo đức của Kant, Tuy nhiên , theo chúng tôi , những công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở chỗ luận giải một cách tản mạn về một vấn đề trong đọa đức học của Kant , chứ chưa phải là sự trình bày chặt chẽ, đầy đủ và có hệ thống ; đặc biệt , các học giả chưa khai thác triệt để “tự do”, vốn là khái niệm trọng tâm trong đạo đức học của ông, để từ đó làm rõ hơn nữa giá trị nhân văn mà học thuyết này mang lại cho xã hội loài người nói chung và cá nhân nói riêng. Riêng cuốn Triết học Kant của Trần Thái Đỉnh , do nhà xuất bản Văn 3
  9. hóa thông tin tái bản lần thứ ba năm 2005, tác giả đã trình bày khá đầy đủ và hệ thống về đạo đức học của Kant. Tác giả cũng dành phần lớn công sức của mình để luận giải về “tự do” và “sự tự chủ” , “tự do” và đối tượng của đạo đức học ( Sự Thiện hoàn hảo), chứ chưa đi sâu vào phân tích nội hàm của khái niệm “ tự do” cũng như nguồn gốc ra đời của khái niệm này trong đạo đức học Kant. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của học giả Việt Nam đã đề cập và luận giải được những vấn đề trọng tâm trong đạo đức học của Kant. Tuy nhiên, tôi thấy rằng cho đến nay vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu dành riêng để luận giải về “tự do” cũng như nội hàm của nó . Vì vậy , luận văn này tôi sẽ bổ sung những luận giải cũng như nội hàm giá trị mà quan niệm “tự do” của Kant mang lại. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Khóa luận tập trung làm rõ quan niệm của I.Kant về tự do, từ đó đưa ra đánh giá về giá trị và hạn chế của quan niệm đó. Để đạt được mục đích nêu trên, khóa luận phải thực hiện những nhiệm vụ sau: Thứ nhất, trình bày điều kiện, tiền đề ra đời quan niệm của I.Kant về tự do. Thứ hai, phân tích nội dung cơ bản của quan niệm tự do của I.Kant. Thứ ba, đưa ra đánh giá về những giá trị cũng như hạn chế của quan niệm của I, Kant về tự do. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận: quan niệm về tự do của I. Kant Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu những nội dung chủ yếu của quan niệm tự do của I.Kant. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Khóa luận dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng 4
  10. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận sử dụng các phương pháp cơ bản sau: phân tích, so sánh, tổng hợp, kết hợp giữa lôgic và lịch sử, diễn dịch, quy nạp 6. Đóng góp của khóa luận: Khóa luận tìm hiểu những khía cạnh của quan niệm tự do trong triết học Kant để từ đó làm sáng tỏ những giá trị đặc biệt cũng như những hạn chế ở quan niệm “tự do” của ông. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận: 7.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn đã trình bày những quan niệm về tự do của Kant ở những khía cạnh mới hơn không chỉ đơn thuần là chỉ trong mối quan hệ với đạo đức 7.2. Ý nghĩa thực tiễn Bài luận có thể dung làm tài liệu tham khảo nghiên cứu và học tập về triết học cũng như quan niệm tự do của Kant 8. Kết cấu của khóa luận: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 2 chương và 9 tiết 5
  11. PHẦN NỘI DUNG Chương 1. Hoàn cảnh ra đời quan niệm của I.Kant về tự do 1.1. Điều kiện kinh tế- xã hội và văn hóa Triết học Kant ra đời trong hoàn cảnh lịch sử nước Đức hết sức rối ren và đầy mâu thuẫn. Lịch sử châu Âu đã cho thấy, cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX điều kiện kinh tế - xã hội có sự chuyển biến rõ rệt, khẳng định sự thắng lợi của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đưa tầng lớp tư sản lên nắm quyền thống trị, quan hệ phong kiến tồn tại dai dẳng trong lịch sử đã trở nên lỗi thời. Chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập ở một số nước Tây Âu như Anh, Pháp đem lại một nền sản xuất phát triển chưa từng có trong lịch sử. Cách mạng công nghiệp Anh như một biến cố kinh tế quan trọng nhất trong đời sống kinh tế - xã hội tư bản lúc bấy giờ, đem lại sự phát triển nhảy vọt của sản xuất, làm tăng trưởng mạnh mẽ trình độ, khối lượng và nhịp độ sản xuất. Bên cạnh đó, các cuộc Cách mạng xã hội thế kỷ XVII – XVIII mở đường cho phát triển các tư tưởng xã hội tiến bộ, đẩy đến cuộc Cách mạng Tư sản Pháp (1789 – 1794). Hai cuộc cách mạng trên có ý nghĩa lịch sử rất lớn lao với thời đại: “Cách mạng công nghiệp Anh khẳng định sức mạnh của con người trong nhận thức thế giới, cách mạng Tư sản Pháp thể hiện khả năng cải tạo thế giới, làm rung chuyển cả châu Âu, đánh dấu sự mở đầu của nền văn minh công nghiệp” [12, 8]. Với ý nghĩa lịch sử lớn lao, hai cuộc cách mạng đó đã có những ảnh hưởng lớn đến phong trào giải phóng ở các nước châu Âu, chấm dứt sự thống trị của chế độ phong kiến hàng nghìn năm gắn liền với hệ thống thần quyền và giáo luật khắt khe, mở đầu cho sự ra đời và phát triển của chế độ tư bản. Chủ nghĩa tư bản ra đời đem lại một nền sản xuất phát triển chưa từng có trong lịch sử, tỏ ra ưu việt hơn hẳn so với tất cả các chế độ xã hội trước đó. Bước chuyển đó đã đem lại cho châu Âu một diện mạo mới với những thành tựu khổng lồ về kinh tế - xã hội và văn hóa nhân loại đã đạt được trong thời kỳ 6
  12. bình minh đầy tính cách mạng của chủ nghĩa tư bản. Đó là những tiền đề quan trọng thúc đẩy khoa học nói chung và triết học nói riêng phát triển. Đặc biệt đối với triết học, sự chuyển biến được thể hiện rõ. Trong thời đại tư bản chủ nghĩa, hệ thống thần học như một chiếc áo khoác lên, che đậy cho chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa kinh viện giáo điều với những lý luận hoàn toàn hướng con người tới một thế giới ảo tưởng, xa rời hiện thực cuộc sống đã bị cởi bỏ, thay thế bởi chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy lý. Triết học thâm nhập khám phá cuộc sống, tìm hiểu những bí ẩn trong lý tính của con người. Các nhà tư tưởng tư sản trả lại cho con người những quyền mà hệ tư tưởng phong kiến đang phủ nhận: quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền sở hữu riêng của mỗi cá nhân và quyền mưu cầu hạnh phúc. Con người phải vươn tới trí tuệ tự do và đích thực. Trong thời kỳ đó, nếu nước Anh nhờ cách mạng tư sản và bước ngoặtcông nghiệp mà trở thành quốc gia tư bản lớn mạnh nhất, nước Pháp nhờ Cách mạng Tư sản 1789, giai cấp tư bản đã tiêu diệt chế độ phong kiến, đang tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa, cả châu Âu đang phát triển nhanh và mạnh mẽ, nhưng trái lại nước Đức vẫn triền miên trong giấc ngủ Đông – vẫn còn là một nước phong kiến lạc hậu, với chế độ quân chủ chuyên chế phân quyền, bị phân hóa cả về kinh tế lẫn chính trị. Triết học I.Kant đã ra đời trong hoàn cảnh đó, một nước Đức hết sức phức tạp và đầy những mâu thuẫn không thể dung hòa. Sau khi thất bại trong chiến tranh nông dân (1525), thế kỷ XVII, nước Đức lại trải qua cuộc chiến tranh 30 năm kéo theo hậu quả nghiêm trọng là sự tàn phá ghê gớm, nặng nề cả về con người và của cải. Xã hội Đức cuối thế kỷ XVIII còn là một nước nghèo nàn, lạc hậu, phát triển trì trệ so với các nước Tây Âu xung quanh. Tập đoàn phong kiến Đức đang thống trị độc đoán và ngoan cố. Liên bang Đức chỉ tồn tại về hình thức, thực tế đất nước còn phân thành nhiều tiểu vương quốc tách biệt nhau với hàng trăm cát cứ phong kiến. Đứng đầu mỗi cát cứ là một chúa đất có quyền lực vô hạn đối với thần dân của mình. Trong mỗi lãnh địa đều có quân đội, cảnh sát, tiền tệ và thuế quan riêng. Sự phân tán về kinh tế, 7
  13. chính trị cùng với sự bảo thủ độc đoán của triều đình Phổ là lực cản lớn của nước Đức trên con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Về kinh tế: nền kinh tế thị trường bị ràng buộc bởi quan hệ kinh tế sản xuất phong kiến lạc hậu. Sự tập trung ruộng đất trong tay địa chủ, những tàn dư của chế độ nông nô, chế độ phường hội, chúa đất, sự phụ thuộc lẫn nhau của nhiều cát cứ nhỏ bé với các thể chế chính trị phản động đã kìm hãm sự phát triển kinh tế, làm tăng thêm mức độ lạc hậu của nước Đức so với các nước phát triển tư bản chủ nghĩa. Năng suất lao động thấp, đời sống của đại đa số quần chúng nhân dân trở nên nghèo nàn, cùng cực. Toàn cảnh nền kinh tế nước Đức lúc bấy giờ hết sức manh mún, trì trệ và phân tán. Về chính trị: Vua Friedrich Wilhem II đứng đầu triều đình Phổ lúc bấy giờ vẫn rất bảo thủ và ngoan cố tăng cường quyền lực, duy trì chế độ quân chủ chuyên chế hà khắc, muốn nhân dân mình quay trở về thời trung cổ, ngăn cản đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Mặc dù vậy, song giai cấp tư sản nước Đức lúc đó vẫn còn non nớt và yếu đuối, chưa có đủ điều kiện chín muồi cho việc nổi dậy giành chính quyền. Chính vì thế, cả nước Đức bao trùm một bầu không khí ngột ngạt, bất bình của nhân dân. Về tư tưởng: Hệ tư tưởng thần học chiếm vị trí độc tôn trên vũ đài lý luận. Thần học là khoa cơ bản trong các trường đại học. Triết học và các môn khoa học xã hội khác nhiều khi chỉ là sự biện hộ và bảo vệ cho thần học. Người cha tinh thần của triết học Đức lúc đó là Christian Wolft, người kế tục tư tưởng duy tâm của Lépnít. Đa số học trò của Wolft đều chiếm những vị trí quan trọng trong các trường đại học Đức lúc bấy giờ. Triết học tiến hành cuộc thỏa hiệp với tôn giáo và đành nhượng bộ nó trong nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn. Nhìn chung, bức tranh toàn cảnh của xã hội Đức đương thời phủ một màu xám, đúng như lời khắc họa của Ăngghen: “Không ai cảm thấy mình dễ chịu Mọi cái đều tồi tệ và tâm trạng bất mãn bao trùm cả nước. Không có giáo dục không có tự do báo chí, không có dư luận xã hội - không có gì cả ngoài sự đê tiện và tự tư tự lợi, lề thói con buôn hèn mạt, xum xoe nịnh hót 8
  14. thảm hại, đã xâm nhập toàn dân. Mọi thứ đều nát bét, lung lay, xem chừng sắp sụp đổ, thậm chí chẳng còn lấy một tia hy vọng chuyển biến tốt lên, vì dân tộc thậm chí không còn đủ sức vứt bỏ cái thây ma rữa nát của chế độ đã chết rồi” [4, 754]. Trước ảnh hưởng như vũ bão của các cuộc cách mạng tư sản trên thế giới, đặc biệt là Cách mạng Tư sản Pháp (1789), cùng với bối cảnh kinh tế xã hội phức tạp, rối ren và đầy mâu thuẫn của nước Đức lúc bấy giờ đã tác động mạnh tới tư tưởng của giai cấp tư sản Đức. Họ đã đặt ra vấn đề cách mạng, nhưng không phải trong thực tế mà chỉ trong tư tưởng mà thôi. Bởi vì, không giống như các nhà tư tưởng Pháp, các nhà tư tưởng Đức không đồng thời là các nhà hoạt động cách mạng. Không như các nhà hoạt động khác thời kỳ khai sáng, các nhà triết học Đức là những nhà duy tâm chính vì thế họ không dám làm một cuộc cách mạng trong hiện thực mà chỉ làm cuộc cách mạng trong tư tưởng. Giai cấp tư sản non yếu đang trong quá trình tích lũy tư bản vẫn phải dựa vào sự bảo hộ của quý tộc nên cuộc đấu tranh chính trị mạnh mẽ với giới quý tộc là điều mà họ chưa thể nghĩ tới. Điều đó được phản ảnh trong sự bất lực tiến hành một cuộc cách mạng chống lại trật tự phong kiến và cuối cùng thể thiện ở sự thỏa hiệp của họ. Các học thuyết triết học duy tâm của các nhà triết học cổ điển Đức duy tâm và yếu hèn, không thể làm cơ sở cho sự cải tạo tư sản nước Đức theo mong muốn mà tuyên ngôn của họ đã nêu: tự do, trí tuệ, hạnh phúc và quyền con người. Trong tầng lớp trí thức Đức thời bấy giờ xuất hiện tình trạng bi quan, bất mãn và bất lực. Đây là nguyên nhân chính dẫn tới tư tưởng cải lương, thỏa hiệp, phủ nhận sự cải tạo xã hội cũ bằng bạo lực cách mạng, biện hộ cho sự tồn tại của nhà nước Phổ và xã hội đương thời. Họ lấy triết học làm vũ khí phê phán và chuyển tải tư tưởng cách mạng. Triết học là nơi gửi gắm, thể hiện khát vọng cải tạo hiện thực của con người. Sự tìm lối thoát trong triết học ấy đã được C.Mác nhận xét: “Giống như các dân tộc cổ đại đã trải qua thời kỳ tiền sử của mình trong tư tưởng, trong thần thoại, những người Đức chúng ta cũng vậy, chúng ta đang trải qua lịch sử tương lai của chúng ta trong tư 9
  15. tưởng, trong triết học Triết học Đức là sự tiếp tục của lịch sử Đức trong ý niệm” [4, 557]. “Cũng giống như ở Pháp hồi thế kỷ XVIII, cách mạng triết học Đức hồi thế kỷ XIX cũng đi trước một cuộc cách mạng chính trị”[5, 39], nhưng khác với giai cấp tư sản Pháp vốn triệt để cách mạng, giai cấp tư sản Đức ngay từ đầu đã muốn thỏa hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ đang thống trị thời đó, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết vấn đề phát triển đất nước. Tính chất cải lương thỏa hiệp về tư tưởng chính trị của tầng lớp trí thức Đức đương thời đã có ảnh hưởng lớn đến I.Kant. Là một học giả chỉ nghiên cứu khoa học và triết học, bận rộn với công việc giảng dạy cũng như giải thích các thành quả nghiên cứu của mình, I.Kant ít quan tâm đến các vấn đề chính trị, ngại đụng chạm đến chính quyền nhà nước. Nhưng ông lại có một tấm lòng nhân đạo cao cả, có thiện cảm với quần chúng nhân dân lao động nghèo khổ. Trong suy nghĩ của nhà triết học diễn ra mâu thuẫn với các câu hỏi: cần phải làm gì và làm như thế nào để đạt được hai mục đích: 1) nói lên tư tưởng khoa học, đề cao vai trò lý tính, phản ánh nguyện vọng muốn thay đổi chế độ quân chủ chuyên chế hà khắc bằng một xã hội dân chủ tư sản, đem lại quyền lợi đích thực cho mọi công dân xã hội; 2) làm vừa lòng chính thể nhà nước hiện tồn. Mâu thuẫn tâm lý đó chuyển thành mâu thuẫn tư tưởng và biểu hiện một cách cụ thể trong học thuyết triết học của I.Kant, đúng như lời nhận xét của Giáo sư Trần Đức Thảo: “Sự bất lực trong tư tưởng của Kant phản ánh sự bất lực của giai cấp tư sản Đức nằm trong một hệ thống châu Âu đã tiến bộ nhiều, đã hoặc đang làm cách mạng tư sản” [23, 390]. “Tư tưởng của Kant biểu hiện những ưu khuyết điểm của cách mạng tư sản một cách đúng đắn” [22, 419]. Dưới sự tác động của cả hai sức ép: một bên là sự cổ vũ mạnh mẽ của các nhà khai sáng, cách mạng tư sản Pháp- những tư tưởng tiến bộ; một bên là sức ép chính trị của chính quyền chuyên chế Phổ đương nhiệm với chính sách trừng trị hà khắc đối với những học giả có tư tưởng chống đối nhà nước, I.Kant cũng đã chọn con đường cải lương, thỏa hiệp với luận điểm: “Tôi phải dẹp bỏ nhận thức đi 10
  16. để dành chỗ cho lòng tin và thuyết giáo điều trong siêu hình học” [15, 55] Tóm lại, triết học I.Kant nói chung và quan niệm về tự do nói riêng là sản phẩm tất yếu của hoàn cảnh kinh tế - xã hội Đức đầu thế kỷ XVIII; nó phản ánh một cách đúng đắn thực trạng xã hội Đức với những mâu thuẫn phát sinh trong lòng xã hội đó. Đồng thời triết học I.Kant cũng là sự khai phá tiến bộ trên lĩnh vực tư tưởng, được coi là “lý luận Đức của cuộc cách mạng tư sản Pháp” 1.2. Quan niệm về tự do trước Kant: Trong triết học xã hội, “Tự do” với tư cách một phạm trù được quan niệm là cái cần cho con người trong việc tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần để thông qua đó, mỗi cá nhân bộc lộ toàn bộ khả năng và thiên hướng của mình. Ý thức về tự do và vươn tới tự do chỉ có trong xã hội loài người. Toàn bộ kinh nghiệm lịch sử chỉ rõ rằng, tự do là giá trị thiêng liêng và là đặc tính bản chất của con người, là cơ sở bản thể luận của đời sống. Phạm trù “Tự do” dùng để chỉ nhu cầu và khả năng của con người trong những hoạt động phù hợp với những lợi ích và mục tiêu của mình, không cần sự can thiệp hay cản trở từ bên ngoài. Đó mới chỉ là định nghĩa tương đối và đơn giản về tự do. Trên thực tế, tự do là một phạm trù mở, hiểu và thể hiện tự do trong đời sống là một quá trình mâu thuẫn và có tính hai mặt. Vì thế trong lịch sử nhân loại đã có nhiều nhà triết học bàn về vấn đề này, từ Arixtốt, Êpiquya đến C.Mác, từ phái Khắc kỷ đến chủ nghĩa Hiện sinh. Tự do là một phạm trù lịch sử, việc nhận thức và lý giải nó gắn liền với các thời kỳ lịch sử khác nhau. Ở Hy Lạp, La Mã cổ đại chưa hình thành lý luận riêng về tự do, mà chỉ có những cuộc đấu tranh vì tự do, tiêu biểu thời kỳ này phải kể đến Arixtốt - nhà triết học Hy Lạp cổ đại nổi tiếng đã đề cập đến năng lực lựa chọn tự do từ bình diện đạo đức - chính trị. Ông cho rằng, con người với tư cách sinh vật xã hội, luôn biết chọn cho mình cách sống và lối ứng xử phù hợp với lý trí. Năng lực lựa chọn tự do không có nghĩa là vượt quá khuôn khổ của các quy tắc, các chuẩn mực truyền thống, là sự khẳng định cái Tôi một cách vô nguyên tắc. Nó phải dựa trên sự nhận thức về vị trí của cái Tôi giữa những cái Khác. Trong đạo đức học, năng lực đó là “tính trung dung” - chọn 11
  17. cái tối ưu từ nhiều cái tốt, khắc phục cả sự bất cập lẫn sự thái quá. Và, do vậy, “trung dung” khác với “ba phải”, lưng chừng, lại càng khác với thái độ lãnh đạm, dửng dưng trong cuộc sống [8,215]. Êpiquya cũng là một đại diện của nền triết học Hy Lạp cổ đại, ông đã đem lại những suy nghĩ mới về vấn đề tự do. Theo ông, tự do trước hết phải được hiểu như sự giải thoát của con người khỏi mọi ràng buộc của số phận, lấy sự thư thái, tĩnh tâm làm điều kiện cho đời sống cá nhân. Tự do là tự chủ, tự quyết định hành động vươn tới hạnh phúc, tránh mọi khổ đau và không bị cám dỗ bởi những thú vui vật chất tầm thường. Và, tự do như thế mới là tự do mang tính người. Rằng, tự do là không bị lệ thuộc vào thói quen ý thức và tín ngưỡng truyền thống, không bận tâm đến cái chết, không thừa nhận vai trò của thần thánh cả trên trời lẫn dưới đất. Cần thấy rằng, sự sụp đổ của thế giới cổ đại bởi những mâu thuẫn bên trong và sự tấn công của các sắc tộc “man di” từ bên ngoài một phần liên quan đến vấn đề tự do, cả trong tư tưởng lẫn trong hiện thực. Chế độ chiếm hữu nô lệ trong quá trình tồn tại và phát triển của nó đã tước bỏ thiên chức làm người của 3/4 dân số, biến họ thành nô lệ, thành “công cụ biết nói” và đối xử với họ như hàng hóa có thể trao đổi giữa các chủ nô. Cùng với đó, quan niệm về “công dân” và “nô lệ” cũng được xem xét từ góc độ người tự do và người không tự do. Nô lệ đồng nghĩa với thế giới động vật có tinh thần. Điều này giải thích vì sao sự ra đời và phổ biến nhanh chóng của Kitô giáo vào đầu Công nguyên được xem như sự giải thoát tinh thần, như lời cảnh tỉnh về cái chết khó có thể tránh khỏi của chế độ chiếm hữu nô lệ. Sự ra đời của Kitô giáo là một hiện tượng cách mạng trong sinh hoạt tôn giáo; nó là tôn giáo của người nghèo, của quần chúng bị áp bức, là sự tuyên truyền cho lối sống bình đẳng, dân chủ, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, nam nữ. Quá trình hợp pháp hóa Kitô giáo diễn ra song song với quá trình thay thế quan hệ xã hội chủ nô - nô lệ bằng quan hệ xã hội đi dần vào quỹ đạo của xã hội phong kiến cuối thế kỷ IV - đầu thế kỷ V. Sau khi trở thành quốc giáo, Kitô giáo đòi quyền độc tôn trong sinh hoạt tinh thần, trở thành một vương quốc với quyền uy tối thượng. Một khi đa nguyên triết lý được thay thế bằng uy quyền tư tưởng thì tự do cũng 12
  18. hàm chứa ý nghĩa khác trước. Khi đó, thay vì tranh luận để tìm kiếm chân lý, các đại diện của tư tưởng Kitô giáo đòi hỏi tranh luận làm sáng tỏ những chân lý sẵn có. Lấy Kinh thánh làm nền tảng, làm chân lý bất biến, tuyệt đích, các Giáo phụ xem lý trí chỉ là kẻ phụng sự đức tin. Lactantius còn đưa ra lời khuyên nên quàng vào cổ của lý trí một cái ách để định hướng nó. Tự do được giải thích theo quan điểm thần trí học (Theosophy), nhận thức và hành động tự do gắn liền với nhận thức về sự sáng tạo bởi chúa Trời. Đại diện tiêu biểu cho triết học Kitô giáo là Ôâguýtxtanh ở thời kỳ Giáo phụ và Tômát Đacanh trong triết học kinh viện. Theo thuyết Sáng thế, con người là hình ảnh của Thiên chúa, nên tự do cũng là món quà mà Thiên chúa ban cho con người, tự do tinh thần được coi trọng hơn tự do thân xác. Thậm chí, ngay cả khi con người bị biến thành nô lệ thì sự nô lệ thân xác vẫn không ngăn cản ý chí tự do. Tômát Đacanh cho rằng, tự do với tư cách một giá trị là sự giải thoát khỏi những ràng buộc của thế giới trần tục để vươn tới nơi sâu thẳm. Nhưng quan niệm như thế là sự đánh tráo tự do, thủ tiêu tự do hiện thực, biện minh cho tự do ảo tưởng, phi hiện thực. Phục hưng là sự kết thúc đầy ý nghĩa lịch sử trung đại và cũng là sự chấm dứt cách hiểu theo lối Kitô giáo về tự do, chỉ còn giữ lại tính hình thức của nó, nghĩa là xem tự do như món quà kỳ diệu mà Chúa ban cho con người. Song, con người tự do trước hết là tự do trong sự lựa chọn phương thức sống và tín ngưỡng. Thời đại Phục hưng là thời đại chuyển tiếp từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản, tính chuyển tiếp này trong tư duy được thể hiện ra ở cuộc đấu tranh chống thần quyền và những tín điều bảo thủ, thuyết Thần là trung tâm được thay bằng thuyết Con người là trung tâm, chủ nghĩa thầy tu khổ hạnh được thay bằng chủ nghĩa hạnh phúc, thuyết định mệnh được thay bằng thuyết tự do cá nhân. Đến thời kỳ cận đại, tự do càng được các nhà triết học chú trọng nhiều hơn , tiêu biểu có thể kể đến những cái tên tiêu biểu như Thomas Hobbes, John Locke, Montesquieu, J.J.Rousseau. Đối với Hobbes, con người sinh ra là tự do, bình đẳng, theo ông có tự do trong trạng thái tự nhiên và tự do trong trạng thái nhà nước Trong trạng thái tự nhiên, con người luôn cảm thấy bị đe 13
  19. dọa, không được an toàn, luôn cảm thấy bất an. Mặc dù con người được tự do làm điều gì đó mà mình thích, nhưng sự tự do đó luôn bị đe dọa bởi những người khác. Ông viết: “Trong xã hội không có pháp luật, cuộc sống của con người, sẽ trở nên “đơn độc, nghèo nàn, thô tục, hung ác và ngắn ngủi” [3, tr.441]. Còn với Locke , ông quan niệm trạng thái tự nhiên không phải là trạng thái lộn xộn. Trạng thái tự nhiên “có luật tự nhiên để cai quản, bắt buộc mọi người phải tuân thủ; và lý trí - vốn là luật này - huấn thị cho toàn thể loài người - những người có ý chí riêng cũng phải tham vấn nó, rằng tất cả đều phải bình đẳng và độc lập với nhau. Không ai được phép làm hại đến sinh mạng, sức khoẻ, tự do, hay tài sản của người khác” [3, tr.35-36]. Con người sống trong một trạng thái tự nhiên là sống trong trạng thái tự do. Trong trạng thái tự nhiên, sự tự do của con người là tuyệt đối, mọi người đều có “quyền bình đẳng tự nhiên”; ai cũng có quyền ước muốn bất kỳ điều gì, có quyền với bất kỳ điều gì. Còn đối vơi Montesquieu, ông cho rằng tự do là sự yên tâm của mỗi người khi thấy mình được an toàn; tự do của mỗi công dân có quan hệ chặt chẽ với việc chính quyền thực thi quyền lực của mình (cụ thể ở đây là việc áp dụng luật pháp). của mỗi người khi thấy mình được an toàn; tự do của mỗi công dân có quan hệ chặt chẽ với việc chính quyền thực thi quyền lực của mình (cụ thể ở đây là việc áp dụng luật pháp). Tự do được là một quyền lợi tối cao của công dân. Nếu như quyền lực chỉ nằm trong tay một người và được áp chế một chiều từ trên xuống thì không thể có tự do.Còn về phần J.J.Rousseau, ông cho rằng tự do tự nhiên chỉ hạn chế chật hẹp trong khả năng sức lực của cá nhân; còn “quyền tự do dân sự” có “giới hạn rộng rãi, là ý chí chung của nhiều người. khi bàn về “tự do”, Rousseau không thiên về luận giải ý nghĩa triết học của khái niệm ấy, mà luận giải chủ yếu từ ba phương diện: tự do tự nhiên, bẩm sinh vốn có, là cái mà người ta về sau đã phải “hy sinh” để có được tự do dân sự và tự do luân lý. Để đạt được tự do dân sự và tự do luân lý, con người phải tuân thủ ý chí chung, ý chí tối thượng. Điểm nổi bật trong quan niệm về tự do của Rousseau là tư tưởng chống lại mọi hình thức nô lệ, đồng thời khẳng định 14
  20. vai trò hết sức quan trọng của bình đẳng, với tư cách là điều kiện tiên quyết để có được tự do như là quyền cơ bản, bất khả xâm phạm của con người. Từ đó ta thấy được quan niệm về tự do trước Kant vẫn là tự do mà phần nhiều hướng đến tự nhiên, vẫn hướng đến tự do không theo một nguyên tắc nào mà chỉ do theo chính bản thân con người hoặc có theo những quy tắc thống nhất thì nó cũng mới là bước đầu xây dựng . 1.3. Quan niệm về con người – cơ sở của quan niệm tự do của Kant Từ trước đến nay, vấn đề con người được đặt ra và nghiên cứu trong triết học từ rất sớm trước Kant. Chẳng hạn, Protagore khẳng định: "Con người là thước đo của mọi vật". Socrate đưa ra mệnh đề nổi tiếng: "Con người hãy tự nhận thức chính mình". Aristote cho rằng, "con người là động vật chính trị". Các nhà triết học kiêm thần học thời trung cổ coi con người như là sản phẩm của Thượng đế, còn đời sống của nó là sự thực hiện mệnh trời. Các nhà khai sáng Pháp xem con người như là giá trị cao nhất sáng tạo ra tất cả mọi giá trị văn hoá trên trái đất, là thực thể có lý tính của vũ trụ mà tất cả phải xuất phát từ đó và quay về đó. Khi tiếp thu những thành quả nghiên cứu về con người của các nhà triết học tiền bối, Kant đã nhận ra rằng, vấn đề con người trong siêu hình học cũ mới chỉ dừng lại ở mức độ chung . Kế thừa những quan điểm triết học tiền bối về con người và những ý tưởng nhân đạo trong huyền thọai và cả trong Kinh thánh, bằng những hiểu biết của mình, Kant đã thực sự định hình một hướng mới trong nghiên cứu triết học - triết học nhân học. Về lĩnh vực nhận thức con người, khi nghiên cứu triết học I. Kant, người ta cũng có thể thấy rất rõ thái độ trân trọng của ông đối với con người và lý trí con người. Chỉ có điều, là một nhà triết học độc đáo nên việc đề cao con người ở I. Kant cũng rất khác biệt so với các nhà tư tưởng khác. Theo I. Kant, "thế giới vật tự nó" là thế giới dành cho cảm giác. Do vậy, thế giới đó đóng kín đối với lý tính và đối với khoa học. Tuy thế, theo cách giải thích của I. Kant, đối với "thế giới vật tự nó", con người không phải là tuyệt nhiên không thể vươn tới được. Bởi lẽ, con người, trong quan niệm của I. Kant, luôn sống trong cả 15
  21. hai thế giới - thế giới mà cảm giác có thể đạt tới và thế giới mà trí tuệ có thể đạt tới (còn gọi là thế giới khả giác và thế giới khả niệm). Thế giới mà cảm giác có thể đạt tới, theo I. Kant, đó là giới tự nhiên. Còn thế giới mà trí tuệ đạt tới - đó là thế giới của tự do. Tự do là khả năng tiên nghiệm đặc biệt cho phép giác tính con người hoạt động độc lập với các quy luật tất yếu của tự nhiên trong lĩnh vực hiện tượng luận, nó tồn tại một cách tương đối trong lĩnh vực hiện tượng luận. Trong biên giới của tự do, hành động và hành vi của con người không bị chi phối bởi lý tính lý luận mà bị chi phối bởi tính thực tiễn. Lý tính được gọi là thực tiễn, theo I. Kant, là lý tính mà ý nghĩa chủ yếu của nó là điều chỉnh hành vi con người. Động lực của lý tính thực tiễn không phải là tư duy, mà là ý chí của con người. I. Kant gọi ý chí của con người là vương quốc của sự tự trị. ở đây, ý chí của con người được quy định không phải bởi các nguyên nhân bên ngoài, tức là những nguyên nhân thuộc về tính tất yếu của giới tự nhiên hoặc những nguyên nhân thuộc về Thượng đế. Theo I. Kant, ý chí của con người được quy định bởi những quy luật, luật lệ vốn có của riêng nó. Đó là những quy luật, luật lệ mà ý chí tự đặt ra cho bản thân mình. Như đã nói ở trên, chính I. Kant chứ không phải ai khác, là người đầu tiên đã đề xuất và "bảo vệ một cách quyết liệt nhất" việc phân chia nhân học thành một khoa học độc lập. Trong so sánh với các lĩnh vực tri thức đã được xác lập, I. Kant coi nhân học, mà trước hết là nhân học triết học (philosophical anthropology) là một ngành có đối tượng riêng của mình, có phương thức nghiên cứu riêng của mình. Theo P.S. Gurevich, “nhà nghiên cứu sâu sắc hơn cả trong tư tưởng Nga hiện đại về vấn đề con người”[27], thì "I. Kant là người đầu tiên của nền triết học châu Âu khẳng định rằng, con người là một thực thể độc nhất vô nhị có khả năng suy tư một cách riêng biệt và độc đáo. Con người - là khách thể bí ẩn và hấp dẫn tột cùng của sự tư biện triết học. Để khám phá bí ẩn của con người, cần phải có những công cụ không tầm thường và độc lập. Trong ý nghĩa đó, nhân học triết học đối lập với khu vực tri thức triết học truyền thống - bản thể luận (học thuyết về tồn tại), logic học, lý luận nhận thức, 16
  22. lịch sử triết học, đạo đức học, thầm mỹ học, triết học tự nhiên, triết học xã hội, triết học lịch sử”.[ 27] Tư tưởng đề cao tính đặc thù của con người, coi con người là một thực thể bí ẩn, độc nhất vô nhị, vượt ra ngoài khả năng khám phá của các công cụ nhận thức truyền thống, kể cả bản thể luận và nhận thức luận, kể cả logic học, đạo đức học và thẩm mỹ học, kể cả triết học tự nhiên, triết học xã hội và triết học lịch sử là một tư tưởng rất độc đáo, trước I. Kant chưa từng được phát biểu một cách tường minh trong kho tàng tri thức nhân loại (Diogiene và Socrate tuy dường như cũng có nói đến sự bí ẩn của đời sống con người, song các ông hướng tới khám phá sự bí ẩn đó bằng các công cụ duy lý của tư duy trừu tượng). Với I. Kant, tính bí ẩn và độc nhất vô nhị của sự tồn tại người được khẳng định là vượt ra ngoài khuôn khổ của nhận thức duy lý; bởi vậy, nhận thức con người là nhằm luận giải những hiện tượng cá nhân đầy bản sắc, những hành vi và hoạt động phức tạp của con người trong các thiết chế xã hội đã từng tồn tại trong lịch sử. Tư tưởng này về sau được S.Kierkegaard, F. Dostoievski, M. Heidegger, H. Rickert, M. Scheler, J. Sartre cùng một số nhà triết học hiện sinh khác khai thác và phát triển thêm làm lộ ra rõ hơn tính hợp lý của nó. Với sự ứng dụng ngày càng sâu hơn của thông diễn học (heurmernetics), tư tưởng này càng được thể hiện và được chứng minh là một hướng đi rất chủ yếu trong nhận thức con người với tất cả tính phức tạp của đối tượng này - con người, một thực thể vừa sinh học vừa xã hội, vừa cá nhân vừa tộc loại,vừa vật chất trần tục vừa tinh thần thiêng liêng Vấn đề là ở chỗ, với I. Kant, nhận thức con người cũng có nghĩa là nhận thức thế giới; chỉ có thông qua con người, các vấn đề của nhận thức thế giới mới được giải quyết. I. Kant viết: "Mục tiêu của tất cả những thành tựu văn hoá mà con người học được là ứng dụng những tri thức và những kinh nghiệm đã thu nhận được vào thế giới. Nhưng đối tượng quan trọng nhất trong thế giới mà những tri thức này có thể ứng dụng được - đó là con người, chừng nào con người còn là mục đích tự thân cuối cùng"[28] . Khi xác định nhiệm vụ cho triết học, I. 17
  23. Trong toàn bộ triết học của Kant , các tác phẩm của ông chủ yếu trả lời ba câu hỏi lớn 1. Tôi có thể biết được điều gì ? câu hỏi này được trả lời trong tác phẩm Phê phán lý tính thuần túy 2. Tôi cần phải làm gì ? Câu hỏi này được trả lời trong tác phẩm Phê phán lý tính thực tiễn 3. Tôi có thể hy vọng vào cái gì ? Ông trả lời câu hỏi này trong tác phẩm Phê phán khả năng phán đoán Trả lời ba câu hỏi trên nhằm lý giải cho vấn đề cơ bản nhất trong triết học : Con người là gì ? Kant cho rằng con người bao gồm thân xác và lý tính. Thân xác con người thuộc về thế giới hiện tượng , còn lý tính là năng lực tinh thần tiên nghiệm thuộc về thế giới vật tự nó . Bản thân lý tính cũng được phân đôi thành lý tính lý luận ( lý tính thuần túy ) và lý tính thực tiễn . Lý tính lý luận là năng lực tinh thần tiên nghiệm thể hiện ở khả năng nhận thức của con người . Nhờ năng lực tinh thần tiên nghiệm :cảm năng , trí năng , lý năng , vối những công cụ nhận thức tiên thiên , con người có được tri thức về đối tượng . Lý tính thực tiễn là năng lực tinh thần giúp ra lệnh cho con người hành động trong quan hệ của con người với thế giới. Lý tính thực tiễn là khả năng tiên thiên, sẵn có ngang nhau ở tất cả mọi người . Theo Kant, con người có lương tri, lương tâm, ý thức đạo dức là do con người hành động theo sự chỉ dẫn của lý tính thực tiễn. Hành động này của con người không phụ thuộc vào cái gì bên ngoài mà chỉ theo sự “lệnh bảo” của lý tính thực tiễn phụ thuộc và chính mình. Trong quan niệm của Kant , ý thức đạo đức là cái hoàn toàn dựa tren lý tính , chứ không phải dựa trên tình cảm và những toan tính dục vọng và tư lợi . Lý tính, hơn nữa lý tính thực tiễn là nguồn gốc sinh ra các nguyên lý và chuẩn mực đạo đức. Và hành động của con người được coi là hành động đạo đức khi làm theo yêu cầu của lý trí, cái mà Kant gọi là "mệnh lệnh tuyệt đối”. 18
  24. Ông gọi là mệnh lệnh tuyệt đối để phân biệt với Mệnh lệnh giả thiết- là mệnh lệnh được thực hiện vì một mục đích, một quyền lợi có tính nhân quả nào đấy. Nói tóm lại mệnh lệnh giả thiết là mệnh lệnh khuyến khích hoặc ngăn chặn các hành vi đạo đức của con người một cách có điều kiện. Còn mệnh lệnh tuyệt đối là mệnh lệnh xuất phát từ tiếng gọi của lương tri con người, nó tiêm ân trong trái tim, khối óc, mang tính phổ quát tất yếu. Mệnh lệnh tuyệt đối thể hiện khá năng tự chủ của con người, khả năng tự do ý chí mà không vụ lợi, không tính toán thiệt hơn. Mệnh lệnh tuyệt đối của Kant là quy luật đạo đức chung, đòi hỏi mọi người trong xã hội phải thực hiện. Trong cách nhìn của Kant thì hành động của con người cũng bị phân thành hai. Con người hành động theo sự chỉ đạo của lý tính thuần tuý là hành động mất tự do vì lệ thuộc vào mục đích của chủ thể, đó là hành động không đưa tới hạnh phúc và đạo đức chân chính. Hành động của con người theo sự lệnh truyền của lý tính thực tiễn là hành động không lệ thuộc, con người trở thành tự do và hành động đó là hành động đạo đức : “con người chỉ có thể hy vọng vươn tới cái Thiện đích thực, cái Thiện tự nó khi hướng hoạt động, hành động của mình theo sự mách bảo của lý tính thực tiễn”.[13] Và “Như thế, trong lúc Kant giới hạn lý tính thuần tuý lý thuyết bằng cách giảm bớt sự lạm quyền của truyền thống siêu hình học cổ điển, ông đã nâng cao chức vị cũng như lĩnh vực của đạo đức học, có nghĩa là lý tính trong ý nghĩa đích thực của nó phải là một lý tính tự khởi và sáng tạo trong hành động như một thiên phú của con người: không phải lý tính thuần tuý lý thuyết) mà chính là lý tính thực hành mới là người ban bố luật lệ thật sự cho hành động của con người”[13]. Như vậy theo Kant, tri thức, học vấn không phải là cái giúp cho ta thành người, tri thức khoa học là cái không giúp gì cho con người trong việc phán xét sự thiện ác của hành vi, Hay nói cách khác con người chính là con người không phải vì nó là thực thể biết suy nghĩ mà ngược lại con người có thể suy nghĩ được và luôn suy nghĩ bởi vì nó là con người. Kant khẳng định sự độc lập của nhân cách đạo đức đối với học thức và giáo 19
  25. dục bởi vì lý tính đạo đức không phải là cái có thể học được ở người khác hay có thể làm cho người khác , nó là khả năng tiên thiên có sẵn ở mọi người , nó đọc lập vối hoạt động tri thức , hoạt động nhận thức của con người . Con người khi sống trong thế giới hiện thực luôn bị chi phối bởi các quy luật nhân quả , tất yếu nên con người chỉ có tự do theo nghĩa tương đối. Nhưng về mặt bản chất con người là một thực thể tự do, vì vậy tinh thần và lý tính con người luôn hướng tới tự do theo nghĩa tuyệt đối. Kant cho rằng con người hoàn toàn có thể hy vọng đạt được điều đó nhờ vào năng lực năng lực phán đoán tiên thiên. Khả năng phán đoán là cầu nối đưa con người đến với tự do, dù đó là tự do tinh thần. Tinh thần tự do đó chính là tự do trong khả năng phán đoán thẩm mỹ, nghĩa là tự do xác định, cảm nhận cái đẹp , tự do sáng tạo nghệ thuật, tự do tưởng tượng và tự do tín ngưỡng . Như vậy , con người có quyền hy vọng rằng , bên ngoài thế giới mà nó đang sống còn tồn tại một thế giới ở đó con người sẽ có tự do theo nghĩa chân chính của từ này. Vấn đề này được Kant giải quyết trong tác phẩm Phê phán năng lực phán đoán . Có thể thấy về mặt phương pháp, Kant đã bắt đầu một cách nhìn khác về chất so với các nhà triết học trước ông, nhìn bất luận đối tượng nào cũng thành hai.Và từ cách nhìn ấy, Kant là người đã đặt ra. cho lý tính con người một giới hạn nhận thức. Nhưng cách nhìn ấy của ông cũng mới chỉ là bắt đầu và hạn chế của Kant là đã đặt giữa Vật tự nó và Hiện tượng luận một hố sâu ngăn cách không thể vượt qua.Trong triết học, Kant là người chấm dứt cho phương thức tư duy cũ và mở đầu cho phương thức tư duy mới, nhưng ông không tránh khỏi phương pháp tư duy siêu hình. Trong cách nhìn của Kant, bất luận sự vật nào cũng bao gồm hai mặt, nhưng là hai mặt biệt lập nhau, giữa chúng có một hố sâu không thể vượt qua. Vì thế dẫn đến quan niệm bất khả trị cho rằng Vật tư nó không thể nhận thức được. Vật tư nó không phải là lĩnh vực của tri thức mà đó là lĩnh vực của đức tín thông qua lý tính thực tiễn. Phương thức tư duy của Kant đã dẫn đến cái nhìn phi lịch sử về con người và xã hội . Kant nhìn con người như là cái đã xong, đã sẵn vì bản chất con người là tiên thiên, tự do con người là có sẵn , giữa con người và xã hội cô 20
  26. lập, tĩnh lại. Tuy nhiên , quan điểm duy tâm tiên thiên của kant về tự do, đạo đức mang nhiều yếu tố đạo đức nhân đạo sâu sắc, đối lập với các quan điểm ích kỷ, thực dụng một cách hẹp hòi. 1.4. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Kant Immanuel Kant sinh ngày 22 tháng 4 năm 1724 tại Konigberg, trong một gia đình thợ thủ công không mấy giàu có, gốc Scotland tại Koniberg - một thành phố thuộc vùng đông bắc nước Phổ, nay là Kaleningnad. Năm 1740, I.Kant học triết tại trường Đại học tổng hợp Konigsberg. Tại đây, Kant có dịp làm quen với cơ học, thiên văn học, toán học của các nhà khoa học nội tiếng đương thời như Niuton, Đề các tơ, Lép nít, Wolff và tư tưởng chính trị của các nhà khai sáng Pháp. Ông nghiên cứu kỹ năng và các hệ thống triết học của tiền nhân. Ông đặc biệt quan tâm tới các nhà triết học Anh như Lốccơ và Hium. Ông tìm hiểu hệ thống triết học Lép nít và nghiên cứu kỹ các tác phẩm của Vônphơ . Những tư tưởng của các triết gia này có ảnh hưởng sâu sắc trong hệ thống của triết học của ông sau này. Năm 1746 Kant tốt nghiệp loại xuất sắc với luận văn: “Những suy nghĩ về sự đánh giá đúng đắn của lực sống”. Trong đó, ông đã trình bày nguyên tắc sống của mình : “ Đối với chúng ta điều đáng quý nhất không phải là đi theo lối mòn đã có , mà phải biết đi theo con đường mà loài người cần đi” [19,24]. Suốt đời I.Kant đã sống theo nguyên tắc đó và ông đã khá thành công trong sự nghiệp. Sau khi tốt nghiệp đại học, Kant phải làm gia sư cho các gia đình quý tộc ở ngoại ô 10 năm . Đây là khoảng thời gian quý giá để ông tích lũy kiến thức cho sự nghiệp khoa học sau này. Sau tốt nghiệp, trong vòng 10 năm Kant đã làm gia sư tại nhà. Việc làm này đã tạo điều kiện vật chất cho Kant tiến hành nghiên cứu triết học. Năm 1755, Kant bảo vệ thành công luận án về các nguyên tắc của nhận thức siêu hình học và đã nhận được danh hiệu phó giáo sư. Nhưng phải đến năm 1770 , khi đã 46 tuổi , Kant mới được bổ nhiệm làm giáo sư logic học và siêu hình học của trường Đại học Tổng hợp Konisgberg. Ở thời kì này , ông đã hoàn thành các tác phẩm triết học cơ bản trong sự nghiệp sáng tạo của mình. Kant 21
  27. đã để lại cho nhân loại một hệ thống triết học độc đáo và sâu sắc . Đầu tiên triết học của ông gắn với khoa học tự nhiên và sau đó càng ngày càng quan tâm tới những vấn đề con người, tác phẩm đầu tiên đánh dấu sự chuyển biến đó là Phê phán lý tính thuần túy. Năm 1797 Kant về nghỉ hưu để có thời gian dành cho việc hoàn thành các dự án khoa học của mình. Trong sự nghiệp khoa học, Kant là người gặt hái nhiều thành công: năm 1786 ông được bầu làm Viện sỹ Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Phổ tại Béclin; năm 1794, ông trở thành Viện sỹ danh dự Viện hàn lâm Khoa học Saint Peterburg; năm 1798 cả hai Viện hàn lâm khoa học Italia và Paris đều bầu ông làm viện sỹ của mình. Ngày 12 tháng 2 năm 1804, Kant trút hơi thở cuối cùng với nụ cười trên môi và câu nói “Thế là tốt rồi” ông mất ở tuổi 80 khi đang viết dở tác phẩm khác. Mặc dù ông ra đi nhưng ông đã để lại cho thế giới công trình tác phẩm đồ sộ với hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng như : Phê phán lý tính thuần túy (1781), Phê phán lý tính thực tiễn (1788), Phê phán năng lực phán đoán (1790), ngoài ra còn rất nhiều các tác phẩm triết học khác có giá trị quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nền triết học thế giới nói chung. Triết học Kant được chia thành 2 thời kỳ: Thời kỳ tiền phê phán và thời kỳ phê phán : Thời kỳ tiền phê phán (1745-1769), Kant chủ yếu nghiên cứu vấn đề toán học, cơ học, thiên văn học. Bên cạnh những quan niệm duy vật thời kỳ này tư tưởng của ông còn xuất hiện sự bế tắc trong việc tìm kiếm và giải quyết vấn đề triết học. Lối thoát cho sự bế tắc này được ông giải quyết trong “thời kỳ phê phán” Thời kỳ phê phán (1770-1804) nếu trước đây ông lại cho rằng con người không nhận thức được thế giới, thì bây giờ ông lại cho rằng con người không nhận thức được thế giới – bất khả chi, trước đây ông đề cao trí tuệ thì nay ông lại đề cao tín ngưỡng. Kant phủ nhận khả năng nhận thức bản chất sự sống, ông cho rằng thực thể và tinh thần, hiện thực và tư tưởng là hai lĩnh vực hoàn 22
  28. toàn khác nhau, không liên quan gì đến nhau. Từ đó, Kant hoài nghi khả năng nhận thức thế giới nói chung của con người. Với phương châm ,thời đại chúng ta là thời đại phê phán đích thực mà mọi thứ đều phải phục tùng, Kant đề ra nhiệm vụ cho triết học của mình là phê phán hệ thống siêu hình học cũ, đặt ngược lại một số vấn đề mà môn khoa học này tưởng như đã giải quyết xong, Kant tập trung toàn bộ sức lực và thời gian để thực hiện nhiệm vụ mà cả cuộc đời ông đặt ra cho mình là xây dựng một hệ thống triết học mới . 23
  29. Chương 2 . Nội dung cơ bản quan niệm của Kant về tự do 2.1. Khái niệm của I. Kant về tự do Immanuel Kant là đại diện tiêu biểu của nền triết học phương Tây cận đại , trong một bài tiểu luận có tiêu đề Lý thuyết và Thực hành, Kant đưa ra một cái nhìn tổng quan về lý thuyết chính trị của mình. Khi một nhà nước dân sự đã được thành lập để bảo đảm các quyền của chúng tôi, ông nói : “Không ai có thể ép buộc tôi hạnh phúc theo quan niệm của anh ấy về phúc lợi của người khác, vì mỗi người có thể tìm kiếm hạnh phúc của mình theo bất cứ cách nào anh ấy thấy phù hợp, miễn là anh ấy không xâm phạm quyền tự do của người khác để theo đuổi một kết cục tương tự. có thể được hòa giải với sự tự do của mọi người khác trong một luật khả thi chung - tức là anh ta phải đồng ý với người khác quyền như anh ta thích.”. Ông tán thành luật tự do bình đẳng, rằng mọi người nên có quyền tự do tối đa để theo đuổi hạnh phúc phù hợp với tự do của mọi người khác, hoặc điều mà một số người theo chủ nghĩa tự do đã gọi là Nguyên tắc Không xâm phạm. Nguyên tắc này được áp dụng theo chính phủ, không chỉ trong trạng thái tự nhiên. Tự do trong triết học của Kant không có nghĩa đơn thuần như chúng ta hiểu hằng ngày là “thích làm gì thì làm”, hoặc trạng thái có được khi không bị kẻ khác giam cầm (thân thể). Tự do, theo Kant, là tự do của ý chí, và tự do này là tự do trong những quy luật đạo đức và tự do thực hiện các quy luật đạo đức, hay nói khác hơn tự do là đạo đức. Ý chí tự do là những ý chí có thể được quy định độc lập với những xung động cảm tính, tức chỉ từ những động cơ của lý tính. “Tự do là một ý niệm thuần tuý siêu nghiệm”. Tự do không chứađựng một cái gì vay mượn từ kinh nghiệm cả, và đối tượng của nó không thể mang lại một cách xác định trong bất kì kinh nghiệm nào. Tự do phải dựa trên ý niệm thuần tuý siêu nghiệm, như vậy, khi hoạch định những phạm trù của tự do thì chúng ta phải chứng minh được sựđúng đắn của ý niệm siêu nghiệm này. Tự do, là tự do của ý chí, nghĩa là khi thực hành, ý chí không bị thúc bách bởi những xung đột của cảm năng gây ra. Ý chí nếu 24
  30. khi thực hành mà đơn thuần còn bị những cảm năng này thúc bách thì ý chí này bị gọi là thú tính (bản năng). Và hiển nhiên, ý chí con người vẫn là dựa trên cảm năng nhưng nó không là ý chí cảm năng đơn thuần mà là tự do, nghĩa là những cảm năng đó không thể bắt buộc con người phải tuân theo, trái lại, con người có khả năng tự quyết định, độc lập với những thúc bách của cảm năng. Tự do, với ý nghĩa này, là tự do siêu nghiệm. Nếu ý niệm tự do tự nhiên (theo bản năng) chiếm lĩnh thì ý niệm tự do siêu nghiệm sẽ bị triệt tiêu, khi ấy, tự do thực hành (đạo đức) cũng bị triệt tiêu. Thực hành (đạo đức) là tất cả những gì đạt được bằng tự do của ý chí. Nhưng nếu ý chí này là thường nghiệm (kinh nghiệm mang sẵn những ý niệm về mục đích đạt hạnh phúc ) thì nó không thể là thuần tuý thực hành mà vẫn nằm trong vòng kiềm toả của giác quan và cảm năng khuyến khích thực hiện. Đây hoàn toàn không phải là mục đích của quy luật thực hành (đạo đức) – mục tiêu tối hậu – trả lời cho câu hỏi “Tôi phải làm gì?”. Vậy thì, điều gì sẽ đặt cơ sở cho ý chí để nó là một ý chí tự do? Đó là quy luật đơn thuần (không phải quy luật nhân – quả tất yếu đã được kinh nghiệm) của các châm ngôn. Vì dựa vào quy luật này, ý chí sẽ hoạt độngđộc lập, không bị chi phối bởi bất kì quy luật nào khác. Một sự độc lập như thế là sự tự do chặt chẽ, hoàn hảo và là siêu nghiệm. Thực hành (đạo đức) là tất cả những gì đạt được bằng tự do của ý chí. Nhưng nếu ý chí này là thường nghiệm (kinh nghiệm mang sẵn những ý niệm về mục đích đạt hạnh phúc ) thì nó không thể là thuần tuý thực hành mà vẫn nằm trong vòng kiềm toả của giác quan và cảm năng khuyến khích thực hiện. Đây hoàn toàn không phải là mục đích của quy luật thực hành (đạo đức) – mục tiêu tối hậu – trả lời cho câu hỏi “Tôi phải làm gì?”. Vậy thì, điều gì sẽ đặt cơ sở cho ý chí để nó là một ý chí tự do? Đó là quy luật đơn thuần (không phải quy luật nhân – quả tất yếu đã được kinh nghiệm) của các châm ngôn. Vì dựa vào quy luật này, ý chí sẽ hoạt độngđộc lập, không bị chi phối bởi bất kì quy luật nào khác. Một sự độc lập như thế là sự tự do chặt chẽ, hoàn hảo và là siêu nghiệm 25
  31. 2.2. Quan niệm của I.Kant về mối quan hệ giữa tự do và tất yếu Kant gọi những quy luật của sự vật đang tồn tại là những “quy luật của Tự nhiên”, còn gọi những quy luật của “Cái Phải” là “những quy luật của Tự do” . Nghe thì có thấy đây là hai quy luật nghịch lý vì ta thường quen hình dung rằng đã là quy luật thì còn gì là tự do! Kant thì cho rằng chính trong yêu sách về cái Phải là, ta mới nhận ra sự tự do đích thực. Vậy, tất cả tùy thuộc vào việc hiểu “Tự do” như thế nào, và có thể nói, cách hiểu về tự do của Kant là chìa khóa để hiểu đạo đức học của ông, thậm chí, để hiểu toàn bộ triết học Kant. Kant đã đưa ra một định nghĩa về Tự do: “Tự do theo nghĩa thực hành là sự độc lập của ý chí trước sự cưỡng chế do các xung động của cảm năng gây ra [ ] Tự do thực hành giả định tiên quyết rằng, dù một điều gì đó không xảy ra, nhưng nó phải được xảy ra, và vì thế, nguyên nhân của nó ở trong thế giới hiện tượng không phải có tính quy định nghiêm ngặt đến nỗi trong ý chí chúng ta không có một tính nhân quả nào tạo ra được một cái gì độc lập với những nguyên nhân tự nhiên và bản thân đi ngược lại sức mạnh và ảnh hưởng của tự nhiên, tức bị quy định bên trong trật tự thời gian theo những quy luật thường nghiệm, do đó không thể hoàn toàn tự mình khởi đầu một chuỗi các sự kiện” Rõ ràng mô hình về Tự do ý chí không thể tương hợp với nguyên tắc nhân quả, tức với nguyên tắc rằng tất cả những gì xảy ra đều “ở trong trình tự thời gian [trước/sau] theo những định luật thường nghiệm”. Trong khuôn khổ đó, không có chỗ cho Tự do ý chí. Như thế, quan niệm về Tự do thực hành phải tiền giả định một khả thể khác về nguyên tắc: khả thể của một nguyên nhân mà bản thân không phải là kết quả của một nguyên nhân thường nghiệm. Kant gọi khả thể này là “sự Tự do siêu nghiệm” (transzendentale Freiheit). Ta biết rằng đây vốn là một vấn đề thuộc vũ trụ luận cổ truyền. Năng lực “hoàn toàn tự mình khởi đầu một chuỗi những sự kiện” là điều mà lý tính phải tất yếu lấy làm định đề khi suy tưởng về vũ trụ xét như cái toàn bộ. Nếu lý tính dựa theo nguyên tắc nhân quả sẽ tạo ra một trong các Nghịch lý (Antinomie) làm cho khả thể của một môn Siêu hình học thuần lý trở nên khả nghi. Nghịch 26
  32. lý ấy như sau : Chính đề: tính nhân quả theo những định luật của Tự nhiên không phải là cái duy nhất để từ đó giải thích được những hiện tượng trong thế giới. Tất yếu phải giả định thêm một tính nhân quả từ Tự do để giải thích những hiện tượng này. Phản đề: không có Tự do, trái lại, tất cả những gì xảy ra trong thế giới đều chỉ tuân theo những định luật của Tự nhiên. Cả hai lập trường đều có lý lẽ vững chắc: nếu không có nguyên nhân đầu tiên, tự do ắt chuỗi nguyên nhân sẽ đi đến vô tận, khiến mọi việc diễn ra đều không có một “nguyên nhân được xác định một cách đủ tiên nghiệm” vốn là đòi hỏi của bản thân nguyên tắc nhân quả. Nhưng ngược lại, nếu cho phép tồn tại sự Tự do siêu nghiệm dù chỉ trong một trường hợp duy nhất thì cũng tức là phá hủy giá trị hiệu lực của nguyên tắc nhân quả và qua đó, đe dọa đến khả thể của khoa học nói chung. Vậy có thể thấy Tự nhiên và Tự do siêu nghiệm khác nhau như giữa tính hợp quy luật và tính vô quy luật Theo Kant, lối thoát duy nhất ra khỏi thế lưỡng nan này là phải quay lại với sự phân biệt giữa Vật-tự thân và hiện tượng. “Nếu những hiện tượng đều là Vật-tự thân cả thì Tự do là không thể cứu vãn được” , vì nguyên tắc nhân quả có giá trị trong thế giới hiện tượng một cách không có ngoại lệ. Song, chí ít vẫn còn có một khả năng để suy tưởng rằng sự Tự do siêu nghiệm – đơn thuần như một “vật-tư tưởng" [sản phẩm của đầu óc] – vẫn thuộc về thế giới của những Vật-tự thân, thế thì ta không vấp phải sự tự-mâu thuẫn. Cách giải quyết hết sức khó khăn đối với Nghịch lý trên đây khi cho rằng cả chính đề lẫn phản đề đều “có thể cùng đúng” xét trên hai bình diện khác nhau được Kant cố gắng áp dụng vào lĩnh vực thực hành: tính cách lưỡng diện của chủ thể trong hành vi tự do. Ông định nghĩa một cách khá rắc rối rằng: cái gì nơi một đối tượng của giác quan mà bản thân không phải là hiện tượng thì gọi là “khả niệm” (intelligible) [khả niệm: chỉ có thể suy tưởng chứ không thể trực quan] . Theo đó, tuy ta phải gán “tính cách thường nghiệm” cho bất kỳ chủ thể hành động nào ở trong thế giới cảm tính, nghĩa là xét hành vi của họ như hoàn toàn thuộc về mối quan hệ Tự nhiên hợp quy luật, nhưng đồng thời vẫn còn có khả thể là quy cho chủ thể 27
  33. hành động ấy một “tính cách khả niệm”, qua đó chủ thể là nguyên nhân của những hành vi trong thế giới hiện tượng mà bản thân không phải là hiện tượng và không phục tùng những định luật tự nhiên. Trong mô hình này, tính cách khả niệm và tính cách thường nghiệm quan hệ với nhau giống như giữa Vật-tự thân và hiện tượng Kant đặc biệt lưu ý rằng đây không phải là sự chứng minh lý thuyết về sự tồn tại hiện thực của Tự do; nó chỉ nói lên khả thể để suy tưởng về Tự do thực hành trên cơ sở giới hạn giá trị phổ quát của quy luật nhân quả vào phạm vi thế giới hiện tượng mà thôi. Ông kết luận rằng nghịch lý này chỉ dựa trên một ảo tượng đơn thuần, và cho thấy ít ra Tự nhiên không mâu thuẫn gì với tính nhân quả từ “Tự do”, đó là điều duy nhất mà chúng ta đã có thể làm được, và đó cũng là điều duy nhất chúng ta thực sự quan tâm ở đây Với kết luận ấy trong quyển Phê phán lý tính thuần túy, Kant cho thấy: Chính sự phân biệt giữa Vật-tự thân và hiện tượng mới làm cho ta có thể suy tưởng được về sự Tự do thực hành. Sự phân biệt ấy cũng là dấu hiệu cho thấy tính hữu hạn của lý tính con người, nghĩa là sự Tự do thực hành chỉ có mặt trong khuôn khổ của một lý tính hữu hạn, tức trong sự giằng co giữa tính chất khả niệm (chỉ đơn thuần có thể suy tưởng) và tính chất thường nghiệm (có thể nhận thức được) của chủ thể hành động. Nếu giả sử ta là những hữu thể thuần túy lý tính, tức chỉ hoàn toàn thuộc về thế giới khả niệm, ắt ý chí của ta không phục tùng động cơ nào ngoài động cơ thuần lý và ta chỉ ham muốn những gì lý tính thực hành đề ra cho ta. Song, khổ nỗi chúng ta đồng thời là “thành viên của thế giới cảm tính”, và ý chí của ta cũng phải phục tùng những động lực cảm tính và phản lý tính, do đó chúng ta là hữu hạn, bất toàn, có thể phạm sai lầm; nói khác đi, chúng ta là những hữu thể có năng lực lý tính (vernunftbegabt) chứ không phải lúc nào cũng có lý tính (vernunftig). Chính sự giằng co và phân đôi ấy thể hiện ra trong cái Phải là: là do con người đồng thời được xét như một mắt xích hay một thành viên của thế giới cảm tính Tuy nhiên, như Kant đã nói: “lý tính đi con đường của nó trong việc sử dụng thường nghiệm và đồng thời đi con đường đặc thù của nó trong việc sử dụng 28
  34. siêu nghiệm”. Nếu trong lĩnh vực lý thuyết, Tự do siêu nghiệm chỉ có thể được suy tưởng chứ không thể được nhận thức, thì chính ý thức về cái Phải là làm cho ta có thể “nhận thức” thực sự về sự Tự do thực hành, nghĩa là nhận ra mình có năng lực “hoàn toàn tự mình” làm nguyên nhân cho một chuỗi sự kiện thường nghiệm. Chính trong quyển Phê phán lý tính thực hành này, để bác lại sự phê phán về tính thiếu nhất quán khi cho rằng trong lĩnh vực thực hành, ta có thể “nhận thức” được sự Tự do trong khi chỉ có thể “suy tưởng” về nó trong lĩnh vực lý thuyết, Kant cho thấy sự gắn bó qua lại một cách mật thiết giữa Tự do và cái Phải là: “Tự do” là cơ sở tồn tại của quy luật luân lý, còn quy luật luân lý là cơ sở nhận thức về “Tự do”. Bởi nếu quy luật luân lý không được suy tưởng một cách minh bạch từ trước thì ắt ta không bao giờ xem bản thân ta là có lý do chính đáng để giả định một sự vật như thế như là “Tự do” (dù nó không tự mâu thuẫn). Nhưng, nếu giả sử không có “Tự do” thì cũng tuyệt nhiên không thể bắt gặp quy luật luân lý ở trong ta Tóm lại, theo Kant, Tự do không thể có nếu không có cái Phải là, nhưng cái Phải là phải lấy Tự do làm cơ sở tồn tại của nó, bởi cái Phải là sẽ vô nghĩa nếu không có tiền đề là năng lực có thể tự do hành động. Kant viết: ai đó phán đoán rằng mình có thể làm một việc chỉ vì có ý thức rằng mình phải làm việc ấy, và nhận ra sự “Tự do” nơi chính mình, – một điều mà nếu không có quy luật luân lý ắt anh ta không bao giờ nhận ra được. 2.3. Tự do thực hành Trong cuốn Phê phán lý tính thực hành, Kant đã xét lại khái niệm “tự do” dưới góc độ thực hành của lý tính. Tuy nhiên, đây không phải là sự bổ sung khiếm khuyết của cuốn Phê phán lý tính thuần tuý nhưng làm nổi bật sự liên kết của hệ thống phê bình.[15,1].Thực vậy, với Phê bình Lý tính Thuần tuý, lý trí mới chỉ quan niệm về tự do như một cái gì không theo luật nhân quả nhưng không mâu thuẫn với luật ấy, tức là làm rõ tính tất yếu của tự do; còn trong Phê bình Lý tính Thực hành, tự do được xét trong thực tại tính (reality) của nó, và khả thể có một kinh nghiệm làm đầy ý niệm “tự do” về mặt nội dung, tức là 29
  35. tự do là có thực. Nên, có thể nói, Phê bình Lý tính Thực hành là một luận đề về tự do. Với quan năng này [lý tính thuần tuý thực hành], sự tự do siêu nghiệm từ nay cũng được xác lập vững chắc, và là sự tự do được nắm lấy theo nghĩa tuyệt đối mà lý tính tư biện [thuần tuý lý thuyết] đã cần đến trong khi nó sử dụng khái niệm về tính nhân quả nhằm thoát khỏi nghịch lý vốn không thể tránh nếu lý tính tư biện muốn suy tưởng về cái vô-điều kiện trong chuỗi nối kết nguyên nhân và kết quả. Kant định nghĩa tự do thực hành như sau: Tự do theo nghĩa thực hành là sự độc lập của ý chí trước sự thúc bách do các xung động của cảm năng gây ra. [ ] Tự do thực hành giả định tiên quyết rằng, dù một điều gì đó không xảy ra, nhưng nó phải được xảy ra, và vì thế, nguyên nhân của nó ở trong thế giới hiện tượng không phải có tính quy định nghiêm ngặt đến nỗi trong ý chí chúng ta không có một tính nhân quả nào tạo ra được một cái gì độc lập với những nguyên nhân tự nhiên và bản thân đi ngược lại sức mạnh và ảnh hưởng của tự nhiên, tức bị quy định bên trong trật tự thời gian theo những quy luật thường nghiệm, do đó không thể hoàn toàn tự mình khởi đầu một chuỗi các sự kiện. Nếu trong lãnh vực lý trí thuần tuý, tự do siêu nghiệm chỉ có thể được suy tưởng, chứ không được nhận thức, thì trong lãnh vực của lý trí thực hành, Kant đề cập đến “cái phải là” như là điều thiết yếu làm cho ta có nhận thức thực sự về sự tự do thực hành, nghĩa là con người có năng lực hoàn toàn tự mình làm nguyên nhân cho một chuỗi sự kiện thường nghiệm.“Cái phải là” chính là quy luật thực hành hay quy luật luân lý, đạo đức trong mỗi người. Ông khẳng định: Ai đó phán đoán rằng mình có thể làm một việc chỉ vì có ý thức rằng mình phải làm việc ấy thì nhận ra sự tự do nơi chính mình – một điều mà nếu không có quy luật luân lý ắt anh ta không bao giờ nhận ra được. Như thế, tự do có mối liên hệ chặt chẽ với quy luật luân lý, hay quy luật đạo đức hoặc quy luật thực hành. Thật vậy, chỉ khi có tự do, con người mới có thể chọn lựa làm việc tốt hoặc việc xấu; mặt khác, khi thấy con người tự ý làm 30
  36. điều lành điều ác người ta mới chứng nghiệm rằng con người là hữu thể tự do. Một cách hàn lâm hơn, tự do là ratio essendi (cơ sở bản chất) của quy luật đạo đức, còn quy luật đạo đức là ratio cognoscendi (cơ sở nhận thức) về tự do. Nghĩa là, tự do đặt cơ sở hay điều kiện cho quy luật đạo đức tồn tại; trái lại, ta chỉ có thể nhận thức về tự do khi ta ý thức về quy luật đạo đức. Trong hệ thống triết học của Kant,ông dành vị trí trung tâm trong đạo đức học là vươn tới sự tự do. Ông cho rằng không có đạo đức thì không có tự do, cũng như thiếu tự do thì không thể có đạo đức. “Tự do và quy luật thực hành tuyệt đối liên hệ chặt chẽ với nhau đến nỗi không thể có cái này mà không có cái kia”[8,tr.234]. Câu “không có đạo đức, sẽ không có tự do” được Kant chứng minh khá tỉ mỉ. Ông chứng minh luật đạo đức là gì, nếu không phải là gì, nếu không phải là bản thân tự buộc mình hành động theo lẽ phải, kể cả hành động đó có sinh thiệt hại cho bản thân . Nhưng lại phải hành động ,vì lẽ phải dạy thế, vì bổn phận làm người buộc phải hành động như thế. Như vậy chính quy luật đạo đức, dưới hình thức những mệnh lệnh tuyệt đối, đã chứng nghiệm một cách tuyệt đối chắc chắn rằng mỗi người đều tự do. Tự do chính là có thể làm hay không làm, hành động theo mệnh lệnh của quy luật đạo đức hay hành động theo những xúi giục của bản năng: bản thân con người được chọn làm một hữu thể “thành phần của thế giới khả niệm” hay chọn làm sự vật của thế giới thiên nhiên khá giác. Sự chọn này được đặt ra trước mắt một cách hiển nhiên nơi quy luật đạo đức, nhân đó Kant viết: “Vậy chính quy luật đạo đức mà chúng ta cũng có ý thức một cách trực tiếp thoạt khi chúng ta nêu lên những tôn chỉ của ý chí: chính quy luật đạo đức được đặt ra trước mắt ta và dẫn ta tới quan niệm tự do, xét như tự do được biểu tượng như một nguyên tắc quyết định cho ý chí của ta, một nguyên tắc không bị chi phối bởi một điều kiện khả giác nào hết, nhưng hoàn toàn độc lập đối với những điều kiện khả giác” [8, tr.234-23]. Câu trên đây của Kant rất súc tích, và ta cần hiểu tầm quan trọng của ý nghĩa nó. Trước hết ông nói ai cũng trực tiếp nhận thấy luật đạo đức mỗi khi quyết định về hành động của mình, ta có thể có nhiều loại hành động và rất 31
  37. nhiều trường hợp cho những thứ hành động đó, nhưng lý trí chỉ là một. Bởi vậy mỗi khi chúng ta quyết định về bất cử hành động nào, ta cũng thấy quy luật đạo đức hiện ra với hình thức tổng quát này: “Anh hãy hành động làm sao để anh có thể ước muốn hết mọi người hành động như vậy”[3,tr.234]. Ta có ý thức trực tiếp về quy luật đạo đức này. Kant còn quyết rằng chính quy luật đạo đức chứng tỏ cho biết ta tự do: ta biết ta tự do, vì hành động của ta không bị kích động bởi những sự kiện khá giác, nhưng ta quyết định một cách hoàn toàn theo lý trí. Cái gì bị kích thích bởi những điều kiện khá giác, thì thuộc loại các hiện tượng tất định của thiên nhiên. Còn cái gì không hành động do sức thúc đẩy của những điều kiện khá giác, thì ta phải công nhận rằng nó đã hoạt động như một vật tự thân: nó đã tự động. Đó là tự do. Nhưng tự do cũng do tự nhiệm: nếu ta nhận mình là hữu thể tự do, ta có bổn phận phải thực hành những mệnh lệnh của quy luật đạo đức. Đôi khi, ta sẽ chữa mình, muốn lẩn trốn trách nhiệm, lấy lẽ rằng những hành vi kia bắt ta hy sinh nhiều quá. Thế rồi ta cho rằng mình không có thể Thử hỏi ta có lý luận như vậy đối với người khác không hay trái lại ta nghĩ rằng họ có bổn phận thì nhất định họ phải làm. Bởi vậy Kant viết: “Người ta quyết rằng mình có thể làm một việc, bởi vì người ta ý thức rằng mình có bổn phận phải làm việc đó: cũng nhân đó con người nhận thấy mình có tự do thực, vì nếu không có quy luật đạo đức thì có lẽ con người sẽ không biết mình tự do”[8,tr.234]. Các học giả thường diễn tả tư tưởng này của Kant một cách gọn hơn bằng câu: “Anh có thể làm vì anh phải làm”. Khi ta lấy lý trí để nhận rằng ai cũng phải làm như vậy vì quy luật đạo đức truyền như thế, thì chắc con người ta ai cũng buộc mình làm. Đến vế hai “không có đạo đức sẽ không có tự do”,tuy câu này đã được chứng minh một cách tự bằng tất cả những gì chúng ta đã nghiên cứu về sự khác biệt giữa lãnh vực tất định của thường nghiệm và lãnh vực tự do của lý trí thuần túy thực hành, như Kant vẫn còn dành cho vấn đề này những suy nghĩ thêm. Không thiếu những người chỉ tin vào giác quan. Và cũng không thiếu triết gia như A. Comte nghĩ rằng sinh hoạt đạo đức của con người phải được 32
  38. điều hành bằng những định luật chặt chẽ như các định luật của khoa học thực nghiệm. Họ tỏ ra còn quá xa với lãnh vực tinh thần và sinh hoạt tự do: họ muốn cái gì cũng phải được xác định rõ ràng và họ chỉ tin vào thực nghiệm. Đối với Kant, chặt chẽ là điển hình của toán học, - thực nghiệm là điển hình của vật lý học, còn sinh họat con người không có gì giống với hai phương thức đó. Bản chất của sinh hoạt đạo đức phải là một sinh hoạt tự do mà tự do là không bị chi phối bởi dư luận hoặc gương sáng của người khác. Tự do có nghĩa là khi quyết định, tôi chỉ nhìn vào hình thức tuyệt đối của quy luật đạo đức, chỉ nhìn vào lý trí thôi. Hơn nữa tự do bao giờ cũng có nghĩa là một bắt đầu tự mình, một tự quyết, một điều phải làm (tức chưa làm, chưa có). Nhân đỏ, quy luật đạo đức luôn mặc cái hình một mệnh lệnh, nghĩa là một lệnh truyền phải làm điều gì. Từ đó , ta thấy Kant nói ở ĐỊNH LÝ III “con người có lý trí phải nghĩ đến tôn chỉ hành động của mình như là những quy luật thực hành phổ quát, và đừng nhìn vào chất thể của những nguyên tắc điều hành ý chí, nhưng phải nhìn vào hình thức những nguyên tắc đó”. Nhìn vào hình thức của quy luật đạo đức: đó là cái bảo đảm cho sự tự do. Tất nhiên tự do đây không có nghĩa tầm thường của tự do dân chủ, tự do ngôn luận, tự do đi lại. Tự do đây có nghĩa siêu hình học: tự do là hoàn toàn tự mình quyết định, không bị chi phối bởi tự ái hay tự lợi, bởi tâm tình hay dư luận. Cho nên, Kant viết: “Lý trí thuần túy, tự nó thực hành, trực tiếp ra luật cho ta. Chúng ta quan niệm ý chí phải hoàn toàn độc lập với những điều kiện thực nghiệm, nhân đó nó được coi như ý chí thuần túy. Ý chí thuần túy hoàn toàn quyết định theo hình thức của quy luật đạo đức: đó là điều kiện cao nhất của tất cả các tôn chỉ hành động”[8,tr.238]. Không thể nào nói rõ hơn về tính chất khả niệm của ý chí cũng là sự ý chỉ hoàn toàn độc lập đối với những điều kiện của kinh nghiệm, Kant đã dùng tới chữ “ý chí thuần túy” để nói lên sự siêu việt của nó đối với những gì là hiện tượng của lĩnh vực tất định. Một điểm nữa không kém quan trọng của ý chí thuần tủy, đó là tính chất siêu nghiệm của nó. Con người ý thức rõ ràng về bản chất tự do của quy luật 33
  39. đạo đức, tức của những quyết định đạo đức của mình, đồng thời con người ý thức về sự hiển nhiên của quy luật đạo đức. Kant đã gọi tính chất hiển nhiên này bằng một thành ngữ thoat nghe có vẻ mâu thuẫn: “sự kiện của lý trí”. Nói sự kiện là nói một cái gì xảy ra và ta kinh nghiệm được thực sự. Nói lý trí là nói lãnh vực khả niệm, vượt quá tầm kinh nghiệm của ta. Nhưng Kant không tự mâu thuẫn mà ông đã cân nhắc nhiều trước khi dùng, và ông đã dùng nhiều lần thành ngữ này để nói lên cái kinh nghiệm duy nhất của con người về một thực tại khả niệm. Như vậy con người đồng thời có kinh nghiệm về hai thực tại: kinh nghiệm rằng quy luật đạo đức có bản chất thuần túy và tính cách mệnh lệnh, và kinh nghiệm mình tự do trong sự quyết định cũng như trong sự thi hành những mệnh lệnh kia. Kant viết: “Có thể gọi ý thức ta có về quy luật đạo đức nền tảng đó là một sự kiện của lý trí, bởi vì người ta không thể nào rút nó ra từ những luận lý hoặc từ những dữ kiện nào đó của lý trí (chẳng hạn rút từ ý thức ta có về tự do, bởi vì ý thức này thì ta không có trước ý thức về quy luật đạo đức), nhưng nó đã tự nó đến với ta như một mệnh đề tổng hợp tiên thiên, không dựa trên một trực giác nào, dầu là trực giác thuần túy hay trực giác thường nghiệm”[8,tr.239]. Hoàn toàn không có trực giác tham gia vào kinh nghiệm này, một thứ kinh nghiệm siêu hình: sự kiện của lý trí là thế. Ta không do luận lý hay kinh nghiệm thường nghiệm mà nhận ra nó, nhưng nó đã được ban cho ta từ nguyên thủy như một mệnh đề căn bản. Sau đó Kant lưu ý ta đừng lộn ý nghĩa của chữ sự kiện: tuy đây là một sự kiện, nhưng là sự kiện của lý trí, một kinh nghiệm nhưng là kinh nghiệm siêu hình. Ông viết: “Để khỏi lầm lẫn khi công nhận tính chất dữ kiện của quy luật đạo đức, chúng ta cần nhớ rằng đây không phải là một sự kiện thường nghiệm, nhưng là sự kiện duy nhất của lý trí thuần túy”. Có thể thấy, tư tưởng của kant về tự do là một thanh tựu nhân văn sâu sắc của triết học phương Tây và nó chỉ có thể được coi là tự do nếu nó đi liền với quy luật đạo đức 34
  40. 2.4. “Tự do” là cơ sở để nhận thức sự Thiện- tối cao Đứng trên quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm toàn diện, Kant không chỉ nhìn nhận vấn đề tự do của con người với tư cách là tự do của một cá thể tách biệt xã hội mà nhìn nhận vấn đề đó trong mối quan hệ với lịch sử phát triển tự do của loài người. Tư tưởng này được ông trình bày thêm trong các tác phẩm: “Ý niệm về lịch sử phổ biến trên bình diện công dân toàn cầu” (1784); “Dự đoán ban đầu về lịch sử loài người” (1786); “Nhân chủng học” (1789); “Bức thông điệp cho một nền hòa bình vĩnh cửu”(1795); “Siêu hình học và các tập tục”(1797); “Bàn về giáo dục”(1803). Theo Kant, trong thời đại nguyên thủy do lý tính chưa phát triển nên con người không có khả năng lựa chọn, nó đành chịu làm nô lệ cho quy luật tự nhiên, nghĩa là phục tùng tính tất yếu một cách mù quáng. Trạng thái lịch sử đầu tiên của tự do là chuyển từ giai đoạn yên tĩnh hòa bình sang thời đại lao động và bất hòa với tư cách là bước chuyển tiếp đến sự hình thành xã hội. Trong trạng thái tự do con người là chủ thể lao động, cuộc sống săn bắt hái lượm cơ bản đã chấm dứt, loài người chuyển sang nghề trồng trọt và chăn nuôi, chế tác công cụ lao động và các phương tiện sinh hoạt khác. Sự xuất hiện xã hội kéo theo sự hình thành con người xã hội – đó chính là bước ngoặt lớn trong lịch sử nhân loại. Nhưng cũng từ đó làm phát sinh nhiều mâu thuẫn xã hội mà hạt nhân cuối cùng là tính đối kháng. I.Kant cho rằng trong giao tiếp xã hội, con người luôn cảm thấy mình có tư chất bẩm sinh. Nhưng nếu hành động của con người phù hợp với sự hiểu biết của nó thì tất yếu sinh ra sự phản kháng của các cá nhân khác, và bản thân nó cũng chính là sự phản kháng. Kết quả của sự đối kháng xã hội theo Kant chính là sự thiết lập một xã hội công dân pháp quyền phổ biến, trong đó các thành viên có thể giành được tự do trên cơ sở phải tôn trọng quyền tự do của người khác. Nền tảng của vấn đề đạo đức theo Kant dựa trên tư tưởng cốt lõi: vạn vật trong vũ trụ đều thuộc loại những hiện thực hiện tượng; chúng nhất thiết chịu sự chi phối của những quy luật tất yếu và nhân quả. Con người, xét như một sự vật cũng nằm trong thế giới hiện tượng này. Nhưng con người còn là một hữu 35
  41. thể có lý trí cho nên nó là vật tự thân. Với tư cách hữu thể lý trí tự thân, con người có khả năng đặc thù hoạt động vượt ra bên ngoài thế giới hiện tượng, thực hiện mục tiêu và khát vọng hoàn thiện con người. đây là hành vi thể hiện khát vọng thực tiễn – đạo đức, vì vậy là hoạt động tự do. Có thể nói phê phán lý tính thực hành là luận đề tự do của con người, nó bàn nhiều đến tự do và quy luật của đạo đức, tự do và tự chủ, tự do và đối tượng hoạt động của đạo đức. Ông viết các quy luật nhân quả bằng tự do tức nguyên tắc thực tiễn thuần túy sẽ nhất thiết là thời điểm mà ở đó nó sẽ xác lập cho ta những đối tượng mà nguyên tắc này được áp dụng. Điều đó có nghĩa là ý chí tự do của con người là khởi điểm cho hoạt động đạo đức, hoạt động đạo đức là vươn tới tự do. Kant cho rằng không có đạo đức thì không có tự do; thiếu tự do thì không có đạo đức. Và tự do và quy luật thực hành tuyệt đối liên hệ chặt chẽ với nhau đến nỗi không có cái này mà không có cái kia. Giải thích về quy luật đạo đức, Kant viết quy luật đạo đức là gì nếu như không phải là tôi tự buộc mình hành động theo lẽ phải, dù hành động đó có thể gây tai hại với tôi. Chính quy luật đạo đức dưới hình thức mệnh lệnh tuyệt đối đã cho tôi thấy chắc chắn là tôi tự do. Ta biết ta tự do vì hành động của ta không bị kích động bởi những sự kiện do cảm giác cảm tính đem lại, mà ta quyết định hành động hoàn toàn theo lý trí. Những hành động không bị thôi thúc bởi những cảm giác cảm tính mà bằng lý trí thì phải công nhận rằng nó hoạt động như một “vật tự nó” – đó chính là tự do! Là tự do bởi nó không bị chi phối bởi những sự kiện kinh nghiệm. Khi phải giải quyết một hành động phải nhằm vào hình thức tuyệt đối của quy luật đạo đức – của lý trí. Những hành động do tôi quyết định không bị chi phối bởi tính tự ái, tư lợi, tình cảm, dư luận. Lý trí trực tiếp đề ra luật cho nó và tự nó thực hành, lý trí hoàn toàn quyết định theo hình thức của quy luật đạo đức, đó là điều kiện tối cao, làm tôn chỉ cho mọi người hoạt động. Trong đạo đức học của Kant, sự thiện – tối cao là đối tượng mà mọi hành vi đạo đức của con người cần hướng tới. Với ông sự Thiện – tối cao là một “khái niệm siêu việt”. Ông viết: “ khả thể của sự Thiện – tối cao không 36
  42. dựa trên bất kỳ nguyên tắc thường nghiệm nào; nói cách khác sự diễn dịch về khái niệm này phải là có tính siêu nghiệm” . Kant cho rằng một khái niệm có tính chất siêu nghiệm như vậy tất yếu phải là kết quả của tự do siêu nghiệm” bởi lẽ tính nhân quả từ tự do bao giờ cũng phải được tìm ở bên ngoài thế giới cảm tính, tức bên trong thế giới của cái khả niệm. Hay có thể nói rằng tự do siêu nghiệm chính là nguồn gốc tạo ra sự Thiện – tối cao. Ông còn nhấn mạnh rằng: “cần phải tạo ra sự Thiện – tối cao bằng sự tự do của ý chí một cách tất yếu tiên nghiệm vì quy luật luân lý vì thế điều kiện cho khả thể của nó chỉ được phép dựa duy nhất trên những nguyên tắc tiên nghiệm của nhận thức mà thôi” . Kant phê phán quan điểm đạo đức lấy tư lợi và hạnh phúc làm nền tảng và tiêu chuẩn hành động. Ông cho rằng tư lợi và hạnh phúc là “những cố vấn” nham hiểm xây cất nên những quan niệm đạo đức, ngay cả giả sử tất cả mọi người cùng đồng tình lấy nguyên tắc tự ái và hạnh phúc bản thân làm quy luật thực hành của đạo đức thì sự đồng tình đó cũng chỉ có tính chất ngẫu nhiên và một nguyên tắc quyết định như thế vẫn chỉ có giá trị chủ quan không thể có tính tất yếu của một quy luật. Khi bàn đến cái thiện, Kant đã phê phán những quan điểm của triết học truyền thống phương Tây – thứ triết học đứng trên thái độ tự ái và tình cảm cá nhân để quan niệm về cái thiện. Quan niệm đặc trưng của triết học đó là: có được cái thiện khi ta không thèm muốn cái gì nếu không thấy nó tốt. Kant cho rằng câu này là hàm hồ vì có thể hiểu theo hai nghĩa, có thể tốt với anh nhưng không tốt với tôi. Ông phê phán cả quan điểm của Aritxtot: thiện là một vật thể làm đối tượng cho ý chí của ta: con bò thấy cỏ non thì chạy lại, con người thấy sự thiện thì đi theo. Mọi hành vi của con người đều hướng về cái thiện. Con người luôn nhằm đến cái thiện dưới mọi hình thức cảm nhận được. Theo Kant, quan điểm này của Aritxtot chưa thoát khỏi tư tưởng truyền thống bởi vì nếu như quan niệm như vậy thì tất cả những cái tốt, những cái thiện đều bị chi phối, phủ định bởi dục vọng của ta hơn là của lý trí. 37
  43. Để bảo toàn sự tự quyết của lý trí (chỉ như vậy mới làm cho những quyết định hành động được tự do), lý trí phải tuân theo những quy luật đạo đức phổ quát và chỉ khi đó mới thực sự có cái thiện. Tự do cho phép giải thích được trách nhiệm của con người về các hành vi của mình, trong việc lựa chọn giữa cái Thiện và cái Ác. Một điều hiển nhiên đối với Kant là đạo đức của con người không những là năng lực chống lại “các thiên vị kinh nghiệm” mà còn là kết quả lựa chọn tự do và chủ thể. Con người là một hữu thể hữu hạn, do đó, con người chỉ có thể đạt đến đức hạnh mà chưa thể đạt đến đạo đức toàn hảo. Đạo đức toàn hảo này chính là mục đích tối hậu mà một con người cần hướng đến. Khi đạt được đạo đức toàn hảo tức là đã đạt được sự Thiện tối cao và hạnh phúc tối thượng. Muốn được như vậy, con người cần phải có trí tuệ tối cao. Đức hạnh là mục tiêu cao nhất mà con người có thể đạt đến, nó là điều thực dụng đáng mong ước nhất của ta và của mọi nỗ lực theo đuổi hạnh phúc của ta, nên nó là cái thiện hay cái tốt cao nhất. Nhưng đức hạnh không phải là cái thiện toàn bộ, toàn hảo vì cần phải thêm yếu tố hạnh phúc vào thì mới trở nên trọn vẹn. Và sự trọn vẹn này tịnh tiến dần đến sự Thiện tối cao một khi lý tính thực hành vẫn còn hướng đạo cho mọi châm ngôn và hành vi con người.Việc hiện thực hoá sự thiện tối cao ở trong thế giới là đối tượng tất yếu của một ý chí có thể được quy luật luân lý quy định. Trong ý chí này, sự tương ứng hoàn toàn giữa những thiên hướng của tâm hồn con người với quy luật luân lý là điều kiện cần và đủ của sự Thiện tối cao. Sự tương ứng này có thể nói là một điều thiêng liêng, tức là một sự hoàn hảo mà không có bất kì một con người hữu hạn có thể thực hiện được trong hiện hữu của mình. Chúng ta sẽ không hình dung nổi một xã hội mà ở đó lại vắng bóng hay thiếu sự hiện diện của đạo đức. Cuộc sống càng chứng tỏ rằng, xã hội càng tiến bộ, khoa học càng phát triển người ta càng cần đến đạo đức – đặc biệt là nền đạo đức tiến bộ, mang tính nhân bản, nhân ái sâu sắc. Đạo đức học của Kant đã đáp ứng những yêu cầu đó của thời đại khi ông trình bày những quan điểm của mình về hành vi đạo đức, mệnh lệnh tuyệt đối, phạm trù tự do. Chính điều đó đã góp phần đáng kể vào việc tạo dựng những tư tưởng nhân đạo sâu sắc trong triết học phê phán 38
  44. của Kant – triết học hướng nhiệm vụ chính của nó vào việc giải quyết những vấn đề mà con người luôn phải băn khoăn trăn trở trong suốt cuộc đời mình. Đạo đức học của Kant hướng con người tới hoạt động cộng đồng, đòi hỏi con người phải biết sống phù hợp với tự nhiên, tôn trọng mình và tôn trọng mọi người, sống theo lẽ phải và tôn trọng sự thật, xác định con người có một vị trí xứng đáng trong thế giới. Khi phê phán những quan điểm đạo đức chủ quan Kant lên án những quan niệm xây dựng trên tình cảm mà ông gọi là thuyết “tình cảm đạo đức”. Theo ông, đây là chủ trương của những người cho rằng “một thứ cảm giác đạo đức định đoạt cho quy luật chân lý chứ không phải lý trí định đoạt: “ý thức đạo đức của ta được gắn liền với sự thỏa thích cũng như ý thức tội ác gắn liền với sự rối loạn và đau khổ của tâm hồn”. Ông cho rằng những người theo thuyết này là do thiếu khả năng suy luận nên đã viện đến tình cảm để biện hộ cho lý luận của mình. Kant không coi thường tình cảm mà chỉ chống lại việc lấy tình cảm làm nguyên tắc cho hoạt động đạo đức. Từ những quan điểm cốt lõi nêu trên về đạo đức, Kant phân thành hai loại khả năng ước muốn của con người trong hoạt động đạo đức: khả năng ước muốn hạ đẳng và khả năng ước muốn thượng đẳng. Khả năng ước muốn hạ đẳng là khi con người quyết định hành động của mình vì những lợi ích vật chất, tiền tài, danh vọng và lợi ích cá nhân, đảng phái, thậm chí lợi ích của cộng đồng. Khả năng ước muốn thượng đẳng thể hiện khi con người quyết định hoạt động của mình chỉ vì bổn phận và lý trí. Trong hoạt động đạo đức, Kant muốn chúng ta vượt lên trên khỏi sự chi phối của tính tư lợi để vươn đến tầm toàn nhân loại trong khi quyết định những hành động của mình. Chính vì vậy ông đã tự nhận mình là “công dân của thế giới”. Và ông muốn rằng những ai thực sự muốn xứng danh con người thì phải thực hành đạo đức trên quan điểm như vậy. 39
  45. 2.5. Đánh giá quan niệm về tự do của Kant 2.5.1. Giá trị của quan niệm tự do của Kant Trên cơ sở trình bày những luận giải của Kant về “tự do , có thể nhận thấy , Kant đã có những đóng góp không nhỏ trong sự phát triển của con người cũng như xã hội loài người. Điều này thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, “ tự do” mà Kant nói đến trong các tác phẩm đạo đức là “tự do” tuân theo quy luật đạo đức, đối lập hoàn toàn với quy luật tất yếu hay còn gọi là tùy tiện. Kant khẳng định rằng , chỉ khi nào con người hành động theo nguyên tắc đạo đức : hãy chỉ hành động theo phương châm mà bởi đó bạn đồng thời muốn rằng nó phải trở thành một luật phổ quát, như vậy , con người mới có “ tự do” thực sự . Với Kant , nếu không có nguyên tắc đạo đức thì không có tự do”. Từ đó, “tự do” của mỗi cá nhân với tư cách cộng đồng của xã hội đó bao hàm trong nó sự tong tại của những nguyên tắc đạo đức. Nói cách khác, “tự do” của mỗi cá nhân luôn gắn liền với hành vi đạo đức. Chính vì thế, chúng ta có thể nói rằng: “tự do” của Kant là cơ sở cho việc xây dựng một xã hội đạo đức và văn minh, trong đó bao gồm những con người luôn sống và hành động theo nguyên tắc đạo đức. Nếu so sánh với quan niệm của Mác, chúng ta thấy hai ông đều coi bản chất của “tự do” là việc con người tuân thủ và làm chủ quy luật, nhờ đó có thể cải tạo xã hội . Nhưng quy luật của Kant là quy luật đạo đức do lý tính của con người thiết lập còn quy luật của Mác lại là quy luật của thế giới bên ngoài . Chính điều đó tạo nên sự khác biệt trong quan niệm của hai ông về “tự do” . Hiện nay, cùng với sự phát triển ngày một đi lên của xã hội thì ở thế giới nói chung và Việt Nam nối riêng thì việc con người có được tự do là điều hết sức là bình thường . Nếu so sánh quan điểm của Kant với quan niệm tự do hiện tại dù có ít nhiều sự khác nhau về tư tưởng nhưng chúng ta có thể thấy vẫn là phát triển từ quan điểm tự do của Kant . Con người vẫn có tự do song song với nó là tồn tại các luật pháp quyền thay cho các quy tắc đạo đức, các luật đó chủ yếu nhằm bảo về chính con người trong xã hội. 40
  46. Thứ hai về “tự do “ trong quan niêm của Kant đòi hỏi con người không ngừng tu dưỡng, rèn luyện các nguyên tắc đạo đức để làm chủ chính mình trong mọi tình huống . Rõ ràng , với ông “tự do” không phải là con đường hay cách thức để con người sung sướng , mà trái lại, đó là con đường của sự khổ luyện để trưởng thành về mặt đạo đức và nhân cách. Theo đó, Kant quan niệm hạnh phúc đồng nghĩa với phần thưởng quý giá và thiêng liêng dành cho sự khổ luyện của con người, chứ không phải là sự sung sướng hay thỏa mãn nhu cầu dục vọng của cá nhân . Không những thế , tự do của Kant còn đòi hỏi con người phải thực hiện trách nhiệm đạo đức với tha nhân và xã hội . Ông cho rằng, con người tự do là con người luôn nhận thức một cách rõ ràng về trách nhiệm đạo đức của chính mình . Hơn thế, “tự do” của kant cũng đòi hỏi con người phải tôn trọng “nhân tính” của bản thân và tha nhân theo nguyên tắc đạo đức : hãy hành động sao cho việc sử dụng nhân tính nơi bản thân không phải như là một phương tiện . Với tất cả lý do đó, chúng ta có thể khẳng định rằng , khái niệm “tự do” của Kant có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục và phát triển nhân cách con người. Việc không ngừng tu dưỡng nhân cách đạo đức thì giúp chúng ta hoàn thiện bản thân , không những thế nó còn giúp xã hội ngày một văn minh và phát triển . Thứ ba , trong các tác phẩm đạo đức, Kant khẳng định rằng “ tự do” là cơ sở dẫn dắt con người nhận thức về những giá trị đạo đức tốt đẹp (cái “thiện tối cao”) . Nói cách khác , khái niệm “tự do” của Kant có vai trò quan trọng trong việc mang lại cho con người niềm tin –niềm tin vào những giá trị đạo đức tốt đẹp. Rõ ràng, “tự do” không thể mang lại cho con người sự sung sướng về vật chất, nhưng nó có thể mang lại niềm vui sướng về tinh thần , nhát là khi con người nhận biết được những giá trị đạo đức tốt đẹp hay sự trưởng thành về nhân cách của chính mình . Như vậy , với khái niệm “tự do” Kant không chỉ đòi hỏi con người phải khổ luyện để thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm đạo đức của chính mình , mà còn mang lại cho con ngườ niềm tin và hy vọng vào những điều tốt đpẹ trên thế gian này . Chính vì thế, khái niệm “tự do” của ông hàm chứa ý nghĩa sâu sắc. 41
  47. 2.5.2. Hạn chế của quan niệm tự do của Kant Bên cạnh những giá trị như đã phân tích ở trên thì quan niệm về tự do của Kant cũng có những hạn chế nhất định sau: Tự do trong quan niệm của Kant chính là sự giải phóng con người khỏi tất cả những ham muốn , dục vọng của bản thân , độc lập hoàn toàn với không gian , thời gian và các quy luật nhân quả của thế giới tự nhiên. Kant coi đó là sản phẩm thuần túy của thế giới bên trong con người ( thế giới siêu cảm tính), do đó, con người không thể sử dụng những kinh nghiệm sẵn có để chứng minh về sự tồn tại của nó . Theo ông, cách duy nhât để con người nhận biết về “tự do” là hành động theo mệnh lệnh của những nguyên tắc đạo đức mà lý tính thiết lập , ông gọi đó là “tự do siêu nghiệm” hay “tự do nội tâm”. Chính vì thế , chúng ta có thể nói rằng “tự do” của Kant là thứ tự do trừu tượng, phi lịch sử . Hơn nữa, “tự do “ trong quan niệm của kant đòi hỏi con người hạn chế , hy sinh những ham muốn, sở thích , dục vọng cá nhân , dành toàn bộ sức lực và tâm trí để luôn tuân thủ mệnh lệnh của những nguyên tắc đạo đức. Nó còn đòi hỏi con người phải sử dụng lý trí của bản thân vào việc thiết lập nên những quy tắc đạo đức chung cho toàn xã hội . Với những yêu cầu đó, chúng ta thấy “ tự do” của Kant không chỉ mang tính trừu tượng , phi lịch sử , mà cũng phi thực thế . Bởi con người với tư cách những hữu thể cảm tính và hữu hạn không bao giờ có thể trở thành những con người “tự do” như Knat mong muốn –một khái niệm “tự do” mang tính chất lý tưởng . Cuối cùng , Kant coi đó là “ tự do cá nhân” nhưng lại đặt nó trong mối quan hệ với trách nhiệm đạo đức nhưng con người chỉ là một hữu thể hữu hạn và không hoàn hảo do đó việc chấp hành hoàn toàn nghĩa vụ, trách nhiệm đao đức như Kant mong muốn là điều không thể. Ông còn đặt tự do cá nhân với đức tin vào sự hiện hữu của “ Thượng đế” và “sự bất tử của linh hồn” , điều này càng khẳng định tự do của Kant là tự do trừu tượng và phi thực thế. 42
  48. PHẦN KẾT LUẬN Có thể nói, triết học Kant thấm đượm tính nhân văn , chính tính nhân văn đó biểu hiện sâu sắc nhất trong học thuyết của ông về đạo đức, bởi vì ông, khát vọng đem lại cho con người cách nhìn mới hơn về thế giới và về chính bản thân con người quyên với khát vọng thúc đẩy mạnh mẽ ý thức con người vươn tới đạo đức. Đối với ông, một trong những yêu cầu chủ yếu của đạo đức học là phải coi con người là mục đích chứ tuyệt nhiên không được coi con người là phương tiện. Ông tin tưởng một cách chắc chắn rằng, dù cho con người sinh ra có thiện hay có ác như thế nào chăng nữa, dù cho loài người có lúc thăng lúc trầm, dù cho con đường đi của nhân loại có khúc khuỷu, quanh co ra sao thì con người bao giờ cũng vẫn cố gắng vươn lên nhằm hoàn thiện bản thân mình, vươn tới một cuộc sống hạnh phúc và một số. hoà bình vĩnh cửu. Tinh thần nhân văn và lạc quan đó thể hiện. ra như là những tư tưởng vượt thời đại nhằm hướng tới các giá trị toàn nhân loại. Trong đạo đức học của Kant “mệnh lệnh tuyệt đối” là nguyên tắc tối cao giữ vị trí trung tâm. “Mệnh lệnh tuyệt đối” đòi hỏi “hãy hành động đến mức tối đa để cho hành vi của bạn, thông qua ý chí của bạn, cần phải trở thành quy luật phổ biến của tự nhiên”. Đối với Kant, “mệnh lệnh tuyệt đối” là nền tảng của học thuyết về đạo đức, là chỗ dựa để giải quyết tất cả các vấn đề của đạo đức học; là cơ sở để xác định các tiêu chuẩn đánh giá đạo đức; từ đó xác định mục tiêu của việc giáo dục đạo đức, Tiên đề xuất phát của đạo đức học ấy, theo Kant, là luận điểm cho rằng, mọi cá nhân đều là mục đích của chính mình. Do “ mệnh lệnh tuyệt đối” là một tất yếu tuyệt đối được rút ra từ bản chấ tự do của lý tính con đường chứ không phải được rút ra từ kinh nghiệm hiện thực hay từ bản tính tự nhiên của loài người, còn cơ sở để xác lập các nguyên tắc đạo đức không nằm bên ngoài mà ở trong chính bản thân chủ thể , cho nên nó có mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề tự do và tự do đạo đức của chủ thể. Có thể nói “mệnh lệnh tuyệt đối” không tách rời “tự do” , nhờ có tự do mà mệnh lệnh tuyệt đối đạt lên đỉnh cao của sự tự trị của ý chí, là ý chí tự do, là thứ ý chí 43
  49. không bị quy định bởi bất cứ cái gì ngoai bản thân mình và không phụ thuộc vào bát cứ tác động từ bên ngoài. Mệnh lệnh tuyệt đối gắn chặt với vấn đề tự do đạo đức của chủ thể cho nên nó cũng có quan hệ mật thiết với các phạm trù nghĩa vụ đạo đức hay bổn phận đạo đức.Các lĩnh vực nghĩa vụ đạo đức không phải là lĩnh vực xa lá khác, đó chính là lĩnh vực tự do của con người, “vì lý tính thi hành mới là kẻ duy nhất có quyền hướng dẫn những hành vi của ta, nên ta không xem những hành vi đạo đức là bắt buộc phải làm , bởi vì đó là những mệnh lệnh của Thượng đế, trái lại, ta xa chúng là những mệnh lệnh thiêng liêng bởi vì ta thấy có nghĩa vụ phải làm từ trong nội tâm ta. Để từ đó, khi con người thấy được nghĩa vụ phải làm và thực hiện được nghĩa vụ đó xuất phát từ nội tâm của mình tức là con người tìm được sự tự do, có được sự tự do, tức cũng có nghĩa là con người hành động một cách có đạo đức và trở nên con người có đạo đức. Con người hành động một cách có đạo đức vì bản thân con người tìm thấy nhân phẩm và giá trị cao cả, giá trị tuyệt đối ở trong đạo đức, vì con người có lòng tin đạo đức. “Mệnh lệnh tuyệt đối” đòi hỏi con người phải biết hành động ra sao khi tiếp cận đạo đức để cho đạo đức trở thành đòi hỏi phổ biến, trở thành quy luật phổ quát và tuyệt đối. Theo Kant, đạo đức phải mang tính phổ biến và tính tuyệt đối chứ không vụ lợi, không xu thời, do vậy, con người phải thật sự và nghiêm túc tuân theo các quy tắc ứng xử phổ biến, theo các quy tắc chủ quan của lý tính thực tiễn. Quan niệm về đạo đức của Cantơ hoàn toàn đối lập với quan niệm ích kỷ, vụ lợi, thực dụng, hẹp hòi. Nó hướng tới những giá trị chung toàn nhân loại. Nó thể hiện sự khát vọng của con người hướng tới cái thiện, tới hạnh phúc cho mọi người. Từ các quan niệm về tự do của Kant, ta thấy rằng thời nào cũng vậy , con người cũng cần phải có tự do nhưng tự do phải đi song song với tri thức đạo đức đồng thời còn phải có tình cảm với đạo đức để thực hành nghĩa vụ đạo đức. 44
  50. Nhưng song đến hiện tại tự do theo Kant đã không còn được ưa chuộng mà thay vào đó là đề cao tự do cá nhân , tự do tuyệt đối của mỗi ngư 45
  51. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Jason Sorens (2017) , bài viết Immanuel Kant and the Philosophy of Freedom , freedom/ 2. Nguyễn Thanh An(2016) , Luận văn thạc sĩ Quan niệm về tự do trong triết học hiện sinh vô thần và ý nghĩa đối với lối sống của sinh vien hà nội hiện nay , Đại học Khoa học xã hội và nhân văn , Đại học quốc gia Hà Nội 3. Alexis de Tocqueville (2014), Nền dân trị Mỹ, bản dịch của Phạm Toàn, Nxb. Tri thức, Hà Nội. 4. C.Mác - Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb.Chính trị Quốc gia,Hà Nội. 5. C.Mác - Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb.Chính trị Quốc gia,Hà Nội. 6. Nguyễn Trọng Chuẩn (2004), Đạo đức học của Cantơ và ý nghĩa hiện thời của nó , Trong: Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Triết học cổ điển Đức - nhận thức luận và đạo đức học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhânvăn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2004, tr 433-440. 7. Ngô Thị Mỹ Dung ( 2004) , Triết học đạo đức của Kant và ảnh hưởng của nó đối với nền triết học phương Tây, Trong: Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Triết học cổ điển Đức - nhận thức luận và đạo đức học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2004, tr 441- 457. 8. TRần Thái Đỉnh (2005), Triết học Hiện sinh , nxb .Văn học, Tp Hồ Chí Minh 9. Trần Thái Đỉnh (2005), Triết học Kant, nxb.văn hóa thông tin 10. Trần Độ (chủ biên ) (1983) , Bàn về lối sống và nếp sống XHCN , nxb.Văn hóa, Hà Nội . 11. G.G.Rútxô. Bàn về khế ước xã hội (Thanh Đạm dịch), Nxb.TP Hồ Chí Minh, 1992, tr. 29. 12. Đỗ Thị Hòa Hới (2004), Tìm hiểu một số quan niệm đạo đức của I.Cantơ (Qua so sánh với quan niệm đạo đức của Mạnh Tử ), Trong: Kỷ yếu 46
  52. Hội thảo khoa học: Triết học cổ điển Đức - nhận thức luận và đạo đức học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2004, tr 496-511. 13. Nguyễn Văn Huyên (1996), Triết học Immanuel Kant, Nxb.Khoa học Xã hội 14. Ths. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2004) , Bước đầu tìm hiêu cách nhìn của Imanuen Kant về thế giới và con người, Hội nghị khoa học nữ lần thứ 9 , Hà Nội 15. Immanuel Kant (2004), Phê phán lý tính thuần túy (Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải), Nxb .Văn học 16. Immanuel Kant (2007), Phê phán lý tính thực hành ( Bùi văn Nam Sơn dịch và chú giải ), nxb. Tri thức 17. Dương Thị Liễu (2004), Định hướng phê phán duy hạnh phúc luận trong đạo đức học Cantơ, Trong: Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Triết học cổ điển Đức - nhận thức luận và đạo đức học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2004, tr 629 – 638 18. Nguyễn Thế Nghĩa(1997), Vấn đề tự do và tất yếu trong triết học Canto ,trong cuốn I.Canto Người sáng lập nền triết học cổ điển Đức, nxb. Khoa học xã hội ,Hà Nội 19. Lê Công Sự (2006), Triết học cổ điển Đức, Nxb.Thế giới, Hà Nội. 20. Lê Công Sự ( 2007), Học thuyết phạm trù trong triết học của I.Kant, Nxb.Chính trị quốc gia 21. Đinh Ngọc Thạch (2004), bài viết : Về “tự do” với tư cách phạm trù xã hội , Tạp chí triết học , số 2 ,tr.153. 22. Trần Đức Thảo (1995), Lịch sử tư tưởng trước Mác, Nxb.Khoa học Xã hội. 23. Từ điển triết học (1975), Nxb.Tiến bộ và Nxb.Sự thật 24. Nguyễn Hữu Vui (chủ biên) (1998), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 47
  53. 25. Bùi Thị Kim Xuân (2013), Luận văn thạc sĩ triết học : Đạo đức học của Kant trong tác phẩm phê phán lý tính thực hành , Đại học khoa học xã hội và nhân văn , Đại học quốc gia Hà Nội. 26. Nguyễn Thị Hải Yến(2013), Luận văn thạc sĩ “ Quan niệm của I.Kant trong phê phán lý tính thuần túy”, Đại học khoa học xã hội và nhân văn , Đại học quốc gia Hà Nôi. 27. Hồ Sĩ Quý ( 2006), Bài viết : “ Nghiên cứu phức hợp về con người từ M.Cheler đến E. Morin và I.T.Frolov”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 4,tr.9-18. 28. Hồ Sĩ Quý(2006), Bài viết : “ Immanuel Kant từ triết học phê phán đến nghiên cứu con người”, cuu/immanuelkant-triethocphephan-nccn-e.html 48