Khóa luận Nghi thức tang lễ của người Việt theo Công giáo (nghiên cứu tại giáo xứ Thái Hà - Hà Nội)

pdf 77 trang thiennha21 15/04/2022 4201
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghi thức tang lễ của người Việt theo Công giáo (nghiên cứu tại giáo xứ Thái Hà - Hà Nội)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_nghi_thuc_tang_le_cua_nguoi_viet_theo_cong_giao_ng.pdf

Nội dung text: Khóa luận Nghi thức tang lễ của người Việt theo Công giáo (nghiên cứu tại giáo xứ Thái Hà - Hà Nội)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC  NGUYỄN THỊ TRANG NGHI THỨC TANG LỄ CỦA NGƯỜI VIỆT THEO CÔNG GIÁO (NGHIÊN CỨU TẠI GIÁO XỨ THÁI HÀ – HÀ NỘI) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X Người hướng dẫn: TS. Vũ Văn Chung HÀ NỘI - 2019 1
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài “Nghi thức tang lễ của người Việt theo Công giáo” tại giáo xứ Thái Hà là một công trình nghiên cứu độc lập không có sự sao chép của người khác. Đề tài là sản phẩm mà tôi đã nỗ lực nghiên cứu trong quá trình học tập tại trường cũng như thời gian đi khảo sát, tham gia trực tiếp vào tang lễ của giáo dân tại khu vực và phỏng vấn sâu các tín hữu kitô tại khu vực quanh nhà thờ Thái Hà. Trong quá trình viết bài có sự tham khảo của một số tài liệu có nguồn gốc rõ ràng và tài liệu lưu hành nội bộ tại nhà thờ Thái Hà, dưới sự hướng dẫn của TS. Vũ Văn Chung. Tôi xin cam đoan nếu có vấn đề gì tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày tháng năm 2019 Sinh viên Nguyễn Thị Trang 2
  3. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành được đề tài nghiên cứu báo cáo thực tập này, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến TS. Vũ Văn Chung, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn thành khóa luận. Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô trong khoa Triết Học, thầy cô trong chuyên ngành Tôn Giáo – Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn đã tận tình truyền đạt kiến thức trong những năm tôi học tập tại trường. Với vốn kiến thức đã được tiếp thu trong quá trình học tập không chỉ là nền tảng cho quá trình viết khóa luận mà còn là hành trang quý báu để tôi bước vào đời một cách vững chắc và tự tin. Tôi chân thành cảm ơn các quý Cha và cộng đoàn giáo xứ Thái Hà đã cho phép và tạo điều kiện thuận lời để tôi thực hiện đề tài nghiên cứu khóa luận tại giáo xứ. Cuối cùng tôi xin kính chúc quý thầy cô dồi dào sức khỏe và thành công trong sự nghiệp cao quý. Đồng kính chúc các anh (chị) em trong cộng đoàn giáo xứ Thái Hà luôn dồi dào sức khỏe, đạt được nhiều thành công tốt đẹp trong công việc. Hà Nội, ngày tháng năm 2019 Sinh viên Nguyễn Thị Trang 3
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 NỘI DUNG 9 CHƯƠNG I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGHI THỨC TANG LỄ CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁOVÀ VÀI NÉT VỀ GIÁO XỨ THÁI HÀ – HÀ NỘI 9 1.1. Cơ sở hình thành nghi thức tang lễ của người Công giáo 9 1.1.1. Quan niệm của người Công giáo về linh hồn và thể xác 9 1.1.2. Những quy định về tang lễ trong Bộ giáo luật 1983 15 1.2. Lịch sử hình thành, hoạt động và phát triển của giáo xứ Thái Hà – Hà Nội 19 1.2.1. Lịch sử hình thành giáo xứ 19 1.2.2. Hoạt động và phát triển của giáo xứ 23 CHƯƠNG II: THÁNH LỄ CẦU HỒN VÀ AN TÁNG CỦA NGƯỜI VIỆT THEO CÔNG GIÁO VÀ NGƯỜI CÔNG GIÁO TẠI GIÁO XỨ THÁI HÀ 28 2.1. Thánh lễ cầu hồn và thánh lễ an táng của người Công giáo Việt Nam 28 2.1.1. Thánh lễ cầu hồn 28 2.1.2. Thánh lễ an táng 32 2.2. Các nghi thức diễn ra trong tang lễ ở giáo xứ Thái Hà 33 2.2.1. Những nghi thức trước khi chôn cất người chết 33 2.2.2. Những nghi thức sau khi chôn cất người chết 39 2.3. Giá trị và những tồn tại cần khắc phục trong nghi thức tang lễ của người Công giáo Việt Nam . 44 2.3.1. Giá trị 44 2.3.2. Những tồn tại cần khắc phục 51 KẾT LUẬN 55 PHỤ LỤC 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO 70 4
  5. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong quan niệm về nghi lễ vòng đời của con người, cái chết là sự chuyển giao giai đoạn của một đời người. Do đó, việc chuẩn bị các nghi thức liên quan đến cái chết đóng vai trò quan trọng đối với mỗi dân tộc, mỗi gia đình, dòng họ và cá nhân. Tang ma có thể được xem là một trong những nghi thức quan trọng để bày tỏ tâm tình, sự kính trọng “đền ơn, đáp nghĩa” của người còn sống với người đã mất Cũng là lúc để người thân trong gia đình, bạn bè tưởng nhớ về những việc mà người chết đã làm khi còn sống, là thời gian để chính họ suy ngẫm về cái chết của chính bản thân mình. Đồng thời còn là sự chuẩn bị của người sống tiễn đưa người qua đời về thế giới của vĩnh hằng. Đó là công việc bắt buộc phải làm và là trách nhiệm, bổn phận của con cái báo hiếu bố mẹ, ông bà, tổ tiên. Tùy vào từng tôn giáo, phong tục tập quán khác nhau, sự thay đổi của kinh tế, xã hội mà nghi thức tang ma ở mỗi nơi, mỗi vùng, thâm chí ngay trong cùng một tôn giáo lại được tổ chức và thực hành khác nhau, nhưng tất cả đều hướng đến thế giới tâm linh, với mong muốn người khuất được về nơi yên nghỉ, đến thế giới khác tốt đẹp hơn. Một điểm đặc biệt trong tang lễ của người Công giáo nói chung và người Việt theo Công giáo nói riêng là không mang màu sắc bi thương, đau buồn giống như tín ngưỡng truyền thống của người Việt Nam, mặc dù bị ảnh hưởng ít nhiều từ phong tục tang ma của người Việt. Thay vì đau buồn trước sự ra đi của người thân, sự mất mát của cá nhân, họ mang trong mình sự hy vọng, niềm tin mãnh liệt vào sự sống sau khi chết “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”, tin vào linh hồn, tin ở sự công bình thưởng phạt của luật nhân quả luân hồi, và tin có thiên đàng địa ngục “ngay khi còn sống, con người đã mang trong mình sự chết, vì thế mà con người sẽ phải chết. Chết là một kết thúc của ta trong cuộc sống này, và mọi cái ta sở hữu cũng đều chấm dứt” (x. Hc 41, 1). 1
  6. Niềm tin này đôi khi bị cho là mê tín dị đoan. Tuy nhiên, không ai có thể phủ nhận tác dụng tích cực của niềm tin này đối với đạo đức xã hội Việt Nam ngày nay. Bởi lẽ, nhờ có niềm tin con người mới cố gắng sống tốt hơn, tích cực làm điều thiện nhiều hơn và tránh làm những điều ác ngay cả khi một mình nơi thanh vắng “Sự chết nhắc nhở ta về bản chất thật ngắn ngủi, thật mong manh phù du của đời sống con người trên dương thế. Đứng trước định mệnh khắt khe đó, người ta dễ có một nhận định sầu thảm đôi khi sinh ra một thất vọng chán chường” (x. Sm 12, 23). Và cũng chính vì niềm tin mãnh liệt vào sự sống sau cái chết mà người Công giáo tôn trọng hình thức án táng (hay còn gọi là chôn cất) người quá cố, để thi hài người quá cố được nguyên vẹn cho đến ngày phán xét của Chúa.Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, diện tích đất để xây dựng phần mộ, chôn cất người quá cố dần bị thu hẹp do đất đai phải sử dụng cho những mục đích kinh tế, chính trị.Vì vậy, những năm trở lại đây, nhà nước Việt Nam khuyến khích người dân lựa chọn hình thức hỏa táng người chết để hạn chế tối đa việc sử dụng đất canh tác, đất phát triển công nghiệp. Hỏa táng là một hình thức rất hợp vệ sinh, bảo vệ được môi sinh, lại giảm bớt được rất nhiều công đoạn như xây mộ, tảo mộ, bảo quản mộ, cải táng, di dời Cho nên việc hỏa táng càng ngày càng được phổ biến rộng rãi. Hình thức hỏa táng không được đề cập đến trong Kinh Thánh. Kinh Thánh chỉ nói tới việc Thiên Chúa chấp nhận hỏa táng như một cách để bảo vệ di cốt của người chết. Thế nhưng, để đáp ứng với tình hình thực tế, năm 1963, hỏa táng đã được Giáo Hội nhìn nhận là cách mai táng hợp pháp“hỏa táng tự thân không đi ngược với truyền thống Ki-tô giáo.” Hỏa táng thực chất không ảnh hưởng gì đến sự phục sinh thân xác của niềm tin Kitô, bởi “thân cát bụi phải trở về cát bụi” (St 2,7; 3, 19). Nó cũng không làm di hại đến lòng tôn trọng thi hài người quá cố hay gián đoạn các cử hành hậu sự. Hỏa táng chỉ là việc dùng nhiệt độ cao để đẩy nhanh tiến trình phân rã và trở về cát bụi của thân xác vật chất mà thôi. Ngày tận thế, mọi người đều sẽ trỗi dậy mà chịu 2
  7. phán xét chung; không một không gian hay khoảng cách nào có thể giam cầm hay tách lìa họ được, vì chẳng có gì chống trả được ý Chúa (x. Kh 20,11-13; 1Cr 15, 23-28.35-38). Qua nghi thức tang ma của người Việt theo Công giáo ta có thể giải mã được thế giới tâm linh của những người có đức tin từ đó ứng dụng những quan điểm tích cực, những nghi thức tang ma tiến bộ, phù hợp của họ vào xã hội Việt Nam hiện nay. Đặc biệt là trong tình hình văn hóa – tư tưởng đang xuất hiện nhiều những quan điểm, tư tưởng dị bản ngầm phá hoại đi nét đẹp văn hóa, phong tục của người Việt, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tinh thần và vật chất của người Việt nói chung và các tín đồ Công giáo nói riêng.Điều này cũng thể hiện rõ ý thức và trách nhiệm của đồng bào các tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng trong việc thực hiện luật pháp Nhà nước và nếp sống văn minh, gia đình văn hóa trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Theo đúng tinh thần của Quyết định số 308/2005/QĐ - TTG, của Thủ tướng Chính Phủ về Ban hành quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Quyết định này nêu rõ: “Điều 6. Tổ chức việc tang phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về hộ tịch, môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm; việc tang cần được tổ chức chu đáo, trang nghiêm, gọn nhẹ, tiết kiệm; khi đưa tang phải tuân thủ các quy định của pháp luật về an toàn giao thông và trật tự an toàn công cộng; hạn chế tối đa việc rắc vàng mã, tiền âm phủ trên đường; không rắc tiền giấy hoặc tiền xu trên đường; thực hiện những quy định trong hương ước, quy ước của địa phương về việc tang. Việc quàn, chôn cất, hoả táng, điện táng, bốc mộ và di chuyển thi hài, hài cốt phải thực hiện theo quy định tại Điều lệ Vệ sinh ban hành kèm theo Nghị định số 23/HĐBT ngày 24 tháng 11 năm 1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Điều 7. Tang phục; cờ tang và treo cờ tang theo phong tục truyền thống của từng vùng, miền, dân tộc, tôn giáo. 3
  8. Điều 8. Khuyến khích thực hiện các hình thức sau trong việc tang: 1. Sử dụng băng, đĩa nhạc tang thay cho phường bát âm. 2. Hạn chế mang vòng hoa. 3. Các hình thức hoả táng, điện táng. 4. Các tuần tiết trong việc tang như lễ cúng 3 ngày, 7 ngày, 49 ngày, 100 ngày, giỗ đầu và cải táng nên tổ chức trong nội bộ gia đình, họ tộc, bạn thân” [37]. Từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Nghi thức tang lễ của người Việt theo Công giáo” (Nghiên cứu tại Giáo xứ Thái Hà – Hà Nội). Lấy bối cảnh giáo xứ Thái Hà thuộc Giáo Hạt Hà Nội là khu vực nghiên cứu, bởi đây là một giáo xứ có lịch sử thành lập hơn 80 năm gắn liền với những thằng trầm của giáo hội Công giáo và gắn chặt với lịch sử Việt Nam trong suốt gần một thập kỷ. 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến Nghi thức tang ma của người Việt theo Công Giáo đã có rất nhiều nghiên cứu của các tác giả thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà vấn đề này chưa được nghiên cứu một cách hệ thống. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu dưới đây: Có thể nói, nghi thức tang ma là một trong những nghi thức quan trọng đối với đời sống của người Việt. Nó chi phối đời sống người Việt ở nhiều lãnh vực trong sinh hoạt hàng ngày. Mặt khác nghi lễ tang ma là một yếu tố mang yếu tố tâm linh, tính bản địa, bản sắc văn hóa của khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng, đồng thời nó là một đề tài gây tranh luận sôi nổi của hầu hết các tôn giáo khác nhau như: Ki-tô giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Đạo giáo, Phật Giáo, Nho giáo, Thần giáo, Do Thái giáo Và ngày nay nó vẫn còn là vấn đề nan giải đối với các nhà khoa học: “Thờ cúng tổ tiên trong lịch sử truyền giáo” của Đỗ Quang Hưng trong bài tham luận tại Toạ đàm về Tôn kính tổ tiên, Huế. Hay Giáo Hội Công Giáo, “Các nghi thức”, thuộc nhà xuất bản Tôn giáo. Hội đồng Giám mục Việt Nam “Sống đạo theo cung cách Việt Nam” 4
  9. “Tài liệu hội thảo mùa phục sinh”. Mai Diệu Anh (2011), “Một số vấn đề hội nhập nghi lễ Công giáo với tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên người Việt hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo.Nguyễn Hồng Dương (2011), “Tổ chức xứ, họ đạo Công giáo ở Việt Nam, lịch sử - hiện tại và những vấn đề đặt ra”, ở mỗi khía cạnh nào đó đều bàn đến thế giới tâm linh, đặc điểm nghi thức tang ma của cộng đồng người Việt theo Công giáo. Cuốn sách “Cẩm nang các nghi thức Bí tích và Á bí tích” của linh mục Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ, thuộc giáo phận TP. Hồ Chí Minh, nxb 2003, hay cuốn “Giờ Chúa gọi nghi thức viếng xác và cầu hồn”, nxb Tôn giáo 2010, “Nghi lễ An táng và Thánh Lễ Cầu Hồn” (UBGM.PV) đưa ra đầy đủ các bước diễn ra nghi thức Phụng Vụ và trong đó bao gồm cả Thánh Lễ tang lễ của người theo Công giáo, tuy nhiên, cuốn sách chỉ có thể giúp người sử dụng biết được các bước diễn ra nghi thức chứ không đi sâu vào phân tích ý nghĩa, mục đích của việc thực hiện các nghi thức đó. Cuốn sách Nếp sống đạo của người Công giáo Việt Nam, Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo, PGS. TS. Nguyễn Hồng Dương chủ biên, nxb Từ Điển Bách Khoa, 2010; hay cuốn Công giáo trong văn hóa Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Hồng Dương, nxb Văn Hóa Thông Tin, 2001 đã nói tới vấn đề Tang Lễ và những nghi thức tang ma của người Việt theo Công giáo, tuy nhiên chỉ dừng lại ở một số khu vực ít bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của kinh tế, chính trị, xã hội hay một vùng dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, tất cả các tác phẩm trên đều chưa đi sâu được vào bản chất, tính riêng của các nghi thức diễn ra trong tang ma, giá trị nhân sinh trong nghi thức tang lễ của người Công giáo Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ 3.1. Mục đích Trên cơ sở phân tích và làm rõ quan niệm của người Công giáo về thể xác và linh hồn có thể hiểu được ý nghĩa của các nghi thức diễn ra trong Thánh lễ An Táng của người Việt theo Công giáo và từ đó thấy được giá trị nhân sinh trong nghi thức tang lễ của người Công giáo ở Việt Nam. 5
  10. 3.2. Nhiệm vụ - Thứ nhất: Phân tích cơ sở hình thành nghi thức tang lễ của người Việt theo Công giáo và quá trình hình thành, hoạt động và phát triển của giáo xứ Thái Hà – Hà Nội. - Thứ hai: Phân tích các nghi thức diễn ra trong thánh lễ cầu hồn và an táng của người Công giáo Việt Nam và người Công giáo tại giáo xứ Thái Hà – Hà Nội, từ đó hiểu được giá trị nhân sinh và những tồn tại cần khắc phục trong nghi thức tang lễ của người Công giáo Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Khóa luận tập trung nghiên cứu quan niệm của người Công giáo về thể xác và linh hồn từ đó phân tích đặc điểm, ý nghĩa và tiến trình vận hành của các nghi thức diễn ra trong tang lễ của người Việt theo Công giáo. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Khóa luận giới hạn trong phạm vi là cộng đồng tín đồ người Việt theo Công giáo tại giáo xứ Thái Hà – Hà Nội (địa chỉ: 180/2 Nguyễn Lương Bằng – Quang Trung – Đống Đa – Hà Nội) trong khoảng thời gian từ năm 2015 – 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài được thực hiện dựa trên cở sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng Sản Việt Nam về quy định tang lễ của các tôn giáo ở Việt Nam. Đề tài cũng tiếp thu những kết quả của các công trình nghiên cứu có liên quan đến khóa luận trong những năm gần đây. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài tôi quan tâm là “Nghi thức tang lễ của người Việt theo Công giáo” (nghiên cứu tại khu vực giáo xứ Thái Hà – Hà Nội). Để thực hiện mục đích nghiên cứu đặt ra, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu: 6
  11. Khảo sát – tham gia: là tiến hành những cuộc điều tra, khảo sát trong nghiên cứu khoa học. Đi điền dã giúp cho việc thu thập tư liệu và điều tra thực tế được chuẩn xác nhất để phục vụ cho đề tài của mình. Quan sát: là cách thu thập dữ liệu, thông tin cần thiết cho một đề tài nghiên cứu, tìm hiểu nghi lễ tang ma ở một giáo xứ thì việc quan sát giúp đề tài có được góc nhìn khách quan và khái quát nhất. Phỏng vấn sâu: là quá trình thu thập thông tin nghiên cứu bằng các cuộc đối thoại có chủ đích với các thành viên trong cộng đồng kitô hữu, từ đó thâm nhập vào đời sống ki-tô mà không mất quá nhiều thời gian tìm kiếm thông tin, được tham dự vào cuộc sống của thông tín viên thông qua việc lắng nghe, chia sẻ, ghi nhận những thông tin chân thành. Phương pháp so sánh, đối chiếu: là phương pháp dùng hai hay nhiều các chỉnh thể so sánh với nhau để thấy điểm giống và khác nhau, tìm ra bản chất của sự vật, hiện tượng. Trong bài nghiên cứu tôi so sánh giữa tang ma người theo Công giáo và người không theo Công giáo trong phạm vi giáo xứ Thái Hà tìm ra được cái tương đồng và khác biệt trong quan niệm về hồn và sự tồn tại của hồn sau khi chết và hình thức thể hiện tấm lòng của người sống đối với người đã khuất cũng như trong một số nghi lễ cụ thể diễn ra của đám tang. 6. Đóng góp chính của khóa luận - Khóa luận làm sáng tỏ quan niệm về linh hồn và thể xác của người Công giáo - Khóa luận phân tích được đặc điểm, ý nghĩa và tiến trình vận hành của các nghi thức diễn ra trong tang lễ của người Việt theo Công giáo. - Khóa luận chỉ ra được giá trị nhân sinh và những tồn tại cần khắc phục trong nghi thức tang lễ của người Công giáo ở Việt Nam. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận Đề tài khóa luận khái quát một cách hệ thống quan niệm về linh hồn và thể xác của những người có niềm tin tôn giáo, từ đó hiểu được ý nghĩa và tiến 7
  12. trình vận hành của các nghi thức diễn ra trong một đám tang của người Công giáo ở Việt Nam. 8. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài khóa luận “Nghi thức tang lễ của người Việt theo Công giáo” tại giáo xứ Thái Hà gồm 2 chương, 5 tiết. 8
  13. NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGHI THỨC TANG LỄ CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO VÀ VÀI NÉT VỀ GIÁO XỨ THÁI HÀ – HÀ NỘI 1.1. Cơ sở hình thành nghi thức tang lễ của người Công giáo 1.1.1. Quan niệm của người Công giáo về linh hồn và thể xác Kinh Thánh bộc lộ rất rõ quan điểm về con người và linh hồn, đặc biệt khi đứng dưới góc nhìn của Tân Ước: Con người là một hữu thể thuộc về vũ trụ, có thể chất và tồn tại trong một thân xác hay huyết nhục cụ thể, bên cạnh đó, con người cũng đồng thời là một sinh vật. Hữu thể con người không tự đủ cho chính mình, có vô số những khát vọng, nhu cầu về tình cảm, sự biểu lộ cảm xúc, thái độ khác nhau, con người cũng có khả năng lý luận, suy tư, lập kế hoạch và đề ra quyết định, và điều quan trọng là con người có khả năng tiếp nhận sự tác động từ Thiên Chúa, có khả năng tiếp nhận sự sống từ nơi Thiên Chúa, khả năng có được một tâm hồn chính trực. Khả năng của con người không phải là điều gì tự sức của con người có được và có thể sở hữu như của riêng mình mà đó là do “thần khí” của Thiên Chúa, chính năng lực của Thần Khí Người làm cho con người trở nên mạnh mẽ. Thần khí là thực tại thần linh, Thần khí biểu thị quyền năng mà Thiên Chúa có thể thi thố bất cứ khi nào. Trong Tân Ước, Thần Khí được mặc khải như Đấng liên kết khăng khít với Chúa Cha và Chúa Con trong việc thực hiện công trình cứu độ. Trong Cựu ước lẫn Tân ước, nhất là trong các thư của thánh Phaolô, không phải lúc nào cũng dễ dàng phận biệt được ý nghĩa đích xác của hạn từ “thần khí”, xét như một khái niệm nhân học thì “thần khí là một quan năng để tiếp cận Thiên Chúa” [56; tr. 159]. Một nét đặc trưng của Tân ước nói chung và đặc biệt của các văn phẩm Phaolô, đó là sự đối lập giữa thần khí và xác thịt (xc. Mt 26,41; Mc 14,38; Ga 3,6; 6,36; Rm 8,1-11, Gl 5,16-26,). Một bên là “thần khí”, tức 9
  14. quyền năng Thiên Chúa được thông ban cho con người, ngược lại, bên kia là “xác thịt” bị coi như sự yếu đuối của con người. Và “linh hồn” chính là “thần khí” (F. Âme; L. Anima; E. Soul), các tôn giáo đều cho rằng linh hồn là phần chính cốt, phần thiêng liêng của mỗi con người, chính linh hồn hình thành lên cuộc sống, năng lực và nhân cách của mỗi con người: linh hồn ở bên ngoài phần xác thịt, tồn tại mãi ở thế giới bên kia, cả sau khi phân xác thịt đã tan rữa thành tro bụi. Đức tin và linh hồn có từ thời xa xưa, trong cách lý giải theo thuyết vật linh về các hiện tượng tự nhiên, như hơi thở, giấc mơ, cái chết Khái niệm linh hồn gắn liền với giáo lý về Chúa. Chúa ban tặng linh hồn cho con người từ khi sinh ra ở đời. Giáo lý về linh hồn đã đánh lạc hướng tín đồ khỏi nỗi đau khổ hàng ngày, giải thoát khỏi mọi sự áp bức bằng con đường cứu độ, mong đợi lên thế giới Thiên Đàng. Trong Tân ước, xuất hiện trong lời nói của Đức Giêsu về sự đối lập giữa phần xác – phần hồn “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10,28). Linh hồn được gắn với sự bất tử, khi nhắc đến linh hồn của những người quá cố. Linh hồn không thể cắt nghĩa được dựa theo cấu tạo sinh lý giống như phần xác con người. Trí khôn nói cho ta rằng: “phải có một nguyên lý linh thiêng nối kết với xác, mà không vì thế cũng giống y như xác. Ta gọi là “hồn”. Mặc dù không thể dùng khoa học để chứng minh là có linh hồn, tuy nhiên nếu không đếm xỉa tới cái yếu tố linh thiêng làm chủ vật chất này, ta không thể hiểu được rằng con người là một hữu thể linh thiêng”. (153- 154,163), vì lẽ đó “hãy làm điều gì tốt cho xác bạn, để hồn bạn được vui vẻ ở trong xác.” Trích lời Thánh Têrêsa Avila (1515-1582), nhà thần bí Tây Ban Nha, tiến sĩ Hội Thánh. Và Đức Bênêđictô XVI, Deus Caritas est cũng khẳng định rằng: Con người chỉ thực sự là con người khi hồn và xác hiệp nhất sâu xa với nhau. Nếu con người chỉ muốn là tinh thần và muốn từ bỏ thể xác phàm tục thì cả tinh thần lẫn thể xác đều mất hết phẩm giá. Ngược lại, con người 10
  15. muốn từ bỏ tinh thần và coi trọng vật chất, coi thân xác như thực tại duy nhất của mình thì họ cũng tự làm mất đi giá trị cao cả của mình. Linh hồn là cái làm cho ta trở thành một con người. Nhờ linh hồn, con người có thể xác nhận cái "Tôi" của mình, và đứng trước Thiên Chúa như một cá thể không ai thay thế được. Vì linh hồn không phải là vật chất, nên chúng ta không thể tách ra từng phần và phần thiêng liêng của mỗi con người chỉ có thể hiện hữu qua hành vi tạo dựng trực tiếp của Thiên Chúa. Trong khi khá ít những tư tưởng nói về cuộc sống con người sau cái chết để chờ đợi được phục sinh, thì tác giả sách Khôn ngoan viết vào những năm 30 trước công nguyên tại Alexandria, đã đề cập đến linh hồn con người, đó là “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa. Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi. Khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng ta tưởng là họ bi tiêu diệt. Nhưng thật ra họ đang hưởng bình an” (Kn 3 1-3). Kinh Nghĩa Đức Tin đã viết: “Linh hồn thiêng liêng chẳng hề chết được. Và đến ngày tận thế, xác loài người ta sẽ sống lại mà chịu phán xét, kẻ lành lên Thiên đàng hưởng phúc đời đời, kẻ dữ sa Hỏa ngục chịu phạt vô cùng” [27; tr. 35]. Và trong Kinh Tin Thánh cũng có đoạn viết về sự sống sau cái chết. Người Việt theo Công giáo cũng tin rằng giữa những người đang sống và những người khuất vẫn có mối liên hệ qua lại. Các Thánh sẽ cùng Thiên Chúa phù hộ cho những người sống. Người sống tạo lập các công phúc nhằm giúp các linh hồn chuộc những tội lỗi đã phạm phải khi còn ở trần gian, có thể lên Thiên Đàng và lại cùng Thiên Chúa phù hộ cho chính người sống. Chết là khi linh hồn rời khỏi xác. Linh hồn mang tính thiêng liêng chẳng hề tan biến. Linh hồn ngay khi rời khỏi xác thịt con người phải đến trước tòa Đức Chúa Giêsu mà chịu phán xét riêng về tội phúc mà chịu thưởng phạt tùy theo việc lành, dữ mình đã làm khi còn ở thế gian. Sau khi nhận sự phán xét của Chúa, những người sạch tộicùng những người đã đền tội cho đủ 11
  16. mới được lên Thiên đàng. Thiên đàng là nơi chứa đựng sự thanh nhàn vui vẻ đời đời, mà phúc nhất trên Thiên đàng là được chiêm ngưỡng dung nhan Đức Chúa.Những người lành, nhưng còn mắc tội mọn hay là đền tội chưa đủ, thì phải chịu phạt nơi luyện ngục. Có thể cứu rỗi linh hồn từ luyện ngục bằng cách người thân của họ cầu nguyện và làm lễ cho các linh hồn. Những người chỉ cần phạm tội trọng là đã phải chịu hình phạt hỏa ngục. Hỏa ngục là chốn hình khổ, để mà phạt ma quỷ cùng những kẻ chết đang khi mắc tội trọng. Những kẻ đã bị xa vào hỏa ngục thì không thể cứu giúp và hình phạt không thể giảm bớt. Quan niệm về sự chết, sự sống, về phần hồn, phần xác là những tín điều mà mọi giáo dân Công giáo đều tin theo. Đối với người Kitô hữu, kẻ sống cũng như kẻ chết, sẽ được tham phần vào sự sống lại của Đức Kitô nơi thân xác họ. “Vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại” (Rm 6,5). Đức Giêsu đã nói về sứ mạng cứu thế của Ngài, khi chiến thắng tội lỗi và sự chết rằng: Quả thật, đây là ý muốn của Cha tôi, những ai thấy Chúa Con và tin vào Người Con, sẽ có được sự sống đời đời, và sẽ cho họ sẽ được chỗi dậy trong ngày sau hết. Công đồng Vatican II đã nói lên tình trạng của con người trước cái chết như sau: Trước cái chết, bí ẩn về thân phận con người lên đến tột độ. Con người không những bị hành hạ bởi đau khổ và sự tiến dần đến tan rã của thân xác, mà hơn thế nữa, còn bị dày vò bởi nỗi lo sợ bị tiêu diệt đời đời Mọi cố gắng của kỹ thuật, dù rất hữu ích, cũng không thể làm nguôi ngoai được nỗi lo âu của con người, bởi vì đời sống sinh vật, dù có được kéo dài thêm đi nữa, cũng không thể thỏa mãn được khát vọng cuộc sốngtrong lòng con người. Trước cái chết, óc tưởng tượng của con người đành bất lực. Nhưng Mạc khải của Thiên Chúa quả quyết rằng con người được Chúa dựng nên để đạt tới cứu cánh hạnh phúc sau những khổ cực trần thế này. Hơn nữa, đức tin Kitô giáo còn dạy rằng giả như con người không phạm tội, thì đã không phải 12
  17. chết; sự chết này sẽ bị đánh bại khi Đấng Cứu Thế toàn năng và nhân ái mang lại cho con người sự cứu rỗi mà vị tội lỗi, họ đã đánh mất. Bởi vì Thiên Chúa đã và đang kêu gọi con người đem toàn thân kết hợp với Ngài trong sự hiệp thông vĩnh viễn vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa. Chúa Kitô đã đem lại chiến thắng ấy khi Người sống lại và nhờ cái chết của Người, Người đã giải phóng con người khỏi sự chết. Vậy đức tin với những lý chứng vững chắc đem lại giải đáp cho bất cứ ai khắc khoải ưu tư về số phận tương lai của mình. Đồng thời đức tin còn cho con người khả năng hiệp thông với những anh em thân yêu đã chết trong Chúa Kitô, và làm cho họ hy vọng rằng những người ấy đã được sống thực sự nơi Thiên Chúa (GS 18). Thật vậy, để giải thoát ta khỏi quyền lực Thần chết, trước tiên Đức Kitô đã đến để nhận lấy cho mình số phận tử vong của chúng ta. Ngài thực hiện thánh ý của Chúa Cha là muốn cứu độ tất cả mọi người. Ngài đã chết “vì chúng ta” (1 Tx 5, 10), “cho tội chúng ta” (1Cr 15, 3) để làm hy tế xá tội (x. Dt 9). Nhờ cái chết của Ngài, chúng ta được hòa giải với Thiên Chúa x. Rm 5, 10), hầu có thể lãnh nhận gia nghiệp muôn đời (x. Dt 9, 15). Ngài đã chiến thắng tử thần bằng sự phục sinh vinh hiển (x. 1Cr 15, 4), nên quyền lực của Thần chết từ đó đã bị vô hiệu hóa (x. Rm 6, 9). Kể từ giây phút đó, tương quan của con người với sự chết đã thay đổi, vì từ nay Đức Kitô chiến thắng sẽ luôn chiếu soi “những người ngồi trong bóng sự chết” (Lc 1, 79). Nếu bạn đã sống với mọi khoảnh khắc mà Chúa ban cho bạn, thì bạn sẽ không còn than vãn và khóc lóc khi cái chết cận kề Những người đã chết một cách hạnh phúc là những người từng nỗ lực để sống. Qua việc phục sinh, Ngài trở thành thủ lĩnh của một nhân loại, Ngài cũng sẽ mang tất cả nhân loại đi vào cái chết và đến với sự phục sinh giống như Ngài. Sách Giáo lý Công giáo, điều 1005, cũng cắt nghĩa theo lời dạy của Thánh Phaolô, với một viễn cảnh tràn trề hy vọng: “Để được chỗi dậy với Đức Kitô, chúng ta phải chết với Đức Kitô, tức là chúng ta phải xa lìa thân xác để được cư ngụ với Chúa”. Sự chia lìa tạm thời này, chính là cái chết, khi 13
  18. thân xác tách rời khỏi linh hồn. Linh hồn sẽ được kết hiệp lại với thân xác trong ngày kẻ chết sống lại. Vì thế, cùng với những linh hồn công chính đã ra đi trước chúng ta, các Kitô hữu sẽ chờ đợi Vương quốc của Thiên Chúa, nơi đó tất cả sẽ được viên toàn, và Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự. Ngoài những lý lẽ suy luận của trí khôn nói trên, những tín hữu Ki-tô còn có một lý lẽ chắc chắn khẳng định có đời sống vĩnh cửu sau khi chết dựa vào mạc khải của Thiên Chúa trong Thánh Kinh, đặc biệt, họ tin vào lời giảng dạy của Đức Giê-su về đời sống của con người sau khi chết rằng: Linh hồn con người sau khi chết sẽ chịu sự phán xét của Chúa về những việc mình đã làm khi còn sống. Đến ngày tận thế, thì mọi xác chết đều được Thiên Chúa dùng quyền phép của mình mà cho sống lại để cùng chịu phán xét và chung số phận với linh hồn. Suy ngẫm về sự chết là điều cần thiết, giúp ta biết quan tâm hơn đến cuộc sống: làm thế nào để yêu, để tha thứ và để chấp nhận; làm thế nào để tránh những tội lỗi, những vấp phạm, làm thế nào để khẳng định về chính mình như thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi”. Vì thế“Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (Rm 8, 39). Mối quan hệ qua lại giữa người sống với các linh hồn và Thiên Chúa chính là cơ sở niềm tin của sự chuyển giao công trạng. Người sống thờ kính những người đã khuất để bày tỏ lòng biết ơn của mình với họ vì những gì họ đã làm cho con cháu khi còn sống và cả những điều họ sẽ cùng Chúa ban phúc cho con cháu sau khi chết. Như vậy, theo kế hoạch của Thiên Chúa, linh hồn và thể xác sẽ hiệp thông với nhau, cái chết của con người không mang tính chết chóc, nhưng là một định hướng cho cuộc sống mới. Điều này thể hiện rất rõ qua các nghi thức diễn ra trong Thánh lễ An táng của người Việt theo Công giáo tại giáo xứ Thái Hà. 14
  19. 1.1.2. Những quy định về tang lễ trong Bộ giáo luật 1983 Lễ tang là một việc quan trọng và phức tạp trong đời sống xã hội con người, tùy vào từng tín ngưỡng, tôn giáo lại có cách lý giải xung quanh cái chết và cách xử lý xác người chết như thế nào. Ngay thời sơ khai, nhiều tôn giáo đã cho rằng con người sống chỉ là gửi, chết mới là về chốn lâu dài; sau khi chết, con người vẫn tiếp tục sống một cuộc sống như trước, linh hồn họ vẫn ở lại với người đang sống, hoặc ở lại một nơi nào đó, hoặc tiếp tục sống tại thế giới bên kia. Nhưng dù ở đâu, linh hồn người chết vẫn ảnh hưởng đến những người đang sống. Quan niệm như vậy, cho nên đối với Giáo hội Công giáo, lễ tang có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống tâm linh và lễ tục vòng đời. Vì vậy, việc cử hành lễ an tang của người Việt theo Công giáo được ghi chép lại khá cụ thể trong cuốn “Bộ Giáo Luật 1983” của nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội 2004, hay trong cuốn sách “Nghi thức An táng Công giáo” – Order of Christian Funerals, viết tắt là OCF được ấn hành năm 1989, là ấn bản Anh ngữ được Tòa Thánh phê chuẩn theo quy định của giáo luật. Ấn bản bằng tiếng Tây Ban Nha El Ritual de las Exequias Cristianas, được phê chuẩn vào năm 2011, đã được chấp thuận sử dụng trong các giáo phận tại Hoa Kỳ. Lễ tang được tổ chức muôn hình vạn trạng khác nhau trong lịch sử các dân tộc, bộ lạc, Lễ tang gồm các hình thức xử lý với thây người chết ( như thiêu, chôn sâu có hoặc không cải táng, ), làm các nghi lễ, cầu nguyện, khấn cúng, làm các “phép” cho người chết siêu thoát, làm các công trình trên mộ, tưởng nhớ người mất. Và đương nhiên mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo lại xếp đặt và chọn lựa nhiều hinh thức xử lý khác nhau theo nguyên tắc giáo lý riêng của mình, nhằm đi tới những hiệu quả khác nhau trong đời sống tâm linh của tín đồ đạo mình. Đối với lễ tang của người Việt theo Công giáo, các nghi thức diễn ra trong một tang lễ là công việc cử hành của cộng đoàn Kitô hữu, của người thân trong gia đình nhằm bày tỏ nỗi đau buồn, đồng thời nói lên niềm hy vọng 15
  20. khi hướng về cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô. Trước cái chết của một người Kitô hữu vốn đã sống cuộc đời được khởi sự từ nước Thánh Tẩy và được củng cố nơi bàn tiệc Thánh Thể, Giáo Hội thay mặt người mới qua đời dâng lời chuyển cầu. Việc tổ chức tang lễ là trách nhiệm của Giáo Hội nhằm xoa dịu những người đang đau buồn và an ủi họ bằng nghi thức an táng với sự nâng đỡ của Lời Chúa và với bí tích Thánh Thể. Vì vậy, việc phân tích rõ những quy định về việc cử hành tang lễ và quy tắc phụng vụ diễn ra sẽ giúp chúng ta có cái nhìn hoàn thiện hơn về tang lễ của người Công giáo. Cộng đồng người Việt theo Công giáo tại giáo xứ Thái Hà chấp hành Giáo Luật mà Giáo Hội Công Giáo bàn hành, đồng thời, chấp hành đúng những quy định của Nhà nước về luật tang lễ, vì vậy, việc cử hành tang lễ về cơ bản vẫn theo một trình tự nhất định và các tín hữu tại giáo xứ Thái Hà hầu hết lựa chọn hình thức tang lễ cho người quá cố bằng hình thức Hỏa Táng. Việc cử hành lễ an táng được Giáo luật Công giáo quy định tại: - Điều 1177: Thường lệ, lễ an táng cho một tín hữu quá cố phải cử hành tại nhà thờ giáo xứ của người ấy. Tuy nhiên, mọi tín hữu hay những người lo tang lễ cho tín hữu quá cố, được phép lực chọn một nhà thờ khác để cử hành lễ an tang, miễn là được vị quản đốc nhà thờ đồng ý, và phải thông báo cho Cha Sở riêng của người quá cố biết. Nếu ai chết ở ngoài giáo xứ riêng, và thi hài không được đem về đó, cũng không có nhà thờ nào được chọn lựa hợp lệ để cửa hành tang lễ, thì lúc đó phải cử hành lễ an tang tại nhà thờ của giáo xứ nơi người ấy chết, trừ khi luật địa phương chỉ định thể khác.” - Điều 1178: “Lễ an táng của Giám mục giáo phận phải được cử hành tại nhà thờ chính tòa của giáo phận, trừ khi chính ngài đã chọn một nhà thờ khác”; - Điều 1179: “Lễ an táng của các tu sĩ hay các phần tử của tu đoàn tông đồ thường được cử hành tại nhà nguyện hay nhà thờ riêng, do cha Bề trên, nếu đó là dòng tu đoàn giáo sĩ và do cha Tuyên úy trong những trường hợp khác”. 16
  21. - Điều 1176: Các tín hữu qua đời phải được an tang theo nghi thức Giáo hội, do luật định. Qua lễ nghi an tang, Giáo Hội cầu xin ơn trợ giúp thiêng liêng cho người quá cố, tôn trọng thi hài của họ, và đồng thời đem lại ủi an và hy vọng cho người con sống. Các lễ nghi phải được cử hành đúng theo quy luật phụng vụ. Giáo Hội thiết tha khuyên nhủ nên duy trì phong tục đạo đức chôn cất thi hài người quá cố. Tuy nhiên, Giáo hội không cấp hỏa tang, trừ khi nào sự hỏa tang được chọn lựa vì những lý do trái ngược với đạo lý Ki-tô giáo. Mọi người Việt theo Công giáo, nếu không bị khai trừ vì lý do đặc biệt theo quy định của Giáo luật, lúc qua đời đều sẽ được an táng theo nghi thức tang lễ của Giáo hội. (Giáo luật, điều 1176 §1) đó là: - Trước tiên cần phải gọi điện thoại báo cho giáo xứ biết để sắp xếp lịch trình. Cần có sự phối hợp giữa văn phòng giáo xứ, gia đình người mới qua đời và nhà quàn do gia đình chọn, để nhờ giáo xứ sắp xếp buổi Canh thức cầu nguyện, Thánh lễ an táng và Nghi thức Từ biệt. - Thông thường, Thánh lễ an táng chính là yếu tố trung tâm trong Tang lễ của người Việt theo Công giáo tại giáo xứ Thái Hà. Thánh lễ an táng, cuộc tưởng niệm cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô, là cầu nguyện xin Thiên Chúa thương xót người mới qua đời và an ủi người đang sống, gồm toàn thể cộng đoàn tín hữu. - Chỉ các biểu tượng Kitô giáo mới được đặt trên hoặc kê gần quan tài trong lúc cử hành Phụng vụ an táng. Các quốc kỳ hoặc huy hiệu hội đoàn được cất khỏi quan tài lúc đến cửa nhà thờ và được đặt lại sau khi quan tài đã được đưa ra khỏi nhà thờ (Nghi thức an táng Công giáo, số 38 và số 132). - Được phép cử hành Nghi thức an táng Công giáo, gồm cả cử hành Thánh lễ an táng, cho người đã được rửa tội nhưng không phải là Công giáo, vốn tỏ rõ lòng ước ao hoặc quý mến Nghi thức Công giáo. Việc chấp nhận này sẽ thật thích đáng nếu các Kitô hữu không thuộc Giáo hội Công giáo này 17
  22. từng thường xuyên làm việc thờ phượng tại nhà thờ Công giáo hoặc gắn bó với Giáo hội Công giáo hơn cả. - Nhằm cổ vũ và tỏ lòng quý trọng đối với các mối liên hệ gia đình, những người không Công giáo trong các gia đình Công giáo cũng được mai táng trong nghĩa trang Công giáo. Giáo sĩ thuộc các cộng đoàn khác có thể chủ sự các nghi thức tại nghĩa trang theo truyền thống của mình, nếu gia đình có ý muốn như vậy, hoặc nếu đó là nguyện vọng của người quá cố. - Giáo hội khuyên nên mai táng các tín hữu Công giáo tại nghĩa trang Công giáo (Giáo luật, điều 1180 §1). Việc mai táng tại nghĩa trang Công giáo đã được làm phép là dấu chỉ của lời hứa khi chịu phép Rửa tội, đồng thời, dù đã qua đời, vẫn làm chứng cho niềm tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô. - Trẻ em chết trước khi được Rửa tội, hoặc chết ngay lúc chào đời hoặc bị sẩy thai, cũng được cử hành Nghi thức an táng Công giáo nếu cha mẹ trước đó đã muốn con mình được rửa tội. Di hài của bào thai hoặc trẻ sơ sinh, nếu có thể, nên được chôn cất một cách xứng hợp theo truyền thống Công giáo. Các di hài này hoặc được chôn trong mộ riêng từng người hoặc ở khu mai táng chung. - Không phản đối các tín hữu Công giáo hiến tặng cho y học thân thể hoặc các bộ phận cơ thể của mình sau khi chết. Khi thu nhận xác hoặc lấy các bộ phận ra, phần thi hài còn lại phải được bảo đảm xử lý một cách đúng đắn, tôn kính. Gia đình của người hiến xác được khuyến khích nên dâng Thánh lễ càng sớm càng tốt sau khi người hiến xác qua đời. Mọi phần còn lại của thi hài, sau khi bộ phận hiến tặng đã được lấy ra để cấy ghép hoặc nghiên cứu y khoa, phải được mai táng một cách xứng hợp. Nghi thức Phó dâng và Từ biệt (Nghi thức an táng Công giáo, các số 224-233) có sẵn các lời nguyện dành cho người hiến xác và gia đình của người hiến xác. - Có thể mai táng người không Công giáo trong nghĩa trang Công giáo. - Việc chăm sóc mục vụ đối với các cặp đồng tính, hiện có hai giá trị được nêu lên: tôn trọng ý muốn của người quá cố, và bảo vệ quyền được an 18
  23. táng của người tín hữu Công giáo. Trong trường hợp có điều còn hoài nghi, cần phải tham khảo ý kiến của Bản quyền Địa phương và tuân theo phán quyết của ngài. - Có thể cử hành Nghi thức an táng Công giáo cho người qua đời vì tự tử. 1.2. Lịch sử hình thành, hoạt động và phát triển của giáo xứ Thái Hà – Hà Nội 1.2.1. Lịch sử hình thành giáo xứ Giáo xứ Thái Hà là một trong những giáo xứ thuộc tổng giáo phận Hà Nội – là xứ đạo có nhiều hoạt động giá trị đóng góp cho Giáo Hội, một trong những xứ đạo trọng điểm, diễn ra nhiều sự kiện chính trị thu hút sự chú ý của các họ, xứ đạo trên cả nước. Tôi có thể tóm lược lịch sử hình thành giáo xứ Thái Hà qua một số những dữ kiện lịch sử mà tôi thu thấp được: Ðầu năm 1926, 2 linh mục tên Hubert Cousineau và Eugène Larouche đã đặt chân đến khu vực miền Bắc để giao giảng cho các linh mục ở Phát Diệm, Hà Nội và Hưng Hóa. Trong suốt quá trình giao giảng các linh mục này đã muốn thiết lập một Tu Viện Dòng Chúa Cứu Thế. Giữa năm 1926, trong kỳ kinh lược Việt Nam đầu tiên, Giám Tỉnh Thomas Pintal đã trực tiếp xúc tiến việc thành lập Dòng Chúa Cứu Thế tại miền Bắc. Năm 1928, nhờ sự giúp đỡ của Toà Giám Mục Hà Nội, 2 linh mục Hubert Cousineau và Eugène Larouche đã mua được khu đất 64 héc-ta ở ấp Thái Hà, lập nên tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội và hoạt động dựa trên Giáo Luật của giáo hội. Năm 1933 Nhà Dòng đã xây dựng toà tu viện mà hiện nay đã bị chiếm dụng làm bệnh viện Đống Đa. Năm 1935 xây dựng một ngôi đền đơn sơ kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp trong khi chờ đợi có đủ điều kiện để xây dựng một ngôi đền khang trang hơn trên khu đất là linh địa Đức Bà cũng đã bị chiếm dụng. Cũng trong năm 1935, Học Viện được thành lập. Số sinh viên Việt Nam và Canada tăng rất nhanh, vì vậy, năm 1938, Phụ Tỉnh phải xây dựng 19
  24. thêm một ngôi nhà mới dành cho Học Viện; ngôi nhà này được khánh thành năm 1939. Năm 1935, khánh thành nhà thờ, các cha mở rộng việc sùng kính Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Ngày 23-06-1935, số đầu tiên Nguyệt San Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp được phát hành. Năm 1936, Tu Viện xây dựng nhà nghỉ Mẫu Sơn. Năm 1939, Tu Viện Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội đứng ra thành lập và phụ trách Giáo xứ Thái Hà theo đề nghị của Toà Thánh và Toà Giám Mục Hà Nội, trên cơ sở là họ đạo Nam Đồng, thuộc xứ Nhà Thờ Chính Toà. Từ năm 1936, các cha bắt đầu giảng đại phúc bằng tiếng Việt tại Hà Nội. Công cuộc này sau đó phát triển và mở rộng tới các Giáo Phận Phát Diệm, Hưng Hoá, Bùi Chu. Năm 1940, mở lớp đầu tiên cho các tu sĩ người Việt Nam tại Học Viện Thái Hà. Nhân sự trong cộng đoàn ngày một đông hơn: năm 1941, Tu Viện có 66 thành viên, gồm 17 linh mục, 26 sinh viên, 12 thầy và 11 tập sinh. Giữa lúc Tu Viện đang ở trong thời kỳ thịnh vượng, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, và bóng đen u ám của nó bắt đầu ập xuống trên Cộng Ðoàn Hà Nội. Từ năm 1942 đến năm 1945, trong thời gian quân đội Nhật chiếm đóng Việt Nam, Tu Viện bị cô lập hoàn toàn, quý cha, quý thầy người Canada gần như bị quản chế trong Tu Viện, không được ra khỏi nhà và không được làm việc. Các cha Việt Nam cũng không thể đi rao giảng ở các giáo xứ ngoài thành phố Hà Nội. Nguyệt San Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp bị đình bản. Tuy nhiên, công việc mục vụ tại nhà thờ vẫn được thực hiện, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn. Năm 1945, Tu Viện lâm vào tình trạng vô cùng khó khăn vì đói kém, dịch bệnh và loạn lạc hoành hành. Tuy nhiên, quý cha, quý thầy vẫn tích cực cứu giúp các nạn nhân ở trại Thái Hà, trại Giáp Bát và Bệnh viện Bạch Mai. Riêng cha Louis-Philippe Vaillancourt còn lập một bệnh xá trong khu vực 20
  25. Nhà Dòng, chăm sóc cho khoảng 400 người, trong số đó gần 200 người đã được cứu sống. Trong công cuộc phục vụ này, Nhà Dòng đã hiệp thông sâu xa với những đau thương, mất mát của Dân Tộc. Nhiều cha, nhiều thầy trong Tu Viện đã bị bệnh nặng do lây lan khi chăm sóc các nạn nhân của trận đói và dịch bệnh năm Ất Dậu 1945. Cha Gia-cô-bê Nguyễn Khắc Cân bị hư mất một mắt. Cha Âu-tinh Nguyễn Hòa Hiệp qua đời vì lây bệnh. Cha Gio-an Ma-ri-a Nguyễn Kim Dong bị máy bay bắn chết trên đường đưa một bệnh nhân từ Nam Ðịnh ra Hà Nội cấp cứu. Ngôi nhà nguyện được xây từ năm 1938, nay đang xử dụng làm nhà thờ giáo xứ Thái Hà Tháng 08-1945, các hoạt động mục vụ bình thường tại nhà thờ Thái Hà đã được phục hồi sau một thời gian phải tạm ngưng vì những lý do khác nhau. Từ năm 1946 đến năm 1954, Tu Viện tiếp tục sống trong cảnh khó khăn vì chiến tranh bùng nổ tại Hà Nội và sau đó lan rộng khắp Việt Nam. Công việc tông đồ trường kỳ của quý cha, quý thầy Nhà Hà Nội trong giai đoạn này là trợ giúp các nạn nhân chiến tranh từ khắp nơi đổ về tị nạn tại Tu Viện, cũng như tại các trung tâm Thái Hà, Bạch Mai và Nam Ðồng. Tuy nhiên, tại những nơi có thể được, quý cha, quý thầy trong cộng đoàn mau chóng tổ chức các hoạt động mục vụ giúp đỡ giáo dân. Tháng 06-1949, Nguyệt San Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp tái ra mắt độc giả. Cha Giuse Vũ Ngọc Bích làm chủ nhiệm. Ngày 07-12-1950, cha Bề Trên Giám Phụ Tỉnh quyết định chuyển Nhà Tập và Học Viện vào miền Nam, Tu Viện Thái Hà chỉ còn 11 cha và 6 thầy; tuy vậy, công cuộc tông đồ của Tu Viện vẫn phát triển. Số giáo dân trong giáo xứ tăng rất nhanh do chạy loạn từ nơi khác về Hà Nội và do cư dân trong các làng thuộc khu vực giáo xứ trở lại. Có thể so sánh sinh hoạt mục vụ của Tu Viện Thái Hà Ấp trong thời gian này với hoạt động mục vụ của Tu Viện Sài Gòn trong 2 thập niên sau. 21
  26. Sau này, một thừa sai Canada viết: Chúng tôi có một giáo xứ năng động ở Hà Nội, giáo xứ này thực sự là một trung tâm tôn giáo của Việt Nam. Trong cuộc họp tổng kết mục vụ của Giáo Phận Hà Nội năm 1947, cha Cras, O.P, cho rằng Thái Hà là giáo xứ có tổ chức tốt nhất và có nhiều sinh hoạt sống động nhất tại Hà Nội. Năm 1954, sau khi hiệp định Geneve được ký kết, toàn bộ quý cha, quý thầy và đệ tử chuyển vào miền Nam. Thầy Clê-men-tê Phạm Văn Ðạt tình nguyện ở lại. Phụ Tỉnh đã cử cha Denis Paquette và cha Thomas Côté từ Huế ra giữ Nhà Hà Nội. Cha Giuse Vũ Ngọc Bích và thầy Marcel Nguyễn Tấn Văn ở Ðà Lạt tình nguyện ra theo. Tu Viện lớn nhất Phụ Tỉnh, nơi đã đào tạo được 45 cha và 50 thầy, lúc này chỉ còn 3 cha và 2 thầy. Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội bước vào một giai đoạn khó khăn chưa từng thấy. Năm 1956, nhờ chính sách sửa sai của Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, cha Giuse Vũ Ngọc Bích được phép đi giảng 6 tháng ở 12 tỉnh – thành. Tuy nhiên, ngài đã bị các nhà chức trách địa phương thu giấy phép cấm hoạt động tại các khu vực và mời quay trở lại Hà Nội. Ngày 07-05-1955, thầy Marcel Nguyễn Tấn Văn bị bắt. Ngày 23-10- 1958 cha Denis Paquette bị trục xuất. Ngày 09-07-1959, thầy Marcel Nguyễn Tấn Văn qua đời trong một trại giam tại Yên Bái. Tháng 11-1959, đến lượt cha Thomas Côté bị trục xuất. Ngày 09-10-1962, thầy Clê-men-tê Phạm Văn Ðạt bị bắt; thầy qua đời trong một trại giam tại Yên Bái ngày 07-10-1970. Cha Giuse Vũ Ngọc Bích trở thành Bề Trên không bề dưới. Cái chết của hai thầy cũng như sự hiện diện của cha Giuse Vũ Ngọc Bích từ đó cho đến ngày nay, vừa là dấu chứng về sự tồn tại trung kiên của Nhà Dòng nơi nửa phần Ðất Nước, vừa là dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa đổ xuống trên Nhà Dòng. Khi các toà nhà chính của Tu Viện bị trưng dụng, cha Giuse Vũ Ngọc Bích được xây cho một ngôi nhà nhỏ ở phía đông nam nhà thờ, tiếp tục đón con cái Ðức Mẹ từ khắp nơi về hành hương. 22
  27. Năm 1985, khi được trả tự do, cha Giuse Trần Hữu Thanh tình nguyện ở lại phục vụ miền Bắc, giúp giáo xứ Phú Tảo, gần thành phố Hải Dương, thuộc Giáo Phận Hải Phòng. Thế là cộng đoàn Hà Nội được gia tăng nhân sự. Năm 1992, bắt đầu có các cha từ miền Nam ra giúp mục vụ thường xuyên tại Thái Hà; người đầu tiên là cha Giuse Trần Ðức Khâm, sau đó là cha An-phong Hoàng Gia Khanh, tiếp đến là thầy Giuse Võ Văn Tuệ và các cha, các thầy khác. Năm 1993, cha Giuse Trần Hữu Thanh được cử làm Bề Trên – Chính Xứ. Ngài vừa ở Trần Nội vừa ở Hà Nội. Cũng năm này, thầy Giuse Trịnh Ngọc Hiên được phép ra Hà Nội giúp cha Giuse Vũ Ngọc Bích và được lãnh sứ vụ linh mục ngày 10-06-1994. Ðó là một biến cố vui mừng đặc biệt cho anh em Nhà Hà Nội, cho Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam và cho tất cả những ai quan tâm đến sự hiện diện của Dòng Chúa Cứu Thế ở miền Bắc. Năm 1996, cha Giuse Trịnh Ngọc Hiên được đặt làm Bề Trên-Chính Xứ. Tu Viện và giáo xứ đi vào hoạt động sôi nổi. Các lãnh vực mục vụ từng bước được tái tổ chức và thích nghi cho phù hợp hoàn cảnh. Nhờ đó, Tu Viện mang lại nhiều ơn ích thiêng liêng cho đông đảo giáo dân tại Hà Nội và các giáo phận khác tại miền Bắc về hành hương kính Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Những ơn ích thiêng liêng ấy còn được gia tăng cách này cách khác nhờ những công cuộc tông đồ được thực hiện dưới những hình thức khác nhau tại Hà Nội, Phát Diệm, Hưng Hoá, Bắc Ninh, Bùi Chu, Hải Phòng, Thanh Hoá, Vinh, Lạng Sơn. 1.2.2. Hoạt động và phát triển của giáo xứ Thư chung 1980 là một trong những văn kiện đã đề cập khá đầy đủ và toàn diện về trách nhiệm của người Công giáo đối với vấn đề kinh tế - chính trị đất nước, cũng như hoàn thiện hơn đường hướng hoạt động, đời sống sinh hoạt tôn giáo của tín hữu Ki-tô Thư chung nhắc đến 3 tư tưởng lớn của Giáo hoàng Phaolo VI khi mới làm giáo hoàng, trong thông điệp đầu tiên với nhan đề: Giáo hội Chúa Ki-tô. Tư tưởng thứ nhất là đã đến lúc giáo hội phải có một nhận định sâu xa về 23
  28. chính mình, phải suy ngẫm về mầu nhiệm của mình. Tư tưởng thứ hai là đem toàn bộ mặt thật của giáo hội ngày nay đối chiếu với hình ảnh lý tưởng của giáo hội như Chúa Ki-tô đã thấy, đã muốn và đã yêu như “Ban thánh thiện và tinh tuyền của mình” (EP 5,27) từ đó sinh ra một ước muốn quảng đại và bức thiết là phải canh tân. Còn tư tưởng thứ ba là đời sống sinh hoạt tôn giáo của cộng đồng tín hữu ki-tô phải hài hòa giữa giáo hội và đất nước, thế giới. Sau những phần nội dung từ đoạn 5 đến đoạn 8 như một sự “dọn đường” cho những lập luận kế tiếp của đoạn 9 trong Thư chung, đó là: Gắn bó với dân tộc và đất nước “là Hội thánh trong lòng dân tộc Việt Nam, chúng ta quyết tâm gắn bó với vận mạng quê hương, noi theo truyền thống dân tộc, hòa mình vào cuộc sống hiện tại của đất nước”. Cộng đồng dạy rằng “Hội Thánh phải đồng tiến với toàn thể nhân loại và cùng chia sẻ một số phận trần gian với thế giới” (MV 40.2). Thực hiện đúng với những gì mà Thư chung đề ra, giáo xứ Thái Hà trong nhiều năm qua đã đồng hành với dân tộc Việt Nam trên nhiều “chặng đường”. Cộng đồng tín hữu các xứ họ, đạo nói chung và giáo xứ Thái Hà nói riêng luôn vì quê hương Việt Nam nơi họ được Thiên Chúa mời gọi để sống làm con của Người. Đất nước này là lòng mẹ cưu mang họ trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa. Chính vì vậy, nhiều năm qua giáo xứ Thái Hà đã cùng đồng bào cả nước tích cực bảo vệ và xây dựng Tổ Quốc. Xây dựng trong Hội thánh một nếp sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp với truyền thống dân tộc. Hội thánh lựa chọn “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc, để phục vụ hạnh phúc của đồng bào.” Tu viện đã lập trại Cứu tế và trại Tỵ nạn Thái Hà để cứu giúp hàng nghìn người từ các nơi đổ về trong trận đói kém và dịch bệnh năm 1945 cũng như trong cuộc chiến 1946-1954. Một số dãy nhà được cất lên để dùng vào việc này vẫn còn tồn tại cho đến những năm gần đây. Từ năm 1954 tu viện đã xây dựng trường Trung học Khâm Thiên và các trường tiểu học tại các làng ở 24
  29. khu vực Đống Đa và Thanh Xuân hiện nay. Đấy là những ngôi trường đầu tiên theo hệ thống giáo dục hiện đại được thành lập trong vùng này. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển Thái Hà đã đóng góp rất nhiều trong sự nghiệp mở mang giáo dục, y tế, thể dục thể thao trong khu vực. Các hoạt động Thánh Lễ, hoạt động Mục vụ của giáo xứ đều xoay quanh con đường đã lựa chọn là sống Phúc âm giữa lòng dân tộc, để phục vụ hạnh phúc đồng bào, điều này càng làm sáng tỏ đức tin và lòng yêu nước của các tín đồ Ki-tô tại giáo xứ Thái Hà. Những năm vừa qua đã có không ít các sự kiến chính trị xảy ra tại Hà Nội với chính quyền đã gây sự quan ngại lo lắng của người đứng đầu Giao hội La Mã. Có lẽ vì vậy mà trong Huấn từ Giáo Hoàng đã dành một phần đáng kể để một mặt tỏ rõ quan điểm quan phương của Giáo hội La Ma nhưng cũng để yêu cầu Giáo Hội Công giáo Việt Nam thực hiện. Anh em cũng như tôi đều biết rằng một sự hợp tác lành mạnh giữa Giáo hội và Cộng đồng chính trị là đều có thể thực hiện được. Về điều này, Giáo hội mời gọi mọi phần tử của mình dấn thân cách trung thầm nhằm xây dựng một xã hội công bằng, liên đói và bình đẳng. Giáo hội không hề muốn thay thế chính quyền, nhưng chỉ mong rằng trong tinh thần đối thoại và hợp tác tôn trọng nhau, Giáo hội có thể góp phần mình vào đời sống của đất nước, nhằm phục vụ tất cả mọi người dân. Trong khi tham gia cách tích cực, theo như vị trí dành cho mình và theo ơn gọi đặc thù của mình, Giáo hội không bao giờ miễn trừ cho mình việc thực hành bác ái xét như hoạt động có tổ chức của các tín hữu, và đàng khác, không bao giờ có một tình trạng mà trong đó người ta lại không cần tới bác ái của mỗi ki-tô hữu, bởi vì con người, ngoài công bình ra vẫn còn và sẽ còn cần tới tình yêu (Tđ. Thiên chúa là tình yêu, S.29). Ngoài ra, tôi thấy điều quan trọng này là phải nhấn mạnh rằng các tôn giáo không gây ra mối nguy hiểm cho sự đoàn kết quốc gia, bởi vì tôn giáo nhằm giúp đỡ cá nhân thánh hóa chính mình và qua các tổ chức của mình, các tôn giáo ước mong phục vụ tha nhân cách quảng đại và hoàn toàn vô vị lợi” [1; tr. 23]. 25
  30. Cũng với tinh thần của Huấn từ, giáo hội Công giáo Việt Nam nói chung và giáo xứ Thái Hà nói riêng đã bước vào Năm Thánh 2010, ngày 17/11/2009 với sứ điệp “Năm Thánh là thời điểm chứa chan ân sủng, thuận lợi cho việc hòa giải với Thiên Chúa và anh em đồng loại. Trong ý hướng đó, chúng ta nhìn nhận những sai lỗi chúng ta đã phạm trong quá khứ và hiện tại, đối với an hem đồng đạo và anh em đồng bào. Đồng thời chúng ta nên quyết tâm đào sâu và phong phú hóa sự hiệp thông trong Giáo hội và xây dựng một xã hội công bằng, liên đới và bình đẳng, bằng con đường đối thoại chính thực, tôn trọng lẫn nhau và hợp tác lành mạnh với nhau” [39; tr. 22]. 26
  31. TIỂU KẾT: Quan điểm về linh hồn và cái chết của người Công giáo nói chung và người Việt theo Công giáo tại giáo xứ Thái Hà nói riêng mang đầy tính lạc quan và hy vọng, một sự cảm nhận thâm sâu về thực tại vĩnh cửu ngay bên cạnh giờ phút lâm chung: “Bởi yêu cuộc đời nên tôi cũng yêu cả sự chết”. Người mất và kẻ sống đều tin rằng: “Trong một giây lát, trong một nháy mắt, khi tiếng kèn cuối cùng vang lên, những kẻ chết sẽ trỗi dậy mà không còn hư nát; còn chúng ta, chúng ta sẽ được biến đổi” (1Cr 15,52). Những đau khổ ở đời này chẳng là gì so với vinh quang sẽ dành cho ta trong cõi vĩnh hằng (x. Rm 8, 18), và đó là một tiến trình tối cần để khai sinh sự sống. Tiếp nhận cái chết như một điều tự nhiên nhất để làm nẩy sinh điều siêu nhiên nhất: đó là sự phục sinh đời sống vốn đã được khắc họa trong ta qua Phép Rửa: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6,4). Dưới cái nhìn đó, người Kitô hữu luôn “tận tình với sự chết, nhiệt tình với sự sống” (Pierre Talec). Chính vì thế mà hết thảy người Ki-tô hữu đều đón nhận cái chết trong niềm hy vọng phục sinh. 27
  32. CHƯƠNG II: THÁNH LỄ CẦU HỒN VÀ AN TÁNG CỦA NGƯỜI VIỆT THEO CÔNG GIÁO VÀ NGƯỜI CÔNG GIÁO TẠI GIÁO XỨ THÁI HÀ 2.1. Thánh lễ cầu hồn và thánh lễ an táng của người Công giáo Việt Nam 2.1.1. Thánh lễ cầu hồn Thánh lễ cầu hồn – hay còn gọi là thánh lễ cầu cho người qua đời được tổ chức ngay sau khi nhận được tin báo tử, lúc mai táng, hay ngày giỗ đầu, thánh lễ này có thể được cử hành cả trong những ngày sau Bát Nhật Giáng Sinh, các ngày có lễ nhớ buộc hoặc những ngày trong tuần không phải thứ Tư Tro hoặc Tuần Thánh. Nghi thức cầu hồn có nguồn gốc từ Cựu Ước: “Ông Giuđa quyên được khoảng 2000 quan tiền, và gửi về Giêrusalem để xin dâng lễ đền tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại. Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn. Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức, thì đây quả là một ý nghĩ đạo đức và thánh thiện. Đó là lý do khiến ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2 Mcb 12,43-46). Mở đầu thánh lễ cầu hồn chủ sự thực hiện nghi thức sám hối:“Lạy chúa, Chúa là niệm hy vọng của những người đã chết. Xin chúa thương xót chúng con; lạy Chúa Ki-tô, chúa đã phục sinh để đem sự sống cho những ai đã ly trần. Xin chúa Ki-tô thương xót chúng con; lạy Chúa, Chúa hứa ban Nước Trời cho tất cả chúng con; xin Chúa thương xót chúng con, Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời”[44; tr.131],và đọc lời nguyện nhập lễ cho người qua đời trước sự dõi theo của Thiên Chúa, bởi với người công giáo, chết nơi trần thế là sự bắt đầu 28
  33. của một đời sống mới nơi thiên đàng. Chết không phải là hết mà ra đi là về với Chúa trời. Chết, sống lại (phục sinh) là một trong những mầu nhiệm cơ bản nhất của đạo Công giáo“lạy Chúa là Đấng xót thương người tội lỗi và ban thưởng hạnh phúc muôi đời cho bậc thánh nhân, ngày hôm nay chúng con tiễn đường OBACE.T đến nơi an nghỉ cuối cùng. Xin cho người con của Chúa đây, ngay từ giờ phút này được chung phần vinh phúc với các Chúa chọn, chờ đợi ngày thân xác phục sinh về quê trời hưởng nhan thánh chúa. Chúng con cầu xin ”[ 44; tr.132]. Sau lời nguyện nhập lễ, Chủ sự tiếp tục cử hành nghi thức Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể. Nghi thức Phụng vụ Lời Chúa diễn ra trong tang lễ như một sự tưởng niệm về việc Chúa Giêsu chịu chết, Phục sinh và việc đến của Người, việc tưởng niệm này không mang tính thụ động chỉ nhắc nhớ chuyện đã qua, đây là nghi thức mang đặc tính hiện sinh, có nghĩa là chính Chúa Giêsu là chủ thể của việc cử hành này. Người hiện diện như lời Người đã hứa: “Thầy ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Việc cử hành Phụng vụ Lời Chúa trong Thánh Lễ nói lên sự hiện diện này, Chúa không câm lặng, mà là Chúa đang nói với chúng ta qua lời của Người, “Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolo Tông đồ gởi tín hữu Corinto. Anh chị em thân mến, giờ đây Đức Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc. Vậy sự chết bởi một người, thì kẻ chết sống lại cũng bởi một người. Cũng như mọi người đều phải chết nơi Adam thế nào, thì mọi người cũng sẽ được tác sinh trong Đức Ki-tô như vậy. Nhưng ai nấy đều theo thứ tự của mình, hoa quả đầu mùa là Đức Ki-tô, đoạn đến là những kẻ thuộc về Đức Ki-tô, những kẻ đã tin Người xuống thế: rồi người sẽ đến sau khi trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha. Nhưng Người còn phải cai trị cho đến khi Người đặt mọi quân thù dưới chân Người. Kẻ thù cuối cùng sẽ bị tiêu diệt là sự chết, bởi Người đã bắt mọi sự quy phục dưới chân Người. Nhưng khi Người tuyên bố rằng: “Mọi sự quy phục Người”, dĩ nhiên phải trừ ra Đấng đã bắt buộc mọi sự quy phục Người. Nhưng khi mọi sự đã quy phục Người, 29
  34. thì bấy giờ Chúa Con cũng sẽ quy phục Đấng đã bắt mọi sự quy phục mình, ngõ hầu Thiên Chúa nên mọi sự trong mọi người. Đó là lời chúa. Alleluia, Alleluia: Chúa phán: Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta sẽ không chết đời đời. Alleluia”[44; tr. 134]. Chủ sự có thể giảng vắn tắt, sau đó sẽ cùng cộng đoàn đọc lời nguyện chung trước khi kết thúc nghi thức phụng vụ lời Chúa “Anh chị em thân mến, Trong niềm tin vào Chúa Ki-tô phục sinh, Đấng đã chết và sống lại để bạn cho nhân loại sự sống vĩnh cửu. Chúng ta cùng tin tưởng dâng lời nguyện xin: Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho OBACE.T xưa kia nhờ bí tích Thánh tẩy, đã tiếp nhận mầm sống vĩnh cửu được hợp đoàn cùng các thanh trên Nước Trời. Chúng ta hãy cầu xin chúa cho OBACE.T xưa kia đã rước Mình Chúa Ki-tô là bánh hằng sống, được Chúa cho sống lại trong ngày sau hết. Chúng ta hay cầu xin Chúa cho mọi người đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, được chiêm ngưỡng ánh sáng tôn nhan Chúa muôn đời. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho tất cả cộng đoàn đang họp nhau nơi đây trong tin tưởng và yêu thương, được Chúa cho đoàn tụ trong vinh quang Nước Chúa” [44; tr.135 - 136]. Sau nghi thức Phụng vụ lời Chúa là nghi thức phụng vụ Thánh Thể - hay còn gọi là bí tích Thánh Thể, bí tích này bao gồm: nghi thức dâng lễ, đọc Kinh Tạ Ơn, và thực hiện những nghi thức hiệp lễ. Nghi thức Thánh Thể thể hiện việc Chúa Giêsu dâng mình cho Chúa Cha qua hy tế thập giá để hòa giải và kêu cầu ơn cứu độ cho nhân loại dưới hình bánh và rượu. “TẤT CẢ CÁC CON HÃY NHẬN LẤY MÀ ĂN: VÌ NÀY LÀ MÌNH THẦY SẼ BỊ NỘP VÌ CÁC CON “Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén, cũng tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói: TẤT CẢ CÁC CON HÃY NHẬN LẤY MÀ UỐNG VÌ NÀY LÀ CHÉN MÁU THẦY 30
  35. MÁU GIAO ƯỚC MỚI VÀ VĨNH CỬU SẼ ĐỔ RA CHO CÁC CON VÀ NHIỀU NGƯỜI ĐƯỢC THA TỘI. CÁC CON HÃY LÀM VIỆC NÀY MÀ NHỚ ĐẾN THẦY.” Nghi thức Phụng Vụ Thánh Thể không chỉ để tưởng nhớ những biến cố đã qua của Thiên Chúa, mà còn là loan báo những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện cho loài người, khi cử hành thánh lễ những biến cố này hiện diện sống động giữa cộng đoàn. “Bí tích Thánh Thể tưởng niệm cuộc Vượt qua của Đức Kitô, hiện tại hóa và dâng tiến cách bí tích hy tế duy nhất của Người trong Phụng Vụ của Hội Thánh là Thân Thể Người. Trong các kinh nguyện Thánh Thể và phần hiến thánh, bao giờ cũng có một kinh Tưởng Niệm” (GLHTCG 1362). Trong suốt giờkinh Nguyện Thánh Thể, ngoài việc tạ ơn, những người thân quyên và linh mục còn xin ơn, cầu cho Đức Giáo Hoàng, Đức Giám Mục và hơn cả là xin ơn cho người quá cố“ Lạy Chúa, chúng con đang lễ tế này trong ngày an táng tôi tớ Chúa là OBACE.T cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận và thương đến người quá cố: nếu vì yếu đuối lỡ lầm mà tôi tớ Chúa đây hãy còn mang vết nhơ tội lỗi, thì xin Chúa thanh tẩy và thứ tha. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con”[44; tr. 137]. Bởi “Chúng ta tin rằng các linh hồn sẽ được hưởng nhiều ơn ích nếu chúng ta cầu cho họ khi Đức Kitô, Chiên Hy Tế cực thánh cực trọng đang hiện diện Khi khẩn cầu cho những người đã an giấc, dù họ còn là tội nhân, chúng ta đã dâng lên Thiên Chúa chính Đức Kitô, Đấng đã hiến mình vì tội lỗi chúng ta, để Người giao hòa họ và chúng ta với Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người”(T. Syrilô, GM Giêrusalem). Con người do Chúa trời sinh ra, mỗi con người là một ngôi đền thánh thờ phụng Chúa. Con người sinh ra từ cát bụi lại trở về cát bụi. Cuộc sống nơi trần thế là tạm thời, là vô cùng ngắn ngủi. Chỉ có cuộc sống sau khi qua đời 31
  36. được lên Thiên đàng mới là vĩnh hằng. Và mọi tín đồ đều sẵn sàng đón nhận cái chết trong sự hoan hỷ, “sẵn sàng” nhận lệnh khi chúa gọi. Tín đồ công giáo ví sự “ra đi” như việc chuẩn bị đèn dầu sẵn sàng thắp sáng và Chúa sẽ đến bất thình lình (không có sự báo trước) để đón đi. Kết thúc thánh lễ cầu hồn bằng nghi thức rước lễ “Lạy Chúa là Đấng cần quyền sinh tử, nhờ thánh lễ chúng con dâng, xin cho người con của Chúa là OBACE.T, hôm nay đã lìa cõi thế, được Máu thánh Đức Ki-tô rửa sạch mọi lỗi lầm, và được hưởng niềm hoan lạc trong ngày phục sinh. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con”[44; tr. 143]. 2.1.2. Thánh lễ an táng Thánh lễ An Táng và nghĩ lễ an táng là hai cử hành khác nhau. Thánh lễ án táng là cử hành thánh lễ với các bản văn phụng vụ về lễ cầu hồn; nghĩ lễ an táng là cử hành các nghi thức công giáo trước khi đem chôn thi hài người quá cố. Thông thường nghi lễ an táng được cử hành trong thánh lễ an táng. Và trong nghi lễ an táng lại bao gồm ba giai đoạn: phát tang, tẩm liệm tại gia, cầu nguyện; phó dâng và từ biệt tại nhà thờ; và mai tang hoặc hỏa táng nơi phần mộ. Thông thường cử hành các nghi lễ an táng là các linh mục hay phó tế, tuy nhiên khi những người này vắng mặt, thì một giáo dân được ủy nhiệm cũng có thể chủ sự các nghi lễ này với một vài thich nghi cho phù hợp với vai trò của họ. Tuy nhiên vì hoàn cảnh tang gia và việc bảo vệ thi hài người quá cố vào những ngày luật phụng vụ không cho phép cử hành thánh lễ an táng, thì chỉ được phép thực hiện nghi lễ an táng. Giáo hội cũng quy định chỉ được cử hành nghi lễ tiễn biệt người chết khi có thi hài người đó, điều này không cho phép cử hành nghi lễ tiến biệt một nơi, xác một nơi (RM 384). Thánh lễ an táng bị cấm vào những ngày: Tam Nhật Vượt Qua, các lễ trọng buộc và các chúa nhật mùa vọng, mùa chay và mùa phục sinh. Nếu cử hành an táng vào các ngày này, trong thánh lễ buộc phải dùng bản văn phụng vụ và các bài đọc Kinh Thánh của ngày lễ đó. Ngoài các lễ trọng và mùa 32
  37. phụng vụ kể trên, người ta có thể cử hành thánh lễ an táng vào những ngày khác kể cả vào những ngày chúa nhật mùa thường niên hay mùa giáng sinh (RM 380). Trong thánh lễ án táng của người Công giáo gia chủ không đặt nặng vấn đề cúng kiến, mà chủ yếu là đọc kinh cầu cho linh hồn người mất. Linh mục cùng với Cộng đoàn sẽ chuẩn bị các nghi thức trong tang lễ, gia đình chỉ cần chuẩn bị sẵn đồ tang phục (có một số người mặc đồ tang trườc khi nhập liệm). Bàn thờ diễn ra trong ngày an táng chỉ có một bảng tên thánh, bình bông huệ trắng, cây thánh giá phía sau quan tài treo một tấm vải có thiêu tên giáo xứ, tên thánh của người chết. Trước nhà có treo bốn lá cờ nhỏ có thiêu chử. Ví dụ: Sống gửi thác về. 2.2. Các nghi thức diễn ra trong tang lễ ở giáo xứ Thái Hà Đối với người Việt Nam theo Công giáo nói chung và người giáo dân Công giáo tại Giáo xứ Thái Hà nói riêng đều có những điểm tương đồng, thể hiện theo đúng tinh thần quy định trong giáo lý, giáo luật của Công giáo do Tòa Thánh và Giáo hội Công giáo Việt Nam ban hành. Tuy nhiên, là một giáo xứ nằm ở trung tâm Thủ đô Hà Nội, người giáo dân Công giáo trong việc tổ chức tang lễ của gia đình mình còn có những sự ảnh hưởng nhất định bởi những truyền thống văn hóa, nghi thức tang lễ miền Bắc cổ truyền, thể hiện sự hội nhập giữa văn hóa Công giáo với văn hóa tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam nói chung và tang lễ của người Việt nói riêng trên tinh thần “đổi mới, canh tân, thích nghi và hội nhập” của Công đồng Vatican II về sự hội nhập văn hóa Công giáo đối với vấn đề văn hóa Á Châu. Các quy trình, nghi thức tang lễ được diễn ra theo trình tự như sau: 2.2.1. Những nghi thức trước khi chôn cất người chết ❖ Nghi thức phát tang, tẩm liệm Nghi thức phát tang và tẩn liệm thể hiện nét đặc trưng củanghi thức tang lễ miền Bắc cổ truyền, là thời điểm để thân quyến, con cháu trong gia đình tới tiễn đưa người quá cố.Trước giờ tẩn liệm người quá cố được đặt trên 33
  38. giường, xung quanh rắc hoa tươi. Đồ dùng tẩm liệm chỉ đơn giản là: vải trắng (không sữ dụng chiếu, vải đỏ ) Khi tín đồ sắp qua đời (hấp hối) người thân phải báo cho linh mục chính xứ và Ban giáo xứ, họ đạo. Lúc này, linh mục được mời đến làm lễ sức dầu cho bệnh nhân trước khi họ ra đi.Sau đó linh mục làm phép xác, làm phép quan trước khi thực hiện nghi thức nhập quan rồi di chuyển đến nhà thờ làm lễ. Mở đầu nghi thức phát tang, chủ sự rảy nước Thánh lên thi hài (làm phép xác) và cầu nguyện: “Lạy Cha, xin thánh hóa người anh (chị) em chúng con đây, kẻ trong cuộc sống trần gian đã tin cậy vào Cha, đã phó thác cuộc đời cho Cha, đã tin cậy vào lời hứa cứu độ của Cha. Xin cho người anh (chị) em chúng con đây được sống lại như Con Cha. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen” [54. tr. 221].Người Công giáo tin rằng, khi sinh ra, con người là một bản thể phải chết, nhưng khi chết thì con người sống mãi. Con người là bất diệt, chết là lúc họ được mời gọi đến sự hiệp thông trong tình yêu muôn đời với Chúa Ba Ngôi. “Con hãy nhớ rằng: Đức Giêsu Ki-tô từ trong cõi chết. Ngài đã phục sinh. Chúa là ơn cứu độ chúng ta, nguồn vinh quang muôn đời của ta”. Đó là ấn tích đã được Thiên Chúa khắc sâu vào bản thể con người khi tạo dựng: “Ai tin vào Ta sẽ không chết bao giờ” (Ga 11, 26). Như vậy, theo kế hoạch của Thiên Chúa, cái chết của con người không mang tính chết chóc, nhưng là một định hướng cho cuộc sống mới. Là người Kitô hữu, chúng ta “chết cho Chúa” cũng như đã sống cho Ngài (x. Rm 14, 7). Sau khi đọc lời nguyện, linh mục hay chủ sự làm phép quan, phép khăn tang, bộ đồ tang và làm lễ nhập quan“Lạy cha, chúng con biết rằng khi thân xác của chúng con là ngôi nhà tạm ở dưới đất này bị sự chết phá hủy, thì chúng con lại có nơi cư ngụ do Chúa dựng lên. Đó là ngôi nhà vĩnh cửu trên trời, không do tay người phàm làm ra. Lạy Cha, xin thánh hóa và chúc phúc cho chiếc quan tài này, cũng là chiếc áo, là nhà tạm cho thân xác yếu hèn hay hư nát của người anh (chị) em chúng con đây cư ngụ để chờ ngày phục sinh 34
  39. trong quyền năng của Cha ” (2Cr.5,1). Khăn tang không chỉ tượng trưng cho nỗi buồn mất mát một người thân mà đối với người tín hữu Ki-tô màu tang còn biểu lộ niềm hy vọng, vì chúa đã hứa, ngày cách chung, Người sẽ cất chiếc khăn tang của buồn đau và chết chóc. Trong thân phận con người, trong tình liên đới ruột thịt, khăn tang là chia sẻ nỗi buồn trong cuộc chia ly, nhất là để nhớ đến tình thương của người quá cố để báo hiếu, để nhắc nhở con người một ngày kia sẽ đến phiên ta cũng phải nhắm mắt xuôi tay lìa đời, chũng phải vùi dưới lớp vải liệm, chết đi từ bỏ thói ích kỷ và những đam mê xác thịt, để được sống lại vinh hiển với Chúa Phục Sinh. Màu trắng khăn tang cũng còn nhắc nhở mỗi người phải nhớ đến chiếc áo trắng tinh tuyền mà họ đã được mặc trong ngày chịu Phép Rửa Tội. Và ta có bổn phận phải giữ mãi màu trắng ấy cho đến ngày ra trình diện trước Chúa Ki-tô Cứu Thế. “Lạy Cha là Đấng Tạo Hóa, Cha đã tạo dựng muôn vật tốt đẹp và đã thành toán chúng. Xin Cha ban phúc lành cho những tang phục này, để người thân trong tang quyền khi mặc vào thì được an ủi, được sự bình an của Cha trong tâm hồn, biết biến đau thương quẫn bách thời lời Kinh nguyên chân thành, tha thiết dâng lên trước tôn nhan uy linh của Cha, để Cha thương xót, tuôn đổ muôn hồng ân xuống cho tang quyến và cộng đoàn chúng con. Chúng con cầu xin Chúa.Xin chúa cho những người trong thân bằng quyến thuộc mặc trang phục này, biết hiệp thông với nhau để đền ơn đáp nghĩa người đã ra đi và để tha thứ, yêu thương, gắn bó, đùm bọc nhau giữa những người con ở lại, như Chúa đã tha thứ cho chúng con. Chúng con cầu xin Chúa. Chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện. Lạy Cha, tang phục mầu trắng này đối với truyền thống dân tộc Việt Nam chúng con, còn là màu tang chế, đau thương, ly biệt, nói lên sự đau đớn tột cùng của nỗi long kẻ ở người đi. Nhưng đối với người tin vào Đức Ki-tô Tử Nạn và Phục Sinh, thì màu trắng cũng là màu tinh tuyền, trong trắng, thanh sạch, vĩnh cửu, gợi nhớ cho chúng con chiếc áo mới mà chúng con được lãnh nhận trong ngày chịu Phép Rửa Tội, để trở thành con người mới, trở nên chi thể trong Nhiệm Thể Chúa Ki-tô, luôn tin cậy Cha 35
  40. và phó thác cả cuộc đời chúng con cho Cha. Xin cho tang quyến khi mặc màu tang phục trắng này luôn biết quy hướng về Cha, biến nhận Cha là lẽ sống, là gia nghiệp, biết sống trong sạch tinh tuyền và luôn sẵn sàng canh thức chờ đón giờ Chúa đến. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen” [18; tr. 10 – 11]. Sau khi thực hiện xong nghi thức làm phép xác, phép quan và nghi thức rảy nước thánh lên tang phục. Thì vị trưởng gia tộc vào phát tang phục cho những người thân quyến, trong thời gian đó cộng đoàn hát một trong những bài khác thích hợp với tang lễ như: Đâu có tình yêu thương (tr.123), cầu cho cha mẹ (tr.116), con tìm đến nương nhờ (tr.120). Xong nghi thức phát tang cộng đoàn và thân quyến sẽ nghỉ một lúc hoặc bắt đầu ngay nghi thức Tẩn liệm. “Giờ đây cộng đoàn chúng ta khởi dự nghi thức tẩn liệm. Chúng ta thành khẩn cầu nguyện cho OBACE.T mới qua đời. Xin Chúa ban thưởng cho OBACE sau khi kết thức cuộc đời trần thế, được về quê trời, vui hưởng cuộc sống đời đời. Vì chúng ta tin chắc rằng: sự chết chưa phải là kết thúc tất cả, nhưng là cửa ngõ tiến vào sự sống đời đời. Đối với những người tin vào Chúa Ki-tô, sự sống con người chỉ biến đổi chứ không bị tiêu tan. OBACE.T đã được chịu phép Rửa, đã khởi sự đời sống vĩnh hằng ngay khi còn sống ở trần gian này. Chúng ta cầu nguyên cho OOBACE được hưởng vinh quang Phục Sinh với Đức Ki-tô” [18; tr. 17 – 18]. Thánh ca cho nghi thức tẩn liệm có thể là bài: Sự sống thay đổi mà không mất đi (tr.136), Trong gian truân (tr.144), Chúa gọi con (tr.117). Cuộc hành trình của mỗi Kitô hữu trên dương thế dài hay ngắn, lâu hay mau, tất cả đều được kết thúc bằng cái chết. Khi bước vào biên giới vĩnh cửu, con người phải bỏ lại tất cả những gì mình có thuộc về thế giới vật chất. Vì vậy, những bài hát, lời cầu nguyện trong suốt thánh lễ an táng nói chung và trong nghi thức tẩn liệm nói riêng không chỉ nhằm xác nhận một thực tại xa cách mà còn nói lên "mối giây liên đới giữa người sống và kẻ chết", và quan trọng hơn nữa, với niềm hy vọng nơi Ðức Ki-tô phục sinhrằng sau này tất cả các tín đồ 36
  41. đều sẽ được đoàn tụ trên thiên đàng nếu cùng chết với Đức Ki-tô thì sẽ cùng sống với Người. Mỗi tín hữu ki-tô khẳng định rằng: một khi Đức Ki-tô đã chỗi dậy từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, tử thần chẳng còn quyền chi đối đến Người. Kết thúc nghi thức tẩm liệm, Chủ sự: “Lạy Cha, Cha đã gọi OBACE.T ra khỏi thế gian này trở về Cha. Xin cho người con Cha đây ngày từ giờ phút này, được thoát vòng tội lỗi, được đón nhận vào nước Cha, chung hưởng vinh phúc với các người Cha chọn, chờ đợi ngày thân xác phục sinh. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Ki-tô Chúa chúng con” [18; tr. 17]. Sau đó những người có nhiệm vụ tẩn liệm, đến quan tài làm nhiệm vụ di chuyển quan đến nhà thờ. ❖ Nghi thức cầu nguyện, phó dâng và từ biệt Tại nhà thờ, Linh mục (chủ sự) xuống đứng trước quan tài làm lễ cầu nguyện, cử hành nghi thức phó dâng và từ biệt. Đây là giây phút thiêng liêng gây ấn tượng sâu sắc nhất và cũng là lúc thân quyến bày tỏ tình cảm với tang gia cũng như đối với người mất, làm sao cho phút giây từ biệt dù có hàm súc sự chia ly đầy tiếc nuối giữa kẻ ở người đi, kẻ còn lưu lạc nơi dương thế cũng như kẻ về chốn vĩnh hằng, có phiền muộn đau đớn đến đâu cũng không làm mất niềm hy vọng vào Đức Ki-tô tử nạn và phục sinh. Vì vậy nghi thức này được cử hành vô cùng trang trọng, linh thiêng. Đối với hình thức hỏa táng thi hài, chủ sự sẽ thực hiện mời gọi: “Anh chị em thân mến, trong khi thi hành nhiệm vụ hỏa táng thi hài này, chúng ta nài xin cho tôi tớ Chúa là mà chúng ta hỏa táng, nhờ quyền năng Chúa, được sống lại trong hàng ngũ các thánh, và cho linh hồn tôi tớ Chúa được sum họp với các thánh và những người đã tin Chúa. Nguyện xin Chúa mở lượng nhân từ trong khi xét xử, để tôi tớ Chúa là được cứu độ và giải thoát khỏi hình phạt tội lỗi, được giao hòa với Chúa Cha, được Đấng chăn chiên lành ôm vào lòng, đưa về đoàn tụ cùng Vua muôn đời, để đáng được hưởng nguồn vui bất diệt làm một với cộng đoàn các Thánh”. Kế đó linh mục rảy 37
  42. nước thánh và xông hương trên quan tài, trong lúc đó ca đoàn hát: “Lạy các Thánh của Chúa ” Rảy nước thánh và xông hương xong, chủ tế đọc lời nguyện: “Lạy Cha rất nhân từ, chúng con xin phó dân linh hồn trong tay Cha. Xin cho chúng con được hy vọng chắc chắn linh hồn sẽ được sống lại cùng Chúa Ki-tô trong ngày sau hết, cũng như mọi người đã qua đời trong ơn nghĩa Chúa Ki-tô. Vậy xin Chúa lấy lòng nhân từ nghe lời chúng tôi khẩn nguyện và mở cửa thiên đàng cho tôi tớ Chúa là , và cho chúng tôi đang còn ở lại, được dùng lời lẽ đức tin mà an ủi nhau, đợi ngày mọi người tại ngô trọng Chúa Ki-tô, được sống mãi, với Chúa và bên cạnh tôi tớ Chúa là Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con”[45; tr. 148]. Tín lý Ki-tô giáo cho rằng, khi chết hồn lìa khỏi xác, việc chôn cất người qua đời gọi là đưa xác. Bí tích xức dầu thánh được gọi là phép xác. Tín lý này khác với quan niệm về cái chết của người Việt. Đưa người chết ra nghĩa địa, người Việt không theo Công giáo gọi là đưa ma. Ngoài đưa xác, còn đưa linh hồn cùng đi. Sau lễ an táng mới đưa linh hồn trở lại nhà thân chủ đề thờ cùng. Trước giờ từ biệt 15 phút, tang chủ đặt tiền thưởng trên đầu quan tài thưởng cho anh em đạo tỳ, số tiền bao nhiêu là tùy vào điều kiện của tang chủ. Và ca đoàn hát một bài kết thúc rồi di quan đến nơi hỏa táng. Khi di quan người cầm bát hương đi trước, tiếp theo là di ảnh, tiếp theo là quan tài, con cháu còn lại không có nhiệm vụ thì đi sau quan tài, tiếp theo là bà con đi đưa. ❖ Nghi thức hỏa táng người quá cố Trước khi đưa thi hài vào lò hỏa táng, chủ sự đọc kinh cầu nguyện cho người ra đi và nhắc nhở về trách nhiệm của người còn sống “Anh chị em thân mến, Trong niềm hy vọng và lòng tin đời sống vĩnh cửu, chúng ta cử hành nghi thức hỏa táng OBACE.T việc hỏa táng nhắc nhở chúng ta một cách sống động về thân phận mỏng dòn của con người. Thiên Chúa dựng lên con người từ bụi tro rồi lại cho họ trở về tro bụi, đời mai sau sẽ tái tạo nên một thân xác mới mẻ diễm lệ hơn trong thế giới mới. Nhờ Bí Tích Rửa Tội, khi còn sống, 38
  43. OBACE.T đã được chia sẻ sự sống của Chúa Ki-tô. Giờ đây đã hoàn tất cuộc lữ hành trần thế, trong bình an của Chúa Ki-tô, OBACE trở về quê trời tốt đẹp và vĩnh cửu. Cậy nhờ vào lòng từ bi của Chúa Cha, chúng ta cầu xin cho OBACE.T đồng thời chúng ta cũng cầu nguyện cho nhau để khi Chúa Ki-tô trở lại, chúng ta có thể đoàn tụ trong ánh sáng vĩnh cửu của Chúa”. “Lạy Cha, Cha đã tạo dựng nên lửa và ban nó cho chúng con. Lửa đã sưởi ấm khi chúng con sinh ra, đã tạo thuận lợi cho cuộc sống hang ngày, và khi chúng con qua đời, lửa còn làm thân xác này chóng về lại cát bụi. Xin Cha chúc lành và thánh hóa ngon lửa chúng con sắp dung để hỏa táng thân xác người anh (chị) em tín hữu chúng con là OBACE.T chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Ki-tô Chúa chúng con” [44; tr. 70]. Trước khi kết thúc Chủ sự đọc lời Chúa, lời nguyện giáo dân và rảy nước Thánh lên quan tài lần cuối “xin cho đời sống chúng con và mọi lời chúng con cầu nguyện cũng được như hương khói chân thành tỏa bay trước Nhan Cha để cầu cho OBACE.T và mọi người đã qua đời trong ơn nghĩa Cha được hưởng vinh quang Cha muôn đời ”[31; tr. 73]. Tất cả cộng đoàn, thân quyến tiễn biệt người quá cố “Lạy chúa, xin cho linh hồn OBACE.T được an nghỉ ngàn thu.” [31; tr. 74]. Và cuối cùng đại diện tang quyến cám ơn lần cuối và đưa thi hài vào lò hỏa thiêu. Người chết sau khi hỏa táng, tro cốt của người chết sẽ được đựng trong hũ sành sứ và mang về phần mộ tại nhà thờ, nó biểu tượng cho niềm tin chờ ngày sống lại của thân xác con người. Do đó mồ mả hay hộp tro đựng xác hỏa thiêu phải được giữ gìn cách kính trọng trong nhà, ở nơi thờ phượng hay ngoài nghĩa trang. Hàng năm vào dịp Lễ các Thánh và các Linh hồn, Giáo Hội sẽ viếng nghĩa trang và cầu nguyện cho các linh hồn mà thân xác đang nằm nghỉ nơi đó. 2.2.2. Những nghi thức sau khi chôn cất người chết ❖ Nghi thức kinh nguyện sau an táng Người Kitô hữu ngày nay, vẫn luôn cậy trông phó thác vào Tình Yêu Cứu Độ của Thiên Chúa. Sau khi an táng, gia đình và người thân vẫn tiếp tục 39
  44. tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố qua thánh lễ cầu hồn và nghi thức cầu nguyện, đọc kinh trong tuần cửu nhật và bốn mươi. Suốt 3 ngày sau lễ an táng, thân quyến trong gia đình đọc kinh cầu nguyện cho người quá cố. Giờ đọc kinh 3 ngày đầu cho người mới qua đời phải dùng theo đúng thứ tự. Đêm ngày thứ nhất, nghi thức cầu nguyện được diễn ra trong tình liên đới của những người tin Chúa Ki-tô, là lúc để anhem, bạn bè gửi những tâm tình luyến nhớ đến kẻ qua đời và cảm thương đối với tang quyến, dành những phút cầu nguyện ngắn ngủi để hướng về người đã khuất, cầu xin Chúa thương xót linh hồn, nâng đỡ nơi Cha và an ủi những người đang sầu khổ vì cuộc ly biệt do cái chết “biến thương nhớ thành thái độ sống”. Gia đình tang gia đọc kinh nguyện Lời Chúa trích từ Tin Mừng Chúa Giêsu Ki-tô theo Thánh Gioan “Khi ấy Đức Giêsu phán cùng các môn đệ: Như Cha đã yêu mến Ta, Ta đã yêu mến các ngươi. Hãy lưu lại trong lòng yêu mến Ta. Nếu các người giữ các lệnh truyền của Ta, các ngươi sẽ lưu lại trong lòng yêu mến của Ta, cũng như Ta đã giữ các lệnh truyền của Cha Ta, và lưu lại trong lòng yêu mến của Người. Các điều ấy Ta đã nói với các người rồi, ngõ hầu sự vui mừng của Ta có nơi các ngươi, và sự vui mừng của các ngươi được nên trọn. Này là lệnh truyền của Ta: Các ngươi hãy yêu mến nhau, như Ta đã yêu mến các ngươi. Không có lòng mến nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì bạn hữu. Các ngươi là bạn hữu của Ta, nếu các ngươi làm điều Ta truyền dạy các ngươi, Ta không còn gọi các ngươi là tôi tới, vì tôi tới không biết việc chủ mình làm, Ta đã gọi các ngươi là bạn hữu, vì mọi điều Ta đã nghe nơi Cha Ta, Ta đã tỏ cho các ngươi biết. Không phải các ngươi đã Chọn Ta, nhưng chính Ta đã Chọn các ngươi, và đặt các ngươi ra, rõ hầu các ngươi đi và sinh trái, và trái của các ngươi còn mãi, ngõ hầu các ngươi xin gì cùng Cha nhân danh Ta, thì Người sẽ ban cho các ngươi. Điều Ta truyền cho các ngươi là hãy yêu mến nhau. Đó là lời Chúa.” (Ga 15, 9 – 17). 40
  45. Đêm ngày thứ hai, tang gia tiếp tục đọc kinh nguyện nhằm bày tỏ với Chúa tinh thần sống đạo của mình và bày tỏ với nhau sự liên đới thương thân tương trợ. Biến cố này cũng là dịp để hết thảy các tính hữu ý thức lại về sự mau qua của mọi sự trên đời, vừa rút ra những bài học thiết thực cho mình từ sự phù vân của cuộc sống “dùng hiện tại xây kho vĩnh cửu”. Lời Chúa trích Lời Chúa theo Thánh Luca “Có người trong dân chúng nói với Đức Giêsu: Thưa thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài với tôi. Ngài nói với nó: Này anh, ai đã đặt Ta làm thẩm phán, hay làm trọng tài trên các anh. Rồi Ngài nói cùng họ: Hãy coi chùng, hãy lo giữ mình tránh mọi thứ tham lam, vì không phải ai cũng được sung túc, là đời sống người ấy được chắc chắn nhờ nơi của cải. Ngài nói cùng họ một ví dụ rằng: Có người phù hộ, ruộng nương được mùa, nên suy tính với mình rằng: Ta phải làm gì? Vì ta không còn chỗ nào mà tích trữ hoa mầu nữa. Đoạn người ấy nói: Ta sẽ làm thế này, phá quách các lẫm đi làm xây những lẫm lớn hơn, rồi chất cả lúa má và của cải vào đó, rồi ta sẽ nhủ hồn ta: hồn ơi, mày có chán của cải, sẵn đó cho nhiều năm, nghỉ đi, ăn uống đi, hưởng đi. Nhưng Thiên Chúa bảo nó: Đồ ngốc, ngay đêm nay, người ra sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi điều ngươi đã soạn kia sẽ về tay ta? Như thế đó, kẻ lo chất kho cho mình, mà không biết làm giầu nơi Thiên Chúa. Đó là lời Chúa” (Mt 12, 13 – 21). Đêm ngày thứ ba, Trích Lời Chúa theo Thánh Mattheu “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: Đừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất. Ta đến không phải để đem lại bình an, mà là gươm giáo. Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con cái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình, và kẻ thù của người ta là những người nhà mình. Kẻ yêu Cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng với Ta. Kẻ không vác lấy khổ giá mình mà theo Ta, ắt không xứng với Ta. Kẻ cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất. Còn kẻ đánh mất sự sống mình vì Ta thì sẽ gặp lại Đó là lời Chúa” (Mt, 34 – 11,1). Trong suốt giờ cầu nguyện và đọc kinh đêm thứ ba các thành viên trong gia đình người quá cố thành thực với 41
  46. Chúa về những đau buồn khi chứng kiến sự ra đi của người thân. Đây cũng là cơ hội để mỗi người ý thức hơn về sự mau qua của kiếp người và ý thức rằng điều cần nhất trong mỗi đời người đó là cứu rỗi, đó là đạt đến sự sống bất diệt “thành thực theo Chúa”. Giờ kinh ngày thứ ba không chỉ để tưởng nhớ người thân đã qua đời mà còn để xác định hướng đi cho đời mình. ❖ Nghi thức viếng đất thánh lễ các linh hồn Sau khi người quá cố đã an nghỉ trong phần mộ được ba ngày. Linh mục sẽ thực hiện nghi thức viếng đất thánh lễ linh hồn để cầu nguyện cho tín hữu đã qua đời trong niềm tin “Trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”, trích đọc Lời Chúa trong thư Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Roma “Anh chị em thân mến, không ai trong chúng ta được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình. Vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa, nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa. Vậy dù chúng ta sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa. Vì lẽ ấy, nếu Đức Ki-tô đã chết và sống lại, là để cai trị kẻ sống và kẻ chết. Vì tất cả chúng ta đều sẽ phải ra trước tòa án của Đức Ki-tô, bởi có lời chép: “Chúa phán: Ta lấy sự sống ta mà thề rằng: mọi người sẽ phải quỳ lạy Ta, và mọi miệng lưỡi sẽ ngợi khen Thiên Chúa”. Vì vậy mỗi người chúng ta sẽ phải trả lẽ về mình với Thiên Chúa. Đó là lời Chúa”. (Rom 14,7 - 9, 10b -12) Sau lời nguyện và dẫn lời Chúa Linh mục sẽ thực hiện nghi thức Thánh hóa phần mộ“Giờ đây chúng ta hãy cầu xin Chúa Ki-tô thánh hóa phần mộ của các tín hữu Chúa. Lạy Chúa Ki-tô, chúa là Đấng làm cho chung con sống lại và là sự sống của chúng con. Khi an nghỉ trong mộ ba ngày, Chúa đã thánh hóa phần mộ của mọi tín hữu, khiến họ càng tin tưởng sẽ được phục sinh, mặc dù nay còn mang thân cát bụi. Xin thương những người con của Chúa là các tín hữu đã qua đời được an nghỉ trong những phần mộ này cho tới khi Chúa tỏa ánh Tôn Nhan, làm cho họ sống lại, để hưởng hạnh phúc và vinh quan trên trời. Chúng con cầu xin Chúa là Đắng hằng sống và hiển trị muôn đời.Amen”[31; tr.99 - 100]. 42
  47. ❖ Nghi thức tiếp nhận di cốt về gia đình Sau nghi thức thánh hóa phần mộ, chủ sự là người đứng ra “Nhân danh ChúaCha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” đón nhận di cốt của người quá cố về lại với gia đình. “Con cái Chúa là OBACE.T đã qua đời năm 19 được an táng tại đất thánh cho đến năm 20 đã được gia đình cải táng và hỏa thiêu hà cốt ngày Hôm nay, chúng ta đón nhận di cốt OBACE.T về lại trong gia đình. Sự sống và sự chết thật gần gũi. Di cốt OBACE.T cũng nhắc chúng ta nhớ Thiên Chúa đã dựng nên con người từ tro bụi, để sẽ được Ngài tái tạo thành thân xác mới mẻ diễm lệ hơn trong thế giới mới sau này. Nhân dịp này, chúng ta hãy suy niệm một chút về thân phận con người”. Hài cốt của người quá cố dù đã hỏa thiêu “trải qua một cuộc thanh luyện” thì những người thân, người con trong gia đình vẫn luôn cầu nguyện trước Thiên Chúa trong ngày tiếp nhận di cốt, xin Cha rửa sạch mọi lỗi lầm cho người đã mất, yêu thương lấy cả ngon lửa đã thiêu và thanh tẩy người mất ngày hỏa táng “đón nhận di cốt của OBACE.T chúng con tuyên xưng đức tin của chúng con, tin rằng đến ngày cuối cùng, xác mọi người sẽ sống lại. Xin Cha làm cho đức tin chúng con thêm vững mạnh; Xin Cha cho chúng con một ngày kia được đoàn tụ ấm cúng trong nhà Cha trên trời” [31; tr. 106]. Có thể nói các gia đình Công giáo Việt Nam đều ý thức những giá trị của các nghi thức diễn ra trong suốt Thánh lễ an táng đối với người quá cố, mỗi một nghi thức đều được chuẩn bị kỹ lưỡng. Thậm chí, những dịp kỷ niệm người thân qua đời, con cháu dành ra một số tiền để xin lễ giỗ tại Nhà Thờ và cùng nhau tham dự Thánh lễ để cầu nguyện cho người thân qua đời trước khi về ăn giỗ tại tang gia. Người thân quyến trong gia đình thường xin lễ ngay sau ngày an táng gọi là lễ giỗ tuần ba tuần bảy, nghĩa là 3 ngày và 7 ngày sau khi an táng. Trong ngày giỗ, con cháu cùng nhau tham dự Thánh lễ tại nhà thờ, rồi về tang gi ăn bữa cơm giỗ để tưởng nhớ người quá cố là cha mẹ hay người thân. Và buổi tối cùng tổ chức đọc buổi kinh giỗ tại gia. 43
  48. Đây là việc nhằm cảm tạ Chúa đã cho các bậc Tổ tiên được hưởng Tôn Nhan Chúa, vừa để xin Chúa ban cho các linh hồn trong luyện ngục sớm được sạch tội. Đối với người mới qua đời, người thân thường xuyên xin lễ cầu nguyện, bởi các tín hữu ki-tô tin rằng Thiên Chúa nhân từ và quyền năng có thể có cách cứu vớt được linh hồn người quá cố khỏi sự đau khổ. 2.3. Giá trị và những tồn tại cần khắc phục trong nghi thức tang lễ của người Công giáo Việt Nam 2.3.1. Giá trị Dựa theo tài liệu thu thập được ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ và khu vực Tổng Giáo Phận Hà Nội cho thấy nửa cuối thế kỷ XIX, người Công giáo khi qua đời gọi là sinh thì, người hấp hối gọi là rình sinh thì. Nghiêng về lời giải thích của một số bậc cao niên rằng, vì người Công giáo quan niệm chết nơi trần thế, nhưng lại bắt đầu một cuộc sống mới nơi Thiên đàng. Giờ phút hấp hối cũng có nghĩa là thời (thì) điểm khai sinh một cuộc sống hoàn toàn mới. Chuông nhà xứ dành cho người chết là chuông sinh thì (còn gọi là chuông tử). Thánh lễ an táng của người Việt theo Công giáo chính là sự kết hợp giữa tập tục dân gian và nghi thức phụng vụ Thánh Lễ, vì vậy tang lễ của người Việt theo Công giáo đều mang những hình thức và nội dung gần giống với tang phục, tang chế của người Việt không theo Công giáo. Đối với người qua đời thì tín đồ Công giáo được thực hành tương tự như người không theo Công giáo. Song về mặt tang lễ thì có nhiều điều khác biệt, thể hiện rõ màu sắc Công giáo. Khi trong gia đình có người bệnh nặng sắp không qua khỏi, gia đình đã phải báo cho vị Trùm chính. Hoặc báo cho một vị trong bạn Phụng vụ Giáo họ gần nhà nhất, để mời cha Chính xứ hay cha Phụ tá đến nhà ban phép xức dầu bệnh nhân. Trường hợp khẩn cấp, gia đình phải đưa bệnh nhân đến bệnh viện cấp cấu trước, rồi mời cha đến bệnh viện ba các phép sau. Tuy nhiên, bình thường khi thấy người nhà đau nặng còn đang tính táo, người thân trong 44
  49. gia đình đã mời cha xứ đến nhà ban các bí tích như Giải tội, Thêm sức (nếu chưa chịu), xức dầu bệnh nhân và Mình Thánh Chúa. Nhờ đó bệnh nhân (người hấp hối) được tham dự một cách chủ động và sẽ nhận được nhiều ơn Thánh Chúa hơn, khi họ còn ý thức được cũng là thời gian để họ tự xám hối, nhìn lại những việc mình đã làm và sẵn sàng “từ bỏ” trần thế. Ý nghĩa “từ bỏ” ở đây là họ đã phải sẵn sàng để bất cứ lúc nào Thiên Chúa muốn, Chúa sẽ đến đón chúng ta đi bất kỳ lúc nào. Ta phải chuẩn bị giờ chết bằng cách suy ngắm về cái chết của Đức Kitô trên thánh giá. Ngài đã chết và sống lại cho ta. Do đó, ta cũng sẽ chết và sống lại cho Ngài. Nếu trong khi suy niệm về sự chết của Ngài ta sống với Ngài trong giờ chết của Ngài, Ngài và Đức Trinh Nữ Maria cũng sẽ ở bên ta trong giờ chết của ta. Từ đó, có thể lý giải được vì sao Giáo Hội ngoài việc dậy các tín hữu cầu nguyện trong suốt giờ thánh lễ, còn xin với Đức Trinh Nữ Maria để được Mẹ cầu nguyện cho người mất trong giờ chết: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”. Vì người Công giáo tin rằng, Đức Mẹ Maria đã đứng dưới chân thập giá Đức Kitô, và đã chứng kiến cái chết đau đớn của Con Mẹ cho các linh hồn, nên hiểu rõ hơn ai hết giá trị cao quí của một linh hồn, cũng như tầm quan trọng của giây phút linh hồn đó giã từ trần gian để bước vào cuộc sống vĩnh cửu. Khi một tín đồ trong giờ lâm tử, thân nhân và bà con thân quyến cùng nhau đến để đọc kinh “kinh cầu cho những người hấp hối mong sinh thì” hoặc những lời cầu nguyện phù hợp để giúp người sắp qua đời dọn mình chết lành trong giờ phút cuối cùng này. Điều này giúp người sắp qua đời vượt qua được sự sợ hãi, bằng cách noi gương Chúa Ki-tô, vui lòng cùng chết với Chúa để cùng phục sinh với sống đời đời với Chúa. Hay dù bệnh nhân đã bất tỉnh, vẫn giúp người trong gia đình tìm được sự an ủi nhờ thấu hiểu được ý nghĩa vượt qua của sự chết nơi người tín hữu. Người Công giáo không có quan niệm chết vào giờ lành hay giờ dữ, không chọn ngày, giờ tốt đưa tang; không thiết hồn bạch, làm nhà táng, minh 45
  50. tin, không có linh xa (kiệu hay xe) đưa rước linh hồn người qua đời giống như phong tục của tang lễ cổ truyền của người Việt. Tuy nhiên, luật buộc một số ngày như chủ nhật mùa vọng, mùa chay, phục sinh, các lễ trọng, thứ 4 lễ Tro và Tam Nhật vượt qua không được làm lễ an táng người qua đời, mà phải đổi qua ngày khác. Tang lễ của người Việt theo Công giáo ngày nay cũng không còn rườm rà, cầu kỳ “Tang ma của hầu hết giáo dân Công giáo tại giáo xứ Thái Hà những năm trở lại đây được đơn giản hóa khá nhiều và tôi nghĩ sự thay đổi này là tích cực.Một số những nghi thức truyền thống rườm rà, thời gian kéo dài, tốn nhiều chi phí đã được điều chỉnh để phù hợp hơn, ví dụ: trong nghi thức chia buồn và đáp lễ thay vì phải quỳ 3 lần, đáp lễ uống rượu 3 lần thì giờ đây chỉ cần hành lễ và uống chút rượu tượng trưng, hay những lễ vật cúng cũng đã được lược giản đi khá nhiều ” [ Biên bản phỏng vấn số 2]. Khi có một tín đồ qua đời là nam giới, Nhà thờ sẽ cho chuông rung bảy tiếng rời, sau đó rung ba hồi, còn khi tín đồ quá cố là nữ giới sẽ rung chín tiếng rời, sau đó rung ba hồi (theo quan niệm trong dân gian nam thất (7) nữ cửu (9).) Lúc này, những người đồng đạo nghe tiếng chuông sẽ biết ngay có người qua đời và là nam hay nữ. Khi nghe chuông sầu, tín đồ ngừng việc đang làm hướng về phía nhà thờ đọc Kinh Lạy Cha, tỏ lòng thương tiếc người đồng đạo. Trong xứ đạo sẽ tổ chức lễ chồng mồ trong nhà thờ cho tín đồ qua đời. Quan tài được đặt chính giữa giáp với cung thánh, đầu hướng về cung thánh. Trên quan tài người ta phủ một tấm vải đen, thêu hình thập giá màu trắng. Các góc quan tài được thắp nến, tùy tiền xin lễ nhiều, ít mà số nến được thắp. Lễ mồ diễn ra lâu hay chóng, trang trọng hay đơn giản, hội hát hát nhiều hay ít đều phụ thuộc vào tiền xin lễ của thân chủ. Tín đồ lỗi đạo phạm tội trọng khi chết không được đưa vào nhà thờ làm lễ mồ, an táng ở góc vườn thánh nơi được xem là “mảnh đất bị nguyền rủa”. Tín đồ phạm tội nhẹ được đưa vào 46
  51. nhà thờ làm lễ mồ nhưng quan tài chỉ được quàn ở gian cuối, hình thức tiến hành đơn giản. Nghi lễ chồng mồ có từ bao giờ, hiện chưa có tài liệu đích xác. Trong Thư chung gửi bổn đạo đại phận Tây Đàng Ngoài năm 1903, giám mục Phero Maria có nhắc đến lễ chồng mồ. Song theo các tín đồ ở đây, nghi lễ này chắc đã có từ trước đó một thời gian dài. Nghi lễ an táng cho người qua đời được quy định trong cuốn Sách an ủi kẻ liệt. Tuy nhiên, cuốn sách này có từ bao giờ và nội dung ra sao, thì hiện nay không tìm thấy văn bản gốc. Trong Thư chung gửi bổn đạo Địa phận Tây Đàng Ngoài đề tháng 12/1895, giám mục Phero Maria Đông có nhắc tới cuốn sách này, nhưng cho rằng: loại sách này chỉ ghi chép ít nhiều những kinh nghiệm quen đọc lúc hấp hối, và kể được qua mấy lễ an ủi kẻ hấp hối, mà không dẫn chỉ cách cất xác như phép đạo đã dạy. Có lẽ vì thế mà sau này hàng loạt các Thư chung của giám mục các địa phận phải quy định cụ thể về việc thực hiện lễ mồ như Thư chung đề ngày 21/5/1796 của giám mục địa phận Đông. Sau lễ chồng mồ diễn ra ở nhà thờ, người qua đời được đưa đi an táng. Thứ tự thường là: cờ tang, ba quan viên cầm thánh giá nến cao, trẻ nam, trung nam, bát âm, vòng hoa, quan tài, thân chủ người qua đời, bổ đạo đưa tiễn Tuy nhiên, ngày nay những nghi thức này dần được lược bỏ. Song trong đám tang vẫn thực hiện đúng với quy định của nghi thức như: Việc chôn cất thường được tiến hành vào buổi trưa, khi ra khỏi nhà người chết được đưa chân ra trước, đầu ra sau, xác được đưa đến nhà thờ giáo xứ làm lễ, người chết được đặt trước cung thánh, đầu quay ra hướng cửa chính, mặt hướng vào bàn thờ lễ. Sau khi làm lễ ở nhà thờ xong thì đưa thẳng ra nghĩa địa, và đi theo thứ tự là chân đi trước, đầu đi sau. Việc diễn ra nghi thức này có hai cách giải thích, cách giải thích thứ nhất: Hướng về Thánh giá ở phía trước, cách giải thích thứ hai: người Công giáo chết là về với Chúa (một đi không trở lại). Đoàn đưa tang bao gồm một người cầm cây Thánh giá đi 47
  52. trước, 2 bên là 2 người cầm đèn cầy hoặc hoa, tiếp đến là các em thanh thiếu niên, sau đó là bà con trong làng, rồi đến quan tài và cuối cùng là thân nhân người quá cố. Người Công giáo không có tục “cha đưa mẹ đón” (nghĩa là: tiễn bố qua đời đi phía sau, tiễn mẹ qua đời đi giật lùi phía trước quan tài) giống như nghi thức truyền thống của người Việt. Các hình thức trong đám tang hay lúc đưa tang như: khóc lóc, lăn đường, cắt tóc tang như trong nghi thức tang lễ truyền thống của người Việt đều bị giáo hội cấm nghiêm ngặt. Xứ, họ đạo không có nghĩa địa riêng, gia chủ phải mời linh mục về làm phép huyệt. Khi xác được đến đến nghĩa địa, huyệt đã được đào sẵn, tại đây trước khi hạ quan tài xuống huyệt người ta đọc kinh một lần nữa, sau đó mới dùng dây thả quan tài xuống huyệt đầu hướng đông, chân hướng tây (tục lệ truyền thống của người Phương Đông tin vào hướng xấu và hướng tốt). Người Công giáo không có tục bốc mộ. Người qua đời được “đào sâu chôn chặt”, mộ được xây kiên cố. Bởi người Công giáo cho rằng sự ra đi ấy chính là lúc họ được về với Chúa, việc cải táng, hay bốc mộ đi ngược lại với lời răn của Chúa. Ngay cả khi thực hiện nghi thức hỏa táng, thì tro cốt người quá cố cũng được giữ cẩn thận trong lọ, bình đựng. Có thể nói, đây là một trong những tư tưởng tiến bộ của người Công giáo, theo bà Nguyễn Thị A, trả lời phỏng vấn: “Hiện nay, với sự phát triển của đời sống kinh tế, văn hóa và môi trường xã hội có nhiều biến động, đã tác động không nhỏ đến nghi thức tang lễ của người Công giáo chúng tôi tại chính giáo xứ Thái Hà. Trước kia, trong điều kiện đất rộng, và còn ảnh hưởng nặng nề bởi truyền thống tang lễ cổ truyền của người Việt. Do đó, phần lớn các gia đình Công giáo chúng tôi khi có người qua đời đều được trôn cất theo hình thức địa táng. Tuy nhiên, hiện nay, dưới sự tác động của quá trình đô thị hóa, đất đai thu hẹp, giá cả đất cát đắt đỏ, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi gia đình mà có thể quyết định theo hình thức địa táng hoặc hỏa táng. Nếu có điều kiện thì địa táng ở các khu nghĩa trang xa dành riêng cho người Công giáo ở khu vực 48
  53. ngoại thành, còn không thì hỏa táng rồi lấy xương cốt, hoặc tro ” [Biên bản phỏng vấn số 1] Tín đồ qua đời ở xa nơi thờ tự có thể được làm nghi lễ đưa xác tại nhà. Linh mục có công với xứ đạo, nếu được phép của giám mục, được an táng trong khuôn viên nhà xứ. Giám mục qua đời được án táng trong thánh nhà thờ chính tòa hoặc một cơ sở tôn giáo khác. Trải qua quá trình của lịch sử, dần dần xuất hiện các loại kinh cầu nguyện liên quan đến người qua đời như: Kinh cầu cho bệnh nhân Kinh cầu cho người hấp hối Kinh cầu cho người tắt thở Kinh cầu nguyện lúc tẩm liệm Kinh cầu cho các linh hồn. Lời văn của các kinh tùy theo việc soạn thảo của giám mục giáo phận và theo từng giai đoạn khác nhau, nhưng nội dung về cơ bản là giống nhau và không có nhiều sự thay đổi. Tuy không thực hành nghi lễ an táng và thờ cúng theo nghi lễ truyền thống của người Việt, nhưng ít nhiều những nghi thức diễn ra trước và sau lễ an táng đều mang âm hưởng của nghi lễ truyền thống của người Việt. Những hình thức này dựa trên những tập tục cổ truyền, nhưng đưa nội dung tôn giáo – công giáo vào nghi thức, chẳng hạn như: 3 ngày: đi thăm mộ, cầu kinh, 49 ngày: lễ và đọc kinh cầu nguyện; 100 ngày: lễ và đọc kinh cầu nguyện; cũng có nghi thức giỗ đầu: đọc kinh cầu nguyện và giỗ hết đọc kinh cầu nguyện. Chết là một sự dứt bỏ mang tính cách cưỡng bức, nó chia lìa hai người bạn thân thiết nhất đó là linh hồn và thể xác. Cái chết là một cuộc hành trình, một chuyến đi cô đơn nhất vì người ra đi sẽ phải để lại sau lưng tất cả những gì mình quyến luyến nhất, từ những người thân yêu đến tiền bạc và địa vị được gầy dựng do mồ hôi nước mắt. Nó sẽ chấm dứt tất cả những gì chúng ta 49
  54. đã đầu tư trong cuộc đời. Chính vì thế nó thường làm cho chúng ta bàng hoàng và sợ hãi. Thế nhưng, những người Kitô hữu đã nhìn cái chết dưới ánh sáng đức tin. Dưới ánh sáng đức tin thì cái chết không phải là một chấm dứt mà là một khởi đầu, không phải là một ra đi mà là một trở về nhà Cha, không phải là một chia lìa nhưng là một kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Từ đó mang đến cho những người theo Công giáo hay người không theo công giáo những bài học quý giá. Bài học thứ nhất đó là ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Những trải nghiệm khốc liệt trước cái chết đã khiến con người hiểu được giới hạn của mình, hiểu được quyền uy của tạo hóa. Cái chết không chỉ phá hủy sự kiêu ngạo, khiến người ta phải khiêm nhường mà cái chết còn là bài học khiến những người còn sống biết trân trọng những gì mình đang có “hãy sống như là sẽ phải chết. Hãy tập làm quen với cái chết bằng tinh thần từ bỏ liên tục. Vì chúng ta lo sợ cái chết, nên chúng ta ngay khi còn sống hãy làm mọi thứ bằng sự nhiệt thành” (một câu nói của một hoạ sĩ Tây Ban Nha tên là Murillo). Bài học thứ hai là bài học khôn ngoan. Trong mọi hoàn cảnh, hãy chuẩn bị sẵn sàng để ra trước mặt Chúa mà tính sổ cuộc đời. Đừng bao giờ quên rằng, chúng ta được xét xử dựa trên tình yêu: tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với anh em, chứ không phải là được xét xử theo dáng bộ bề ngoài và những việc đạo đức nặng phần trình diễn. Bởi vậy trong cuộc sống thường ngày, hãy biết nở nụ cười hoà giải đối với những kẻ đã gây nên xích mích, đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những kẻ xung quanh, những con người đáng thương trong kiếp người. Khi tâm hồn chúng ta được bình yên nhân, cũng là lúc chúng ta giao hoà cùng Thiên Chúa, thì bấy giờ cái chết không còn nhuốm vẻ tang tóc bi ai nữa. Điều đau buồn nhất trong cuộc sống là cái chết, nhưng với người tín hữu thì điều an ủi và khích lệ nhất trong cuộc sống là cái chết, bởi vì cái chết sẽ chấm dứt những đau khổ phần xác, để rồi dẫn đưa chúng ta vào niềm hạnh phúc vĩnh cửu. 50
  55. 2.3.2. Những tồn tại cần khắc phục Hầu hết các nghi thức diễn ra trong tang lễ của người Việt theo Công giáo tại Giáo xứ Thái Hà vẫn còn nguyên vẹn giá trị gốc không thay đổi ở hiện tại là mấy. Giáo hội Công giáo Việt Nam đã có văn bản quy định chuẩn dựa trên Nghi lễ Roma và việc thực hành được thống nhất trong tất cả các địa phận. Vì vậy, nghi thức tang ma của tín hữu Ki-tô sau Công đồng Vatican II mang nhiều yếu tố hội nhập, đặc biệt là sau sự kiện Năm Thánh 2010. Thế nhưng “Các giáo dân cho đến hiện nay, vẫn chỉ sống đạo theo kiểu gắn đời mình vào cỗ xe của những sinh hoạt trong giáo xứ hay đoàn thể. Mặc dù, tất cả đều tham gia đầy đủ hoặc tích cực vào sinh hoạt đạo, nhưng lại không một chút bận tâm về thái độ cá nhân của mình đối với Chúa, họ tranh luận và bàn cãi sôi nổi với nhau về giáo lý, về cách tổ chức, nhưng lại không bao giờ có được sự chọn lựa của đức Tin, họ giữ đúng giới luật của Chúa và Hội Thánh nhưng lại không có khả năng chấp nhận Thánh ý Chúa khi gặp một hoàn cảnh trái ý, hoặc chẳng bao giờ tự mình khám phá ý nghĩa siêu nhiên trước những biến cố trong cuộc sống thường ngày” [Biên bản phỏng vấn số 4]. Có lẽ vì điều đó, mà những nghi thức diễn ra trong các thánh lễ an táng ngày nay dần mất đi sự thanh tịnh, trang nghiêm vốn có. Mặc dù các nghi thức diễn ra đúng quy định của Thánh lễ, nhưng lại không thể hiện được cách sống thấm nhuần Tin Mừng. Sách Các Nghi Thức viết: "Việc cử hành tang lễ Ki-tô Giáo đem lại niềm hy vọng và an ủi cho người sống”. Ðây là một điều quan trọng, thế nhưng ngày nay, nhiều tín hữu lại chỉ quan tâm đến sự mất mát của cá nhân, gia đình mà quên đi sứ mệnh của tín hữu ki-tô trước Chúa. “Dù biết cái chết của người thân là sự mất mát quá lớn đối với người ở lại. Thế nhưng, tang lễ có bi thương, có rình rang cách mấy thì người chết cũng không thể sống lại để nghe những bài điếu văn ca tụng dài lê thê, để thấy được những hàng nước mắt xót thương. Bài điếu văn càng bi ai thì thân nhân sống sót càng đau khổ, càng tiếc nuối người quá cố. Bạn bè tham dự 51