Khóa luận Nhận thức về vai trò giới của học sinh trung học cơ sở tại thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai

pdf 147 trang thiennha21 16/04/2022 4611
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nhận thức về vai trò giới của học sinh trung học cơ sở tại thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nhan_thuc_ve_vai_tro_gioi_cua_hoc_sinh_trung_hoc_c.pdf

Nội dung text: Khóa luận Nhận thức về vai trò giới của học sinh trung học cơ sở tại thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA TÂM LÝ HỌC  Võ Trần Khánh Vy NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ GIỚI CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI THỊ XÃ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC TP Hồ Chí Minh - 2018
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA TÂM LÝ HỌC  Võ Trần Khánh Vy NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ GIỚI CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI THỊ XÃ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Tâm lý học NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC ThS. Đinh Thảo Quyên TP Hồ Chí Minh - 2018
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong xã hội ngày nay, vấn đề về giới luôn là vấn đề được xã hội chú trọng đến, những quan điểm, nhận thức về vai trò của từng giới là những nội dung có vai trò quan trọng nhất. Theo tài liệu “Giới, việc làm và đời sống gia đình” do tác giả Nguyễn Thị Hòa chủ biên cho rằng: “Quan điểm, nhận thức về giới có liên quan đến vấn đề bình đẳng giới. Ở nước ta, từ trước đến nay Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến vấn đề giải phóng phụ nữ. Quyền bình đẳng giữa nam và nữ đã được ghi nhận trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ban hành năm 1946. Từ đó đến nay, phụ nữ Việt Nam đã đạt được nhiều bước tiến bộ trên con đường tiến tới bình đẳng, tự do, phát triển. Tuy nhiên trong điều kiện một nước còn kém phát triển về mặt kinh tế và văn hóa, ảnh hưởng của những tư tưởng tập quán lạc hậu cũ của đầu óc gia trưởng còn nặng nề nên người phụ nữa còn chịu nhiều sự thiệt thòi, xét trên quan điểm sự bình đẳng về giới trong hoạt động xã hội và trong sinh hoạt gia đình. Vì vậy, ở Việt Nam, việc nhấn mạnh đến quan điểm về giới và sự phát triển là rất cần thiết và phù hợp với yêu cầu của đông đảo quần chúng”. Trên thực tế, vẫn còn sự xuất hiện của những định kiến xã hội về vai trò của nam và nữ giới. Chúng ta có thể bắt gặp đâu đó, trong những lời nói, những hành vi ứng xử, các phương tiện truyền thông, những quan niệm dựa trên khuôn mẫu giới tính truyền thống. Trong khi xã hội đang hướng vào các hoạt động vì sự bình đẳng nam nữ, vì sự tiến bộ của phụ nữ, thì những quan niệm rập khuôn này lại là suy nghĩ của không ít phụ nữ, được phụ nữ dùng để đánh giá hành vi của nam giới và hành vi của chính mình.
  4. 2 Luật Bình đẳng được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2016 dù đã được tuyên truyền, giáo dục nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, trở ngày. Một trong những trở ngại lớn nhất đó là vấn đề nhận thức về vai trò giới hiện nay. Hạn chế trong nhận thức về giới sẽ dẫn đến những bất bình đẳng và định kiến về giới Điều đó rất nguy hiểm, vì nó sẽ gây thiệt hại và cản trở sự tiến bộ, sự tham gia của cả nam và nữ vào quá trình phát triển của xã hội. Lứa tuổi học sinh THCS - hay còn gọi là lứa tuổi thiếu niên, đây là lứa tuổi phát triển đầy biến động của đời người và cũng chính là lứa tuổi quan tâm nhiều hơn đến việc tìm hiểu vai trò và chuẩn mực về giới. Sự nhận thức và thể hiện bản sắc giới tính chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: Sinh học, cha mẹ, thầy cô, truyền thông, bạn bè và sự tích cực của bản thân. Chính vì vậy, nhận thức của các em về vai trò giới ở độ tuổi này có thể ảnh hưởng đến sự phát triển sau này. Do đó, để định hướng cho các em nhận thức về vai trò giới theo các quan điểm hiện đại hơn, không bị ảnh hưởng bởi những định kiến về giới của xã hội cũ, chúng ta cần phải tìm hiểu, nghiên cứu những suy nghĩ, nhận thức về giới của các em ở lứa tuổi này, đặc biệt là những em học sinh THCS ở các tỉnh thành do các em ít được tiếp xúc với những thông tin, quan niệm hiện đại, vẫn còn bị ảnh hưởng từ định kiến về giới. Với những lý do đã được trình bày, người nghiên cứu nhận thấy được tầm quan trọng của việc xác định được, biết được những quan điểm, nhận thức về giới của học sinh THCS là quan trọng vì nó góp phần vào việc đưa ra giải pháp để giúp các em tiếp cận với những quan điểm hiện đại hơn, nhất là học sinh ở những khu vực chưa có đầy đủ điều kiện để tiếp thu. Từ đó, người nghiên cứu quyết định chọn đề tài “Nhận thức về vai trò giới của học sinh THCS tại thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai” để tìm hiểu về những suy nghĩ, nhận thức của
  5. 3 học sinh THCS tại thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai về vấn đề được quan tâm hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu nhận thức về vai trò giới của học sinh THCS tại thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai. 3. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu - Khách thể: Học sinh THCS tại thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai - Đối tượng: Nhận thức về vai trò giới của học sinh THCS 4. Giả thuyết nghiên cứu Nhận thức về vai trò giới của học sinh THCS tại thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai còn có sự ảnh hưởng bởi một số định kiến. Có sự khác biệt trong nhận thức về vai trò giới của học sinh nam và học sinh nữ. Có sự khác biệt trong nhận thức về vai trò giới của học sinh có học vấn của cha mẹ khác nhau. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa cơ sở lý luận về các khái niệm công cụ như: giới, vai trò giới, nhận thức, nhận thức về vai trò giới, đặc điểm tâm lý của học sinh THCS. - Khảo sát, tìm hiểu nhận thức về vai trò giới của học sinh THCS tại thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận - Nội dung nghiên cứu:
  6. 4 + Phân tích, tổng hợp và đánh giá những công trình nghiên cứu của các tác giả về giới, các vấn đề liên quan đến định kiến giới, quan điểm, nhận thức về vai trò giới. + Xác định khái niệm công cụ và các khái niệm có liên quan: giới, vai trò giới, nhận thức về giới, lứa tuổi học sinh THCS, nhận thức về vai trò giới của học sinh THCS. + Dựa vào kết quả tổng hợp các nghiên cứu trong và ngoài nước, phần lý thuyết chung của đề tài, người nghiên cứu sẽ lựa chọn các yếu tố khảo sát như: nhận thức của học sinh THCS về vai trò giới trong xã hội, trong gia đình. 6.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 6.2.1 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi - Dựa trên cơ sở lý luận về nhận thức về giới của học sinh THCS để thiết kế bảng khảo sát - Gửi bảng khảo sát đến giảng viên hướng dẫn nhằm lấy ý kiến và chỉnh sửa - Phát bảng khảo sát thăm dò thử nghiệm đến 1 nhóm học sinh để chỉnh sửa phù hợp - Hoàn thiện bảng khảo sát - Phát bảng khảo sát chính thức và thu số liệu 6.2.2 Phương pháp thống kê toán học Sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 16.0 để xử lý các số liệu thu được từ phiếu khảo sát và phân tích theo các nhiệm vụ nghiên cứu và trình bày kết quả nghiên cứu dưới dạng bảng biểu.
  7. 5 7. Giới hạn đề tài 7.1 Nội dung - Nhận thức của học sinh THCS - Đề xuất giải nhằm nâng cao nhận thức phù hợp với xã hội hiện nay. 7.2 Thời gian: từ tháng 9/2017 - đến tháng 4/2018 7.3 Địa điểm: Nghiên cứu được tiến hành ở học sinh của 3 trường THCS tại trung tâm thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.
  8. 6 NỘI DUNG Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1 Lịch sử nghiên cứu đề tài Vào đầu những năm 90 thế kỷ XX, qua giao lưu và hội nhập, các lý thuyết nữ quyền từng bước được truyền bá vào Việt Nam và sự truyền bá này ngày càng mạnh mẽ và đa dạng. Xem xét quá trình và xu hướng nghiên cứu Giới ở Việt Nam thời gian qua, có thể thấy có ba thời kỳ tương đối rõ rệt. Thời kỳ thứ nhất là 5 năm đầu của thập niên cuối thế kỷ XX, thời kỳ thứ hai là 5 năm cuối thế kỷ và thời kỳ thứ ba là những năm đầu của thế kỷ XXI. Hai thời kỳ sau, việc nghiên cứu và truyền bá về giới nói riêng và phong trào giải phóng phụ nữ ở nước ta nói chung chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của hai sự kiện quan trọng. Đó là Cương lĩnh hành động Bắc Kinh và các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Thời kỳ thứ nhất nghiên cứu và truyền bá về giới ở nước ta được triển khai rất sôi nổi, phong phú và rộng khắp. Điều thú vị là mặc dù một lý thuyết được du nhập từ phương Tây vào nước ta nhưng hầu như nó không gặp bất cứ một sự kỳ thị, phê phán và cản trở nào đáng kể. Thời kỳ đầu, có nhiều hội thảo, lớp tập huấn, dịch, in, phát hành tài liệu và nhiều dự án nghiên cứu về giới được triển khai với sự tài trợ của các chính phủ và các tổ chức phi chính phủ nước ngoài. Đó là những hoạt động hướng vào tuyên truyền và phổ biến một cách chung nhất quan điểm giới cả lý thuyết và thực hành dưới sự bảo trợ và tham dự của các tổ chức và chuyên gia nước ngoài. Các đối tượng được hướng tới đầu tiên là nhà nghiên cứu, cán bộ hội phụ nữ, cán bộ lãnh đạo chính quyền và đoàn thể, cán bộ dự án, nhà báo, giảng viên đại học Công tác học tập, đào tạo, phổ biến quan điểm giới được diễn ra theo ba hướng: thứ nhất, các chuyên gia nước ngoài vào nước ta tổ chức hội thảo, tập huấn tại chỗ; thứ hai, các chuyên gia của Việt Nam
  9. 7 được tài trợ tham gia các hội thảo, lớp tập huấn, học tập và nghiên cứu ở nước ngoài; và thứ ba, biên soạn, dịch thuật, xuất bản tài liệu, sách báo về giới và lý thuyết nữ quyền. Cùng với công tác học tập, đào tạo và truyền bá quan điểm giới, các đề tài, dự án nghiên cứu về phụ nữ, gia đình, dân số, kinh tế hộ, sở hữu đất đai, đời sống của các nhóm phụ nữ: nông dân, công nhân, ngư dân, tiểu thương cũng được tiến hành nghiên cứu theo quan điểm giới, được tài trợ tài chính và sự tư vấn, hướng dẫn trực tiếp của các chuyên gia nước ngoài về giới. Những nghiên cứu đầu tiên theo quan điểm giới mặc dù có kết quả cụ thể về nội dung nhưng thực chất chỉ là những nghiên cứu mang nặng tính chất thực hành lý thuyết, chứng minh sự đúng đắn của lý thuyết giới và phát giác sự “mù giới” của các nền văn hóa, sự khuyết tật của các bảng giá trị truyền thống Có thể đánh giá việc nghiên cứu giới ở những năm đầu cơ bản vẫn hướng về mục tiêu học tập, phổ biến và truyền bá quan điểm giới là chính. Với cách làm như thế, chỉ sau vài năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX, quan điểm giới đã thu hút sự quan tâm của xã hội và nhanh chóng được truyền bá rộng rãi ở nước ta. Tuy nhiên, với cách làm mang tính tự phát và chưa có kế hoạch, lộ trình chưa được kiểm soát chặt chẽ nên cùng với sự du nhập quan điểm giới và những lý thuyết nữ quyền tiến bộ, phù hợp với sự phát triển bền vững và ổn định, hầu như mọi lý thuyết nữ quyền đều được truyền bá vào Việt Nam. Đặc biệt, nhiều chuyên gia khi tập huấn và đào tạo về giới đã gán ghép nhầm lẫn ý kiến của các trường phái nữ quyền khác nhau cũng như đã không thể phân biệt được quan điểm của phụ nữ trong phát triển, phụ nữ và phát triển, giới và sự phát triển. Thời kỳ thứ hai của nghiên cứu và truyền bá giới ở nước ta được thực hiện trên cơ sở phát huy những thành tựu đã đạt được, công tác nghiên cứu và đào tạo
  10. 8 về giới bước sang một giai đoạn mới. Đây chính là thời kỳ tiến hành thực hiện Cương lĩnh hành động Bắc Kinh và thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Nhằm khắc phục những hạn chế của thời kỳ đầu nghiên cứu về giới, trước hết, nhiều cán bộ được cử đi đào tạo ở nước ngoài với nhiều hình thức khác nhau, nhất là đào tạo thạc sỹ và tiến sỹ về các lĩnh vực giới và liên quan đến giới. Đây chính là sự chuẩn bị nhân lực quan trọng cho đội ngũ nghiên cứu và đào tạo về giới trong tương lai. Các nghiên cứu lý thuyết quan điểm giới, quan điểm nữ quyền và lý thuyết nghiên cứu phụ nữ được đầu tư và đẩy mạnh. Những nghiên cứu lý thuyết này, một mặt, nhằm giới thiệu một cách đầy đủ và toàn diện lịch sử phong trào nữ quyền ở phương Tây, những trường phái nữ quyền cơ bản – nguồn gốc và ảnh hưởng của nó đến phong trào phụ nữ cũng như các ngành khoa học xã hội và nhân văn, phụ nữ học và sự hình thành quan điểm giới và vai trò của nó đối với thực tiễn cuộc sống và các ngành khoa học xã hội ở các nước phát triển Vào những năm cuối thế kỷ, vấn đề giới đã trở nên quen thuộc ở nước ta. Về khoa học, quan điểm giới, lý thuyết nữ quyền và khoa học nghiên cứu về phụ nữ của các nhà hoạt động vì phụ nữ ở các nước phương Tây phát triển đã được phổ biến rộng rãi ở nước ta. Các lớp tập huấn về giới không chỉ dành cho những nhà nghiên cứu, các cán bộ dự án hay các nhà quản lý và lãnh đạo bậc cao nữa mà đã dành cho các cán bộ chính sách, cán bộ dự án của các ban, ngành, đoàn thể, cán bộ cơ sở và đông đảo phụ nữ và nam giới cả ở nông thôn và thành thị. Các nghiên cứu khoa học ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều được thực hiện với xu thế chủ đạo giới hay còn được gọi là lồng ghép giới. Những nghiên cứu hướng tới xây dựng chính sách phát triển kinh tế – xã hội, văn hóa – giáo dục, sức khỏe và dân số – kế hoạch hóa gia đình cũng như các dự án, chương trình điều tra cơ bản theo quan điểm giới ở tầm vĩ mô chính là xu hướng chủ đạo và
  11. 9 những thành tựu nổi bật, những bước tiến bộ vượt bậc của nghiên cứu giới ở Việt Nam. Thời kỳ thứ ba của nghiên cứu và truyền bá giới ở Việt Nam được bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ XXI và về thực chất nó là sự tiếp tục những cố gắng cũng như những thành tựu của hai thời kỳ trên. Có thể khẳng định, sau 10 năm được truyền bá vào Việt Nam, quan điểm giới đã thực sự làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của nhiều người Việt Nam đối với các vấn đề phụ nữ, bình đẳng, hội nhập và phát triển. Xu thế toàn cầu hóa đang ngày càng tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, sự chủ động và tích cực của Việt Nam trong hội nhập quốc tế, những thành tựu to lớn và toàn diện của công cuộc đổi mới mang lại đang mở ra những cơ hội và thách thức cho sự phát triển của mọi người Việt Nam nói chung và phụ nữ nói riêng. Trong bối cảnh đó, để đáp ứng kịp thời những đòi hỏi thực tiễn của sự nghiệp giải phóng phụ nữ, nghiên cứu về giới ở nước ta đã có một bước phát triển mới. Theo tác giả Vũ Mạnh Lợi trong bài viết “Một số quan điểm lý thuyết về giới trong nghiên cứu gia đình”, có lẽ một trong những vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất về các dàn xếp trong gia đình, vai trò của nam và nữ, người trẻ tuổi và người già, các quan hệ của họ trong gia đình, và các hàm ý của những dàn xếp này đối với các tổ chức xã hội khác là mức độ mà theo đó các dàn xếp trong gia đình phụ thuộc vào cấu tạo sinh học của nam và nữ, và mức độ mà theo đó các quan hệ gia đình bị quy định bởi các yếu tố xã hội và văn hóa. Những người theo quyết định luận sinh học cho rằng chọn lọc tự nhiên “đã cấy” vào con người ý muốn truyền cho đời sau các gen của mình và phần nhiều, có thể là hầu hết, hành vi được kích thích bởi xung lượng sinh học bên trong này (innate impulse) để thấy được mã di truyền của mình tồn tại. Họ lập luận rằng, những khác biệt giữa nam và nữ trong các vai trò xã hội, cấu trúc thứ bậc xã hội, trong các quan hệ
  12. 10 quyền lực, phân công lao động, v.v trong gia đình và giữa gia đình và xã hội rộng lớn hơn có thể quy về những khác biệt đã được chương trình hóa về mặt sinh học giữa hai giới tính như những khác biệt giữa nam và nữ về các chiến lược tái sinh sản, các hóc môn, kích thước và hình dạng của não bộ, các nhịp sống theo thời gian trong ngày, đồng hồ sinh học liên quan đến các thời kỳ phát triển trong chu trình sống, Theo quan điểm này, sự thống trị của nam giới và tính thụ động của nữ giới, tính hơn hẳn về trí tuệ và khả năng nhận thức tốt hơn của nam giới, khả năng tình cảm đặc biệt của phụ nữ, v.v là những sản phẩm tự nhiên của một, hoặc là sự kết hợp của một số yếu tố như các chiến lược tái sinh sản của nam và nữ, những đặc điểm đặc thù về giới tính của các hóc môn và mức của các hóc môn này, kích thước và hình dạng của não bộ, phân hóa chức năng theo các bán cầu đại não (lateralization), và các phẩm chất sinh học khác. Theo quyết định luận sinh học, những hành vi như ngoại tình, hiếp dâm, sự loạn luân, phân biệt chủng tộc, sự hy sinh vì người khác, các dàn xếp trong gia đình, sự gia trưởng, sự không chung thủy của nam giới, sự bài ngoại, sự thống trị người khác, sự chọn lọc bạn đời, tất cả đều có nguồn gốc từ di sản sinh học của con người. Lối lập luận này đôi khi đi xa tới mức coi các quá trình sinh học là những yếu tố chính quyết định trật tự xã hội hiện hành, rằng sự bất bình đẳng giữa nam và nữ là không tránh khỏi, và "sự loại trừ phụ nữ khỏi các vai trò chính sách chủ yếu là hiện tượng có tính chất quốc tế, và có tính chất giống loài" Đối lập với quan điểm quyết định luận sinh học, nhiều nhà khoa học xã hội đã chỉ ra tầm quan trọng hàng đầu của văn hóa và sự học hỏi có tính xã hội. Điều đặc biệt đáng chú ý là thực tế có một số lượng lớn các nghiên cứu so sánh các nền văn hóa và bên trong mỗi nền văn hóa đã cho thấy sự biến thiên lớn trong tổ chức gia đình-điều khó có thể được giải thích bằng quan điểm sinh học đơn giản
  13. 11 hóa. Những bằng chứng nhân chủng học xã hội đã cho thấy có nhiều xã hội mà ở đó phụ nữ không lệ thuộc vào đàn ông, cùng tham gia một cách bình đẳng với đàn ông trong phân công lao động; ở đó việc phụ nữ lựa chọn bạn đời và chủ động khởi xướng hành vi tình dục là "một thực tế phổ biến". Tương phản một cách sắc nét với cách tiếp cận sinh học xã hội là quan điểm của các học giả theo thuyết nữ quyền. Xuất phát điểm của các lý thuyết nữ quyền là gia đình không phải là một thiết chế có tính tất yếu về sinh học. Trái lại, đó là một thiết kế xã hội, một hệ tư tưởng, một hệ thống mang tính thiết chế của các quan hệ xã hội và các ý nghĩa văn hóa (Epstein, 1988; Thorne, 1982; Collier và đồng nghiệp, 1982). Những học giả nữ quyền xem sinh học chỉ như "một phạm vi của các năng lực, một lý thuyết về "tính tiềm năng sinh học" (Epstei, 1988: 6). Những khác biệt giữa nam và nữ thể hiện ở hành vi xã hội của họ, trí tuệ, đạo đức, tình cảm, không mấy là hậu quả của các yếu tố sinh học mà chính là sản phẩm được tạo ra bởi văn hóa và các can thiệp xã hội từ vật liệu sinh học thô (Epstein,1988: Thorne, 1982). Vì vậy, khái niệm phù hợp trong việc phân tích gia đình, những khác biệt và tương đồng giữa nam và nữ cần phải là khái niệm giới (gender) chứ không phải giới tính (sex). Hệ thống gia đình hiện tồn đã được tạo ra bởi con người, và nó được tạo ra theo cách thức đã mang lại rất nhiều lợi thế cho nam giới với cái giá làm giảm quyền của phụ nữ. Những người theo thuyết nữ quyền xem quyền lực của nam giới đối với phụ nữ như nguồn gốc của sự bất bình đẳng giới trong gia đình và ngoài xã hội. Họ lập luận rằng việc kiểm soát quyền lực cho phép nam giới tạo ra một diện rộng các vai trò của nam giới và thu hẹp đáng kể những lựa chọn dành cho phụ nữ. Kết quả là những địa vị có lợi nhất trong cấu trúc xã hội đã được giữ riêng cho nam giới. Việc phân chia vai trò được xem như điểm mấu chốt trong khung lý thuyết của phái nữ quyền. Họ cho rằng bất bình đẳng giới trong gia đình cần phải được giải thích dưới dạng sự
  14. 12 phân công các vai trò giới mà đến lượt mình chỉ có thể hiểu được "bằng việc chúng ta đã nuôi dạy con cái như thế nào, bằng sự phân công lao động theo giới tính, bằng các định nghĩa văn hóa về cái gì là thích hợp đối với mỗi giới, và bằng các sức ép xã hội mà chúng ta đặt lên mỗi một trong hai giới" Vấn đề giới là một phạm trù xã hội, chịu ảnh hưởng của những hoàn cảnh xã hội khác nhau nên có tính lịch sử cụ thể, thay đổi theo không gian và thời gian. Những đặc trưng về giới như cách ứng xử giữa giới nam và giới nữ, các đối xử với giới nam và giới nữ, sự phân công giữa họ trog lao động xã hội và lao động gia đình, sự hưởng thụ vật chất và văn hóa, lối sống, nếp sống của họ, thậm chí cách ăn mặc, trang điểm, đều chịu ảnh hưởng của những nét đặc trưng văn hóa riêng biệt, và không phải giống nhau cho mọi đàn ông hay mọi đàn bà trên Thế Giới. Những đặc trưng về giới đã thay đổi nhiều, ngày xưa khác này nay, ở nước này khác nước kia, không phải bẩm sinh và cố định. Chúng chịu ảnh hưởng của những nền văn hóa khác nhau, văn hóa phương Đông khác văn hóa phương Tây, tín ngưỡng, phong tục, tập quán ở Việt Nam khác với các nước láng giềng Đông Nam Á, các vấn đề dân tộc, giai cấp, tầng lớp xã hội đều là những yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến vấn đề giới. Nghiên cứu về giới trong gia đình, tác giả Nguyễn Thị Thu Hồng (2014) với đề tài “Thực trạng cha mẹ phân biệt đối xử theo giới tính của con ở một số gia đình huyện Gò Công, tỉnh Tiền Giang” đã cho thấy: cha mẹ vẫn còn phân biệt rất rõ ràng về vai trò của con trai và con gái đối với những vấn đề của gia đình. Các nội dung được cha mẹ đồng ý với tỷ lệ cao là: - Chỉ có con trai mới có thể thời cúng, giữ hương hảo cho tổ tiên và con gái không thể chủ trì được các buổi lễ trên, giải quyết các việc lớn trong gia đình”
  15. 13 - Con gái nhất thiết phải biết các công việc nội trợ, còn con trai có thể không biết. - Con gái khó có thể giúp đỡ cha mẹ về mặt tài chính sau khi đã lập gia đình nhưng con trai có thể làm được - Chỉ con trai mới là chỗ dựa vững chắc cho cha mẹ khi về già - Khi chia tài sản cho các con, cha mẹ nên chia tài sản cho con trai nhiều hơn. Về sự cần thiết của việc học đối với con trai, con giá, các nội dung được đồng ý với tỷ lệ trên 50%: - Nếu gia đình không có đủ điều kiện cho tất cả các con cùng đi học thì nên cho con trai đi học thay vì con gái. - Con trai thì cần học đến nơi đến chốn nhưng con gái không nhất thiết phải như thế. - Con gái học nhiều rồi không nhờ vả được gì vì nó phải lấy chồng - Con gái học nhiều cũng khó làm được gì vì còn phải lo cho gia đình nó sau này - Con trai cần ưu tiên việc học hơn con gái nên gia đình đầu tư cho con trai nhiều hơn. Về trách nhiệm của con trai, con gái trong công việc gia đình: - Công việc “Đi chợ, nấu ăn” và “chăm sóc em, ông bà” được đa số lựa chọn là việc của con gái với tỷ lệ cao. - Các công việc cả trai và gái cùng làm: “Buôn bán”, “làm vườn”, “làm ruộng”, “chăn nuôi” Đa số các bậc cha mẹ có sự phân biệt trong nhận thức về vai trò của con trai và con gái trong các vấn đề gia đình, các công việc quan trọng trong gia đình,
  16. 14 cha mẹ thường để cho con trai làm chủ và cho rằng những công việc nội trợ trong nhà là việc của riêng con gái. Trong nhận thức của cha mẹ về việc học của con cái, cha mẹ vẫn cho rằng con trai cần học hơn là con gái. Vì thế luôn tạo điều kiện, cơ hội và đầu tư hơn cho con trai trong việc học. Đối với trách nhiệm của các con trong công việc gia đình, cha mẹ vẫn cho rằng công việc nội trợ, chăm sóc ông bà, em nhỏ trong gia đình là việc dành riêng cho con gái, các công việc còn lại thì cả hai con đều phải làm. Theo tác giả Nguyễn Mạnh Tưởng (2016) trong bài báo “Triết lí về con người và nhận thức về giới”: Trong hướng tiếp cận con người (cả nam và nữ), triết học macxit đã chú ý đến cả 2 mặt: Tự nhiên (sinh học) và xã hội. Các Mác viết: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội” mà nhận thức về giới (giới nam và giới nữ) là bộ phận quan trọng của quá trình nhận thức về con người. Với tư cách con người, nam và nữ có những điểm tương đồng và khác biệt ấy. Nhưng với tư cách giới, nhận thức chỉ hướng vào tìm kiếm những khác biệt giữa nam và nữ, nguyên nhân của những khác biệt và đề ra giải pháp giải quyết những khác biệt để đạt tới sự bình đẳng. Trong phần nghiên cứu của tác giả Đỗ Hoàng (2006) ở bài báo “Thực trạng định kiến đối với vai trò của nam giới và phụ nữ trong gia đình”: có 74.9% số người được hỏi cho rằng: Chồng cần là người chịu trách nhiệm chính về kinh tế trong gia đình, 21.6% số người còn lại cho rằng vợ chồng chịu trách nhiệm như nhau trong việc phát triển kinh tế gia đình. Theo giải thích thì không thể để phụ nữ làm trụ cột kinh tế được vì điều đó sẽ làm cho người phụ nữa mất đi sự dịu dàng và sự phụ thuộc vào chồng sẽ giảm đi. Hơn nữa, nếu một người chồng không đảm đương được vai trò là trụ cột gia đình, thì anh ta hoàn toàn mất đi
  17. 15 quyền năng của người đàn ông trong gia đình: “Khi đó, người chồng thấy bất lực yếu đuối, làm cho người chồng thấy mình bị mất quyền lực trong gia đình” - (Nam - 46 tuổi). Cũng theo cách lặp luận này, nếu để phụ nữa đóng vai trò chính về kinh tế, thì trong mắt phụ nữ, nam giới sẽ không còn được coi trọng. Chính từ phía phụ nữ, đa số người được hỏi cũng khẳng định điều này: Họ cảm thấy khó khăn để có thể coi trọng người chồng không thể gánh vác vai trò là trụ cột về kinh tế. Những tư tưởng này đã khiến nhiều nam giới không muốn và không thể dời bỏ hình ảnh vai trò trụ cột kinh tế gia đình của mình, mặc dù trong thực tế hiện nay, trong những hoàn cảnh khác nhau, nhiều người đã không còn gánh được trách nhiệm đó. Vai trò thực tế của người chồng và người vợ trong gia đình hiện nay đã có nhiều thay đổi. Phụ nữ đang được tạo điều kiện để tham gia vào các hoạt động xã hội. Xã hội cũng đòi hỏi nam giới tham gia các công việc gia đình. Tuy nhiên, quan niệm về vai trò trụ cột kinh tế của nam giới lại chưa được cởi bỏ. Nghiên cứu của Liebenman (1956) cho ta thấy một cơ chế có thể đem lại những thay đổi. Vai trò mới đòi hỏi hành vi mới, Hành vi mới này sẽ làm nảy sinh những thái độ mới. Vì thế, khi cá nhân được đặt vào những vai trò mới (ví dụ: nam giới làm công việc nội trợ) thì sẽ nảy sinh những thái độ chống lại những định kiến không còn phù hợp. 1.2. Cơ sở lý luận về nhận thức về vai trò giới của học sinh THCS: 1.2.1. Giới tính và giới Giới tính (sex): Một thuật ngữ được các nhà khoa học xã hội và các nhà sinh học dùng để chỉ một phạm trù sinh học. Trong ý nghĩa đó, nam và nữ khác nhau về mặt sinh học, tạo nên hai giới tính: nam và nữ Những khác biệt căn bản về giới tính:
  18. 16 - Hình dạng bên ngoài của cơ thể: nam giới cao hơn, nặng hơn, thể lực mạnh hơn phụ nữ. - Khác nhau về cấu tạo nhiễm sắc thể, hormone, về cơ thể học - Khác nhau về chức năng sinh học, tạo nên vai trò của giới tính: ví dụ phụ nữ mang thai, sinh con và cho con bú bằng sữa mẹ. Những sự khác nhau về cơ thể đã là cơ sở cho một số lý thuyết về sự khác biệt giới tính về mặt tâm lý. Tuy nhiên, chúng ta không thể đơn giản kết luận rằng sự khác biệt về sinh học sẽ tất yếu dẫn đến những khác biệt về tâm lý, và đặc biệt là về năng lực và vai trò trong xã hội của hai giới. Giới (gender) là một thuật ngữ xã hội học bắt nguồn từ môn Nhân loại học nghiên cứu về vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ, bao gồm việc phân chia lao động, các kiểu phân chia, các nguồn và lợi ích. Giới đề cập đến các quy tắc tiêu chuẩn theo nhóm tập thể chứ không theo mục đích cá nhân. Vai trò giới được xác định theo văn hóa, không theo khía cạnh sinh vật học và có thể thay đổi theo thời gian, theo xã hội và các vùng địa lý khác nhau. Khi mới sinh ra, chúng ta có sẵn đặc tính giới. Những đặc tính giới mà chúng ta có được là do chúng ta học được từ gia đình, xã hội và nền văn hóa của chúng ta. Theo PGS.TS Lê Thị Quý (2009) trong Giáo trình xã hội học giới: có thể định nghĩa ngắn gọn: Giới là quan hệ xã hội giữa nam và nữ và cách thức mối quan hệ đó được xây dựng nên trong xã hội. Theo TS. Nguyễn Mạnh Tưởng (2008) Triết lí về con người và nhận thức giới: Giới dùng để chỉ các đặc điểm, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam và nữ. Các đặc điểm giới là các đặc điểm xã hội của nam và nữ, do đó chúng có thể thay đổi dưới tác động của các yếu tố xã hội. Ví dụ: ở nơi này, phụ nữ có đặc
  19. 17 điểm là phụ thuộc vào nam giới về mặt kinh tế và chỉ là người thưc hiện các quyết định do nam giới đưa ra nhưng ở nơi khác là phụ nữ quyết định cùng nam giới các vấn đề của cuộc sống. Theo TS. Thái Thị Ngọc Dư (2013): Giới là một phạm trù khoa học xã hội, được sử dụng để nói về các vai trò, thái độ và giá trị của giới tính do các cộng đồng xã hội gán cho. Như vậy giới được xác định trong mối quan hệ giữa nam và nữ về quyền lực, vị trí xã hội và phân công lao động. Những tính chất của quan hệ giới được tạo dựng qua quá trình lịch sử, có tính xã hội, không cố định mà có thể thay đổi qua thời gian, có thể khác nhau trong những bối cảnh văn hóa, xã hội khác nhau. Theo Tài liệu Hướng dẫn về bình đẳng giới cho các ấn phẩm của UNESCO (2012), giới đề cập đến vai trò và trách nhiệm của nam giới và phụ nữa được tạo ra trong gia đình, xã hội và nền văn hóa của chúng ta. Khái niệm giới cũng liên quan tới những mong đợi về đặc điểm, khả năng và những hành vi, ứng xử của cả phụ nữ và nam giới (nữ tính và nam tính) * Trong nghiên cứu của tác giả Võ Thị Tường Vy (1999): Sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt tâm lý: Giữa nam và nữ cũng có những khác biệt rõ rệt về tâm lý: - Cảm giác ở nữ thường rất nhạy cảm với màu sắc và âm thanh. - Tri giác ở nữ nhạy hơn với những sự vật hiện tượng rực rỡ, gây ấn tượng mạnh. - Hứng thú ở nam và nữ không giống nhau, nam thích hoạt động đòi hỏi sự vận động mạnh như thể dục , và không thích các môn xã hội như sử, địa, văn Ngược lại, nữ thì lại thường thích các môn xã hội. Hoạt động trong thời gian rỗi của các em nữ ít đa dạng hơn nhưng quan tâm đến nhau hơn, có tổ chức hơn. Trò
  20. 18 chơi của các em gái không ồn ào, thường gắn với thiên nhiên, với sinh hoạt thẩm mỹ. Còn các em trai lại thích trò chơi vận động, ồn ào hơn. - Tình cảm của hai giới cũng có những khác biệt. Tình mẫu tử là đặc trưng cho tình cảm nổi bật ở phụ nữ. Ngay từ nhỏ, các em gái đã thể hiện nhu cầu về sự chăm sóc một ai đó. Phong cách sống của phụ nữ đượm màu sắc tình cảm thường gắn liền với chức năng làm vợ, làm mẹ. Phụ nữ đa cảm, dễ xúc động và ít kiềm chế xúc động hơn nam. Xã hội cũng dễ chấp nhận điều đó, trong khi đó, lại đòi hỏi nam giới phải chế ngự cảm xúc của mình. - Tình cảm của nam và nữ cũng khác nhau: phụ nữ trội hơn nam giới về tính cẩn thận và tỷ mỹ khi thực hiện một công việc nào đó. Nữ giới thường cần cù kiên nhẫn, dễ thích ứng với hoàn cảnh hơn nam giới. Phụ nữ chịu đựng sự cô đơn tốt hơn nam giới. Khuynh hướng vươn lên làm người lớn ở em gái và trai cũng khác nhau: em trai thường hướng tới sự tự khẳng định như sức mạnh, sự dũng cảm còn em gái lại đi theo con đường khác như chăm sóc em nhỏ, muốn trở nên hấp dẫn hơn - Năng lực của nam và nữ cũng khác nhau: khả năng nhận định không gian hai chiều và vị trí trong không gian của nam tốt hơn nữ. Nhưng khả năng biểu hiện tư duy bằng ngôn nữ của phụ nữ lại tốt hơn nam giới, vì thế học sinh gái thường thích các môn học xã hội hơn nam. Nữ học ngoại ngữ tốt hơn vì cơ chế lưu giữ ngôn ngữ của nữ là ở cả hai bán cầu. Theo giáo sư H. Lignoret (Pháp) thì ngay từ nhỏ, trẻ em nam đã có đủ khả năng khác hẳn so với bạn gái do việc "lập chương trình" trong não bộ khá hơn. Độ nhanh và độ chính xác của tri giác nữ trội hơn nam, trí nhớ máy móc và ngôn ngữ lưu loát của nữ cũng cao hơn nam. Nhưng thể lực, độ nhanh của các phản ứng và sự phối hợp vận động của cơ thể nữ là kém hơn nam. Phụ nữ lĩnh hội khó khăn hơn nam giới về các loại tri thức
  21. 19 và kỹ xảo cơ giới. Người ta thường nhận xét rằng: trong thời kỳ đi học các em gái thích nghi với hoàn cảnh nhà trường tốt hơn, chăm chỉ hơn nhưng khi trưởng thành thì sự thành công của phụ nữ lại thường kém hơn nam giới. 1.2.2. Vai trò giới Vai trò: Theo từ điển xã hội học Oxford: Vai trò là một khái niệm then chốt trong lý thuyết xã hội học. Nó nhấn mạnh những kỳ vọng xã hội gắn với những “vị thế hay vị trí nhất định trong xã hội và nó phân tích sự vận hành của những kỳ vọng ấy” Vai trò giới: là tập hợp những hành vi ứng xử mà xã hội mong đợi ở phụ nữ và nam giới liên quan đến những đặc điểm và năng lực mà xã hội coi là thuộc về đàn ông hay đàn bà trong một xã hội hay một nền văn hóa cụ thể nào đó. Hay nói cách khác: Vai trò giới là những hành vi, công việc, hoạt động xã hội mà phụ nữ và nam giới đang làm hoặc những hành vi, nhiệm vụ, trách nhiệm đã được định rõ về mặt xã hội đối với phụ nữ và nam giới dựa trên sự khác biệt quy định họ phải suy nghĩ, hành động và cảm nhận dựa trên giới tính của mình. Trong gia đình, vai trò của các thành viên phụ thuộc lẫn nhau. Các vai trò của nam giới thường mang tính đối ngoại, kinh tế, định hướng nên dễ biểu hiện, được xã hội đánh giá cao, còn vai trò của phụ nữ thường là làm các công việc trong gia đình, nội trợ, nuôi dưỡng nên khó thể hiện, vì vậy không được nhìn nhận đúng mức và bị đánh giá thấp. Trong quan hệ với người chồng, người phụ nữ đóng vai trò thụ động, là người thực hiện, còn nam giới là người chủ động, người ra lệnh để phụ nữ thực hiện. “Quyền hành trong gia đình nảy sinh lại dựa vào nguồn phân phối bất công trong vòng gia đình, sự bất công về quyền lực, thiên về giới nam, cũng định hình việc phân chia quyền lực”.
  22. 20 Quan điểm tiếp cận giới: Trong những năm 80 của thế kỷ XX, quan điểm tiếp cận giới được vận dụng trong các công trình nghiên cứu và các chương trình, dự án kinh tế, xã hội ở Việt Nam, đặc biệt là khi xem xét vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Các lý thuyết về giới đề cập đến quan hệ xã hội của nữ giới và nam giới trong mọi lĩnh vực của đời sống. Vai trò giới được xác định dựa trên sự phân công lao động theo giới trong 3 loại công việc: sản xuất, tái sản xuất và công việc cộng đồng. - Hoạt động sản xuất: Hoạt động này liên quan đến sản xuất hàng hóa, dịch vụ, trao đổi hàng hóa và mua bán, làm ruộng, làm thuê, tự tổ chức công việc Hoạt động sản xuất là loại hoạt động được trả công hay tạo ra thu nhập. Phụ nữ và nam giới đều có khả năng tham gia vào hoạt động sản xuất, song phần lớn chức năng và trách nhiệm đối với từng loại hoạt động thường khác nhau và tùy thuộc vào phân công lao động theo giới. Hoạt động sản xuất của người phụ nữ thường bị đánh giá thấp hơn so với nam giới và người phụ nữ cũng tham gia làm những công việc tương ứng với nam giới nhưng họ lại được trả công thấp hơn hẳn. Đây là điểm bất hợp lý trong việc nhìn nhận xem xét vai trò của người phụ nữ trong hoạt động sản xuất tạo ra thu nhập để góp phần phát triển kinh tế gia đình. Bên cạnh đó, do bị đánh giá một cách hạn chế nên người phụ nữ cũng ít có cơ hội được tiếp cận và quản lý các nguồn lực như vốn, kỹ thuật - Hoạt động tái sản xuất: Hoạt động tái sản xuất liên quan đến việc chăm sóc và duy trì hộ gia đình. Nó liên quan đến việc mang thai, chăm sóc con cái, chăm lo cuộc sống của gia đình Tái sản xuất là loại hoạt động thiết yếu để duy trì cuộc sống của con người. Trên thực tế, loại hoạt động này rất ít khi được coi là “hoạt động chính” mà thường là “công việc không lương” và thường do phụ nữ đảm nhiệm.
  23. 21 - Hoạt động cộng đồng: Là hoạt động liên quan đến những hoạt động tập thể như cải thiện điều kiện và môi trường sống tại cộng đồng. Loại hoạt động này ít khi được coi là đem lại lợi ích về kinh tế. Trên thực tế, vai trò của người phụ nữ trong cộng đồng, nhất là khu vực nông thôn không được đánh giá cao, họ thường ít được bày tỏ quan điểm, nhu cầu của mình cũng như ít được tham gia vào quá trình ra quyết định về các hoạt động ở cộng đồng, trong đó có công tác xóa đói giảm nghèo. Khi xem xét mối quan hệ giới trong một cộng đồng nhất thiết phải phân tích vai trò giới đang tồn tại trong cộng đồng đó và sự phân công lao động theo giới ở 3 loại hình trên. Lý thuyết giới cũng cho rằng sự phân công vai trò xuất phát từ sự thuận lợi về sinh học và sự phân công của xã hội. Ngoài ra, phân công lao động theo giới còn gắn liền với các giá trị chuẩn mực xã hội, đặc trưng về văn hóa và khác nhau về thời gian, không gian. Theo tác giả Đoàn Văn Trường, Nguyễn Thị Thanh Thúy (2015) trong bài nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò giới trong hoạt động thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở nông thôn hiện nay”: Vai trò giới còn thể hiện sự mềm dẻo và thích nghi với những thay đổi của điều kiện thực hiện các chức năng của mình chính là cơ sở của công bằng xã hội và hiệu quả xã hội. Trong hoạt động xóa đói giảm nghèo, cách tiếp cận về giới xem xét tình trạng nghèo đói của phụ nữ trong tương quan so sánh với nam giới và đặt vấn đề phụ nữ cần được quan tâm một cách bình đẳng như là đối tượng và chủ thể của công tác giảm nghèo. Cách tiếp cận này gợi ý việc công nhận vai trò sản xuất của phụ nữ và tìm cách đáp ứng các nhu cầu giới thực tế, tập trung vào việc tạo thu nhập ở quy mô nhỏ. Ngoài ra, cần phải nâng cao quyền bình đẳng cho phụ nữ trong việc
  24. 22 tham gia vào việc đưa ra các quyết định quan trọng chính là hệ quả của khả năng tiếp cận, sử dụng các nguồn lực như thông tin, sản xuất, lao động 1.2.3 Lý luận về nhận thức a. Khái niệm về nhận thức Hoạt động nhận thức của con người là quá trình tâm lý, có khởi đầu, diễn biến và kết thúc. Hoạt động nhận thức có liên quan mật thiết với các quá trình tâm lý khác như xúc cảm, ý chí Hoạt động nhận thức là quá trình phản ánh bản thân những sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan. Không chỉ phản ánh hiện thực chung quanh ta mà còn phản ánh hiện thực của bản thân ta, nó không chỉ phản ánh cái bên ngoài mà còn phản ánh cái bên trong, không chỉ phản ánh cái thực tại mà còn phản ánh cái đã qua và cái sẽ tới hiện thực khách quan. Quá trình nhận thức gồm 2 giao đoạn: Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính * Nhận thức cảm tính: Gồm cảm giác và tri giác. - Cảm giác: là quá trình nhận thức phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính của sự vật, hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động và giác quan - Tri giác: là quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn những thuộc tính của sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan. * Nhận thức lý tính: Gồm tư duy và tưởng tượng - Tư duy: là một quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện khách quan mà trước đó ta chưa biết - Tưởng tượng: là quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới dựa trên cơ sở những biểu tượng đã có.
  25. 23 Hoạt động nhận thức là một trong những hoạt động tâm lý cơ bản liên quan đến mọi hiện tượng tâm lý khác. Hoạt động nhận thức mang lại cho con người những: Là quá trình nhận thức phản ánh những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có. Hình ảnh, biểu tượng, khái niệm về sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan, hay nói chung đó là những hiểu biết, chính sự hiểu biết đó chi phối thái độ, tình cảm, nhu cầu, hành vi của con người. Nhận thức được thể hiện qua thái độ và biểu hiện qua hành vi. Ngược lại, những thuộc tính, những quá trình tâm lý đó lại ảnh hưởng đến hoạt động nhận thức, đến sự hiểu biết của cá nhân. b. Nhận thức giới Nhận thức giới là khả năng xác định và nhận thức được sự khác biệt và tình trạng bất bình đẳng còn tồn tại giữa nam giới và nữ giới - Theo hướng dẫn về Bình đẳng giới với các ấn phẩm của UNESCO năm 2012 Giới tính có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tâm lý nói chung của con người. Giới tính chi phối những hành vi, cử chỉ, tư thế, tác phong, nếp sống của con người. Do vậy, sự hiểu biết về các vấn đề giới tính của bản thân và của người khác giới, từ đó có thể làm chủ và điều khiển được bản thân mình, để có cách cư xử phù hợp trong quan hệ với người khác giới. Ngay vào tuổi lên ba, khi trẻ tò mò muốn biết về mọi cái xung quanh mình thì sự khác biệt giới tính cũng nằm trong tầm mắt của trẻ em khiến chúng thắc mắc và tìm hiểm. Trẻ em nam bắt đầu nhận ra cái gì "mình có" mà các trẻ em gái "không có" và ngược lại các em gái nhận ra những gì "mình có" mà các trẻ em nam 'không có" Và như vậy là trẻ đang có những hiểu biết sơ đẳng về giới tính. Nhận thức về giới tính cơ bản hình thành khi trẻ bắt đầu có ý thức về "cái
  26. 24 tôi" của mình, khi trẻ bắt đầu khẳng định bản ngã của mình. Do những tác động xung quanh trẻ thích bắt chước những hành vi của người lớn cùng giới với mình, luôn cố gắng sửa đổi hành vi của mình sao cho phù hợp với giới của mình. Đến lứa tuổi nhi đồng, trẻ đã hiểu biết rõ thêm về những đặc điểm của giới tính. bao gồm những đặc điểm có liên quan đến thuộc tính nhân cách như phải dũng cảm, trung thành với bạn và các lĩnh vực hoạt động học tập, vui chơi, lao động. Con gái thường chơi thành nhóm với nhau và ít thích chơi với em trai. Các em gái thích chơi những trò chơi đòi hỏi sự khéo léo, dịu dàng, nữ tính Ngược lại các em nam thì tỏ ra mạnh mẽ hơn, các em thích bắn bi, thích đá banh và đặc biệt thích các trò chơi lấp ráp, máy móc, robot Mặc dù vậy, sự hiểu biết về giới tính của trẻ em còn rất máy móc, mơ hồ và ít linh hoạt. Bước vào tuổi thiếu niên, sự dậy thì đã làm các em quan tâm đến người khác giới, mọi thông tin có liên quan đến tính dục trở nên hấp dẫn đối với các em. Các em bắt đầu nhận xét về những đặc trưng giới tính, đánh giá người khác giới. Vì vậy, ở độ tuổi này, các em đã có những biểu hiện khá phong phú về các vấn đề giới tính. Nhu cầu hiểu biết về giới tính bộc lộ khá mạnh mẽ. Các em thắc mắc rất nhiều về các vấn đề giới tính. Mọi thông tin có liên quan đến sự biến đổi của các em đến bạn khác giới đều làm cho các em đặc biệt quan tâm. Vì vậy nhu cầu nhận thức về giời tính của các em rất lớn và độ chính xác của thông tin ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân các em. 1.2.4. Đặc điểm lứa tuổi học sinh THCS Lứa tuổi học sinh THCS - lứa tuổi thiếu niên - là một giai đoạn phát triển tâm lý đầy biến động của một đời người. Về điều kiện sinh lý, dấu hiệu cơ bản để nhận biết một trẻ em đã bước sang tuổi thiếu niên là hiện tượng dậy thì. Sự phát triển về mặt sinh lý ở thiếu niên có
  27. 25 đặc điểm là tốc độ phát triển cơ thể rất nhanh, mạnh, nhưng không đồng đều về mọi mặt, đồng thời xuất hiện hiện tượng dậy thì đánh dấu sự trưởng thành về hệ sinh dục. Ở lứa tuổi thiếu niên diễn ra sự cải tổ rất mạnh mẽ và sâu sắc về cơ thể, về sinh lý, đây là giai đoạn bứt phá lần thứ hai trong cuộc đời sau giai đoạn sơ sinh. Về điều kiện tâm lý, điều kiện tâm lý cho sự hình thành và phát triển tâm lý ở tuổi thiếu niên chính là sự chín muồi về tâm lý trong giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi nhi đồng bước sang tuổi thiếu niên. Tâm lý thiếu niên sẽ được hình thành và phát triển dựa trên nền tảng của những cấu trúc tâm lý đã có. Cuối tuổi nhi đồng, các em đã đạt được những thành tựu nổi bật: phát triển các thao tác tư duy cụ thể; có khả năng tổ chức và kiểm soát các hành động nhận thức, hành vi theo mục đích xác định; biết phân tích, lập các kế hoạch hành động, ngôn ngữ đã hoàn thiện ngữ pháp và ngữ nghĩa của ngôn ngữ nói, hình thành các kỹ năng đọc và viết tiếng mẹ đẻ; phát triển nhận thức xã hội cùng với sự phát triển lòng vị tha và tính hiếu chiến trong đời sống xúc cảm - tình cảm. Sự phát triển các đặc trưng tâm lý này gắn liền với sự nhận thức các chuẩn mực đạo đức, trên cơ sở đó hình thành hành vi đạo đức của các em. * Đặc điểm hoạt động nhận thức ở lứa tuổi thiếu niên: Đặc trưng nổi bật trong hoạt động nhận thức của thiếu niên là tính mục đích, tính chủ định phát triển mạnh trong tất cả các quá trình nhận thức: tri giác, trí nhớ, chú ý, tư duy, tưởng tượng. - Tri giác: Tri giác có chủ định dần thay thế tri giác không có chủ định. Các loại tri giác phát triển mạnh. Chất lượng tri giác đối tượng tăng lên rõ rệt. Thiếu niên tri giác có trình tự, có mục đích, có kế hoạch và hoàn thiện hơn so với tuổi nhi đồng. Khả năng phân tích và tổng hợp cũng tăng cao, khả năng quan sát cũng
  28. 26 phát triển mạnh. Tuy vậy, khi tri giác các em cũng còn nhiều hạn chế như: hấp tấp, vội vàng, tính tổ chức, tính hệ thống trong tri giác còn yếu. - Trí nhớ: Trí nhớ có chủ định nổi bật lên, trí nhớ từ ngữ - logic phát triển mạnh. Các quá trình cơ bản của trí nhớ được điều khiển có kế hoạch, có tổ chức. Tuy nhiên, ghi nhớ của thiếu niên cũng còn nhiều mâu thuẫn và thiếu sót. Mặc dù các em có khả năng ghi ghi nhớ có ý nghĩa song vẫn tùy tiện trong ghi nhớ, ghi gặp khó khăn lại từ bỏ ghi nhớ có ý nghĩa. - Tư duy: Tư duy trừu tượng phát triển mạnh. Đầu cấp trung học cơ sở, tư duy hình tượng - cụ thể phát triển, giữa vai trò quan trọng trong cấu trúc của tư duy. Sang các lớp cuối cấp, tư duy trừu tượng phát triển mạnh mẽ. Khả năng phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa và khái quát hóa phát triển mạnh. Các em có khả năng phân tích tài liệu tương đối đầy đủ, sâu sắc, biết phân biệt những dấu hiệu bản chất và không bản chất, nhận biết được những mối liên hệ, quan hệ của sự vật hiện tượng. Khả năng suy luận tương đối hợp lý và có cơ sở. Tư duy của thiếu niên có căn cứ và tính phê phán của tư duy phát triển. - Tưởng tượng: Tưởng tượng có chủ định ở thiếu niên phát triển mạnh, khả năng sáng tạo các hình ảnh mới trong tưởng tượng rất đa dạng, óc tưởng tượng vô cùng phong phú. - Chú ý: Chú ý có chủ định được tăng cường. Các thuộc tính cơ bản của chú ý phát triển về chất so với tuổi nhi đồng. Sức tập trung của chú ý cao hơn, lâu hơn. Sự phân tán chú ý ít hơn, khả năng duy trì chú ý được bền vững hơn. Ngoài ra, cùng với sự trưởng thành của hệ sinh dục, thiếu niên quan tâm nhiều hơn đến việc tìm hiểu vai trò và chuẩn mực về giới hơn so với nhi đồng. Cuối tuổi thiếu niên, các em đã có khả năng nhận biết nhận nhân dạng giới tính của mình và lựa chọn các hình thức thể hiện giới tính một cách khá phù hợp từ
  29. 27 cách ăn mặc đến các phẩm chất giới tính. Chẳng hạn, con gái ăn mặc phải khác con trai. Con gái thì phải dễ thương, dịu dàng, nói năng nhỏ nhẹ, đi đứng nhẹ nhàng, ; con trai thì phải mạnh mẽ, ngổ ngáo, can đảm, Sự nhận thức và thể hiện bản sắc giới tính chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: sinh học, cha mẹ, thầy cô, truyền thông, bạn bè và sự tích cực của bản thân các em. Đa số các em đã có khả năng nhận biết và thể hiện bản thân đồng nhất với giới tính của mình, tuy nhiên cũng có một số em vẫn còn bở ngỡ trên con đường tìm kiếm nhân dạng giới tính của bản thân. Khả năng đồng nhất với giới tính cũng là một nét cấu tạo tâm lý mới đặc trưng trong nhân cách của thiếu niên. 1.2.5. Định kiến giới Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam và nữ - Luật bình đẳng giới 2009. Theo TS. Nguyễn Mạnh Tưởng, định kiến giới là sự đề cao hay tuyệt đối hóa các đặc điểm, vai trò và vị thế của phụ nữ hoặc nam giới, thường là không đúng và hạn chế cá nhân thực hiện những việc mà người đó có khả năng làm. Định kiến giới vừa phản ánh sự bất bình đẳng giới, vừa củng cố duy trì thực trạng bất bình đẳng giới trong xã hội, ví dụ như định kiến trọng nam khinh nữ. Với định kiến này, trong tuyển dụng do nhiều lý do khác nhau, người ta công bố không tuyển nữ hay yêu cầu phụ nữ cam kết là trong vòng từ 3 đến 5 năm không sinh con, trong quan hệ gia đình, trẻ em nam được ưu tiên và tạo mọi điều kiện còn trẻ em nữ không cần. Định kiến giới thể hiện dưới hai hình thức: Một là, thổi phồng hoặc cường điệu một số đặc điểm, phẩm chất của phụ nữ hoặc nam giới; Hai là, coi thường hoặc phê phán một cách thái quá một số đặc điểm, phẩm chất của phụ nữ hoặc
  30. 28 năm giới. Định kiến giới gắn liền với các chuẩn mực giới để dựa vào đó phán xét đúng - sai, phải - trái, khen - chê một cách tương ứng. Theo tác giả Đỗ Hoàng trong bài báo “Thực trạng định kiến đối với vai trò của nam giới và phụ nữ trong gia đình”: Định kiến ám chỉ một kiểu thái độ đặc biệt, mà thông thường là những thái độ tiêu cực đối với thành viên các nhóm xã hội khác. Định kiến giới được hiểu không chỉ là thái độ tiêu cực khi đánh giá về vai trò của nam giới và phụ nữ mà trong nó còn chứa đựng ý về một mô hình điều khiển hành vi của cá nhân mang định kiến tùy thuộc cá nhân đó là nam hay nữ, là người vợ hay người chồng. Một vài quan niệm rập khuôn vai trò giới ta có thể thấy trên các trang truyền thông mạng xã hội như: - Phụ nữ là phái yếu. Bản chất nam giới khỏe mạnh nên đảm nhiệm những công việc nặng nhọc hơn “Từ thời thượng cổ, phụ nữ vẫn là người đảm đang quán xuyến mọi việc trong nhà bởi vì trời sinh ra phụ nữ có tính kiên nhẫn hơn, khéo léo, mềm mại hơn, thích hợp hơn với những công việc nội trợ như giặt giũ, nấu nướng, thu dọn nhà cửa” Có thể mô tả định kiến đang tồn tại trong hệ thống gia đình là: Nam giới trụ cột kinh tế gia đình - Phụ nữ có thiên chức làm công việc nội trợ. Nam giới bản chất là phái mạnh nên thích hợp với những công việc lớn, là người chủ gia đình, người ra quyết định; phụ nữ ở vị trí phụ thuộc, thứ yếu. Thực tế thì bản sắc về giới không phải là bẩm sinh, mà nó được sinh ra cùng với quá trình xã hội hóa - Đó là hệ thống hành vi học được từ xã hội và những kỳ vọng về các đặc điểm và năng lực được xã hội cân nhắc nhằm xác định thế nào là một người nam giới hay
  31. 29 một người phụ nữ (hoặc một cậu bé hay một cô bé) trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội. Theo PGS.TS Trần Thị Minh Đức trong bài báo “Định kiến và áp lực xã hội đối với nữ tri thức”: có sự nhận thức khác biệt về khuôn mẫu giới trong niềm tin và khuôn mẫu giới trong thực tế. Điều này được kiểm định trên sinh viên ngành Tâm lý học, khi các em học môn Tâm lý học Giới. Kết quả cho thấy: Khi yêu cầu sinh viên mô tả những nét tính cách, những đặc điểm của nam giới và của nữ giới (nói chung) thì tư duy của sinh viên thường dập theo khuôn mẫu giới đang có về nam hay nữ. Sinh viên cho rằng: Nam giới có đặc trưng là mạnh mẽ, quyết đoán, lãnh đạo, tự chủ, ít nói, tháo vát, linh hoạt v.v Còn nữ giới có tính nhẹ nhàng, chung thủy, lắng nghe, nhường nhịn, chịu khó, tôn trọng người khác v.v Tuy nhiên, khi yêu cầu các sinh viên mô tả những nét tính cách, những đặc điểm đặc trưng của mình, thì kết quả lại cho thấy không hề tồn tại sự khác biệt trong tính cách, đặc điểm của sinh viên nữ hay nam. Có nghĩa là cả sinh viên nam và nữ đều có gần hết các đặc điểm mà họ cứ nghĩ đó là của đàn ông hoặc của đàn bà. Nhiều nữ sinh viên nữ nói rằng họ có các đặc điểm như mạnh mẽ, tự chủ, ít nói, kiên định v.v , và nhiều nam sinh viên cho rằng những đặc điểm như nhường nhịn, tôn trọng, tế nhị, biết lắng nghe v.v là những phẩm chất có trong con người họ. Trong cuộc sống, hành vi của nữ giới và nam giới đều không quá khác biệt. Nữ giới có thể làm những công việc vốn thuộc về nam giới và ngược lại. Tuy nhiên trong nhận thức, chúng ta thường tư duy theo khuôn mẫu - cái này thuộc về đàn ông, cái kia của phụ nữ. Các khuôn mẫu xã hội luôn ủng hộ nam giới trong lĩnh vực nghề nghiệp và hướng đến làm lãnh đạo, còn đối với nữ giới các khuôn mẫu lại gắn họ với những phẩm chất của người nội trợ, chăm sóc người
  32. 30 ốm, mẫn cảm. Cách xem xét vấn đề của nam giới và nữ giới theo khuôn mẫu trên là một sự duy trì bất bình đẳng trong nhận thức đối với nữ trí thức. 1.2.6. Nhận thức về vai trò giới của học sinh THCS: a. Định nghĩa: Từ các cơ sở lý luận đã nên, người nghiên cứu rút ra được: Nhận thức về vai trò giới của học sinh THCS là khả năng xác nhận, phản ánh sự khác biệt về những hành vi, nhiệm vụ, trách nhiệm đã được định rõ về mặt xã hội đối với phụ nữ và nam giới của học sinh ở lứa tuổi THCS. b. Ảnh hưởng của định kiến giới đến nhận thức về vai trò giới của học sinh THCS: Từ các cơ sở lý luận đã nêu trên, có thể thấy rằng: Định kiến giới gắn liền với các chuẩn mực giới để dựa vào đó đánh giá, phán xét một cách tương ứng và điều khiển hành vi của cá nhân.
  33. 31 Chương 2: THỰC TRẠNG NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ GIỚI CỦA HỌC SINH THCS TẠI THỊ XÃ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI 2.1. Mô tả mẫu nghiên cứu: 2.1.1. Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu thực trạng nhận thức về vai trò giới của học sinh THCS tại thị xã Long Khánh - tỉnh Đồng Nai trong gia đình, nhà trường và xã hội. 2.1.2. Mô tả mẫu nghiên cứu Chọn mẫu theo 4 khối lớp 6, 7, 8, 9 tại 3 trường THCS ở trung tâm thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai: THCS Hồ Thị Hương, THCS Nguyễn Trãi, THCS Lê Quý Đôn. Chọn ngẫu nhiên 1 lớp ở mỗi khối tại các trường. Quy mô của mẫu: 400 học sinh THCS tại 3 trường THCS Hồ Thị Hương, THCS Nguyễn Trãi, THCS Lê Quý Đôn tại thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai Bảng2.1. Thống kê các thành phần trên mẫu Thành phần Số người Tỉ lệ % Tổng Số người % Khối lớp Lớp 6 88 25.7 342 100 Lớp 7 95 27.8 Lớp 8 75 21.9 Lớp 9 84 24.6 Giới tính Nam 163 47.7 Nữ 179 52.3 Học vấn Dưới phổ thông 122 35.6 của bố mẹ Phổ thông 118 34.5 hoặc người 12/12 nuôi Trên phổ thông 102 29.8 dưỡng
  34. 32 Nhận xét: Mẫu nghiên cứu có tổng cộng 342 mẫu hợp lệ, trong đó số học sinh ở mỗi khối là: Lớp 6: 88; lớp 7: 95; lớp 8: 75; lớp 9: 84. Trong đó có: 163 học sinh nam và 179 học sinh nữ. 2.1.3. Phương pháp nghiên cứu a. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi Mô tả bảng hỏi Phần I: Thông tin cá nhân Phần II: Nhận thức về vai trò giới 1. Nhận thức về đặc điểm của từng giới; 2. Vai trò giới trong gia đình: 2.1 Nhận thức về sự phân công vai trò giới theo các công việc trong gia đình 2.2 Ý kiến về các nhận định đối với vai trò giới trong gia đình 3. Vai trò giới trong nhà trường 3.1 Nhận thức về sự phân công vai trò giới theo các chức vụ trong lớp học, trường học 3.2 Nhận thức về sự phân công vai trò giới theo các hoạt động 3.3 Nhận thức về vai trò giới đối với các môn học 3.4 Ý kiến về các nhận định đối với vai trò giới trong nhà trường 4. Vai trò giới trong xã hội: 4.1 Nhận thức về vai trò giới đối với nghề nghiệp 4.2 Ý kiến về các nhận định đối với vai trò giới trong nhà trường * Cách thức chấm điểm bảng hỏi:
  35. 33 - Các câu hỏi về nhận thức, có 3 phương án lựa chọn: 1 Nam, 2 Nữ, 3 cả 2 giới - Các câu hỏi khảo sát về ý kiến có 3 phương án lựa chọn: 1. Đồng ý, 2. Phân vân, 3. Không đồng ý - Độ tin cậy: + Để kiểm tra mức độ tin cậy của thang đo, người nghiên cứu tiến hành phân tích hệ số Cronback’s Alpha bằng phần mềm SPSS 16.0 + Kết quả hệ số Cronback’s Alpha của toàn phiếu khảo sát là 0,925. Vì vậy có thể kết luận: thang đo sử dụng trong nghiên cứu là hoàn toàn phù hợp và đáng tin cậy b. Phương pháp thống kê toán học: - Mục đích nghiên cứu Xử lý định lượng các số liệu thu được từ khảo sát bằng bảng hỏi nhằm làm cơ sở để biện luận kết quả nghiên cứu. - Nội dung nghiên cứu Sử dụng một số phép thống kê mô tả như: tần số, điểm trung bình, tỉ lệ phần trăm, , kiểm nghiệm Chi bình phương nhằm so sánh kết quả, sự tương quan giữa các nhóm khách thể khác nhau trong cùng một chỉ báo nghiên cứu. - Cách tiến hành Sử dụng phần mềm thống kê SPSS 16.0 để xử lý các dữ kiện thu được phục vụ cho việc phân tích số liệu trong quá trình nghiên cứu.
  36. 34 2.2. Kết quả nghiên cứu 2.2.1. Thực trạng nhận thức về vai trò giới của học sinh THCS tại thị xã Long Khánh - tỉnh Đồng Nai a. Nhận thức về đặc điểm từng giới Bảng 2.2. Thực trạng nhận thức về đặc điểm từng giới Nam Nữ Cả hai giới Đặc điểm Tỉ lệ Số ý Tỉ lệ Số ý Số ý kiến Tỉ lệ % % kiến % kiến Yếu đuối, dễ bị tổn thương, 0 0 274 80,1 68 19,9 cần được bảo vệ Nhẹ nhàng 4 1,2 247 72,2 91 26,6 Được đánh giá cao về sắc 10 2,9 275 80,4 57 16,7 đẹp và sự dễ thương Chung thủy 11 3,2 57 16,7 274 80,1 Kiên nhẫn, chịu khó, biết 20 5,8 64 18,7 258 75,4 lắng nghe người khác Tôn trọng người khác 9 2,6 21 6,1 312 91,2 Chịu khó, chăm chỉ 13 3,8 72 21,1 257 75,1 Theo bảng số liệu trên ta thấy: - Các đặc điểm: “Yếu đuối, dễ bị tổn thương, cần được bảo vệ”; “Nhẹ nhàng”; “Được đánh giá cao về sắc đẹp và sự dễ thương” có tỉ lệ cao trên 50% số học
  37. 35 sinh được khảo sát cho rằng phù hợp với nữ giới do các đặc điểm trên gắn với khuôn mẫu của nữ giới. Các đặc điểm còn lại tuy có hơn số học sinh được khảo sát đồng ý với tỷ lệ cao trên 50% nhưng vẫn còn một số học sinh vẫn còn định kiến khi cho rằng các đặc điểm trên chỉ phù hợp với một trong 2 giới. b. Nhận thức về vai trò giới trong gia đình  Nhận thức về vai trò giới trong gia đình qua các công việc Bảng 2.3 Nhận thức về vai trò giới qua các công việc trong gia đình Nam Nữ Cả hai giới Công việc Số ý Tỉ lệ Số ý Tỉ lệ Số ý Tỉ lệ kiến % kiến % kiến % Sửa chữa các thiết bị, vật dụng 298 87.1 4 1.2 40 11.7 trong gia đình Công việc nội trợ: Đi chợ, nấu ăn, 2 0.6 182 53.2 158 46.2 giặt giũ, chăm sóc gia đình Theo bảng số liệu trên ta thấy - Công việc “Sữa chữa các thiết bị, vật dụng trong gia đình” có đến 87.1% số học sinh được khảo sát cho rằng đây là công việc phù hợp với nam giới. Đây là công việc mang tính chất nặng nhọc và theo định kiến về giới: nam giới thường mạnh mẽ hơn nên có thể đảm nhận các công việc này. - Công việc “Công việc nội trợ: Đi chợ, nấu ăn, giặt giũ, chăm sóc gia đình” có đến 53.2% số học sinh được khảo sát cho rằng đây là công việc phù hợp với nữ giới. Theo các định kiến về giới, phụ nữ có thiên chức làm công việc nội trợ, vì vậy ta có thể thấy số học sinh được khảo sát vẫn còn có định kiến với hơn 50% cho rằng công việc chỉ phù hợp với nữ giới.
  38. 36 Ở các công việc trong gia đình, học sinh vẫn còn định kiến về vai trò giới trong nhận thức khi phần lớn cho rằng nam sẽ phù hợp với các công việc có tính nặng nhọc như sửa chữa các thiết bị trong gia đình, nữ phù hợp hơn với các công việc nội trợ, .  Nhận thức về vai trò giới trong gia đình qua các nhận định Bảng 2.4. Nhận thức thông qua các nhận định về giới trong gia đình Đồng ý Phân vân Không đồng ý Nhận định Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Không thể để phụ nữ làm trụ cột kinh tế vì điều đó sẽ làm mất đi 79 23.1 89 26 174 50.9 hình ảnh về sự dịu dàng, nữ tính Nếu phụ nữ có vai trò chính về kinh tế, làm trụ cột kinh tế thì nam 46 13.5 72 21.1 224 65.5 giới sẽ không còn được coi trọng Theo bảng số liệu trên, ta thấy: Các nhận định mang định kiến về vai trò giới của phụ nữ trong việc làm trụ cột về gia đình, kinh tế trong gia đình chỉ có hơn 50% số học sinh được khảo sát không đồng ý. Như vậy, vẫn còn lại số học sinh vẫn còn định kiến đối với việc phụ nữ làm trụ cột trong gia đình và trụ cột về kinh tế trong gia đình khi đồng ý và có sự phân vân đối với các nhận định trên.
  39. 37 c. Nhận thức về vai trò giới trong trường học  Nhận thức về vai trò giới trong trường học qua các chức vụ Bảng 2.5. Nhận thức về vai trò giới thông qua các chức vụ trong trường Nam Nữ Cả 2 giới Chức vụ Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Lớp phó văn thể mỹ 11 3.2 252 73.7 79 23.1 Thủ quỹ 20 5.8 170 49.7 152 44.4 Lớp phó lao động 254 74.3 5 1.5 83 24.3 Theo bảng số liệu trên ta thấy: Các chức vụ như: “Lớp phó văn thể mỹ”; “Thủ quỹ” được số học sinh cho rằng chỉ phù hợp với nữ nhiều hơn và chênh lệch hơn so với số ý kiến cho rằng chỉ phù hợp với nam giới. Chức vụ “Lớp phó lao động” được cho rằng phù hợp với nam nhiều hơn và chênh lệch khá cao so với nữ. Như vậy, với các chức vụ trong nhà trường, học sinh vẫn còn định kiến trong nhận thức về vai trò giới khi cho rằng các chức vụ “Lớp phó văn thể mỹ”; “Thủ quỹ” có tính chất khéo léo, cần sự tỉ mỉ chỉ phù hợp với nữ giới, và “Lớp phó lao động” có tính chất nặng nhọc và chỉ phù hợp với nam giới.
  40. 38  Nhận thức về vai trò giới trong trường học qua các hoạt động Bảng 2.6. Nhận thức về vai trò giới trong nhà trường thông qua các hoạt động Nam Nữ Cả 2 giới Hoạt động Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Nhảy dây 4 1.2 233 68.1 105 30.7 Múa 5 1.5 230 67.3 107 31.3 Bóng đá 187 54.7 1 0.3 154 45 Theo bảng số liệu trên ta thấy: Các hoạt động: “Nhảy dây”, “Múa” cần sự khéo léo, mềm mại có tỉ lệ các học sinh cho rằng phù hợp với nữ nhiều hơn và chênh lệch hơn so với nam giới. Điều này tương ứng với định kiến “phụ nữ có tính khéo léo, mềm mại hơn nam giới” và các em gái thường chọn hoạt động không ồn ào, gắn với sinh hoạt thẩm mỹ. Trong khi, hoạt động “Bóng đá” có 54.7% số học sinh khảo sát cho rằng phù hợp với nam giới và 0.1% cho rằng chỉ phù hợp với nữ giới. Điều này cho thấy: hoạt động của các em gái không ồn ào, thường gắn với thiên nhiên, với sinh hoạt thẩm mỹ, còn các em trai lại thích hoạt động vận động, ồn ào hơn.
  41. 39  Nhận thức về vai trò giới trong trường học qua các môn học Bảng 2.7 Nhận thức về vai trò giới thông qua các môn học Nam Nữ Cả 2 giới Môn học Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Công nghệ: Kỹ thuật điện 277 81 4 1.2 61 17.8 Công nghệ: Cắt may, nấu 4 1.2 252 73.7 86 25.1 ăn Thể dục nhịp điệu 9 2.6 200 58.5 133 38.9 Năng khiếu: Âm nhạc, Mỹ 5 1.5 173 50.6 164 48 thuật Theo bảng số liệu trên, ta thấy: Nhận thức về vai trò giới của học sinh trong các môn học ở nhà trường vẫn còn định kiến khi tỉ lệ học sinh cho rằng môn học về kỹ thuật điện phù hợp với nam giới nhiều hơn tỉ lệ cho rằng phù hợp với nữ giới. Trong khi đó, các môn về cắt may, nấu ăn, thể dục nhịp điệu, âm nhạc, mỹ thuật có tỉ lệ học sinh cho rằng phù hợp với nữ nhiều hơn hẳn so với tỉ lệ học sinh cho rằng chỉ phù hợp với nam giới. Như vậy, nhận thức về vai trò giới của học sinh trong các môn học vẫn còn định kiến khi cho rằng các môn học cần sự khéo léo thì chỉ dành cho nữ nhiều hơn còn các môn cần về kỹ thuật thì phù hợp với nam nhiều hơn.
  42. 40  Nhận thức về vai trò giới trong trường học qua các nhận định Bảng 2.8 Nhận thức qua các nhận định về vai trò giới trong nhà trường Không đồng Đồng ý Phân vân ý Nhận định Tần Tỉ lệ Tần Tỉ lệ Tần Tỉ lệ số % số % số % Học sinh nam nên tập trung, phát triển, đầu tư học các môn 122 35.7 111 32.5 109 31.9 tự nhiên Học sinh nữ nên tập trung, phát triển, đầu tư học các môn 155 45.3 84 24.6 103 30.1 xã hội và các môn năng khiếu như: Đàn, hát, Học sinh nam phải có kết quả học tập loại giỏi, thành tích 111 32.5 93 27.2 138 40.4 phải cao Theo bảng số liệu trên ta thấy: Đối với các nhận định mang định kiến về vai trò giới trong việc lựa chọn môn học chỉ có khoảng 30 đến 40% tỉ lệ học sinh không đồng ý với các nhận định, như vậy còn trên 50% số học sinh đồng ý hoặc vẫn còn phân vân đối với các nhận định trên. Như vậy, đối với nhận thức về vai trò giới trong nhà trường, học sinh THCS vẫn còn nhiều định kiến ở các chức vụ, hoạt động, môn học trong nhà trường.
  43. 41 Tuy nhiên, nhìn tổng quát về số học sinh vẫn còn định kiến trong nhận thức về vai trò giới trong nhà trường, ta có thể thấy, số HS còn định kiến khi được hỏi về từng lĩnh vực cụ thể cao hơn khi được hỏi ý kiến về các nhận định. Điều này đặc ra vấn đề liệu khi thực hiện khảo sát các vấn đề cụ thể, HS dựa vào tình hình thực tế, còn khi thực hiện khảo sát cho ý kiến về nhận định thì HS dựa theo đúng suy nghĩ của bản thân, hay có sự khác biệt giữa học sinh đầu cấp THCS và cuối cấp THCS do đặc điểm về tư duy ở lứa tuổi này: Đầu cấp trung học cơ sở, tư duy hình tượng - cụ thể phát triển, giữa vai trò quan trọng trong cấu trúc của tư duy. Sang các lớp cuối cấp, tư duy trừu tượng phát triển mạnh mẽ. d. Nhận thức về vai trò giới trong xã hội  Nhận thức về vai trò giới trong xã hội qua các nghề nghiệp Bảng 2.9 Nhận thức về vai trò giới thông qua các nghề nghiệp Nam Nữ Cả 2 giới Môn học Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Thư ký 4 1.2 235 68.7 103 30.1 Nhân viên thư viện 9 2.6 178 52 155 45.3 Cán bộ tổ chức hành 137 40.1 10 2.9 195 57 chính Tài xế 282 82.5 6 1.8 54 15.8 Thợ dệt 9 2.6 241 70.5 92 26.9 Thợ cơ khí 284 83 9 2.6 49 14.3 Kiến trúc sư 183 53.5 4 1.2 155 45.3
  44. 42 Nhà thiết kế trang 15 4.4 178 52 149 43.6 sức Kiểm lâm (khai thác 246 71.9 8 2.3 88 25.7 gỗ và bảo vệ rừng) Phi công, phi hành 209 61.1 7 2 126 36.8 gia Theo bảng số liệu trên ta thấy: * Trong các ngành nghề thuộc lĩnh vực hành chính, nghề “Thư ký” có đến 68.7% số học sinh khảo sát cho rằng chỉ phù hợp với nữ * Trong các ngành nghề thuộc lĩnh vực tiếp xúc với con người, nghề “nhân viên thư viện” có 52% số học sinh khảo sát cho rằng chỉ phù hợp với nữ giới. * Trong các ngành nghề thuộc lĩnh vực kỹ thuật, nghề thợ: - Những nghề có hơn 50% số học sinh khảo sát cho rằng chỉ phù hợp với nam giới: + Tài xế + Thợ cơ khí + Kiến trúc sư - Nghề dệt có đến 70.5% số học sinh khảo sát cho rằng chỉ phù hợp với nữ giới. Điều này giống với định kiến nữ có tính nhẹ nhàng, khéo léo hơn. * Trong các ngành nghề thuộc lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật: - Những nghề có hơn 50% số học sinh được khảo sát cho rằng phù hợp với cả 2 giới:
  45. 43 - Nghề “Thiết kế trang sức” có hơn 50% số học sinh được khảo sát cho rằng chỉ phù hợp với nữ giới. * “Nhà khoa học” có đến 70.2% số học sinh được khảo sát cho rằng phù hợp với cả 2 giới. Tuy nhiên trong số còn lại có đến 28.4% chọn chỉ phù hợp với nam giới. * Đối với các nghề tiếp xúc với thiên nhiên: Chăn nuôi, làm vườn; Kiểm lâm - Có 76% số học sinh được khảo sát cho rằng nghề “Chăn nuôi, làm vườn” phù hợp với cả 2 giới. - Có 71.9% số học sinh được khảo sát cho rằng nghề “Kiểm lâm” chỉ phù hợp với nam giới. Điều này cho thấy phần lớn học sinh cho rằng những người nam có tính mạnh mẽ nên phù hợp với nghề “Kiểm lâm” mang tính chất nặng nhọc này. * Có đến 61.1% số học sinh khảo sát cho rằng nghề “Phi công, phi hành gia” cho rằng chỉ phù hợp với nam giới. Như vậy, đối với các nghề nghiệp trong xã hội, nhận thức về vai trò giới của học sinh vẫn còn định kiến khi cho rằng một số nghề chỉ phù hợp với nam giới cao như các nghề mang tính chất nặng nhọc như thợ cơ khí, tài xế, kiểm lâm, phi công, phi hành gia, và một số nghề mang tính chất nhẹ nhàng, cần sự tỉ mỉ có tỉ lệ cho rằng phù hợp với nữ nhiều hơn như: thợ dệt, thiết kế trang sức,
  46. 44  Nhận thức về vai trò giới trong xã hội qua các nhận định Bảng 2.10 Nhận thức về vai trò giới thông qua nhận định về vai trò giới trong xã hội Đồng ý Phân vân Không đồng ý Nhận định Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Nữ giới chỉ phù hợp với các công việc mang tính chất nhẹ nhàng như: giáo 131 38.3 70 20.5 141 41.2 viên, thư ký, nhân viên văn phòng Nữ giới không nên làm các công việc quản lý hay có tính chất lâu dài do sẽ có 75 21.9 110 32.2 157 45.9 thời gian bị gián đoạn do thiên chức làm mẹ Theo bảng số liệu trên ta thấy: Nhận thức về vai trò giới của học sinh còn được thể hiện qua các nhận định mang định kiến về vai trò của nữ giới, tỉ lệ số học sinh đồng ý và phân vân còn trên 50%. Tương tự với nhận thức về vai trò giới trong nhà trường, nhận thức về vai trò giới trong xã hội của HS THCS cũng đặt ra vấn đề: liệu khi thực hiện khảo sát các vấn đề cụ thể, HS dựa vào tình hình thực tế, còn khi thực hiện khảo sát cho ý kiến về nhận định thì HS dựa theo đúng suy nghĩ của bản thân, hay có sự khác
  47. 45 biệt giữa học sinh đầu cấp THCS và cuối cấp THCS do đặc điểm về tư duy ở lứa tuổi này 2.2.2 Tương quan giữa nhận thức về vai trò giới với giới tính của học sinh THCS tại thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai a. Nhận thức về đặc điểm của từng giới Bảng 2.11 Sự khác biệt trong nhận thức các đặc điểm giữa nam và nữ Đặc điểm Sig 1. Mạnh mẽ, quyết đoán, hiếu động 0.000 4. Tự chủ, thích hợp với phong cách lãnh đạo 0.000 5. Chung thủy 0.014 9. Tháo vát 0.010 10. Tôn trọng người khác 0.040 11. Chịu khó, chăm chỉ 0.006 13. Có tính độc lập, có năng lực cạnh tranh và ra quyết định 0.000 tốt 15. Được đánh giá cao về trí tuệ và sự thành đạt 0.042 Chọn mức ý nghĩa = 0.05 Theo bảng kết quả trên, ta thấy: ở những đặc điểm sau, nhận thức của học sinh nam có khác biệt so với nhận thức của học sinh nữ (do Sig < 0.05):
  48. 46 Bảng 2.12 Nhận thức đặc điểm giới của học sinh nam và học sinh nữ Đặc điểm Giới Nam Nữ Cả 2 giới tính Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Mạnh mẽ, quyết đoán, hiếu Nam 101 62 1 0.6 61 37.4 động Nữ 47 26.3 1 0.6 131 73.2 Tự chủ, thích hợp với Nam 83 50.9 5 3.1 75 46 phong cách lãnh đạo Nữ 45 25.1 6 3.4 128 71.5 Tháo vát Nam 76 46.6 22 13.5 65 39.9 Nữ 55 30.7 29 16.2 95 53.1 Có tính độc lập, có năng Nam 75 46 2 1.2 8 52.8 lực cạnh tranh và ra quyết Nữ 43 24 7 3.9 129 72.1 định tốt Được đánh giá cao về trí Nam 70 42.9 3 1.8 90 50.2 tuệ và sự thành đạt. Nữ 54 30.2 6 3.4 119 66.5 Theo bảng số liệu trên, ta thấy: - Ở các đặc điểm trên, đều có tỉ lệ cho rằng phù hợp với nam cao hơn ở cả 2 nhóm học sinh nam và học sinh nữ. Trong đó, tỉ lệ học sinh nam cho rằng phù hợp với nam cao hơn tỉ lệ học sinh nữ. Sự chênh lệch này có thể do các đặc điểm trên luôn gắn liền với hình mẫu của nam giới. Như vậy, ở các đặc điểm về giới, học sinh nam còn định kiến nhiều hơn so với học sinh nữ.
  49. 47 b. Nhận thức về vai trò giới trong gia đình  Nhận thức về vai trò giới trong gia đình qua các công việc Bảng 2.13 Sự khác biệt trong nhận thức các công việc trong gia đình giữa nam và nữ Công việc Sig Ra quyết định về các hoạt động trong gia đình 0.003 Ra quyết định về cách dạy dỗ con cái 0.007 Chọn mức ý nghĩa = 0.05 Theo bảng kết quả trên, ta thấy: ở những công việc sau, nhận thức của học sinh nam có khác biệt so với nhận thức của học sinh nữ (do Sig < 0.05): Bảng 2.14 Nhận thức các công việc trong gia đình của học sinh nam và học sinh nữ Công việc Giới Nam Nữ Cả 2 giới tính Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Ra quyết định về các hoạt Nam 62 38 16 9.8 85 52.1 động trong gia đình Nữ 40 22.3 14 7.8 125 69.8 Ra quyết định về cách dạy Nam 12 7.4 31 19 120 73.6 dỗ con cái Nữ 3 1.7 23 12.8 153 85.5 Theo bảng số liệu trên, ta thấy: Ở cả 2 công việc trên, số học sinh nam cho rằng phù hợp với cả 2 giới đều thấp hơn số học sinh nữ. Công việc “Ra quyết định về các hoạt động trong gia đình” có tỉ lệ cho rằng phù hợp với nam cao hơn ở cả 2 nhóm học sinh nam và học sinh nữ. Trong đó, tỉ lệ học sinh nam cho rằng phù hợp với nam cao hơn tỉ lệ học sinh nữ. Sự chênh
  50. 48 lệch này có thể do công việc trên luôn gắn liền với hình mẫu của nam giới là trụ cột trong gia đình. Công việc “Ra quyết định về cách dạy dỗ con cái” có tỉ lệ cho rằng phù hợp với nữ cao hơn ở cả 2 nhóm học sinh nam và học sinh nữ. Trong đó, tỉ lệ học sinh nam cho rằng phù hợp với nữ cao hơn tỉ lệ học sinh nữ. Sự chênh lệch này có thể do công việc trên luôn gắn liền với hình mẫu của nữ giới là nuôi dạy con cái.  Nhận thức về vai trò giới trong gia đình qua các nhận định Bảng 2.15 Sự khác biệt trong nhận thức các nhận định về vai trò giới trong gia đình giữa nam và nữ Nhận định Sig 1. Chỉ con trai mới là chỗ dựa vững chắc cho bố mẹ khi về già 0.000 2. Khi chia tài sản cho các con, cha mẹ nên chia tài sản cho 0.004 con trai nhiều hơn con gái 3. Con trai cần được ưu tiên đầu tư việc học hơn con gái 0.002 4. Không thể để phụ nữ làm trụ cột kinh tế vì điều đó sẽ làm 0.000 mất đi hình ảnh về sự dịu dàng, nữ tính Chọn mức ý nghĩa = 0.05 Theo bảng kết quả trên, ta thấy: ở những nhận định sau, nhận thức của học sinh nam có khác biệt so với nhận thức của học sinh nữ (do Sig < 0.05):
  51. 49 Bảng 2.16. Nhận thức các nhận định về vai trò giới trong gia đình của học sinh nam và học sinh nữ Đặc điểm Giới Đồng ý Phân vân Không đồng ý tính Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Chỉ con trai mới là chỗ Nam 18 11 25 15.3 120 73.6 dựa vững chắc cho bố Nữ 5 2.8 14 7.8 160 89.4 mẹ khi về già Khi chia tài sản cho các Nam 9 5.5 24 14.7 130 79.8 con, cha mẹ nên chia Nữ 3 1.7 11 6.1 165 92.2 tài sản cho con trai nhiều hơn con gái Con trai cần được ưu Nam 9 5.5 20 12.3 134 82.2 tiên đầu tư việc học Nữ 1 0.6 10 5.6 168 93.9 hơn con gái Không thể để phụ nữ Nam 51 31.3 54 33.1 58 35.6 làm trụ cột kinh tế vì Nữ 28 15.6 35 19.6 116 64.8 điều đó sẽ làm mất đi hình ảnh về sự dịu dàng, nữ tính Theo bảng số liệu trên, ta thấy: Các nhận định có định kiến trên đều có tỉ lệ số học sinh nam thấp hơn tỉ lệ số học sinh nữ cho rằng “không đồng ý” và các nhận định trên đa số đều nói về sự ưu tiên trong gia đình dành cho nam nhiều hơn nữ. Như vậy, ở các nhận định về
  52. 50 vai trò giới trong gia đình, tỉ lệ học sinh nam vẫn còn định kiến nhiều hơn học sinh nữ về các vấn đề phân công giữa nam và nữ trong gia đình. c. Nhận thức về vai trò giới trong nhà trường  Nhận thức về vai trò giới trong nhà trường qua các chức vụ Bảng 2.17 Sự khác biệt trong nhận thức về vai trò giới các chức vụ trong nhà trường giữa nam và nữ Chức vụ Sig 1. Lớp trưởng 0.024 5. Thủ quỹ 0.000 8. Liên đội phó 0.009 Chọn mức ý nghĩa = 0.05 Theo bảng kết quả trên, ta thấy: ở những chức vụ sau, nhận thức của học sinh nam có khác biệt so với nhận thức của học sinh nữ (do Sig < 0.05): Bảng 2.18. Nhận thức các chức vụ về vai trò giới trong nhà trường của học sinh nam và học sinh nữ Chức vụ Giới Nam Nữ Cả 2 giới tính Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Lớp trưởng Nam 15 9.2 24 14.7 124 76.1 Nữ 6 3.4 18 10.1 155 86.6 Thủ quỹ Nam 18 11 73 44.8 72 44.2 Nữ 2 1.1 97 54.2 80 44.7 Liên đội phó Nam 22 13.5 41 25.2 100 61.3
  53. 51 Nữ 13 7.3 29 16.2 137 76.5 Theo bảng số liệu trên ta thấy: Cả 3 chức vụ trên đều có tỉ lệ học sinh nam thấp hơn học sinh nữ trong việc cho rằng phù hợp với cả 2 giới. Như vậy, ở các chức vụ trong nhà trường, tỉ lệ học sinh nam vẫn còn định kiến nhiều hơn học sinh nữ  Nhận thức về vai trò giới trong nhà trường qua các hoạt động Bảng 2.19 Sự khác biệt trong nhận thức về vai trò giới qua các hoạt động trong nhà trường giữa nam và nữ Hoạt động Sig 5. Bơi lội 0.027 8. Hát 0.006 9. Nhảy (nhảy dân vũ, hiện đại) 0.002 10. Chơi đàn ghita 0.033 Chọn mức ý nghĩa = 0.05 Theo bảng kết quả trên, ta thấy: ở những hoạt động sau, nhận thức của học sinh nam có khác biệt so với nhận thức của học sinh nữ (do Sig < 0.05):
  54. 52 Bảng 2.20 Nhận thức về vai trò giới qua các hoạt động trong nhà trường của học sinh nam và học sinh nữ Hoạt động Giới Nam Nữ Cả 2 giới tính Tần số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ % % % Bơi lội Nam 21 12.9 0 0 142 87.1 Nữ 10 5.6 2 1.1 167 93.3 Hát Nam 7 4.3 40 24.5 116 71.2 Nữ 0 0 33 18.4 146 81.6 Nhảy Nam 10 6.1 33 20.0 120 73.6 Nữ 1 0.6 23 12.8 155 86.6 Chơi đàn ghita Nam 46 28.2 11 6.7 106 65 Nữ 31 17.3 9 5 139 77.7 Theo bảng số liệu trên, ta thấy: - Các hoạt động trên đều có tỉ lệ học sinh nam thấy hơn học sinh nữ trong việc lựa chọn phù họp với cả 2 giới - Các hoạt động: “Hát”; “Nhảy” đều có tỉ lệ cho rằng phù hợp với nữ cao hơn ở cả 2 nhóm học sinh nam và học sinh nữ. Trong đó, tỉ lệ học sinh nam cho rằng phù hợp với nữ cao hơn tỉ lệ học sinh nữ. Sự chêch lệch này có thể do các hoạt động trên gắn với hình mẫu của nữ giới. - Các hoạt động: “Bơi lội”; “Chơi đàn ghita” đều có tỉ lệ cho rằng phù hợp với nam cao hơn ở cả 2 nhóm học sinh nam và học sinh nữ. Trong đó, tỉ lệ học sinh
  55. 53 nam cho rằng phù hợp với nam cao hơn tỉ lệ học sinh nữ. Sự chêch lệch này có thể do các hoạt động trên gắn với hình mẫu của nam giới với sự mạnh mẽ, lòng can đảm. Như vậy, ở các hoạt động trong trường học, học sinh nam vẫn còn nhiều định kiến hơn học sinh nữ.  Nhận thức về vai trò giới trong nhà trường qua các môn học Bảng 2.21 Sự khác biệt trong nhận thức về vai trò giới qua các môn học trong nhà trường giữa nam và nữ Môn học Sig 5. Công nghệ: Cắt may, nấu ăn 0.037 Chọn mức ý nghĩa = 0.05 Theo bảng kết quả trên, ta thấy: ở môn học: Công nghệ: Cắt may, nấu ăn, nhận thức của học sinh nam có khác biệt so với nhận thức của học sinh nữ (do Sig < 0.05): Bảng 2.22 Tần số về nhận thức về vai trò giới qua các môn học trong nhà trường của học sinh nam và học sinh nữ Môn học Giới Nam Nữ Cả 2 giới tính Tần số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ % % % Công nghệ: Cắt may, nấu ăn Nam 3 1.8 110 67.5 50 30.7 Nữ 1 0.6 142 79.3 36 20.1 Theo bảng số liệu trên ta thấy, ở môn học công nghệ: cắt may, nấu ăn tỉ lệ học sinh nam cao hơn học sinh nữ trong việc cho rằng phù hợp với cả 2 giới.
  56. 54 Môn học công nghệ: cắt may, nấu ăn đều có tỉ lệ cho rằng phù hợp với nữ cao hơn ở cả 2 nhóm học sinh nam và học sinh nữ. Trong đó, tỉ lệ học sinh nam cho rằng phù hợp với nữ ít hơn tỉ lệ học sinh nữ. Sự chêch lệch này có thể do tính chất của việc cắt may, nấu trên gắn với hình mẫu của nữ giới với sự khéo léo, đảm đang. Như vậy, ở môn học này, học sinh nữ vẫn còn định kiến nhiều hơn so với học sinh nam.  Nhận thức về vai trò giới trong nhà trường qua các nhận định Bảng 2.23 Sự khác biệt trong nhận thức về vai trò giới qua các nhận định trong nhà trường giữa nam và nữ Nhận định Sig 1. Học sinh nam nên tập trung, phát triển, đầu tư học các môn 0.000 tự nhiên 2. Học sinh nữ nên tập trung, phát triển, đầu tư học các môn xã 0.000 hội và các môn năng khiếu như: Đàn, hát, 3. Các môn: âm nhạc, mỹ thuật chỉ dành cho nữ nên nam không 0.030 cần học điểm cao 4. Học sinh nam phải có kết quả học tập loại giỏi, thành tích 0.003 phải cao 6. Học sinh nam phù hợp hơn với các chức vụ đứng đầu như: 0.000 Lớp trưởng, liên đội trưởng 7. Học sinh nữ thường phù hợp với các chức phó hơn, không 0.000 thể làm được chức trưởng vì dễ bị bắt nạt
  57. 55 10. Cả nam và nữ đều có thể làm lớp trưởng 0.016 Chọn mức ý nghĩa = 0.05 Theo bảng kết quả trên, ta thấy: ở những nhận định sau, nhận thức của học sinh nam có khác biệt so với nhận thức của học sinh nữ (do Sig < 0.05): Bảng 2.24 Tần số về nhận thức về vai trò giới qua các môn học trong nhà trường của học sinh nam và học sinh nữ Đặc điểm Giới Đồng ý Phân vân Không đồng tính ý Tần Tỉ lệ Tần Tỉ lệ Tần Tỉ lệ số % số % số % Học sinh nam nên tập trung, phát Nam 79 48.5 47 28.8 37 22.7 triển, đầu tư học các môn tự Nữ 43 24 64 35.8 72 40.2 nhiên Học sinh nữ nên tập trung, phát Nam 92 56.4 37 22.7 34 20.9 triển, đầu tư học các môn xã hội Nữ 63 35.2 47 26.3 69 38.5 và các môn năng khiếu như: Đàn, hát, Các môn: âm nhạc, mỹ thuật chỉ Nam 16 9.8 24 14.7 123 75.5 dành cho nữ nên nam không cần Nữ 9 5 15 8.4 155 86.6 học điểm cao Học sinh nam phải có kết quả học Nam 67 41.1 42 25.8 54 33.1 tập loại giỏi, thành tích phải cao Nữ 44 24.6 51 28.5 84 46.9
  58. 56 Học sinh nam phù hợp hơn với Nam 32 19.6 46 28.2 85 52.1 các chức vụ đứng đầu như: Lớp Nữ 12 6.7 34 19 133 74.3 trưởng, liên đội trưởng Học sinh nữ thường phù hợp với Nam 27 16.6 42 25.8 94 57.7 các chức phó hơn, không thể làm Nữ 12 6.7 27 15.1 140 78.2 được chức trưởng vì dễ bị bắt nạt Cả nam và nữ đều có thể làm lớp Nam 140 85.9 8 4.9 15 9.2 trưởng Nữ 168 93.3 1 0.6 10 5.6 Theo bảng số liệu trên, ta thấy: - Các nhận định có tỉ lệ học sinh nam “không đồng ý” thấp hơn tỉ lệ của học sinh nữ: + Học sinh nam nên tập trung, phát triển, đầu tư học các môn tự nhiên + Học sinh nữ nên tập trung, phát triển, đầu tư học các môn xã hội và các môn năng khiếu như: Đàn, hát, + Các môn: âm nhạc, mỹ thuật chỉ dành cho nữ nên nam không cần học điểm cao + Học sinh nam phải có kết quả học tập loại giỏi, thành tích phải cao + Học sinh nam phù hợp hơn với các chức vụ đứng đầu như: Lớp trưởng, liên đội trưởng + Học sinh nữ thường phù hợp với các chức phó hơn, không thể làm được chức trưởng vì dễ bị bắt nạt - Nhận định có tỉ lệ học sinh nam “Đồng ý” cao hơn tỉ lệ của học sinh nữ: + Cả nam và nữ đều có thể làm lớp trưởng
  59. 57 Như vậy, ở phần nhận định này, học sinh nam còn nhiều định kiến hơn học sinh nữ ở các nhận định về: các môn học, các chức vụ ứng với các định kiến vị trí “nam trưởng, nữ phó” d. Nhận thức về vai trò giới trong xã hội  Nhận thức về giới trong xã hội qua các nghề nghiệp Bảng 2.25 Sự khác biệt trong nhận thức về vai trò giới qua các nghề nghiệp trong nhà trường giữa nam và nữ Nghề nghiệp Sig 1. Nhân viên văn phòng 0.013 6. Bác sĩ 0.035 10. Cán bộ tổ chức hành chính 0.004 12. Tài xế 0.004 15. Kiến trúc sư 0.008 23. Nhà thiết kế trang sức 0.048 24. Nhà khoa học 0.020 25. Chăn nuôi, làm vườn 0.043 Chọn mức ý nghĩa = 0.05 Theo bảng kết quả trên, ta thấy: ở những nghề sau, nhận thức của học sinh nam có khác biệt so với nhận thức của học sinh nữ (do Sig < 0.05)
  60. 58 Bảng 2.26 Nhận thức về vai trò giới qua các nghề nghiệp trong xã hội của học sinh nam và học sinh nữ Nghề nghiệp Giới Nam Nữ Cả 2 giới tính Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Bác sĩ Nam 40 24.5 1 0.6 122 74.8 Nữ 26 14.5 0 0 153 85.5 Cán bộ tổ chức hành chính Nam 72 44.2 9 5.5 82 50.3 Nữ 65 36.3 1 0.6 133 63.1 Tài xế Nam 123 75.5 5 3.1 35 21.5 Nữ 159 88.8 1 0.6 19 10.6 Kiến trúc sư Nam 100 61.3 3 1.8 60 36.8 Nữ 84 46.4 1 0.6 90 53.1 Nhà thiết kế trang sức Nam 9 5.5 94 57.5 60 36.8 Nữ 6 3.4 84 46.9 89 49.7 Nhà khoa học Nam 57 35 1 0.6 105 64.4 Nữ 40 22.3 4 2.2 135 75.4 Theo bảng số liệu trên, ta thấy: - Ở các nghề nghiệp: “Bác sĩ”; “Cán bộ tổ chức hành chính”; “Tài xế”; “Kiến trúc sư”;”Nhà khoa học” đều có tỉ lệ đều có tỉ lệ cho rằng phù hợp với nam cao hơn phù hợp với nữ giới ở cả 2 nhóm học sinh nam và học sinh nữ. Sự chênh
  61. 59 lệch này có thể do các nghề nghiệp trên luôn gắn liền với hình mẫu của nam giới với sự mạnh mẽ, can đảm, phù hợp với các công việc mang tính nặng nhọc hơn. - Nghề “Thiết kế trang sức” có tỉ lệ cho rằng phù hợp với nữ giới cao hơn phù hợp với nam giới ở cả 2 nhóm học sinh nam và học sinh nữ. Sự chênh lệch này có thể do nghề nghiệp này đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ và những đặc điểm này thường gắn với nữ giới.  Nhận thức về vai trò giới trong xã hội qua các nhận định Bảng 2.27 Sự khác biệt trong nhận thức về vai trò giới qua các nghề nghiệp trong xã hội giữa nam và nữ Nhận định Sig 1. Các công việc quản lý, lãnh đạo chỉ phù hợp với nam giới 0.000 2. Nữ giới chỉ phù hợp với các công việc mang tính chất nhẹ 0.000 nhàng như: giáo viên, thư ký, nhân viên văn phòng 3. Nam giới không thể làm những công việc đòi hỏi sự khéo 0.017 léo, tỉ mỉ như: thợ may, dệt, thêu, 4. Nữ giới không nên làm các công việc quản lý hay có tính 0.001 chất lâu dài do sẽ có thời gian bị gián đoạn do thiên chức làm mẹ 5. Cả nam và nữ đều có thể đảm nhận và làm tốt mọi công 0.000 việc, nghề nghiệp nếu yêu thích: Nữ hoàn toàn thích hợp để làm lãnh đạo, kỹ sư, nam có thể tham gia vào các công việc như nấu ăn, may mặc, Chọn mức ý nghĩa = 0.05
  62. 60 Theo bảng kết quả trên, ta thấy: ở những nghề sau, nhận thức của học sinh nam có khác biệt so với nhận thức của học sinh nữ (do Sig < 0.05): Bảng 2.28 Tần số về nhận thức về vai trò giới qua các nhận định mang tính định kiến trong xã hội của học sinh nam và học sinh nữ Giới Đồng ý Phân vân Không đồng ý Nhận định tính Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Các công việc quản Nam 46 28.2 37 22.7 80 49.1 lý, lãnh đạo chỉ phù Nữ 13 7.3 26 14.5 140 78.2 hợp với nam giới Nữ giới chỉ phù hợp Nam 76 46.6 39 23.9 48 29.4 với các công việc Nữ 55 30.7 31 17.3 93 52 mang tính chất nhẹ nhàng như: giáo viên, thư ký, nhân viên văn phòng Nam giới không thể Nam 40 24.5 40 24.5 83 50.9 làm những công việc Nữ 28 15.6 33 18.4 118 65.9 đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ như: thợ may, dệt, thêu, Nữ giới không nên Nam 47 28.8 57 35 59 36.2 làm các công việc Nữ 28 15.6 53 29.6 98 54.7 quản lý hay có tính chất lâu dài do sẽ có
  63. 61 thời gian bị gián đoạn do thiên chức làm mẹ Theo bảng số liệu trên ta thấy: - Các nhận định mang tính định kiến trên đều có tỉ lệ học sinh nam “Không đồng ý” thấp hơn tỉ lệ ở học sinh nữ. - Ở các nhận định sau: + Nữ giới chỉ phù hợp với các công việc mang tính chất nhẹ nhàng như: giáo viên, thư ký, nhân viên văn phòng + Nữ giới không nên làm các công việc quản lý hay có tính chất lâu dài do sẽ có thời gian bị gián đoạn do thiên chức làm mẹ Đều có tỉ lệ học sinh nam và học sinh nữ chọn “không đồng ý” thấp hơn so với 2 nhận định còn lại. Trong đó, có dưới 50% số học sinh nam chọn “không đồng ý”. Như vậy, ở những nhận định có mang định kiến về vai trò giới trong xã hội, học sinh nam vẫn còn định kiến nhiều hơn so với học sinh nữ, đặc biệt là ở các nhận định về các công việc, vai trò của nữ giới trong xã hội, có thể do những định kiến trên gắn liền với các hình mẫu giới của nữ và đặc điểm là có gắn với thiên chức làm mẹ của người phụ nữ.
  64. 62 Bảng 2.29 Nhận thức về vai trò giới qua các nhận định không mang tính định kiến trong xã hội Nhận định Giới Đồng ý Phân vân Không đồng ý tính Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Cả nam và nữ đều Nam 118 72.4 29 17.8 16 9.8 có thể đảm nhận Nữ 153 85.5 8 4.5 18 10.1 và làm tốt mọi công việc, nghề nghiệp nếu yêu thích: Nữ hoàn toàn thích hợp để làm lãnh đạo, kỹ sư, nam có thể tham gia vào các công việc như nấu ăn, may mặc, Theo bảng số liệu trên, ta thấy: - Nhận định không mang định kiến trên có tỉ lệ số học sinh nam “Đồng ý” thấp hơn tỉ lệ của học sinh nữ. Trong số còn lại thì tỉ lệ học sinh nam “Phân vân” nhiều hơn so với tỉ lệ của học sinh nữ. Như vậy, với nhận định trên, số học sinh nam có định kiến vẫn còn nhiều hơn số học sinh nữ có thể do các công việc đã được định theo khuôn mẫu từng giới: nam phù hợp với các công việc có tính chất nặng nhọc hơn nữ, không thể có sự khéo léo, tỉ mỉ bằng nữ giới.
  65. 63 2.2.3. Tương quan giữa nhận thức về vai trò giới và học vấn của bố mẹ, người nuôi dưỡng a. Nhận thức về đặc điểm giới Kiểm nghiệm Anova: Bảng 2.30 Sự khác biệt trong nhận thức về vai trò giới qua các đặc điểm giữa các nhóm học vấn của bố mẹ, người nuôi dưỡng Đặc điểm Sig 11. Chịu khó, chăm chỉ 0.037 Chọn mức ý nghĩa = 0.05 Theo bảng kết quả trên, ta thấy: ở những đặc điểm: “Chịu khó, chăm chỉ”, nhận thức của học sinh của 3 nhóm học vấn của bố mẹ có sự khác biệt (do Sig 0.05: Bảng 2.31 Tần số về nhận thức về vai trò giới qua các đặc điểm của các nhóm học vấn của bố mẹ Đặc điểm Học vấn của Nam Nữ Cả 2 giới bố mẹ Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Chịu khó, chăm chỉ Dưới phổ thông 6 4.9 33 27 83 68 Trên phổ thông 1 1 17 16.7 84 82.4
  66. 64 Theo bảng số liệu trên ta thấy: Tỉ lệ học sinh của nhóm trình độ học vấn bố mẹ “Dưới phổ thông” cho rằng đặc điểm trên phù hợp với cả 2 giới thấp hơn so với tỉ lệ của học sinh nhóm trình độ học vấn của bố mẹ “Trên phổ thông”. Trong số tỉ lệ còn lại thì tỉ lệ cho rằng đặc điểm này chỉ phù hợp với nữ đều cao hơn tỉ lệ cho rằng chỉ phù hợp với nam ở cả 2 nhóm và tỉ lệ của học sinh nhóm học vấn của bố mẹ dưới phổ thông cho rằng phù hợp với nữ cao hơn tỉ lệ của học sinh nhóm trình độ học vấn của bố mẹ trên phổ thông. Như vậy đối với nhận thức của nhóm học vấn trên thì học vấn của học sinh nhóm học vấn của bố mẹ dưới phổ thông có nhiều định kiến hơn. b. Nhận thức về vai trò giới trong gia đình  Nhận thức về vai trò giới trong gia đình qua các công việc Bảng 2.32 Sự khác biệt trong nhận thức về vai trò giới qua các công việc trong gia đình giữa các nhóm học vấn của bố mẹ, người nuôi dưỡng Công việc Sig 2. Công việc nội trợ: Đi chợ, nấu ăn, giặt giũ, chăm sóc gia 0.016 đình 4. Sửa chữa các thiết bị, vật dụng trong gia đình 0.000 Chọn mức ý nghĩa = 0.05 Theo bảng kết quả trên, ta thấy: ở những công việc sau, nhận thức của học sinh của 3 nhóm học vấn của bố mẹ có sự khác biệt (do Sig < 0.05):
  67. 65 Bảng 2.33 Tần số về nhận thức về vai trò giới qua các công việc trong gia đình của các nhóm học vấn của bố mẹ Công việc Học vấn của bố Nam Nữ Cả 2 giới mẹ Tần số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ % % % Công việc nội trợ: Đi Dưới phổ thông 0 0 68 55.7 54 44.3 chợ, nấu ăn, giặt giũ, Phổ thông 12/12 2 1.7 70 59.3 46 39 chăm sóc gia đình Trên phổ thông 0 0 44 43.1 58 56.9 Sửa chữa các thiết Dưới phổ thông 114 93.4 0 0 8 6.6 bị, vật dụng trong Phổ thông 12/12 107 90.7 3 2.5 8 6.8 gia đình Trên phổ thông 77 75.5 1 1 24 23.5 Dùng kiểm nghiệm Bonferroni: - Công việc nội trợ: Đi chợ, nấu ăn, giặt giũ, chăm sóc gia đình có sự khác biệt về nhận thức của giữa học sinh nhóm trình độ học vấn của bố mẹ “phổ thông 12/12” và “Trên phổ thông” do sig = 0.013: + Ở 2 nhóm học sinh trên, ta thấy tỉ lệ học sinh nhóm trình độ học vấn của bố mẹ “Phổ thông 12/12” cho rằng phù hợp với cả 2 giới thấp hơn tỉ lệ của nhóm học vấn bố mẹ “Trên phổ thông”. + Tỉ lệ học sinh cho rằng công việc trên chỉ phù hợp với nữ của cả 2 nhóm đều cao. Tuy nhiên tỉ lệ học sinh của nhóm học vấn bố mẹ “Phổ thông 12/12” cao hơn tỉ lệ của nhóm còn lại.
  68. 66 Như vậy, đối với “Công việc nội trợ: Đi chợ, nấu ăn, giặt giũ, chăm sóc gia đình”, nhận thức của nhóm học sinh có trình độ học vấn của bố mẹ “Phổ thông 12/12” còn nhiều định kiến hơn so với nhóm “Trên phổ thông” - Công việc “Sửa chữa các thiết bị, vật dụng trong gia đình” có sự khác biệt về nhận thức của nhóm học sinh có trình độ học vấn của bố mẹ “Trên phổ thông” đối với 2 nhóm còn lại ( do sig < 0.05), cụ thể như sau: + Đối với nhóm HS có trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” và”Phổ thông 12/12”, tỉ lệ HS nhóm trình độ học vấn của bố mẹ “Trên phổ thông” cho rằng công việc trên phù hợp với cả 2 giới đều cao hơn. + Ở công việc này, tỉ lệ học sinh cho rằng phù hợp với nam giới đều cao hơn tỉ lệ cho rằng phù hợp với nữ giới ở cả 3 nhóm. Tuy nhiên, tỉ lệ học sinh nhóm trình độ học vấn của bố mẹ “Trên phổ thông” cho rằng chỉ phù hợp với nam thấp hơn so với tỉ lệ của 2 nhóm còn lại. Như vậy, ở công việc sửa chữa các thiết bị, vật dụng trong gia đình, nhóm HS có trình độ học vấn của bố mẹ “Trên phổ thông” ít định kiến hơn so với 2 nhóm học sinh còn lại  Nhận thức về vai trò giới trong gia đình qua các nhận định Bảng 2.34 Sự khác biệt trong nhận thức về vai trò giới qua các nhận định trong gia đình giữa các nhóm học vấn của bố mẹ, người nuôi dưỡng Nhận định Sig Chỉ con trai mới là chỗ dựa vững chắc cho bố mẹ khi về già 0.003 Không thể để phụ nữ làm trụ cột kinh tế vì điều đó sẽ làm mất 0.001 đi hình ảnh về sự dịu dàng, nữ tính Chọn mức ý nghĩa = 0.05
  69. 67 Theo bảng kết quả trên, ta thấy: ở những nhận định sau, nhận thức của học sinh của 3 nhóm học vấn của bố mẹ có sự khác biệt (do Sig < 0.05): Bảng 2.35 Tần số về nhận thức về vai trò giới qua các công việc trong gia đình của các nhóm học vấn của bố mẹ Nhận định Học vấn của bố Đồng ý Phân vân Không đồng mẹ ý Tần số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ Tần Tỉ lệ % % số % Chỉ con trai mới là Dưới phổ thông 10 8.2 19 15.6 93 76.2 chỗ dựa vững chắc Phổ thông 12/12 12 10.2 13 11 93 78.8 cho bố mẹ khi về già Trên phổ thông 1 1 7 6.9 94 92.2 Không thể để phụ nữ Dưới phổ thông 38 31.1 36 29.6 48 39.3 làm trụ cột kinh tế vì Phổ thông 12/12 27 22.9 29 24.6 62 52.5 điều đó sẽ làm mất Trên phổ thông 14 13.7 24 23.5 64 62.7 đi hình ảnh về sự dịu dàng, nữ tính Dùng kiểm nghiệm Bonferroni: - Nhận định: “Chỉ con trai mới là chỗ dựa vững chắc cho bố mẹ khi về già” có sự khác biệt về nhận thức của nhóm học sinh có trình độ học vấn của bố mẹ “Trên phổ thông” đối với 2 nhóm còn lại ( do sig < 0.05), cụ thể như sau: + Ở nhận định này, tỉ lệ học sinh nhóm học vấn của bố mẹ “Trên phổ thông” không đồng ý với nhận định cao hơn tỉ lệ học sinh không đồng ý của 2 nhóm còn lại.
  70. 68 Như vậy, ở nhận định này, học sinh của nhóm học vấn bố mẹ “Trên phổ thông” có ít định kiến hơn so với 2 nhóm còn lại. - Nhận định: “Không thể để phụ nữ làm trụ cột kinh tế vì điều đó sẽ làm mất đi hình ảnh về sự dịu dàng, nữ tính” có sự khác biệt về nhận thức giữa 2 nhóm học vấn của bố mẹ “Trên phổ thông” và “Dưới phổ thông” (Do sig <0.03): + Tỉ lệ học sinh nhóm học vấn của bố mẹ “Trên phổ thông” không đồng ý với nhận định cao hơn tỉ lệ học sinh không đồng ý của nhóm học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông”. Như vậy, ở nhận định này, học sinh có học vấn của bố mẹ “Trên phổ thông” có ít định kiến hơn học sinh có học vấn bố mẹ “Dưới phổ thông” c. Nhận thức về vai trò giới trong nhà trường  Nhận thức về vai trò giới trong nhà trường qua các chức vụ Bảng 2.36 Sự khác biệt trong nhận thức về vai trò giới qua các chức vụ trong nhà trường giữa các nhóm học vấn của bố mẹ, người nuôi dưỡng Chức vụ Sig 3. Lớp phó văn thể mỹ 0.005 5. Thủ quỹ 0.025 6. Sao đỏ 0.033 7. Liên đội trưởng 0.044 Chọn mức ý nghĩa = 0.05 Theo bảng kết quả trên, ta thấy: ở những chức vụ sau, nhận thức của học sinh của 3 nhóm học vấn của bố mẹ có sự khác biệt (do Sig < 0.05):
  71. 69 Bảng 2.37 Tần số về nhận thức về vai trò giới qua chức vụ trong nhà trường của các nhóm học vấn của bố mẹ Chức vụ Học vấn của bố Nam Nữ Cả 2 giới mẹ Tần số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ % % % Lớp phó văn thể mỹ Dưới phổ thông 6 4.9 94 77 22 18 Phổ thông 12/12 3 2.5 93 78.8 22 18.6 Trên phổ thông 2 2 65 63.7 35 34.3 Thủ quỹ Dưới phổ thông 11 9 61 50 50 41 Phổ thông 12/12 7 5.9 64 54.2 47 39.8 Trên phổ thông 2 2 45 44.1 55 53.9 Sao đỏ Dưới phổ thông 20 16.4 11 9 91 74.6 Phổ thông 12/12 11 9.3 16 13.6 91 77.1 Trên phổ thông 7 6.9 5 4.9 90 88.2 Liên đội trưởng Dưới phổ thông 17 13.9 31 25.4 74 60.7 Phổ thông 12/12 11 9.3 20 23.7 79 66.9 Trên phổ thông 10 9.8 11 10.8 81 79.4 Kiểm định Bonferroni: - Chức vụ “Lớp phó văn thể mỹ” có sự khác biệt về nhận thức của học sinh nhóm học vấn của bố mẹ “Trên phổ thông” đối với 2 nhóm còn lại (do sig < 0.05), cụ thể như sau:
  72. 70 + Đối với nhóm HS có trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” và”Phổ thông 12/12”, tỉ lệ HS nhóm trình độ học vấn của bố mẹ “Trên phổ thông” cho rằng chức vụ trên phù hợp với cả 2 giới đều cao hơn. + Ở chức vụ này, tỉ lệ học sinh cho rằng phù hợp với nữ giới đều cao hơn tỉ lệ cho rằng phù hợp với nam giới ở cả 3 nhóm. Tuy nhiên, tỉ lệ học sinh nhóm trình độ học vấn của bố mẹ “Trên phổ thông” cho rằng chỉ phù hợp với nữ thấp hơn so với tỉ lệ của 2 nhóm còn lại. Như vậy, ở chức vụ “Lớp phó văn thể mỹ”, nhóm HS có trình độ học vấn của bố mẹ “Trên phổ thông” ít định kiến hơn so với 2 nhóm học sinh còn lại. - Chức vụ “thủ quỹ” có sự khác biệt về nhận thức của giữa học sinh nhóm trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” và “Trên phổ thông” do sig < 0.05: + Ở 2 nhóm học sinh trên, ta thấy tỉ lệ học sinh nhóm trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” cho rằng phù hợp với cả 2 giới thấp hơn tỉ lệ của nhóm học vấn bố mẹ “Trên phổ thông”. + Tỉ lệ học sinh cho rằng chức vụ trên chỉ phù hợp với nữ của cả 2 nhóm đều cao. Tuy nhiên tỉ lệ học sinh của nhóm học vấn bố mẹ “Dưới phổ thông” cao hơn tỉ lệ của nhóm còn lại. Như vậy, đối với chức vụ “Thủ quỹ”, nhận thức của nhóm học sinh có trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” còn nhiều định kiến hơn so với nhóm “Trên phổ thông” - Chức vụ “Sao đỏ” có sự khác biệt về nhận thức của giữa học sinh nhóm trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” và “Trên phổ thông” do sig < 0.05: + Ở 2 nhóm học sinh trên, ta thấy tỉ lệ học sinh nhóm trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” cho rằng phù hợp với cả 2 giới thấp hơn tỉ lệ của nhóm học vấn bố mẹ “Trên phổ thông”.
  73. 71 Như vậy, đối với chức vụ “Sao đỏ”, nhận thức của nhóm học sinh có trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” còn nhiều định kiến hơn so với nhóm “Trên phổ thông” - Chức vụ “Liên đội trưởng” có sự khác biệt về nhận thức của giữa học sinh nhóm trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” và “Trên phổ thông” do sig < 0.05: + Ở 2 nhóm học sinh trên, ta thấy tỉ lệ học sinh nhóm trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” cho rằng phù hợp với cả 2 giới thấp hơn tỉ lệ của nhóm học vấn bố mẹ “Trên phổ thông”. Như vậy, đối với chức vụ “Liên đội trưởng”, nhận thức của nhóm học sinh có trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” còn nhiều định kiến hơn so với nhóm “Trên phổ thông”  Nhận thức về vai trò giới trong nhà trường qua các hoạt động Bảng 2.38 Sự khác biệt trong nhận thức về vai trò giới qua các hoạt động trong nhà trường giữa các nhóm học vấn của bố mẹ, người nuôi dưỡng Hoạt động Sig 1. Bóng đá 0.030 4. Nhảy dây 0.028 5. Bơi lội 0.000 Chọn mức ý nghĩa = 0.05 Theo bảng kết quả trên, ta thấy: ở những hoạt động sau, nhận thức của học sinh của 3 nhóm học vấn của bố mẹ có sự khác biệt (do Sig < 0.05):
  74. 72 Bảng 2.39 Tần số về nhận thức về vai trò giới qua hoạt động trong nhà trường của các nhóm học vấn của bố mẹ Hoạt động Học vấn của bố Nam Nữ Cả 2 giới mẹ Tần số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ % % % Bóng đá Dưới phổ thông 78 63.9 1 0.8 43 35.2 Phổ thông 12/12 58 49.2 0 0 60 50.8 Trên phổ thông 51 50 0 0 51 50 Nhảy dây Dưới phổ thông 2 1.6 88 72.1 32 26.2 Phổ thông 12/12 2 1.7 84 71.4 32 27.1 Trên phổ thông 0 0 61 59.8 41 40.2 Bơi lội Dưới phổ thông 21 17.2 1 0.8 100 82 Phổ thông 12/12 6 5.1 1 0.8 111 94.1 Trên phổ thông 4 3.9 0 0 98 96.1 Kiểm nghiệm Bonferroni: - Hoạt động “Bóng đá” chỉ có sự khác biệt về nhận thức giữa ba nhóm trình độ học vấn của bố mẹ. - Hoạt động “Nhảy dây” có sự khác biệt về nhận thức của giữa học sinh nhóm trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” và “Trên phổ thông” do sig < 0.05:
  75. 73 + Ở 2 nhóm học sinh trên, ta thấy tỉ lệ học sinh nhóm trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” cho rằng phù hợp với cả 2 giới thấp hơn tỉ lệ của nhóm học vấn bố mẹ “Trên phổ thông”. + Tỉ lệ học sinh cho rằng hoạt động trên chỉ phù hợp với nữ của cả 2 nhóm đều cao. Tuy nhiên tỉ lệ học sinh của nhóm học vấn bố mẹ “Dưới phổ thông” cao hơn tỉ lệ của nhóm còn lại. Như vậy, đối với hoạt động “Nhảy dây”, nhận thức của nhóm học sinh có trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” còn nhiều định kiến hơn so với nhóm “Trên phổ thông”. - Hoạt động “Bơi lội” có sự khác biệt về nhận thức giữa học sinh có trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” với 2 nhóm còn lại (do sig < 0.05), cụ thể như sau: + Đối với nhóm HS có trình độ học vấn của bố mẹ “Trên phổ thông” và “Phổ thông 12/12”, tỉ lệ HS nhóm trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” cho rằng chức vụ trên phù hợp với cả 2 giới đều thấp hơn. + Ở hoạt động này, tỉ lệ học sinh cho rằng phù hợp với nam giới đều cao hơn tỉ lệ cho rằng phù hợp với nữ giới ở cả 3 nhóm. Tuy nhiên, tỉ lệ học sinh nhóm trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” cho rằng chỉ phù hợp với nam cao hơn so với tỉ lệ của 2 nhóm còn lại. Như vậy, ở hoạt động “Bơi lội”, nhóm HS có trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” có nhiều định kiến hơn so với 2 nhóm học sinh còn lại.
  76. 74  Nhận thức về vai trò giới trong nhà trường qua các môn học Bảng 2.40 Sự khác biệt trong nhận thức về vai trò giới qua các môn học trong nhà trường giữa các nhóm học vấn của bố mẹ, người nuôi dưỡng Môn học Sig 6. Công nghệ: Kỹ thuật điện 0.014 Chọn mức ý nghĩa = 0.05 Theo bảng kết quả trên, ta thấy: ở môn học Công nghệ: Kỹ thuật điện, nhận thức của học sinh của 3 nhóm học vấn của bố mẹ có sự khác biệt (do Sig < 0.05): Bảng 2.41 Nhận thức về vai trò giới qua môn học trong nhà trường của các nhóm học vấn của bố mẹ Môn học Học vấn của bố Nam Nữ Cả 2 giới mẹ Tần số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ % % % Công nghệ: Kỹ thuật Dưới phổ thông 107 87.7 2 1.6 13 10.7 điện Phổ thông 12/12 96 81.4 0 0 22 18.6 Trên phổ thông 74 72.5 2 2 26 25.5 Kiểm nghiệm Bonferroni: - Môn học “Công nghệ: kỹ thuật điện” có sự khác biệt về nhận thức của giữa học sinh nhóm trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” và “Trên phổ thông” do sig < 0.05: + Ở 2 nhóm học sinh trên, ta thấy tỉ lệ học sinh nhóm trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” cho rằng phù hợp với cả 2 giới thấp hơn tỉ lệ của nhóm học vấn bố mẹ “Trên phổ thông”.
  77. 75 + Tỉ lệ học sinh cho rằng môn học trên chỉ phù hợp với nữ của cả 2 nhóm đều cao. Tuy nhiên tỉ lệ học sinh của nhóm học vấn bố mẹ “Dưới phổ thông” cao hơn tỉ lệ của nhóm còn lại. Như vậy, đối với môn học Công nghệ: kỹ thuật điện, nhận thức của nhóm học sinh có trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” còn nhiều định kiến hơn so với nhóm “Trên phổ thông”.  Nhận thức về vai trò giới trong nhà trường qua các nhận định Bảng 2.42 Sự khác biệt trong nhận thức về vai trò giới qua các nhận định trong nhà trường giữa các nhóm học vấn của bố mẹ, người nuôi dưỡng Nhận định Sig 1. Học sinh nam nên tập trung, phát triển, đầu tư học các môn 0.008 tự nhiên 2. Học sinh nữ nên tập trung, phát triển, đầu tư học các môn 0.000 xã hội và các môn năng khiếu như: Đàn, hát, 3. Các môn: âm nhạc, mỹ thuật chỉ dành cho nữ nên nam 0.036 không cần học điểm cao 7. Học sinh nữ thường phù hợp với các chức phó hơn, không 0.016 thể làm được chức trưởng vì dễ bị bắt nạt Chọn mức ý nghĩa = 0.05 Theo bảng kết quả trên, ta thấy: ở những nhận định sau, nhận thức của học sinh của 3 nhóm học vấn của bố mẹ có sự khác biệt (do Sig < 0.05):
  78. 76 Bảng 2.43 Nhận thức về vai trò giới qua môn học trong nhà trường của các nhóm học vấn của bố mẹ Nhận định Học vấn Đồng ý Phân vân Không đồng ý của bố Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % Tần số Tỉ lệ % mẹ Học sinh nam Dưới phổ 53 43.4 42 34.4 27 22.1 nên tập trung, thông phát triển, đầu tư Phổ 35 29.7 35 29.7 48 40.7 học các môn tự thông nhiên 12/12 Học sinh nữ nên Dưới phổ 73 59.8 28 23 21 17.2 tập trung, phát thông triển, đầu tư học Phổ 54 45.8 22 18.6 42 35.6 các môn xã hội thông và các môn năng 12/12 khiếu như: Đàn, Trên phổ 28 27.5 34 33.3 40 39.2 hát, thông Học sinh nữ Dưới phổ 15 12.3 31 25.4 76 62.3 không cần phải thông học quá giỏi. xếp Trên phổ 5 4.9 11 10.8 86 84.3 hạng cao, chỉ cần thông xếp loại khá là được
  79. 77 Học sinh nữ Dưới phổ 20 16.4 28 23 74 60.7 thường phù hợp thông với các chức phó Trên phổ 6 5.9 18 17.6 78 76.5 hơn, không thể thông làm được chức trưởng vì dễ bị bắt nạt Kiểm nghiệm Bonferroni: - Nhận định “Học sinh nam nên tập trung, phát triển, đầu tư học các môn tự nhiên” có sự khác biệt về nhận thức giữa 2 nhóm học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” và “Phổ thông 12/12” (Do sig <0.05): + Tỉ lệ học sinh nhóm học vấn của bố mẹ “Phổ thông 12/12” không đồng ý với nhận định cao hơn tỉ lệ học sinh không đồng ý của nhóm học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông”. Như vậy, ở nhận định này, học sinh có học vấn của bố mẹ “phổ thông 12/12” có ít định kiến hơn học sinh có học vấn bố mẹ “Dưới phổ thông” - Nhận định “Học sinh nữ nên tập trung, phát triển, đầu tư học các môn xã hội và các môn năng khiếu như: Đàn, hát, ” có sự khác biệt về nhận thức của nhóm học sinh có trình độ học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” đối với 2 nhóm còn lại ( do sig < 0.05), cụ thể như sau: + Ở nhận định này, tỉ lệ học sinh nhóm học vấn của bố mẹ “Dưới phổ thông” không đồng ý với nhận định thấp hơn tỉ lệ học sinh không đồng ý của 2 nhóm còn lại. Như vậy, ở nhận định này, học sinh của nhóm học vấn bố mẹ “Dưới phổ thông” có nhiều định kiến hơn so với 2 nhóm còn lại.