Khóa luận Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến mại

pdf 69 trang thiennha21 16/04/2022 5191
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến mại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_phap_luat_ve_canh_tranh_khong_lanh_manh_trong_hoat.pdf

Nội dung text: Khóa luận Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến mại

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THANH TÂM PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT HỌC Hệ đào tạo: Chính qui Khóa học: QH-2012_L Hà Nội, năm 2016. 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THANH TÂM PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT HỌC Hệ đào tạo: Chính qui Khóa học: QH-2012_L NGƯỜI HƯỚNG DẪN: GV TH.S TRẦN ANH TÚ Hà Nội, năm 2016 2
  3. LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan khóa luận này là kết quả của quá trình nghiên cứu và học tập của em cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình từ thầy Trần Anh Tú. Mọi tham khảo, trích dẫn đều có nguồn rõ ràng. Em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về bài khóa luận của mình. Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2016. Sinh viên thực hiện Phạm Thanh Tâm 3
  4. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 6 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH 9 1.1. Khái quát chung về khuyến mại 9 1.1.1. Khái niệm về khuyến mại 9 1.1.2. Đặc điểm của hoạt động khuyến mại 11 1.1.3. Các hình thức khuyến mại 13 1.1.4. Vai trò và ý nghĩa của hoạt động khuyến mại 17 1.2. Khái quát chung về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh 24 1.2.1. Khái niệm về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh 24 1.2.2. Đặc trưng pháp lý của khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh . 25 1.2.3. Tác động của hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh 27 CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TẠI VIỆT NAM 29 2.1. Các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo Luật cạnh tranh 2004 29 2.1.1. Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng 29 2.1.1. Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng 35 2.1.2. Phân biệt đối xử với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại 39 2.1.3. Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình 41 2.2. Xử lý các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh 45 2.2.1. Cơ quan có thẩm quyền xử lý 45 2.2.2. Trình tự, thủ tục xử lý hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh 48 2.2.3. Chế tài đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh 49 4
  5. CHƯƠNG 3. HƯỚNG GIẢI QUYẾT VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 53 3.1. Hướng giải quyết đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh 53 3.2. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam hiện nay 61 KẾT LUẬN 66 DANH MỤC TÀI LIỆU 68 5
  6. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do nghiên cứu Nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua đã có những sự vận động mạnh mẽ, được vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ này, nước ta đang dần dần hội nhập với nền kinh tế thị trường. Đây là những điều kiện cần thiết cho sự phát triển của nền kinh tế một quốc gia và tồn tại trong đó nhiều vấn đề liên quan chi phối nhiều khía cạnh của nền kinh tế ảnh hưởng đến sự phát triển cân bằng của nền kinh tế và cho cuộc sống của mỗi người dân, một trong những vấn đề đó là cạnh tranh mà điều đáng chú ý là cạnh tranh không lành mạnh. Khi bước vào môi trường kinh doanh tự do để tạo bước chuyển cho nền kinh tế phát triển năng động thì cạnh tranh trong mua bán hàng hoá là cần thiết và không thể tránh khỏi. Mỗi một nhà sản xuất luôn muốn kiếm lợi nhuận thật nhiều và mua bán hàng hoá đòi hỏi phải có chiến lược và có thể bao gồm cả thủ đoạn không đẹp để hạ gục đối thủ cạnh tranh với mình. Có nhiều biện pháp sử dụng trong cạnh tranh như: quảng cáo, khuyến mại, cạnh tranh bằng giá cả Bất kỳ một sản phẩm nào làm ra đều cần được đưa tới người tiêu dùng bằng nhiều cách khác nhau để làm sao thu hút thật nhiều khách hàng mà khuyến mại một trong những hoạt động rất thường được sử dụng để giới thiệu hàng hoá của mình như: hàng loạt các chương trình khuyến mại diễn ra rầm rộ nhằm kích thích sức mua của khách hàng cho một loại sản phẩm nào đó. Có những nhà sản xuất, kinh doanh vì không cạnh tranh được với những hãng khác thì lại dùng những biện pháp không đẹp để cạnh tranh không lành mạnh bằng nhiều thủ đoạn khác nhau: bán phá giá hàng hoá, gièm pha quảng cáo so sánh nói xấu sản phẩm của doanh nghiệp khác Những vụ việc, vấn đề này phải được pháp luật can thiệp và xử lý kịp thời để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng. Luật cạnh tranh ra đời năm 2004 trong đó có quy định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm. Đây là hành lang pháp lý quan trọng tạo ra sự cạnh tranh công bằng trong hoạt động kinh doanh, sự 6
  7. yên tâm cho các nhà sản xuất và cả những nhà đầu tư vào kinh doanh. Nhưng pháp luật cũng không thể quy định bao quát hết và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh với thủ đoạn ngày càng diễn ra tinh vi hơn xuất hiện ngày càng nhiều. Ngày nay, cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến mại xảy ra càng đa dạng và ảnh hưởng lớn đến lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp khác và đặc biệt là của người tiêu dùng, tuy Luật cạnh tranh 2004 đã được ban hành để nhằm hạn chế, khắc phục và xử lý các hành vi vi phạm nhưng trên thực tế thì việc áp dụng, thực thi Luật cạnh tranh còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cần sớm được giải quyết để góp phần bảo vệ lợi ích chung của xã hội và cũng để bình ổn môi trường cạnh tranh, tạo khung pháp lý vững chắc để các doanh nghiệp hoạt động theo khuôn khổ pháp luật và luôn cạnh tranh công bằng. Chính vì những lẽ trên nên người viết đã chọn đề tài “Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến mại” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích của người viết khi nghiên cứu đề tài này là để tìm hiểu những quy định về cạnh tranh không lành mạnh và khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, về thẩm quyền cũng như chế tài xử lý đối với những hành vi vi phạm. Từ đó, người viết xem xét những quy định của pháp luật về lĩnh vực này có phù hợp với tình hình trên thực tế đang diễn ra hay không, đồng thời những quy định này có mang lại hiệu quả hay không nhằm đưa ra một số kiến nghị đề xuất và giải pháp để phần nào khắc phục những hạn chế còn tồn tại cũng như củng cố vũng chắc thêm hành lang pháp lý. 3. Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi đề tài người viết tập trung nghiên cứu những quy định pháp luật về hoạt động khuyến mại theo Luật thương mại 2005 và Nghị định 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2006 quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại, Nghị định 68/2009/NĐ- CP ngày 06 tháng 7
  8. 08 năm 2009 sửa đổi, bổ sung khoản 7 Điều 4 Nghị định số 37/2006/NĐ-CP và Nghị Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2005 quy định về xử phạt vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh. Bên cạnh, người viết cũng nghiên cứu những quy định cụ thể về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, thẩm quyền xử lý và chế tài đối với hành vi này như thế nào theo Luật cạnh tranh 2004, được Quốc hội thông qua ngày 03/12/2004 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2005. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong đề tài của mình người viết đã sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, sau đó tổng hợp lại để đưa ra những khái niệm và quan điểm cơ bản nhất về cạnh tranh không lành mạnh và khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Bên cạnh đó, người viết còn sử dụng phương pháp phân tích luật viết để tìm hiểu những quy định cụ thể của pháp luật, từ đó có thể nêu lên thực trạng và phương hướng giải quyết những mặt còn tồn tại của luật. 5. Bố cục của đề tài Đề tài “Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến mại” bao gồm: - Phần mở đầu. - Phần nội dung: gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về cạnh tranh không lành mạnh và khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Chương 2: Quy định của pháp luật về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam. Chương 3: Hướng giải quyết và một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam hiện nay. - Phần kết luận - Danh mục tài liệu tham khảo. 8
  9. CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH 1.1. Khái quát chung về khuyến mại 1.1.1. Khái niệm về khuyến mại Ngày nay, trong thời đại kinh tế thị trường, nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, thì cuộc chiến cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết. Nó đã trở thành vấn đề tất yếu của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp khi muốn sản phẩm của mình có thể tồn tại trên thị trường và cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp khác, thì ngoài chất lượng sản phẩm tốt, mẫu mã đẹp mắt, giá thành hợp lý thì doanh nghiệp còn cần phải làm cho người tiêu dùng biết đến sản phẩm của mình. Vì nếu sản phẩm có tốt đến đâu đi nữa mà khách hàng không biết đến thì sản phẩm cũng không thể tiêu thụ được. Để hàng hóa của mình có thể được người tiêu dùng biết đến thì doanh nghiệp phải sử dụng mọi giải pháp để tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội bán hàng và cung ứng dịch vụ. Một trong những hình thức xúc tiến thương mại mà ta không thể không kể đến đó là hình thức khuyến mại. Vậy khuyến mại là gì? Nhằm liên hệ giữa thị trường và công chúng, thương nhân ngày càng quan tâm hơn đến hoạt động xúc tiến thương mại thông qua các hình thức như khuyến mại, quảng cáo, Trong đó, khuyến mại là một trong những công cụ kinh doanh quan trọng thúc đẩy việc mua bán hàng hóa, dịch vụ. Thuật ngữ “khuyến mại” trong tiếng Anh là Sales promotion, hoặc đôi khi cũng được gọi là Promotion. Trong Tiếng Việt, “khuyến mại” được hiểu là khuyến khích việc mua hàng, cách hiểu này xuất phát từ Hán Việt: “khuyến” là khuyến khích, “mại” là mua. Ở các nước vận hành nền kinh tế thị trường, thuật ngữ “khuyến mại” được dùng khá phổ biến. Tại Việt Nam, thuật 9
  10. ngữ này hiện đã được sử dụng rộng rãi gắn liền với giới thương nhân và người tiêu dùng. Hiện nay, khái niệm khuyến mại đã được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Từ góc độ ngôn ngữ Tiếng Việt Đại từ điển Tiếng Việt của trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, đưa ra định nghĩa về khuyến mại: “Khuyến mại là những hành động, tài liệu, công cụ và kỹ thuật được dùng để bổ sung cho quảng cáo và chương trình tiếp thị ( như giảm giá, quà tặng, sổ xố, ) nói chung”[11,928]. Từ điển từ mới Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học đã định nghĩa về khuyến mại như sau: “Khuyến mại là khuyến khích việc mua hàng, thường bằng biện pháp giảm giá hoặc kèm thêm quà tặng”[12,126]. Và một định nghĩa rất đơn giản về khuyến mại trong từ điển Việt Nam: “Khuyến mại là khuyến khích mua hàng”[13,516]. Từ góc độ kinh tế Khuyến mại hành vi khuyến mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc bán hàng, cung ứng dịch vụ trong phạm vi kinh doanh của thương nhân bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. Khuyến mại là một hình thức của xúc tiến thương mại được doanh nghiệp sử dụng nhằm kích thích khách hàng sử dụng hành hóa, dịch vụ của mình [14,257]. Từ góc độ pháp luật Theo Điều 88 Luật Thương mại 2005 quy định rằng: “Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định”. Cách thức thực hiện xúc tiến thương mại, tạo ra những điều kiện thuận lợi để thúc đẩy mạnh mẽ việc bán hàng và cung ứng dịch vụ là dành 10
  11. cho khách hàng những lợi ích nhất định. Khuyến mại mang nghĩa là "khuyến khích mua hàng hoá, dịch vụ", do đó mục đích chính của khuyến mại là kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy người tiêu dùng mua và mua nhiều hơn các hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp hoặc phân phối. Ngoài ra, hoạt động khuyến mại còn nhằm mục đích quảng bá thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp. So với Luật Thương mại năm 1997, Luật Thương mại năm 2005 khi định nghĩa về khuyến mại đã chuẩn xác hơn có bổ sung thêm mục đích của khuyến mại. Cụ thể, mục đích của khuyến mại không chỉ nhằm xúc tiến việc bán hàng mà còn xúc tiến việc mua hàng. Mặc dù khuyến mại để bán hàng là hoạt động phổ biến của thương nhân, do thương nhân tiến hành như một nhu cầu tất yếu của thương nhân để tăng cường khả năng cạnh tranh mở rộng thị trường, thị phần, nhưng đối với thương nhân thương mại, việc khuyến mại để mua hàng, gom hàng cũng có thể trở thành nhu cầu tất yếu cần thiết để hoàn thành kế hoạch kinh doanh. 1.1.2. Đặc điểm của hoạt động khuyến mại Khuyến mại là công cụ kích thích bán hàng tốt nhất vì nó đánh vào thị hiếu người tiêu dùng và tác động trực tiếp tới lợi ích của họ, do đó kích thích mua sắm làm tăng số lượng hàng bán, tăng các dịch vụ được cung ứng. Như vậy, khuyến mại là việc sử dụng hàng loạt các biện pháp tác động đến lợi ích vật chất của khách hàng nhằm kích thích sự tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Từ định nghĩa của khuyến mại theo Luật Thương mại 2005, cho thấy khuyến mại bao gồm các đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi khuyến mại là thương nhân: Để tăng cường cơ hội thương mại, thương nhân được phép tự mình tổ chức thực hiện việc khuyến mại, cũng có thể lựa chọn dịch vụ khuyến mại của thương nhân khác để làm kinh doanh. Quan hệ dịch vụ này được hình thành trên cơ 11
  12. sở hợp đồng dịch vụ khuyến mại giữa thương nhân có nhu cầu khuyến mại và thương nhân kinh doanh dịch vụ. Theo Luật thương mại năm 2005 thì chủ thể được phép tổ chức khuyến mại là các thương nhân thuộc một trong các trường hợp sau: - Thương nhân trực tiếp khuyến mại hàng hóa, dịch vụ mà mình kinh doanh. - Thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại thực hiện khuyến mại cho hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác theo thỏa thuận với thương nhân đó. Và tại Điều 91, Luật thương mại năm 2005 cũng cụ thể hơn về việc chi nhánh và văn phòng đại diện của doanh nghiệp trong việc thực hiện hoạt động khuyến mại, cụ thể như sau: - Thương nhân Việt Nam, chi nhánh của thương nhân Việt Nam, chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam có quyền tự tổ chức khuyến mại hoặc thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại thực hiện việc khuyến mại cho mình. - Văn phòng đại diện của thương nhân không được khuyến mại hoặc thuê thương nhân khác thực hiện khuyến mại tại Việt Nam cho thương nhân mà mình đại diện. Thương nhân được phép tổ chức khuyến mại ở đây là thương nhân được quy định tại khoản 1, Điều 6, Luật thương mại năm 2005 bao gồm “tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Thứ hai, cách thức khuyến mại: Là dành cho khách hàng những lợi ích nhất định, tùy thuộc vào mục tiêu của đợt khuyến mại, tùy thuộc vào trạng 12
  13. thái cạnh tranh, phản ứng của đối thủ cạnh tranh trên thương trường, tùy thuộc vào kinh phí dành cho đợt khuyến mại mà lợi ích thương nhân dành cho khách hàng có thể là quà tặng, hàng mẫu để dùng thử, mua hàng giảm giá, hoặc là lợi ích phi vật chất khác. Thứ ba, mục đích của khuyến mại là xúc tiến việc bán hàng và cung ứng dịch vụ. Thương nhân có thể thực hiện việc khuyến mại nhằm tác động trực tiếp đối với người tiêu dùng hoặc với các trung gian phân phối. Khuyến mại cho người tiêu dùng để lôi kéo sức mua, tiếp thị một sản phẩm mới, kích thích tiêu thụ sản phẩm đã có trên thị trường, làm cho khách hàng đến các cửa hàng bán lẻ nhiều hơn nhằm tăng thị phần của thương nhân trên thị trường. Khuyến mại cho các trung gian phân phối nhằm kích thích sự chú ý của trung gian phân phối đối với hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp mình để đặt hàng và tích cực chào hàng cho mình và cũng để tăng cường quan hệ đối tác với trung gian phân phối. 1.1.3. Các hình thức khuyến mại Bằng nhiều hình thức khác nhau, khuyến mại giúp cho người tiêu dùng biết đến, sử dụng sản phẩm và vì thế, đồng thời doanh thu của doanh nghiệp cũng tăng lên. Theo Điều 92 Luật thương mại 2005 thì thương nhân sẽ được phép tổ chức các hình thức khuyến mại sau: Đưa hàng mẫu cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền: Với hình thức này thì hàng mẫu đưa cho khách hàng, dịch vụ mẫu cung ứng cho khách hàng dùng thử phải là hàng hóa, dịch vụ được kinh doanh hợp pháp mà thương nhân đang hoặc sẽ bán, cung ứng trên thị trường. Việc áp dụng hình thức khuyến mại này nhằm mục đích thăm dò thị trường cũng như bước đầu làm quen với sản phẩm và người tiêu dùng có điều kiện dùng thử để kiểm tra chất lượng hàng hóa, dịch vụ có như nhà sản xuất đã cung cấp hay 13
  14. không. Hình thức đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu là một hình thức thuyết phục khách hàng khá hữu hiệu bằng cách họ là người trực tiếp kiểm định chất lượng hàng hóa, dịch vụ để đưa ra quyết định có sử dụng sản phẩm đó hay không, nếu khách hàng chấp nhận dùng sản phẩm thử và đánh giá tốt thì việc họ chấp nhận tiêu thụ hàng hóa trong tương lai sẽ rất dễ dàng, khi đó hàng hóa sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường. Khi nhận hàng mẫu, dịch vụ mẫu, khách hàng không phải thực hiện bất kỳ nghĩa vụ thanh toán nào. Thương nhân thực hiện khuyến mãi bằng hình thức đưa hàng mẫu có thể cung cấp hàng mẫu theo yêu cầu của khách hàng, được phát tại nơi bán hàng hoặc phát tận tay người tiêu dùng. Để đạt được kết quả tốt nhất thì hàng hóa mẫu phải đến được đúng đối tượng mà nhà sản xuất nhắm tới và thương nhân phải chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của mình. Tặng hàng hóa cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền: Thương nhân được dùng hàng hóa, dịch vụ đang kinh doanh hoặc hàng hóa, dịch vụ khác để tặng, cung ứng dịch vụ cho khách hàng. Đối với các sản phẩm, hàng hóa có kèm quà tặng hay dịch vụ hậu mãi sẽ thu hút được khách hàng nhiều hơn những sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cùng loại trên thị trường không áp dụng hình thức khuyến mại tặng hàng hóa, cung ứng dịch vụ không thu tiền. Bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, cung ứng dịch vụ trước đó, được áp dụng trong thời gian khuyến mại đã đăng ký hoặc thông báo: Đây là hình thức bán hàng, cung ứng dịch vụ giảm giá theo tỉ lệ phần trăm hoặc theo một giá trị nhất định. Hình thức khuyến mại giảm giá có tác dụng thúc đẩy sự tiêu thụ đối với một mặt hàng có sức tiêu thụ chậm, doanh nghiệp sản xuất, cung ứng dịch vụ sẽ dùng một phần lợi nhuận mà bán giảm giá để tạo sự mới mẻ đối với mặt hàng này nhằm thu hút khách hàng trở lại. 14
  15. Đây là hình thức hấp dẫn khách hàng vì nó đánh vào tâm lý tiêu thụ của họ. Khách hàng sẽ nhận thấy sự chênh lệch về giá cả trước và trong thời gian khuyến mại để có sự so sánh và do đó sức mua đối với mặt hàng đó sẽ dễ dàng tăng lên. Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ để khách hàng được hưởng một hay một số lợi ích nhất định: Đây là hình thức thường được sử dụng trong kinh doanh thương mại khi khách hàng mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ với một số lượng nhất định sẽ được phát phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất, cung ứng dịch vụ phát hành nhằm khuyến khích khách hàng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ một cách thường xuyên với số lượng lớn. Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người trao thưởng theo tỉ lệ và giải thưởng đã công bố: Thông qua chương trình này doanh nghiệp sẽ biết được mức độ quan tâm của khách hàng đối với sản phẩm của mình ra sao để từ đó có chiến lược xúc tiến thương mại hợp lý. Đồng thời, cũng giúp người tiêu dùng hiểu biết rõ hơn về nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm mà mình đang sử dụng. Bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang tính may rủi mà việc tham dự chương trình gắn liền với việc mua hàng hóa, dịch vụ và việc trúng thưởng dựa trên sự may mắn của người tham gia theo thể lệ và giải thưởng đã công bố: Đây là hình thức khuyến mại dựa trên sự may mắn của khách hàng, các doanh nghiệp đánh vào tâm lý muốn thử vận may của người tiêu dùng thông qua các hình thức như: bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm phiếu tham gia bốc thăm trúng thưởng, xổ số để trao giải thưởng Giải thưởng càng lớn thì sự 15
  16. hấp dẫn càng cao, việc tiêu thụ sản phẩm, sử dụng dịch vụ cũng đạt được hiệu quả cao hơn. Tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên, theo đó việc tặng thưởng cho khách hàng căn cứ trên số lượng hoặc trị giá mua hàng hóa, dịch vụ mà khách hàng thực hiện được thực hiện dưới hình thức thẻ khách hàng, phiếu ghi nhận sự mua hàng hóa, dịch vụ hoặc các hình thức khác: Hình thức này được các doanh nghiệp sử dụng nhằm lôi kéo một lượng khách hàng thường xuyên, thân quen. Thông qua việc mua sắm hàng hóa, sử dụng dịch vụ với một số lượng, giá trị nào đó sẽ được cấp thẻ khách hàng hay phiếu ghi nhận tích lũy điểm là khách hàng thường xuyên, khách hàng thân quen và sẽ được hưởng những lợi ích nhất định như: đổi quà tặng hấp dẫn, ưu tiên mua hàng, giảm giá hàng hóa, sử dụng dịch vụ chăm sóc khách hàng miễn phí Tổ chức cho khách hàng tham gia các chương trình văn hóa, nghệ thuật, giải trí và các sự kiện khác vì mục đích khuyến mại: Thông qua việc tổ chức các sự kiện đặc biệt, doanh nghiệp sẽ quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của mình giống như lời cám ơn đối với khách hàng đã sử dụng sản phẩm và khuyến khích họ tiếp tục sử dụng sản phẩm trong tương lai. Các hình thức khuyến mại khác nếu được cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại chấp nhận: Bằng những hình thức khuyến mại nêu trên doanh nghiệp mong muốn sẽ thu hút và làm hài lòng khách hàng, từ đó sẽ khuyến khích họ sử dụng hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp nhiều hơn. Ngoài ra, các doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều hình thức khuyến mại khác nhau nếu như được các cơ 16
  17. quan quản lý Nhà nước về thương mại chấp nhận. Tuy nhiên, khi thực hiện các hình thức khuyến mại, doanh nghiệp cần phải hạn chế tình trạng gian lận, lừa dối hay lợi dụng để cạnh tranh không lành mạnh nhằm loại bỏ đối thủ của mình. Cạnh tranh lành mạnh sẽ là động lực phát triển tốt nhất, là môi trường trong sạch và đầy năng động để doanh nghiệp khẳng định vai trò của mình trong nền kinh tế hiện đại. 1.1.4. Vai trò và ý nghĩa của hoạt động khuyến mại Với vị trí là một trong những lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế, khuyến mại giữ vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của thương nhân. Đặc biệt là trong một thị trường rộng mở và cạnh tranh. Đối với thương nhân, khuyến mại được dùng nhằm thúc đẩy việc mua bán trao đổi hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Cùng với quảng cáo, khuyến mại luôn giữ vai trò là một trong những công cụ đắc lực và hiểu quả nhất để phát triển thương mại. Nếu một thương nhân không thể chuyển tải các thông tin về hàng hóa, dịch vụ tới khách hàng một cách có hiệu quả và không thể thu được sực quan tâm, chú ý của mình trong một thị trường đa dạng hàng, hóa dịch vụ cùng loại thì thương nhân đó sẽ không có khả năng khai thác chiếm lĩnh được thị trường trong thời đại thông tin bùn nổ hiện nay. Trong thực tế, khuyến mại là hoạt động luôn được ưu tiên trong chiến lược kinh doanh của các thương nhân. Đó cũng chính là xu thế phổ biến hiện nay trong cộng đồng các nhà kinh doanh bất kể tính đặc thù của ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Xu hướng hoạt động của các thương nhân vừa và nhỏ chưa có thị phần hay thị phần nhỏ chưa ổn định thì định hướng khuyến mại theo thị trường đặc thù và theo nhóm khách hàng tiềm năng để tập trung chiếm lĩnh nền móng cho hoạt động kinh doanh lâu dài. Kèm với việc tung ra các sản phẩm, dịch vụ mới vào thị trường bao giời cũng là các chương trình khuyến mại được 17
  18. thương nhân thiết kế theo khả tài chính và mục đích kinh doanh của mình. Thật khó tìm ra một sản phẩm, dịch vụ mới nào được đưa ra thị trường mà không kèm theo một chiến dịch khuyến mại tương ứng. Còn các thương nhân đã có thi phần ổn định thì bên cạnh việc duy trì hoạt động khuyến mại để giữ vững thị phần, để khuyến khích khách hàng trung thành lại phải tiếp tục tính tới việc sử dụng các công cụ khuyến mại để phát triển thi trường mới bằng cách thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng của số đông. Các thương nhân cỡ lớn luôn duy trì hoạt động khuyến mại ở mức độ trung bình và cao tùy theo thời điểm của năm kinh doanh. Có những thương nhân còn tổ chức thực hiện khuyến mại quanh năm suốt tháng không ngừng nghỉ cho các sản phẩm của mình, các chương trình khuyến mại liên tục tới khách hàng. Đối với khách hàng, tương ứng với hoạt động khuyến mại của thương nhân, họ tiếp cận khuyến mại để tìm kiếm các giá trị tăng thêm thông qua việc mua bán hàng hóa, dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của cá nhân. Thông qua những hoạt động tích cực của khuyến mại đối với các chủ thể có liên quan bao gồm thương nhân chủ động thực hiện khuyến mại, thương nhân khác và khách hàng trong nền kinh tế, ta có thể khái quát vai trò của khuyến mại như sau: Qua hoạt động khuyến mại thương nhân có thông tin tốt về khách hàng và hoạt động khuyến mại là cầu nối giữa khách hàng và thương nhân.” Thương nhân chủ động thực hiện khuyến mại sẽ thu được nguồn thông tin đầu tiên từ khách hàng là những người trực tiếp liên quan tới hoạt động khuyến mại bao gồm những ý kiến, thái độ, phản ứng của họ đối với sản phẩm, dịch vụ kinh doanh và đối với tên tuổi, uy tín của thương nhân. Thông qua khuyến mại, thương nhân cũng có thông tin từ những khách hàng tiềm năng, đó là những người có khả năng sẽ tiêu thụ hàng hóa, sử dụng dịch vụ. Tuy không có liên quan trực tiếp tới hoạt động khuyến mại nhưng họ gián 18
  19. tiếp được tiếp nhận thông tin về hoạt động khuyến mại bao gồm ý kiến, thái độ của họ đối với hoạt động khuyến mại và bản thân thương đó. Việc tìm hiểu, nghiên cứu khách hàng thông qua hoạt động khuyến mại không chỉ dừng lại ở chổ sẽ tiêu thụ được sản phẩm của thương nhân mà quan trọng hơn nữa là phải đảm bảo song song việc giữ được khách hàng hiện tại và lôi kéo khách hàng tiềm năng. Kết quả thu thập thông tin từ khách hàng qua đợt khuyến mại, thương nhân sẽ có điều kiện nhìn nhận về ưu điểm, nhược điểm, vị trí hàng hóa, dịch vụ của thương nhân, hành vi của khách hàng nói riêng và trên thị trường nói chung. Đây là cơ sở để doanh nghiệp ra quyết định phù hợp và kịp thời, bám sát yêu cầu và đòi hỏi của thị trường. Hoạt động khuyến mại giúp thương nhân thu nhận được thông tin từ đối thủ cạnh tranh.” Trên thị trường, sự cạnh tranh giữa những người tham gia hoạt động thương mại, đặc biệt là những thương nhân hoạt động thương mại trong cùng lĩnh vực kinh doanh là tất yếu khách quan. Do đó, hoạt động khuyến mại của mỗi thương nhân đều có thể tác động đến chiến lược kinh doanh và hoạt động thương mại thực tế của thương nhân khác. Vì vậy, hoạt động khuyến mại phần nào thể hiện những thông tin về đối thủ cạnh tranh trên cả hai phương diện xem xét: đối thủ cạnh tranh của thương nhân chủ động thực hiện khuyến mại hoặc chính thương nhân này với tư cách là đối thủ cạnh tranh của thương nhân khác. Mỗi thương nhân cần thu thập các số liệu quan trọng mới nhất về nghiệp vụ của đối thủ cạnh tranh mà trong đó năng lực tiến hành khuyến mại và việc tiến hành hoạt động khuyến mại trên thực tế là yếu tố cấu thành vô cùng quan trọng. Nắm được nguồn tư liệu quý giá đó, thương nhân có thể quyết định thách thức đối thủ nào trên thị trường. Cùng với nguồn thông tin 19
  20. tốt từ khách hàng, thương nhân sẽ có hướng đầu tư công nghệ hiện đại, đổi mới kinh doanh hay tiếp tục duy trì và phát huy thế mạnh kinh doanh hiện có của mình. Hoạt động khuyến mại thúc đẩy việc bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trở nên thuận lợi và năng động hơn; đua hàng hóa, dịch vụ vào kênh phân phối một cách hợp lý và kích thích tính hiệu quả của lực lượng bán hàng.” Tính thuận lợi ở đây được thể hiện thông qua việc khách hàng được trực tiếp tiếp cận hàng hóa, dịch vụ (ví dụ:mời dùng thử sản phẩm, hưởng dịch vụ miễn phí) hoặc được tạo điều kiện thông qua hàng hóa, dịch vụ khác mà biết tới tên tuổi của thương nhân cùng mặt, hàng dịch vụ mà thương nhân kinh doanh (ví dụ: người tiêu dùng đi mua sắm tại siêu thị được tặng lịch treo tường trên đó có in tên, địa chỉ của doanh nghiệp và hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó bán hay cung ứng). Ngoài ra qua những kênh thông tin như báo chí, mạng Internet, đài phát thanh và truyền hình hay truyền miệng giữa các khách hàng với nhau cũng góp phần truyền bá hình ảnh về thương nhân và hàng hóa, dịch vụ của thương nhân. Như vậy, tính thuận lợi được thể hiện ở sự xây dựng nền tảng cơ sở nhận biết thương nhân cùng với hàng hóa, dịch vụ. Kết quả thu thập thông tin từ khách hàng qua đợt khuyến mại, thương nhân sẽ có điều kiện nhìn nhận về ưu điểm, nhược điểm, vị trí hàng hóa, dịch vụ của thương nhân, hành vi của khách hàng nói riêng và trên thị trường nói chung. Đây là cơ sở để doanh nghiệp ra quyết định phù hợp và kịp thời, bám sát yêu cầu và đòi hỏi của thị trường. Hoạt động khuyến mại giúp thương nhân thu nhận được thông tin từ đối thủ cạnh tranh.” Trên thị trường, sự cạnh tranh giữa những người tham gia hoạt động thương mại, đặc biệt là những thương nhân hoạt động thương mại trong cùng 20
  21. lĩnh vực kinh doanh là tất yếu khách quan. Do đó, hoạt động khuyến mại của mỗi thương nhân đều có thể tác động đến chiến lược kinh doanh và hoạt động thương mại thực tế của thương nhân khác. Vì vậy, hoạt động khuyến mại phần nào thể hiện những thông tin về đối thủ cạnh tranh trên cả hai phương diện xem xét: đối thủ cạnh tranh của thương nhân chủ động thực hiện khuyến mại hoặc chính thương nhân này với tư cách là đối thủ cạnh tranh của thương nhân khác. Mỗi thương nhân cần thu thập các số liệu quan trọng mới nhất về nghiệp vụ của đối thủ cạnh tranh mà trong đó năng lực tiến hành khuyến mại và việc tiến hành hoạt động khuyến mại trên thực tế là yếu tố cấu thành vô cùng quan trọng. Nắm được nguồn tư liệu quý giá đó, thương nhân có thể quyết định thách thức đối thủ nào trên thị trường. Cùng với nguồn thông tin tốt từ khách hàng, thương nhân sẽ có hướng đầu tư công nghệ hiện đại, đổi mới kinh doanh hay tiếp tục duy trì và phát huy thế mạnh kinh doanh hiện có của mình. Hoạt động khuyến mại thúc đẩy việc bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trở nên thuận lợi và năng động hơn; đua hàng hóa, dịch vụ vào kênh phân phối một cách hợp lý và kích thích tính hiệu quả của lực lượng bán hàng.” Tính thuận lợi ở đây được thể hiện thông qua việc khách hàng được trực tiếp tiếp cận hàng hóa, dịch vụ (ví dụ:mời dùng thử sản phẩm, hưởng dịch vụ miễn phí) hoặc được tạo điều kiện thông qua hàng hóa, dịch vụ khác mà biết tới tên tuổi của thương nhân cùng mặt, hàng dịch vụ mà thương nhân kinh doanh (ví dụ: người tiêu dùng đi mua sắm tại siêu thị được tặng lịch treo tường trên đó có in tên, địa chỉ của doanh nghiệp và hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó bán hay cung ứng). Ngoài ra qua những kênh thông tin như báo chí, mạng Internet, đài phát thanh và truyền hình hay truyền miệng giữa các khách hàng với nhau cũng góp phần truyền bá hình ảnh về thương nhân 21
  22. và hàng hóa, dịch vụ của thương nhân. Như vậy, tính thuận lợi được thể hiện ở sự xây dựng nền tảng cơ sở nhận biết thương nhân cùng với hàng hóa, dịch vụ kinh doanh và quá trình xây dựng niềm tin, sự hài lòng của khách hàng thông qua thử nghiệm thực tế. Tính năng động của quá trình tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ một phần được tạo bởi yếu tố chủ động nắm bắt thời cơ quyết định vào thời điểm nào sẽ tiến hành hoạt động khuyến mại và với hình thức, nội dung cụ thể ra sao, một phần được tạo bởi yếu tố chủ động tiếp cận với khách hàng trước một bước chứ không đơn thuần để khách hàng phải tự tìm hiểu và quyết định chọn lựa hàng hóa, dịch vụ cần thiết. Sự chủ động trong suy nghĩ và hành vi coi khách hàng là trung tâm, là hạt nhân để mọi hoạt động của thương nhân đều xoay quanh đã thể hiện tính năng động trong tiếp cận và tìm hiểu thị trường của thương nhân. Qua đó, hàng hóa và dịch vụ được đưa vào các kênh phân phối một cách hợp lý song song với việc phát huy sức mạnh, vai trò của lực lượng bán hàng tham gia một cách tích cực vào quá trình cung ứng hàng hóa, dịch vụ góp phần nâng cao cơ hội bán hàng và doanh thu của thương nhân. Khuyến mại là công cụ hữu hiệu trong công việc chiếm lĩnh thương mại và tăng tính cạnh tranh đối với hàng hóa, dịch vụ của thương nhân trên thị trường. Thông qua hoạt động khuyến mại, các thương nhân tiếp cận được với thị trường hiện có và thị trường tiềm năng của thương nhân, cung cấp cho khách hàng hiện có và khách hàng tiềm năng những thông tin cần thiết, những thuận lợi và ưu đãi nhất định để tiếp tục giữ khách hàng hiện có hoặc chinh phục thêm nhiều khách hàng mới hoặc thậm chí lôi kéo ngay cả khách hàng của đối thủ cạnh tranh. Hình ảnh đẹp của doanh nghiệp cùng thông tin đầy đủ, hiệu quả về hàng hóa, dịch vụ kinh doanh khiến lợi thế cạnh tranh của thương nhân không ngừng tăng lên, điều đó tăng cơ hội mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ tăng khả năng chiếm lĩnh thương mại của thương nhân. 22
  23. Bằng hoạt động khuyến mại, thương nhân góp phần thay đổi cơ cấu tiêu dùng, hướng dẫn thị hiếu khách hàng." Thương nhân đưa tới khách hàng thêm sự lựa chọn, cơ hội tiếp cận với hàng hóa, dịch vụ. Điều này góp phần tạo nên đường dẫn cho khách hàng hướng tới hàng hóa, dịch vụ có sự tham gia chủ động tích cực của thương nhân thể hiện từ trong chiến lượt đến tổ chức thực hiện trên thực tế. Thị hiếu khách hàng cùng với cơ cấu tiêu dùng phần nào tác động tới hoạt động khuyến mại của thương nhân như kết quả tất yếu. Như vậy, hoạt động khuyến mại có thể dẫn tới việc thay đổi cơ cấu tiêu dùng, điều chỉnh thị hiếu khách hàng theo hướng có lợi cho thương nhân (tiếp thị được hình ảnh của mình, bán và cung ứng được nhiều hơn hàng hóa, dịch vụ) và thỏa mãn nhu cầu của khách hàng (tiêu dùng được hàng hóa, dịch vụ đạt yêu cầu về chất lượng và giá cả phù hợp với túi tiền). Hoạt động thương mại là hoạt động xúc tiến mang lại hiệu quả cao đặc biệt cho hoạt động kinh doanh của thương nhân trong một số trường hợp nhất định.” Thông thường hoạt động khuyến mại được sử dụng cho hàng hóa, dịch vụ mới tung ra thị trường có áp lực cạnh tranh cao, đặt biệt là sản phẩm có đơn giá thấp nhưng lại có khả năng đem lại doanh thu cao. Một lợi thế nữa của hoạt động khuyến mại là có thể áp dụng cho cả khách hàng là người tiêu dùng hay khách hàng là trung gian phân phối. Sử dụng hoạt động khuyến mại sẽ đạt được mục đích tiêu thụ cao trong một thời gian ngắn vì thông qua kỹ thuật khuyến mại, có thêm nhiều người tiêu dùng thử mới bị thu hút và kích thích những người mua trung thành hay những người thỉnh thoảng mới Illlld. Tuy nhiên, mức tiêu thụ tăng nhanh đó chi tạm thời và sẽ giảm dần sau thời gian khuyến mại đó. Chính vì vậy, thương nhân phải biết cân đối, quản lý và điều chình mức đầu tư vào hoạt động khuyến mại sao cho vừa phù hợp với 23
  24. điều kiện thực tế của thương nhân, tuân thủ pháp luật và thu được hiểu quả lớn nhất. 1.2. Khái quát chung về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh 1.2.1. Khái niệm về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh Khái niệm khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh không được định nghĩa cụ thể như khái niệm khuyến mại. Điều 46 Luật cạnh tranh đã liệt kê các hoạt động khuyến mại bị cấm. Đây là những hoạt động khuyến mại tiêu biểu, phổ biến mà Luật cấm các doanh nghiệp thực hiện, bao gồm: “1. Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng; 2. Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách hàng; 3. Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại; 4. Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình; 5. Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật có quy định cấm.” Tuy nhiên từ định nghĩa về khuyến mại trong Luật thương mại năm 2005 và khái niệm cạnh tranh không lành mạnh trong Luật cạnh tranh năm 2004 thì ta có thể hiểu hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh như sau: Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định, nhưng những hành vi này trái với các chuẩn mực đạo đức thông thường gây thiệt 24
  25. hại đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Hay chính là doanh nghiệp vì muốn xúc tiến việc mua bán hàng hóa, dịch vụ để cạnh tranh với doanh nghiệp khác nên đã dùng những hành vi khuyến mại nhưng không lành mạnh để cạnh tranh và gây ra thiệt hại. Không thể phủ nhận được rằng khuyến mại là biện pháp thu hút khách hàng có hiệu quả nhất trong số những hoạt động xúc tiến thương mại, và đó cũng là quyền tự do trong kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng khi doanh nghiệp vượt quá sự tự do đó thì sẽ dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh. Trong khi môi trường kinh doanh lại rất cần sự cạnh tranh lành mạnh và đúng mực. Vì vậy, hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh đã được pháp luật Việt Nam quy định cụ thể tại Điều 46, Luật cạnh tranh năm 2004 nhằm có cơ chế pháp lý để điều chỉnh hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh để tạo môi trường kinh doanh trong sạch và lành mạnh thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế của quốc gia, khu vực và toàn thế giới. 1.2.2. Đặc trưng pháp lý của khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh Về cơ bản, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh cũng có những đặc điểm chung của hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Thứ nhất, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh do các chủ thể kinh doanh trên thị trường thực hiện, nhằm mục đích lợi nhuận. Chủ thể kinh doanh trên thị trường chủ yếu là các doanh nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm mọi tổ chức hay cá nhân tham gia hoạt động tìm kiếm lợi nhuận một cách thường xuyên và chuyên nghiệp . Trên phạm vi rộng, các quy định về cạnh tranh không lành mạnh còn có thể áp dụng đối với hành vi của các nhóm doanh nghiệp hoạt động có tổ chức (hiệp hội) và các cá nhân hành nghề tự do ( bác sĩ, luật sư, kiến trúc sư, ). Trên thị trường cạnh tranh, mỗi hành vi kinh doanh của mỗi doanh nghiệp cũng chính là hành vi cạnh tranh trong tương quan với các doanh 25
  26. nghiệp khác. Để thu được lợi nhuận, doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh với các đối thủ hoạt động trong cùng ngành, lĩnh vực nhằm giành giật, thu hút khách hàng về phía mình bằng các hành vi như tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng, khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng, tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình, Do đó, mọi hoạt động của doanh nghiệp đều có thể bị xem xét về tính chính đáng, phù hợp với thông lệ hay đạo đức kinh doanh và pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh có thể can thiệp vào nhiều hoạt động khác nhau của đời sống kinh tế. Thứ hai, hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi có tính chất đối lập, đi ngược lại các thông lệ tốt, các nguyên tắc đạo đức kinh doanh. Các thông lệ tốt ( tập quán kinh doanh) là các biện pháp dự phòng để áp dụng cho những trường hợp pháp luật chưa quy định về một hành vi cụ thể nhưng khi hành vi này được thực hiện đã xâm hại đến quyền cạnh tranh của các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác, quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng. Bên vi phạm thực hiện hành vi với lỗi cố ý, mặc dù biết hoặc buộc phải biết đến các thông lệ, chuẩn mực đặt ra đối với hoạt động kinh doanh của mình nhưng vẫn cố tình vi phạm. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là biện pháp thu hút khách hàng thông qua việc dành lợi ích cho họ, bao gồm lợi ích vật chất như tiền, hàng hóa hay lợi ích phi vật chất nhưng lại gây tổn hại đến hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh khác và lợi ích của người tiêu dùng để thu được nhiều lợi nhuận. Điều này đã đi ngược lại các thông lệ tốt, các nguyên tắc đạo đức kinh doanh. Đây là dấu hiệu đặc trưng để phân biệt khuyến mại với các hình thức xúc tiến thương mại khác. Theo đó, dấu hiệu này đi kèm với các đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh tạo nên điểm khác biệt với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác. 26
  27. Thứ ba, hành vi khuyến mại với mục đích cạnh tranh bị kết luận là không lành mạnh và cần phải ngăn chặn khi nó gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho các đối tượng khác. Hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác hoặc cho người tiêu dùng, xâm hại đến trật tự quản lí cạnh tranh của nhà nước mà không làm cản trở, sai lệch hay giảm tình trạng cạnh tranh của thị trường như hành vi hạn chế cạnh tranh. Tùy thuộc vào pháp luật mỗi quốc gia cũng như quan điểm của các cơ quan xử lí sẽ có các cách thức nhìn nhận khác nhau về hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh. 1.2.3. Tác động của hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh Khi một sản phẩm của doanh nghiệp được sáng tạo, được làm ra mà không được người tiêu dùng đón nhận thì đó là quả là điều mà không một doanh nghiệp nào mong muốn. Cho nên để duy trì được sự tồn tại của mình trên thị trường, để hàng hóa của mình bán được nhiều và lợi nhuận cao thì doanh nghiệp sẽ không ngần ngại sử dụng mọi cách, mọi biện pháp để đạt được mục đích cuối cùng của mình. Nhưng trên thương trường thành công của doanh nghiệp này sẽ là thất bại của doanh nghiệp khác. Họ luôn tìm cách để hạ gục đối thủ cạnh tranh của mình nhưng người chịu sự thiệt hại đầu tiên lại là người tiêu dùng. Khi có hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh thì người tiêu dùng sẽ bị tác động trực tiếp. Khuyến mại mà mang tính chất gian dối giải thưởng, không trung thực nhằm lừa dối khách hàng, hay có sự phân biệt đối xử giữa các khách hàng với nhau thì rõ ràng lợi ích của người tiêu dùng sẽ bị xâm hại trực tiếp. Do tâm lý và thói quen nên họ dễ dàng mua những sản phẩm với giá rẻ hay có tặng phẩm nhưng thật sự họ lại bị doanh nghiệp đó lừa dối vì lợi nhuận riêng. Người tiêu dùng là mục đích lợi nhuận mà doanh nghiệp hướng đến nhưng cũng là đối tượng bị doanh 27
  28. nghiệp gây tác động bất lợi nhiều nhất. Cho nên, việc ngăn cấm các hành vi sai trái của doanh nghiệp và bảo vệ người tiêu dùng là điều rất cần thiết và phù hợp với thực tiễn hiện nay. Bên cạnh đó, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh còn ảnh hưởng tới sự công bằng trong kinh doanh, gây thiệt hại cho doanh nghiệp khác. Nếu một doanh nghiệp làm ăn chân chính, sản phẩm làm ra có chất lượng tốt nhưng do tiềm lực về kinh tế không đủ mạnh nên không thể mở những đợt khuyến mại rầm rộ để thu hút khách hàng mà chỉ nhờ vào số lượng khách hàng thân quen, trong khi những doanh nghiệp tuy có sản phẩm không tốt, không đáp ứng được nhu cầu của thị trường nhưng với tiềm lực kinh tế mạnh mẽ đã tiến hành những hoạt động khuyến mại với thông tin sản phẩm thật tốt và giá ưu đãi để lừa dối khách hàng, với tâm lý thích khuyến mại và giá rẻ người tiêu dùng sẵn sàng chuyển sang dùng sản phẩm đó mà không cần quan tâm đến chất lượng của nó. Như vậy, những doanh nghiệp yếu thế sẽ rất dễ lâm vào tình trạng phá sản, làm ảnh hưởng tới sự phát triển ổn định của nền kinh tế, vì những doanh nghiệp đầy nhiệt huyết nhưng không mạnh về tài chính không còn cơ hội để tạo ra sản phẩm trên thị trường nữa. Bởi vậy, pháp luật đã cố gắng để điều chỉnh những hành vi sai trái, không lành mạnh của các doanh nghiệp để tạo sự bình đẳng và ổn định trong kinh doanh. 28
  29. CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TẠI VIỆT NAM 2.1. Các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo Luật cạnh tranh 2004 Lợi nhuận luôn luôn là mục tiêu cuối cùng mà các nhà kinh doanh muốn đạt đến. Tuy nhiên, cạnh tranh như thế nào là lành mạnh và chân chính mà vẫn đem lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp thì đòi hỏi các nhà kinh doanh phải đủ bản lĩnh, năng lực và đạo đức thì mới có thể làm tốt được. Khuyến mại luôn là hình thức thu hút khách hàng đạt hiệu quả cao. Về hình thức, chủ thể và cách thức tổ chức hoạt động khuyến mại đã được Luật thương mại 2005 điều chỉnh cụ thể, còn khi hoạt động khuyến mại này xuất hiện dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh thì Luật cạnh tranh sẽ điều chỉnh vấn đề này. Do hiện nay khuyến mại là yếu tố có quyết định lớn đến doanh thu bán hàng và hoạt động của một doanh nghiệp, vì vậy doanh nghiệp luôn tìm cách thu hút sự chú ý của khách hàng về phía mình, cho dù đó là những hành vi không lành mạnh. Bởi vậy, tại Điều 46, Luật cạnh tranh 2004 đã liệt kê các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Đó là những hoạt động luật cấm doanh nghiệp làm nhằm để bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp khác, của Nhà nước và đặc biệt là người tiêu dùng, vì người tiêu dùng luôn là đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất và trực tiếp nhất khi các doanh nghiệp có hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Luật cạnh tranh cấm các doanh nghiệp thực hiện các hành vi khuyến mại không lành mạnh sau: 2.1.1. Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng Làm sao để tự khẳng định được vị trí của mình trên thương trường, để có thể tồn tại và phát triển luôn là câu hỏi băn khoăn, trăn trở của các doanh nghiệp, nhất là với thời kỳ nền kinh tế đang có sự cạnh tranh khốc liệt như 29
  30. hiện nay. Chính vì vậy để giữ vững vị thế của mình doanh nghiệp không ngần ngại dùng những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hình thức phổ biến đó là quảng cáo và khuyến mại. Hiện nay, với sự xuất hiện của hàng loạt các chủng loại hàng hóa và dịch vụ rất đa dạng và phong phú nên việc lựa chọn của người tiêu dùng cũng có những thuận lợi và khó khăn riêng. Thuận lợi đó là người tiêu dùng có cơ hội tiếp cận với nhiều loại sản phẩm khác nhau, tùy chất lượng mà giá cả sẽ phù hợp với nhu cầu và thu nhập của họ. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của người tiêu dùng đó là khi đã chọn lựa được sản phẩm phù hợp với thu nhập thì không biết phải sử dụng sản phẩm nào trong hàng loạt những sản phẩm được bày bán trên thị trường. Những sản phẩm có chất lượng và giá cả tương đồng nhau, và đôi khi mẫu mã cũng tương tự nhau. Lúc này, người tiêu dùng sẽ chỉ phải tin vào những công ty, doanh nghiệp đã có uy tín trên thị trường và được nhiều khách hàng ủng hộ. Tuy nhiên, với thói quen là thích mua hàng khuyến mại vì giá rẻ mà đôi khi còn có cơ hội nhận được những giá trị vật chất nhất định. Ví dụ như: rút thăm trúng thưởng, cào trúng thưởng, tặng phiếu mua hàng, phiếu giảm giá , thì đôi khi người tiêu dùng lại là nạn nhân bị chính các doanh nghiệp lợi dụng để làm lợi riêng cho mình. Việc tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng được các doanh nghiệp sử dụng để thu hút khách hàng mua sản phẩm của mình, khi mua khách hàng sẽ có cơ hội nhận được những giải thưởng đã công bố trong chương trình khuyến mại. Đồng thời cũng để lấn áp các doanh nghiệp khác, giành ưu thế thị trường về phía mình. Doanh nghiệp lợi dụng lòng tin của khách hàng dành cho mình để lừa dối họ mà ít khi nào họ biết được, khi không trúng thưởng trong chương trình khuyến mại thì đa số khách hàng cho rằng mình đã không may mắn chứ không biết rằng trên thực tế giải thưởng đó không hề có, hoặc nếu có thì cũng không đúng với những gì mà doanh nghiệp đã công bố ban đầu trong chương trình khuyến mại. 30
  31. Có nhiều hành vi gian dối khác nhau về phần thưởng đã được các doanh nghiệp thực hiện trong hoạt động khuyến mại. Khuyến mại gian dối về giải thưởng thể hiện thông qua trường hợp đưa ra giá trị giải thưởng khuyến mại rất lớn nhưng thực hiện việc trao giải thưởng thì rất nhỏ. Điển hình như chương trình khuyến mại của một công ty bia "bật nắp chai trúng thưởng” diễn ra cách đây không lâu. Trong chương trình này, cơ cấu giải thưởng gồm 200.000 giải thưởng, trong đó có 6 xe ôtô BMW, không ai có thể chắc chắn rằng có đủ 200.000 giải thưởng với 6 nắp chai in hình xe BMW trong số sản phẩm được bán trong đợt khuyến mại. Theo ông Đỗ Thắng Hải, Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Thương mại), trong tổng số 215 tỉ đồng giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại mà các thương nhân đăng ký thì tổng số giá trị giải thưởng đã trao rất thấp, chỉ đạt 6 tỷ đồng, tương đương 3% tổng số tiền đã đăng ký cho chương trình khuyến mại. Như vậy, giá trị thật mà các doanh nghiệp trao cho khách hàng nhỏ hơn rất nhiều những con số được nêu ra trong chương trình khuyến mại. Khách hàng cũng không nhận được nhiều những phần thưởng có giá trị từ các chương trình khuyến mại gian dối trên. Khuyến mại gian dối về phần thưởng còn thể hiện thông qua việc cho khách hàng được nhận phần thưởng nhưng phải kèm điều kiện mua kèm theo các hàng hóa khác của doanh nghiệp. Trong bài báo "Đánh lừa người tiêu dùng bằng các chiêu khuyến mại” đăng trên trang web báo Lao động ngày 23/12/2010 đã đưa ra một trường hợp khuyến mại gian dối của siêu thị Vinaconex (Quang Trung – Hà Đông – Hà Nội). Một khách hàng mua sản phẩm tại siêu thị Vinaconex thì nhận được phiếu cào trong chương trình khuyến mại "Mừng giáng sinh – Chào năm mới”. Sau khi cào, khách hàng này trúng giải nhất với trị giá 500.000 đồng. Tuy nhiên, khi đến lĩnh thưởng thì điều kiện lĩnh thưởng là: "Phiếu chỉ có giá trị lĩnh thưởng khi khách hàng mang theo phiếu này và mua 01 chiếc áo Complet hoặc 01 bộ quần áo Complet tại cửa hàng”. Khách hàng này vui mừng đi xem quần áo Comple để 31
  32. mua thì thất vọng khi nhận ra rằng các sản phẩm này có giá từ 880.000 đồng đến 3.200.000 đồng/bộ nhưng chất lượng tồi đến mức "có cho không cũng không nhận”. Hay năm 2004, hãng sữa Enfa Mama thuộc Công ty Mead Johnson (Hoa Kỳ) đưa ra chương trình khuyến mại “Quà tặng đầu xuân”. Theo chương trình này thì cứ hai nắp lon Enfa Mama loại 400g sẽ được đổi một trong bốn đĩa Giao hưởng thông minh I, Giao hưởng thông minh II, VCD chăm sóc thai nhi và VCD nuôi con bằng sữa mẹ. Với chương trình này thì chắc hẳn sẽ thu hút được phần lớn người tiêu dùng đang mang thai khi chọn sản phẩm sữa. Thế nhưng thực tế lại khác. Chị Võ Thanh Hiền ở Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi chị vào siêu thị và mua bốn hộp Enfa Mama (loại 400g) đang trong thời gian khuyến mại và ra quầy dịch vụ để đổi quà, nhưng nhân viên quầy dịch vụ lại cho rằng đây là nắp cũ và chỉ chị ra hành lang siêu thị để tìm nhân viên tiếp thị sữa Enfa Mama nhưng chị Hiền không gặp ai cả đành ra về. Được biết trước đó cũng có rất nhiều người phàn nàn về việc đổi quà khi mua sữa bột Enfa Mama và đã ra về tay không. Hôm sau chị Hiền quay lại siêu thị và gặp nhân viên tiếp thị sữa Nguyễn Thị Phương Khánh, chị yêu cầu đổi đĩa nhạc giao hưởng thông minh II và VCD chăm sóc thai nhi nhưng nhân viên này nói VCD chăm sóc thai nhi chưa làm xong và chỉ đưa cho chị Hiền đĩa giao hưởng thông minh II. Từ vụ việc trên cho thấy sự gian dối trong khuyến mại là rất rõ ràng. Chưa có sản phẩm khuyến mại mà vẫn ghi chương trình khuyến mại để lừa dối khách hàng. Vì người tiêu dùng cần VCD chăm sóc thai nhi lúc họ mang thai, nếu sau khi sanh mà chị Hiền có nhận được quà khuyến mại thì cũng chẳng còn giá trị và ý nghĩa nữa. Sự thiếu trách nhiệm và thiếu trung thực của nhà phân phối đã làm mất lòng tin của người tiêu dùng dành cho sản phẩm. Để tăng doanh số bán hàng mà họ để người tiêu dùng phải thiệt thòi và không tín nhiệm sản phẩm nữa, đó là điều không đáng. Bởi vì đối với người tiêu 32
  33. dùng lòng tin rất quan trọng, có tin tưởng thì họ mới có thể sử dụng sản phẩm lâu dài được. Nhưng vì lợi ích trước mà nhà kinh doanh để niềm tin đó mất đi thì lợi nhuận mà doanh nghiệp nhận được chỉ là nhất thời chứ không lâu bền được. Và nếu lần sau chị Hiền có mang thai sẽ không chọn sản phẩm của Enfa Mama vì chị đã không còn tin vào uy tín của sản phẩm này nữa, một doanh nghiệp gian dối thì liệu chất lượng sản phẩm có tốt không. Nếu phân tích sâu xa có thể thấy rõ, nếu doanh nghiệp khuyến mại mà gian dối về giải thưởng như thế này không những không thu hút được nhiều khách hàng mà còn mất đi nhiều khách hàng nữa, vì khi người tiêu dùng biết được doanh nghiệp làm ăn gian dối thì họ sẽ không sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp đó nữa, nên doanh nghiệp sẽ mất đi một lượng lớn khách hàng. Nếu chịu tốn kém mà khuyến mại chân chính thì khách hàng sẽ nhiều, uy tín được nâng cao và chắc chắn doanh thu cũng sẽ tăng. Khuyến mại gian dối về giải thưởng như vậy chỉ thu hút được khách hàng trong một thời gian ngắn và chỉ qua một đợt khuyến mại mà thôi, lần sau khách hàng sẽ không mua sản phẩm đó nữa, như vậy thiệt hại của doanh nghiệp sẽ còn nhiều hơn. Bên cạnh còn thấy được sự vô trách nhiệm của siêu thị, đây là nơi cung cấp hàng hóa đến tay người tiêu dùng nhưng lại không quan tâm và xem xét cho quyền lợi của họ. Như vậy, người tiêu dùng làm sao an tâm và tin tưởng khi mua sản phẩm ở một nơi không đặt quyền lợi người tiêu dùng lên hàng đầu mà chỉ kinh doanh kiếm lời. Vì vậy, người tiêu dùng phải cẩn trọng khi chọn mua sản phẩm và nơi mua sản phẩm để tránh bị lừa dối từ những hành vi bất chính của các doanh nghiệp. Đương nhiên là người tiêu dùng ai cũng mong muốn mình sẽ nhận được những sự ưu đãi từ phía các nhà sản xuất, tuy giá trị khuyến mại có nhỏ đi nữa nhưng cũng thể hiện được tấm lòng hậu mãi của nhà sản xuất dành cho người tiêu dùng đã tin tưởng và sử dụng sản phẩm của mình, chứ đâu cần phải đưa ra chương trình khuyến mại lớn để thu hút khách hàng để rồi có sự gian dối về giải thưởng như vậy. Ví dụ như trường hợp của anh Linh ở Thành 33
  34. phố Hồ Chí Minh, năm 2005, anh tham gia chương trình khuyến mại mang tên “Tương lai vàng” do Công ty Cổ phần Dinh dưỡng Việt Nam tổ chức. Anh mua sữa Dumex và trúng được giải nhì mang tên giải “khởi đầu vàng” với phần thưởng là “Cá heo vàng trị giá 10 triệu đồng”. Nhưng khi nhận giải anh chỉ nhận được biểu tượng cá heo vàng với trọng lượng 10 chỉ vàng 18K trị giá hơn 6 triệu đồng, vì công ty đã trừ đi tiền công thiết kế và chế tác biểu tượng 18. Trong trường hợp này người viết cho rằng tiền công thiết kế và chế tác biểu tượng lại trừ vào giải thưởng khuyến mại là không phù hợp. Vì trong chương trình khuyến mại chỉ ghi giải thưởng “khởi đầu vàng” với phần thưởng cá heo vàng trị giá 10 triệu đồng, chứ không bao gồm chi phí gì khác, thì khi trao giải phải trao đủ cho khách hàng, còn về tiền công thiết kế và chế tác thì công ty phải chịu. Nếu như Công ty Cổ phần Dinh dưỡng Việt Nam nêu giải thưởng cá heo vàng trị giá chỉ 6 triệu đồng trong khi công bố chương trình khuyến mại thì khách hàng đã không lên tiếng phản ánh vì thấy có sự gian dối trong việc trao giải thưởng. Rõ ràng công ty đã trao giải thưởng không đúng và không đủ với những gì đã công bố ban đầu. Hành vi trên của công ty được xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người tiêu dùng, đồng thời cũng ảnh hưởng đến lợi ích của doanh nghiệp khác, bởi vì nếu không có chương trình khuyến mại này thì các doanh nghiệp khác đã bán được một số sản phẩm cho người tiêu dùng, việc bán được sản phẩm không chỉ là lợi nhuận mà nó còn khẳng định được vị trí và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Công ty Cổ phần Dinh dưỡng Việt Nam là nhà phân phối độc quyền sữa Dumex trên thị trường nhưng lại gian dối về giải thưởng như vậy đó là điều đáng phê phán. Người tiêu dùng sẽ chỉ tin vào những doanh nghiệp có uy tín và làm ăn chân chính, sự gian dối sẽ không bền và sẽ sớm bị đào thải. Từ những ví dụ điển hình có thể thấy rằng, trong thực tiễn hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp thường xuyên tổ chức hoạt động khuyến mại. Hình thức khuyến mại thông qua việc trao tặng các giải thưởng cho khách 34
  35. hàng là hình thức thu hút được nhiều khách hàng đến với doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là, các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện chương trình khuyến mại, có thể gian dối trong việc trao giải thưởng cho khách hàng. Một trong các nguyên nhân dẫn đến hiện tượng khuyến mại gian dối xuất phát từ sự quản lý chưa chặt chẽ của các cơ quan chức năng, hoặc do các doanh nghiệp thiếu đạo đức trong kinh doanh, vì hám lợi trước mắt mà quên nguồn lợi lâu dài từ khách hàng. 2.1.1. Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng Khuyến mại không trung thực là việc đưa thông tin khuyến mại không đúng về hàng hóa, dịch vụ khiến khách hàng nhầm lẫn, tin theo thông tin khuyến mại sai lệch mà mua hàng hóa hay sử dụng dịch vụ đó. Hành vi khuyến mại không trung thực của doanh nghiệp chủ yếu là lợi dụng lòng tin và sự tín nhiệm của khách hàng để trục lợi. Nó được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau khi người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp đó. Doanh nghiệp có thể đưa thông tin khuyến mại gian dối, không chính xác, không rõ ràng hay mập mờ khó hiểu nhằm lừa dối khách hàng, thường thì trường hợp này xuất hiện ở những doanh nghiệp nhỏ, do thiếu tiềm lực về kinh tế để cạnh tranh nên không nghĩ tới lợi ích chung của người tiêu dùng, hoặc khi doanh nghiệp muốn bán một mặt hàng mà trong thời gian qua không bán được hay bán chậm nhưng không muốn lỗ vốn. Việc không trung thực trong khuyến mại của doanh nghiệp còn thể hiện ở hành vi doanh nghiệp tự nâng giá hàng hóa, dịch vụ thật cao lên rồi khuyến mại hạ giá với các biểu hiệu quảng cáo rất ăn khách như “ giảm giá 50-70%” hay “ đại hạ giá” làm khách hàng thấy được sự chênh lệch về giá trước và khi khuyến mại mà sẽ tăng sức mua, hay có trường hợp doanh nghiệp thay đổi trọng lượng, chất lượng sản phẩm để tiến hành giảm giá mà đôi khi người tiêu dùng ít để ý đến những vấn đề đó, cứ tưởng doanh nghiệp 35
  36. khuyến mại giảm giá là vì khuyến khích tiêu dùng nên không phản ứng gì. Nhưng thực ra doanh nghiệp đã lợi dụng kiến thức hạn hẹp để lừa dối và “móc túi” trắng trợn mà người tiêu dùng không hề hay biết. Như vậy, doanh nghiệp vẫn đảm bảo được giá bán sản phẩm của mình, người tiêu dùng thì lầm tưởng nhận được khuyến mại từ người bán. Một điểm đáng lưu ý, các doanh nghiệp sử dụng thủ đoạn gian dối này vừa "hợp pháp”, tức là không vi phạm các quy định về tổ chức khuyến mại, lại vừa "qua mặt” được khách hàng. Đặc biệt, trong những chương trình khuyến mại mang tính may rủi như: rút thăm trúng thưởng vàng, nhà ở, xe hơi , thì việc xác định người trúng thưởng rất khó để kiểm soát, những người trúng thưởng có khi là những đại lý lớn hay những người thân quen trong ban tổ chức, lúc này quyền lợi của người tiêu dùng là thiệt thòi nhiều nhất. Có thể lấy ví dụ như sau: Năm 2006, Công ty LG Việt Nam tổ chức chương trình khuyến mại “Đầu năm thắng lớn cùng LG” với giải thưởng lên tới 2 tỷ đồng, chương trình khuyến mại theo hình thức bốc thăm trúng thưởng. Tối ngày 13/03/2006 tại khách sạn New World, Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra cuộc bốc thăm trúng thưởng với sự tham gia của nhiều thương nhân trong ngành điện tử. Giải thưởng bao gồm: giải nhất là một chiếc xe ô tô Toyota Innova trị giá gần 30000 USD, giải nhì là một xe tải Hyundai 1,25 tấn và giải ba là một xe máy Honda Dylan. Trong lúc cuộc bốc thăm đang diễn ra thì có một người bước lên và nói rằng phiếu mang số 223 mà anh ta đang giữ không có trong thùng phiếu. Khi kiểm tra thùng phiếu thì quả thật không có phiếu 223 và tất cả các phiếu từ 200 trở lên đều không có trong thùng. Thùng phiếu hàng trăm thay vì là có ba con số 0, 1 và 2 nhưng trong thùng chỉ có hai số 0 và 1, tức là những người mang số phiếu từ 200 trở lên sẽ không có cơ hội trúng thưởng. Được biết theo chương trình khuyến mại, để có được một phiếu tham dự thì phải mua 100 bộ máy lạnh LG, 300 bộ thì được bốn phiếu, nhưng kỳ lạ là công ty Công Nghệ Mới tham gia đến 79 phiếu trên tổng số 168 phiếu hợp lệ. Điều này có nghĩa công ty đó phải mua đến hơn 5.900 bộ máy lạnh và chỉ cần đặt 36
  37. cọc 8% giá trị đơn đặt hàng thì đã được mua hàng và được phát phiếu nhưng công ty Công Nghệ mới này lại có số phiếu từ 200 trở lên mới đáng nói. Theo nhiều đại lý để có được nhiều phiếu tham dự họ phải chấp nhận mua nhiều hàng và sau đó bán lỗ. Trong đợt rút thăm này công ty tiếp thị Bến Thành (Tara) là một trong những đại lý lớn của LG thường lấy hàng từ LG rồi phân phối lại cho các đại lý khác đã trúng 6 trên 10 giải thưởng. Theo quy định của luật thì chương trình khuyến mại của LG phải có sự chấp thuận của Bộ Công Thương nhưng trên thực tế LG đã triển khai chương trình khi chưa có văn bản chấp thuận của Bộ, quá trình rút thăm cũng không có sự chứng kiến của cơ quan chức năng địa phương. Công ty LG đã vi phạm nhiều quy định của luật, không trung thực trong việc rút thăm, sắp xếp người nhận thưởng là những đại lý lớn. Việc làm của LG đã làm rối loạn môi trường cạnh tranh của các đại lý khác, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ khi tham gia chương trình khuyến mại. Tuy nhiên, mức độ xử phạt khi vi phạm của hành vi khuyến mại không trung thực lại còn quá nhẹ không đủ làm hài lòng những người bị lừa dối và những thiệt hại từ việc tin vào chương trình khuyến mại. Từ đó cũng rút ra cho người tiêu dùng nói chung bài học kinh nghiệm khi muốn tham gia vào bất kỳ chương trình khuyến mại nào. Hành vi không trung thực trong khuyến mại của doanh nghiệp xảy ra rất thường xuyên đã làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của các doanh nghiệp khác và người tiêu dùng vì thế nó được đưa vào Luật cạnh tranh 2004 để kịp thời điều chỉnh. Tuy Luật cạnh tranh đã đi vào thực tiễn nhưng việc thực thi nó vẫn còn gặp nhiều khó khăn về nhiều mặt, cần có những biện pháp quản lý giá hàng hóa một cách hữu hiệu để đảm bảo quyền lợi của khách hàng và vạch trần được thủ đoạn gian dối của các doanh nghiệp trong các chương trình khuyến mại. Đồng thời cần sự phối hợp chặt chẽ từ phía Nhà nước, các doanh nghiệp và cả người tiêu dùng để lợi ích chính đáng được bảo vệ và để Luật cạnh tranh được thực thi một cách hiệu quả nhất. 37
  38. Một khía cạnh thể hiện khác nữa của hành vi khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng đó là tình trạng gian dối về chất lượng hàng hóa. Hình thức khuyến mại mà chúng ta thường thấy đó là tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử không phải trả tiền. Thỉnh thoảng ở các chợ, các cổng ra vào siêu thị hay các khu chung cư, nhà ở , xuất hiện các nhân viên tiếp thị phát cho không các sản phẩm như: dầu gội đầu, bột giặt, cà phê hòa tan , thường thì chất lượng của những sản phẩm khuyến mại này rất tốt để lấy lòng tin của khách hàng về sản phẩm dùng thử, nhưng đến khi người tiêu dùng mua sản phẩm chính thức về dùng thì chất lượng lại kém hơn. Dù trước đó đã được doanh nghiệp cho dùng thử sản phẩm, khách hàng tin tưởng và mới mua sản phẩm nhưng tình trạng gây nhầm lẫn cho khách hàng vẫn xảy ra. Hay việc giảm giá các sản phẩm là hàng tồn kho, hàng kém chất lượng, hàng bị lỗi gia công , đây là những mặt hàng đương nhiên phải bán giá thấp hơn nhưng các siêu thị, cửa hàng vẫn thường áp dụng chương trình khuyến mại giảm giá đối với những mặt hàng này nhưng không hề cho biết đây là những mặt hàng kém chất lượng hơn làm khách hàng nhầm tưởng là được giảm giá nên cứ mua, khi về sử dụng mới biết thì cũng đã mua rồi. Tình trạng này cũng rất phổ biến, chủ yếu ở các mặt hàng như: quần áo may sẵn, đồ gia dụng Tóm lại, dù nhìn ở khía cạnh nào đi nữa thì việc khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng cũng là hành vi khuyến mại gian dối, lừa gạt khách hàng, lợi dụng lòng tin, sự thích rẻ của người tiêu dùng khiến họ bị nhầm tưởng về chất lượng hàng hóa, dịch vụ và bị thiệt hại trong khi doanh nghiệp thì lại tăng lợi nhuận. Việc lên tiếng phản ánh của người tiêu dùng sẽ đem lại tác động tích cực để hạn chế sự vi phạm của các doanh nghiệp, để doanh nghiệp hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, cạnh tranh lành mạnh và luôn vì lợi ích người tiêu dùng. 38
  39. 2.1.2. Phân biệt đối xử với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại Nhà làm luật đã quy định hành vi này thuộc hành vi cấm trong Luật Cạnh tranh. Hành vi này được hiểu là trong một chương trình khuyến mại chung, các thương nhân đưa ra chương trình khuyến mại nhưng lại không khách quan, công bằng, phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau trong các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau. Luật quy định rất chung chung như trên gây ra cách hiểu không chính xác về điều luật. Ở đây, cần phải làm rõ khái niệm "phân biệt đối xử”, "các khách hàng như nhau”. Hành vi phân biệt đối xử tức là hành vi của thương nhân ưu ái khách hàng này hơn khách hàng kia, dành cho họ lợi ích nhiều hơn khách hàng kia mà thực tế thì phải dành cho họ những lợi ích như nhau. Các khách hàng “như nhau” thì cần được hiểu tiêu chí nào là như nhau, điều này vẫn chưa được pháp luật làm rõ. Cần một cách hiểu rõ ràng hơn đối với quy định này của Luật Cạnh tranh. Trên thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp, các doanh nghiệp đã cố tình "phân loại khách hàng” để cho hưởng khuyến mại. Điển hình như: Chương trình khuyến mại của mạng di động Vinaphone thực hiện từ ngày 15/5 đến 17/5/ 2010, khuyến mại nhân 100% số tiền nạp thẻ cho các thuê bao của mạng. Tuy chương trình khuyến mại thực hiện trong 03 ngày như trên nhưng không phải khách hàng nào cũng nhận được tiền khuyến mại. Chỉ những khách hàng nhận được tin nhắn thông báo về việc khuyến mại thì mới được hưởng khuyến mại. Tuy nhiên, một điều băn khoăn được đưa ra đó là Vinaphone dựa vào tiêu chí nào để phân loại cho các thuê bao mạng di động được hưởng khuyến mại và tổng số thuê bao được hưởng khuyến mại là bao nhiêu. Câu trả lời không rõ ràng từ phía lãnh đạo của Vinaphone, đó là tiêu chí phân loại có thể thay đổi, có khi là ưu đãi cho khách hàng trung thành, các thuê bao trả trước đã sử dụng nhiều năm, có khi là những người 39
  40. vừa hòa mạng, cước phí phát sinh chưa nhiều. Rõ ràng là đã có sự phân biệt đối xử đối với khách hàng trong chương trình khuyến mại của Vinaphone. Người tiêu dùng luôn thấy lợi ích trước mắt mà ít khi chịu quan tâm đến những mặt tiêu cực xung quanh lợi ích đó. Điều đó xuất phát từ thói quen và tâm lý tiêu dùng đã có từ lâu của người Việt, chính vì vậy người tiêu dùng luôn là đối tượng chịu ảnh hưởng trước tiên khi doanh nghiệp có hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Khi doanh nghiệp đưa ra chính sách khuyến mại ưu tiên có sự phân biệt giữa vùng này, vùng khác, tỉnh này, tỉnh khác sẽ làm cho người tiêu dùng ở những nơi được ưu tiên với lợi ích lớn hơn sẽ nghĩ là doanh nghiệp đang ưu đãi cho mình,dành cho mình những quyền lợi mà khách hàng ở những vùng khác không có được nên sẽ mua nhiều sản phẩm khuyến mại hơn, do đó sẽ chỉ làm lợi cho doanh nghiệp. Thật ra thì chất lượng sản phẩm khuyến mại này không có gì khác biệt giữa những địa bàn khuyến mại nhưng với việc đưa ra những lợi ích khác nhau cho những địa bàn khuyến mại trong cùng một thời điểm đã làm cho doanh nghiệp lấy được lòng tin của người tiêu dùng ở những vùng được ưu tiên một cách dễ dàng. Luật cạnh tranh đã điều chỉnh hành vi này này bởi vì nó đã làm mất đi sự công bằng trong việc khuyến mại, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Bởi vì khách hàng dù ở thành thị hay nông thôn, thành phố lớn hay tỉnh lẻ thì cũng là đối tượng sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp, doanh nghiệp không có quyền hạn chế về quyền lợi của họ, họ phải được đối xử công bằng, không có sự phân biệt đối xử hay ưu tiên quyền lợi nào cả. Ví dụ: Cùng một điều kiện là có đủ 3 nắp chai bia thì khách hàng ở thành thị và nông thôn sẽ có cơ hội trúng những giải thưởng có giá trị khác nhau. Rõ ràng đây là sự bất công hết sức rõ rệt, khách hàng ở nông thôn và thành thị cùng sử dụng bia nhưng giá trị giải thưởng ở hai nơi lại có sự chênh lệch thì không công bằng. Khách hàng cũng nên chú ý đối với những trường hợp khuyến mại có sự phân biệt đối xử của doanh nghiệp để tránh mình trở 40
  41. thành nạn nhân của việc kiếm lời từ các doanh nghiệp bất chính. Phía cơ quan chức năng cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp để kịp thời xử lý những trường hợp vi phạm để bình ổn môi trường cạnh tranh. Tuy đây là một hình thức được quy định trong Luật Cạnh tranh, nhưng trên thực tiễn thì trường hợp phân biệt đối xử này thường ít diễn ra bởi điều kiện khách quan của nền kinh tế đất nước và mong muốn chủ quan của các doanh nghiệp là cần có thêm nhiều khách hàng và mở rộng thị trường của mình. Những trường hợp phân biệt đối xử trong khuyến mại chủ yếu là hành vi xuất phát từ phía chủ quan của thương nhân muốn dành những ưu đãi của mình cho những khách hàng đặc biệt là khách hàng lâu dài và tin cậy của họ. 2.1.3. Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình Một trong những phương pháp để khách hàng nhanh chóng biết đến hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp là việc cho khách hàng dùng thử hàng hóa, dịch vụ. Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử sẽ tạo cơ hội cho khách hàng biết về sản phẩm, cảm nhận được giá trị của sản phẩm, từ đó có thể sẽ tích cực tham gia sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hành vi này của doanh nghiệp xét ở góc độ sâu xa, đó là hành vi nhằm làm thay đổi thói quen tiêu dùng của khách hàng, từ đó để khách hàng sử dụng sản phẩm của mình nhiều hơn. Kết quả là làm giảm thị phần của đối thủ cạnh tranh, tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp thực hiện chương trình khuyến mại. Bên cạnh đó, hành vi này phần nào tác động đến quyền tự do lựa chọn sử dụng sản phẩm của khách hàng. Việc pháp luật cấm các doanh nghiệp thực hiện hành vi này là hoàn toàn xác đáng, bởi lẽ khi 41
  42. thực hiện khuyến mại như trên đã tạo ra những hành động xấu tác động trực tiếp đối thủ của mình. Ví dụ điển hình cho hoạt động cạnh tranh không lành mạnh này, đó là việc mạng di động Viettel đã tố giác mạng di động MobileFone về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Trong đơn tố giác ngày 17/6/2009, mạng di động Viettel đã nêu rõ hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh của mạng MoblieFone tại địa bàn tỉnh Hải Dương. Tại đây, MobiFone đã bán hàng lưu động với chương trình "Đổi sim mạng khác lấy sim MobiFone có 230.000 đồng trong tài khoản”. Theo đó, khách hàng có sim của mạng khác (trong đó có Viettel), còn tài khoản dưới 15.000 đồng và còn hạn sử dụng, có thể đổi miễn phí lấy 1sim MobiZone của MobiFone có sẵn trong tài khoản 50.000 đồng, mỗi tháng tặng thêm 15.000 đồng, tặng trong 12 tháng. Như vậy, có thể thấy đây là hành vi khuyến mại trực tiếp gây ảnh hưởng đến đối thủ cạnh tranh của MobiFone. Hãng này thu hút khách hàng của mạng di động khác chuyển sang sử dụng dịch vụ của mình bằng việc khuyến mại không lành mạnh. Việc làm này đã vi phạm nghiêm trọng về pháp Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh. Ví dụ tiêu biểu khác là vụ việc Bột nêm Massan. Theo một công bố của Ban Điều tra và Xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, năm 2007, Công ty Massan đã đưa ra chương trình khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh tại TP. Hồ Chí Minh. Cụ thể, công ty này đưa ra chương trình khuyến mại bột canh, người tiêu dùng có thể đem gói bột canh dùng dở đến đổi lấy sản phẩm Massan. Hành vi này được quy định là một trong các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh: “Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử, nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại đang sử dụng do doanh nghiệp khác sản xuất”. Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử, nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại đang sử dụng do doanh nghiệp khác sản xuất. Công ty Massan đưa ra chương trình khuyến mại 42
  43. bột canh, người tiêu dùng có thể đem gói bột canh dùng dở đến đổi lấy sản phẩm Massan. Hành vi này được quy định là một trong các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh: “Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử, nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại đang sử dụng do doanh nghiệp khác sản xuất”. Ngay sau đó, Công ty Unilever Bestfood đã khiếu nại về chương trình khuyến mại này tới Sở Thương mại TP.Hồ Chí Minh. Có thể nhận xét rằng: Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hoá của mình. Hành vi vi phạm này có thể phân tích như sau: - Hình thức khuyến mại là tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử. - Để được tặng hànng hóa, khách hàng phải chấp nhận đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà họ đang sử dụng. Với điều kiện này, đối tượng được tham gia khuyến mại chỉ là các khách hàng đang giao dịch, đang sử dụng hàng hóa của đối thủ cạnh tranh. Nói cách khác, Masan đã trực diện lôi kéo khách hàng đang tiêu thụ sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác bằng cách tặng sản phẩm bột canh của mình cho khách hàng dùng thử với mong muốn khách hàng thay đổi thói quen tiêu dùng. Hành vi này bị coi là một dạng không lành mạnh bởi nó được thực hiện nhằm xoá bỏ một cách không chính đáng thói quen tiêu dùng của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp khác. Khi tham gia thị trường các doanh nghiệp được quyền tác động đến nhu cầu của khách hàng bằng cách dành lợi ích vật chất, cung cấp các thông tin về sản phẩm của mình để khách hàng có thể lựa chọn chúng trong vô số các sản phẩm cùng loại khác. Trước rất nhiều sản phẩm cùng loại có khả năng đáp ứng cho cùng một nhu cầu, doanh nghiệp chỉ có thể làm nổi bật sản phẩm của mình trước khách hàng để cạnh tranh. Trong khuyến mại không lành mạnh việc tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác 43
  44. sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hoá của mình là toan tính nhằm xoá bỏ hình ảnh của doanh nghiệp khác trong thói quen tiêu dùng đã có của khách hàng để tạo thói quen tiêu dùng mới đối với sản phẩm của mình. Rõ ràng với hành vi trên, Masan đã vi phạm pháp luật cạnh tranh. Theo khoản 4 điều 46 Luật cạnh tranh việc tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình thì đây là hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Với hành vi này thì Thanh tra Sở Thương mại TP.Hồ Chí Minh đã lập biên bản và yêu cầu đình chỉ chương trình khuyến mại của Masan. Hay tương tự chương trình khuyến mại “Tam thái tử giá lâm”. Khách hàng có thể đem bất kỳ chai nước tương dở nào đang sử dụng bất kỳ nhãn hiệu nào sẽ được đổi lấy chai nước tương Tam thái tử chất lượng cao. Như vậy rõ ràng với những chương trình khuyến mại như thế thì bất kỳ người tiêu dùng cũng sẽ tham gia, nếu nó diễn ra trên quy mô lớn thì sẽ tạo một làn sóng khuyến mại rất mạnh mà theo đó người tiêu dùng sẽ phải đổi sản phẩm dở mà mình đang dùng để lấy sản phẩm có chất lượng cao hơn. Vì thế uy tín của những doanh nghiệp khác sẽ bị tổn hại nghiêm trọng, còn người tiêu dùng thì đang bị doanh nghiệp dùng hình thức khuyến mại để dần xóa đi những thói quen tiêu dùng trước đây của mình mà người tiêu dùng đôi khi không để ý đến. Loại hình khuyến mại này cũng đã không ít lần được các doanh nghiệp sử dụng trong quá trình xúc tiến thương mại của mình. Đây là loại hình khi thương nhân sử dụng sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của đối thủ, thay đổi thói quen người tiêu dùng, gây ra việc cạnh tranh không lành mạnh. Tuy vậy, loại hình này được thương nhân sử dụng cũng xuất phát từ nguyên nhân thiếu hiểu biết về pháp luật cạnh tranh mà thương nhân vô tình vi phạm pháp luật. Nhiều thương nhân chỉ cho rằng đây là hành vi khuyến mại thông 44
  45. thường, cạnh tranh một cách lành mạnh, do vậy đã dẫn đến việc vi phạm pháp luật. Cần có sự tuyên truyền sâu rộng pháp luật cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh này để thương nhân và người tiêu dùng hiểu rõ, tránh những vi phạm pháp luật không đáng có xảy ra. Tóm lại, cả bốn hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh vừa được nêu trên nhìn chung đều ảnh hưởng trực tiếp và trước tiên đến quyền lợi của người tiêu dùng, bên cạnh đó là lợi ích của các doanh nghiệp khác. Mỗi hành vi có một tác động khác nhau và mặt tiêu cực riêng nhưng tất cả đều đã làm cho môi trường cạnh tranh và thị trường chung bị xáo trộn, mất bình đẳng và không lành mạnh nữa. Trong khi cạnh tranh lành mạnh là một động lực để kinh tế phát triển bền vững và ổn định thì đương nhiên những hành vi không lành mạnh như vậy sẽ bị cấm thực hiện để bảo vệ những nhà kinh doanh chân chính. Bên cạnh, hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh còn bao gồm các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật có quy định cấm, đây là một quy định mở nhằm để dự phòng các hành vi khác mà luật chưa bao quát hết được vì những vi phạm luôn tinh vi, phức tạp và ngày càng mất ổn định hơn. Luật quy định thêm khoản này là để có thể xử lý những hành vi vi phạm có thể xảy ra trong tương lại mà luật chưa kiệt kê hết. Trong thời gian tới Luật cạnh tranh cần hoàn thiện hơn để phù hợp với tình hình thực tế đang thay đổi từng ngày để nền kinh tế được phát triển trong một môi trường kinh doanh ổn định và bình đẳng. 2.2. Xử lý các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh 2.2.1. Cơ quan có thẩm quyền xử lý Hiện nay, khi môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì những hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn ra phổ biến và khó kiểm soát. Vì vậy, đòi hỏi Nhà nước ta phải tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát một cách chặt chẽ hơn đặc biệt trong hoạt động tổ chức khuyến mại của các doanh nghiệp. Cần phải có một mô hình quản lý thật tốt và nguồn nhân lực 45
  46. đầy đủ khả năng để có thể đáp ứng được nhu cầu trước tình hình hiện nay. Trên thế giới có nhiều mô hình để quản lý cạnh tranh với những ưu và nhược điểm khác nhau. Ở Mỹ, cơ quan quản lý cạnh tranh là Ủy ban Thương mại Liên bang, cơ quan này thuộc ngành hành pháp nhưng có vị trí hoàn toàn độc lập với các bộ trong Chính phủ, kể cả Bộ thương mại. Ủy ban Thương mại Liên bang có nhiệm vụ điều tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và áp dụng chế tài đối với các hành vi vi phạm Luật cạnh tranh, đồng thời đảm trách thực thi Luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Tại Đan Mạch, cơ quan quản lý cạnh tranh là một bộ phận trực thuộc Bộ thương mại và công nghiệp. Ngoài việc thực thi Luật cạnh tranh, cơ quan này còn phụ trách cả việc quản lý hoạt động đấu thầu của Chính phủ. Còn tại Nhật Bản, quản lý Nhà nước về cạnh tranh là Ủy ban Thương mại Công bằng, là một cơ quan nằm trong Bộ Nội vụ, quản lý công, bưu chính và viễn thông. Tuy nhiên, ủy ban này lại có một quy chế đặc biệt để đảm bảo tính độc lập. Luật chống độc quyền của Nhật Bản quy định các ủy viên phải do Thủ tướng trực tiếp bổ nhiệm dưới sự phê chuẩn của Nghị viện[8]. Tuy mỗi quốc gia có cách thức tổ chức cơ quan quản lý cạnh tranh khác nhau nhưng nhìn chung thể hiện sự độc lập trong hoạt động của cơ quan này. Còn ở Việt Nam thì cơ quan quản lý cạnh tranh là Cục quản lý cạnh tranh. Cơ quan này có những nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 49 Luật cạnh tranh như sau: . Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế theo quy định của Luật cạnh tranh; . Thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ; đề xuất ý kiến để Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định hoặc trình Thủ tướng Chính phủ quyết định; . Điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh; . Xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh; . Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật. 46
  47. Như vậy, Cục quản lý cạnh tranh có vai trò như một cơ quan tham mưu, thay mặt cho Bộ Công Thương đứng ra thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ, đề xuất ý kiến để Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định hoặc Bộ trưởng Bộ Công Thương trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Xét về chức năng, theo quy định tại Điều 49 Luật cạnh tranh thì Cục quản lý cạnh tranh vừa là cơ quan điều tra,vừa là cơ quan xử lý vừa là cơ quan hành chính. Cục quản lý cạnh tranh Đây là cơ quan do Chính phủ quyết định thành lập và quy định tổ chức, bộ máy của cơ quan này. Cơ quan này nằm trong hệ thống tổ chức của Bộ Công Thương, có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản riêng và có trụ sở chính tại Thành phố Hà Nội. Cục quản lý cạnh tranh có các đơn vị trực thuộc sau: Ban Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh, Ban Giám sát và quản lý cạnh tranh, Ban Điều tra và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Ban Bảo vệ người tiêu dùng, Ban xử lý chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, Ban Hợp tác quốc tế, Văn phòng, Trung tâm thông tin, Trung tâm đào tạo điều tra viên và các Văn phòng đại diện tại Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh. Với chức năng chính là giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam, cục quản lý cạnh tranh có những mục tiêu sau: • Thúc đẩy môi trường cạnh tranh lành mạnh. • Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp và người tiêu dùng trước những hành vi hạn chế cạnh tranh. • Chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. • Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. • Tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn cho ngành sản xuất 47
  48. trong nước. • Hỗ trợ cho ngành sản xuất trong nuớc phòng, chống các vụ kiện bán phá giá, trợ cấp và tự vệ của nước ngoài. 2.2.2. Trình tự, thủ tục xử lý hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh Khi doanh nghiệp có hành vi vi phạm hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh thì các doanh nghiệp khác và người tiêu dùng bị ảnh hưởng lợi ích có thể khiếu nại, tố cáo lên Cục quản lý cạnh tranh để cơ quan này xem xét và giải quyết. Đối với người tiêu dùng khi muốn khiếu nại, tố cáo lên cơ quan này thì cần làm hồ sơ khiếu nại, tố cáo bằng văn bản bao gồm: Đơn/thư khiếu nại, tố cáo: - Ghi rõ ngày, tháng, năm khiếu nại, tố cáo; tên, địa chỉ của người khiếu nại, tố cáo; tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị khiếu nại, tố cáo; nội dung, lý do khiếu nại, tố cáo và yêu cầu của người khiếu nại, tố cáo. - Do người khiếu nại, tố cáo ký tên. - Trong trường hợp việc khiếu nại, tố cáo được thực hiện thông qua người đại diện thì người đại diện phải có giấy tờ chứng minh tính hợp pháp của việc đại diện. Các chứng cứ kèm theo: Hóa đơn mua hàng, giấy bảo hành, vật phẩm, các giấy tờ có liên quan khác, Bên cạnh Cục quản lý cạnh tranh thì người tiêu dùng có thể khiếu nại tới các cơ quan, tổ chức sau: . Khiếu nại trực tiếp đến tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ mà mình đã mua hoặc sử dụng. . Thông qua các Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng, các Văn 48
  49. phòng khiếu nại của người tiêu dùng ở địa phương để khiếu nại đến tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hoặc khiếu nại lên các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. . Khiếu nại lên các cơ quan quản lý nhà nước: Bộ công Thương các tỉnh, thành phố; các cơ quan chuyên ngành có liên quan (Cục Quản lý thị trường, Cục An toàn Vệ sinh thực phẩm, Cục Xúc tiến thương mại ). . Ngoài ra người tiêu dùng có thể khởi kiện vụ việc ra cơ quan Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật trong trường hợp có đủ căn cứ xác đáng và tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh không giải quyết thỏa đáng quyền lợi hợp pháp của mình. Quyền lợi của người tiêu dùng thật sự là rất lớn, việc khiếu nại, tố cáo khi bị xâm phạm lợi ích cũng rất dễ dàng và ở nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau chứ không phải như tâm lý chung là ngại kiện cáo, thấy thiệt hại nhỏ không đáng kể nên không khiếu nại, hoặc không biết khiếu nại ở đâu Người tiêu dùng hoàn toàn có quyền gửi mọi khiếu nại của mình và yêu cầu được giải quyết thỏa đáng. Chính vì tâm lý e ngại chung đó mà đã góp phần làm cho doanh nghiệp có thể lợi dụng để thực hiện các hành vi vi phạm. Ý thức pháp luật tốt của người tiêu dùng sẽ góp phần làm cho Luật cạnh tranh thực thi một cách tốt hơn, tạo rào cản đối với doanh nghiệp bất chính, giúp môi trường cạnh tranh được trong sạch, công bằng, minh bạch và ổn định 2.2.3. Chế tài đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh Ảnh hưởng của hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh tới người tiêu dùng, doanh nghiệp và hoạt động ổn định của môi trường cạnh tranh là không nhỏ, hành vi này đã vi phạm Luật cạnh tranh thì phải có chế tài xử lý thích hợp để hạn chế và khắc phục những thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra. Chế tài đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh bao gồm chế tài hành chính và chế tài dân sự: 49
  50. Chế tài hành chính Chế tài này được quy định cụ thể tại Điều 34 Nghị định 71/2014/ NĐ-CP: “1. Phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: a) Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng; b) Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng; c) Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại; d) Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình. 2. Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 1 Điều này trong trường hợp quy mô tổ chức khuyến mại thuộc phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên. 3. Ngoài việc bị phạt tiền quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều này, doanh nghiệp thực hiện các hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Khoản 4 Điều 28 của Nghị định này.” Có thể thấy, theo quy định tại Điều 36 Nghị định số 120/2005/NĐ-CP thì mức phạt tiền cao nhất đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh chỉ là 50.000.000 đồng và mức phạt thấp nhất là 15.000.000 đồng. Như vậy, với lợi ích rất to lớn thu được trong mỗi đợt khuyến mại của doanh 50
  51. nghiệp có hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh thì con số nói trên là không đáng kể; đồng thời, nếu những doanh nghiệp vi phạm pháp luật cạnh tranh mà thu hút được nguồn khách hàng, hay người tiêu dùng của doanh nghiệp đối thủ thì quả thật số tiền phạt trên là không đáng kể gì. Như vậy, trên thị trường sẽ xuất hiện nhiều doanh nghiệp cố tình vi phạm pháp luật cạnh tranh gây thiệt hại cho doanh nghiệp đối thủ để nhằm tới những nguồn lợi ích to lớn cho mình. Hiện tại, với Nghị định 71/2014/ NĐ-CP, pháp luật đã quy định mức phạt đối với những hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh đã tăng lên đáng kể so với mức phạt trước đó nhằm xử phạt và răn đe các doanh nghiệp có hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Bên cạnh việc phạt tiền, doanh nghiệp thực hiện hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả như: “• Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm; • Buộc cải chính công khai.” Chế tài dân sự Trách nhiệm dân sự cho các hành vi cạnh tranh không lành mạnh về cơ bản không có sự khác biệt đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Cạnh Tranh năm 2004 thì hậu quả pháp lý của hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ thông qua chế tài xử phạt hành chính mà không đề cập đến vấn đề áp dụng các biện pháp dân sự. Đây là điểm khác biệt giữa Luật Cạnh Tranh năm 2004 và Luật Sở Hữu Trí Tuệ năm 2005. Việc xử lý thông qua hình thức xử phạt hành chính đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ không giải quyết 51
  52. được thiệt hại xảy ra đối với đối thủ bị cạnh tranh và khách hàng. Họ sẽ mất thời gian và chi phí khởi kiện mà không được bù đắp về thiệt hại, đồng thời phải tiến hành thêm một vụ kiện về dân sự nữa để được bồi thường gây tốn kém về mặt thời gian và tiền bạc, đôi khi hiệu quả của việc khởi kiện mang lại không cao. Đây cũng chính là lý do tại sao hiện nay các vụ kiện về cạnh tranh không lành mạnh được áp dụng theo Luật Cạnh Tranh năm 2004 là không nhiều. Trong Luật Sở Hữu Trí Tuệ năm 2005 thì tại khoản 3 Điều 198 “Tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc có khả năng bị thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp dân sự quy định tại Điều 202 của Luật này và các biện pháp hành chính theo quy định của pháp luật về cạnh tranh”.Vấn đề trên là vẫn có thể áp dụng các biện pháp dân sự trong trường hợp này. Dù Luật Cạnh Tranh năm 2004 không nói rõ vấn đề bồi thường nhưng tại Điều 117 có nói đến khả năng bồi thường khi bị thiệt hại là “Tổ chức, cá nhân có hành vi, vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khác thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật”. 52
  53. CHƯƠNG 3. HƯỚNG GIẢI QUYẾT VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Hướng giải quyết đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh Ngày nay, trong môi trường cạnh tranh vô cùng khốc liệt, các doanh nghiệp phải luôn nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ của mình từng ngày để bắt kịp với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế. Các doanh nghiệp ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về tác dụng của khuyến mại trong việc kích thích bán hàng, tiêu thụ sản phẩm và quảng bá thương hiệu. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, để đạt được doanh thu tối đa, rất nhiều doanh nghiệp đã và đang thực hiện các hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, đi ngược lại với các quy định của pháp luật. Theo nghiên cứu của hãng nghiên cứu thị trường Nielsen tại 4 thành phố lớn là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng và Cần Thơ thì những người thường mua sắm và ra quyết định mua hàng chủ yếu trong gia đình, thì kết quả cho thấy: 87% người Việt Nam sẵn sàng mua hàng khuyến mại. Các doanh nghiệp thường lợi dụng tâm lý hám lợi của người tiêu dùng để đưa ra các chương trình khuyến mại hấp dẫn nhằm thu lợi nhuận tối đa cho mình. Bởi đa phần tâm lý người tiêu dùng sẽ chọn mua các sản phẩm được khuyến mại nhiều hơn. Người tiêu dùng có thể thường xuyên bắt gặp trên các băng rôn tại các cửa hàng, showroom, siêu thị hoặc các phương tiện thông tin đại chúng những thông tin khuyến mại cực kỳ hấp dẫn như: giảm giá từ 40% -50% kèm quà tặng có giá trị; cuối tuần giá sốc; tri ân khách hàng – mua hàng bốc thăm may mắn,vv Hiện nay, nhiều doanh nghiệp khi niêm yết giá đề là giá được giảm 20% hay 30%, nhưng bảng đó được niêm yết quanh năm, với mức giá là một con số tuyệt đối không thay đổi. Như vậy giá đó là giá bán thật, không phải là giá 53
  54. giảm và hành vi này được coi là lừa dối khách hàng. Theo quy định thì mức giảm giá tối đa đối với hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại không được vượt quá 50% giá hàng hoá, dịch vụ đó ngay trước thời gian khuyến mại. Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp, vì muốn bán hàng tồn kho hoặc hết thời trang, do vậy thực hiện "đại hạ giá" ở mức 60-80%. Hay như việc khuyến mại của các nhà mạng trước đây, quy định không vượt quá 50%, nhưng vẫn có những chương trình khuyến mại lên tới 100%, 170%, 200% Lý do họ đưa ra để lách luật đó là đây chỉ là ưu đãi dành cho khách hàng sử dụng dịch vụ lâu năm Có những doanh nghiệp khi thực hiện các chương trình may rủi chưa trung thực và minh bạch, như yêu cầu khách hàng sưu tập đủ số nắp chai có in hình các bộ phận chiếc xe đạp để ghép thành chiếc xe sẽ có giải cao nhưng trên thực tế không phát hành đủ các nắp chai có in hết các bộ phận; hoặc thẻ cào trúng thưởng nhưng không phát hành thẻ có giải đặc biệt Do đó, có những chương trình khuyến mại được quảng cáo với giải thưởng rất cao nhưng không có người trúng. Doanh nghiệp "câu" người tiêu dùng mua nhiều hàng để hy vọng trúng giải nhưng cuối cùng không mất chi phí giải thưởng cho khách hàng Thời gian vừa qua việc kiểm soát hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn do thiếu đội ngũ quản lý, hệ thống pháp luật chưa đầy đủ và đồng bộ nên tình trạng khuyến mại không lành mạnh thường xuyên xảy ra, gây nhiều thiệt hại cho người tiêu dùng. Người viết xin đưa ra một số mặt còn tồn tại trong hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh như sau: Doanh nghiệp tổ chức khuyến mại nhưng gian dối, không trung thực, lừa gạt khách hàng bằng những giải thưởng hấp dẫn, tiêu biểu đó là vụ việc công ty LG gian dối trong chương trình khuyến mại với giá trị giải thưởng gần 2 tỷ đồng mà người viết đã đề cập trước đó. Một chương trình khuyến mại đồ sộ với những giải thưởng lớn nhưng lại được toan tính trước 54
  55. về người nhận giải thưởng thì không công bằng cho những đối tượng tham gia khác. Việc gian dối khách hàng như vậy là hành vi thiếu trung thực và việc quản lý cũng như xử lý những vụ việc như thế này sẽ do ai quản lý. Người tiêu dùng thì e ngại khiếu nại, kiện cáo vì những lợi ích nhỏ nhưng nếu cơ quan chức năng vẫn lơ là, không kiểm soát những việc như vậy sẽ làm lợi cho doanh nghiệp gian dối, quyền lợi người tiêu dùng tiếp tục bị xâm phạm. Vì vậy, cần khuyến khích và tạo điều kiện để người tiêu dùng nên mạnh dạn khiếu nại khi thấy quyền lợi của mình bị ảnh hưởng hay thấy có hành vi vi phạm, có như thế mới giảm bớt những hành vi gian dối, không trung thực của các doanh nghiệp trong thời gian tới. Đồng thời, các cơ quan chức năng có liên quan cần tích cực hơn trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh theo đúng pháp luật những trường hợp vi phạm để tạo lòng tin cho các doanh nghiệp khác và cho người tiêu dùng. Vì hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chân chính và người tiêu dùng nên việc xử lý đúng mức hành vi này là điều cần thiết để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Tổ chức các giải thưởng nhằm tôn vinh những doanh nghiệp kinh doanh trung thực, lành mạnh, thực hiện tốt trách nhiệm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng, việc khen thưởng cho những doanh nghiệp, cá nhân phát hiện những hành vi vi phạm là những động thái tích cực góp phần đẩy lùi hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Tình trạng doanh nghiệp đưa thông tin sai lệch gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng vẫn thường xuyên xảy ra. Doanh nghiệp đưa thông tin khuyến mại mập mờ, không rõ ràng gây khó hiểu để người tiêu dùng nhầm lẫn mà đi mua sản phẩm. Đôi khi là hàng tồn kho, kém chất lượng nhưng không nói rõ ràng khiến khách hàng không biết mà tưởng là sản phẩm tốt. Ví dụ: Một công ty mở siêu thị hàng điện máy đã cùng với một số nhà cung cấp đưa ra chương trình “siêu khuyến mại” giảm giá các sản phẩm đến 50%. Chương trình này được giới thiệu rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại 55
  56. chúng thu hút một lượng lớn khách hành đến siêu thị mua sắm. Tuy nhiên, phần lớn hàng công ty giảm giá là hàng tồn kho và số lượng rất nhỏ. Như vậy, công ty đã không trung thực trong việc đưa thông tin khuyến mại đến với người tiêu dùng. Tình trạng doanh nghiệp khuyến mại nhưng gây nhầm lẫn cho khách hàng vẫn còn xảy ra nhiều trên thực tế nên các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần sớm khắc phục để ngăn chặn những hành vi vi phạm và cũng để bảo vệ lợi ích người tiêu dùng Chương trình khuyến mại diễn ra tràn lan, khó kiểm soát. Thực tế tại các thành phố hiện nay đi đâu cũng thấy hàng khuyến mại tràn lan, nhất là hàng may mặc, thực phẩm chế biến Có cửa hàng giảm giá suốt cả năm, lúc nào cũng thấy bán hàng giảm giá với tiêu đề rất bắt mắt “Đại hạ giá”, “Siêu giảm giá” mà người tiêu dùng thì luôn thích rẻ, đó là tâm lý chung, thấy hàng khuyến mại thì cứ mua mà ít khi quan tâm đến chất lượng của nó, khi về sử dụng thì thiệt hại vẫn là người tiêu dùng phải gánh chịu. Theo quy định của Luật thương mại thì việc quản lý các chương trình khuyến mại thuộc thẩm quyền của Bộ Công Thương nếu chương trình khuyến mại thực hiện trên địa bàn một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nếu trên địa bàn hai tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên thì thuộc thẩm quyền của Bộ Công Thương. Tuy nhiên, theo thống kê thì hàng ngày có tới hàng ngàn mã hàng đăng ký chương trình khuyến mại nên việc Bộ Công Thương quản lý hoạt động khuyến mại này sẽ không sâu sát được và rất khó thực hiện bởi vì số lượng quá lớn và việc chương trình khuyến mại không đăng ký vẫn thường xuyên xảy ra, điều này đã gây nhiều khó khăn trong công tác quản lý các hoạt động khuyến mại. Vì vậy, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp trên từng địa bàn cụ thể. Việc này đòi hỏi sự phối hợp hoạt động của nhiều cơ quan chức năng như: Cục quản lý cạnh tranh, Cục quản lý thị trường, Cục xúc tiến thương mại , các cơ quan này phải phối hợp chặt chẽ và liên kết với nhau trong công tác quản lý tình hình hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp, đồng thời khi gặp khó 56
  57. khăn, vướng mắc trong công tác quản lý thì phải đưa ý kiến lên cấp trên để kịp thời giải quyết và cũng để góp phần hoàn thiện những thiếu sót của pháp luật về hoạt động khuyến mại. Lợi ích của người tiêu dùng bị xâm phạm một cách đáng kể vì chưa nắm rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ. Thường thì người tiêu dùng khi gặp phải vướng mắc hay thiệt hại do doanh nghiệp bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ gây ra thì họ không biết làm gì để đòi lại quyền lợi của mình. Nếu khiếu nại theo Luật cạnh tranh thì mức phí mà họ phải nộp là 10.000.000 đồng, với mức phí cao như thế này thì không hợp lý vì nhiều khi thiệt hại của người tiêu dùng còn chưa tới mức phí mà họ phải nộp khi khiếu nại, vì vậy sẽ không khuyến khích họ khiếu nại đòi quyền lợi theo Luật cạnh tranh. Người tiêu dùng có thu nhập thấp nếu được chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền thì có thể được miễn nộp phí khi khiếu nại, tuy nhiên trên thực tế khi người tiêu dùng có thu nhập thấp mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ thì họ ít khi quan tâm đến chất lượng hàng hóa, dịch vụ mà chỉ cần phù hợp với thu nhập của họ là họ sử dụng nên việc kiện cáo cũng ít khi xảy ra. Luật cạnh tranh đã chưa thật sự phù hợp và sâu sát với tình hình thực tế. Mục đích của Luật cạnh tranh là cũng vì lợi ích người tiêu dùng thông qua việc đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh của các doanh nghiệp, nhưng luật không dành cho người tiêu dùng một giải pháp thật sự dễ dàng và thuận tiện để họ tự bảo vệ mình khi quyền và lợi ích chính đáng bị xâm phạm. Đây cũng là điểm thiếu sót của Luật cạnh tranh và cần được khắc phục trong thời gian tới. Vì vậy, đối với mức phí xử lý vụ việc cạnh tranh về hành vi cạnh tranh không lành mạnh mà bên khiếu nại là người tiêu dùng thì nên giảm xuống ở mức thấp hơn so với mức phí 10.000.000 đồng như hiện nay, hoặc có thể miễn luôn mức phí này để người tiêu dùng có điều kiện dễ dàng khiếu nại đòi quyền lợi khi bị doanh nghiệp chèn ép. Hơn nữa, cần quy định rõ chế tài dân sự, cụ thể là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Luật cạnh tranh để có thể bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tốt 57
  58. hơn. Đồng thời, có thể làm cho Luật cạnh tranh hoàn chỉnh hơn và được thực thi một cách tốt hơn trên thực tế. Tình trạng đội ngũ cán bộ chuyên trách trong ngành còn thiếu và còn nhiều yếu kém về kiến thức pháp luật, chủ yếu là cán bộ quản lý cạnh tranh không lành mạnh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích người tiêu dùng nhưng trên thực tế công tác bảo vệ người tiêu dùng chưa tốt dẫn đến tình trạng người tiêu dùng bị xâm phạm lợi ích là rất thường xuyên xảy ra. Vì vậy cần nâng cao trình độ kiến thức về pháp luật cho cán bộ chuyên môn trong ngành quản lý để họ có thể đối phó với những hành vi vi phạm ngày càng tinh vi và phức tạp của các doanh nghiệp. Đồng thời cũng phải tăng cường thêm số lượng cán bộ quản lý nhằm đáp ứng với nhu cầu của tình hình thực tiễn hiện nay. Ý thức tự bảo vệ của người tiêu dùng chưa cao. Ở nước ta hiện nay, ý thức tự bảo vệ của mỗi người tiêu dùng cũng chưa được phát huy đúng mức. Nhiều người tiêu dùng tỏ ra thờ ơ, hoặc không biết quyền của mình khi đi mua các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Đứng trước các hiện tượng hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, hàng sai quy cách, người tiêu dùng chưa có thói quen đấu tranh hay phản ứng quyết liệt. Chính điều này đã góp phần làm lợi cho các doanh nghiệp làm ăn bất chính, gây thiệt hại lớn cho chính người tiêu dùng, quan trọng hơn còn làm cho các doanh nghiệp thoát khỏi sự kiểm soát và xử lý của pháp luật nên khả năng để thực thi pháp luật chưa tốt. Người tiêu dùng cần nâng cao ý thức tự bảo vệ quyền lợi bản thân, nên hiểu về những quyền lợi của mình khi tham gia mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của các doanh nghiệp. Phải kiên quyết đấu tranh và phản ứng quyết liệt trước hiện tượng hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng để đòi lại quyền lợi cho mình. Mạnh dạn tố cáo hay khiếu nại lên các cơ quan có thẩm quyền để họ giải quyết và xử lý những doanh nghiệp vi phạm khi có điều kiện, nếu không có điều kiện thì có thể gửi đơn yêu cầu Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu 58