Khóa luận Nghiên cứu sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn đánh giá chất lượng môi trường nước ở một số khu vực thuộc vùng đệm của vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai

pdf 64 trang thiennha21 22/04/2022 2080
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghiên cứu sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn đánh giá chất lượng môi trường nước ở một số khu vực thuộc vùng đệm của vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nghien_cuu_su_dung_dong_vat_khong_xuong_song_co_lo.pdf

Nội dung text: Khóa luận Nghiên cứu sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn đánh giá chất lượng môi trường nước ở một số khu vực thuộc vùng đệm của vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA SINH - KTNN ====== NGUYỄN HƯƠNG LY NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG ĐỘNG VẬT KHÔNG XƯƠNG SỐNG CỠ LỚN ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC Ở MỘT SỐ KHU VỰC THUỘC VÙNG ĐỆM CỦA VƯỜN QUỐC GIA HOÀNG LIÊN, TỈNH LÀO CAI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Môi trường HÀ NỘI - 2019
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA SINH - KTNN ====== NGUYỄN HƯƠNG LY NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG ĐỘNG VẬT KHÔNG XƯƠNG SỐNG CỠ LỚN ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC Ở MỘT SỐ KHU VỰC THUỘC VÙNG ĐỆM CỦA VƯỜN QUỐC GIA HOÀNG LIÊN, TỈNH LÀO CAI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Môi trường Người hướng dẫn khoa học PGS.TS. NGUYỄN VĂN VỊNH HÀ NỘI - 2019
  3. LỜI CẢM ƠN Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Văn Vịnh - Phó trưởng khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Thầy là người đã hướng dẫn và tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa học và hoàn thiện luận văn tốt nghiệp của mình. Đồng thời, qua đây tôi cũng chân thành cảm ơn ban lãnh đạo cùng các thầy giáo, cô giáo Tổ Động vật, Khoa Sinh - Kỹ thuật Nông nghiệp, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, những người đã truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành khoá luận tốt nghiệp của mình. Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã động viên và là chỗ dựa vững chắc cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 17 tháng 5 năm 2019 Sinh viên Nguyễn Hương Ly
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những kết quả nghiên cứu, số liệu trình bày trong luận văn là do nghiên cứu, thực tiễn đảm bảo tính trung thực và chưa được công bố trong bất cứ công trình khoa học, trong các tạp chí chuyên ngành và các hội thảo khoa học, sách chuyên khảo, nào khác. Hà Nội, ngày 17 tháng 5 năm 2019 Sinh viên Nguyễn Hương Ly
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ASPT : Average Srores Per Taxon Điểm số trung bình cho các đơn vị phân loại BMWP : Biological Monitoring Working Party Một tổ chức nghiên cứu về quan trắc sinh học DO : Dissolved Oxygen: Oxy hòa tan ĐVKXS : Động vật không xương sống SVCT : Sinh vật chỉ thị VQG : Vườn quốc gia
  6. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục đích của nghiên cứu 2 3. Nội dung nghiên cứu 2 4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 3 Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4 1.1. Khái quát về tình hình sử dụng ĐVKXS cỡ lớn đánh giá chất lượng nước trên thế giới 4 1.2. Khái quát về tình hình sử dụng ĐVKXS cỡ lớn đánh giá chất lượng nước ở Việt Nam 7 Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 10 2.1. Đối tượng nghiên cứu 10 2.2. Phạm vi, Địa điểm và thời gian nghiên cứu 10 2.2.1. Phạm vị nghiên cứu 10 2.2.2. Thời gian nghiên cứu 10 2.2.3. Địa điểm nghiên cứu 10 2.3. Phương pháp nghiên cứu 12 2.3.1. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa 12 2.3.2. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nhiệm 13 2.3.3. Phương pháp xác định hệ thống tính điểm BMWPVIET và chỉ số sinh học ASPT 14 2.4. Khái quát điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, xã hội ở vùng đệm của VQG Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai 15 2.4.1. Khái quát điều kiện tự nhiên 15 2.4.2. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội 17
  7. Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 19 3.1. Thành phần các họ ĐVKXS cỡ lớn tại khu vực nghiên cứu 19 3.2. Đánh giá chất lượng môi trường nước tại khu vực nghiên cứu 26 3.2.1. Một số chỉ số thủy lí hóa học của nước 26 3.2.2. Đánh giá chất lượng nước tại khu vực nghiên cứu bằng hệ thống tính điểm BMWPVIET và chỉ số ASPT 29 3.3. Nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng nước và một số giải pháp sử dụng hợp lý tài nguyên nước ở vùng đệm của VQG Hoàng Liên 31 3.3.1. Nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng nước ở vùng đệm của VQG Hoàng Liên 31 3.3.2. Một số giải pháp bảo vệ tài nguyên nước tại khu vực nghiên cứu 32 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 35 1. Kết luận 35 2. Kiến nghị 35 TÀI LIỆU THAM KHẢO 37 PHỤ LỤC
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Mối liên quan giữa chỉ số sinh học ASPT và mức độ ô nhiễm 15 Bảng 3.1. Thành phần các họ ĐVKSX cỡ lớn bắt gặp tại khu vực nghiên cứu 19 Bảng 3.2. Số lượng họ và tỉ lệ % các họ thuộc nhóm ĐVKXS cỡ lớn tại khu vực nghiên cứu 24 Bảng 3.3. Một số chỉ số thủy lý, hóa học của nước tại các điểm nghiên cứu 26 Bảng 3.4. Điểm số BMWPVIET , chỉ số ASPT và chất lượng nước ở các điểm nghiên cứu thuộc vùng đệm VQG Hoàng Liên 30
  9. DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 3.1. Tỉ lệ % các họ tại khu vực nghiên cứu 25
  10. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sự sống trên trái đất được bắt nguồn từ nước. Mọi sinh vật sống trên trái đất đều phụ thuộc vào nước và vòng tuần hoàn của nước. Hơn 70% diện tích trái đất được bao phủ bởi nước, nhưng trong đó thì chỉ có 0,3% nước là có thể sử dụng làm nước uống. Từ đó có thể khẳng định rằng nước là một nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng và quý giá. Tuy nhiên ngày nay khi đất nước ngày càng phát triển thì kéo theo đó là sự ô nhiễm môi trường nước ngày càng nghiêm trọng do lượng chất thải từ các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp, sinh hoạt, của con người ngày càng gia tăng. Vì vậy công tác quan trắc, giám sát đánh giá chất lượng môi trường nước là điều vô cùng quan trọng và cần thiết. Hiện nay để đánh giá chất lượng môi trường nước người ta thường sử dụng phương pháp phân tích - các chỉ số thủy lý hóa (pH, DO, COD, BOD, NO3 , ). Tuy nhiên phương pháp này khó có thể dự báo một cách chính xác hoàn toàn về sự ảnh hưởng của các hợp chất hóa học đến hệ sinh thái, đến sự sống của sinh vật và của con người tại khu vực nghiên cứu. Đồng thời, phương pháp này đòi hỏi phải được thực hiện liên tục với tần suất cao vì vậy nó khá tốn kém về mặt kinh tế. Để khắc phục những hạn chế của phương pháp trên người ta sử dụng phương pháp quan sinh trắc học. Phương pháp này cung cấp các dẫn liệu về thời gian, tiện lợi trong sử dụng và cho kết quả nhanh, trực tiếp về sự ảnh hưởng của tình trạng ô nhiễm của nguồn nước đến sự phát triển của hệ thống thủy sinh vật tại khu vực nghiên cứu. Do đó, phương pháp quan trắc sinh học nước ngọt có vai trò ngày càng quan trọng và được sử dụng phổ biến hơn. Trong phương pháp quan trắc sinh học người ta sử dụng các SVCT để đánh giá sự biến đổi chất lượng môi trường. Một trong những sinh vật chỉ thị được sử dụng rất phổ biến hiên nay là nhóm ĐVKXS cỡ lớn. Việc sử dụng ĐVKXS cỡ lớn để quan trắc sẽ cho kết quả nhanh, phản ánh chính xác chất lượng nước và ít tốn kém. Vùng đệm của vườn quốc gia hoàng liên thuộc tỉnh Lào Cai có hệ thống suối là nơi cư trú của nhiều nhóm sinh vật thủy sinh, đặc biệt trong đó 1
  11. có nhóm ĐVKXS cỡ lớn. Tuy nhiên, nguồn nước tại khu vực này đang có dấu hiệu bị ô nhiễm. Đến nay, vẫn chưa có nghiên cứu nào dùng SVCT là ĐVKXS để đánh giá chất lượng môi trường nước ở khu vực này. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Nghiên cứu sử dụng ĐVKSX cỡ lớn đánh giá chất lượng môi trường nước ở một số khu vực thuộc vùng đệm của vườn quốc gia hoàng liên tỉnh Lào Cai. 2. Mục đích của nghiên cứu - Xác định thành phần các taxon ĐVKXS cỡ lớn tại một số khu vực thuộc vùng đệm của VQG Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai. - Đánh giá chất lượng môi trường nước ở một số khu vực thuộc vùng đệm của VQG hoàng liên tỉnh Lào Cai. - Xác định được nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước tại địa phương từ đó đề ra một số biện pháp nhằm khắc phục cải thiện và sử dụng hợp lý tài nguyên nước tại khu vực nghiên cứu. 3. Nội dung nghiên cứu - Thành phần các họ của nhóm ĐVKXS cỡ lớn tại khu vực nghiên cứu. - Sử dụng sinh vật chỉ thị là nhóm ĐVKXS cỡ lớn để đánh giá chất lượng môi trường nước qua điểm số BMWP và chỉ số ASPT. - Xác định các chỉ số thuỷ lý, hoá học của nước. - Xác định nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước tại địa phương. Đề xuất một số biện pháp nhằm khắc phục cải thiện và sử dụng hợp lý tài nguyên nước tại khu vực nghiên cứu. 2
  12. 4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 4.1. Ý nghĩa khoa học - Đề tài cung cấp danh lục các họ ĐVKXS cỡ lớn tại khu vực nghiên cứu. - Bước đầu sử dụng nhóm ĐVKXS cỡ lớn làm SVCT để đánh giá chất lượng môi trường nước tại địa phương. 4.2. Ý nghĩa thực tiễn Từ việc sử dụng nhóm ĐVKXS cỡ lớn làm SVCT để đánh giá chất lượng môi trường nước, tìm ra nguyên nhân dẫn tình trạng ô nhiễm nguồn nước từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm khắc phục cải thiện và sử dụng tài nguyên nước một cách hợp lý nhất tại địa phương. 3
  13. Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Khái quát về tình hình sử dụng ĐVKXS cỡ lớn đánh giá chất lượng nước trên thế giới Việc sử dụng phương pháp quan trắc sinh học để đánh giá chất lượng nước sông đầu tiên hình thành ở châu Âu do hai nhà khoa học Kolkwitz (1908) và Marsson (1909) thực hiện. Độ nhiễm bẩn của nước sông được chia làm 4 loại là bẩn ít, bẩn vừa α, bẩn vừa β và rất bẩn, các mức độ này được xác định dựa trên chỉ số độ nhiễm bẫn (Saprobic index). Căn cứ vào danh các loài chỉ thị người ta chia thành các giá trị nhiễm bẩn phù hợp với mức độ chống chịu sự ô nhiễm của từng loài. Tuy hệ thống này đã được chấp nhận rộng rãi ở Châu Âu nhưng đồng thời nó cũng gặp phải nhiều ý kiến trái chiều như phương pháp dựa trên sự nhiễm bẩn chỉ thiên về chỉ số sinh học và hệ thống điểm số đơn giản [27-28]. Ở Anh Tại Anh, phương pháp quan trắc sinh học tiếp tục được mở rộng với các chỉ số đánh giá mức độ ô nhiễm dựa trên nguyên tắc các nhóm sinh vật chống chịu ô nhiễm khác nhau. Trong đó, hai chỉ số được đánh giá cao là chỉ số định lượng “Chỉ số Trent” (TBI) của Woodiwis (1964) và chỉ số bán định lượng “Điểm số Chandler (CBS) của Chandler (1970). Tuy nhiên chỉ số TBI (chỉ số định lượng “Chỉ số Trent” ) và điểm số CBS (chỉ số bán định lượng “Điểm số Chandler”) chỉ phù hợp để đánh giá chất lượng nước sông trong phạm vi nhỏ và không thích hợp để dánh giá trên diện rộng. Vì vậy vào năm 1976, tổ chức nghiên cứu quan trắc sinh học “Biological Monitoring Woring Party” đã ra đời và hệ thống điểm số BMWP được đưa ra, mức độ ô nhiễm của nước được phân loại trên cơ sở số loài và sự phân bố của ĐVKXS cỡ lớn (dẫn theo tài liệu [26]). 4
  14. Ở Tây Ban Nha Năm 1988, phương pháp sử dụng chỉ số BMWP đã được hai nhà khoa học là Alba - Tercedor và Sanchoz - Ortega áp dụng tại khu vực bán đảo Iberia (ở Tây Ban Nha). Trong nghiên cứu trên một số họ mới đã xuất hiện và điểm số của một số họ cũng có sự thay đổi. Tiếp đó nhà khoa học Carmen Zamora cùng một số người đã tiến hành nghiên cứu giải thích sự biến thiên của chỉ số BMWP và chỉ số sinh học ASPT theo nhiệt độ và xác định sự phụ thuộc của các chỉ số này theo mùa. Kết quả của nghiên cứu trên cho thấy: Ở những thủy vực không bị ô nhiễm mối tương quan giữa nhiệt độ và chỉ số BMWP là không đáng kể, tại những thủy vực bị ô nhiễm thì chỉ số BMWP phụ thuộc nhiều vào nhiệt độ,còn với chỉ số ASPT thì dù thủy vực nghiên cứu có bị ô nhiễm hay không nó cũng không bị phụ thuộc vào nhiệt độ . Qua đó các nhà khoa học đã kết luận chỉ số ASPT thì không bị phụ thuộc vào mùa vụ còn chỉ số BMWP thì có, vì vậy chỉ số sinh học ASPT được cho là có tính ưu việt hơn [19]. Ở New Zeland Tại New Zeland các nhà khoa học đã thấy được sự hiệu quả của việc sử dụng hệ thống điểm số BMWP để đánh giá chất lượng nước đặc biệt là khi sử dụng chúng để đánh giá sự ô nhiễm hữu cơ. Vì vậy họ tiếp nhận và phát triển hệ thống điểm số này để chúng cho phù hợp với đất nước mình, chỉ số được biến đổi tương tự với điểm trung bình bậc phân loại ASPT ở Anh và được là MCI (Macroinvertebrate Community Index) [29]. Ở Ấn Độ Tại Ấn Độ, vào năm 1994 De Zwart và Trivedi đã biến đổi điểm số BMWP bằng cách thêm vào một số họ có ở Ấn Độ và bớt đi một số họ không có tại đất nước này. Ngoài ra,một vài điểm số đã được phân phối trong điểm gốc cũng được thay đổi để phản ánh các mức độ khác nhau về độ chống chịu của một số họ nhất định được bắt gặp ở các cửa sông của Ấn Độ. Một nghiên cứu khác cũng sử dụng điểm số BMWP được tiến hành bởi Bihar tại sông Ramjan cho thấy các chỉ số lý hóa có sự biến động theo mùa, nó sẽ ảnh hưởng đến mức độ phong phú của ĐVKXS cỡ lớn và đồng 5
  15. thời cũng ra mối tương quan nghịch giữa kích thước của quần thể ĐVKXS cỡ lớn với các chỉ số pH và DO trong nghiên cứu tại hồ Thirukulam Tác giả Maruthaynayagan và các cộng sự của ông đã khẳng định rằng kích thước ĐVKXS phụ thuộc vào mùa, vào mùa hè là thấp nhất và vào mùa mưa là cao nhất (dẫn theo Lê Văn Khoa và cộng sự (2007) [8],và Mustow (1998) [30]). Ở Thái Lan Năm 1977, Mustow đã nghiên cứu quần xã ĐVKXS cỡ lớn tại sông MaePing từ đó ông đã đưa ra một số điểm thay đổi trong hệ thống điểm BMWP để phù hợp với điều kiện ở Bắc Thái Lan. Hệ thống BMWP được sửa đổi ở Thái Lan được gọi là hệ thống BMWPTHAI (dẫn theo Nguyễn Vũ Thanh và Tạ Huy Thịnh (2001) [14]). Sau khi hệ thống BMWPTHAI xuất hiện thì phương pháp này đã được nghiên cứu, ứng dụng và phát triển thêm để đánh giá chất lượng môi trường nước nhằm quản lí và bảo tồn các lưu vực sông ở Thái Lan. Trong đó có nghiên cứu “Nghiên cứu sự tương quan giữa ĐVKXS cỡ lớn ở nước ngọt và các yếu tố chất lượng môi trường trong lưu vực sông Nam Pong Thái Lan” được thực hiện bởi Khoa Sinh học của Đại học Khon Kaen năm 1998, với 27 địa điểm thu tại lưu vực sông Nam Pong gần sông Pong, sông Cheon, sông Chi. Mục đích nhằm nghiên cứu những ảnh hưởng của chất lượng môi trường nước đến cộng đồng ĐVKXS cỡ lớn sống tại đó [23,31]. Ở Malaysia Năm 1999 ,Bộ Môi trường Malaysia đã thực hiện một nghiên cứu rên sông Linggi nhằm đánh giá tiềm năng của phương pháp sử dụng ĐVKXS cỡ lớn làm SVCT để đánh giá, giám sát chất lượng nước. Cũng vào thời điểm đó, tại Khoa Sinh học của Trường Đại học Putra đã tiến hành nghiên cứu đánh giá chất lượng sông Langat bằng phương pháp sử dụng hệ thống BMWP. Kết quả nghiên cứu cho thấy số loài bắt gặp ở khu vực ở thượng nguồn là 54 loài còn ở hạ nguồn là 49 loài, chất lượng nước sông chảy từ thượng nguồn xuống hạ nguồn bị giảm dần do chịu ảnh hưởng từ nguồn ô nhiễm của khu dân [16]. 6
  16. 1.2. Khái quát về tình hình sử dụng ĐVKXS cỡ lớn đánh giá chất lượng nước ở Việt Nam Ở Việt Nam việc nghiên cứu, đánh giá chất lượng nước tại các thủy vực cũng đã được quan tâm từ lâu. Tuy nhiên cho đến năm 1995 vẫn chưa có hệ thống phân loại mức độ nhiễm bẩn của các thủy vực. Những hệ thống phân loại độ nhiễm bẩn và các chỉ tiêu trong các thang bậc phân loại đều là những dẫn liệu nghiên cứu thuộc vùng ôn đới, những dữ liệu này không phù hợp với điều kiện tự nhiên cũng như đặc tính sinh học của các thủy vực tại nước ta. Sau 10 năm nghiên cứu (1985 - 1995), tác giả Nguyễn Xuân Quýnh (1995) đã đề xuất một hệ thống phân loại mức độ nhiễm bẩn các thủy vực có nước thải ở Hà Nội dựa trên một số chỉ tiêu cơ bản về sinh học. Từ năm 1997 - 1999, nhờ sự tài trợ của quỹ Darwin của chính phủ Anh, Khoa Sinh học ,Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội đã phối hợp hội nghiên cứu thực địa và sinh thái nước ngọt Anh Quốc đã thực hiện chương trình nghiên cứu “Bảo tồn đa dạng sinh học thông qua việc sử dụng ĐVKXS cỡ lớn làm vi sinh vật chỉ thị quan trắc và đánh giá chất lượng nước ở Việt Nam” [11]. Năm 2000, Nguyễn Xuân Quýnh và các cộng sự đã đưa ra khoá định loại đến họ các nhóm ĐVKXS ở nước ngọt phục vụ cho việc nghiên cứu đánh giá chất lượng nước bằng SVCT. Cũng trong năm này quy trình quan trắc và đánh giá chất lượng nước ngọt bằng việc sử dụng SVCT là ĐVKXS cỡ lớn của Nguyễn Xuân Quýnh và các cộng sự cũng đã được công bố. Năm 2004, Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự trên cơ sở các công trình nghiên cứu về giám sát sinh học nước ngọt bằng SVCT, mà đặc biệt là kết quả từ năm 1998 - 2000, đã thiết lập một quy trình lấy mẫu và một hệ thống tính điểm sử dụng trong quan trắc sinh học đối với các thuỷ vực nước ngọt tại Việt Nam. Đã xuất bản cuốn sách “Giám sát sinh học môi trường nước ngọt bằng động vật không xương sống cỡ lớn”. Đây là tài liệu đầu tiên của Việt Nam được xuất bản làm cơ sở nghiên cứu đánh giá chất lượng nước thông qua SVCT là ĐVKXS cỡ lớn [11]. 7
  17. Năm 2001 - 2002, Nguyễn Vũ Thanh và Tạ Huy Thịnh thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật đã thực hiện nghiên cứu tại lưu vực sông Cầu tại các tỉnh Bắc Giang, Bắc Cạn, Bắc Ninh, Thái Nguyên. Kết quả quan trắc cho thấy tất cả các điểm nghiên cứu đều có mức độ ô nhiễm từ ô nhiễm vừa đến ô nhiễm nặng. Ngoài ra, qua nghiên cứu trên tác giả còn bổ sung thêm 5 họ côn trùng thủy sinh là Ecdyonuridae, Polymitarcyidae, Sicomyzidae, Muscidae và 2 họ thân mềm Stenothyridae và Hyalidae vào hệ thống điểm BMWPVIET [12]. Năm 2003, tác giả Nguyễn Thị Mai thuộc bộ môn Sinh học, Khoa Khoa học, Trường Đại học Nông Lâm, Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện nghiên cứu nhằm đánh giá sự đa dạng về thành phần loài ĐVKXS cỡ lớn và sử dụng chúng để đánh giá chất lượng nước sông Sài Gòn thuộc quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy chất lượng môi trường nước và thành phần loài liên quan đến nhau. Điều này càng khẳng định việc sử dụng ĐVKXS cỡ lớn để đánh giá chất lượng nước là có cơ sở [9]. Năm 2006, tác giả Trương Thanh Cảnh và Ngô Thị Trâm Anh thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Hồ Chí Minh thực hiện nghiên cứu thành phần ĐVKXS cỡ lớn tại 4 hệ thống kênh chính của Thành phố Hồ Chí Minh (Tham Lương - Vàm Thuật, Nhiêu Lộc - Thị Nghè, kênh Đôi - Tẻ - Tàu Hủ - Bến Nghé, hệ thống sông khu vực Nam Sài Gòn) [2]. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu thường chỉ tập trung ở khu vực miền Bắc và miền Nam trong khi đó khu vực miền Trung thì chưa được quan tâm đến. Trong những năm gần đây phương pháp này đã được nghiên cứu và sử dụng ở khu vực miền Trung. Tiêu biểu như tác giả Nguyễn Văn Khánh và các cộng sự thuộc Khoa Sinh - Môi trường, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng đã thực hiện một số nghiên cứu sử dụng ĐVKXS cỡ lớn để đánh giá chất lượng môi trường nước tại các khu vực thuộc Thành phố Đà Nẵng. Các nghiên cứu được thực hiện tại sông Phú Lộc, sông Cu Đê, hệ thống sông Cầu Đỏ - Tuý Loan, cánh đồng Xuân Thiều. Qua việc xác định chỉ số BMWP và ASPT đã cho thấy chất lượng nước tại hầu hết các đều thuộc loại bẩn vừa α đến rất bẩn, kết quả này là hoàn toàn thích với các kết quả phân tích lí hoá đi 8
  18. kèm và nó càng khẳng định phương pháp sử dụng ĐVKXS để đánh giá chất lượng môi trường nước là có hiệu quả [5-7]. Tác giả Nguyễn Văn Hiếu và các cộng sự thuộc Khoa Sinh-KTNN, Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2 cũng đã có nhiều nghiên về sử dụng ĐVKXS cỡ lớn để đánh giá chất lượng nước. Như nghiên cứu đánh giá chất lượng môi trường nước với 8 điểm nghiên cứu khác nhau tại suối Quân Boong thuộc Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc [4]. Từ những công trình nghiên cứu đã nêu trên cho thấy phương pháp quan trắc sinh học sử dụng ĐVKXS cỡ lớn làm SVCT là tối ưu, phương pháp này đang ngày càng phát triển và được sử dụng rộng rãi ở nước ta. Việc sử dụng hệ thống điểm BMWPVIET và chỉ số ASPT giúp độ chính xác của việc đánh giá chất lượng nước được nâng cao, khiến cho công tác quản lý môi trường nước đạt hiệu quả cao hơn. Tình hình sử dụng ĐVKXS cỡ lớn để đánh giá chất lượng môi trường nước tại khu vực thuộc vùng đệm của vườn quốc gia hoàng liên tỉnh Lào Cai: ở khu vực trên hiện vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đánh giá chất lượng môi trường nước thông qua SVCT là nhóm ĐVKXS cỡ lớn. 9
  19. Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Động vật không xương sống cỡ lớn tại suối tại 3 xã Nậm Cang, Sa Pả, Nậm Sài thuộc vùng đệm của vườn quốc gia Hoàng Liên, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. 2.2. Phạm vi, Địa điểm và thời gian nghiên cứu 2.2.1. Phạm vị nghiên cứu Thủy vực dạng suối tại xã 3 xã Nậm Cang, Sa Pả, Nậm Sài thuộc huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. 2.2.2. Thời gian nghiên cứu - Thời gian tiến hành nghiên cứu: từ tháng 8/2018 đến tháng 4/2019. Trong đó thời gian nghiên cứu ngoài thực địa tiến hành từ ngày 09/08/2018 đến ngày 17/08/2018. - Toàn bộ mẫu vật thu ngoài tự nhiên được bảo quản và lưu trữ tại phòng thí nghiệm Động vật, Khoa Sinh - Kĩ thuật nông nghiệp, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. 2.2.3. Địa điểm nghiên cứu Các thủy vực dạng suối nằm trên địa phận của 3 xã Nậm Cang, Sa Pả, Nậm Sài thuộc vùng đệm của vườn quốc gia Hoàng Liên, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Các điểm thu mẫu được đánh số thứ tự từ HM1 đến HM9. Phạm vi nghiên cứu được thực hiện trong 3 xã với 9 điểm nghiên cứu: Nậm Cang với 3 điểm nghiên cứu (HM1, HM2, HM3); xã Sa Pả với 3 điểm nghiên cứu (HM4, HM5, HM6) và xã Nậm Sài với 3 điểm nghiên cứu (HM7, HM8, HM9). Trước khi tiến hành thu mẫu, chúng tôi đã ghi lại một số đặc điểm chính về sinh cảnh cũng như tiến hành xác định tọa độ và độ cao bằng thiết bị định vị bằng thiết bị GPS 78 tại các điểm nghiên cứu. Điểm 1 ( kí hiệu HM1): tọa độ N: 22013,085’; E: 1040 01,659’; độ cao 10
  20. 580 m. Điểm thu mẫu thuộc địa phận xã Nậm Cang, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Chiều rộng của suối khoảng 15-20m . Hai bên suối là ruông canh tác. Nền đáy chủ yếu là đá tảng lớn, 2 bên bờ suối có nhiều cây bụi. Nền đáy thỉnh thoảng có đá và cát sỏi, ít mùn bã hữu cơ. Có dạng sinh cảnh nước chảy. Điểm 2 (ký hiệu HM2): tọa độ N: 22012,430’E: 1040 02,439’; độ cao 870m. Điểm thu mẫu thuộc địa phận xã Nậm Cang, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Chiều rộng của suối khoảng 15-20m . Hai bên suối là đường đi đang tiến hành thi công xây dựng. Nền đấy chủ yếu là đá hỗn hợp và cát sỏi, 2 bên bờ suối có nhiều cây bụi. Có dạng sinh cảnh nước chảy. Điểm 3 (ký hiệu HM3): tọa độ N: 22013,039’; E: 1040 01,819’; Độ cao 712m. Điểm thu mẫu thuộc địa phận xã Nậm Cang, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Chiều rộng của suối khoảng 3-5m. Hai bên bờ là cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ, nền đáy chủ yếu là đá nhỏ, sỏi và mùn bà hữu cơ. Có dạng sinh cảnh nước chảy. Điểm 4 (ký hiệu HM4): tọa độ N: 22o20,834’; E: 103o52,404’; độ cao 1319m. Điểm thu mẫu thuộc địa phận xã Sa Pả, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.Chiều rộng của suối khoảng 3-6m. Hai bên suối là ruộng canh tác. Nền đáy chủ yếu là đá nhỏ có bán kính 30cm, sỏi và cát, 2 bên bờ suối có thảm cỏ. Có dạng sinh cảnh nước chảy. Điểm 5 (ký hiệu HM5): tọa độ N: 22o20,9’; E: 103o52,455’; độ cao 1323m. Điểm thu mẫu thuộc địa phận xã Sa Pả, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.Chiều rộng của suối khoảng 2-5m. Hai bên suối là ruộng canh tác. Nền đáy chủ yếu là đá tảng trung bình có bán kính 40-70cm, đá nhỏ bán kính 30cm, sỏi và cát. Hai bên bờ suối có nhiều cây bụi, độ che phủ thực vật của suối cao. Có dạng sinh cảnh nước chảy. Điểm 6 (ký hiệu HM6): tọa độ N: 22o21,782’; E: 103o51,848’; độ cao 1244m. Điểm thu mẫu thuộc địa phận xã Sa Pả, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Chiều rộng của suối khoảng 4-6m. Hai bên suối là ruộng canh tác. Nền đáy chủ yếu là đá tảng lớn, ít mùn bã hữu cơ. Hai bên bờ suối có nhiều cây bụi, độ che phủ thực vật của suối cao.Có dạng sinh cảnh nước chảy. Điểm 7 (kí hiệu HM7): tọa độ N: 22014,362’; E: 1040 00,457’; độ cao 11
  21. 532 m. Điểm thu mẫu thuộc địa phận xã Nậm Sài, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Chiều rộng của suối khoảng 4-5m. Hai bên bờ suối 1 bên là đường đi, 1 bên là ruộng. Nền đáy chủ yếu là tảng đá trung bình đến sỏi nhỏ. Có dạng sinh cảnh nước chảy. Điểm 8 (kí hiệu HM8): tọa độ N: 22014,670’; E: 103059,540’; độ cao 452m. Điểm thu mẫu thuộc địa phận xã Nậm Sài, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Chiều rộng của suối khoảng 3-4m. Hai bên suối 1 bên là đường đi, 1 bên là ruộng. Xung quanh có nhiều cây bụi và cây gỗ. Nền đáy chủ yếu là tảng đá lớn và trung bình. Có dạng sinh cảnh nước chảy . Điểm 9 (kí hiệu HM9): tọa độ N: 22015,020’; E: 103059,363’; độ cao 448 m. Điểm thu mẫu thuộc địa phận xã Nậm Sài, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Chiều rộng của suối khoảng 1,5-2,5m . Hai bên suối 1 bên là đường đi, 1 bên là ruộng. Xung quanh có nhiều cây bụi. Nền đáy chủ yếu là đá tảng trung bình và sỏi nhỏ. Có dạng sinh cảnh nước chảy và nước đứng . 2.3. Phương pháp nghiên cứu 2.3.1. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa - Dụng cụ thu mẫu Các dụng cụ cần thiết để lấy mẫu ĐVKXS gồm: vợt ao (Pond net), vợt tay (Hand net); vợt Pond net là một khung hình chữ nhật đỡ một túi lưới sâu khoảng từ 30 - 40cm, đường kính của mắt lưới thường là1mm, khung đỡ lưới nối với một cán có chiều dài 1,6m. Dụng cụ này thường được sử dụng để thu những động vật ven bờ. - Phương pháp thu mẫu: Trước khi thu mẫu, tiến hành đo độ cao và tọa độ bằng thiết bị định vị GPS78 và một số chỉ số thủy lý, hóa học của nước tại thủy vực nghiên cứu bằng máy đo WQC - 24A, TOA, Nhật Bản và điều tra đặc điểm sinh cảnh tại điểm thu mẫu. Thu mẫu theo phương pháp của Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự, 2004 [11]. Mẫu vật được thu bằng vợt ao (Pond net) và vợt tay (Hand net) bằng cách sục vợt vào các đám cỏ, bụi cây thủy sinh ven bờ hoặc các đám cây 12
  22. thủy sinh sống nổi trên mặt nước. Với các loài côn trùng sống trên mặt thủy vực thì thu bằng phương pháp đưa nhanh vợt trên mặt nước. Còn với những loài sống bám vào các tảng đá, dung cách dùng chân đạp xuống nền đáy của suối hoặc nhấc các tảng đá lên để tìm kiếm sau đó dùng panh mềm nhặt mẫu. Với những thủy vực nhỏ hoặc có dòng chảy hẹp thì sử dụng vợt cầm tay để thu mẫu. - Phương pháp xử lý mẫu: Mẫu được loại bỏ rác, làm sạch bùn đất ở mẫu sau khi thu. Dùng panh, thìa và khay nhôm để nhặt qua mẫu ngay tại thực địa. Sau đó bảo quản trong cồn 80o, ghi đầy đủ etiket. Mẫu sẽ được đưa về lưu trữ, bảo quản, phân tích và định loại tại Phòng thí nghiệm Động vật học, Khoa Sinh – Kĩ Thuật Nông Nghiệp, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. - Phương pháp nghiên cứu điều tra phỏng vấn trực tiếp ngoài thực địa. Để điều tra nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước tại khu vực nghiên cứu chúng tôi đã tiến hành quan sát thực địa và phỏng vấn một số người dân địa phương, khách du lịch 2.3.2. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nhiệm - Phương pháp nhặt mẫu: đầu tiên mẫu sẽ được rửa sạch và cho ra khay. Sau đó sử dụng panh nhặt các đại diện của ĐVKXS cỡ lớn cho vào các lọ có sẵn cồn 80o để tiếp tục bảo quản. - Phương pháp phân tích mẫu vật: + Dụng cụ phân tích: kính lúp 2 mắt, kính hiển vi, đĩa petri, panh mềm, kim phân tích. + Định loại mẫu vật : định loại mẫu vật dựa trên các đặc điểm về hình thái bên ngoài của đối tượng nghiên cứu theo các khoá định loại được công bố trong và ngoài nước của : Đặng Ngọc Thanh và cộng sự (1980) [13], Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải (2001) [14], Nguyễn Văn Vịnh (2003) [25], Cao Thi Kim Thu (2002) et al. [18], Hoang Duc Huy et al. (2005) [21], Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001) [10], Meritt và Cummins (1996) [22], 13
  23. - Phương pháp phương pháp xử lý số liệu: Tất cả các kết quả nghiên cứu được xử lý bằng phần mềm Microsoft Office Excel 2010 trên máy vi tính. 2.3.3. Phương pháp xác định hệ thống tính điểm BMWPVIET và chỉ số sinh học ASPT Để đi đến những phương pháp chuẩn, tổ chức nghiên cứu về quan trắc sinh học “Biological Monitoring Working Party” (BMWP), đã được thành lập vào năm 1976 ở Anh, tổ chức này đã đưa ra một hệ thống mới đó là hệ thống tính điểm số BMWP. Hệ thống này sử dụng số liệu ở mức độ họ (trừ lớp giun ít tơ), mỗi họ được quy về một điểm số phù hợp với tính nhạy cảm của nó với sự ô nhiễm hữu cơ. Những điểm số riêng sẽ được cộng lại tạo nên điểm số tổng của mẫu. Có thể nhận được sự biến thiên của điểm số BMWP bằng cách chia điểm tổng số cho số họ có mặt, ta được một điểm số trung bình cho các đơn vị phân loại (ASPT: Average Score Per Taxon). Chỉ số ASPT được tính theo công thức: ASPT = (∑BMWP)/N. Trong đó: N: tổng số họ tham gia tính điểm BMWP: tổng điểm số BMWP ASPT: điểm số trung bình trên một đơn vị phân loại Điểm số BMWP lại có hạn chế là ở chỗ căn cứ vào phạm vi của các họ thì có loài chống chịu, có loài ưa thích với điều kiện sinh thái hẹp. Ví dụ: đại diện của họ Chironomidae tìm thấy chủ yếu ở những nơi sống là nước ngọt đã được biết đến, trong họ bao gồm những loài và giống có khả năng chống chịu cao, đôi khi trong một biên độ rộng của sự ô nhiễm, nhưng họ này cũng có cả những loài và rất nhạy cảm và đặc hiệu trong sự ưa thích và chịu đựng sinh thái. Tuy vậy, toàn bộ họ được phân loại như là mức độ chống chịu với ô nhiễm bằng điểm số BMWP. Nhận xét tương tự cũng được áp dụng trong trường hợp này, chúng hoàn toàn được xếp vào loại có khả năng chống chịu cao. Hiệu lực của hệ thống tính điểm số BMWP trong thực tiễn là rất cao và việc áp dụng hệ thống này tương đối dễ dàng. Nó không đòi hỏi kỹ năng phân 14
  24. loại tương phải ở mức quá cao. Kết quả là hệ thống tính điểm số BMWP được chấp nhận một cách rộng rãi ở nhiều nướctrên thế giới. Dựa trên kết quả tính điểm của hệ thống tính điểm BMWPVIET và điểm số ASPT, ta có thể đánh giá được chất lượng môi trường nước tại mỗi địa điểm nghiên cứu hoặc so sánh chất lượng môi trường nước giữa các điểm nghiên cứu với nhau theo bảng 2.1 và điểm chống chịu tương ứng. Bảng 2.1. Mối liên quan giữa chỉ số sinh học ASPT và mức độ ô nhiễm Chỉ số sinh học Mức độ ô nhiễm (ASPT) Điểm 0 Nước cực kỳ bẩn (không có ĐVKXS) Điểm 1- 2,9 Nước rất bẩn (Polysaprobe) Điểm 3 - 4,9 Nước bẩn vừa ( Mesosaprobe) hay khá bẩn Điểm 5 - 5,9 Nước bẩn vừa ( Mesosaprobe) Điểm 6 - 7,9 Nước bẩn ít (Oligosaprobe), hay tương đối sạch Điểm 8 - 10 Nước sạch Nguồn: Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự, 2004 [8] 2.4. Khái quát điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, xã hội ở vùng đệm của VQG Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai 2.4.1. Khái quát điều kiện tự nhiên 2.4.1.1. Vị trí địa lý VQG Hoàng Liên thuộc khu vực tây Bắc Việt Nam, được thành lập theo Quyết định số 90/2002/QD-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 12/7/2002. Vườn có tọa độ đia lý từ 22°09’30” đến 22021’00” độ vi ̃ Bắ c và 103045’00” – 104059’40” độ kinh Đông. VQG Hoàng Liên bao gồm 2 vùng là vùng lõi và vùng đệm với tổng diện tích là 85,947. Địa giới hành chính của vườn bao gồm phần đất còn lại của các xã: San Sả Hồ, Lao Chải, Tả Van, Bản 15
  25. Hồ ( huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai); Phúc khoa, Trung Đồng ( huyện Tân Uyên). Toàn bộ các xã như: Sa Pả, Hầu Thào, Sử Pán, Nậm Sài, Nậm Cang và thị trấn Sa Pa ( huyện Sa Pa , tỉnh Lào Cai ); thị trấn Tân Uyên, Hố Mít, Bản Bo( huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu). Trong đó vùng đệm của VQG Hoàng Liên nằm trên địa phận tỉnh Lào Cai có tổng diện tích 12.514,98 ha. Vùng đệm trong có diện tích là 1.372,75 ha, vùng đệm ngoài với diện tích là 11.142,2 ha. 2.4.1.2. Địa hình Vùng đệm của VQG Hoàng Liên có địa hình khá đa dạng và phức tạp, chủ yếu là núi cao và trung bình chạy dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Có nhiều đỉnh núi với độ cao hơn 2000m, cao nhất là đỉnh Phanxipan có độ cao là 3.143m so với mực nước biển). Độ dốc bình quân tương đối lớn từ 250 – 300. 2.4.1.3. Địa chất thổ nhưỡng Địa chất đá mẹ: Khu vực vùng đệm VQG Hoàng Liên có nền địa chất với nguồn gốc kiến tạo thuôc kỷ Triat và chịu ảnh hưởng của quá trình tạo sơn Indexin, có tuổi địa chất nhỏ nên dãy núi Hoàng Liên Sơn trong đó có đỉnh Phanxipan được xem là dãy núi trẻ, đỉnh núi nhọn bởi quá trình bào mòn địa chất diễn ra chưa lâu. Đá mẹ tạo đất chủ yếu là là nhóm đá Macma axit và nhóm đá biến chất với các loại đá chính: Granit, Gnai, Amphibolit, Filit, Đá vôi, một vài nơi còn lẫn Phiến thạch sét, Sa thạch, Đá diệp thạch. Sự đa dạng về các loại đá mẹ tạo ra nhiều loại đất khác nhau, trong khu vực vùng đệm của VQG Hoàng Liên bao gồm các nhóm đất chính sau: Nhóm đất mùn Alit trên núi cao (HA); đất Feralit mùn vàng đỏ trên núi trung bình (FH), đất feralit đỏ vàng trên núi thấp và trung bình (F), đất trong các thung lũng (T). 2.4.1.4. Khí hậu Do các yếu tố về vị trí địa lý và địa hình núi cao đã chí phối khí hậu của vùng. Nằm ở nơi giao lưu của hai tiểu vùng khí hậu là Á ôn đới và nhiệt đới núi cao, một năm ở VQG Hoàng Liên được chia làm 2 mùa: Mùa hè ( từ tháng 5 đến tháng 10), mùa đông lạnh (từ tháng 11 đến 4 năm sau). 16
  26. Vùng có một số đặc trưng cơ bản sau: Nhiệt độ trung bình năm vào khoảng 15,40C, mùa hè nhiệt độ bình quân của các tháng là từ 18- 200C, còn mùa đông là 10 - 200C . Lương mưa trung bình hàng năm là 2759mm với số ngày mưa trung bình năm là 199,4 ngày. Mưa chủ yếu vào mùa hè chiếm 80% - 85% tổng lượng mưa cả năm, tháng 7 và tháng 8 là 2 tháng có mưa nhiều nhất. Mưa nhỏ vào mùa đông, bình quân một tháng có lương mưa từ 50 – 100mm. Độ ẩm tương đối ổn định nằm trong khoảng từ 85% - 90%. Sương mù xuất hiện phổ biến trong năm, bình quân có khoảng 160 ngày có sương mù trong năm, trong năm số ngày có sương muối vào khoảng 6 ngày. Tuy nhiên, có đợt sương muối kéo dài từ 3 – 5 ngày, đỉnh điểm có thể tới 11 ngày. 2.4.1.5.Thủy văn Vùng có hệ thống khe suối dày dặc, các sườn núi dốc đứng, khe suối sâu va hẹp, có dòng chảy dốc và xuất hiện nhiều ghềnh thác. Toàn bộ vùng đệm không có sông lớn, chỉ có 2 hệ thống suối chính sau: Hệ thống suối thuộc khu vực Đông Bắc huyện Sa Pa bao gồm 3 suối chính núi cao, toàn khu vực không có sông lớn, chỉ gồm những suối nhỏ chảy qua các khe suối chính: Mường Hoa bắt nguồn từ Fansipan, Séo Trung Hồ bắt nguồn từ Tả Van, Tả Trung Hồ bắt nguồn từ Bản Hồ. ba suối này tụ lại ở Bản Dền tạo nên ngòi Bo đổ ra sông Hồng. Hệ thống suối thuộc khu vực Tây Nam dãy Hoàng Liên bao gồm 2 suối chính: Suối Nậm Bé ( thuộc xã Phúc Khoa) bắt nguồn từ Fansipan và suối Nậm Pao, Nậm Chăng ( thuộc xã Trung Đồng, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu). Hai suối này chảy ra ngòi lớn Nậm Mu sau đó đổ ra sông Đà. 2.4.2. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội Trong những năm vừa qua các xã thuộc khu vực vùng đệm của VQG Hoàng Liên đang ngày càng phát triển. Cơ sở hạ tầng ngày một nâng cao, đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân được nâng lên rõ rệt, Chất lượng đời sống tinh thần tăng lên thúc đẩy kinh tế phát triển, góp phẩn cho công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh đó còn có nhiều khó khăn thách thức như: nền kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp, các xã thuần nông vẫn là chủ yếu, chuyển dịch 17
  27. cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn còn chậm. Nguồn lao động rồi dào, nhưng trình độ dân trí thấp, đào tạo nghề chưa phát triển đãn đến thiếu việc làm. Các cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp kém phát triển, quy mô nhỏ, phân tán chưa thúc đẩy được nền kinh tế của vùng phát triển. Dịch vụ thương nghiệp thường tập trung ở các trục đường giao thông lớn, trong thôn bản còn khan hiếm chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân. Sản xuất lâm nghiệp còn chậm phát triển. Nhân thức của người dân về rừng và công tác bảo tồn các giá trị đa dạng sinh học còn hạn chế. Hệ thống đường giao thông được đầu tư xây dựng nhưng chất lượng rất kém, một số tuyến đường chỉ đi lại được bằng các phương tiện nhỏ thô sơ ô tô đi lại khó khăn. Sự xuống cấp của các công trình thủy lợi đầu mối và hệ thống kênh mương dẫn đến không đảm bảo được tưới tiêu. Vậy nên sản xuất nông nghiệp còn chưa ổn định bởi quá phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Y tế, giáo dục, văn hóa thông tin đã có sự quan tâm đầu tư của các cấp các ngành. Tuy nhiên, cơ sở vật chất vẫn còn nghèo nàn lạc hậu chưa đáp ứng được nhu cầu dạy và học của thầy và trò cung như nhu cầu khám chữa bệnh hay giao lưu văn hóa thông tin của người dân. Một số hoạt động sản xuất ảnh hưởng đến sinh thái của môi trường như khai thác đá, chặt cây lấy gỗ, củi và chăn thả gia súc trên núi. Đặc biệt, việc xâm canh đất để trồng cây nông nghiệp, cây trồng Thảo quả gây ảnh hưởng nghiêm trọng đén hệ sinh thái rừng của VQG Hoàng Liên. 18
  28. Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Thành phần các họ ĐVKXS cỡ lớn tại khu vực nghiên cứu Theo kết quả phân tích mẫu vật, tại khu vực nghiên cứu đã bắt gặp 35 họ thuộc 14 bộ của 5 lớp, 3 ngành: Chân khớp (Arthropoda), Giun đốt (Annelida) và Thân mềm (Mollusca) thuộc nhóm ĐVKXS cỡ lớn. Trong đó Ngành chân khớp (Arthropoda) bắt gặp 30 họ thuộc 9 bộ của 1 lớp là lớp Côn trùng (Insecta) và 1 họ thuộc 1 bộ của lớp Giáp sát (crustacea). Ngành Thân mềm (Mollusca) thu được 1 họ của bộ Chân bụng trong thuộc lớp Chân bụng(Gastropoda). Ngành Giun đốt (Annelida) bao gồm 2 lớp là lớp Đỉa (Hirudinea) và lớp Giun ít tơ (Oligochaeta), lớp Đỉa (Hirudinea) bắt gặp 2 họ thuộc 2 bộ khác nhau còn lớp Giun ít tơ (Oligochaeta) thì chỉ bắt gặp 1 họ thuộc 1 bộ của lớp này. Danh lục các họ được trình bày ở bảng 3.1 . Bảng 3.1. Thành phần các họ ĐVKSX cỡ lớn bắt gặp tại khu vực nghiên cứu STT Nậm Cang Sa Pả Nậm Sài Bậc phân loại HM1 HM2 HM3 HM4 HM5 HM6 HM7 HM8 HM9 Ngành chân khớp Lớp côn trùng Bộ phù du 1 Họ Baetidae + + + + + + + + + 2 Họ Caenidae + + + + + + + + 3 Họ Ephemerellidae + + + + + + + 4 Họ Heptageniidae + + + + + + + + 5 Họ Leptophebiidae + Bộ Hai cánh 6 Họ Chironomidae + + + + + + + + + 7 Họ Enphydrridae + + + 8 Họ Ephydridae + 19
  29. 9 Họ Psychodidae + 10 Họ Simuliidae + + + + + + + + + 11 Họ Tipulidae + + + + + + + + Bộ Cánh lông 12 Họ Glossosomatiade + + + + + + 13 Họ Hydropsychidae + + + + + + + + + 14 Họ Odontoceridae + 15 Họ Philopotamidae + + + + + 16 Họ Rhyacophilidae + + + 17 Họ Lepidostomatidae + + + + Bộ Cánh rộng 18 Họ Corydalidae + + + + + Bộ Cánh nửa 19 Họ Gerridae + 20 Họ Pleidae + + Bộ Chuồn chuồn 21 Họ Cordulegastridae + 22 Họ Gomphidae + 23 Họ Lilellulidae + Bộ Cánh vẩy 24 Họ Crambidae + Bộ Cánh cứng 25 Họ Curculionidae + + 26 Họ Dytiscidae + 27 Họ Elmididae + + + + 28 Họ Helodidae + 29 Họ Ptilodactiliidae + Bộ Cánh úp 20
  30. 30 Họ Neumauridae + Lớp Giáp sát Bộ Mười chân 31 Họ Petamidae + Ngành Thân mềm Lớp Chân bụng Bộ Chân bụng trong 32 Họ Lymnaeidae + Ngành Giun đốt Lớp Đỉa Bộ đỉa không vòi 33 Họ Erpobdellidae + + Bộ đỉa có vòi 34 Họ Glossiphonidae + Lớp Giun ít tơ 35 Lớp Oligochaeta + + + + + + Số lượng họ 8 8 16 13 18 20 12 18 12 Ghi chú: “+” Bắt gặp So với một số nghiên cứu trước đây ở các nước nhiệt đới thuộc khu vực châu Á và ở nước ta thì số lượng các họ ĐVKXS cỡ lớn bắt gặp trong nghiên cứu trên là khá ít. Cụ thể, trong nghiên cứu tại các khu rừng ở Hồng Kông số lương các họ ĐVKXS cỡ lớn được ghi nhận trên các suối là 130 họ (Dudgeon, 1987) [20]; trên sông Sungai Gombak thuộc Malaysia đã ghi nhận được số họ ĐVKXS cỡ lớn là 104 họ (Bishop, 1973) [17]; ở một số sông suối thuộc vùng Bắc Thái Lan đã xác định được 116 họ ĐVKXS cỡ lớn (Mustow, 1997) [24]. Một số nghiên cứu trong nước như nghiên cứu của Hoàng Đình Trung và Mai Phú Quý (2014) tại suối Truồi, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế) đã bắt gặp được số lượng các họ ĐVKXS cỡ lớn là 43 họ [15]; nghiên 21
  31. cứu của Nguyễn Văn Hiếu và Nguyễn Lâm Tùng (2017) ở một số suối thuộc huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái đã ghi nhân được 56 họ ĐVKXS cỡ lớn [3]. Dựa trên kết quả tổng hợp của bảng 3.1 ta thấy số họ ĐVKXS cỡ lớn bắt gặp tại mỗi điểm nghiên cứu có sự khác biệt rõ rệt. Cụ thể: ở điểm HM1và HM2 bắt gặp 8 họ, điểm HM3 thu được 16 họ, điểm HM4 thu được 13 họ, điểm HM5 bắt gặp 18 họ, điểm HM6 bắt gặp 20 họ, điểm HM7 bắt gặp 12 họ, điểm HM8 bắt gặp 18 họ, HM9 bắt gặp 12 họ. Như vậy trong tất cả các điểm nghiên cứu thì điểm HM6 là điểm có sự đa dang về họ lớn nhất. Ngoài ra sự khác nhau còn được thể hiên ở bậc phân loại cấp bộ, cụ thể: Bộ Phù du: được bắt gặp ở tất cả các điểm nghiên cứu. Xong các họ trong bộ có sự phân bố không giống nhau. Họ Baetidae phân bố rộng có mặt ở tất cả các điểm nghiên cứu. Họ Heptageniidae và họ Caenidae có khu vực phân bố giống nhau 2 họ này được bắt gặp ở khắp các khu vực nghiên cứu trừ điểm HM2. Họ Ephemerellidae xuất hiện ở hầu hết các điểm nghiên cứu trừ 2 điểm là HM1và HM2. Họ Leptophebiidae có sự phân bố hẹp, chỉ xuất hiện ở điểm HM4 và không bắt gặp ở các điểm nghiên cứu khác. Bộ Hai cánh: họ Chironomidae và họ họ Simuliidae chiếm ưu thế và bắt gặp ở tất cả các điểm nghiên cứu. Tiếp đến là họ Tipulidae có mặt ở hầu hết các điểm thu mẫu trừ điểm HM1. Họ Enphydrridae có phân bố hẹp chỉ xuất hiện ở các HM3, HM5 và HM8. Họ Ephydridae và họ Psychodidae có phân bố hẹp nhấtchỉ xuất hiện ở điểm HM6. Bộ Cánh lông: họ Hydropsychidae phân bố ở tất cả các điểm nghiên cứu. Họ Glossosomatiade xuất hiện ở các điểm từ HM3 đến HM8. Họ Philopotamidae có mặt tại các điểm HM3, HM4, HM5, HM6 và HM8. Họ Lepidostomatidae xuất hiện ở 4 điểm nghiên cứu là HM6, HM7, HM8 và HM9. Họ Rhyacophilidae xuất hiện ở các điểm HM3, HM6 và HM8. Họ Odontoceridae có phân bố hẹp nhất chỉ bắt gặp ở điểm HM5. Bộ Cánh rộng: chỉ thu được duy nhất1 họ là họ Corydalidae, họ này được bắt gặp ở các điểm HM2,HM5, HM8 và HM9. 22
  32. Bộ Cánh nửa: chỉ bắt gặp 2 họ là Họ Gerridae và Họ Pleidae. Trong đó Họ Pleidae xuất hiện ở 2 điểm là điểm HM1và HM8. Họ Gerridae chỉ được bắt gặp duy nhất tại điểm HM6. Bộ Chuồn chuồn: số lượng họ thu được tương đối ít gồm có 3 họ là Họ Cordulegastridae, Họ Gomphidae và Họ Lilellulidae. Họ Cordulegastridae chỉ xuất hiện duy nhất tại điểm HM3. Họ Gomphidae được bắt gặp tại điểm HM8. Họ Lilellulidae cũng chỉ xuất hiện tại một điểm duy nhất tại một điểm là điểm HM4. Bộ Cánh vảy: chỉ xuất hiên một họ duy nhất là Họ Crambidae và chỉ thu được tại điểm HM1. Bộ Cánh cứng: họ Elmididae được bắt gặp tại 4 điểm nghiên cứu là HM3,HM5, HM6 và HM8. Họ Curculionidae xuất hiên ở 2 điểm nghiên cứu là điểm HM5 và HM6. Họ Dytiscidae chỉ thu được duy nhất tại điểm HM5. Họ Helodidae xuất hiện ở điểm HM3. Họ Ptilodactiliidae cung chỉ thu được duy nhất ở điểm HM2. Bộ cánh úp: chỉ thu được một họ là họ Neumauridae được bắt gặp tại điểm HM5. Bộ Mười chân: chỉ xuất hiện họ Petamidae tại điểm HM4. Bộ Chân bụng trong: bắt gặp một họ Lymnaeidae chỉ xuất hiện duy nhất tại điểm HM6. Bộ đỉa không vòi: thu được một họ là họ Erpobdellidae xuất tại 2 điểm nghiên cứu là điểm HM7 và HM9. Bộ đỉa có vòi: xuất hiện duy nhất họ Họ Glossiphonidae tại điểm một điểm nghiên cứu là điểm HM6. Lớp giun ít tơ: có khu vực phân bố tương đối rộng xuất hiện ở nhiều điểm nghiên cứu trừ các điểm HM1, HM3 và HM4. Kết quả nghiên cứu về số lượng họ và tỷ lệ (%) các họ thuộc nhóm ĐVKXS cỡ lớn tại khu vực nghiên cứu được trình bày cụ thể trong bảng 3.2 và hình 3.1 dưới đây 23
  33. Bảng 3.2. Số lượng họ và tỉ lệ % các họ thuộc nhóm ĐVKXS cỡ lớn tại khu vực nghiên cứu Số lượng STT Bộ Tỷ lệ (%) họ 1 Cánh lông 6 17,1 2 Hai cánh 6 17,1 3 Phù du 5 14,3 4 Cánh cứng 5 14,3 5 Chuồn chuồn 3 8,4 6 Cánh nửa 2 5,6 7 Cánh rộng 1 2,9 8 Cánh vảy 1 2,9 9 Cánh úp 1 2,9 10 Mười chân 1 2,9 11 Chân bụng trong 1 2,9 12 Đỉa không vòi 1 2,9 13 Đỉa có vòi 1 2,9 14 Giun ít tơ 1 2,9 Tổng họ 35 100 24
  34. Cánh lông Hai cánh Phù du Cánh cứng Chuồn chuồn Cánh nửa Cánh rộng Cánh vảy Cánh úp Mười chân Chân bụng trong Đỉa không vòi Đỉa có vòi Giun ít tơ 2,9% 2,9% 2,9% 2,9% 2,9% 2,9% 17,1% 2,9% 2,9% 5,6% 17,1% 8,4% 14,3% 14,3% Hình 3.1. Tỉ lệ % các họ tại khu vực nghiên cứu Dựa trên kết quả nghiên cứu thì bộ Cánh lông (Trichoptera) và bộ Hai cánh (Diptera) là 2 bộ chiếm ưu thế nhất với số lượng họ là 6 họ(cùng chiếm 17,1% tổng số họ). Tiếp theo là bộ Phù du (Ephemeroptera) và bộ Cánh cứng (Coleoptera) đều thu được 5 họ (cùng chiếm 14,3% tổng số họ). Bộ Chuồn chuồn (Odonata) thu được 3 họ (chiếm 8,4% tổng số họ), bộ Cánh nửa (Hemiptera) thu được 2 họ (chiếm 5,6% tổng số họ. Đồng thời 8 bộ là bộ Cánh vảy (Lepidoptera), bộ Cánh úp (Plecoptera) và Cánh rộng (Megaloptera), Mười chân (Decapoda) , Chân bụng trong, Đỉa không vòi (Arhynchobdellida), Đỉa có vòi (Rhynchobdellida), lớp Giun ít tơ (Oligochaeta) có số lượng họ ít nhất, cả 8 bộ này đều chỉ thu được duy nhất 1 họ (cùng chiếm 2,9% tổng số họ). Kết quả của nghiên cứu trên là tương tự với các kết quả nghiên cứu của Yule và Sen (2004) [32], cho rằng tại các thủy vực dạng suối thì số lượng các họ thuộc các bộ: Cánh lông, Phù du, Hai cánh, Cánh cứng và Chuồn chuồn thuộc lớp Côn trùng luôn chiếm ưu thế, còn các họ thuộc các bộ: Cánh 25
  35. úp, Cánh rộng, Cánh vảy, đỉa không vòi, đỉa có vòi và mười chân thường có số lượng rất ít. 3.2. Đánh giá chất lượng môi trường nước tại khu vực nghiên cứu 3.2.1. Một số chỉ số thủy lí hóa học của nước Các chỉ số thủy lý hóa học của nước được đo bằng máy đo nước đa chỉ tiêu WQC - 24 của hãng TOA, Nhật Bản. Những chỉ số thủy lý hóa học được xác định ở đây là: hàm lượng oxy hòa tan - DO (mg/l), pH, độ dẫn (mS/m), độ đục (NTU) và nhiệt độ (0C). Độ cao và tọa độ được đo bằng thiết bị định vị GPS78. Kết quả nghiên cứu về tọa độ, độ cao và các chỉ số thủy lý, hóa học của nước được trình bày ở bảng 3.3 dưới đây. Bảng 3.3. Một số chỉ số thủy lý, hóa học của nước tại các điểm nghiên cứu Nhiệt độ Điểm DO Độ dẫn Độ đục pH nước thu mẫu (mg/l) (mS/m) (NTU) (0C) HM1 6,2 7,3 2,8 117,4 23,8 HM2 9,5 7,3 2,3 227,6 22,5 HM3 8,6 6,9 0,9 7,6 22,4 HM4 8,2 7,9 16,7 17,4 19,1 HM5 8,9 7,4 2,9 0,5 19,1 HM6 8,1 7,9 16,0 4,7 21,4 HM7 8,2 7,5 3,2 8,1 23,1 HM8 9,2 6,7 0,9 2,4 21,0 HM9 7,1 7,8 4,4 18,8 20,9 X SD 8,2 ± 1,0 7,4 ± 0,4 5,6 ± 6,2 44,9 ± 77,6 21,5 ± 1,7 Ghi chú: : giá trị trung bình cộng; SD: độ lệch chuẩn 26
  36. 3.2.1.1. Giá trị DO (Oxy hòa tan) Giá trị DO là hàm lượng oxy hòa tan trong nước rất cần thiết cho sự hộ hấp của sinh vật sống trong môi trường trong nước. Nếu nồng độ oxy hòa tan giảm xuống quá thấp thì sinh vật sẽ khó hô hấp, giảm hoạt động hoặc chết. Do đó, DO là một trong những chỉ số quan trọng để đánh giá mức độ ô nhiễm của nước. Giá trị DO càng cao thì nước càng sạch thì và ngược lại khi DO càng thấp thì mức độ ô nhiễm của nước càng cao. Giá trị DO dao động phụ thuộc những yếu tố sau: - Sự khuyếch tán của oxy hoà tan từ không khí vào trong nước. - Lượng oxy hòa tan trong nước được bổ xung bởi quá trình quang hợp của các sinh vật sản xuất thủy sinh (thực vật, tảo ). - Lượng oxy hòa tan trong nước bị hao hụt bởi quá trình phân hủy sinh học các chất hữu cơ của các vi khuẩn hiếu khí, quá trình này là quá trình có lượng oxy tiêu hao lớn nhất. - Lượng oxy hòa tan trong nước bị hao hụt bởi các phản ứng oxy hóa khử trong quá trình phân hủy hóa học các chất hữu cơ, những phản ứng này tiêu hao một lượng đáng kể oxy hòa tan trong môi trường nước. - Ngoài ra, oxy còn bị hao hụt do sự hô hấp của các sinh vật thủy sinh trong nước. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hàm lượng oxi hòa tan trong nước là khá cao khi giá trị DO ở tất cả các khu vực nghiên cứu đều ≥ 6 mg/l. Nguyên nhân dẫn đến hiện tương trên có thể là do tất cả các thủy vực tại khu vực nghiên cứu đều là các dòng chảy nên có sự khuếch tán oxy từ không khí vào nước mạnh. Giá trị DO trung bình của 9 lần đo là 8,2 ± 1,0 (mg/l); trên cơ sở Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt theo Quyết định số 16/2008/QĐ-BTNMT [1], với giá trị DO như trên chất lượng nước được đánh giá ở mức A1, đồng thời ở trong khoảng DO phù hợp với đời sống của nhóm động vật thủy sinh. 27
  37. 3.2.1.2. Giá trị pH pH được sử dụng để đánh giá tính axit hay tính kiềm của môi trường nước, giá trị pH thay đổi sẽ tác động tới các hoạt động sinh học diễn ra trong môi trường nước. Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi giá trị pH của nước tùy thuộc vào các thành phần có trong chất thải và bùn đáy tại các thủy vực. Ngoài ra, quá trình phân hủy các chất hữu cơ trong nước, hiện tượng mưa axit, cũng làm ảnh hưởng đến pH của nước. Theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt theo Quyết định số 16/2008/QĐ-BTNMT[1] (Phụ lục 1) giá trị pH nằm trong khoảng 5,5 – 8,5 là thích hợp cho đời sống thủy sinh vật. Giá trị pH trung bình của 9 lần đo là 7,4 ± 0,4. Dựa trên bảng “giá trị giới hạn các thông số chất lượng nước mặt” theo QCVN 08:2008/BTNMT [1], ta thấy pH của nước tại khu vực nghiên cứu được đánh giá là chất lượng nước mặt loại A1, tức là nước tại khu vực này có thể sử dụng vào mục đích cấp nước sinh hoạt cho người dân hoặc các mục đích khác. 3.2.1.3. Độ dẫn Khả năng vận chuyển các ion của nước được gọi là độ dẫn, tùy thuộc vào tổng hàm lượng các ion có trong nước, thể hiện độ màu mỡ của nước. Tổng hàm lượng các ion có trong nước sẽ phụ thuộc vào các quá trình: - Quá trình kết tủa các chất từ không khí. - Quá trình phong hóa đá. - Quá trình bay hơi hoặc ngưng tụ của nước. Ở các nước nhiệt đới, nước mưa là nguồn cung cấp trực tiếp các ion nên nó có nghĩa quan trọng với độ dẫn, mặt khác quá trình phong hóa cũng đồng thời cung cấp ion cho nước. Bên cạnh đó khi dòng chảy phải tiếp nhận các nguồn nước thải thì tổng hàm lượng ion của nước cũng tăng lên một lượng đáng kể. Giá trị trung bình của độ dẫn sau 9 lần đo là 5,6 ± 6,2 (mS/m). Như vậy có thể thấy độ dẫn tại khu vực nghiên cứu vẫn ở mức độ cho phép . Tuy nhiên Ở 2 điểm nghiên cứu là HM4 và HM6 có độ dẫn khá cao là 16,7 mS/m 28
  38. và 16,0 mS/m. 3.2.1.4. Nhiệt độ Nhiệt độ là một trong những yếu tố đóng có vai trò quan trọng đối với các quá trình sinh hóa diễn ra trong môi trường nước. Nhiệt độ trung bình của nước trong 9 lần đo tại khu vực nghiên cứu là 21,5 ± 1,7 (0C) đây là khoảng nhiệt độ thích hợp cho đời sống của thủy sinh vật [1]. 3.2.1.5. Độ đục Mức độ ngăn cản ánh sáng xuyên qua do các chất lơ lửng gây ra được gọi là độ đục của nước. Gây nên độ đục của nước có thể là do các chất hữu cơ hoặc các chất vô cơ (các hạt keo đất, đá) nhưng cũng có thể là do cả hai loại. Các chất hữu cơ dễ phân hủy sinh học là nguồn thức ăn cho vi sinh vật. Các chất này có trong chất thải và khi xả vào nguồn nước sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của vi sinh vật khiến độ đục của nước tăng lên. Các chất dinh dưỡng vô cơ (hợp chất nitơ, phốt pho) thường có trong nước tưới tiêu mà người sử dụng để hoạt động sản xuất nông nghiệp khi đi vào các thủy vực làm thúc đẩy sự phát triển của tảo, dẫn đến độ đục của nước tăng lên. Sau 9 lần đo ta tính được giá trị trung bình của độ đục là 44,9 ± 77,6 (NTU). Với giá trị trung bình trên thì độ đục ở các khu vực nghiên cứu được đánh giá là rất lớn . Nguyên nhân có thể là do hầu hết các điểm nghiên cứu đều đi qua khu vực dân cư hoặc đồng ruộng. Đặc biệt 2 điểm HM1 và HM2 là 2 điểm có độ đục rất lớn bởi ở khu vực này đang tiến hành xây thủy điện khiến độ đục tại khu vực này là lớn hơn so với các khu vực nghiên cứu khác. 3.2.2. Đánh giá chất lượng nước tại khu vực nghiên cứu bằng hệ thống tính điểm BMWPVIET và chỉ số ASPT Kết quả nghiên cứu cho thấy, tại khu vực nghiên cứu đã bắt gặp tất cả 35 họ ĐVKXS cỡ lớn trong số đó có 29 họ thuộc hệ thống tính điểm BMWPVIET (chiếm 80,3% tổng số họ). Trên cơ sở là hệ thống tính điểm BMWPVIET và chỉ số sinh học ASPT, chất lượng môi trường nước tại khu vực nghiên cứu được thể hiện ở bảng dưới đây. 29
  39. Bảng 3.4. Điểm số BMWPVIET , chỉ số ASPT và chất lượng nước ở các điểm nghiên cứu thuộc vùng đệm VQG Hoàng Liên Tổng điểm Số họ Điểm Chỉ số Mức độ ô nhiễm hữu BMWPVIET được tính thu mẫu ASPT cơ điểm HM1 38 7 5,4 Nước bẩn vừa HM2 26 7 3,7 Nước khá bẩn HM3 78 13 6,0 Nước bẩn ít HM4 78 12 6,5 Nước bẩn ít HM5 88 15 5,9 Nước bẩn vừa HM6 93 17 5,5 Nước bẩn vừa HM7 62 11 5,6 Nước bẩn vừa HM8 89 15 5,9 Nước bẩn vừa HM9 66 12 5,5 Nước bẩn vừa X S D 68,7 ± 23,4 12,1 ± 3,4 5,6 ± 0,8 Nước bẩn vừa Ghi chú: : X : giá trị trung bình cộng; SD: độ lệch chuẩn Dựa trên kết quả bảng 3.4 cho thấy chỉ số sinh học ASPT dao động trong khoảng 3,7 – 6,5 trung bình là 5,6 ± 0,8 với kết quả như trên chất lượng môi trường nước được đánh giá ở các mức độ: nước bẩn ít, nước bẩn vừa, nước khá bẩn. Nhưng nhìn chung chất lượng môi trường nước được đánh giá ở mức độ “nước bẩn vừa”. Nguyên nhân là do hầu hết các đoạn suối ở khu vực nghiên cứu đều chảy qua các khu dân cư hoặc đồng ruộng. Các hoạt động sinh hoạt cũng như sản xuất của con người đã gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng nước tại khu vực nghiên cứu. Trong 9 điểm nghiên cứu có duy nhất điểm HM2 thuộc địa bàn xã Nậm Cang là được đánh giá ở mức “nước khá bẩn”. Nguyên nhân dẫn đến chất lượng nước ở điểm HM2 thấp hơn hẳn so với các điểm nghiên cứu khác là do khu vực này đang tiến hành xây đập thủy điện. Một lượng lớn đất đá và 30
  40. rác thải được thải ra trong quá trình xây dựng đập thủy điện khiến chất lượng nước bị suy giảm nghiêm trọng. Ngoài ra điểm HM3 và HM4 là hai điểm có chất lượng nước được đánh giá ở mức “ nước bẩn ít” tốt hơn so với các điểm nghiên cứu khác bởi theo nghiên cứu thực địa 2 điểm này ít chịu tác động của con người nhất. 3.3. Nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng nước và một số giải pháp sử dụng hợp lý tài nguyên nước ở vùng đệm của VQG Hoàng Liên 3.3.1. Nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng nước ở vùng đệm của VQG Hoàng Liên 3.3.1.1. Hoạt động sinh hoạt và sản xuất của người dân địa phương Khu vực cùng đệm của VQG Hoàng Liên là nơi sinh sống của khảng 4362 hộ dân. Các loại chất thải rác thải, nước thải từ cuộc sống sinh hoạt của người dân, từ hoạt động kinh doanh của các nhà hàng, khách sạn thường thải trực tiếp ra hệ thống suối của vùng mà không qua xử lí dẫn đến ô nhiễm môi trường nước.Ngoài ra hệ thống thoát nước của hầu hết các xã thuộc vùng đệm của VQG chưa được đầu tư xây dựng. Tại các thôn xã thoát nước chủ yếu thuộc hệ thống rãnh dọc theo các tuyến đường. Tuy nhiên, do rãnh nhỏ, hướng dốc thay đổi, thiếu cống thoát nước nên tốc độ thoát chậm dẫn dến ứ đọng, ô nhiễm môi trường và ngập úng cục bộ. Nước thải từ các khu vệ sinh và chăn nuôi của các hộ dân thường thẩm thấu tự nhiên nên gây ô nhiễm cho nguồn nước mặt. Theo tình hình nghiên cứu ngoài thực địa cho thấy cuộc sống của hầu hết người dân tại khu vực này còn khá nghèo đói và lạc hậu. Người dân chủ yếu sống dựa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp. Phần lớn các loại chất thải, nước thải do trồng chọt đều không qua xử lý mà thường thấm xuống trực tiếp xuống đất hoặc bị rửa trôi, hậu quả là tình trạng ô nhiễm nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Đặc biệt việc lạm dụng các chất bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp làm cho mức độ ô nhiễm của nguồn nước ngày càng nghiêm trọng. Ngoài ra để tăng thêm thu nhập người dân còn chăn nuôi một số loại gia súc, gia cầm mà hầu hết chúng đều được nuôi thả tự do. Rác thải trong quá trình chăn nuôi khi đi vào các hệ 31
  41. thống suối cũng có thể làm một số tính chất của nước bị thay đổi dẫn đến nguy cơ ô nhiễm nguồn nước ngày càng tăng. 3.3.1.2. Hoạt động du lịch VQG Hoàng Liên là một địa điểm du lịch nổi tiếng nơi có cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ với đỉnh Fansipan được mệnh danh là “nóc nhà của Đông Dương” , sinh cảnh rừng độc đáo hệ sinh thái đa dạng phóng phú. Trong những năm qua lượng khách du lịch đến thăm quan VQG Hoàng Liên ngày càng tăng. Lượng khách du lich tăng đồng nghĩa với việc giao lưu hàng hóa tăng từ đó giúp thúc đẩy kinh tế cải thiển đời sống cho cộng đồng dân cư ở vùng đệm. Tuy nhiên hoạt động du lịch cũng có mặt trái của nó. Hoạt đông du lịch phát triển dẫn đến nhiều nhà hàng, khách sạn, các khu resort, nghỉ dưỡng mọc lên ngày càng nhiều. Một lượng rác thải lớn từ các dịch vụ du lịch trên đã thải vào môi trường nước. Đồng thời, còn nhiều du khách chưa có ý thức xả rác trực tiếp vào thiên nhiên cũng như nguồn nước những thứ rác công nghiệp khó phân hủy như bao bì đồ ăn, chai nhựa, thức ăn thừa gây mất mỹ quan và đặc biệt là làm ô nhiễm môi trường nước. 3.3.1.3. Quá xây dựng của các đập thủy điện Tại một số khu vực thuộc vùng đệm của VQG Hoàng Liên đang tiến hành xây dựng đập thủy điện. Quá trình xây dựng đập thủy điện đã làm cho chất lượng nước tại khu vực bị giảm xuống đáng kể. Việc Loại bỏ thảm thực vật ở khu vực xây đập sẽ làm cho độ đục, lượng chất rửa chôi bề tăng lên dẫn đến ô nhiễm môi trường nước. Trong quá trình đào, đắp, xây đập một lượng lớn các chất thải, đất đá bị thải ra môi trường làm ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn nước tại khu vực khiến nguồn nước bị ô nhiễm. Ngoài ra khi xây dựng đạp cấu trúc nền đáy cảu suối cũng bị thay đổi ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng nước. 3.3.2. Một số giải pháp bảo vệ tài nguyên nước tại khu vực nghiên cứu 3.3.2.1. Tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho người dân Có thể nói hầu hết những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm 32
  42. nguồn nước, làm thay đổi môi trường sống của thủy sinh vật đều xuất phát từ nhận thức chưa đúng đắn và đầy đủ của con người về thế giới tự nhiên, đặc biệt là người dân ở những cùng còn khó khăn , lạc hậu. Dó đó, việc nâng cao nhận thức của nhân dân trong công tác bảo vệ đa dạng sinh học có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc phát triển bền vững tại địa phương. Để nâng cao nhận thức của người dân thì phải đẩy mạnh các công tác giáo dục, tuyên truyền về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường đặc biệt là bảo vệ môi trường nước . Mặt khác sự giao lưu, hợp tác và học hỏi giữa các địa phương cũng cần được tăng cường. Những phong tục tập quán lạc hậu sẽ dần được thay đổi, những tiến bộ khoa học kĩ thuât được ứng dụng vào trong sản xuật giúp chất lượng cuộc sống của người dân tăng lên đồng thời giúp thúc đẩy kinh tế dịa phương phát triển . Khi người dân có cuộc sống ổn định sự nhận thức về tầm quan trọng của rừng cũng như tài nguyên nướcsẽ được tăng lên. Các nội dung về quản lý bảo vệ môi trường nước, sử dụng hợp lý tài nguyên nước cần được đưa vào trong chương trình giáo dục và tuyên truyền của địa phương. Việc này cần có sự hợp tác của các cơ quan đoàn thể đặc biệt là trường học nơi giáo dục các em học sinh. 3.3.2.2. Phát triển du lịch sinh thái bền vững Với lượng khách du lịch ngày càng tăng thì tại VQG Hoàng Liên, việc khuyến cáo khách du lịch không làm thay đổi cấu trúc nền đáy của suối, không xả rác vào tự nhiên cũng như nguồn nước là không thể thiếu. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác bảo vệ nguồn tài nguyên nước ở khu vực này. Du lịch là một ngành quan trọng giúp thúc đẩy mạnh nền kinh tế của địa phương. Tuy nhiên việc phát triển du lịch không có nghĩa là bất chấp mọi hậu quả về môi trường mà phải gắn với bảo tồn đa dạng sinh học cũng như bảo vệ môi trường nước. Vậy nên, các cấp chính quyền ở địa phương cần có kế hoạch phát triển du lịch kết hợp với tuyên truyền, giáo dục bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học. Từ đó xây dựng nên những tua du lịch sinh thái, tham quan cảnh quan kết hợp với học tập và nghiên cứu khoa học. Đào tạo 33
  43. đội ngũ cán bộ có đầy đủ năng lực, kinh nghiệm để tham gia vào công tác bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường. Đặc biệt, cần có những chính sách khuyến khích và hỗ trợ người dân địa phương để họ tích cực tham gia các chương trình phát triển du lịch và bảo tồn đa dạng sinh học. 3.3.2.3. Đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước và xử lý nước thải Vấn đề đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước là một trong một vấn đề vô cùng cấp bách hiện nay trong công tác bảo vệ môi trường nước tại vùng đệm của VQG Hoàng Liên. Khi hệ thống thoát nước được xây dựng hoàn thiện tình trạng thoát nước thải bị ứ đọng gây ô nhiễm môi trường và ngập úng cục bộ sẽ được khắc phục. Hiện tương nước thải sinh hoạt và chăn nuôi ngấm tự nhiên xuống đất cũng được giảm thiểu đáng k. Ngoài ra việc xây dựng các hệ thống xử lý rác thải cũng cần được qua tâm đặc biệt là tại các khu du lịch. Đây là nơi có lượng rác thải và nước thải rất lớn nếu không được xử lí đúng cách sẽ dẫn đến mất mỹ quan và tình trạng ô nhiễm môi trường nước sẽ ngày càng trầm trọng. 34
  44. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận 1. Tại một số khu vực vùng đệm của vườn quốc gia Hoàng Liên đã ghi nhận được 35 họ thuộc 14 bộ của 5 lớp, 3 ngành. Ngành chân khớp (Arthropoda) bắt gặp 30 họ thuộc 9 bộ của 1 lớp là lớp Côn trùng (Insecta) và 1 họ thuộc 1 bộ của lớp Giáp sát (crustacea). Ngành Thân mềm (Mollusca) thu được 1 họ của bộ Mesogastropoda thuộc lớp Chân bụng(Gastropoda). Ngành Giun đốt (Annelida) bắt gặp 2 lớp: lớp Đỉa (Hirudinea) thu được 2 họ thuộc 2 bộ khác nhau ; lớp Giun ít tơ (Oligochaeta) bắt gặg 1họ thuộc 1 bộ của lớp này. 2. Chỉ số ASPT dao động trong khoảng 3,7 – 6,5; trung bình là 5,6 ± 0,8; chất lượng môi trường nước được đánh giá ở các mức độ: nước bẩn ít, nước bẩn vừa và nước khá bẩn Nhưng nhìn chung chất lượng môi trường nước được đánh giá ở mức độ “nước bẩn vừa”. 3. Tại khu vực nghiên cứu chỉ số DO có giá trị trung bình là 8,2 ± 1,0 (mg/l); pH là 7,4 ± 0,4 ; độ dẫn là 5,6 ± 6,2 (mS/m); nhiệt độ nước là 21,5 ± 0,7 (0C). Các chỉ số này đều nằm trong giới hạn cho phép với đời sống của nhóm động vật thủy sinh. Đa phần các điểm nghiên cứu đều có chất lượng nước được đánh giá ở mức độ A1( sử dụng tốt cho mục đích cấp nược sinh hoạt và các mục đích khác). Tuy nhiên tại một số điểm nghiên cứu có độ đục, độ dẫn khá cao chất lượng đang có xu hướng bị suy giảm . 4. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 3 nhóm nguyên nhân chính gây nên sự suy giảm chất lượng nước tại khu vực nghiên cứu là hoạt động du lịch, hoạt động sinh hoạt và sản xuất của người dân và quá trình xây đập thủy điện. 2. Kiến nghị 1. Vì thời gian nghiên cứu còn hạn hẹp nên chúng tôi chưa thể tiến hành thu mẫu vào nhiều thời điểm khác nhau mà chỉ có thể tiến hành thu mẫu trong 1 tháng. Do đó cần phải có những nghiên cứu vào các tháng, các mùa khác nhau để có sự so sánh và đánh giá chất lượng môi trường nước tại khu vực nghiên cứu chính xác hơn. 35
  45. 2. Từ kết quả nghiên cứu thực tiễn ở vùng đệm của VQG Hoàng Liên, chúng tôi đã đề xuất 3 giải pháp giúp bảo vệ nguồn nước và đa dạng sinh học tại các địa điểm phương gồm: truyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho người dân, phát triển du lịch sinh thái bền vững, đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước và xử lý rác thải. Mong được chính quyền địa phương quan tâm, cân nhắc và áp dụng. 36
  46. TÀI LIỆU THAM KHẢO *Tài liệu tiếng Việt 1. Bộ Tài nguyên & Môi trường (2008), Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về chất lượng nước mặt (QCVN08: 2008/BTNMT). 2. Trương Thanh Cảnh, Ngô Thị Trâm Anh (2006),‘‘Nghiên cứu sử dụng ĐVKXS cỡ lớn đánh giá chất lượng nước trên 4 hệ thống kênh chính tại Thành phố Hồ Chí Minh’’, Tạp chí phát triển khoa học và công nghệ, 10(1). 3. Nguyễn Văn Hiếu, Nguyễn Lâm Tùng, 2017. Đánh giá chất lượng nước mặt tại một số suối thuộc huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái”, Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, tr. 1624- 1631. 4. Nguyễn Văn Hiếu, Phạm Huyền Trang, Lê Thị Hiền, Bùi Thùy Liên (2016), “Sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn làm sinh vật chỉ thị đánh giá chất lượng nước suối Quân Boong thuộc Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, Số 44, tr. 33-44. 5. Nguyến Văn Khánh (2008), Sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn để đánh giá chất lượng môi trường nước tại một số thuỷ vực nước ngọt ở thành hố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ. 6. Nguyễn Văn Khánh, Phạm Văn Hiệp, Phan Thị Mai, Lê Thị Quế (2007), “Sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn để đánh giá chất lượng nước bề mặt tại cánh đồng Xuân Thiều, phường Hoà Hiệp, quận Liên Chiểu, Thành phố Đà Nẵng’’, Tạp chí khoa học và công nghệ, số 24. 7. Nguyễn Văn Khánh, Trần Duy Vinh, Dương Công Vinh, Ưng Văn Thạch (2010), “Sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn để đánh giá chất lượng môi trường nước sông Phú Lộc, Thành phố Đà Nẵng’’, Tạp chí khoa học công nghệ, số 2 (37). 8. Lê Văn Khoa, Nguyễn Xuân Quýnh, Vũ Quốc Việt (2007), Chỉ thị sinh học môi trường, Nhà xuất bản Giáo dục. 37
  47. 9. Nguyễn Thị Mai (2003), “Đa dạng thành phần động vật không xương sống cỡ lớn và sử dụng chúng đánh giá chất lượng môi trường nước khúc sông Sài Gòn thuộc quận 2, thành phó Hồ Chí Minh’’, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Nông Lâm Nghiệp số 3/2004. 10. Nguyễn Xuân Quýnh, Clive Pinder, Steve Tilling (2001), Định loại các nhóm động vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. 11. Nguyễn Xuân Quýnh, Clive Pinder và Steven Tilling (2004), Giám sát sinh học môi trường nước ngọt bằng động vật không xương sống cỡ lớn, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. 12. Nguyễn Vũ Thanh, Tạ Huy Thịnh (2001), “Sử dụng chỉ số sinh học ASPT đánh giá nhanh chất lượng sinh học nước ở lưu vực sông Cầu’’, Tạp chí sinh học, số 25. 13. Đặng Ngọc Thanh, Thái Trần Bái, Phạm Văn Miên (1980), Định loại động vật không xương sống nước ngọt Bắc Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. 14. Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải (2001), Động vật chí Việt Nam, tập 5, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. 15. Hoàng Đình Trung, Mai Phú Quý (2014), “Sử dụng côn trùng nước và một số nhóm động vật không xương sống cỡ lớn để đánh giá chất lượng nước mặt sông Truồi, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế”, Báo cáo khoa học Hội nghị Côn trùng học quốc gia lần thứ 8, Nhà xuất bản Nông nghiệp, tr. 285 - 293. *Tài liệu nước ngoài 16. Adam JH (2002), “The potential of local benthic macroinvertebrates as a biological monitoring tool for river water quality’’, Proceedings of the regional symposium on environment and natural Resources, vol 1, pp. 464 - 471. 17. Bishop J. E. (1973), “Observations on the vertical distribution of the benthos in a Malaysial stream” Freshwater Biology 3, pp. 147-156. 38
  48. 18. Cao T. K. T. (2002), Systematics of the Plecoptera (Insecta) in Viet Nam, Thesis for Master’s degree, Department of Biology, The Graduate School of Seoul Women’s University. 19. Carmen Zamora - Muroz, Carmen E. Sainz - Cantero, Antonino Sanchez -Ortega, Javier Alba Tercedor (1992), “Areview biological indices BMWP and ASPT and their significance regarding water quality seasonally depndent? Factors explaining their variations’’, Universidad de Granada, Spain. 20. Duddgeon D. (1987), “The ecology of a forest stream in Hong Kong”, Archi. Hydrobiol. Beih. Ergebn. Limnol. 28, pp. 449 - 454. 21. Hoang Duc Huy (2005), Systematics of the Trichoptera (Insecta) of Vietnam, Thesis for Doctor’s degree, Department of Biology, The Graduate School of Seoul Women’s University. 22. Merritt R. W. Cummins K. W. (1996), An introduction to the aquatic insects of North America, Kendall/Hunt Publishing company, Iowa. 23. Mustow S. E. (1993), “Biological monitoring of river and integerated catchment management in England and wales’’, Scientific and legalaspeets of biological monitoring in fresh water, pp. 25 - 32. 24. Mustow S. E. (1997), Aquatic macroinvertebrates and environmental quality of northern Thai Lan, Unpublished PhD thesis, University of London. 25. Nguyen Van Vinh (2003), Systematics of the Ephemeroptera (Insecta) of Viet Nam,Thesis for the degree of Doctor of science, Department of Biology, The Graduate School of Seoul Women’s University. 26. John D Stark, John R Maxted (2007), “A use guide the macroinvertebrates community index’’, Prepakd for the Ministry for the invironment, Cauthron Report, No 1166, 58p. 27. R. Kolkwitz anh M. Marson (1909), “Okologie der tierischen Saprobien. Beitragezur Lehre von des biologischen gewasserbeurteilung’’. Internationale Revue der gesamten Hydrobiologie umd Hydrogaraphie. 2, pp. 126 - 152. 39
  49. 28. R. Kolkwitz and M. Marsson (1908), “Okologie der pflanzlichen Saprobien’’, Berichteder Deutschen Botanischen Gesellschaft. 26A, pp. 505 - 519. 29. R. S. Wilson and J.D.McGill (1977), “A new method of monitoring water quality in a stream receiving sewage effuen, using Chironomid pupalexuviae”, Water Research, No 11, pp. 959 - 962. 30. S. E. Mustow (1998), “Aquatic macroinvertebrates and environmental quality of river in northern ThaiLand’’, Unpublished PhD Thesis, University of London. 31. Supatra Pamrong (2002), “Areview of Biological Assessment of fresh water Ecosystem in Thailan’’, Report Submited To Mekong River Commission Enviroment Program . 32. Yule C. M., Sen Y. H., 2004. Freshwater invertebrates of the Malaysian region, Monash University, Malaysia. 40
  50. PHỤ LỤC I. PHỤ LỤC BẢNG Phụ lục 1. Giá trị giới hạn các thông số chất lượng nước mặt (QCVN 08: 2008 BTNMT QCKTQG) Giá trị giới hạn Đơn TT Thông số A B vị A1 A2 B1 B2 1 Ph 6-8,5 6-8,5 5,5-9 5,5-9 2 Ôxy hoà tan (DO) mg/l ≥ 6 ≥ 5 ≥ 4 ≥ 2 3 Tổng chất rắn lơ lửng (TSS) mg/l 20 30 50 100 4 COD mg/l 10 15 30 50 o 5 BOD5 (20 C) mg/l 4 6 15 25 + 6 Amoni (NH 4) (tính theo N) mg/l 0,1 0,2 0,5 1 7 Clorua (Cl-) mg/l 250 400 600 - 8 Florua (F-) mg/l 1 1,5 1,5 2 - 9 Nitrit (NO 2) (tính theo N) mg/l 0,01 0,02 0,04 0,05 - 10 Nitrat (NO 3) (tính theo N) mg/l 2 5 10 15 3- 11 Phosphat (PO4 )(tính theo mg/l 0,1 0,2 0,3 0,5 P) 12 Xianua (CN-) mg/l 0,005 0,01 0,02 0,02 13 Asen (As) mg/l 0,01 0,02 0,05 0,1 14 Cadimi (Cd) mg/l 0,005 0,005 0,01 0,01 15 Chì (Pb) mg/l 0,02 0,02 0,05 0,05 16 Crom III (Cr3+) mg/l 0,05 0,1 0,5 1 17 Crom VI (Cr6+) mg/l 0,01 0,02 0,04 0,05
  51. Giá trị giới hạn Đơn TT Thông số A B vị A1 A2 B1 B2 18 Đồng (Cu) mg/l 0,1 0,2 0,5 1 19 Kẽm (Zn) mg/l 0,5 1,0 1,5 2 20 Niken (Ni) mg/l 0,1 0,1 0,1 0,1 21 Sắt (Fe) mg/l 0,5 1 1,5 2 22 Thuỷ ngân (Hg) mg/l 0,001 0,001 0,00 0,002 1 23 Chất hoạt động bề mặt mg/l 0,1 0,2 0,4 0,5 24 Tổng dầu, mỡ (oils & mg/l 0,01 0,02 0,1 0,3 grease) 25 Phenol (tổng số) mg/l 0,005 0,005 0,01 0,02 Hoá chất bảo vệ thực vật 26 Clo hữu cơ Aldrin+Dieldrin g/l 0,002 0,004 0,00 0,01 8 Endrin g/l 0,01 0,012 0,01 0,02 4 BHC g/l 0,05 0,1 0,13 0,015 DDT g/l 0,001 0,002 0,00 0,005 4 Endosunfan (Thiodan) g/l 0,005 0,01 0,01 0,02 Lindan g/l 0,3 0,35 0,38 0,4 Chlordane g/l 0,01 0,02 0,02 0,03
  52. Giá trị giới hạn Đơn TT Thông số A B vị A1 A2 B1 B2 Heptachlor g/l 0,01 0,02 0,02 0,05 27 Hoá chất bảo vệ thực vật phospho hữu cơ Paration g/l 0,1 0,2 0,4 0,5 Malation g/l 0,1 0,32 0,32 0,4 28 Hóa chất trừ cỏ 2,4D g/l 100 200 450 500 2,4,5T g/l 80 100 160 200 Paraquat g/l 900 1200 1800 2000 29 Tổng hoạt độ phóng xạ Bq/l 0,1 0,1 0,1 0,1 30 Tổng hoạt độ phóng xạ  Bq/l 1,0 1,0 1,0 1,0 31 E. Coli MPN/ 20 50 100 200 100ml 32 Coliform MPN/ 2500 5000 7500 10000 100ml Ghi chú: Việc phân hạng nguồn nước mặt nhằm đánh giá và kiểm soát chất lượng nước, phục vụ cho các mục đích sử dụng nước khác nhau: A1 - Sử dụng tốt cho mục đích cấp nước sinh hoạt và các mục đích khác như loại A2, B1 và B2. A2 - Dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt nhưng phải áp dụng công nghệ xử lý phù hợp; bảo tồn động thực vật thủy sinh, hoặc các
  53. mục đích sử dụng như loại B1 và B2. B1 - Dùng cho mục đích tưới tiêu thủy lợi hoặc các mục đích sử dụng khác có yêu cầu chất lượng nước tương tự hoặc các mục đích sử dụng như loại B2. B2 - Giao thông thủy và các mục đích khác với yêu cầu nước chất lượng thấp.
  54. Phụ lục 2. Hệ thống điểm số BMWP đã sửa đổi để sử dụng ở Việt Nam (BMWPVIET) Các họ Điểm số Heptageniidae, Leptophlebiidae, Mayflies - Phù du Ephemerellidae, Potamanthidae, Ephemeridae, Oligoneuridae Stoneflies - Cánh úp Leuctridae, Perlidae, Perlodidae Bugs - Cánh nửa Aphelocheiridae Odonata - Chuồn chuồn Amphipterygidae 10 Phryganeidae,Molannidae, Odontoceridae/Brachycentridae, Caddis flies - Bướm đá Leptoceridae, Goeridae, Lepidostomatidae Crabs - cua Potamidae Caddis flies - Bướm đá Psychomyiidae, philopotamidae 8 Mayflies - Phù du Caenidae Stoneflies - Cánh úp Nemouridae 7 Rhyacophilidae, Polycentropodidae, Caddis flies - Bướm đá Limnephilidae Snails - Ốc Neritidae, Ancylidae Caddis flies - Bướm đá Hydroptilidae Lestidae, Calopterygidae, Gomphidae, 6 Dragonflies-Chuồn Cordulegastridae, Aeshnidae, chuồn Platycnemidae, Chlorocyphidae, Macromidae Veliidae, Mesoveliidae, Bugs - Cánh nửa Hydrometridae, Gerridae, Nepidae,
  55. Các họ Điểm số Naucoridae, Notonectidae, Belostomatidae, Hebridae, Pleidae, Corixidae Haliplidae, Dytiscidae, Gyrinidae, 5 Hydraenidae, Hydrophilidae, Hygrobiidae, Helodidae, Dryopidae, Beetles - Cánh cứng Elmithidae, Chrysomelidae, Curculionidae, Psephenidae, Ptilodactylidae Caddis flies - Bướm đá Hydropsychidae Dipteran flies - Hai cánh Tipulidae, Simuliidae Mollusca -Thân mềm Mytilidae Triclads - Sán tiêm mao Planariidae (Dugesiidae) Mayflies - Phù du Baetidae/Siphlonuridae Megaloptera - Cánh rộng Sialidae, Corydalidae Dragonflies-Chuồn Coenagrionidae, Corduliidae, 4 chuồn Libellulidae Pilidae, Viviparidae, Unionidae, Mollusca -Thân mềm Amblemidae Leeches - Đỉa Piscicolidae Ephydridae, Stratiomyidae, True flies - Hai cánh Blepharoceridae Bithyniidae, Lymnaeidae, Planorbidae, Snails, Bivalves - Ốc, Thiaridae, Littorinidae, Corbiculidae, Hai mảnh vỏ 3 Pisidiidae
  56. Các họ Điểm số Glossiphoniidae, Hirudidae, Leeches - Đỉa erpobdellidae Crabs - Cua, Prawns - Parathelphusidae, Atyidae, Tôm Palaemonidae Dragonflies - Chuồn Protoneuridae chuồn Midges - Muỗi lắc(2 2 Chironomidae cánh) Worms - Giun ít tơ Oligochaeta (Tất cả lớp) 1 Nguồn: Nguyen Xuan Quynh, Mai Dinh Yen, Cliver Pinder and Steve Stilling (2000)
  57. Phụ lục 3: Tổng điểm BMWPVIET và chỉ số ASPT tại các điểm nghiên cứu thuộc vùng đệm của VQG Hoàng Liên, Tỉnh Lào Cai Nậm Canh Sa Pả Nậm Sài STT Bậc phân loại TV HM1 HM2 HM3 HM4 HM5 HM6 HM7 HM8 HM9 Ngành chân khớp Lớp côn trùng Bộ phù du 1 Họ Baetidae 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 2 Họ Caenidae 7 7 7 7 7 7 7 7 7 3 Họ Ephemerellidae 10 10 10 10 10 10 10 10 4 Họ Heptageniidae 10 10 10 10 10 10 10 10 10 5 Họ Leptophlebiidae 10 10 Bộ Hai cánh 6 Họ Chironomidae 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 7 Họ Enphydrridae * + + + 8 Họ Ephydridae 3 3 9 Họ Psychodidae * +
  58. Nậm Canh Sa Pả Nậm Sài STT Bậc phân loại TV HM1 HM2 HM3 HM4 HM5 HM6 HM7 HM8 HM9 10 Họ Simuliidae 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 11 Họ Tipulidae 5 5 5 5 5 5 5 5 5 Bộ Cánh lông 12 Họ Glossosomatiade * + + + + + + 13 Họ Hydropsychidae 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 14 Họ Odontoceridae 10 10 15 Họ Philopotamidae 8 8 8 8 8 8 16 Họ Rhyacophilidae 7 7 7 7 17 Họ Leptoceridae 10 10 10 10 10 Bộ Cánh rộng 18 Họ Corydalidae 4 4 4 4 4 4 Bộ Cánh nửa 19 Họ Gerridae 5 5 20 Họ Pleidae 5 5 5 Bộ Chuồn chuồn 21 Họ Cordulegastridae 6 6
  59. Nậm Canh Sa Pả Nậm Sài STT Bậc phân loại TV HM1 HM2 HM3 HM4 HM5 HM6 HM7 HM8 HM9 22 Họ Gomphidae 6 6 23 Họ Lilbellulidae 4 4 Bộ Cánh vảy 24 Họ Crambidae * + Bộ Cánh cứng 25 Họ Curculionidae 5 5 5 26 Họ Dytiscidae 5 5 27 Họ Elmidae * + + + + 28 Họ Helodidae 5 5 29 Họ Ptilodactiliidae * + Bộ Cánh úp 30 Họ Nemouridae 7 7 Lớp Giáp sát Bộ Mười chân 31 Họ Potamidae 8 8 Ngành Thân mềm
  60. Nậm Canh Sa Pả Nậm Sài STT Bậc phân loại TV HM1 HM2 HM3 HM4 HM5 HM6 HM7 HM8 HM9 Lớp Chân bụng 32 Họ Lymnaeidae 3 3 Ngành Giun đốt Lớp Đỉa Bộ đỉa không 33 Họ Erpobdellidae 3 3 3 Bộ đỉa có vòi 34 Họ Glossiphonidae 3 3 Lớp Giun ít tơ 35 Lớp Oligochaeta 1 1 1 1 1 1 1 Tổng điểm BMWP 38 26 78 78 88 93 62 89 66 Tổng số họ tham gia tính điểm 7 7 13 12 15 17 11 15 12 Chỉ số ASPT 5,4 3,7 6,0 6,5 5,9 5,5 5,6 5,9 5,5 Ghi chú: TV: Điểm chống chịu trong hệ thống điểm BMWPViệt ; “ *” : không thuộc hệ thống tính điểm BMWPViệt ; “+”: bắt gặp.
  61. PHỤ LỤC HÌNH Phụ lục 1: Một số hình ảnh tại các điểm nghiên cứu Hình 1: Điểm HM1 độ cao 580m Hình 2: Điểm HM2 độ cao 870m Hình 3: Điểm HM3 độ cao 712m Hình 4: Điểm HM4 độ cao 1319m
  62. Hình 5: Điểm HM5 độ cao 1323m Hình 6: Điểm HM6 độ cao 1244m Hình 7: Điểm HM7 độ cao 532m Hình 8: Điểm HM8 độ cao 452m
  63. Hình 9: Điểm HM9 độ cao 448m Hình 10: Thu mẫu tại thưc địa (Nguồn: Nguyễn Hương Ly – 2018)
  64. Phụ lục 2: Một số hình ảnh phân tích mẫu tại phòng thí nghiệm (Nguồn: Nguyễn Lương Ly - 2018)