Khóa luận Những vấn đề pháp lý về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam

pdf 91 trang thiennha21 16/04/2022 3412
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Những vấn đề pháp lý về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nhung_van_de_phap_ly_ve_co_phan_hoa_doanh_nghiep_n.pdf

Nội dung text: Khóa luận Những vấn đề pháp lý về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT Nguyễn Thị Ngàn NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2012-L HÀ NỘI, 2016 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT Nguyễn Thị Ngàn NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2012-L NGƯỜI HƯỚNG DẪN: THS. NGUYỄN ĐĂNG DUY HÀ NỘI, 2016 2
  3. LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng em. Các kết quả nêu trong khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Vậy, em viết lời cam đoan này đề nghị Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội xem xét để em có thể bảo vệ khóa luận tốt nghiệp. Em xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Ngàn 3
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 7 Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 10 1.1. Khái quát về Doanh nghiệp nhà nước 10 1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước 10 1.1.2. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường 13 1.2. Khái quát về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 16 1.2.1. Khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 16 1.2.2. Sự cần thiết phải cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 20 Chương 2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 28 2.1. Mục tiêu, yêu cầu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 29 2.2. Đối tượng, điều kiện cổ phần hóa 32 2.3. Các hình thức cổ phần hóa 35 2.4. Đối tượng mua cổ phần 36 2.5. Xử lý tài chính khi cổ phần hóa 40 2.6. Xác định giá trị doanh nghiệp 42 2.7. Bán cổ phần lần đầu 50 2.8. Chính sách đối với doanh nghiệp sau cổ phần hóa 52 Chương 3. THỰC TRẠNG THI HÀNH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 53 3.1. Thành tựu đạt được và những hạn chế trong thi hành pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam qua các giai đoạn 53 3.1.1. Giai đoạn 1990- 2001 53 3.1.2. Giai đoạn 2002- 2010 55 3.1.3. Giai đoạn 2011 đến nay 57 3.1.4. Đánh giá toàn bộ quá trình cổ phần hóa đến nay 67 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 75 3.2.1. Chủ trương, chính sách của nhà nước về cổ phần hóa giai đoạn 2016 2020 75 3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam 78 KẾT LUẬN 87 4
  5. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89 5
  6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CP: Chính phủ HĐBT: Hội đồng Bộ trưởng IPO: Phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu NĐ: Nghị định ODA: Hỗ trợ phát triển chính thức QĐ: Quyết định TPP: Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương TT: Thông tư TTg: Thủ tướng WTO: Tổ chức Thương mại Thế giới 6
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và nhà nước ta trong suốt 30 năm qua. Doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận kinh tế quan trọng trong nền kinh tế, được nhà nước giao phó nhiều nhiệm vụ đồng thời được nhà nước tạo điều kiện, cơ hội về vốn, nguồn lực để phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế, doanh nghiệp nhà nước không tận dụng được những lợi thế của mình, ngược lại còn bộc lộ nhiều hạn chế, tính không hiệu quả so với các thành phần kinh tế khác. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là yêu cầu tất yếu để khắc phục những thiếu sót của bộ phận doanh nghiệp nhà nước, khi nền kinh tế nước ta chuyển từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình này nhằm đa dạng hóa hình thức sở hữu, đổi mới phương thức quản lý đồng thời nhằm thúc đẩy hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước mở ra triển vọng xây dựng thị trường vốn lành mạnh, phong phú, tạo điều kiện cơ cấu lại nền kinh tế. Cổ phần hóa không nhằm xóa bỏ bộ phận doanh nghiệp nhà nước, ngược lại, tăng cường vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước, nâng cao chất lượng doanh nghiệp nhà nước nói riêng và chất lượng nền kinh tế nói chung. Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã có những bước đi mạnh mẽ từ những năm đầu thí điểm 1990 cho đến tận hôm nay, khi cổ phần hóa hóa đang dần bước vào giai đoạn cuối hoàn thành. Hàng loạt văn bản pháp lý đã được ban hành để hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện cổ phần hóa ở tất cả các cấp, ngành, địa phương.Tư tưởng, chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước về cổ phần hóa được quán triệt sâu sắc trong tất cả các văn bản, các nghị quyết Đại hội Đảng IX, X, XI, XII. Nhận thấy được tầm quan trọng của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cùng những thành tựu, hạn chế mà nước ta đạt được trong quá trình cổ phần hóa suốt 30 năm qua, em đã chọn đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp của mình là: “Những vấn đề pháp lý về cổ phầGHGGn hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam”. Việc nghiên cứu những vấn đề pháp lý và thực tiễn thi hành pháp luật cổ phần hóa 7
  8. doanh nghiệp nhà nước hiện nay có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết, để từ đó rút ra những kinh nghiệm, đưa ra những kiến nghị nhằm thúc đẩy, hoàn thiện tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, hướng tới mục tiêu hoàn thành quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới. 2. Mục đích nghiên cứu đề tài Mục đích nghiên cứu của khóa luận là làm sáng tỏ những vấn đề pháp lý về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam, thấy được những thành tựu đạt được cũng như những khó khăn, hạn chế mà các doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hóa gặp phải. Từ đó, rút ra những kinh nghiệm, đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và thi hành. Khóa luận đi sâu nghiên cứu và khẳng định sự đúng đắn của các chủ trương, chính sách cổ phần hóa của Đảng và nhà nước. Việc nghiên cứu và phân tích những vấn đề khái quát cơ bản về doanh nghiệp nhà nước và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được khóa luận thực hiện dưới góc độ pháp luật, thông qua phân tích các quy định pháp luật hiện hành về cổ phần hóa, cũng như thực trạng tiến hành cổ phần hóa ở các doanh nghiệp. Từ đó khóa luận chỉ ra những điểm bất cập trong các quy phạm pháp luật và đề xuất các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khóa luận nghiên cứu những vấn đề pháp lý về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam trong 30 năm qua. Khóa luận nghiên cứu và phân tích những khái quát cơ bản về doanh nghiệp nhà nước và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; phân tích các quy định pháp luật hiện hành về cổ phần hóa, phân tích thực trạng tiến hành cổ phần hóa và đề xuất các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, em tiến hành khai thác thông tin từ các sách, báo, tạp chí, và luận văn nhằm tìm kiếm số liệu của các bộ, ngành, doanh nghiệp, số liệu của Tổng cục thống kê. Tham khảo các công trình nghiên cứu về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của các tác giả trong nước. Đối chiếu, so sánh, thống kê, hệ thống, đưa ra những tổng hợp, phân tích về vấn đề nghiên cứu. 8
  9. 5. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Chương 2: Nội dung pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam hiện nay. Chương 3: Thực trạng thi hành và giải pháp hoàn thiện pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam hiện nay. 9
  10. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 1.1. Khái quát về Doanh nghiệp nhà nước 1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước Doanh nghiệp nhà nước là một khái niệm hoàn toàn không mới khi hình thái doanh nghiệp này không thể thiếu trong bất kỳ nền kinh tế của các nước trên thế giới. Ngân hàng thế giới 1991 định nghĩa về doanh nghiệp nhà nước như sau: “Doanh nghiệp nhà nước là một chủ thể kinh tế mà quyền sở hữu hay quyền kiểm soát thuộc về Chính phủ, và phần lớn thu nhập của chúng được tạo ra từ việc bán hàng hóa và dịch vụ”. Đối với Việt Nam, khái niệm doanh nghiệp nhà nước cũng được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật. Tuy nhiên khái niệm doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam không bất biến mà có sự thay đổi trong từng thời kỳ. Theo điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh ban hành kèm theo Nghị định số 50/HĐBT ngày 22/03/1988 và quy chế về thành lập, giải thể doanh nghiệp nhà nước ban hành kèm Nghị định 338/HĐBT ngày 20/11/1991 thì “Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh doanh do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách chủ sở hữu”. Doanh nghiêp nhà nước hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội của nhà nước. Khái niệm này không cụ thể, chỉ khẳng định sự can thiệp trực tiếp và toàn diện của nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước được đề cập lần đầu trong luật doanh nghiệp nhà nước 1995. Theo đó, “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý” [26, 84]. Quan niệm này về cơ bản giống với các văn bản pháp lý trước đó, tập trung đề cập đến vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong hoạt động kinh doanh, công ích vì mục 10
  11. tiêu kinh tế xã hội. Với khái niệm này, doanh nghiệp nhà nước có thể hoạt động trên mọi lĩnh vực, ngành nghề bởi vai trò quan trọng của nó. Trải qua nhiều lần sửa đổi luật, khái niệm doanh nghiệp nhà nước cũng có những thay đổi theo. Theo luật doanh nghiệp nhà nước 2003, “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn” [27, 84]. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam. Luật doanh nghiệp nhà nước 2003 đã liệt kê các đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp nhà nước. Khái niệm này đã cụ thể hơn khi khẳng định doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần chi phối, vốn góp chi phối thay vì chỉ là doanh nghiệp do nhà nước đầu tư vốn như trước. Doanh nghiệp nhà nước được tổ chức dưới nhiều hình thức đa dạng, phù hợp với các mô hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường như công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Năm 2005, luật doanh nghiệp mới ra đời thay thế luật doanh nghiệp năm 2000 và luật doanh nghiệp nhà nước 2003. Luật doanh nghiệp 2005 đã thống nhất, không có sự phân biệt đối xử đối với tất cả các doanh nghiệp, không phân biệt tính chất sở hữu, thành phần kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước được định nghĩa là doanh nghiệp trong đó nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ [28, 85]. Như vậy, đối tượng thuộc diện doanh nghiệp nhà nước được mở rộng dưới mọi hình thức chỉ cần doanh nghiệp có trên 50% vốn điều lệ thuộc sở hữu nhà nước. Luật doanh nghiệp 2014 đã thu hẹp đối tượng thuộc diện doanh nghiệp nhà nước khi định nghĩa “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ” [29, 85]. Đây là một thay đổi lớn trong quan niệm về doanh nghiệp nhà nước phù hợp với nền kinh tế hiện nay. Theo đó, nhà nước giảm dần sự can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp bao gồm cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước và vốn đầu tư tư nhân. Sự thay đổi định nghĩa này đem lại sự bình đẳng trong kinh doanh giữa các thành phần doanh nghiệp, đặc biệt đem lại sự công bằng cho 11
  12. doanh nghiệp dân doanh. Mặt khác, định nghĩa mới về doanh nghiệp nhà nước có thể thúc đẩy quá trình cổ phần hóa và thoái vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước hiện này- theo luật sư Nguyễn Hưng Quang. Theo tiến sĩ Lê Đăng Doanh: “Việc giảm danh nghĩa và pháp lý số doanh nghiệp nhà nước có thể có lợi trong quá trình đàm phán hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)”. Sự thay đổi khái niệm doanh nghiệp nhà nước đã giúp doanh nghiệp tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh và đầu tư. Doanh nghiệp bắt buộc phải năng động, sáng tạo để có thể tồn tại và đứng vững trên thị trường. Với sự thay đổi này, hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước sẽ diễn ra nhanh hơn. Tổ chức và điều hành doanh nghiệp sau tái cơ cấu sẽ có những thay đổi tích cực khi có só sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, giữa quản lý của chủ sở hữu với điều hành hoạt động kinh doanh, giữa quản lý điều hành với kiểm tra kiểm soát, đồng thời cơ cấu tổ chức được bố trí hợp lý, gọn nhẹ, tinh giản được lao động gián tiếp. Sự phân biệt đối xử trên thực tế giữa các thành phần kinh tế dần được xóa bỏ, tạo sự cạnh tranh bình đẳng. Tuy nhiên cũng có những ý kiến khác cho rằng sự thay đổi định nghĩa về doanh nghiệp nhà nước dẫn đến những hệ quả liên quan đến doanh nghiệp có cổ phần chi phối là nhà nước như: - Sự thay đổi này không làm giảm bớt số lượng doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại trên thực tế ở những doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của nhà nước, đồng thời cũng không hạn chế được những vấn đề của doanh nghiệp nhà nước. Năm 2011, số doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước là 1.217 doanh nghiệp chiếm 1/3 tổng số doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp đã cổ phần hóa. Thực tế, những doanh nghiệp này vẫn được coi là doanh nghiệp nhà nước, nhà nước vẫn sử dụng để thực hiện mục tiêu chính sách, vẫn thuộc quyền kiểm soát của nhà nước, vẫn tồn tại sự độc quyền, áp đặt của cổ đông nhà nước, cách thức quản trị doanh nghiệp không thay đổi, - Khi doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước không còn là doanh nghiệp nhà nước sẽ dẫn đến việc nhà nước không mấy quan tâm đến loại doanh nghiệp này. Vì vậy, doanh nghiệp không có cách tiếp cận đúng, không có các nỗ lực, các biện pháp, chính sách cải cách phù hợp, dẫn đến phó mặc các doanh nghiệp này cho những người đại diện cổ đông nhà nước. 12
  13. - Không coi doanh nghiệp có cổ phần chi phối nhà nước là doanh nghiệp nhà nước là đi ngược lại với thông lệ quốc tế. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, sau làn sóng tư nhân hóa từ những năm 1980, các doanh nghiệp nhà nước ở những nước này chủ yếu là những doanh nghiệp do nhà nước sở hữu cổ phần chi phối, thậm chí gồm cả những doanh nghiệp có cổ phần dưới mức chi phối nhưng nhà nước vẫn nắm quyền kiểm soát [13, 83]. Vậy, cần hiểu và vận dụng khái niệm mới về doanh nghiệp nhà nước một cách khách quan, linh hoạt để thúc đẩy quá trình cổ phần hóa, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, đồng thời tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường hiện nay. 1.1.2. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sở hữu toàn dân là tư tưởng chi phối, doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong mọi khu vực, lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu nhà nước, được điều hành, kiểm soát về mọi phương diện bởi nhà nước. Vị trí và vai trò của doanh nghiệp nhà nước luôn được xác định và định hướng bởi chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước cũng như kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là chủ trương nhất quán của Đảng tại các kỳ đại hội. Nghị quyết hội nghị Trung ương 3 khóa IX năm 2001 nêu rõ ”Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết kinh tế vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa IX xác định ”Tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực sản phẩm của nền kinh tế”. Đại hội X có sự điều chỉnh nhất định về vị trí của doanh nghiệp nhà nước, đó là ”Xóa bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước và tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích”. Đại hội XI chỉ khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước mà không khẳng định 13
  14. rõ ràng, trực tiếp và cụ thể về vai trò, vị trí của doanh nghiệp nhà nước nắm giữ trong nền kinh tế như Hội nghị trung ương 3 khóa IX và các văn kiện khác trước đây. Trên thực tế, khu vực doanh nghiệp nhà nước đang được sắp xếp, đổi mới theo hướng thu hẹp dần, giảm bớt ở nhiều vị trí không cần đến sự hiện diện doanh nghiệp nhà nước, kể cả diện hoạt động- phạm vi ngành, lĩnh vực có doanh nghiệp nhà nước và mật độ hiện diện của doanh nghiệp nhà nước- số lương doanh nghiệp nhà nước cùng kinh doanh trong ngành, lĩnh vực. Số ngành, lĩnh vực nhà nước giữ 100% vốn đã giảm từ 43 ngành, lĩnh vực năm 2002 xuống 20 ngành, lĩnh vực năm 2011. Số doanh nghiệp nhà nước từ 12.600 doanh nghiệp năm 1991 còn 3265 doanh nghiệp năm 2011, trong đó, số doanh nghiệp sở hữu 100% vốn của nhà nước từ 5.655 doanh nghiệp năm 2001 còn 1.254 doanh nghiệp năm 2013. Doanh nghiệp nhà nước nắm giữ nhiều vị trí quan trọng có ảnh hưởng lớn đến nhiều ngành, lĩnh vực và nền kinh tế. Cuối năm 2011, có 452 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực quốc phòng an ninh và hoạt động công ích chiếm 34,5%. Số doanh nghiệp còn lại hoạt động kinh doanh và giữ vị trí quan trọng trong lĩnh vực hạ tầng. Đây là những vị trí quan trọng cần có doanh nghiệp nhà nước để phát triển. Những vị trí này chủ yếu do các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước nắm giữ. Các Doanh nghiệp nhà nước chủ yếu thông qua các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước giữ vai trò chi phối hoặc có ảnh hưởng đến các ngành, lĩnh vực quan trọng như điện, than, xăng dầu, bưu chính viễn thông, Doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm gần 1% tổng số doanh nghiệp cả nước nhưng lại có các sản phẩm dịch vụ quan trọng trong nền kinh tế như hệ thống lưới điện quốc gia đã vươn tới những vùng sâu, vùng xa, đưa tỷ lệ hộ sử dụng điện cả nước đạt 97,5%. Doanh nghiệp nhà nước cung ứng gần như toàn bộ than, phần lớn thép, xi măng cho nền kinh tế, cung ứng 85% sản lượng xăng dầu, 100% vận tải đường sắt, 98% lượng vận tải hàng không nội địa, 56% dịch vụ tài chính, tín dụng; 70% lượng gạo xuất khẩu, 80% lượng phân bón hóa học, 95% khách hàng sử dụng dịch vụ viễn thông của 2 tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam- VNPT và tập đoàn viễn thông quân đội- Vietel. Năm 2012, Chính phủ đánh giá tình hình tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước phát triển tương đối ổn định, hơn 80% doanh nghiệp làm ăn có lãi, các tập đoàn, tổng công ty nhà 14
  15. nước đạt tổng doanh thu hơn 1.621 nghìn tỷ đồng, tăng 2% so với năm 2011, lợi nhuận trước thuế đạt 127,5 nghìn tỷ đồng. Do nắm giữ các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế nên Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí độc quyền ở một số ngành, lĩnh vực mang tính chất độc quyền tự nhiên và độc quyền do cạnh tranh không lành mạnh mà ra. Nguyên nhân của thực trạng này là do nhà nước thực hiện việc sáp nhập, hợp nhất các doanh nghiệp nhà nước độc lập thành các tổng công ty, sáp nhập các tổng công ty thành các tập đoàn kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước được dùng để điều tiết vĩ mô, ổn định thị trường, bình ổn nền kinh tế. Vai trò này được nhấn mạnh đặc biệt trong thời ký kế hoạch hóa tập trung, bao cấp trước đây. Hiện nay, Doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục thể hiện vai trò này, tuy nhiên, quy mô và mức độ giảm đi rất nhiều. Năm 2008- 2009, doanh nghiệp nhà nước được sử dụng nguồn vốn nhà nước hoặc nguồn vốn tự huy động để tăng đầu tư, chống suy giảm kinh tế. Năm 2011- 2012, doanh nghiệp nhà nước được sử dụng để thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bằng cách cắt giảm đầu tư và chi tiêu, không tăng giá bán sản phẩm, dịch vụ (than, điện, xăng dầu, sắt thép, ) theo yêu cầu của nhà nước. Tuy nhiên với nền kinh tế thị trương hiện nay, vai trò điều tiết vĩ mô không còn phù hơp. Việc lạm dụng vai trò này làm thị trường bọ bóp méo, tạo sự bất bình đẳng với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước được định vị lại với nhận thức đúng đắn về kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo không biểu hiện ở số lượng đông đảo doanh nghiệp nhà nước, chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế hay tổng sản phẩm quốc nội, không phải ở việc doanh nghiệp nhà nước phải luôn luôn làm công cụ vật chất để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô hay doanh nghiệp nhà nước phải nắm giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế với toàn bộ là sở hữu nhà nước. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước phải là ở việc doanh nghiệp nhà nước đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học công nghiệp, đi đầu về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội. Doanh nghiệp nhà nước góp phần bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước tạo lập, dẫn dắt, thúc đẩy hình thành, phát tiển nền tảng hạ tầng kinh tế cơ bản và thiết yếu, tạo đà cho phát triển kinh tế xã hội, thúc đầy cạnh tranh và hội nhập. Doanh nghiệp nhà nước làm công cụ khắc phục những thất 15
  16. bại hoặc thiếu hụt của thị trường khi có các lĩnh vực, ngành nghề không có thị trường, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không tham gia hay do độc quyền tự nhiên, chưa hình thành được thị trường cạnh tranh. Doanh nghiệp nhà nước làm công cụ hỗ trợ với các chính sách điều tiết kinh tế, ổn đinh kinh tế vĩ mô được áp dụng trong những trường hợp đặc biệt như khủng hoảng, suy giảm, lạm phát cao, Doanh nghiệp nhà nước góp phần tạo ra vị thế chủ đạo cho kinh tế nhà nước dựa trên ngành, lĩnh vực doanh nghiệp nhà nước hoạt động, mức độ sở hữu của nhà nước ở các doanh nghiệp nhà nước và tổng sở hữu nhà nước trong ngành, lĩnh vực hoạt động chính hay quy mô của doanh nghiệp nhà nước. 1.2. Khái quát về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 1.2.1. Khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Theo quan điểm của nhiều quốc gia đã tiến hành cổ phần hóa như Trung Quốc, Liên Xô cũ, quá trình cổ phần hóa nằm trong quá trình lớn hơn là tư nhân hóa. Tư nhân hóa theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc là “Sự biến đổi tương quan giữa nhà nước và thị trường trong đời sống kinh tế của một nước ưu tiên thị trường. Nền kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển, hạn chế sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào nền kinh tế” [16, 84]. Quan điểm cổ phần hóa của Trung Quốc dựa trên tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lenin coi cổ phần hóa là một bộ phận quan trọng trong chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước, với mục tiêu tìm kiếm hiệu quả kinh doanh chứ không phải tìm kiếm các hình thức sở hữu khác nhau. Quan niệm cổ phần hóa của các nước đều hướng đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thực hiện xã hội hóa sở hữu, chuyển mô hình doanh nghiệp một chủ sở hữu là nhà nước sang mô hình công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Tại Việt Nam, theo quan điểm của Đảng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, đáp ứng cơ chế thị trường, huy động vốn từ các thành phần kinh tế. Đảng và nhà nước khẳng định cổ phần hóa không nhằm mục đích tư nhân hóa. Cổ phần hóa hướng tới việc tháo gỡ khó khăn về vốn, cơ chế hoạt động, không nhằm thu hẹp sở hữu nhà nước. 16
  17. Thuật ngữ cổ phần hóa xuất hiện ở Việt Nam cuối những năm 1980, đầu những năm 1990 gắn với công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước. Có hai luồng ý kiến trái ngược nhau về cổ phần hóa ở nước ta. Một bên cho rằng cổ phần hóa ở Việt Nam không khác gì quá trình tư nhân hóa. Đa số cho rằng, cổ phần hóa ở Việt Nam không phải tư nhân hóa. Khi luật doanh nghiệp 2005 còn hiệu lực, ông Hồ Xuân Hùng- phó trưởng ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp Trung ương đã khẳng định: “Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước hoàn toàn không phải tư nhân hóa. Với những doanh nghiệp nhà nước nắm giữ trên 50% vốn sau khi cổ phần, thì theo luật doanh nghiệp nó vẫn là doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy không nên băn khoăn nó là tư nhân hay là nhà nước”. Trong tiến trình thực hiện cổ phần hóa, đã có rất nhiều khái niệm về cổ phần hóa được đưa ra. Ông Đỗ Mai Thành cho rằng “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị tài sản doanh nghiệp của mình cho các cá nhân hay tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, hoặc bán trực tiếp cho cán bộ, công nhân viên của chính doanh nghiệp nhà nước thông qua đấu thầu công khai hay thông qua thị trường chứng khoán để hình thành nên các công ty cổ phần” [30, 85]. Hay một khái niệm khác: “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước từ một chủ sở hữu duy nhất là nhà nước thành doanh nghiệp đa sở hữu, theo đó tùy vị trí và tính chất cụ thể của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân mà nhà nước vẫn giữ vai trò chi phối hoặc không cần giữ vai trò chi phối nữa” [16, 84]. Như vậy, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước không phải quá trình tư nhân hóa mà là quá trình đa dạng hóa chủ sở hữu trong doanh nghiệp. Nhà nước sẽ chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn của nhà nước cho cá nhân, tổ chức khác như người lao động trong doanh nghiệp, cổ đông ngoài doanh nghiệp nhằm đa dạng hóa các chủ sở hữu cho doanh nghiệp, góp phần tạo sự năng động và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đổi mới tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước, phát huy cao độ quyền tự chủ của doanh nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để huy động thêm vốn, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản 17
  18. thuộc sở hữu nhà nước ngày càng tăng lên, tạo sự bình đẳng giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam có những đặc điểm: Thứ nhất, Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là biện pháp chuyển doanh nghiệp từ sở hữu nhà nước sang sở hữu nhiều thành phần- đa sở hữu. Doanh nghiệp được cổ phần hóa sẽ không chỉ có một chủ sở hữu độc quyền quyết định mọi vấn đề về đầu tư, kinh doanh mà sẽ có các chủ sở hữu- các cổ đông đã đóng góp vốn, mua cổ phần tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hai là, Cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi hình thức hoạt động từ doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang công ty cổ phần. Đây là hình thức chuyển đổi loại hình doanh nghiệp từ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là nhà nước sang công ty cổ phần. Doanh nghiệp sau khi cổ phần phải hoạt động tuân thủ các quy định của luật doanh nghiệp. Ba là, Quá trình cổ phần hóa được tiến hành thông qua hình thức nhà nước bán một phần hay toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. Khi tiến hành cổ phần hóa, doanh nghiệp nhà nước tiến hành phát hành và chào bán cổ phần. Doanh nghiệp nhà nước sẽ lựa chọn các hình thức phát hành cổ phần khác nhau căn cứ vào nhu cầu nắm giữ cổ phần chi phối trong doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Nếu muốn nắm giữ cổ phần chi phối, doanh nghiệp nhà nước lựa chọn hình thức bán một phần vốn nhà nước hiện có hay phát hành thêm cổ phần để huy động vốn. Nếu không có nhu cầu nắm giữ cổ phần chi phối, doanh nghiệp nhà nước có thể bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có để các nhà đầu tư tự quyết định phần trăm nắm giữ cổ phần của mình có tính đến những giới hạn mà quy định pháp luật đặt ra. Bản chất của cổ phần hóa: Bản chất của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được xem xét trên 3 khía cạnh: Về bản chất pháp lý: Quá trình cổ phần hóa là thay đổi chủ sở hữu, biến doanh nghiệp một chủ là nhà nước thành doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu khác nhau bằng cách bán một phần hay toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp cho những người khác. Những người này trở thành chủ sở hữu của doanh nghiệp theo tỷ lệ tài 18
  19. sản mà họ sở hữu trong doanh nghiệp cổ phần hóa. Các chủ sở hữu có quyền và nghĩa vụ pháp lý, được hưởng lợi tức và các quyền tham gia hoạt động quản lý doanh nghiệp tương đương với phần vốn góp đã mua. Về bản chất chính trị: Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước không phải quá trình tư nhân hóa toàn bộ nền kinh tế mà là quá trình tư nhân hóa một phần. Nhà nước vẫn giữ phần vốn góp nhất định thậm chí là chi phối trong doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Theo luật doanh nghiệp 2005, sau khi cổ phần hóa, nhà nước vẫn nắm giữ trên 50% tổng vốn góp thì doanh nghiệp vẫn là doanh nghiệp nhà nước và nhà nước vẫn nắm giữ vai trò chi phối, quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên, với luật doanh nghiệp mới 2014, các doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoàn toàn là công ty cổ phần, không còn là doanh nghiệp nhà nước, mọi hoạt động điều hành, quản lý, ra quyết định đều phải tuân theo các quy định của luật doanh nghiệp về công ty cổ phần. Tuy nhiên, hình thái sở hữu nhà nước vẫn tồn tại. Nó chỉ không còn nắm giữ vai trò chi phối, vị trí quyết định trong doanh nghiệp mà thôi. Cổ phần hóa không xóa bỏ sở hữu nhà nhà nước mà chỉ giảm mức độ sở hữu nhà nước. Về bản chất thương mại: Cổ phần hóa là việc mua bán cổ phiếu. Người bán là doanh nghiệp mong muốn thu thêm tiền để tăng vốn chủ sở hữu. Họ buộc phải chia nhỏ quyền lực của mình và san sẻ nó cho các chủ sở hữu khác. Người mua cổ phần hướng đến việc hưởng lợi tức từ cổ phần mình đầu tư vào. Khi nắm giữ tỷ lệ cổ phần nhất định, người mua cổ phần được gia tăng quyền lợi của mình khi tham gia vào hoạt động quản lý, biểu quyết các vấn đề của doanh nghiệp. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam có những điểm khác với tính quy luật chung của các nước, bởi: - Các doanh nghiệp mà Việt Nam thực hiện cổ phần hóa được hình thành trong quá trình thực hiện công hữu hóa, tập thể hóa nền kinh tế trước đây. Điều này khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước phát triển khi doanh nghiệp nhà nước là kết quả của quá trình phát triển lực lượng sản xuất đã vượt quá tầm của sở hữu tư nhân, đòi hỏi phải mở rộng quan hệ sở hữu. - Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa vốn tồn tại lâu năm trong cơ chế bao cấp và kế hoạch của nhà nước và mới làm quen với cơ chế thị trường, 19
  20. khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là đã tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, cạnh tranh. - Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa chủ yếu được tổ chức và hoạt động theo yêu vầu và kế hoạch của nhà nước, khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là tổ chức và hoạt động vì lợi nhuận tối đa của bản thân và tuân theo quy luật thị trường. - Lý do chính của chủ trương cổ phần hóa ở nước ta là các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, khác với lý do thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp ở các nước phát triển là chuyển từ giai đoạn tập trung tư bản sang giai đoạn tập trung vốn xã hội trong và ngoài doanh nghiệp để nâng cao chất lượng và quy mô sản xuất trong cạnh tranh. Như vậy, chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta là một trong những giải pháp quan trọng nhằm giải quyết những tồn tại về tình trạng sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước – vấn đề đang gây trở ngại cho tiến trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nước ta có những đặc thù, khác biệt nhất định về đối tượng cổ phần hóa, chính sách, quy trình cổ phần hóa, vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp, xử lý các khoản nợ tồn đọng, sẽ được đề cập ở phần nội dung sau. 1.2.2. Sự cần thiết phải cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một yêu cầu tất yếu khi nước ta bước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính tất yếu này xuất phát từ nhiều nguyên nhân mà quan trọng nhất là từ những hạn chế trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và lợi ích mà cổ phần hóa đem lại. Những hạn chế của doanh nghiệp nhà nước hiện nay Doanh nghiệp nhà nước được thành lập ngay sau khi miền Bắc được giải phóng. Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đã góp phần tích cự vào sự nghiệp giải phóng miền Nam. Tuy nhiên, sau khi đất nước thống nhất, cơ chế bao cấp, nền kinh tế tự cung tự cấp đã triệt tiêu động lực sản xuất kinh doanh. Mục đích của việc thành lập doanh nghiệp nhà nước nhằm tạo ra tích lũy cho ngân sách nhà nước, tạo việc 20
  21. làm cho người lao động nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp nhà nước không đáp ứng được mục tiêu này. Sự yếu kém trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước xuất phát từ nhiều nguyên nhân: - Do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài. Cơ chế kinh tế này coi kinh tế quốc doanh dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, xem nhẹ quy luật kinh tế thị trường nên hạch toán doanh nghiệp mang tính hình thức, đội ngũ cán bộ quản lý quan liêu, nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả, không đáp ứng được yêu cầu cảu thị trường và thực tế, thái độ lao động của doanh nghiệp nhà nước mang tính ỷ lại, năng suất lao động thấp. - Do sự yếu kém của đội ngũ công nhân, cán bộ quản lý và trình độ công nghệ. Công nghệ lạc hậu dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao nên không thể cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp không có tích lũy nội bộ. - Trình độ quản lý vĩ mô nền kinh tế và doanh nghiệp còn nhiều yếu kém. Hệ thống chính sách pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn, hiệu lực thấp gây khó khăn cho doanh nghiệp. Pháp luật còn nhiều kẽ hở gây nên tình trạng kém hiệu quả trong quản lý tài chính, kế toán, kiểm toán, thanh tra. Nhà nước không nắm được thực trạng hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước không xác định rõ quyền lợi, trách nhiệm của người lao động, người lao động không có trách nhiệm, không quan tâm đến quản lý sử dụng tài sản doanh nghiệp, tham nhũng, tiêu cực phổ biến trong doanh nghiệp. Mặc dù được sắp xếp, đổi mới nhưng đến nay, đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn dàn trải, nhiều tập đoàn, tổng công ty đầu tư ra ngoài ngành vào bất động sản, ngân hàng, tài chính, thị trường chứng khoán, đầu tư chéo vào các lĩnh vực khác hàng chục tỷ đồng. Tính đến cuối năm 2013 theo chỉ đạo của Chính phủ các doanh nghiệp nhà nước đã thoái vốn ngoài được 4.180 tỷ đồng nhưng mới đạt được 19% trong tổng vốn đã đầu tư ngoài ngành là 22.000 tỷ đồng. Vì vậy, việc thoái vốn trong những năm tới của các doanh nghiệp nhà nước cần sự cố gắng rất lớn mới có thể hoàn thành mục tiêu đề ra. Khi thị trường bất động sản bị đóng băng, thị trường chứng khoán giảm sút mạnh, tình hình trong nước và quốc tế gặp khó khăn đã khiến 21
  22. cho tình trạng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước giảm sút, nợ đọng, nợ xấu tăng lên đột biến. Tính đến cuối năm 2012, nợ phải trả của các doanh nghiệp nhà nước tăng nhanh với hơn 1,3 triệu tỷ đồng (chiếm 56% tổng nguồn vốn), lớn hơn 1,46 lần vốn chủ sở hữu và chiếm 70% nợ xấu của các ngân hàng thương mại, nợ phải thu của các doanh nghiệp nhà nước cũng tăng lên: 275.975 tỷ đồng trong đó, nợ khó đòi là 13.490 tỷ đồng. Doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ một nguồn lực rất lớn của nền kinh tế (chiếm 33,5% vốn sản xuất kinh doanh, 50% vốn đầu tư từ nhà nhà nước, 60% vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại, 70% vốn ODA, ) nhưng hơn 50% doanh nghiệp nhà nước vẫn thuộc loại vừa và nhỏ, trình độ công nghệ, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Tỷ suất lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn 2005-2011 chỉ đạt 5,8%, trong khi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong cùng giai đoạn đạt 9,5%, gấp 1,6 lần so với doanh nghiệp nhà nước. Tình trạng độc quyền trong kinh doanh đã khiến cho hoạt động của nhiều doanh nghiệp nhà nước đạt hiệu quả thấp, thiếu động lực cạnh tranh, giá cả lên xuống không phù hợp với cơ chế thị trường gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Mô hình quản lý các tập đoàn, tổng công ty nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, lúng túng, chưa rõ ràng trong việc phân công, phân cấp và tổ chức thực hiện giữa chức năng sản xuất kinh doanh và hoạt động công ích phi lợi nhuận. Năng lực quản trị doanh nghiệp chưa được nâng cao và chậm được đổi mới. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý tài sản nhà nước tại doanh nghiệp còn nhiều bất cập, chồng chéo; việc thanh tra, kiểm tra và cơ chế dân chủ, công khai, minh bạch trong quản trị đối với doanh nghiệp nhà nước bị buông lỏng, tình trạng tham nhũng, lãng phí chậm được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời đã gây thất thoát hàng nghìn tỷ đồng của nhà nước điển hình là các vụ tham nhũng tại Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin), Tổng công ty hàng hải Việt Nam (Vinalines), Công ty cho thuê tài chính II, Với những hạn chế đó của doanh nghiệp nhà nước, việc tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước nói chung và việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nói riêng là 22
  23. một nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay. Vai trò của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy vai trò to lớn của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Kết quả cổ phần hóa của các nước trên thế giới đã tiến hành cổ phần hóa đã khẳng định chắc chắn điều đó. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước xử lý quan hệ sản xuất để phát triển lực lượng sản xuất, tạo mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Cổ phần hóa cải tạo lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất mới phát triển, giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đem lại sự đổi mới tư duy, hiệu quả sử dụng phương tiện sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng hoạt động. Cổ phần hóa góp phần tích cực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nguồn vốn thu được từ cổ phần hóa góp phần vào đổi mới công nghệ, đào tạo, nâng cao chất lượng lao động thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy và tận dụng những ưu điểm của lực lượng sản xuất, cải thiện quan hệ sản xuất. Cổ phần hóa là đòn bẩy để các doanh nghiệp tích cực cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường để tìm kiếm lợi nhuận. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước góp phần làm thay đổi tư duy xã hội chủ nghĩa theo chế độ bao cấp lỗi thời lạc hậu, thay vào đó là tư duy năng động, nhạy bén trước tình hình biến đổi của kinh tế thế giới. Chế độ kinh tế một chủ sở hữu là nhà nước thực hiện chính sách bao cấp đã lỗi thời, bộc lộ những hạn chế trong kìm hãm sự phát triển của kinh tế xã hội. Thay đổi nền kinh tế quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với đa dạng loại hình kinh tế, đa dạng sở hữu thúc đẩy quá trình tìm kiếm lợi nhuận trước những thách thức khó khăn của nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang công nghiệp dịch vụ, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước. Cổ phần hóa góp phần làm chuyển dịch các thành phần kinh tế. Trước cổ phần hóa, doanh nghiệp hoàn toàn thuộc thành phần kinh tế nhà nước, nhà nước nắm giữ vốn và quyết định mọi hoạt động sống còn của doanh nghiệp. Sau cổ phần hóa, với 23
  24. sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế từ việc nắm giữ cổ phần trong doanh nghiệp, tỷ lệ sở hữu cổ phần sẽ quyết định doanh nghiệp đó thuộc thành phần kinh tế nào. Nếu sở hữu của tập thể người lao động chi phối thì doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tập thể. Nếu sở hữu nhà nước chi phối thì doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước. Trường hợp sở hữu tư bản tư nhân chi phối thì doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Như vậy, cổ phần hóa đã làm thành phần kinh tế nhà nước giảm đi về mặt quy mô, thay vào đó là sự gia tăng quy mô của các thành phần kinh tế khác, góp phần vào sự chuyển dịch thành phần kinh tế. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước làm đa dạng hóa sở hữu vốn nhà nước, xác định được rõ phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp và vốn của các nhà đầu tư khác, từ đó gắn được quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà đầu tư với hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời vốn, tài sản nhà nước trong các doanh nghiệp cổ phần hóa được đánh giá lại theo quy định, làm minh bạch được tài chính doanh nghiệp, làm rõ được công nợ, xử lý được nhiều tồn đọng về vốn, tài sản, đất đai để từ đó có phương án sử dụng hợp lý hơn. Cổ phần hóa nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty, tăng cường huy động vốn đầu tư từ xã hội, cải tiến khoa học kỹ thuật công nghệ, xóa bỏ tư tưởng nhà nước bao cấp của công nhân viên, tạo ý thức làm việc tốt hơn cho công nhân viên trong công ty, xóa bỏ cơ chế quản lý cứng nhắc, yếu kém và khắc phục tình trạng lãi giả, lỗ thật còn đang tồn tại trong doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hóa là cơ hội để doanh nghiệp tự chủ kinh doanh, bố trí lại cơ cấu tổ chức trong công ty, tinh giảm biên chế và có cơ hội để phát triển kinh doanh, tìm kiếm khách hàng mới và nâng cao năng suất lao động. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước sẽ giải quyết được mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, góp phần xã hội hóa lực lượng sản xuất, thu hút thêm nguồn lực sản xuất. Khi cổ phần hóa, người lao động sẽ gắn bó, có trách nhiệm với công việc hơn, họ trở thành người chủ thực sự của doanh nghiệp và được hưởng thù lao và lợi nhuận dựa trên chính sức lực mà mình bỏ ra. Phương thức quản lý được thay đổi sẽ tạo nên sự năng động, tự chủ hơn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Cổ phần hóa là một yếu tố thúc đẩy sự hành thành và phát triển thị trường chứng khoán, tạo nên một lĩnh vực hoạt động kinh tế năng động, đưa nền kinh tế Việt 24
  25. Nam hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Các đợt chào bán cổ phần sẽ góp phần làm thông tin công ty được công khai tạo sự cạnh tranh, phát triển hướng tới mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Cổ phần hóa là giải pháp quan trọng nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài nước. Việc huy động các nguồn lực đặc biệt là nguồn vốn của các cá nhân, tổ chức giúp doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Ưu điểm của công ty cổ phần Ngay từ tên gọi ”cổ phần hóa”, quá trình này đã gắn với kết quả chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Vậy tại sao hình thức công ty cổ phần lại được lựa chọn làm mục tiêu chuyển đổi mà không phải một hình thức công ty khác như công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, ? Phân tích những ưu điểm của công ty cổ phần ta sẽ trả lời được câu hỏi trên. Công ty cổ phần được định nghĩa theo luật doanh nghiệp 2014 như sau: Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: - Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; - Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không hạn chế số lượng tối đa; - Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; - Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126 của Luật doanh nghiệp. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền phát hành cổ phần các loại để huy động vốn [29, 85]. 25
  26. Thông qua khái niệm trên, ta thấy mô hình công ty cổ phần có rất nhiều ưu điểm như: Đầu tiên, công ty cổ phần là một chủ thể pháp lý độc lập, có tư cách pháp nhân. Điều đó cho phép công ty cổ phần có các quyền và nghĩa vụ nhất định. Công ty cổ phần có tư cách chủ thể riêng, tồn tại độc lập. Bằng tài sản của mình, công ty cổ phần tự mình tham gia vào các hoạt động với nhiều mục đích khác nhau mà mục đích lợi nhuận luôn được đặt lên hàng đầu. Trong quá trình hoạt động, công ty tự chịu trách nhiệm về các giao dịch, các khoản nợ bằng tài sản của mình. Người tiến hành giao dịch chỉ là người đại diện cho quyền và nghĩa vụ của công ty. Bản chất, công ty phải chịu trách nhiệm với các giao dịch ấy. Tài sản của công ty được hình thành từ nguồn vốn góp của các cổ đông. Các cổ đông góp vốn thành lập công ty, vốn góp ấy là tài sản riêng của công ty, các cổ đông chỉ được hưởng các lợi ích nhất định từ phần vốn mình đóng góp theo quy định của pháp luật. Ưu điểm thứ hai của công ty cổ phần là chế độ trách nhiệm hữu hạn của các cổ đông. Các cổ đông góp vốn hình thành công ty cổ phần. Phần vốn góp ấy là giới hạn rủi ro tài chính của các cổ đông trên tổng vốn của công ty. Trách nhiệm của cổ đông được hạn chế trong phạm vi số vốn mà họ đóng góp. Vì không có quyền với tài sản của công ty nên các cổ đông không phải chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty. Khi có một nghĩa vụ tài chính phát sinh, công ty phải tự mình thực hiện nghĩa vụ ấy bằng tài sản của mình. Bên có quyền đối với nghĩa vụ ấy chỉ có quyền yêu cầu công ty thực hiện nghĩa vụ mà không được yêu cầu các cổ đông của công ty thực hiện bởi các cổ đông không phải chủ thể liên quan đến nghĩa vụ ấy. Các cổ đông sẽ không bao giờ mất nhiều hơn số vốn ban đầu họ bỏ ra. Đó là điểm khác biệt lớn của công ty cổ phần nói riêng và các công ty đối vốn nói chung so với các công ty đối nhân là doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh. Tính chất trách nhiệm hữu hạn đã thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào công ty cổ phần. Ưu điểm thứ ba của công ty cổ phần là cấu trúc vốn linh hoạt. Mọi hoạt động, quyết định của công ty cổ phần đều dựa trên cơ cấu vốn của các cổ đông. Quyền lực trong công ty cổ phần sẽ thuộc về người nắm giữ tỷ lệ cổ phần cao trong công ty. Quy mô vốn sẽ quyết định tiềm lực của của công ty. Nó liên quan mật thiết đến khả năng huy động vốn nợ phục vụ sản xuất kinh doanh bên cạnh nguồn vốn chủ sở hữu đã có. 26
  27. Cổ phần của công ty được chuyển nhượng linh hoạt, tự do như mua bán, tặng cho, thừa kế. Công ty cổ phần cho phép các cổ đông tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho các cổ đông khác hay cho người khác không phải cổ đông công ty trừ một số hạn chế nhất định trong 3 năm đầu thành lập công ty hay với cổ phần ưu đãi. Các cổ đông tiến hành chuyển nhượng trực tiếp hay thông qua sàn giao dịch chứng khoán đối với các công ty có cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán. Phương thức này là phổ biến với công ty có quy mô vốn lớn. Việc mua bán cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng khoán diễn ra hàng ngày, hàng giờ, vì thế nó làm tỷ lệ sở hữu cổ phần trong công ty cũng thay đổi liên tục. Việc chuyển nhượng cổ phần ít làm ảnh hưởng đến cơ cấu quản lý, tổ chức của công ty ngoại trừ các giao dịch lớn tạo nên tính ổn định trong hoạt động của công ty. Bên cạnh đó, công ty cổ phần được phép tự do huy động các nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh. Công ty được phát hành các loại cổ phiếu, trái phiếu để thu hút vốn đầu tư, mở rộng quy mô vốn, Khác với công ty trách nhiệm hữu hạn bị giới hạn trong việc phát hành cổ phiếu. Ưu điểm cuối cùng là tính chuyên môn cao trong cơ cấu tổ chức hoạt động. Bộ máy hoạt động của công ty cổ phần được phân cấp rõ ràng với chức năng chuyên môn cao. Đại hội đồng cổ đông có quyền lực cao nhất- nơi tập trung mọi quyết định của tất cả các cổ đông. Hội đồng quản trị thay mặt cổ đông giám sát hoạt động của công ty. Ban giám đốc tiến hành các hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận cho công ty, chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị. Ngoài ra, ban kiểm soát kiểm soát tính pháp lý trong mọi hoạt động của công ty, độc lập với hội đồng quản trị, chỉ chịu trách nhiệm trước cổ đông. Sự phân cấp rõ ràng giúp công ty cổ phần hoạt động hiệu quả, hài hòa. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là yêu cầu tất yếu, là chủ trương, chính sách lớn của Đảng và nhà nước ta. Quá trình này sẽ đem lại nhiều cải thiện cho nền kinh tế cả nước, khắc phục những khó khăn, hạn chế của nền kinh tế tập trung bao cấp trước kia. Lợi ích của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được chứng minh không chỉ trên lý thuyết mà ngay trong thực tế triển khai tại các nước trên thế giới và ngay tại Việt Nam. 27
  28. Chương 2 NỘI DUNG PHÁP LUẬT CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã tiến hành được 30 năm. Trong thời gian đó, hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật đã ra đời để quy định, hướng dẫn việc tiến hành cổ phần hóa. Văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là các nghị định do chính phủ ban hành. Từ năm 1990- thời điểm cổ phần hóa chính thức được tiến hành đến nay, chính phủ đã ban hành 10 nghị định quy định trực tiếp về cổ phần hóa và hàng loạt các thông tư, văn bản hướng dẫn liên quan. Mỗi nghị định được ban hành đều gắn với một giai đoạn cổ phần hóa nhất định, phù hợp với bối cảnh kinh tế, xã hội lúc bấy giờ. Nhìn chung, nghị định sau đều có xu hướng khắc phục những hạn chế, thiếu sót của nghị định trước đó nhằm hướng đến việc hoàn thiện các quy định về cổ phần hóa, góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hóa đạt hiệu quả hơn. Thời điểm hiện nay, Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/07/2011 về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần (gọi tắt là Nghị định 59/2011/NĐ-CP), Nghị định 189/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013 về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/07/2011 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần (gọi tắt là Nghị định 189/2013/NĐ-CP) và Nghị định 116/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/07/2011 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần (gọi tắt là Nghị định 116/2015/NĐ-CP) là 3 văn bản pháp lý cao nhất quy định vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam. Ba văn bản này đã đề cập đến những nội dung quan trọng nhất về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Giai đạn 2011- 2015, Chính phủ, thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định, quyết định quan trọng phục vụ cho công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước như: tiêu chí danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước, quy định về tập đoàn kinh tế nhà nước và tổng công ty nhà nước, giám sát, kiểm tra, thanh tra, đối với doanh nghiệp nhà nước trong việc chấp hành pháp luật và tuân thủ các quyết định của chủ sở hữu, quy chế công bố thông tin cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, Năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ra quyết đinh số 51/2014/QĐ-TTg về một số giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp và hướng dẫn thực hiện. Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành nghị 28
  29. định về điều lệ tổ chức và hoạt động của 13/14 tập đoàn, tổng công ty nhà nước (Dầu khí, Dệt may, Hóa chất, Điện lực, Công nghiệp than khoáng sản, Công nghiệp cao su, Đường sắt, Hàng không, Hàng hải, Lương thực miền bắc, Lương thực miền nam, Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước, Viễn thông quân đội). Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt đề án tái cơ cấu 20/20 tập đoàn, tổng công ty nhà nước thuộc thẩm quyền. Nghị định số 59/2011/NĐ-CP tiếp tục hoàn thiện cơ chế cổ phần hóa gắn với thị trường, ngăn ngừa thất thoát tài sản nhà nước, nâng cao tính công khai, minh bạch, tăng cường sự giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước đối với công tác cổ phần hóa. Để triển khai Nghị định 59/2011/NĐ-CP, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 202/2011/TT-BTC hướng dẫn xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần hóa và Thông tư số 196/2011/TT-BTC hướng dẫn bán cổ phần lần đầu và quản lý, sử dụng tiền thu từ cổ phần hóa của các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thực hiện chuyển đổi thành công ty cổ phần. Nghị định 59/2011/NĐ-CP và các Thông tư hướng dẫn đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu đặt ra đối với công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, khắc phục những vướng mắc chủ yếu của Nghị định số 109/2007/NĐ-CP trước đây. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện có những vướng mắc xuất phát từ quy định của Nghị định 59/2013/ NĐ-CP về xác định giá trị doanh nghiệp và xử lý công nợ khiến cho số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa còn ít, tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn chậm trễ. Do đó, cần có giải pháp khắc phục kịp thời để nâng cao hiệu quả công tác cổ phần hóa doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước. Vì vậy, nghị định 189/2011/NĐ-CP và nghị định 116/2015/NĐ-CP đã được Chính phủ thông qua để hoàn thiện các quy định về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Các nội dung chính về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được đề cập trong 3 nghị định trên sẽ được phân tích cụ thể trong chương 2 của khóa luận này. 2.1. Mục tiêu, yêu cầu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Điều 1 nghị định 59/2011/NĐ-CP đã khẳng định mục tiêu cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hiện nay là: - Chuyển đổi những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu. Tất cả các doanh nghiệp nhà nước không thuộc diện nhà nước phải nắm giữ 100% vốn đều có thể tiến hành cổ phần hóa. 29
  30. Quá trình cổ phần hóa sẽ chuyển đổi doanh nghiệp từ một chủ sang đa chủ sở hữu mà hình thức phổ biến nhất là loại hình công ty cổ phần. Vấn đề quan trọng là xác định doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn nhà nước là những doanh nghiệp nào? - Huy động vốn của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài để nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bên ạnh nhiệm vụ cơ cấu lại nguồn vốn trong doanh nghiệp thì nhiệm vụ huy động mở rộng nguồn lực vốn của doanh nghiệp là nhiệm vụ quan trọng. Huy động nguồn vốn nhàn rỗi của mọi cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước sẽ nâng cao tiềm lực tài chính của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Mục tiêu này được Đảng và nhà nước nhấn mạnh thống nhất từ nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần (gọi tắt là nghị định 187/2004/NĐ-CP) đến nay. Hai mục tiêu lớn của cổ phần hóa là chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước từ một chủ thành đa chủ và huy động vốn. Ngoài ra còn có những mục tiêu liên quan được đề cập ở các văn bản pháp lý trước đó như nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước, doanh nghiệp; phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông, tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp, phát triển thị trường chứng khoán Những mục tiêu đó mang tính bản chất tất yếu dù không được đề cập trong nghị định 59/2011/NĐ-CP. Cùng với nghị định 59/2011/NĐ-CP, ngày 17/07/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định 929/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011- 2015” (Gọi tắt là quyết định 929/QĐ-TTg). Cổ phần hóa là một phương thức phổ biến trong tiến trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, Quyết định 929/QĐ-TTg cũng là một văn bản pháp lý quan trọng trong tiến trình cổ phần hóa giai đoạn 2011- 2015. Văn bản này khẳng định: 30
  31. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước nhằm: - Doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý, tập trung vào ngành, lĩnh vực then chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội và quốc phòng, an ninh, làm nòng cốt để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. - Nâng cao sức cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu đối với doanh nghiệp kinh doanh, hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, cung ứng các sản phẩm dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh đối với doanh nghiệp hoạt động công ích. Cổ phần hóa là một nhiệm vụ quan trọng được nhấn mạnh tại quyết định 929/QĐ-TTg. Đó là đẩy mạnh cổ phần hóa, đa dạng hóa sở hữu các doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn sở hữu. Đối với những tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, thực hiện cơ cấu lại danh mục đầu tư và ngành nghề kinh doanh, tập trung vào những ngành nghề kinh doanh chính. Đẩy nhanh thực hiện theo nguyên tắc thị trường việc thoái vốn nhà nước đã đầu tư vào các ngành không phải kinh doanh chính. Tiến hành cổ phần hóa phải đảm bảo những yêu cầu nhất định, đó là: nhà nước, doanh nghiệp nhà nước phải bảo đảm hài hòa lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp; thực hiện cổ phần hóa công khai, minh bạch, theo nguyên tắc thị trường, khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín nội bộ doanh nghiệp, gắn với phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Doanh nghiệp cổ phần hóa phải thực hiện công khai, minh bạch các thông tin về doanh nghiệp, về phương án cổ phần hóa, tình hình quản lý và sử dụng đất đai, lao động. Doanh nghiệp cổ phần hóa có tình hình tài chính đáp ứng đủ điều kiện niêm yết phải xây dựng phương án, lộ trình niêm yết theo quy định của luật chứng khoán. Thông tin phải được công bố công khai đến các nhà đầu tư. Điều 10 nghị định 59/2011/NĐ-CP quy định nguyên tắc kế thừa quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Doanh nghiệp cổ phần hóa phải sắp xếp, 31
  32. sử dụng tối đa số lao động tại thời điểm quyết định cổ phần hóa và giải quyết chế độ cho người lao động nghỉ việc, thôi việc. Công ty cổ phần có nghĩa vụ kế thừa mọi trách nhiệm đối với người lao động từ doanh nghiệp cổ phần hóa chuyển sang, có quyền tuyển chọn, bố trí sử dụng lao động và phối hợp với cơ quan liên quan giải quyết chế độ cho người lao động. Doanh nghiệp cổ phần hóa phối hợp với cơ quan có liên quan kiểm tra, xử lý những vấn đề tài chính để xác định giá trị phần vốn nhà nước tại thời điểm chính thức chuyển thành công ty cổ phần. Công ty cổ phần được sử dụng toàn bộ tài sản, nguồn vốn đã nhận bàn giao để tổ chức sản xuất kinh doanh, kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp cổ phần hóa đã bàn giao. Trường hợp sau khi bàn giao sang công ty cổ phần mới phát sinh khoản truy thu, xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp trong thời gian là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thì phải làm rõ trách nhiệm cá nhân, tập thể để thực hiện việc bồi thường, nộp phạt, xử lý kỷ luật. Đây là vướng mắc rất lớn, khó giải quyết trên thực tế tiến hành. Những mục tiêu, yêu cầu của cổ phần hóa được đề cập rõ ràng đã giúp quá trình cổ phần hóa được nhận thức thống nhất, đảm bảo cổ phần hóa hiệu quả, tránh tình trạng lạm dụng, đi lệch với đường lối, chủ trương của Đảng và nhà nước, góp phần vào sự thành công của tiến trình cổ phần hóa từ giai đoạn đầu đến nay. 2.2. Đối tượng, điều kiện cổ phần hóa Việc xác định đối tượng cổ phần hóa là một yêu cầu bắt buộc khi tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Điều 2 nghị định 59/2011/NĐ-CP chỉ ra 3 đối tượng thuộc diện cổ phần hóa. Một là, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ là công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế, Tổng công nhà nước (kể cả ngân hàng thương mại nhà nước). Giai đoạn từ năm 2011, cổ phần hóa tập trung vào các tổng công ty, tập đoàn kinh tế- những đối tượng phức tạp đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ trước. Các công ty con, công ty thành viên của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty đã tiến hành cổ phần hóa giai đoạn trước đó chính là tiền đề, cơ sở để tiến hành cổ phần hóa công ty mẹ tiến tới hoàn thành cổ phần hóa toàn diện. Hai là, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ là doanh nghiệp thuộc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính 32
  33. Phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đây là một số lượng lớn các doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại hiện nay. Mỗi bộ, ngành, địa phương đều nắm giữ trong tay số lượng lớn doanh nghiệp. Với cơ chế quản lý hành chính, việc đảm bảo hoạt động hiệu quả cho các doanh nghiệp này là khó có thể thực hiện. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nêu trên sẽ giải phóng một lượng lớn nguồn lực cho nhà nước, góp phần gia tăng ngân sách nhà nước, đồng thời tạo tính tự chủ cho doanh nghiệp, đem lại hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp. Ba là, Doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chưa chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Số lượng doanh nghiệp tồn tại dưới hình thức này còn lại rất ít nhưng cũng không thể loại trừ nó ra khỏi đối tượng cổ phần hóa vì bản thân doanh nghiệp đang nắm giữ số lượng lớn vốn và tài sản của nhà nước. Đối tượng cổ phần hóa giai đoạn 2011 đến nay có sự thay đổi đáng kể so với các nghị định trước. Đối tượng cổ phần hóa đã được thu hẹp lại. Điều đó hoàn toàn phù hợp với thực tế khi mà năm 2010 là năm hoàn thành cơ bản cổ phần hóa theo mục tiêu đề ra. Từ năm 2011 đến nay, cổ phần hóa là giai đoạn giải quyết các vấn đề chưa kịp tiến hành trong giai đoạn trước mà tập trung là việc chưa cổ phần hóa các tập đoàn kinh tế, tổng công ty và các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước khác. Đây đều là những doanh nghiệp nhà nước quan trọng có quy mô vốn lớn, đòi hỏi quá trình cổ phần hóa thận trọng. Các giai đoạn trước năm 2011 là quá trình cổ phần hóa mở rộng và cơ bản nằm trong tiến trình cổ phần hóa được đặt ra vì vậy, đối tượng cổ phần hóa có diện rộng với số lượng và hình thức đa dạng. Việc xác định doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn là vấn đề hết sức quan trọng. Vấn đề đó đã được xác định trong quyết định mới nhất, Quyết định số 37/2014/QĐ-TTg ngày 18/06/2014 về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước (Gọi tắt là quyết định 37/2014/QĐ-TTg). Theo đó, nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ đối với những doanh nghiệp hoạt động trong 16 lĩnh vực quan trọng sau: - Trực tiếp thực hiện nhiệm vụ phục vụ quốc phòng, an ninh. - Sản xuất, cung ứng vật liệu nổ công nghiệp. - Sản xuất, cung ứng hóa chất độc. 33
  34. - Truyền tải, điều độ hệ thống điện quốc gia, thủy điện đa mục tiêu và điện hạt nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế gắn với quốc phòng, an ninh. - Quản lý, khai thác hệ thống kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia, đô thị, điều hành giao thông vận tải đường sắt quốc gia, đô thị. - Quản lý, khai thác các cảng hàng không, sân bay có vai trò, vị trí quan trọng đối với quốc phòng, an ninh; dịch vụ bảo đảm hoạt động bay. - Bảo đảm hàng hải. - Cung ứng dịch vụ bưu chính công ích. - Xổ số kiến thiết. - Xuất bản. - In, đúc tiền. - Đo đạc bản đồ phục vụ quốc phòng, an ninh. - Quản lý, khai thác hệ thống công trình thủy lợi, thủ nông liên tỉnh, liên huyện, kè đá lấn biển. - Trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. - Tín dụng chính sách phục vụ phát triển kinh tế- xã hội. - Những doanh nghiệp thành viên có vai trò chủ yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chiến lược phát triển, nắm giữ các bí quyết kinh doanh, công nghệ mà tập đoàn, tổng công ty nhà nước cần thiết nắm giữ 100% vốn đề thực hiện các nhiệm vụ ngành nghề kinh doanh chính được giao. Những lĩnh vực hoạt động trên nhà nước phải nắm giữ 100% vốn trong các doanh nghiệp vì đó là những lĩnh vực quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến trật tự xã hội, quốc phòng an ninh. Nhưng quy định này một phần đã tạo nên tình trạng độc quyền của doanh nghiệp nhà nước, ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế thị trường hiện nay. Trong thời gian tới, liệu số lượng ngành, lĩnh vực đòi hỏi nhà nước nắm giữ 100% vốn có nên tiếp tục thu hẹp lại để phát huy vai trò của các thành phần kinh tế khác? Ngoài các doanh nghiệp hoạt động trong 16 lĩnh vực trên, các doanh nghiệp nhà nước còn lại đều thuộc diện tiến hành cổ phần hóa. Quyết định 37/2014/QĐ-TTg 34
  35. cũng phân loại rõ những doanh nghiệp thực hiện sắp xếp, cổ phần hóa, nhà nước nắm giữ từ 75% tổng số cổ phần trở lên, từ 65% đến dưới 75% tổng số cổ phần, trên 50% đến dưới 65% tổng số cổ phần. Đây là căn cứ để xác định vai trò chi phối của nhà nước trong doanh nghiệp sau cổ phần hóa, là cơ sở để các doanh nghiệp nhà nước xác định phương thức cổ phần hóa phù hợp. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đặt mục tiêu hoàn thành vào năm 2010. Tuy nhiên, mục tiêu đó không thể hoàn thành và cổ phần hóa phải tiếp tục vào giai đoạn tiếp theo. Từ năm 2011, tiến trình cổ phần hóa tập trung vào các tập đoàn lớn, các tổng công ty vẫn đang tồn tại dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Giai đoạn này nhằm hoàn thiện quá trình cổ phần hóa, giải quyết những vẫn đề chưa kịp giải quyết trong giai đoạn trước đó. Vì vậy, đối tượng cổ phần hóa được xác định rất cụ thể. Quyết định 929/QĐ-TTg cũng đã nhấn mạnh lại đối tượng tiến hành cổ phần hóa nói riêng và đối tượng tái cơ cấu nói chung trong giai đoạn 2011- 2015 là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước. Các doanh nghiệp thuộc đối tượng cổ phần hóa quy đinh trong khoản 1 điều 1 nghị định 59/2011/NĐ-CP đều có thể tiến hành cổ phần hóa. Thuộc đối tượng cổ phần hóa là điều kiện cần để doanh nghiệp cổ phần hóa. Tuy nhiên để tiến hành cổ phần hóa, doanh nghiệp phải đảm bảo điều kiện nhất định. Đây là điều kiện đủ để doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hóa. Doanh nghiệp nhà nước phải đảm bảo không thuộc diện nhà nước cần nằm giữ 100% vốn điều lệ. Đây là điều kiện cơ bản nhất đã được nhấn mạnh ở mục tiêu cũng như nguyên tắc tiến hành cổ phần hóa. Đồng thời, Doanh nghiệp phải còn vốn nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và đánh giá lại giá trị doanh nghiệp. Nếu không đáp ứng được điều kiện này, doanh nghiệp nhà nước buộc phải cơ cấu theo phương thức khác như cho hợp nhất, sáp nhập, thậm chí tiến hành cho doanh nghiệp phá sản. 2.3. Các hình thức cổ phần hóa Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước có thể tiến hành theo nhiều hình thức: Thứ nhất, Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. Hình thức này áp dụng cho các doanh nghiệp mà nhà nước giữ một tỷ lệ cổ phần nhất định trong doanh nghiệp thường là cổ phần chi phối và doanh nghiệp đang có hoạt động hiệu quả, có nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất 35
  36. nhằm thu hút vốn ngoài xã hội đầu tư, phát triển, tăng vốn hoạt động cho doanh nghiệp. Thứ hai, Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phần để tăng vốn điều lệ. Hình thức này được áp dụng cho những doanh nghiệp vừa cần huy động thêm vốn vừa cơ cấu lại quyền sở hữu về vốn và phương thức quản lý doanh nghiệp. Tỷ lệ nắm giữ cổ phần bị thay đổi, nhà nước có thể nắm giữ cổ phần chi phối hoặc không. Thứ ba, Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ để chuyển thành công ty cổ phần, nhà nước không còn nắm giữ cổ phần tại công ty. Các phương thức này được quy định tại điều 4 nghị định 59/2011/NĐ-CP. Về bản chất các phương thức cổ phần hóa này được quy định ổn định trong các nghị định về cổ phần hóa ở các giai đoạn khác nhau. Mục đích tăng vốn được nhấn mạnh trong cả 3 phương thức cổ phần hóa. Đây là mục tiêu quan trọng đi đôi với mục tiêu cơ cấu lại nguồn vốn trong doanh nghiệp cổ phần hóa. Mục tiêu này đã được nhấn mạnh hơn so với các giai đoạn trước. Mỗi hình thức cổ phần hóa đều có những ưu, nhược điểm riêng. Nhưng sự đa dạng trong hình thức sẽ tạo thêm cho doanh nghiệp nhiều sự lựa chọn phù hợp với ngành nghề kinh doanh, loại hình doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại, mục đích chủ sở hữu để tiến hành cổ phần hóa. Nó cũng quyết định đến vai trò của nhà nước trong doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Nhà nước có thể nắm giữ cổ phần thậm chí cổ phần chi phối hoặc không còn cổ phần trong doanh nghiệp. 2.4. Đối tượng mua cổ phần Bán cổ phần lần đầu là một bước quan trọng khi tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Việc bán cổ phần lần đầu được thực hiện theo các phương thức khác nhau như: đấu giá công khai, bảo lãnh phát hành hay thỏa thuận trực tiếp [10, 83]. Đối tượng mua cổ phần là một nội dung quan trọng cần được xác định khi tiến hành cổ phần hóa. Điều 6 nghị định 59/2011/NĐ-CP đã quy định chi tiết vấn đề này. Các đối tượng có quyền mua cổ phần phải đáp ứng những điều kiện nhất định. 36
  37. Đối tượng đầu tiên là các nhà đầu tư trong nước. Đó có thể là cá nhân người Việt Nam hoặc các tổ chức được thành lập và hoạt động theo luật pháp Việt Nam. Trường hợp này loại trừ khả năng tổ chức, cá nhân là nhà đầu tư chiến lược được quy đinh thành một đối tượng riêng. Nhà đầu tư trong nước được quyền mua cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hóa với số lượng không hạn chế. Đối với trường hợp doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa tiến hành niêm yết ngay tại sở giao dịch chứng khoán thì trong số lượng cổ phần bán ra công chúng phải quy định số cổ phần tối đa và tối thiểu đặt mua để đảm bảo điều kiện niêm yết cho doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Thành viên ban chỉ đạo cổ phần hóa doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian, các nhân viên thực hiện tư vấn, định giá, kiểm toán đấu giá bán cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hóa không được mua cổ phần để đảm bảo sự công bằng, minh bạch trong thông tin cổ phần hóa, tránh tình trạng lợi dụng thông tin nội bộ để đầu cơ. Các công ty con, công ty liên kết trong cùng tập đoàn, tổng công ty và tổ hợp công ty mẹ- công ty con của doanh nghiệp cổ phần hóa cũng thuộc đối tượng không được mua cổ phần để hạn chế tình trạng cổ phần hóa mang tính nội bộ, sở hữu chéo trong các tập đoàn, tổng công ty. Người lao động là một trong các đối tượng thuộc nhóm 1 được mua cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hóa. Đã có nhiều quy định về việc ưu đãi cho người lao động mua cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hóa. Nghị định 64/2002/NĐ-CP quy định: người lao động được mua tối đa 10 cổ phiếu cho mỗi năm làm việc với giá giảm 30% so với mệnh giá (mệnh giá 10.000 đồng/cổ phiếu) và phải nắm giữ trong 3 năm. Như vậy, sau 3 năm, người lao động có thể bán cổ phiếu của mình, tức là bán đi quyền làm chủ, để trở lại thân phận làm thuê. Rõ ràng, chủ trương bán cổ phiếu cho người lao động sau 3 năm nắm giữ không đạt được mục đích đảm bảo lợi ích lâu dài cho người lao động. Nghị định 187/2007/NĐ-CP quy định: người lao động được mua 100 cổ phiếu cho mỗi năm làm việc với giá ưu đãi giảm 40% so với giá đấu thầu thành công bình quân bán cho nhà đầu tư khác. Lấy giá đấu thầu thành công làm chuẩn là chưa bảo vệ lợi ích vủa người lao động vì nếu họ mua vào lúc giá thị trường chứng khoán lên cao thì giảm 40% so với giá đấu thầu thành công bình quân, họ vẫn phải trả với giá cao hơn mệnh giá cổ phiếu. Một điểm bất cập của nghị định này là không quy định người lao động phải giữ cổ phiếu trong 3 năm, có nghĩa là cho phép họ bán 37
  38. ngay cổ phiếu của mình. Quy định như vậy liệu là không thuận lợi cho người lao động, khi người lao động dễ để mất cơ hội làm chủ của mình khi cổ phiếu được giá? Điều 48 nghị định 59/2011/NĐ- CP đề ra chính sách ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa có tiến bộ hơn nhiều so với trước: “Người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp tại thời điểm công bố giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa được mua tối đa 100 cổ phần cho mỗi năm thực tế làm việc tại khu vực nhà nước với giá bán bằng 60% giá đấu thành công thấp nhất (Trường hợp đấu giá công khai trước) hoặc bằng 60% giá bán thành công thấp nhất cho các nhà đầu tư chiến lược (Đối với trường hợp bán cho nhà đầu tư chiến lược trước). Người lao động cam kết làm việc lâu dài cho doanh nghiệp trong thời hạn ít nhất 3 năm (kể từ ngày doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu) sẽ được mua thêm cổ phần ưu đãi theo quy định: Mua thêm theo mức 200 cổ phần/1 năm cam kết làm việc tiếp trong doanh nghiệp nhưng tối đa không quá 2.000 cổ phần cho một người lao động. Riêng người lao động là các chuyên gia giỏi, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao làm việc tại doanh nghiệp được mua thêm theo mức 500 cổ phần/1 năm cam kết làm việc tiếp trong doanh nghiệp nhưng tối đa không quá 5.000 cổ phần cho một người lao động [10, 83]. Các quy định ưu đã cho người lao động vẫn tập trung tính theo số năm làm việc tại doanh nghiệp nhà nước. Điều này là không phù hợp với trình độ, chuyên môn, năng lực của người lao động. Nghị định 116/2015/NĐ- CP đã bổ sung chính sách ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa. Theo đó, những doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa đã tiến hành các thủ tục cần thiết theo phương án cổ phần hóa đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt nhưng chưa thực hiện được IPO trong thời gian 90 ngày kể từ ngày có quyết định phê duyệt phương án cổ phần hóa thì doanh nghiệp được bán trước cổ phần cho người lao động, tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp với giá bán cổ phiếu bằng 60% giá khởi điểm trong phương án cổ phần hóa đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Người lao động còn được hưởng các ưu đãi khác đối với giá mua cổ phần ưu đãi, được hưởng các quyền lợi về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các chế độ khác. Điều 48 của nghị định cũng có hướng giải quyết cụ thể đối với các cổ phần mà người lao động mua của doanh nghiệp khi doanh nghiệp thực hiện tái cơ cấu dẫn đến chấm dứt hợp đồng lao động, thôi việc, mất việc, trường hợp người lao động 38
  39. chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn. Chênh lệch giữa giá bán cho người lao động, cho tổ chức công đoàn (nếu có) so với mệnh giá cổ phần được trừ vào giá trị phần vốn nhà nước khi quyết toán tại thời điểm doanh nghiệp chính thức chuyển thành công ty cổ phần. Những quy định mới về ưu đãi dành cho người lao động đã tạo điều kiện cho người lao động được thực sự thực hiện quyền làm chủ của mình trong doanh nghiệp, góp phần phát huy vai trò, hiệu quả trong lao động sản xuất. Đối tượng thứ 2 được mua cổ phần là nhà đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu mua cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hóa phải mở tài khoản tiền gửi tại một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán theo quy định của pháp luật Việt Nam về ngoại hối. Các quy định cho người nước ngoài mua cổ phần đã có thay đổi tích cực. Các nghị định trước đó luôn có những hạn chế về tỷ lệ nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí, trong giai đoạn đầu cổ phần hóa, nhà đầu tư nước ngoài không được mua cổ phần, họ bị loại ra khỏi doanh sách đối tượng được nắm giữ cổ phần. Những quy định đó đã hạn chế sự đầu tư của thành phần đầu tư nước ngoài trong khi đây là một nguồn lực lớn có quy mô về vốn, tài chính và tiềm lực lớn hơn rất nhiều so với nguồn lực trong nước. Sự mở rộng đối tượng mua cổ phần tại thời điểm hiện nay đã làm tăng tính hiệu quả của cổ phần hóa, tạo động lực phát triển cổ phần hóa. Đối tượng thứ 3 được mua cổ phần là nhà đầu tư chiến lược. Nhà đầu tư chiến lược là nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài có năng lực tài chính và có cam kết bằng văn bản của người có thẩm quyền trong việc gắn bó lợi ích lâu dài với doanh nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp sau cổ phần hóa về chuyển giao công nghệ mới, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp, cung ứng nguyên vật liệu, phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm. Việc lựa chọn nhà đầu tư chiến lược phải được xây dựng thành phương án xác định tiêu chí của nhà đầu tư chiến lược, phương thức bán và số lượng cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến lược để cơ quan có thẩm quyền quyết định. Nhà đầu tư chiến lược tại mỗi doanh nghiệp cổ phần hóa tối đa là 3. Tùy thuộc vào từng phương thức bán cổ phần mà giá bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược sẽ bị thay đổi. Nhà đầu tư chiến lược không được chuyển nhượng số cổ phần mua trong thời hạn tối thiểu 5 năm kể từ ngày công ty cổ phần được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Trường hợp đặc biệt phải 39
  40. chuyển nhượng số cổ phần này trước thời hạn trên thì phải được Đại hội đồng cổ đông chấp thuận. Đây là một quy định cần thiết đảm bảo sự ổn định trong cơ cấu vốn, cơ cấu hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Nghị định 116/2015/NĐ-CP đã có quy định mới về cơ cấu vốn cổ phần lần đầu. Cụ thể, Nghị định mới chỉ quy định chung về cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến lược và nhà đầu tư khác, thay cho quy định cụ thể cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến lược và nhà đầu tư khác không thấp hơn 25% vốn điều lệ (trừ trường hợp quy định), số cổ phần bán cho các nhà đầu tư khác không thấp hơn 50% số cổ phần nêu trên. Đây là một quy định tích cực, không còn sự hạn chế trong tỷ lệ nắm giữ cổ phần, doanh nghiệp hoàn toàn tự do trong quá trình huy động vốn. Các nguồn lực vốn được tự do phát huy vai trò của mình. 2.5. Xử lý tài chính khi cổ phần hóa Đây là bước thực hiện trước khi xác định giá trị doanh nghiệp. Khi có quyết định cổ phần hóa, doanh nghiệp tiến hành kiểm kê, phân loại tài sản, các nguồn vốn và quỹ mà doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng. Doanh nghiệp tiến hành lập báo cáo tài chính, phối hợp với cơ quan quản lý thuế và các cơ quan có thẩm quyền liên quan để kiểm tra, quyết toán, xử lý các vấn đề tài chính tồn tại. Nội dung này đã được quy đinh chi tiết tại chương 2 trong nghị định 59/2011/NĐ-CP về xử lý tài chính khi cổ phần hóa. Các tài sản được phân loại cụ thể để xác định tài sản đó có được tính vào giá trị doanh nghiệp hay không để có các hướng xử lý riêng cho từng loại. Cụ thể: Tài sản cho thuê, mượn, nhận góp vốn liên doanh, liên kết, tài sản không phải của doanh nghiệp thì không tính vào giá trị doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tiến hành kế thừa hoặc thanh lý các hợp đồng liên quan đến các tài sản đó. Đối với tài sản không cần dùng, ứ đọng, chờ thành lý, doanh nghiệp tiến hành thanh lý, nhượng bán. Những tài sản này không được tính vào giá trị doanh nghiệp và phải tiến hành chuyển giao cho các cơ quan theo quy định. Tuy nhiên, cũng có những tài sản không được loại trừ khỏi giá trị doanh nghiệp như nhà cửa, vật kiến trúc, . Các khoản nợ phải thu: Doanh nghiệp tiến hành đối chiếu, xác nhận các khoản nợ phải thu, tiến hành thu hồi các khoản nợ đến hạn. Đối với các khoản nợ khó đòi, 40
  41. tiến hành xử lý theo quy định. Những khoản nợ không có đủ hồ sơ pháp lý chứng minh khách nợ còn nợ hoặc không có khả năng thu hồi theo quy định thì không được loại trừ ra ngoài giá trị doanh nghiệp, doanh nghiệp phải làm rõ nguyên nhân để xử lý theo nguyên tắc sau: Xác định trách nhiệm xử lý bồi thường của tập thể, cá nhân có liên quan đến khoản nợ phải thu không xác định được khách nợ, phần tổn thất còn lại được xử lý theo quy định hiện hành của Nhà nước về xử lý nợ tồn đọng. Hoàn thiện hồ sơ, tiếp tục theo dõi để xử lý thu hồi đối với những khoản nợ không chứng minh được là không có khả năng thu hồi. Các khoản nợ phải trả: Theo điều 16, nghị định 59/2011/NĐ-CP, Doanh nghiệp cũng tiến hành đối chiếu, xác nhận các khoản nợ phải trả, phải thanh toán các khoản nợ đến hạn. Các khoản nợ phải được xử lý theo thỏa thuận hoặc chuyển thành vốn góp cổ phần. Riêng đối với nợ thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước, doanh nghiệp phải thanh toán trước khi cổ phần hóa hoặc doanh nghiệp sau cổ phần hóa phải kể thừa. Các khoản dự phòng, lỗ, lãi được xử lý theo điều 17 nghị định 59/2011/NĐ- CP. Nghị định 116/2015/NĐ-CP đã có những điều chỉnh trong nội dung này. Các khoản dự phòng được dùng để bù đắp các tổn thất, số còn lại tính vào giá trị phần vốn nhà nước. Quỹ dự phòng rủi ro ngân hàng, bảo hiểm được để lại doanh nghiệp và tính vào giá trị phần vốn nhà nước. Quỹ dự phòng tài chính để bù lỗ, bù đắp thổn thất, số còn lại tính vào giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Các khoản lãi để bù lỗ, bù đắp tổn thất, số còn lại được phân phối theo quy định. Vốn đầu tư dài hạn vào các doanh nghiệp như vốn góp liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần, góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hay các hình thức đầu tư dài hạn khác. Các khoản đầu tư dài hạn của doanh nghiệp tại doanh nghiệp khác, doanh nghiệp có thể kế thừa, chuyển giao cho doanh nghiệp khác hoặc bán phần vốn góp đó trước khi xác định giá trị doanh nghiệp. Quỹ phúc lợi, Quỹ khen thưởng. Số dư trong các quỹ này sau khi bù đắp các khoản chi vượt quá chế độ cho người lao động thì được chia cho người lao động đang làm việc tại doanh nghiệp. 41
  42. Số dư quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp được hạch toán tăng vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Tại thời điểm doanh nghiệp chính thức chuyển thành công ty cổ phần, doanh nghiệp tiếp tục thực hiện điều chỉnh số liệu trong sổ kế toán, xử lý các khoản nợ, tài sản không tính vào giá trị doanh nghiệp, tiếp tục xử lý các tồn tại tài chính, định giá lại các khoản đầu tư chứng khoán. Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp hoàn thành lập báo cáo tài chính, kiểm toán báo cáo tài chính, đề nghị cơ quan thuế kiểm tra, quyết toán thuế, Thời hạn này, nghị định 116/2015/NĐ-CP đã kéo dài thêm 30 ngày thay vì chỉ có 30 ngày như nghị định 59/2011/NĐ để đảm bảo tính thực hiện được trên thực tế. Nếu phát sinh khoản chênh lệch tăng, giảm thì tiến hành xử lý theo điều 21 nghị định 59/2011/NĐ-CP. 2.6. Xác định giá trị doanh nghiệp Xác định giá trị doanh nghiệp là vấn đề quan trọng bậc nhất khi tiến hành cổ phần hóa. Trên thực tế, nó đã gặp phải nhiều vấn đề, vướng mắc. Các nghị định liên tục thay đổi phần lớn đều nhằm hoàn thiện tối đa vấn đề này. Bước đầu, doanh nghiệp xác định vấn đề liên quan đến tổ chức tư vấn định giá xác định giá trị doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể thuê hoặc tự mình thực hiện. Doanh nghiệp tự xác định giá trị doanh nghiệp phải báo cáo với cơ quan có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp. Những trường hợp bắt buộc phải thuê tổ chức tư vấn định giá xác định giá trị doanh nghiệp là doanh nghiệp có tổng giá trị tài sản theo sổ kế toán từ 30 tỷ đồng trở lên hoặc giá trị vốn nhà nước theo sổ kế toán từ 10 tỷ đồng trở lên theo quy định tại khoản 1 điều 22 nghị định 59/2011/NĐ-CP. Khi có trên 2 tổ chức tư vấn định giá thì lựa chọn theo phương thức đấu thầu. Quy định này theo phản ánh của nhiều doanh nghiệp là nguyên nhân làm chậm quá trình cổ phần hóa của doanh nghiệp. Phần lớn các hợp đồng tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp có giá trị không lớn, nhưng phải tổ chức đấu thầu đang làm hạn chế quá trình cổ phần hóa của doanh nghiệp. Đến nay, đối tượng thực hiện cổ phần hoá chủ yếu là các doanh nghiệp quy mô lớn, trong đó có các công ty mẹ, các tập đoàn kinh 42
  43. tế, tổng công ty Nhà nước, nên để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các doanh nghiệp này trong thời gian tới, Chính phủ đã quyết định điều chỉnh quy định về lựa chọn tổ chức tư vấn định giá tại nghị định 116/2015/NĐ-CP. Theo đó, đối với các gói thầu tư vấn định giá có giá trị không quá 3 tỷ đồng, thì cơ quan có thẩm quyền quyết định phương án cổ phần hóa có thể lựa chọn hình thức chỉ định thầu để lựa chọn tổ chức tư vấn định giá trong danh sách do Bộ Tài chính công bố; trường hợp xét thấy cần phải tổ chức đấu thầu, thì thực hiện đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu. Đối với các gói thầu tư vấn không thuộc quy định này, cơ quan có thẩm quyền quyết định phương án cổ phần hóa quyết định tổ chức đấu thầu lựa chọn đơn vị thực hiện tư vấn định giá theo quy định. Đây là một nguyên tắc quan trọng để lựa chọn tổ chức tư vấn định giá. Nội dung sửa đổi này đã tạo điều kiện để việc lựa chọn đơn vị tư vấn được thuận lợi hơn, tránh kéo dài thời gian cổ phần hóa. Tổ chức có chức năng định giá có thể là công ty kiểm toán, công ty chứng khoán, doanh nghiệp thẩm định giá trong nước và nước ngoài. Vấn đề xác định quyền, nghĩa vụ và điều kiện của tổ chức tư vấn định giá được quy định chi tiết tại điều 22 nghị đinh 59/2011/NĐ-CP. Cơ quan có thẩm quyền quyết định phương án cổ phần hóa lựa chọn tổ chức tư vấn cổ phần hóa theo quy định của pháp luật. Đối với các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước và một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt (như bảo hiểm, ngân hàng, viễn thông, hàng không, khai thác than, dầu khí, khai thác mỏ quý hiếm khác), khi thực hiện cổ phần hóa mà phương án cổ phần hóa thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ thì Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lựa chọn tổ chức tư vấn cổ phần hóa (lựa chọn tổ chức tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp, lựa chọn tư vấn xây dựng phương án cổ phần hóa). Căn cứ Hồ sơ xác định giá trị doanh nghiệp do tổ chức tư vấn định giá xây dựng (hoặc do doanh nghiệp cổ phần hóa tự xây dựng), Ban Chỉ đạo cổ phần hóa doanh nghiệp có trách nhiệm thẩm tra về trình tự, thủ tục, tuân thủ các quy định của pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp, trình cơ quan có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp quyết định. Cơ quan này có trách nhiệm xem xét, quyết định 43
  44. đồng thời gửi hồ sơ xác định giá trị doanh nghiệp cho tổ chức kiểm toán trong trường hợp bắt buộc. Kiểm toán là một khâu quan trọng khi tiến hành xem xét kết quả xác định giá trị doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có quy mô lớn vốn nhà nước trên 500 tỷ đồng, hoạt động trong lĩnh vực, ngành nghề đặc thù như bảo hiểm, ngân hàng, bưu chính viễn thông, hàng không, khai thác than, dầu khí, khai thác mỏ quý hiếm khác; các công ty mẹ thuộc tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và các doanh nghiệp khác theo yêu cầu của Thủ tướng chính phủ. Khi nhận được kết quả xác định giá trị doanh nghiệp, cơ quan có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp phải gửi văn bản và hồ sơ đề nghị cơ quan kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán kết quả tư vấn định giá và xử lý các vấn đề tài chính trước khi chính thức công bố giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa. Đó là quy định tại nghị định 59/2011/NĐ-CP. Thực tế, số lượng doanh nghiệp có vốn Nhà nước trên 500 tỷ đồng khá nhiều, nên trường hợp các doanh nghiệp này cùng thực hiện cổ phần hóa, thì việc kiểm toán sẽ không đảm bảo theo đúng thời hạn quy định, dẫn tới kéo dài thời gian. Để tháo gỡ vấn đề này, Nghị định 189/2013/NĐ-CP đã điều chỉnh quy định theo hướng, Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán các đối tượng: công ty mẹ thuộc tập đoàn kinh tế nhà nước; công ty mẹ thuộc tổng công ty nhà nước và các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên khác khi có yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, xem xét và kết quả kiểm toán (nếu có), cơ quan có thẩm quyền công bố giá trị doanh nghiệp. Doanh nghiệp cổ phần hóa cũng được điều chỉnh giá trị doanh nghiệp đã công bố khi có những nguyên nhân khách quan làm ảnh hưởng đến giá trị những tài sản của doanh nghiệp hoặc sau 18 tháng kể từ thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp mà doanh nghiệp chưa thực hiện việc bán cổ phần theo nghị định 189/2013/NĐ-CP thay vì 12 tháng theo nghị định 59/2011/NĐ- CP, ngoại trừ các trường hợp đặc thù theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ do các doanh nghiệp cổ phần hóa giai đoạn này có quy mô lớn và phải xử lý các vấn đề tài chính, đất đai nên việc đảm bảo thời gian 12 tháng là khó thực hiện. Kết quả công bố giá trị doanh nghiệp là cơ sở để xác định quy mô vốn điều lệ, cơ cấu cổ phần phát hành lần đầu và giá khởi điểm để thực hiện đấu giá bán cổ phần. 44
  45. Xác định giá trị doanh nghiệp gồm 2 phương pháp chính là phương pháp tài sản và phương pháp dòng tiền chiết khấu. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể lựa chọn các phương pháp xác định khác. Xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản. Trong phương pháp định giá này, việc xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp là yếu tố cơ bản. Giá trị thực tế của doanh nghiệp cổ phần hóa là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa có tính tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được [10, 79]. Giá trị thực tế vốn nhà nước tại doanh nghiệp cổ phần hóa là giá trị thực tế của doanh nghiệp sau khi trừ các khỏan nợ phải trả, số dư quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi và số dư nguồn kinh phí sự nghiệp. Khoản 3 điều 28 nghị định 59/2011/NĐ-CP quy định: Đối với các tổ chức tài chính, tín dụng khi xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản được sử dụng kết quả kiểm toán báo cáo tài chính để xác định tài sản vốn bằng tiền, các khoản công nợ nhưng phải thực hiện kiểm kê, đánh giá đối với tài sản cố định, các khoản đầu tư dài hạn, chi phí dở dang liên quan đến chi phí đền bù, giải tỏa, san lấp mặt bằng và giá trị quyền sử dụng đất theo chế độ Nhà nước quy định. Với quy định này, doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hóa phải đối chiếu toàn bộ công nợ. Tuy nhiên, việc đối chiếu toàn bộ công nợ là khó khăn. Trên thực tế, các doanh nghiệp hiện nay chỉ đối chiếu được 60%- 70%, việc đối chiếu toàn bộ công nợ mất nhiều thời gian nên làm chậm tiến độ cổ phần hóa của doanh nghiệp. Nghị định 189/2013/NĐ-CP đã có quy định linh hoạt hơn. Theo đó, trong một số trường hợp như thời điểm cổ phần hóa không trùng với thời điểm kiểm kê khóa sổ kế toán lập báo cáo tài chính, doanh nghiệp quy mô lớn, đối tượng công nợ nhiều thì đến thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp mà vẫn còn một số khoản công nợ (phải thu, phải trả) có đầy đủ hồ sơ nhưng chưa được đối chiếu, xác nhận theo quy định tại Nghị định này thì phải giải trình rõ các khoản nợ, xác định rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân liên quan. Đồng thời, phải hoàn tất việc đối chiếu công nợ trước thời điểm doanh nghiệp cổ phần hóa được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu và báo cáo cơ quan có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp xem xét, quyết định theo giá trị đang theo dõi trên sổ 45
  46. sách kế toán. Ngoài ra, phải công bố công khai trong quyết định phê duyệt giá trị doanh nghiệp cũng như phương án cổ phần hóa làm cơ sở bán đấu giá cổ phần. Tại thời điểm doanh nghiệp cổ phần hóa được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu, khi lập báo cáo tài chính để bàn giao từ doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang công ty cổ phần, nếu các khoản công nợ này vẫn chưa được đối chiếu, xác nhận thì xem xét, xử lý theo các hướng: - Đối với nợ phải trả doanh nghiệp đã làm đủ thủ tục đối chiếu nợ nhưng không xác nhận được chủ nợ thì được hạch toán ghi tăng vốn nhà nước tương ứng và công ty cổ phần mới có trách nhiệm lưu trữ hồ sơ, tiếp tục kế thừa, theo dõi để thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi chủ nợ yêu cầu. Căn cứ hồ sơ tài liệu hợp pháp liên quan và yêu cầu của chủ nợ, công ty cổ phần mới thực hiện trả nợ và hạch toán vào chi phí trong kỳ; - Đối với nợ phải thu doanh nghiệp đã làm thủ tục đối chiếu nhưng vẫn chưa đối chiếu được thì phải xem xét, xử lý trách nhiệm bồi thường đối với tập thể, cá nhân có liên quan. Giá trị khoản nợ còn lại (sau khi bù trừ khoản bồi thường của các cá nhân, tập thể, quỹ dự phòng nợ phải thu khó đòi) được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa. Công ty cổ phần mới có trách nhiệm lưu trữ hồ sơ, tiếp tục kế thừa, theo dõi để đôn đốc thực hiện thu nợ. Để xác định giá trị thực tế, doanh nghiệp căn cứ vào số liệu theo sổ kế toán, tài liệu kiểm kê, phân loại và đánh giá chất lượng tài sản, giá trị trường của tài sản, giá trị quyền sử dụng đất được giao, giá trị tiền thuê đất, giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa gồm giá trị thương hiệu, tiềm năng phát triển. Đây là một điểm mới của nghị định 59/2011/NĐ-CP khi loại bỏ giá trị lợi thế về vị trí địa lý ra khỏi giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp. Trong thời gian trước đây, việc xác định giá trị lợi thế về vị trí địa lý đã gây ra nhiều bất cập và vướng mắc trong quá trình cổ phần hóa. Điều 33 nghị định 59/2011/NĐ-CP quy định về việc xác định giá trị vốn đầu tư dài hạn. Theo đó, giá trị vốn đầu tư dài hạn được xác định trên cơ sở tỷ lệ vốn đầu tư của doanh nghiệp trên vốn điều lệ hoặc tổng vốn thực góp, giá trị vốn chủ sở hữu 46
  47. tại các doanh nghiệp khác theo báo cáo tài chính. Đặc biệt, nếu giá trị vốn đầu tư dài hạn của doanh nghiệp thấp hơn giá trị ghi trên sổ kế toán thì xác định theo giá trị ghi trên sổ kế toán. Nghị định 116/2015/NĐ-CP đã có quy định mới về vấn đề này. Nếu giá trị vốn đầu tư dài hạn của doanh nghiệp tại doanh nghiệp khác thấp hơn giá trị ghi trên sổ kế toán, thay vì tính theo giá ghi trên sổ sách như trước, hiện nay, giá trị ấy được xác định theo giá trị thực tế xác định lại. Với sự thay đổi này, việc xác định theo giá trị thực tế sẽ thuận lợi và hiệu quả hơn. Giá trị vốn góp của doanh nghiệp cổ phần hóa vào công ty cổ phần đã niêm yết, đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán được xác định theo giá đóng cửa của cổ phiếu giao dịch trên thị trường chứng khoán tại thời điểm gần nhất với thời điểm thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp. Trường hợp cổ phiếu của công ty cổ phần đã niêm yết trên thị trường Upcom mà không có giao dịch trong vòng 30 ngày trước thời điểm tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp thì được xác định theo quy định tại điểm a, điểm b, điểm c khoản 1, Điều 33 Nghị định số 59/2011/NĐ-CP và khoản 5, Điều 1 Nghị định này. Đối với giá trị vốn góp vào công ty cổ phần chưa niêm yết, chưa đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán thì căn cứ kết quả xác định của cơ quan tư vấn, Ban Chỉ đạo cổ phần hóa doanh nghiệp xem xét trình cơ quan có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp quyết định. Xác định giá đất là một vấn đề lớn và gặp phải rất nhiều vấn đề. Trên thực tế, chính sách xác định giá đất nói chung và xác định giá đất để tính vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa nói riêng đã nhiều lần thay đổi. Năm 2004, theo điều 63, Nghị định 181/2004/NĐ-CP về thi hành luật đất đai không cho phép doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa lựa chọn hình thức nhà nước giao đất hay cho thuê đất, trước đây là hình thức nào thì theo đó mà xử lý, nhưng giá trị đất phải tính theo giá đất phù hợp giá thị trường. Chỉ 18 ngày sau, Nghị định 187/2004/NĐ-CP lại quy định doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa được lựa chọn hình thức được nhà nước giao đất hay cho thuê đất, khi lựa chọn hình thức thuê đất của nhà nước thì không tính giá trị quyền sử dụng đất vào tài sản doanh nghiệp. Khi lựa chọn hình thức được nhà nước giao đất thì phải tính giá trị đất vào tài sản doanh nghiệp và giá trị đất được tính theo bảng giá đất của 47
  48. nhà nước (Điều 19). Đây là, một cách tiếp cận khác hẳn so với Nghị định 181/2004/NĐ-CP. Sau đó, năm 2006, Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 sửa đổi lại cả hai nghị định trên theo một phương án dung hòa: điều 6 quy định doanh nghiệp cổ phần hóa được lựa chọn hình thức sử dụng đất nhưng “giá trị đất phải phù hợp thị trường” Xác định theo bảng giá thì tạo lợi ích cho doanh nghiệp, tạo đà cho doanh nghiệp sau cổ phần hóa có vốn mà phát triển. Nhưng cách nhìn khác là cổ phần hóa phải sòng phẳng, đưa giá trị đất về đúng giá trị thật trên thị trường để tránh tiêu cực từ chuyện lợi dụng sự chênh lệch giá đất, làm lệch lạc mục tiêu phát triển doanh nghiệp. Tính sát giá thị trường thì hiệu quả sản xuất kinh doanh sau khi cổ phần hóa phải do chính hoạt động sản xuất kinh doanh tự tạo ra chứ không thể trông cậy vào đất. Hiện nay, Luật Đất đai 2013 đã quy định rõ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một trong những trường hợp phải quyết định giá đất cụ thể theo giá thị trường. Luật này cũng đã đưa ra quy trình chung tiến bộ hơn cho việc quyết định giá. Nghị định 189/2013/NĐ-CP đã khắc phục bất cập trong công tác quản lý, sử dụng đất đai tại các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua, góp phần đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng của công tác cổ phần hóa. Nghị định 189/2013/NĐ- CP quy định: Đối với diện tích đất doanh nghiệp cổ phần hóa đã được giao đất và nộp tiền sử dụng đất cho ngân sách nhà nước hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp để sử dụng vào mục đích xây dựng nhà để bán, xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê thì phải xác định lại giá trị quyền sử dụng đất tính vào giá trị doanh nghiệp Đối với diện tích đất sử dụng cho các công trình công cộng có hành lang bảo vệ an toàn theo quy định của pháp luật về đất đai cũng được xem xét, loại trừ theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Đối với diện tích đất đã giao cho doanh nghiệp và doanh nghiệp đã sử dụng để góp vốn thành lập pháp nhân mới thì cơ quan có thẩm quyền quyết định phê duyệt phương án cổ phần hóa xem xét xử lý theo nguyên tắc: Chuyển giao cho doanh nghiệp 48
  49. 100% vốn nhà nước khác làm đối tác nếu được các đối tác góp vốn trong pháp nhân mới chấp thuận và doanh nghiệp tiếp tục kế thừa tính vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa theo nguyên tắc quy định tại Điều 33 Nghị định này. Đối với diện tích đất còn lại (sau khi loại trừ diện tích đất quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 và khoản 5 Điều này) doanh nghiệp cổ phần hóa thực hiện hình thức thuê đất có thời hạn theo quy định của pháp luật về đất đai và không phải tính bổ sung giá trị lợi thế vị trí địa lý khi xác định giá trị doanh nghiệp. Giá đất để xác định giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa là giá đất sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất có mục đích sử dụng tương tự thực tế trên thị trường do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xác định. Trường hợp doanh nghiệp thực hiện chuyển mục đích sử dụng đất đã được giao thì phải nộp thêm khoản tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất theo mục đích chuyển đổi. Quy định này nhằm khắc phục bất cập trong việc xác định giá trị quyền sử dụng đất trong thời gian qua để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa. Theo phương án này, đối với các diện tích đất doanh nghiệp đã được giao, nay chuyển sang cho thuê thì giá trị quyền sử dụng đất giao còn lại tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp được xác định là số tiền doanh nghiệp đã trả trước tiền thuê đất cho một khoảng thời gian nhất định theo mặt bằng giá thuê đất khi doanh nghiệp hoàn tất thủ tục thuê đất với cơ quan quản lý tại địa phương, không ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp. Đối với diện tích đất doanh nghiệp thực hiện thuê đất thì thực hiện trả tiền thuê đất hàng năm theo cơ chế đã được quy định tại Nghị định số 121/2010/NĐ-CP và không phải tính bổ sung giá trị lợi thế vị trí địa lý vì giá thuê đất đã sát giá thị trường. Đặc biệt, Nghị định 189/2013/NĐ-CP cũng quy định rõ: Đối với các doanh nghiệp đã hoàn thành cổ phần hóa hoặc đang thực hiện cổ phần hóa trước ngày Nghị định 189/2013/ NĐ-CP có hiệu lực thi hành thì tiếp tục thực hiện giao đất, thuê đất và tính giá trị quyền sử dụng đất theo phương án đã được phê duyệt, không thực hiện điều chỉnh. Đối với các doanh nghiệp đã xác định giá trị lợi thế vị trí địa lý đất thuê vào giá trị doanh nghiệp và hạch toán tăng phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp khi xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa được cấp có thẩm quyền công bố giá trị doanh nghiệp theo quy định trước ngày Nghị định 59/2011/NĐ-CP có hiệu lực thì 49
  50. được khấu trừ giá trị lợi thế vị trí địa lý vào tiền thuê đất phải nộp của doanh nghiệp cổ phần hóa. Đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa theo Nghị định 109/2007/ NĐ- CP mà chưa tính giá trị lợi thế vị trí địa lý thì được áp dụng Nghị định số 59/2011/NĐ- CP không phải tính bổ sung giá trị lợi thế vị trí địa lý và điều chỉnh vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp dòng tiền chiết khấu. Theo điều 34, nghị định 59/2011/NĐ-CP, giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp xác định dựa vào khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai và việc đầu tư vốn vào doanh nghiệp khác. Phương pháp này thường áp dụng với các doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, thương mại, tư vấn, thiết kế xây dựng, , có tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn nhà nước bình quân 5 năm liền kề trước cổ phần hóa cao hơn lãi suất trả trước của trái phiếu chính phủ kỳ hạn từ 10 năm trở lên tại thời điểm gần nhất với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Căn cứ xác định giá trị doanh nghiêp là: Báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong 5 năm liền kề trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp, phương án hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong 3 đến 5 năm sau khi cổ phần hóa, lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 5 năm ở thời điểm gần nhất. 2.7. Bán cổ phần lần đầu Sau khi hoàn tất xác định giá trị doanh nghiệp và có kết quả công bố giá trị doanh nghiệp, doanh nghiệp tiến hành bán cổ phần lần đầu. Cơ quan có thẩm quyền quyết định quy mô, cơ cấu vốn điều lệ của doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Trường hợp giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp lớn hơn mức vốn điều lệ cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp mà doanh nghiệp không thuộc diện Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối thì cơ quan có thẩm quyền quyết định phê duyệt phương án cổ phần hóa xác định điều chỉnh vốn điều lệ theo nhu cầu thực tế. Trường hợp phát hành thêm cổ phiếu, vốn điều lệ được xác định bằng giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp và giá trị cổ phần phát hành thêm tính theo mệnh giá cổ phiếu. 50