Khóa luận Một số vấn đề pháp lý về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay

pdf 62 trang thiennha21 16/04/2022 3211
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Một số vấn đề pháp lý về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_phap_ly_ve_doanh_nghiep_xa_hoi_o_viet_nam_hien.pdf

Nội dung text: Khóa luận Một số vấn đề pháp lý về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HƢƠNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2014-L HÀ NỘI, 2018
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HƢƠNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2014-L NGƢỜI HƢỚNG DẪN: Th.S Trần Anh Tú HÀ NỘI, 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Khóa luận tốt nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Hƣơng
  4. MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI 5 1.1. Khái quát chung về doanh nghiệp xã hội. 5 1.1.1. Lược sử về sự hình thành và phát triển của doanh nghiệp xã hội trên thế giới. 5 1.1.2. Khái niệm doanh nghệp xã hội 9 1.1.3. Đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp xã hội. 12 1.2. Pháp luật về doanh nghiệp xã hội. 21 1.2.1. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với doanh nghiệp xã hội. 21 1.2.2. Khung pháp lý về doanh nghiệp xã hội. 22 Tiểu kết Chương 1 28 Chƣơng 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY. 29 2.1. Sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam. 29 2.2. Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam hiện nay.33 2.2.1. Những thuận lợi của doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam 33 2.2.2. Một số khó khăn của doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam. 35 2.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về doanh nghiệp xã hội. 37 2.3.1. Pháp luật về doanh nghiệp xã hội trước khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 ra đời. 37 2.3.2. Pháp luật về doanh nghiệp xã hội từ khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 ra đời. 39 2.3.3. Một số hạn chế của pháp luật về doanh nghiệp xã hội. 40 Tiểu kết Chương 2 45 Chƣơng 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM. 46 3.1. Đa dạng hóa loại hình doanh nghiệp xã hội. 46
  5. 3.2. Xây dựng hệ thống cơ quan chuyên trách quản lý doanh nghiệp xã hội.47 3.3. Xây dựng khung pháp lý đồng bộ cho doanh nghiệp xã hội. 47 3.4. Xây dựng các chính sách trợ doanh nghiệp xã hội. 49 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 55
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DNXH Doanh nghiệp xã hội DNhXH Doanh nhân xã hội NGO Tổ chức phi chính phủ HTX Hợp tác xã CSIP Tổ chức hỗ trợ sáng kiến vì cộng đồng TNHH Trách nhiệm hữu hạn
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với mức tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng trong những năm gần đây, sự gia tăng các vấn đề xã hội và môi trường tại Việt Nam cũng trở thành mỗi lo ngại lớn: khoảng 15 triệu người sống dưới mước nghèo đói, hơn 180 nghìn người nhiễm HIV, 5 triệu người khuyết tật, 3 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn Trong bối cảnh những vấn đề xã hội trên cùng với sự khuyết thiếu trong hoạt động thị trường, sự hạn chế trong việc cung cấp các dịch vụ công của Nhà nước, doanh nghiệp xã hội (DNXH) xuất hiện như một giải pháp cho bài toán giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường, hướng tới sự phát triển bền vững. Tại Việt Nam mô hình doanh nghiệp xã hội vẫn còn khá mới mẻ. Với sự tăng trưởng kinh tế cao của Việt Nam trong những năm vừa qua, nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế cho các hoạt động xã hội sẽ ngày một giảm. Tuy nhiên, thực tế những đối tượng cần được hỗ trợ về việc làm như người nghèo, người khuyết tật, thương bệnh binh của Việt Nam vẫn rất lớn. Dù Việt Nam đã là nước có thu nhập trung bình nhưng với sự sụt giảm của các nguồn tài trợ, nhu cầu của xã hội đối với mô hình doanh nghiệp xã hội sẽ tăng lên. Mới đây, trong Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8 - khóa XIII ngày 26/11/2014 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2015, doanh nghiệp xã hội đã được thừa nhận là một hình thức doanh nghiệp, được tổ chức và hoạt động theo một trong các loại hình doanh nghiệp đã được quy định, nhưng khác ở mục đích phân phối và sử dụng lợi nhuận. Đây là một đạo luật có nhiều quy định mới mang tính đột phá, khuyến khích doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát huy tính sáng tạo, bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, phát triển bền vững. Tại nhiều nước trên thế giới, mô hình doanh nghiệp xã hội đã phát triển từ lâu và nhận được nhiều hỗ trợ của Nhà nước. Đơn cử như tại Mỹ, những nhà đầu tư đổ tiền vào doanh nghiệp xã hội sẽ không phải đóng thuế. Tại Thái 1
  8. Lan, Chính phủ cũng dành 3% từ tiền thuế thu từ thuốc lá và hoạt động vũ trường để đầu tư vào doanh nghiệp xã hội Tuy nhiên, ở Việt Nam thì hình thức doanh nghiệp xã hội vẫn còn khá mới mẻ, vẫn chưa có cơ chế đặc thù nào để khuyến khích doanh nghiệp xã hội phát triển, chưa có quỹ nào đầu tư vào doanh nghiệp xã hội. Điều này dẫn đến việc doanh nghiệp xã hội mặc dù đã được manh nha ra đời nhưng phát triển rất chậm, sự đóng góp và quá trình phát triển của xã hội, cộng đồng chưa thực sự nhiều như kỳ vọng của xã hội. Mặc dù Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã đưa ra được một khuôn khổ pháp lý ban đầu cho doanh nghiệp xã hội song vẫn còn nhiều vấn đề pháp lý có liên quan đến vị trí, quá trình hình thành, hoạt động của doanh nghiệp xã hội cần được làm rõ. Thêm vào đó, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp xã hội còn gặp rất nhiều khó khăn nên ít người dám đầu tư. Hiện nay, trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 mới chỉ có duy nhất một điều luật quy định về doanh nghiệp xã hội, các hướng dẫn cụ thể về thủ tục thành lập, mô hình quản trị, đầu tư, vốn góp, chuyển đổi mô hình vẫn chưa được quy định cụ thể. Chính vì vậy, sinh viên quyết định chọn đề tài “Một số vấn đề pháp lý về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp Đại học. 2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Qua việc trình bày, phân tích và luận giải những nội dung đã được xác định, đề tài có những đóng góp sau đây: 2.1. Ý nghĩa khoa học Tổng hợp những cơ sở có tính hệ thống, luận giải, góp phần bổ sung, phát triển những cơ sở lý luận về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam. 2.2. Ý nghĩa thực tiễn - Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay, chỉ rõ những thuận lợi, khó khăn. - Phân tích, đánh giá thực trạng quy định pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay. - Đưa ra những kiến nghị, đề xuất có tính ứng dụng trong thực tiễn nhằm 2
  9. giải quyết, khắc phục những hạn chế về quy định pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích nghiên cứu Đề tài có mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực tiễn của pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đề tài có đối tượng nghiên cứu là các quy phạm pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp xã hội được quy định trong Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành. Về thực tiễn đề tài nghiên cứu về thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật về doanh nghiệp xã hội được quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 2014, đề tài nghiên cứu trên địa bàn cả nước, thời gian nghiên cứu từ năm 2010 đến nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp hệ thống, lịch sử, logic, phân tích, so sánh, tổng hợp. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả tham khảo ý kiến chuyên gia liên quan đến đề tài. 6. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Khóa luận được kết cấu gồm 3 chương như sau: Chương 1: Khái quát chung về doanh nghiệp xã hội và pháp luật về doanh nghiệp xã hội. 3
  10. Chương 2: Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp xã hội và pháp luật về doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam hiện nay. Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam. 4
  11. Chƣơng 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI 1.1. Khái quát chung về doanh nghiệp xã hội. 1.1.1. Lược sử về sự hình thành và phát triển của doanh nghiệp xã hội trên thế giới. Theo nghiên cứu của MacDonald M. & Howarth C. (2008), mô hình doanh nghiệp xã hội đầu tiên xuất hiện tại London vào năm 1665, khi Đại dịch (Great Plague) hoành hành đã khiến nhiều gia đình giàu có, vốn là các chủ xưởng công nghiệp và cơ sở thương mại rút khỏi thành phố, để lại tình trạng thất nghiệp tăng nhanh trong nhóm dân nghèo lao động. Trong bối cảnh đó, Thomas Firmin đã đứng ra thành lập một xí nghiệp sản xuất và sử dụng nguồn tài chính cá nhân cung cấp nguyên liệu cho nhà máy để tạo và duy trì việc làm cho 1.700 công nhân. Ngay từ khi thành lập, ông tuyên bố xí nghiệp không theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận và số lợi nhuận sẽ được chuyển cho các quỹ từ thiện. Đến cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, số lượng không nhiều các doanh nghiệp xã hội ở Anh có thể được phân thành hai nhóm: (i) Một số người giàu có thay đổi quan điểm của họ trong hoạt động từ thiện. Thay cho những khoản đóng góp vật chất dễ gây nên tâm lý ỷ lại, lười biếng và “nhàn cư vi bất thiện” ở tầng lớp dân nghèo, họ chuyển sang các chương trình cung cấp việc làm để nhóm này học việc và có thể duy trì công việc cũng như thu nhập của mình, trở thành “những thành viên hữu ích của quốc gia”. Quỹ tín dụng vi mô (chủ yếu là cho vay công cụ sản xuất) đầu tiên của nước Anh được thành lập ở Bath. Trường dạy xe sợi, dệt vải và tạo việc làm cho những người mù nghèo khổ, mô hình doanh nghiệp xã hội đầu tiên trong lĩnh vực giáo dục, được mở ở Liverpool năm 1790. Trường giáo dưỡng, tái hòa nhập trẻ phạm tội của tư nhân, vốn trước đó được coi là một trong các 5
  12. chức năng của ngành cảnh sát, đã được Nhà nước công nhận và tài trợ. Hàng loạt sáng kiến xã hội khác như đào tạo nghề đi biển, nghề mộc cho trẻ em, sử dụng nguồn thu từ các hàng cà phê cũng được ghi nhận trong thời gian này. Đặc biệt, các dự án cung cấp nhà ở xã hội đầu tiên đã đi theo mô hình doanh nghiệp xã hội với mức lợi nhuận tối đa 5% được các nhà đầu tư chấp nhận. (ii) Xuất hiện các mô hình cho phép người lao động có nhiều quyền hơn trong ký kết hợp đồng lao động và lần đầu tiên họ có khả năng làm chủ kế hoạch kinh doanh cũng như phân phối lợi nhuận. Hợp tác xã (Co-op), hội ái hữu (Provident Society), làng nghề (Industrial Society) đã thực hiện phân phối lợi nhuận và cung cấp phúc lợi cho toàn bộ cộng đồng, cũng như trao quyền biểu quyết về quản lý tổ chức và kinh doanh cho tất cả thành viên. Ngoài ra, trên thực tế nhiều thư viện và bảo tàng ở châu Âu và Bắc Mỹ từ lâu đã có truyền thống thực hiện kinh doanh, bán hàng lưu niệm, đấu giá nhằm mục đích gây quỹ cho các lĩnh vực hoạt động chính của mình. Mặc dù không điển hình, nhưng đây cũng có thể được coi như những hoạt động mang tinh thần doanh nhân xã hội (DNhXH) xuất hiện từ rất sớm. Họ hướng đến kinh doanh như một công cụ để tăng cường tính bền vững của tổ chức, cũng như giải pháp xã hội mà dựa vào đó tổ chức được thành lập. Sang thế kỷ 20, hoạt động của các doanh nghiệp xã hội có phần giảm sút khi chủ thuyết kinh tế Keynes lên ngôi từ sau cuộc Đại suy thoái (1929- 1933), cổ vũ cho vai trò can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế; và cũng nhờ đó, một loạt mô hình Nhà nước phúc lợi đã ra đời ở Tây Âu và Bắc Mỹ sau Thế chiến II. Các doanh nghiệp xã hội chỉ thực sự phát triển mạnh để hình thành nên một phong trào rộng khắp có diện mạo như ngày nay kể từ khi Thủ tướng Anh Margaret Thatcher lên nắm quyền, năm 1979. Bà chủ trương thu hẹp lại vai trò của Nhà nước và cho rằng Nhà nước không nên trực tiếp tham gia cung cấp phúc lợi xã hội. Chúng ta có thể thấy, dịch vụ công và phúc lợi xã hội vốn luôn được thừa nhận rộng rãi như một trong các chức năng cơ bản của 6
  13. Nhà nước; tuy nhiên, hiện nay chính phủ của nhiều nước châu Âu và Bắc Mỹ đều thực hiện chức năng này thông qua các tổ chức dân sự và tư nhân bằng hình thức đấu thầu và thuê ngoài. Quan điểm của họ cho rằng bộ máy công quyền với điểm yếu cố hữu về tính quan liêu và tham nhũng không thể đạt hiệu quả cao bằng các tổ chức dân sự và tư nhân, vốn phát triển lên từ cơ sở cộng đồng. Hơn nữa, cùng với sự lớn mạnh của xã hội dân sự, những hạn chế của Nhà nước cho thấy vai trò duy nhất của Nhà nước là không đủ để giải quyết các vấn đề xã hội đang ngày càng gia tăng cả về số lượng và mức độ phức tạp. Nhà nước không những phải chia sẻ trách nhiệm cung cấp phúc lợi xã hội của mình, mà còn phải coi khu vực xã hội dân sự (còn được gọi với nghĩa hẹp hơn là Khu vực thứ ba để so sánh với khu vực công và tư nhân) như một đối tác then chốt trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Trong ba thập niên trở lại đây, phong trào doanh nghiệp xã hội đã phát triển mạnh ra khỏi biên giới các quốc gia và trở thành một vận động xã hội có quy mô và tầm ảnh hưởng toàn cầu. Hiện tại không có số liệu chính xác bao nhiêu doanh nghiệp xã hội đang hoạt động tại bao nhiêu quốc gia bởi mô hình khái quát về doanh nghiệp xã hội tuy đã được công nhận thức một cách rộng rãi, nhưng đi vào nội dung, tiêu chí cụ thể để định nghĩa, phân loại doanh nghiệp xã hội lại có nhiều quan điểm khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển, đặc điểm kinh tế - xã hội của từng nước, và thậm chí là mục tiêu chính sách của từng chính phủ. Mặc dù vậy, qua các tài liệu nghiên cứu, có thể nói doanh nghiệp xã hội đang hoạt động mạnh mẽ ở tất cả các khu vực trên thế giới từ Tây Âu, Bắc Mỹ, Úc đến Mỹ La-tinh, Trung Đông, châu Phi, Nam Á, Đông Nam Á. Không ít quốc gia đã ban hành văn bản pháp lý riêng về doanh nghiệp xã hội và tạo lập được các mạng lưới có tổ chức để tập hợp, chia sẻ và kết nối lên tới hàng nghìn doanh nghiệp xã hội ở phạm vi trong nước cũng như quốc tế. Có thể thấy việc phong trào doanh nghiệp xã hội được thúc đẩy lan rộng một cách nhanh chóng trên thế giới trong thời gian qua là nhờ một số tác nhân chủ chốt sau đây: 7
  14. - Một là, xu hướng toàn cầu hóa diễn ra, tạo điều kiện cho các doanh nhân xã hội kết nối, chia sẻ kiến thức, nguồn lực và nhân rộng mô hình doanh nghiệp xã hội vượt quá giới hạn biên giới quốc gia. - Hai là, các giá trị nhân văn được thức tỉnh mạnh mẽ. Đây là thời kỳ người ta nói đến xã hội hậu công nghiệp và vai trò của xã hội dân sự. Hàng loạt cuộc vận động xã hội khác diễn ra như phong trào bảo vệ môi trường, Thương mại công bằng (Fair Trade), Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR), mục tiêu thiên niên kỷ, chỉ số phát triển con người. - Ba là, sự xuất hiện của những nhà đầu tư xã hội (social impact investors) tìm kiếm tác động xã hội thay cho lợi nhuận tài chính truyền thống. Họ tạo thành các mạng lưới liên quốc gia, tập hợp, chia sẻ và hỗ trợ các doanh nghiệp xã hội trên phạm vi toàn cầu. Điều này đặc biệt có lợi cho sự phát triển doanh nghiệp xã hội ở các nước đang phát triển, vốn có nhu cầu lớn về vốn và nâng cao năng lực. [16] Thực tế cho thấy, doanh nghiệp xã hội có lịch sử phát triển lâu đời, bắt đầu từ thế kỷ 17 ở Vương Quốc Anh. Trong hơn ba thế kỷ, rất nhiều mô hình doanh nghiệp xã hội đã được thực hiện như: nhà ở xã hội, nhóm tự lực, dạy nghề và tạo việc làm, thương mại công bằng, hay như các hoạt động tạo thu nhập cho các tổ chức từ thiện, tài chính vi mô, và cung cấp dịch vụ công qua các hợp đồng với chính quyền Doanh nghiệp xã hội ở Vương Quốc Anh cũng hoạt động dưới rất nhiều hình thức tổ chức và địa vị pháp lý đa dạng, bao gồm: các công ty vì lợi ích cộng đồng, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, quỹ tín dụng, nhánh kinh doanh của các tổ chức từ thiện phi lợi nhuận, doanh nghiệp do người làm thuê tự chủ, hợp tác xã, quỹ phát triển, liên hiệp nhà ở, công ty xã hội và các quỹ ủy thác Theo một điều tra của Cơ quan doanh nghiệp xã hội Vương Quốc Anh năm 2015, hiện có khoảng 70.000 doanh nghiệp xã hội đóng góp 24 tỷ bảng Anh cho nền kinh tế và tạo việc làm cho gần một triệu người tại Vương Quốc Anh. Phần lớn doanh thu 8
  15. của các doanh nghiệp xã hội là từ các hoạt động thương mại (chiếm 73%). Xu thế cũng cho thấy, các tổ chức phi chính phủ (NGO) truyền thống đang dần chuyển sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, mặc dù nền kinh tế Phi-líp-pin đã đạt được một số thành tựu về tốc độ tăng trưởng GDP, nhưng tình hình kinh tế - xã hội vẫn gặp phải một số khó khăn như thiên tai, thất nghiệp, tỷ lệ đói nghèo cao Để góp phần hồ trợ Chính phủ giải quyết các vấn đề xã hội này, bên cạnh mô hình doanh nghiệp xã hội truyền thống như tổ chức phi chính phủ, quỹ từ thiện một bộ phận doanh nhân có tâm huyết và có trách nhiệm xã hội đứng ra thành lập các doanh nghiệp xã hội theo mô hình doanh nghiệp với kỳ vọng dùng lợi nhuận thu được từ các hoạt động kinh doanh của chính doanh nghiệp đầu tư, hỗ trợ người dân nhằm giảm nghèo bền vững. Theo thống kê, số lượng doanh nghiệp xã hội ở Phi-líp-pin ước tính khoảng trên 80.000, được chia làm ba nhóm (hợp tác xã; tổ chức NGO; doanh nghiệp) hoạt động trên nhiều lĩnh vực như sản xuất hàng tiêu dùng, giáo dục, đào tạo, chăm sóc y tế, thời trang [21] 1.1.2. Khái niệm doanh nghệp xã hội. Mặc dù doanh nghiệp xã hội đã xuất hiện từ lâu đời, tuy nhiên, cho đến nay, khái niệm doanh nghiệp xã hội vẫn chưa có sự thống nhất chung, do vậy có nhiều khái niệm về doanh nghiệp xã hội khác nhau trên thế giới. Trong “Chiến lược phát triển doanh nghiệp xã hội” năm 2002, Chính phủ Anh định nghĩa: “Doanh nghiệp xã hội là một mô hình kinh doanh được thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội, và sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư cho mục tiêu đó hoặc cho cộng đồng, thay vì tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông hoặc chủ sở hữu.” Cách định nghĩa này rất toàn diện, bám sát những đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp xã hội. Một là, kinh doanh cần được hiểu như một mô hình, phương án, giải pháp có và thông qua hoạt động kinh doanh hơn là ràng buộc doanh nghiệp xã hội vào hình thức công ty xơ cứng, vốn suy cho cùng cũng chỉ là công cụ tổ chức. Hai là, mục tiêu xã hội được 9
  16. đặt ra như một sứ mệnh cơ bản và trước tiên của việc thành lập tổ chức đó. Doanh nghiệp xã hội phải là tổ chức được lập ra vì mục tiêu xã hội. Ba là, về nguyên tắc lợi nhuận được tái phân phối lại cho tổ chức hoặc cộng đồng, không phải cho cá nhân. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) thì định nghĩa: “Doanh nghiệp xã hội là những tổ chức hoạt động dưới nhiều hình thức pháp lý khác nhau vận dụng tinh thần doanh nhân nhằm theo đuổi cùng lúc cả hai mục tiêu xã hội và kinh tế. Doanh nghiệp xã hội thường cung cấp các dịch vụ xã hội và việc làm cho các nhóm yếu thế ở cả thành thị và nông thôn. Ngoài ra, các doanh nghiệp xã hội còn cung cấp các dịch vụ cộng đồng, trên các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, môi trường.” Đây là hai định nghĩa thường được tham khảo, trích dẫn, cũng là những định nghĩa toàn diện, bám sát đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp xã hội. Tổ chức hỗ trợ sáng kiến vì cộng đồng - CSIP của Việt Nam đưa ra quan điểm: “Doanh nghiệp xã hội là một khái niệm dùng để chỉ hoạt động của các doanh nhân xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau tùy thuộc vào mục đích và điều kiện hoạt động cụ thể. Doanh nghiệp xã hội lấy lợi ích xã hội làm mục tiêu chủ đạo, được dẫn dắt bởi tinh thần doanh nhân nhằm đạt được cả mục tiêu xã hội/ môi trường và mục tiêu kinh tế”. Có thể nói khái niệm của CSIP về doanh nghiệp xã hội là rất rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức này tuyển chọn, ươm tạo và phát triển phong trào doanh nghiệp xã hội vốn còn rất non trẻ ở Việt Nam. Trước hết, CSIP gắn doanh nghiệp xã hội với doanh nhân xã hội để nhấn mạnh vai trò của người sáng lập tổ chức là những người kết hợp hài hòa được sáng kiến xã hội và tinh thần doanh nhân. Thứ hai, doanh nghiệp xã hội có thể đang hoặc sẽ hoạt động dưới nhiều hình thức tổ chức và địa vị pháp lý khác nhau, vốn phù hợp với thực trạng phong phú của khu vực xã hội dân sự ở Việt Nam, trong đó nổi bật là vai trò đổi mới của các NGOs; đồng thời mở ra khả năng chuyển đổi thành doanh 10
  17. nghiệp xã hội từ các mô hình tổ chức khác như Quỹ tín dụng vi mô, Quỹ từ thiện, Hợp tác xã thậm chí có thể bao gồm các một số loại hình từ Tổ chức xã hội, Tổ chức sự nghiệp, Doanh nghiệp dịch vụ công ích của khu vực nhà nước. Thứ ba, các tiêu chí chủ đạo để xác định doanh nghiệp xã hội trong khái niệm của CSIP dường như tiếp thu trường phái định nghĩa của OECD khi yêu cầu doanh nghiệp xã hội phải theo đuổi đồng thời cả hai mục tiêu xã hội (chủ đạo) và kinh tế - “doing business and doing good together”. Tương tự như OECD, vấn đề phân phối lợi nhuận không được đề cập rõ ràng trong định nghĩa của CSIP. Một số tổ chức có những khái niệm tuy chưa toàn diện nhưng đã làm nổi bật bản chất của doanh nghiệp xã hội. Mạng Wikipedia định nghĩa: “Doanh nghiệp xã hội là một tổ chức áp dụng các chiến lược kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu từ thiện. Doanh nghiệp xã hội có thể là một tổ chức vì-lợi nhuận hoặc phi-lợi nhuận.” Ông Bambang Ismawan- người sáng lập một trong các tổ chức tín dụng vi mô lớn nhất của Indonesia- Quỹ Bina Swadaya (từ năm 1967) cho rằng: “Doanh nghiệp xã hội là việc đạt được sự phát triển/ mục tiêu xã hội (social development) bằng cách sử dụng giải pháp kinh doanh (entrepreneurship solution).” Rõ ràng, cả hai định nghĩa trên đều nhấn mạnh mối quan hệ „phương tiện- cứu cánh‟ giữa chiến lược/ giải pháp kinh doanh và mục tiêu/ giải pháp xã hội trong mô hình doanh nghiệp xã hội. Nói cách khác, việc vận dụng giải pháp kinh doanh như một công cụ để đưa đến một giải pháp xã hội cụ thể chính là bản chất của doanh nghiệp xã hội. [22] Cho đến sau năm 2008, khi một số tổ chức trung gian phát triển doanh nghiệp xã hội như CSIP và Spark ra đời, khái niệm doanh nghiệp xã hội mới chính thức được giới thiệu vào Việt Nam một cách rộng rãi. Theo quy định tại Điều 10, Luật Doanh nghiệp năm 2014 hiện hành của Việt Nam, doanh nghiệp xã hội được hiểu là một mô hình doanh nghiệp, lấy 11
  18. mục tiêu xã hội làm chủ đạo và phải cam kết dành đa số lợi nhuận cho các mục tiêu xã hội đó. Từ những phân tích trên, có thể tóm gọn định nghĩa về doanh nghiệp xã hội “Doanh nghiệp xã hội là một khái niệm dùng để chỉ hoạt động của các doanh nhân xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau tùy thuộc vào mục đích và điều kiện hoạt động cụ thể. Doanh nghiệp xã hội lấy lợi ích xã hội làm mục tiêu chủ đạo, được dẫn dắt bởi tinh thần doanh nhân nhằm đạt được cả mục tiêu xã hội/ môi trường và mục tiêu kinh tế”. 1.1.3. Đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp xã hội. 1.1.3.1. Đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp xã hội. Như được đề cập ở trên, cách định nghĩa về doanh nghiệp xã hội rất phong phú, tùy thuộc trình độ phát triển của mỗi nước và khu vực, cũng như đặc thù và ưu tiên của từng tổ chức. Tuy nhiên, có thể tổng hợp một số đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp xã hội được thừa nhận rộng rãi như sau: Thứ nhất, phải có hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp xã hội không thể không có các hoạt động kinh doanh. Chính hoạt động kinh doanh là nét đặc thù cũng như thế mạnh của doanh nghiệp xã hội so với các tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận, các quỹ từ thiện chỉ đơn thuần nhận tài trợ và thực hiện các chương trình xã hội. Do đó, giải pháp kinh doanh là một nửa không thể thiếu của mô hình doanh nghiệp xã hội. Hơn thế nữa, doanh nghiệp xã hội phải cạnh tranh bình đẳng, công bằng với các doanh nghiệp truyền thống trong cùng lĩnh vực. Khác với các Quỹ từ thiện có thể kêu gọi lòng hảo tâm để nhà tài trợ đóng góp hoặc mua sản phẩm gây quỹ cho tổ chức. Đơn cử như tổ chức Oxfam thường có các cửa hàng từ thiện bán sản phẩm đã qua sử dụng cho người thiện nguyện vừa mua hàng vừa đóng góp gây quỹ. Đây có thể coi là một nhánh phần nào mang tinh thần doanh nhân xã hội nằm trong hệ thống Oxfam. Tuy nhiên, Oxfam vẫn là một tổ chức NGO, mà không phải là một doanh nghiệp xã hội, bởi hoạt động nền tảng của tổ chức vẫn đặt trên triết lý thiện nguyện (kể cả hoạt động nói trên) và dựa vào nguồn tài trợ từ thiện là chủ yếu. 12
  19. Nói đúng hơn, doanh nghiệp xã hội phải vượt lên trên các Quỹ từ thiện truyền thống. Họ phải là người cung cấp các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ với chất lượng tốt và ở mức giá cạnh tranh so với thị trường. Đây là cái khó của các doanh nghiệp xã hội, và chính điều đó lý giải tại sao doanh nghiệp xã hội luôn gắn chặt với các sáng kiến xã hội, bởi giải pháp kinh doanh của doanh nghiệp xã hội phải có tính “sáng kiến xã hội” (social innovation) mới có thể đem đến mục tiêu xã hội dưới hình thức kinh doanh. Việc cạnh tranh bình đẳng và công bằng, tuy là một thử thách lớn, nhưng lại đem lại cho doanh nghiệp xã hội vị thế độc lập và tự chủ trong tổ chức và hoạt động của mình. Đây là điều mà các tổ chức NGO và Quỹ từ thiện không thể có. Doanh thu từ hoạt động kinh doanh có thể không bù đắp tất cả chi phí cho mục tiêu xã hội, nhưng ít nhất việc bù đắp một phần, thường là từ 50-70% nguồn vốn (phần còn lại các doanh nghiệp xã hội vẫn có thể dựa vào nguồn tài trợ), sẽ giúp doanh nghiệp xã hội độc lập hơn trong quan hệ với các nhà tài trợ để theo đuổi sứ mệnh xã hội của riêng mình và quan trọng hơn là tạo điều kiện để doanh nghiệp xã hội mở rộng được quy mô các hoạt động xã hội của họ (như tăng số lượng học viên, phạm vi làng xã tham gia). Sự độc lập và tự chủ gắn chặt với tính bền vững của giải pháp kinh doanh cũng như doanh nghiệp xã hội. Trong khi đó, tính bền vững lại là thế mạnh của doanh nghiệp xã hội. Do vậy, việc tìm được một chiến lược kinh doanh tốt, có lợi nhuận, bền vững là một yêu cầu thiết yếu của doanh nghiệp xã hội. Thực tế cho thấy, không ít doanh nghiệp xã hội không thể phát triển thị phần trong một môi trường cạnh tranh và có nguy cơ phải quay trở lại mô hình NGO để nhận tài trợ. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều doanh nghiệp xã hội hiện đang có sản phẩm cạnh tranh sòng phẳng với các doanh nghiệp truyền thống. Ví dụ như Nhà hàng KOTO có chất lượng tốt cả về đồ ăn và phục vụ, được giới thiệu trên Lonely Planet, Time-Out; sản phẩm của Mai Handicrafts và Mekong Quilts đều được thiết kế rất độc đáo và bán chạy với giá cao. Thứ hai, đặt mục tiêu xã hội lên hàng đầu. 13
  20. Doanh nghiệp xã hội phải lấy mục tiêu xã hội làm sứ mệnh hoạt động tối thượng ngay từ khi thành lập, và điều này phải được tuyên bố một cách công khai, rõ ràng, minh bạch. Nói cách khác, mỗi doanh nghiệp xã hội được lập ra vì mục tiêu xã hội cụ thể của mình. Sẽ có rất nhiều ý kiến cho rằng, doanh nghiệp truyền thống cũng có những hiệu quả xã hội tích cực. Trừ một số doanh nghiệp trong các lĩnh vực như sản xuất thuốc lá, rượu, kinh doanh vũ trường, sòng bài (một số nước coi đây là ngành kinh doanh “tội á” và đánh thuế Sin Tax), đa số doanh nghiệp còn lại đều làm ra sản phẩm phục vụ đời sống, tạo ra công cụ sản xuất, đem lại việc làm và thu nhập. Tuy nhiên, điểm khác biệt ở chỗ các doanh nghiệp truyền thống sử dụng việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng hay tìm đến các giải pháp xã hội như một công cụ nhằm đạt được lợi nhuận cho chủ sở hữu của doanh nghiệp. Ngược lại, doanh nghiệp xã hội sử dụng hình thức kinh doanh như một công cụ để đạt được các mục tiêu xã hội của mình. Doanh nghiệp truyền thống = Phát hiện nhu cầu -> Sản phẩm -> Lợi nhuận DNXH = Phát hiện vấn đề xã hội -> Mô hình kinh doanh -> Giải quyết vấn đề xã hội Rõ ràng, hai quy trình cũng như cách tiếp cận này tương phản nhau về bản chất. Do đó, doanh nghiệp xã hội có thể có lợi nhuận, thậm chí cần lợi nhuận để phục vụ mục tiêu xã hội, nhưng không “vì- lợi nhuận” mà “vì- xã hội”. Một cơ sở sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, tranh thêu cho khách du lịch nước ngoài cũng sử dụng lao động là người khuyết tật. Rõ ràng, họ có ý nghĩa tích cực cho xã hội ở khía cạnh đó, nhưng vẫn là một doanh nghiệp thông thường, bởi mục tiêu nguyên thủy của tổ chức này là lợi nhuận. Việc sử dụng lao động là người khuyết tật chỉ là một phần trong kế hoạch kinh doanh của họ, mà không phải là sứ mệnh xã hội để tổ chức này thành lập. Thứ ba, tái phân phối lợi nhuận. Mô hình doanh nghiệp xã hội đòi hỏi lợi nhuận phải được tái phân phối trở lại cho hoạt động của tổ chức hoặc cho cộng đồng là đối tượng hưởng lợi. 14
  21. Thực chất, hai đặc điểm ở trên về hoạt động kinh doanh và mục tiêu xã hội là những nét cơ bản nhất về doanh nghiệp xã hội. Yêu cầu tái phân phối lợi nhuận chỉ là tiêu chí để giúp phân định rõ đặc điểm “vì- lợi nhuận” hay “vì- xã hội” mà thôi. Nguyên tắc cơ bản của doanh nghiệp xã hội là không được phân phối lợi nhuận cho cá nhân. Doanh nghiệp xã hội không thể được coi là một con đường làm giàu. Muốn làm giàu cá nhân phải tìm kiếm ở mô hình kinh doanh truyền thống. Thứ tư, sở hữu mang tính xã hội. Một đặc điểm khác tuy không phổ biến nhưng được một số cách định nghĩa doanh nghiệp xã hội đề cập là cấu trúc sở hữu và quản lý của doanh nghiệp xã hội có sự tham gia của cộng đồng hoặc các bên liên quan, các bên hưởng lợi Điều này cho phép doanh nghiệp xã hội có tính tự chủ cao. Đây là trường hợp của các Hợp tác xã hoạt động theo mô hình doanh nghiệp xã hội rất hiệu quả ở một số nước. Trên thực tế, hầu hết các doanh nghiệp xã hội đều có cấu trúc quản lý cởi mở và dân chủ. Yêu cầu gắn kết với cộng đồng, các bên hưởng lợi và một số lượng đối tác đông đảo, trong khi mục đích xã hội được đặt ở vị trí tối cao, khiến các doanh nghiệp xã hội sẵn sàng chia sẻ “quyền lực” của mình với tất cả các bên liên quan. Đáng chú ý, ở nhiều doanh nghiệp xã hội khái niệm đối nhân - đối vốn không được áp dụng như tại các công ty cổ phần hay công ty TNHH truyền thống. Tại không ít doanh nghiệp xã hội, Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng sáng lập viên đã áp dụng nguyên tắc “mỗi thành viên - một phiếu bầu/ quyền biểu quyết như nhau” trong mọi quyết định của tổ chức, mà không dựa vào tỷ lệ góp vốn của họ. Thứ năm, phục vụ nhu cầu của Nhóm đáy. Một trong những sứ mệnh đặc thù của doanh nghiệp xã hội là phục vụ nhu cầu của Nhóm đáy. Đây là đối tượng những người nghèo và yếu thế nhất trong xã hội, họ tạo nên một nhóm gồm 2 tỷ người với thu nhập dưới 2 USD/ngày. Và vì chiếm số đông nhất nhưng ở dưới đáy cùng của xã hội nên 15
  22. được gọi là “Nhóm đáy” của Kim tự tháp (Bottom of Pyramid- BoP). Đáng chú ý, nhóm đối tượng bị lề hóa, bao gồm người dân ở vùng sâu vùng xa, người khuyết tật, người bị nhiễm HIV/AIDS, trẻ em đường phố, thất học, phạm nhân mãn hạn tù tuy không hoàn toàn nằm trong Nhóm đáy nhưng có tỷ lệ và nguy cơ cao rơi vào Nhóm đáy, do đó cũng là một địa bàn trọng yếu của các doanh nghiệp xã hội. Trong khi khu vực nhà nước không kham nổi gánh nặng phúc lợi xã hội của Nhóm đáy, khu vực doanh nghiệp tư nhân lại bỏ qua nhóm này, thay vào đó họ thường lấy các nhóm có khả năng chi trả cao hơn làm khách hàng mục tiêu. Chính vì vậy, doanh nghiệp xã hội đóng vai trò rất quan trọng để lấp đầy khoảng trống mà cả “thất bại của nhà nước” và “thất bại của thị trường” để lại. Chỉ có các doanh nghiệp xã hội mới có thể cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho đối tượng Nhóm đáy ở mức giá rẻ. Tại Colombia, một doanh nhân xã hội thuộc mạng lưới Ashoka đã đứng ra thương thuyết với Công ty Colceramica sản xuất vật liệu xây dựng để bán gạch men với giá rẻ cho các hộ nghèo ở Usme- Bogota, tạo điều kiện cho các hộ này sửa lại nhà của họ. Từ sản phẩm gạch men nhiều sản phẩm khác như mái lợp, sơn tường, cửa sổ cũng được cung cấp theo một kênh đặc biệt có vai trò kết nối của doanh nghiệp xã hội. Thứ sáu, những đặc điểm nổi bật khác của doanh nghiệp xã hội. Tuy không phải là các đặc điểm mang tính cốt lõi, nhưng một số đặc điểm chung và nổi bật sau đây cũng có thể được coi là những nét khắc họa không thể thiếu của nhiều doanh nghiệp xã hội: Sáng kiến từ cơ sở (bottom-up approach): Như đã đề cập, hầu hết các doanh nghiệp xã hội được hình thành tự phát. Doanh nhân xã hội phát hiện vấn đề xã hội, họ tìm được mô hình kinh doanh trong giải pháp xã hội và từ đó đưa sáng kiến vào thực tiễn nhằm giải quyết các vấn đề xã hội đó. Chỉ có những con người gắn bó với cộng đồng, thậm chí là người bản thân cũng thuộc nhóm đối tượng hưởng lợi của sáng kiến đó mới có thể phát hiện và thấu hiểu một vấn đề xã hội cụ thể. Ví dụ như chị Dương Phương Hạnh là người khiếm thính nên sáng lập Trung tâm nghiên 16
  23. cứu giáo dục, đào tạo ngôn ngữ ký hiệu cho người khiếm thính; anh Nguyễn Công Hùng là người khuyết tật vận động nhưng tự học thành thạo các kỹ năng tin học nên sáng lập Trung tâm Nghị lực sống đào tạo tin học cho người khuyết tật theo cách tiếp cận hòa nhập toàn diện (từ đào tạo đến tìm việc làm); anh Tạ Minh Tuấn xuất phát từ bệnh tình của bố để thành lập Help Corporation thực hiện mô hình bác sĩ gia đình, điều chỉnh lối sống. Tính cách tự phát của doanh nghiệp xã hội cần được hiểu theo nghĩa tích cực như một sự ngẫu nhiên, xuất phát từ nhu cầu của cuộc sống, không phải theo nghĩa tiêu cực - như sự thiếu tổ chức mà chúng ta thường sử dụng. Chính đặc điểm tự phát của doanh nghiệp xã hội giải thích tại sao họ luôn thực tế, năng động và linh hoạt. Đây là tính cách đặc thù của rất nhiều Doanh nhân xã hội. Có thể miêu tả họ như những phân tử luôn chuyển động, bùng nổ và chính năng lượng tỏa ra là nguồn sáng kiến cho các giải pháp xã hội. Và chính cách tiếp cận từ dưới lên (bottom-up) xuất phát trên nền tảng cộng đồng và cơ sở (grass-roots), đã đem lại tính bền vững cho giải pháp xã hội của các doanh nghiệp xã hội. Không ai có thể hiểu rõ vấn đề bằng các Doanh nhân xã hội và do đó không có giải pháp nào phù hợp với cộng đồng và được cộng đồng chấp nhận khi được phát triển từ chính cộng đồng đồng đó. Ở khía cạnh khác, cách tiếp cận đặc trưng từ dưới lên khiến nhiều ý kiến cho rằng doanh nghiệp xã hội chỉ có thể xuất phát từ khu vực tư nhân. Đây là điểm sẽ khiến gây tranh cãi nếu chúng ta có ý định đưa một số loại hình tổ chức thuộc khu vực Nhà nước áp dụng mô hình doanh nghiệp xã hội. Trong trường hợp ở nước Anh, không ít ý kiến từ phía khu vực doanh nghiệp xã hội đã phản đối Bộ trưởng Y tế Anh tìm kiểm khả năng đưa một chương trình và Quỹ của ngành Y tế họat động theo mô hình doanh nghiệp xã hội. Cởi mở và liên kết: Trong môi trường hoạt động xã hội, các doanh nghiệp xã hội đều rất cởi mở và luôn sẵn sàng cho các khả năng liên kết. Nguồn lực hạn chế và sự thôi thúc đưa ra những sáng kiến xã hội có tính khả thi hình thành nếp tư duy cởi mở trước những thay đổi, ý kiến phản biện và 17
  24. đặc biệt cơ hội tiếp cận vốn tài trợ, chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm cũng như hợp tác giữa các doanh nghiệp xã hội với nhau và giữa doanh nghiệp xã hội với các đối tác liên quan. Có lẽ các doanh nghiệp xã hội là những người hơn ai hết từ lâu đã quán triệt triết lý “connecting dots” của Steve Jobs. Gắn chặt với vai trò cá nhân của doanh nhân xã hội: Có thể nói sự phát triển của hầu như tất cả doanh nghiệp xã hội đều gắn chặt với vai trò của người sáng lập là doanh nhân xã hội. Khác với các công ty cổ phần đại chúng, vai trò cá nhân của doanh nhân xã hội có ảnh hưởng bao trùm đối với triết lý hoạt động, phong cách tổ chức và làm việc ở mọi ngóc ngách của một doanh nghiệp xã hội. Không những vì ý tưởng thành lập doanh nghiệp xã hội thường thuộc về doanh nhân xã hội mà để xây dựng và phát triển doanh nghiệp xã hội phụ thuộc rất lớn vào ý chí, nhiệt huyết và trí tuệ của doanh nhân xã hội. Doanh nhân xã hội thường có đầy đủ tính cách và phẩm chất của một doanh nhân truyền thống. Đó là khả năng sáng tạo, ham thay đổi, tinh thần trách nhiệm, lạc quan, bền bỉ, ý chí, năng động, không chịu sự ràng buộc bởi những hạn chế về nguồn lực. Không những vậy, họ còn là những người có lòng trắc ẩn và mối quan tâm cao về xã hội hơn người khác, họ nhận thấy trách nhiệm của mình trong các vấn đề xã hội. Không nhiều lý thuyết, họ thích hành động, muốn nhìn thấy kết quả thực tiễn đạt được. Có thể xây dựng được nhiều cơ sở sản xuất, cửa hàng hay tài sản giá trị, nhưng doanh nhân xã hội luôn giữ phong cách giản dị, gần gũi, hòa đồng. Nếu chúng ta thấy các doanh nhân truyền thống đã gặp nhiều khó khăn từ môi trường bên ngòai để có thể tồn tại và phát triển, thì các doanh nhân xã hội còn gặp nhiều thử thách hơn nữa, bởi họ thường phải cạnh tranh bình đẳng trong điều kiện thiếu thốn về vốn, cơ sở vật chất, nhân lực, trình độ, sức khỏe, nhận thức của xã hội, quan hệ với chính quyền. Đó là chưa kể nhiều doanh nghiệp xã hội đi tiên phong trong các lĩnh vực mới phải bỏ ra chi phí rất lớn để “giáo dục” khách hàng về sản phẩm mới của mình. Các doanh nghiệp xã hội sản xuất sản phẩm hữu cơ (organic) và sản phẩm phong cách (life-style) là ví dụ điển hình ở đây. 18
  25. Mặt khác, sự phụ thuộc quá nhiều vào doanh nhân xã hội cũng có thể được coi là một trong những điểm yếu của doanh nghiệp xã hội. Đơn cử như vấn đề kế thừa, liệu các thế hệ lãnh đạo sau này của doanh nghiệp xã hội có duy trì được tinh thần, sứ mệnh và ý chí của thế hệ sáng lậpdoanh nghiệp xã hội là một câu hỏi lớn cho không ít các doanh nghiệp xã hội. Nhân viên của doanh nghiệp xã hội là người làm công tác xã hội (social workers). Có thể nhận được sự góp sức của nhiều tình nguyện viên, nhưng các nhân viên của doanh nghiệp xã hội, kể cả doanh nhân xã hội là sáng lập viên, đều nhận lương cho lao động của mình như tại các tổ chức và doanh nghiệp khác. Chính vì vậy, họ không phải là những tình nguyện viên. Trên thế giới, công tác xã hội là một nghề nghiệp riêng biệt và khái niệm những người làm công tác xã hội (social workers) từ lâu đã trở nên phổ biến. Có thể nói, những người làm trong doanh nghiệp xã hội chính là những người làm công tác xã hội thuộc loại này. [22] 1.1.3.2. Phân loại doanh nghiệp xã hội. Không có một mô hình nhất quán cho mọi doanh nghiệp xã hội. Dựa trên thực tiễn vận động, có thể tóm tắt thành 3 loại hình như sau: Doanh nghiệp xã hội phi lợi nhuận (Non-profit Social Enterprises) thường hoạt động dưới các hình thức như: trung tâm, hội, quỹ, câu lạc bộ, tổ/nhóm tự nguyện. Điểm khác biệt là khả năng đưa ra được những giải pháp mới và sáng tạo để giải quyết các vấn đề mà cả xã hội đang quan tâm. Doanh nghiệp xã hội không vì lợi nhuận (Not-for-profit Social Enterprises) do các doanh nhân xã hội sáng lập, với sứ mệnh xã hội được công bố rõ ràng, xác định rõ sự kết hợp bền vững giữa sứ mệnh xã hội với mục tiêu kinh tế, trong đó mục tiêu kinh tế là phương tiện để đạt mục tiêu tối cao là phát triển xã hội; Doanh nghiệp có định hướng xã hội, có lợi nhuận (Social Business Ventures). Mô hình này đặc biệt phổ biến trong lĩnh vực tài chính vi 19
  26. mô với các ví dụ như Grameen Bank và BRAC ở Bangladesh, SKS Microfinance ở Ấn độ, Bina Swadaya ở Indonesia, KIVA ở Mỹ [18] 1.1.3.3. Phân biệt doanh nghiệp xã hội với các loại hình khác. Thứ nhầt, doanh nghiệp xã hội và doanh nghiệp thông thường Doanh nghiệp xã hội cũng giống như doanh nghiệp thông thường khác được tổ chức và hoạt động theo một trong các loại hình doanh nghiệp nhất định như: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn , chỉ phân biệt ở mục tiêu hoạt động và mục đích việc sử dụng lợi nhuận của doanh nghiệp. Phải khẳng định, doanh nghiệp thông thường và doanh nghiệp xã hội đều là doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, nghĩa là phải có doanh thu và lợi nhuận. Nhưng khác nhau ở mục tiêu: doanh nghiệp thông thường có mục tiêu là lợi nhuận, doanh nghiệp xã hội vì mục tiêu phụng sự xã hội. Các mục tiêu xã hội mà doanh nghiệp hướng đến thì vô cùng đa dạng. Tuy nhiên đến đâu vẫn chưa rõ sự khác biệt, vì bản chất các doanh nghiệp thông thường, không phải tất cả đều vì lợi nhuận, họ vẫn có những lý tưởng hay mục tiêu cao cả. Và đi sâu hơn, để phân định một doanh nghiệp xã hội và một doanh nghiệp thông thường, ở nơi nào sử dụng lao động trực tiếp là những người yếu thế và những người có hoàn cảnh khó khăn, hay gián tiếp tạo cơ hội cho họ tham gia vào chuỗi giá trị sản phẩm hay dịch vụ của mình, đó là doanh nghiệp xã hội. Thứ hai, doanh nghiệp xã hội và tổ chức phi chính phủ và tổ chức từ thiện. Về nguồn vốn, doanh nghiệp xã hội huy động vốn như doanh nghiệp thông thường, trong khi đó tổ chức NGO được tài trợ bởi một tổ chức/ cá nhân và có thể gây quỹ tiếp tục trong quá trình hoạt động, còn tổ chức từ thiện được tài trợ toàn bộ bởi các cá nhân/ tổ chức dưới dạng đóng góp. Về mục đích hoạt động, doanh nghiệp xã hội hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận nhằm duy trì và phát triển các hoạt động với mục đích đóng góp cho sự phát triển xã hội thông qua các sản phẩm và dịch vụ của mình. Tổ chức NGO thì thực hiện một/ một vài mục đích cụ thể được định 20
  27. trước bởi những sáng lập viên. Hoạt động của tổ chức NGO chỉ mang sứ mệnh hoàn thành mục đích đặt ra, có thời hạn. Tổ chức từ thiện thực hiện các hoạt động mang tính trợ giúp xã hội, đặc biệt cho các nhóm yếu thế và dễ bị tổn thương mang tính bù đắp, mục đích có thể rõ ràng hoặc không rõ ràng. Về bộ máy điều hành, doanh nghiệp xã hội có bộ máy điều hành và hoạt động như doanh nghiệp thông thường, được trả thù lao cùng các chế độ như doanh nghiệp thông thường. Bộ máy điều hành và hoạt động của tổ chức NGO được trả thù lao và các chế độ theo quy định tổ chức đề ra. Bộ máy điều hành và hoạt động của tổ chức từ thiện có thể được hoặc không được được trả lương, thưởng dưới dạng hoạt động tình nguyện. Các chi phí quản lý và hoạt động được quy định theo chính sách của mỗi quốc gia, nếu là tổ chức có đăng ký. Về lợi nhuận, doanh nghiệp xã hội có lợi nhuận nhưng không được chia lại cho các cổ đông mà được dùng toàn bộ cho việc tái đầu tư. Còn tổ chức NGO và tổ chức từ thiện thì không có lợi nhuận. Về nghĩa vụ đối với Nhà nước, doanh nghiệp xã hội có nghĩa vụ như doanh nghiệp thông thường còn tổ chức NGO và tổ chức từ thiện hầu hư không có nghĩa vụ gì. [18] 1.2. Pháp luật về doanh nghiệp xã hội. 1.2.1. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với doanh nghiệp xã hội. Trong nghiên cứu của Trung tâm hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng - CSIP, sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam diễn ra qua 3 giai đoạn: (1) Giai đoạn sơ khai của doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam từ trước năm 1986, chủ yếu hoạt động dưới hình thức hợp tác xã thủ công, tổ sản xuất nhỏ phục vụ đối tượng yếu thế như người khuyết tật, trẻ lang thang (2) Giai đoạn tự phát từ năm 1986 đến trước năm 2008, doanh nghiệp xã hội bùng phát dưới nhiều hình thức khác nhau, các tổ chức xã hội tìm kiếm phương thức sinh kế cho cộng đồng thiệt thòi. Nhiều doanh nghiệp xã hội hình thành tiêu biểu như KOTO, Mai Handicaft, Reaching out (3) Giai đoạn định hình diễn ra từ sau năm 2008 đến nay, số lượng các doanh 21
  28. nghiệp xã hội tăng nhanh. Xuất hiện các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp xã hội như CSIP, Hội đồng Anh, Tia sáng Nguồn vốn đầu tư cho xã hội cũng được tăng lên. Mặc dù ở Việt Nam trước đây đã có nền móng cho sự phát triển loại hình doanh nghiệp xã hội cũng như ưu điểm của nó đối với nền kinh tế - xã hội, cụ thể là đã từng có rất nhiều tổ chức sử dụng kinh doanh như một công cụ để đóng góp cho cộng đồng, đặc biệt là cho nhóm người yếu thế. Một nghiên cứu năm 2011 do Trung tâm CSIP - Hội đồng Anh phối hợp cùng với Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã cho thấy, ở Việt Nam có đến gần 200 tổ chức có đầy đủ đặc điểm để trở thành một doanh nghiệp xã hội, trong số đó, được hình thành sớm nhất là Hợp tác xã Nhân đạo thuộc Hội người khuyết tật Hà Nội, thành lập năm 1973. [19] Tuy nhiên, trước khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 ra đời, chưa có một hành lang pháp lý nào để các doanh nghiệp hoạt động . Điều này dẫn đến tư cách pháp lý, năng lực tổ chức và hoạt động, các vấn đề tiếp cận nguồn thu, nguồn tài trợ, phân bổ lợi nhuận của nhiều doanh nghiệp xã hội còn nhiều hạn chế. Vì vậy, một nhu cầu đặt ra cấp thiết là phải luật hóa quy định về doanh nghiệp xã hội, tạo cơ sở pháp lý cho loại hình doanh nghiệp này phát triển. Cho đến Luật Doanh nghiệp năm 2014, Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp và Thông tư số 04/2016/TT-BKHĐT ngày 17/5/2016 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định các biểu mẫu văn bản sử dụng trong đăng ký doanh nghiệp xã hội, thì doanh nghiệp xã hội đã được pháp luật ghi nhận và nhận diện một cách khá đầy đủ. 1.2.2. Khung pháp lý về doanh nghiệp xã hội. Doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển sơ khai nhưng tiềm năng rất lớn, góp phần chia sẻ trách nhiệm cũng như chăm lo an sinh xã hội với Nhà nước (thông qua hoạt động đầu tư, kinh doanh sáng tạo). Đây là lĩnh vực tiềm năng đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp và bạn 22
  29. trẻ có hoài bão làm giàu cho chính mình, đóng góp vào sự phát triển của đất nước cũng như sống có ích cho xã hội. Nếu được tạo điều kiện tốt, các doanh nghiệp xã hội hoạt động tại Việt Nam sẽ phát triển bền vững và mang lại nhiều lợi ích hơn cho cộng đồng. Trên thực tế, khung khổ pháp lý và cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp là những thành tố quan trọng tạo nên sự phát triển của doanh nghiệp xã hội. Những nhân tố này đã được thiết lập ở một số quốc gia như: Luật Nền kinh tế xã hội của Tây Ban Nha, Luật Hợp tác xã hội của Ý Theo đó, doanh nghiệp xã hội là đối tượng được hưởng một số ưu đãi. Cụ thể là: Tài trợ từ Chính phủ: Các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) thành lập các Qũy nhằm phát triển kinh tế - xã hội địa phương, trong đó các doanh nghiệp xã hội được nhận các khoản thanh toán/ tài trợ từ Qũy khi tham gia các hoạt động, hỗ trợ cung cấp các dịch vụ xã hội. Ưu đãi trong đấu thầu cung cấp hàng hóa và dịch vụ công: Các nước EU áp dụng hình thức ký hợp đồng cung cấp hàng hóa và dịch vụ công thông qua đấu thầu như một công cụ hỗ trợ cho các trường, và mặt khác phải đảm bảo phúc lợi xã hội. Ví dụ, ở Slovenia, luật pháp cho phép các doanh nghiệp xã hội có sử dụng lao động khuyết tật và tình nguyện viên được ưu tiên tham gia đấu thầu cung cấp hàng hóa và dịch vụ công. Trong đó, Chính phủ dành ít nhất 30% các hợp đồng đấu thầu công khai cho các doanh nghiệp xã hội. Luật mua sắm hàng hóa công có hiệu lực từ ngày 1/2/2006 của Áo cũng quy định các doanh nghiệp xã hội có sử dụng lao động khuyết tật, phụ nữ, những người thất nghiệp được ưu tiên tham dự các cuộc đấu thầu. Ưu đãi về chính sách thuế: - Đối với các tổ chức công ích tại Ý: lợi nhuận dùng để tái đầu tư sẽ được áp dụng mức thuế ưu đãi chung là 12,5% thay vì mức thuế thông thường là 40%; nếu theo đuổi mục tiêu xã hội được miễn thuế sử dụng đất. Tuy nhiên, trên thực tế việc miễn chỉ áp dụng cho các tổ chức công ích trong lĩnh vực y tế, giảng dạy, văn hóa và tôn giáo 23
  30. nhân đạo; miễn thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với hàng hóa và dịch vụ cung cấp trong quá trình hoạt động - Chính sách thuế của Tây Ban Nha: các khoản trợ cấp và quà tặng cho các tổ chức công ích được miễn thuế thu nhập nếu khoản thu này không được coi là hoạt động kinh tế. Thu nhập từ hoạt động kinh tế khác có liên quan của tổ chức công ích được miễn thuế nếu lợi nhuận từ hoạt động này không vượt quá 20% tổng thu nhập hàng năm của tổ chức. Thu nhập từ hoạt động kinh tế không liên quan được đánh thuế ở mức ưu đãi là 10%. Tổ chức công ích được miễn thuế tài sản, và thông thường được miễn thuế lợi nhuận đầu tư, thuế giá trị gia tăng. - Tóm lại, kinh nghiệm thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp xã hội ở các nước trên thế giới cho thấy có sự phân biệt rõ ràng hai loại nguồn thu từ hoạt động thương mại và phi thương mại của doanh nghiệp xã hội. Nguồn thu từ hoạt động thương mại đều bị đánh thuế. Nguồn thu từ các khoản quyên góp từ chính phủ, cá nhân và tổ chức được miễn thuế thu nhập. Các hoạt động của doanh nghiẹp xã hội, tổ chức công ích theo đuổi mục đích xã hội (hay phi lợi nhuận) sẽ được miễn giảm các loại thuế gián thu như thuế kinh doanh, thuế giá trị gia tăng, thuế bất động sản. Hỗ trợ về thể chế: - Hỗ trợ thành lập và hoạt động doanh nghiệp xã hội: Tây Ban Nha đã thành lập mạng lưới “Điểm truy cập và khởi sự doanh nghiệp”, trong đó hỗ trợ các thủ tục hành chính và tư vấn thành lập công ty cho các đối tượng yếu thế, phụ nữ, thanh niên có kế hoạch thành lập doanh nghiệp xã hội. Ngoài ra, Chính phủ tuyển dụng 100 công chức chuyên hỗ trợ thành lập doanh nghiệp trên mạng Internet và tiến hành cải cách hành chính “một cửa” nhằm hỗ trợ doanh nghiệp xã hội và doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Duy trì kiểm soát chất lượng hoạt động của doanh nghiệp 24
  31. xã hội: Luật Doanh nghiệp xã hội của Ý yêu cầu Bộ Lao động và Các vấn đề xã hội chịu trách nhiệm chính trong việc xây dựng cơ chế giám sát và quản lý chất lượng hoạt động của doanh nghiệp xã hội. Luật của Tây Ban Nha cũng yêu cầu Chính phủ phải trình báo cáo về doanh nghiệp xã hội (2 năm/ lần) cho Quốc hội. Thành lập cơ quan điều phối: Hiện nay, một số nước EU nỗ lực hỗ trợ phát triển doanh nghiệp xã hội thông qua việc thành lập cơ quan điều phối. Nhìn chung, các nước quan tâm đến phát triển doanh nghiệp xã hội đã thiết lập một mạng lưới và cơ quan điều phối có vai trò: (i) Hợp tác với Chính phủ trong xây dựng chính sách phát triển; và (ii) Đề ra các biện pháp và hỗ trợ doanh nghiệp xã hội phát triển hướng tới cộng đồng. [21] Doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hoạt động dưới nhiều hình thức tổ chức và địa vị pháp lý khác nhau. Với mỗi loại hình tổ chức được điều chỉnh bởi hệ thống các văn bản pháp luật khác nhau và có những chính sách hỗ trợ phát triển khác nhau. Bên cạnh đó, khi doanh nghiệp xã hội đầu tư kinh doanh vào những lĩnh vực, địa bàn hoặc cho đối tượng được khuyến khích thì được hưởng các chính sách ưu đãi liên quan tùy thuộc vào lĩnh vực, địa bàn hay đối tượng mà doanh nghiệp lựa chọn. Các chính sách ưu đãi đặc thù như đầu tư trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ công, bảo vệ môi trường, đầu tư tại địa bàn miền núi, hay cho nhóm đối tượng yếu thế (người nghèo, người khuyết tật, đồng bào vùng sâu vùng xa ) Đối với mô hình doanh nghiệp xã hội đăng ký theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 được hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ theo Nghị định số 96/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp. Cụ thể là: - Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thành lập doanh nghiệp xã hội có mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng. - Doanh nghiệp xã hội được hưởng các ưu đãi và hỗ trợ đầu 25
  32. tư theo quy định của pháp luật. - Doanh nghiệp xã hội được tiếp nhận viện trợ phi chính phủ nước ngoài để thực hiện mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường theo quy định của pháp luật về tiếp nhận viện trợ phi chính phủ nước ngoài. Các doanh nghiệp xã hội hoạt động trong lĩnh vực xã hội và môi trường, có thể được hưởng các chính sách ưu đãi về xã hội hóa theo Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 nhằm đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao và Nghị định 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ ban hành một nội dung chính sách ưu đãi cơ sở xã hội hóa. Đó là: Chính sách ưu đãi về cơ sở hạ tầng và đất đai: - Cơ sở thực hiện xã hội hóa được thuê dài hạn với giá ưu đãi (không bao gồm tiền thuê đất, tiền đền bù giải phóng mặt bằng và tiền lãi của cơ sở kinh doanh nhà, cơ sở hạ tầng). - Được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất đã hoàn thành giải phóng mặt bằng theo các hình thức: (a) Giao đất không thu tiền sử dụng đất; (b) Cho thuê đất và miễn tiền thuê đất; (c) Giao đất có thu tiền sử dụng đất và được miễn tiền sử dụng đất. - Cơ sở thực hiện xã hội hóa được miễn lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn với đất; được miễn các khoản phí, lệ phí khác liên quan đến quyền sử dụng đất, tài sản gắn với đất. Chính sách ưu đãi về thuế: - Áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% trong suốt thời gian hoạt động. - Được miến thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm, kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 5 năm tiếp theo. 26
  33. - Các dịch vụ y tế, khám chữa bệnh, dạy học, nhập khẩu máy móc thiết bị cho nghiên cứu khoa học, hàng viện trợ không phải đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng. - Được ưu đãi về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Chính sách ưu đãi về tín dụng: Được vay vốn tín dụng đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư theo quy định về tín dụng đầu tư của Nhà nước. Như vậy, có thể thấy Việt Nam cũng đã có một khung pháp lý cơ bản về doanh nghiệp xã hội. Và trong thời gian tới, với sự phát triển của mô hình doanh nghiệp xã hội cũng như sự học tập có chọn lọc từ các nước nước trên thế giới, khung pháp lý về doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam sẽ ngày càng được hoàn thiện và đi vào thực tiễn. 27
  34. Tiểu kết Chƣơng 1 Doanh nghiệp xã hội ở nước ta ngày càng có vai trò quan trọng, góp phần giải quyết hiệu quả, bền vững các vấn đề xã hội. Trong nền kinh tế thị trường vẫn đang trong giai đoạn chuyển đổi ở nước ta, sự công nhận chính thức đối với doanh nghiệp xã hội trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 có ý nghĩa quan trọng trong việc kết nối giữa khu vực Nhà nước với khu vực tư nhân, là công cụ hữu hiệu để phát huy các sáng kiến xã hội, huy động các nguồn lực để giải quyết các nhu cầu của cộng đồng. Tuy nhiên, để phát huy tối đa sức mạnh và tiềm lực của doanh nghiệp xã hội cần phải có một khung pháp lý ổn định, chi tiết cho tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp xã hội. Trong tương lại, việc ban hành một đạo luật riêng về hỗ trợ doanh nghiệp xã hội là vô cùng cần thiết. 28
  35. Chƣơng 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY. 2.1. Sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam. * Thời kỳ trước đổi mới 1986 “Doanh nghiệp xã hội” là thuật ngữ mới xuất hiện tại Việt Nam vào cuối thế kỷ XX. Trong cơ chế tập trung bao cấp, Nhà nước là chủ thể duy nhất có trách nhiệm đảm bảo các dịch vụ xã hội được phân phối tới người dân. Sự hình thành và hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội như: Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, gắn chặt với hệ thống quản lý Nhà nước và là nơi duy nhất qua đó cá nhân có thể tham gia vào hoạt động cộng đồng. Trong thời kỳ này, các loại hình tổ chức xã hội độc lập với Nhà nước như các NGO không được phép hoạt động ở Việt Nam. Bên cạnh đó, chỉ có kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể được công nhận là hai thành phần kinh tế chủ đạo của đất nước. Trong bối cảnh ấy, hợp tác xã (HTX) là hình thức tổ chức kinh tế - xã hội phù hợp duy nhất được thành lập để đáp ứng một số nhu cầu đặc biệt của xã viên theo tinh thần cộng đồng: hợp tác, chia sẻ và cùng hưởng lợi. HTX được coi là một tổ chức thuộc sở hữu cộng đồng, đồng thời là một đơn vị kinh tế độc lập. Nhiều HTX ra đời với mục đích tương trợ các hội viên có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như HTX thương binh, HTX của người khuyết tật Các mô hình này đã có những hỗ trợ rất tích cực và hiệu quả cho các đối tượng thuộc chính sách xã hội nói trên góp phần làm giảm gánh nặng đối với chính sách an sinh xã hội của Nhà nước cho nhóm đối tượng này. Chính vì vậy, HTX có thể được coi là mô hình doanh nghiệp xã hội sớm nhất ở Việt Nam. Việc phát triển HTX, đặc biệt là HTX trong lĩnh vực đảm bảo chính sách an sinh xã hội đối với một số nhóm đối tượng yếu thế, đảm bảo quá trình góp sức lao động, góp của cải vật chất làm ăn chung, dưới sự hỗ trợ của Nhà 29
  36. nước góp phần quan trọng vào việc hình thành nên một mô hình doanh nghiệp xã hội đầu tiên ở Việt Nam. Với tính chất như vậy, trong số các HTX ra đời trong giai đoạn này, chúng ta thấy bên cạnh các HTX mang tính sản xuất là chủ yếu như HTX nông nghiệp, HTX tiểu thủ công nghiệp thì một số không nhỏ được thành lập để tạo việc làm, hỗ trợ cuộc sống cho những đối tượng yếu thế của xã hội, chủ yếu là người khuyết tật. Hầu hết HTX của người khuyết tật hoạt động trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp như mây tre, đan thêu, may mặc bởi đây được coi là những việc làm phù hợp với sức khỏe và điều kiện lao động của họ. Đây là đặc trưng điển hình của một doanh nghiệp xã hội mà các HTX này đã có. Tuy nhiên, đây mới chỉ là một mô hình mang tính chất tương tự như các doanh nghiệp xã hội. Còn trong giai đoạn này, ở Việt Nam chưa có khái niệm doanh nghiệp xã hội cũng chưa thực sự có doanh nghiệp xã hội nào được thành lập và hoạt động trên cơ sở các chủ trương, chính sách của Đảng cũng như pháp luật của Nhà nước. * Giai đoạn Đổi mới từ năm 1986 đến năm 2010 Ở Việt Nam, mặc dù trong các giai đoạn trước doanh nghiệp xã hội đã bắt đầu xuất hiện dưới hình thức HTX từ rất lâu, nhưng các doanh nghiệp mang tính chất xã hội với mục tiêu xã hội và có đầy đủ các đặc điểm cơ bản của mô hình doanh nghiệp xã hội chỉ bắt đầu phát triển kể từ khi chính sách đổi mới được thực hiện vào năm 1986. Đây là cột mốc đánh dấu sự thừa nhận các thành phần kinh tế mới là kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu chủ. Nhờ đó, vai trò chủ động của cá nhân và cộng đồng trong việc cung cấp và trao đổi các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của người dân đã được công nhận và phát triển. Thời kỳ Đổi mới đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế của Việt Nam. Đặc biệt là chính sách mở cửa, đa phương hóa, đa dạng hóa các giao lưu kinh tế, dẫn đến việc các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và vốn viện trợ phát triển đối với Việt Nam tăng nhanh chóng. Sự gia tăng của 30
  37. các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI) đã thổi một luồng gió mới vào các quan hệ kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn này. Các mô hình doanh nghiệp mới được du nhập, các cách thức quản trị mới từ nước ngoài được áp dụng ở Việt Nam. Bên cạnh đó, mô hình doanh nghiệp hoạt động phi lợi nhuận, hoạt động vì mục tiêu xã hội đã theo chân các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đem lại những phúc lợi xã hội rất lớn cho xã hội Việt Nam giai đoạn này. Đây là giai đoạn Nhà nước có nhiều chính sách cởi mở, tạo lập khung khổ pháp lý cho sự phát triển các tổ chức kinh tế và xã hội ngoài Nhà nước. Các chính sách này đã giúp các tổ chức và doanh nghiệp phát triển cộng đồng thực sự nở rộ. Số liệu thống kê cho thấy có tới hơn 1000 tổ chức NGO, 320 hiệp hội hoạt động cấp quốc gia và 2150 hội hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện và tự chủ ở Trung ương và địa phương. Hầu hết tất cả các tổ chức này nhận hỗ trợ tài chính từ các tổ chức NGO quốc tế và nhà tài trợ để duy trì hoạt động và cung cấp dịch vụ cho cộng đồng. Ngoài ra, ở Việt Nam còn có hàng nghìn tổ chức có tính cộng đồng như nhà văn hóa, câu lạc bộ và mảng phụ trách hoạt động kinh doanh thuộc các tổ chức chính trị - xã hội quần chúng (ví dụ như: Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Người tàn tật ) và hàng nghìn đơn vị sự nghiệp đang thực hiện chức năng cung cấp phúc lợi xã hội của Nhà nước (mang lại các dịch vụ công cộng như quản lý chất thải, nguồn nước ). Các tổ chức này đều có một số đặc điểm của doanh nghiệp xã hội và có khả năng chuyển thành doanh nghiệp xã hội trong tương lai. [16] Nhìn chung, giai đoạn Đổi mới là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp và tổ chức xã hội ngoài Nhà nước, trong đó có doanh nghiệp xã hội. Tuy nhiên, sự tách biệt hai lĩnh vực hoạt động kinh tế và xã hội cả trong tư duy lẫn hoạt động thực tế đã hạn chế sự ra đời của mô hình hỗn hợp như doanh nghiệp xã hội. Giai đoạn này đã xuất hiện những doanh nghiệp xã hội khá điển hình, hoạt động dưới nhiều hình thức đa dạng như Trường Hoa Sữa, Doanh nghiệp xã hội KOTO, Công ty TNHH Mai 31
  38. Handicrafts tại Thành phố Hồ Chí Minh Các doanh nghiệp xã hội trong giai đoạn này tuy còn ít, phương thức hoạt động chưa hiệu quả, khung pháp lý cho tổ chức và hoạt động còn thiếu tuy nhiên cũng cho thấy tiềm năng rất lớn cho sự hình thành và phát triển cho doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam. * Từ năm 2010 đến nay Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển. So với thời kỳ trước đổi mới, diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên (đạt ngưỡng thu nhập trung bình), đời sống nhân dân từng bước được cải thiện; đồng thời tạo ra nhu cầu và động lực phát triển cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân đã thực sự trở thành lực lượng quan trọng để thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, với sức tăng trưởng kinh tế trong những năm qua, Việt Nam không còn thuộc nhóm các nước nghèo và vì thế những nguồn tài trợ từ các tổ chức thế giới ngày càng giảm. Việc dừng các chương trình hỗ trợ phát triển, hỗ trợ xã hội từ các nguồn vốn nước ngoài, cộng thêm việc ngân sách Nhà nước dành cho an sinh xã hội còn khá hạn chế đã đặt cho Việt Nam một thách thức trong việc đạt được các giải pháp tốt về an sinh xã hội. Chính vì vậy, việc xây dựng và phát triển mô hình doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam để giải quyết các vấn đề an sinh xã hội là rất cần thiết. Doanh nghiệp xã hội giải quyết được cả hai mục đích xã hội và kinh tế, trong đó mục tiêu xã hội là mục tiêu chủ đạo, thông qua mục tiêu kinh tế để đạt được mục tiêu xã hội. 32
  39. Một nghiên cứu năm 2011 do Trung tâm Hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng (CSIP) - Hội đồng Anh phối hợp cùng với Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã cho thấy, ở Việt Nam có đến gần 200 tổ chức có đầy đủ đặc điểm để trở thành một doanh nghiệp xã hội, trong số đó, được hình thành sớm nhất là Hợp tác xã Nhân đạo thuộc Hội người khuyết tật Hà Nội, thành lập năm 1973. Tuy nhiên, cho đến Luật Doanh nghiệp năm 2014, Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp và Thông tư số 04/2016/TT- BKHĐT ngày 17/5/2016 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định các biểu mẫu văn bản sử dụng trong đăng ký doanh nghiệp xã hội, thì doanh nghiệp xã hội mới được pháp luật ghi nhận và nhận diện một cách khá đầy đủ. Tính đến thời điểm cuối năm 2016, số liệu do Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) thuộc Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội công bố cho thấy, trong hơn 1 năm, số lượng doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam đã tăng lên gấp đôi, từ khoảng 3.000 doanh nghiệp lên hơn 6.000 doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp xã hội tiêu biểu như Zó-Project, Trang trại Hữu cơ Tôi tự nhiên (I-Nature), Công ty Cổ phần Đầu tư Du lịch Phát triển Cộng đồng Mặc dù đã có cơ sở pháp lý cho việc thành lập, hoạt động và phát triển của doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam, song số lượng doanh nghiệp xã hội chưa nhiều, quy mô còn nhỏ và ảnh hưởng xã hội chưa lớn. 2.2. Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam hiện nay. 2.2.1. Những thuận lợi của doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam. Hiện nay, trên thế giới phong trào doanh nghiệp xã hội phát triển mạnh mẽ và lan tỏa trên nhiều lĩnh vực. Ở Việt Nam, doanh nghiệp xã hội đang tiếp tục phát triển, mở rộng, được xã hội biết đến và tôn vinh. doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam có nhiều thuận lợi để phát triển, nếu biết năm bắt những thuận lợi này tạo thành thời cơ thì doanh nghiệp xã hội Việt Nam sẽ có nhiều bước tiến mới trong tương lai. Thứ nhất, nhu cầu sử dụng dịch vụ phúc lợi cho người dân ngày càng 33
  40. tăng, do đó cần doanh nghiệp xã hội đóng vai trò hỗ trợ Nhà nước cung cấp các dịch vụ này cho các nhóm đối tượng khác nhau. Thứ hai, ưu thế của doanh nghiệp xã hội so với doanh nghiệp thông thường đó chính là việc Nhà nước tạo hành lang pháp lý để mô hình doanh nghiệp này được ưu đãi về tài chính, tiếp nhận viện trợ. Các doanh nghiệp xã hội nói chung có thể tiếp nhận viện trợ phi Chính phủ nước ngoài theo quy định của pháp luật về tiếp nhận viện trợ phi Chính phủ nước ngoài. Ngoài ra, doanh nghiệp xã hội được tiếp nhận tài trợ từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong nước và nước ngoài đã đăng ký hoạt động tại Việt nam. Đó chính là nguồn lực quan trọng để các doanh nghiệp xã hội có thể thực hiện được mục tiêu xã hội, môi trường đã đăng ký. Thứ ba, trong quá trình cải cách hành chính, một trong những nhiệm vụ quan trọng là cải cách khu vực sự nghiệp xông lập, chuyển đổi hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp, tự chủ quản lý, tự chịu trách nhiệm, tách bạch sự nghiệp với hành chính, nâng cao hiệu quả hoạt động và hiệu quả sử dụng vốn, Theo đó, mô hình doanh nghiệp xã hội có thể xem là mô hình phù hợp đối với việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập. Thứ tư, các doanh nghiệp xã hội mới thường áp dụng tốt sự phát triển khoa học kỹ thuật, do đó sản phẩm làm ra có giá cả cạnh tranh so với các sản phẩm cùng loại. Ngoài ra là sự phát triển và ứng dụng của “kinh tế chia sẻ” đã huy động được số lượng lớn cộng đồng quan tâm tới các dự án của những doanh nghiệp xã hội mới này. Thứ năm, xu hướng cho thấy cần thiết chuyển đổi vai trò của Nhà nước từ người trực tiếp cung cấp dịch vụ phúc lợi sang vai trò người mua dịch vụ phúc lợi từ các tổ chức, doanh nghiệp. Điều này tạo cơ hội cho các chủ thể xã hội khác ngoài Nhà nước (các tổ chức xã hội, khu vực kinh tế tư nhân, doanh nghiệp, cộng đồng ) tham gia cung ứng các dịch vụ công cho người dân. Thứ sáu, hoạt động vì mục đích xã hội, cho nên, những người sáng lập doanh nghiệp xã hội, ban lãnh đạo, quản lý hoặc những tình nguyện viên đều là 34
  41. những con người tâm huyết với mục đích đã lựa chọn. Họ có thể khắc phục được mọi khó khăn từ tài chính tới thiếu vắng các quy định pháp luật để hoạt động. Với những thuận lợi này, doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam hoàn toàn có cơ hội để phát triển và hội nhập với hệ sinh thái doanh nghiệp xã hội trên thế giới. 2.2.2. Một số khó khăn của doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam. Doanh nghiệp xã hội vẫn còn là một lĩnh vực rất mới mẻ ở Việt Nam, điều này dẫn tới một loạt những khó khăn, thách thức mà các doanh nghiệp xã hội Việt Nam đang phải đối mặt. Thứ nhất, Doanh nghiệp xã hội phải hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Theo quy định tại Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014, doanh nghiệp xã hội phải là doanh nghiệp, được đăng ký, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Đây là một quy định hết sức khiên cưỡng, không phù hợp với thông lệ quốc tế về mô hình doanh nghiệp xã hội. Quy định như trên đã loại bỏ một số mô hình hết sức phù hợp với các mục đích xã hội, môi trường, đó là hợp tác xã. Ở Việt Nam các HTX không được coi là doanh nghiệp, mà chỉ được coi là “tổ chức kinh tế tập thể” hình thành trên cơ sở “sở hữu tập thể”. Theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, doanh nghiệp xã hội không được thành lập dưới hình thức HTX. Quy định này đã bỏ qua các đặc tính ưu việt rất phù hợp với các mục tiêu xã hội của các HTX đó là tính chất sở hữu tập thể, tinh thần cộng đồng. Trên thực tế, từ trước năm 1986 nhiều doanh nghiệp xã hội thực tế đã tồn tại ở nước ta dưới hình thức hợp tác xã như “hợp tác xã thương binh”, “hợp tác xã người tàn tật” các cơ sở này có những đóng góp đáng kể trong việc tạo công ăn việc làm và cuộc sống tích cực cho cho các xã viên là những nhóm người dễ bị tổn thương, khó hòa nhập trong xã hội. Bởi vậy, các HTX chính là một mô hình rất phù hợp cho các doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam. Thứ hai, quy định về việc sử dụng ít nhất 51% lợi nhuận để tái đầu tư. Theo quy định tại Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014, doanh nghiệp xã hội trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động luôn phải sử dụng tối thiếu 51% tổng 35
  42. lợi nhuận hàng năm để nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký. Tuy nhiên, trong thực tế, những năm đầu tiên khi thành lập, hoạt động, nhà đầu tư phải bỏ nhiều vốn đầu tư, cũng như chưa thể huy động tài trợ từ các nguồn lực khác, việc khởi sự kinh doanh còn nhiều khó khăn. Do đó, ngay từ đầu, lợi nhuận đã bắt buộc phải chia sẻ thì dẫn đến khó khăn cho sự phát triển của doanh nghiệp xã hội trong những năm đầu thành lập. Thứ ba, chưa có quy định cụ thể về chuyển đổi trực tiếp từ doanh nghiệp thông thường sang doanh nghiệp xã hội. Mặc dù tại Điểm a, Khoản 2, Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã quy định trường hợp doanh nghiệp đang hoạt động muốn chuyển thành doanh nghiệp xã hội hoặc doanh nghiệp xã hội muốn từ bỏ mục tiêu xã hội, môi trường, không sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư thì doanh nghiệp phải thông báo với cơ quan có thẩm quyền để tiến hành các thủ tục theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong Nghị định số 96/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Thông tư 04/2016/TT-BKHĐT hướng dẫn về biểu mẫu đối với đăng ký doanh nghiệp xã hội đều chưa quy định cụ thể hồ sơ thủ tục chuyển đổi giữa 2 mô hình này. Các văn bản hướng dẫn kể trên mới chỉ quy định cụ thể việc chuyển đổi cơ sở bảo trợ xã hội, quỹ xã hội và quỹ từ thiện thành doanh nghiệp xã hội. Thứ tư, về cơ quan quản lý doanh nghiệp xã hội. Hiện tại, các doanh nghiệp xã hội được thành lập, quản lý bởi cơ quan đăng ký doanh nghiệp như các doanh nghiệp thông thường khác. Mọi thủ tục hành chính đều được giải chung như các doanh nghiệp thông thường, tuy nhiên, doanh nghiệp xã hội lại có những đặc thù riêng, đặc biệt như tiếp nhận tài trợ, thực hiện các mục tiêu xã hội, môi trường Do đó, việc quản lý chung bởi cùng 1 cơ quan có thể sẽ gây khó khăn. Thứ năm, thiếu vốn và yếu kém trong khả năng tiếp cận các nguồn tài chính. Các nguồn tài chính, ở đây đề cập tới cả nguồn vốn khởi sự doanh nghiệp và cả nguồn vốn phát triển doanh nghiệp, là yếu tố quan trọng cơ bản đối với bất kỳ lĩnh vực kinh doanh và phát triển tổ chức nào. Đối với một số 36
  43. doanh nghiệp xã hội nhu cầu về vốn càng cấp thiết hơn nữa, bởi họ là người đi tiên phong, khai mở thị trường trong một lĩnh vực hoàn toàn mới đối với xã hội. Chi phí “giáo dục” khách hàng, “tạo lập” thói quen, thị hiếu mới thường vô cùng tốn kém. Đơn cử như lĩnh vực sản phẩm hữu cơ, các doanh nghiệp xã hội phải bỏ rất nhiều nỗ lực để thực hiện truyền thông về tác dụng tích cực của sản phẩm đối với sức khỏe của khách hàng, thậm chí có doanh nghiệp xã hội còn tổ chức khám, tư vấn cho các khách hàng trong vai trò bệnh nhân. Các trường hợp tương tự như doanh nghiệp xã hội về dịch vụ bác sĩ gia đình tư vấn kiến thức y tế dự phòng và cải thiện nếp sinh hoạt Trong khi đó, các doanh nhân xã hội thường xuất phát từ tầng lớp trí thức, trung lưu, nên thiếu vốn và yếu về khả năng tiếp cận với các nguồn tài chính là những thách thức lớn mà các doanh nghiệp xã hội đều phải đối mặt. Thứ sáu, thị trường vốn đầu tư xã hội tại Việt Nam còn non trẻ chưa đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp xã hội, đồng thời thiếu các doanh nghiệp xã hội vững mạnh đủ khả năng tiếp nhận vốn đầu tư xã hội. Thị trường vốn cho doanh nghiệp xã hội Việt Nam hiện chưa phát triển, thể hiện ở việc thiếu vốn và thiếu các hình thức và kênh cấp vốn phù hợp với doanh nghiệp xã hội phát triển ở các giai đoạn khác nhau và trong các lĩnh vực khác nhau. Cho đến năm 2012 mới chỉ có hai tổ chức NGO là Trung tâm CSIP và Trung tâm phát triển DNXH Tia Sáng là hai nơi có chương trình đầu tư vốn cho doanh nghiệp xã hội với tổng vốn đầu tư bằng tiền mặt vào khoảng 200,000 USD/năm. Đây là khoản vốn quá nhỏ bé so với nhu cầu của các doanh nghiệp xã hội hiện nay và mới chỉ là những đầu tư mang tính chất tạo vốn hạt giống, nhằm kích hoạt các ý tưởng và nâng cao năng lực chứ không phải vốn đầu tư đủ đáp ứng cho phát triển kinh doanh. 2.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về doanh nghiệp xã hội. 2.3.1. Pháp luật về doanh nghiệp xã hội trước khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 ra đời. Mặc dù, đến khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 ra đời, doanh nghiệp xã hội mới lần đầu tiên được chính thức công nhận nhưng trước đó đã có nhiều 37
  44. loại hình doanh nghiệp và tổ chức có mục tiêu xã hội tương tự như doanh nghiệp xã hội được thành lập và hoạt động, chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam với những tên gọi và hình thức khác nhau. Nghị định số 71/1998/NĐ-CP ngày 8/9/1998 của Chính phủ về quy chế dân chủ ở cơ sở và các văn bản pháp quy ra đời năm 1998 lần đầu tiên chính thức khuyến khích sự tham gia của các tổ chức xã hội và công dân trong quá trình xây dựng, thực hiện và giám sát thực hiện chính sách tại cộng đồng. Nhà nước đã có những bước đi tích cực thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa các tổ chức khác nhau thông qua việc tăng cường sức mạnh các tổ chức chính trị xã hội. Nghị định số 35-HĐBT ngày 28/3/1992 về công tác quản lỹ khoa học đã đưa ra một số giải pháp thúc đẩy việc cá nhân thành lập các tổ chức khoa học và công nghệ. Nghị định số 177/1999/NĐ-CP ngày 22/12/1999 của Chính phủ về quy chế tổ chức và hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện và sau đó là Nghị định số 148/2007/NĐ-CP ngày 25/9/2007 về tổ chức và hoạt động của các quỹ xã hội, quỹ từ thiện thay thế Nghị định 177/1999/NĐ-CP đã đưa ra cơ sở cho việc thành lập các quỹ xã hội, quỹ từ thiện. Trong các Nghị định nói trên, vai trò của các tổ chức cộng đồng được đặc biệt chú trọng trong việc cung cấp các dịch vụ cơ bản cho cộng đồng như quản lý tài nguyên nước, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc y tế, giáo dục phổ cập, bảo vệ môi trường. Trong giai đoạn này có 5 văn bản pháp luật quan trọng là cơ sở quản lý Nhà nước về các tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam. Nghị định định 79/2003/NĐ-CP về quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã đã thể chế hóa sự tham gia của người dân địa phương, của các tổ chức ở cộng đồng, các tổ chức của người nghèo trong các hoạt động phát triển ở cấp xã. Luật Hợp tác xã thừa nhận HTX là tổ chức tình nguyện hoạt động như một đơn vị kinh tế độc lập. Luật Khoa học Công nghê thừa nhận các Hiệp hội chuyên ngành như các cơ quan dịch vụ độc lập. Nghị định 148/2007/NĐ-CP quy định về việc thành lập và hoạt động của các quỹ từ thiện và xã hội. Như vậy, trong giao đoạn trước khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 ra đời thì các vấn đề liên quan đến các tổ chức tương tự doanh nghiệp xã hội đã 38
  45. được ghi nhận trong các văn bản pháp luật ở Việt Nam. Nhu cầu cần thiết của việc ban hành khung pháp lý vững chắc cho sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp xã hội là một vấn đề cấp thiết ở Việt Nam. 2.3.2. Pháp luật về doanh nghiệp xã hội từ khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 ra đời. Năm 2014 là một dấu ấn quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam khi lần đầu tiên các quy định về doanh nghiệp xã hội được luật hóa. Theo quy định tại Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì doanh nghiệp xã hội là doanh nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014. Mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng. Doanh nghiệp xã hội sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký. Ngoài các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, doanh nghiệp xã hội còn có một số quyền và nghĩa vụ quy định tại Khoản 2 Điều 10 Luật Doanh nghiệp. Cụ thể như sau: - Duy trì mục tiêu và điều kiện về chủ sở hữu doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp xã hội trong suốt quá trình hoạt động; trường hợp doanh nghiệp đang hoạt động muốn chuyển thành doanh nghiệp xã hội hoặc doanh nghiệp xã hội muốn từ bỏ mục tiêu xã hội, môi trường, không sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư thì doanh nghiệp phải thông báo với cơ quan có thẩm quyền để tiến hành các thủ tục theo quy định của pháp luật; - Chủ sở hữu doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp xã hội được xem xét, tạo thuận lợi và hỗ trợ trong việc cấp giấy phép, chứng chỉ và giấy chứng nhận có liên quan theo quy định của pháp luật; - Được huy động và nhận tài trợ dưới các hình thức khác nhau từ các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ và các tổ 39
  46. chức khác của Việt Nam và nước ngoài để bù đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động của doanh nghiệp; - Không được sử dụng các khoản tài trợ huy động được cho mục đích khác ngoài bù đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động để giải quyết vấn đề xã hội, môi trường mà doanh nghiệp đã đăng ký; - Trường hợp được nhận các ưu đãi, hỗ trợ, doanh nghiệp xã hội phải định kỳ hằng năm báo cáo cơ quan có thẩm quyền về tình hình hoạt động của doanh nghiệp. - Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy phát triển doanh nghiệp xã hội. Việc thừa nhận này đã tạo nên bước ngoặt cho cộng đồng doanh nghiệp xã hội Việt Nam. Nhưng cho đến nay, Luật Doanh nghiệp năm 2014 vẫn chưa có những quy định riêng quy định cụ thể về doanh nghiệp xã hội, vì vậy, vị trí pháp lý của doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam cũng chưa thực sự vững chắc. 2.3.3. Một số hạn chế của pháp luật về doanh nghiệp xã hội. Thứ nhất, về hình thức pháp lý và phân loại doanh nghiệp xã hội. Hiện nay, phân tích quy định về doanh nghiệp xã hội và doanh nghiệp truyền thống, cũng như cách phân loại về doanh nghiệp xã hội cũng đã cho thấy những bất cập nhất định. Theo đó, việc quy định doanh nghiệp xã hội phải là doanh nghiệp là sự mâu thuẫn về bản chất của loại hình doanh nghiệp này. Doanh nghiệp được hiểu là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh theo quy định của Luật Thương mại thì doanh nghiệp là chủ thể kinh doanh, tức chuyên thực hiện nhiệm vụ kinh doanh để mang về lợi nhuận cho thương nhân. Khái niệm kinh doanh trong kinh tế học được hiểu là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tự, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Như vậy, mục đích sinh lợi là đặc điểm nổi bật để phân biệt giữa doanh nghiệp và tổ chức nói chung. Mục đích này đã được đặt ra khi các 40
  47. nhà đầu tư có ý tưởng thành lập doanh nghiệp. Như vậy, đã coi là doanh nghiệp thì mục đích kinh doanh, mục tiêu thu lợi nhuận là yêu cầu bắt buộc. Doanh nghiệp xã hội cũng là tổ chức nhưng được thành lập nhằm mục tiêu giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng và doanh nghiệp phải duy trì mục tiêu ày trong suốt quá trình hoạt động. Điều này có nghĩa là mục tiêu lợi nhuận không phải là mục tiêu trực tiếp của doanh nghiệp xã hội hay nói cách khác, doanh nghiệp xã hội là tổ chức kinh doanh nhưng phi lợi nhuận. Đây là điểm mấu chốt để phân biệt doanh nghiệp xã hội với các doanh nghiệp truyền thống, yếu tố không tối ưu hóa lợi nhuận cho nhà đầu tư là một đặc điểm nổi bật của doanh nghiệp xã hội. Do đó, một doanh nghiệp thông thường dù thực hiện trách nhiệm xã hội cao đến đâu cũng không thể là doanh nghiệp xã hội bởi sự khác biệt rất rõ ràng về bản chất và mục đích của chủ sở hữu doanh nghiệp khi thành lập. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là một phạm trù tiếp cận hoàn toàn khác. Theo đó, thì đối với bất kỳ doanh nghiệp cho dù là doanh nghiệp truyền thống, có mục đích tối ưu hóa lợi nhuận cũng đều có thể có trách nhiệm xã hội ít hay nhiều. Quy định tại Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã tạo ra sự mâu thuẫn trong nội hàm khái niệm doanh nghiệp xã hội, tính chất quan trọng nhất của doanh nghiệp xã hội là phi lợi nhuận không được làm nổi bật bởi bản thân khái niệm doanh nghiệp đã chứa đựng tính chất lợi nhuận. Bên cạnh đó, về loại hình doanh nghiệp mà doanh nghiệp xã hội lựa chọn chỉ có thể là các loại hình được Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định. Theo đó, tất cả các doanh nghiệp xã hội đều phải đăng ký hoạt động dưới một trong các hình thức công ty hoặc doanh nghiệp tư nhân. Tức là các mô hình doanh nghiệp tương tự như các doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận khác. Nói cách khác, Luật Doanh nghiệp năm 2014 chỉ công nhận loại hình doanh nghiệp xã hội “không vì mục tiêu lợi nhuận” ở Việt Nam. Doanh nghiệp này có những điểm rất đặc thù về tổ chức và hoạt động, do đó, nếu áp dụng nguyên mẫu mô hình doanh nghiệp nói chung sẽ rất khó khăn trên thực tế. Bở 41
  48. vì việc tổ chức và quản trị của các doanh nghiệp truyền thống được nhà làm luật thiết kế cho để đả bảo yếu tố tối đa hóa lợi nhuận cho nhà đầu tư. Còn đối với doanh nghiệp xã hội thì phải cần yếu tố về hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nên cách thiết kế mô hình hoạt động như vậy sẽ rất khó khăn trong việc bảo đảm tính chất căn bản của doanh nghiệp xã hội. Việc quy định như tại Luật Doanh nghiệp tuy tạo điều kiện thuận lợi cho việc thống nhất quản lý Nhà nước về doanh nghiệp, nhưng lại gây ra một sự xáo trộn lớn trong cộng đồng doanh nghiệp xã hội bởi lẽ có một số lượng các doanh nghiệp xã hội thực tế đang tồn tại dưới hình thức linh hoạt có tính tương tác cao như các HTX, các tổ chức NGO, trung tâm, hiệp hội, câu lạc bộ, quỹ sẽ phải giải quyết rất nhiều vấn đề về vốn, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động để chuyển đổi thành các công ty. Qúa trình này có thể gây gián đoạn cho các hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp xã hội dẫn đến thiếu hụt về nguồn thu, đặc biệt là các khoản viện trợ. Tác động rõ nét nhất là việc các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp xã hội đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhiều đơn vị không chuyển đổi được đã phải giải thể hoạt động. Cũng chính vì vậy, các tổ chức hoạt động như các doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay thường được tổ chức và hoạt động theo các quỹ, các trung tâm hơn là các loại hình doanh nghiệp được quy định trong luật doanh nghiệp. Thêm nữa, doanh nghiệp xã hội chịu ảnh hưởng rất lớn bởi xu hướng hoạt động xã hội của cá nhân sáng lập (các doanh nhân xã hội), việc gò bó doanh nghiệp xã hội dưới hình thức công ty sẽ giảm tính linh hoạt và khả năng sáng tạo, khả năng nắm bắt các nhu cầu của cộng đồng của các doanh nhân tâm huyết với việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Hệ quả của quy định này là làm hạn chế các sáng kiến xã hội, khả năng đóng góp cho xã hội và hạn chế quyền tự do lựa chọn phương thức kinh doanh của các Doanh nhân xã hội trong quá trình thực hiện mục tiêu phục vụ lợi ích cộng đồng. [17] Thứ hai, về hệ thống cơ quan chuyên trách quản lý doanh nghiệp xã hội. Hiện tại, các doanh nghiệp xã hội được thành lập, quản lý bởi cơ quan 42
  49. đăng ký doanh nghiệp như các doanh nghiệp thông thường khác. Mọi thủ tục hành chính đều được giải chung như các doanh nghiệp thông thường mà chưa có một cơ quan chuyên trách quản lý doanh nghiệp xã hội. Trong bối cảnh hiện tại ở Việt Nam, cần có một cơ quan chuyên trách về quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp xã hội thống nhất từ Trung ương tới địa phương. Cơ quan chuyên trách đó có thể đặt ở Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Cơ quan này có chức năng vừa hỗ trợ chính sách, vừa làm cầu nối giữa doanh nghiệp với chính quyền, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có đầy đủ thông tin để tiếp cận các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước để thực hiện các mục tiêu xã hội và phát triển doanh nghiệp. Đồng thời, đây cũng chính là cơ quan thực hiện các nghiên cứu, điều tra để tham mưu cho Chính phủ trong việc đưa ra những quy định pháp lý phù hợp cho sự phát triển của hệ sinh thái doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam. Thứ ba, về khung pháp lý cho doanh nghiệp xã hội. Hiện tại, các quy định về doanh nghiệp xã hội mới được đề cập trong Luật Doanh nghiệp năm 2014, Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp, Nghị định 78/2015/NĐ-CP Về đăng ký doanh nghiệp, Thông tư 20/2015/TT-BKHĐT Hướng dẫn đăng ký doanh nghiệp và Thông tư số 04/2016/TT-BKHĐT ngày 17/5/2016 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định các biểu mẫu văn bản sử dụng trong đăng ký doanh nghiệp xã hội. Mà chưa có một khung khổ pháp lý đồng bộ, quy định chi tiết về các hình thức pháp lý đa dạng, các điều kiện thành lập, hoạt động chuyển đổi các mô hình kinh doanh khác thành doanh nghiệp xã hội. Cũng chưa có những quy định liên hệ giữa Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật Các tổ chức tín dụng để tạo hành lang pháp lý chặt chẽ, thống nhất cho doanh nghiệp xã hội phát triển. Một khung pháp lý riêng cho doanh nghiệp xã hội sẽ góp phần giải quyết những vấn đề đặc thù cho doanh nghiệp xã hội để đảm bảo cho doanh nghiệp xã hội luôn thực hiện mục tiêu xã hội mà doanh nghiệp đã đặt ra. 43
  50. Thứ tư, về các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp xã hội. Các doanh nghiệp xã hội phải cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp khác, trong khi nhiều doanh nghiệp xã hội lại tuyển dụng những người lao động kém may mắn, đối tượng khuyết tật nên chất lượng lao động thấp, do các điều kiện về học vấn, tinh thần và sức khỏe. Chi phí bồi dưỡng, đào tạo và huấn luyện kỹ năng làm việc, chăm sóc cho nhóm đối tượng này của doanh nghiệp xã hội cao hơn so với chi phí đầu tư cho nhân sự của các doanh nghiệp khác, khiến mức lợi nhuận thấp hơn so mức trung bình của ngành. Tuy nhiên, Nhà nước chưa có nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp xã hội trong khi doanh nghiệp xã hội góp phần chia sẻ trách nhiệm và gánh nặng xã hội với nhà nước bằng các con đường riêng đầy sáng tạo, tiết kiệm, thiết thực và hiệu quả, đồng thời giúp bù đắp được một khiếm khuyết khó khắc phục của cơ chế thị trường là vận hành bởi động cơ lợi nhuận. 44
  51. Tiểu kết Chƣơng 2 Là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, ra đời vì mục tiêu và sứ mệnh cộng đồng, doanh nghiệp xã hội chính là cầu nối trong việc chia sẻ chức năng bảo đảm an sinh xã hội của Nhà nước với các thành phần kinh tế, góp phần giảm tải gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Luật Doanh nghiệp 2014 bước đầu ghi nhận sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp xã hội có ý nghĩa rất quan trọng trong tiến trình phát triển của doanh nghiệp xã hội nói riêng và xã hội nói chung. Để phát huy tối đa tiềm năng, sức mạnh của doanh nghiệp xã hội cần phải có một khung pháp lý chi tiết, thống nhất cho tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp xã hội. Những hạn chế của quy định pháp luật về doanh nghiệp xã hội hiện nay làm cho doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam phát triển chậm hơn so với hệ sinh thái doanh nghiệp xã hội trên thế giới, vì vậy, việc ban hành những đạo luật, khung khổ pháp lý và các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp xã hội là vô cùng cần thiết. 45
  52. Chƣơng 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM. 3.1. Đa dạng hóa loại hình doanh nghiệp xã hội. Quy định doanh nghiệp xã hội phải tồn tại dưới hình thức doanh nghiệp còn cứng nhắc, chưa phù hợp với một thực tế là Việt Nam là kinh tế thị trường còn non trẻ, rất cần sự đóng góp của các doanh nhân xã hội đến từ nhiều lĩnh vực và quy mô hoạt động khác nhau, để cùng tham gia chia sẻ gánh nặng an sinh xã hội với Nhà nước. Những quy định hiện tại chưa thực sự thúc đẩy quyền tự do kinh doanh và tự do lựa chọn mô hình kinh doanh các Doanh nhân xã hội đang hoạt động dưới nhiều quy mô và lĩnh vực kinh doanh khác nhau, hạn chế khả năng tiếp cận nhu cầu của các cộng đồng thiệt thòi, đối tượng hướng tới của doanh nghiệp xã hội. Thêm nữa, gò bó doanh nghiệp xã hội dưới hình thức doanh nghiệp cũng sẽ làm hạn chế các sáng kiến xã hội, giảm tính đa dạng về sở hữu, tính linh hoạt của doanh nghiệp xã hội. Cần công nhận các HTX thành lập có cam kết mục tiêu xã hội là các HTX doanh nghiệp xã hội để các HTX này có cơ sở pháp lý để hoạt động và được hưởng các ưu đãi theo quy định của pháp luật. Tiêu chí này tự bó hẹp phạm vi của các doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam so với thực tế và xu hướng chung trên thế giới. Không phải tổ chức, cá nhân nào cũng muốn thực hiện các hoạt động phục vụ cộng đồng hay xã hội, môi trường thông qua việc thành lập một doanh nghiệp nhất định. Nó có thể bắt nguồn từ một ý tưởng, một dự định những cũng có thể là một dự án lớn của những cá nhân, tổ chức nhưng do nhiều rào cản nên họ không muốn hoặc không thể thành lập một doanh nghiệp xã hội. Thực tế tại Việt Nam cho thấy quyền tự do kinh doanh và quyền tài sản, tiếp cận các cơ hội kinh doanh, nguồn lực xã hội chưa thực sự bình đẳng giữa kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác; chi phí trung gian, không chính thức còn nhiều. 46
  53. 3.2. Xây dựng hệ thống cơ quan chuyên trách quản lý doanh nghiệp xã hội. Ở nước Anh, để đưa các quy định pháp luật về doanh nghiệp xã hội vào thực tế, Chính phủ Anh đã nỗ lực tiến hành những hoạt động trợ giúp cho doanh nghiệp xã hội thông qua hệ thống các cơ quan hỗ trợ từ khâu đăng ký kinh doanh, tư vấn pháp lý thành lập doanh nghiệp xã hội, hỗ trợ thông tin về thuế, cho đến các chiến dịch truyền thông, quảng bá để cả xã hội biết và ủng hộ cho doanh nghiệp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Năm 2002, chính phủ Anh thành lập Bộ phận Doanh nghiệp xã hội trực thuộc Bộ Thương mại và Công nghiệp, bộ phận này hoạt động để xây dựng các chính sách phát triển doanh nghiệp xã hội. Ở Hàn Quốc cũng đã thiết lập KoSEA do Bộ trưởng Lao động và Việc làm thành lập để thực thi việc khuyến khích và thúc đẩy doanh nghiệp xã hội. Singapore cũng thành lập Phòng doanh nghiệp xã hội, bộ phận này nhận sự hỗ trợ từ chính phủ, khu vực tư nhân, giới trí thức và các tổ chức xã hội dân sự để tìm hướng phát triển doanh nghiệp xã hội. Như vậy, Việt Nam cũng nên thành lập bộ phận riêng quản lý doanh nghiệp xã hội thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, việc độc lập sẽ thúc đẩy sự phát triển cũng như quản lý nhà nước tốt hơn đối với doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam. Cơ quan này có chức năng vừa hỗ trợ chính sách, vừa làm cầu nối giữa doanh nghiệp với Nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có đầy đủ thông tin để tiếp cận các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước để thực hiện các mục tiêu xã hội và phát triển doanh nghiệp. Đồng thời, cơ quan này cũng thực hiện các nghiên cứu, điều tra để tham mưu cho Chính phủ trong việc đưa ra những quy định pháp lý phù hợp cho sự phát triển của hệ sinh thái doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam. 3.3. Xây dựng khung pháp lý đồng bộ cho doanh nghiệp xã hội. Về lâu dài, cần xây dựng một khung khổ pháp lý đồng bộ điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp xã hội trong đó cần có một đạo luật riêng quy định về doanh nghiệp xã hội làm trung tâm. Luật này quy định về các hình thức pháp lý đa dạng, các điều kiện thành lập, hoạt động chuyển đổi các mô hình kinh doanh khác thành doanh nghiệp xã hội để tạo ra một sự kết nối chặt chẽ, khuyến khích doanh nghiệp xã hội thành lập và phát triển. Cũng cần có những quy định tạo mối liên hệ thống nhất giữa các văn 47
  54. bản quy phạm pháp luật để thực sự tạo hành lang pháp lý đầy đủ và thuận lợi cho các doanh nghiệp xã hội. Cụ thể đó là mối liên hệ giữa Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật Các tổ chức tín dụng Doanh nghiệp xã hội không phải là một loại hình doanh nghiệp mới nhưng lại góp phần giúp nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường mà nếu tiếp tục để Nhà nước thực hiện chưa chắc đã hiệu quả do đó trước hết những chính sách đầu tư, những quy định về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp xã hội không nên chỉ bó hẹp trong Luật Doanh nghiệp mà còn phải chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật có liên quan khác nhưng chưa được đề cập đầy đủ khi quy định về doanh nghiệp xã hội trong Luật Doanh nghiệp. Doanh nghiệp xã hội hoàn toàn không phải là một “lợi thế” mà bên cạnh việc thực hiện các mục tiêu xã hội, các doanh nghiệp xã hội thực hiện hoạt động kinh doanh phải dựa trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng và công bằng như các loại hình doanh nghiệp khác. Về việc xác định sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký có thể thực hiện việc kiểm tra, giám sát tốt trên thực tế được không? Tiêu chí này thực tế chỉ thực hiện được khi doanh nghiệp xã hội có lợi nhuận hàng năm. Doanh nghiệp xã hội nếu báo cáo lợi nhuận hàng năm là một con số âm, trong khi vẫn hưởng đầy đủ các chính xác hỗ trợ và ưu đãi của Nhà nước thì sẽ thực hiện như thế nào đối với mục tiêu xã hội đã đăng ký. Vấn đề này lại hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực quản trị kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp và đạo đức doanh nhân – là những vấn đề mà chúng ta yếu kém trong một thời gian dài. Nhà nước cũng cần xem xét lại là có bắt buộc tất cả các doanh nghiệp xã hội đều phải dử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hàng năm để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường hay không. Hay là có thể có các chế tài điều chỉnh linh động, phù hợp với cả những doanh nghiệp xã hội mới thành lập, chưa tạo ra lợi nhuận và những doanh nghiệp xã hội đã đi vào hoạt động ổn định và tạo ra lợi nhuận. 48
  55. Báo cáo cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường của doanh nghiệp xã hội sẽ do Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh mà doanh nghiệp xã hội đặt trụ sở chính kiểm tra, giám sát; trực tiếp hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra doanh nghiệp theo những nội dung của cám kết trong báo cáo đó (Nghị định số 96/2015/NĐ-CP, Điều 11). Tuy nhiên, việc yêu cầu báo cáo này của Uỷ ban nhân dân cấp Tỉnh chỉ thực hiện trong trường hợp cần thiết. Tất nhiên trong vấn đề này sẽ có hai cách tiếp cận: (i) báo cáo hành chính nhiều lần sẽ gây phiền hà cho doanh nghiệp; (ii) nếu không thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động thông qua báo cáo của doanh nghiệp xã hội sẽ không có sự hỗ trợ và định hướng kịp thời, giúp doanh nghiệp xã hội tháo gỡ những khó khăn sẽ không thể giúp doanh nghiệp xã hội hoàn thành những mục tiêu xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng. Do vậy, công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh nghiệp xã hội phải được thực hiện vừa thường xuyên vừa trong trường hợp đặc biệt cần thiết mới mang nhiều ý nghĩa và có hiệu quả thực thi. [20] 3.4. Xây dựng các chính sách trợ doanh nghiệp xã hội. Doanh nghiệp xã hội phải gánh trên vai nghĩa vụ sử dụng phần lớn tổng lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp để tái đầu tư cho các mục tiêu xã hội, môi trường nên việc được hỗ trợ và ưu đãi là hoàn toàn hợp lý. Nhà nước cần hoàn thiện các chính sách khuyến khích, ưu đãi và hỗ trợ doanh nghiệp xã hội. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi cho một số lĩnh vực nhất định. Trước mắt, cần có những chính sách hỗ trợ trực tiếp các doanh nghiệp xã hội để gia tăng số lượng và giúp các doanh nghiệp xã hội đi vào hoạt động ổn định, ví dụ như tổ chức các cuộc thi tìm kiếm sáng kiến doanh nghiệp xã hội để tìm ra những doanh nhân xã hội và dự án tiềm năng được tài trợ vốn khởi nghiệp ban đầu. Hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các doanh nghiệp xã hội để mở rộng phạm vi tác động thông qua quá trình tuyển chọn, phân loại, theo dõi và đánh giá sát sao. Về lâu dài, Nhà nước có thể thực hiện các chính sách hỗ trợ gián tiếp để phát triển nguồn tài chính bền vững cho doanh nghiệp xã hội, cần 49
  56. thành lập Quỹ phát triển doanh nghiệp xã hội, miễn, giảm thuế doanh nghiệp xã hội trong một số lĩnh vực được khuyến khích. Cần thực hiện công khai đấu thầu cạnh tranh để doanh nghiệp xã hội có thể tham gia cung cấp các sản phẩm và dịch vụ công ích. Ban hành quy định các cơ quan, tổ chức khu vực công ưu tiên các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp xã hội khi thực hiện mua sắm công hoặc thuê ngoài. Phát triển các chương trình đào tạo doanh nghiệp xã hội, nâng cao năng lực, kỹ năng quản lý doanh nghiệp, tài chính, nhân sự thông qua các khóa đào tạo ngắn hạn cho các doanh nghiệp xã hội, hỗ trợ một phần chi phí đào tạo lao động cho các doanh nghiệp xã hội tuyển dụng các đối tượng yếu thế trong xã hội ở giai đoạn đầu. Đối với những doanh nghiệp xã hội đang hoạt động cần phải có những ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích về đầu tư, thuế, quỹ đất; hỗ trợ về tài chính, nhân lực; phát triển quỹ tài chính hoặc nguồn tài chính để giúp cho doanh nghiệp xã hội phát triển. Về vấn đề nguồn vốn, doanh nghiệp xã hội có thể tìm cách kêu gọi, thu hút vốn vay và có bảo lãnh của các tổ chức từ thiện hoặc chính phủ; phát hành nợ có đặc trưng của vốn chủ sở hữu với việc phát hành nợ cho các nhà đầu tư và nhà đầu tư được nhận lãi dựa vào hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp xã hội. Tại nhiều nước trên thế giới, mô hình doanh nghiệp xã hội đã phát triển từ lâu và nhận được nhiều hỗ trợ của nhà nước. Như tại Mỹ, những nhà đầu tư đổ tiền vào doanh nghiệp xã hội sẽ không phải đóng thuế, còn tại Thái Lan, chính phủ cũng dành 3% từ tiền thuế thu từ thuốc lá và hoạt động vũ trường để đầu tư vào doanh nghiệp xã hội Bên cạnh đó, những khoản viện trợ, ưu đãi, tài trợ cho doanh nghiệp xã hội sẽ phải có những báo cáo cụ thể liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp xã hội trong việc thực hiện những khoản viện trợ này. Tuy nhiên một vấn đề mà pháp luật chưa quy định đó là cần phải có những báo cáo, giải trình để xác định rõ nguồn gốc của những khoản hỗ trợ tài chính này có thực sự hợp pháp hay không. Ở Việt Nam, trong nhiều lĩnh vực đặc biệt liên quan đến 50
  57. các quỹ xã hội, quỹ từ thiện, bên cạnh việc quản lý quỹ còn nhiều yếu kém, việc xác định nguồn gốc hình thành những khoản viện trợ, tài trợ này chưa hề được quan tâm và kiểm soát bằng các cơ chế mang tính pháp lý. Nếu các quỹ này được chuyển đổi thành doanh nghiệp xã hội, nhưng thực tế số tiền được viện trợ hình thành quỹ lại được nhận từ các hoạt động tham nhũng, rửa tiền, kinh doanh bất hợp pháp, buôn bán ma túy thì hậu quả pháp lý sẽ rất khó kiểm soát. Vì vậy không nên quan điểm cứ có tiền là nhận và làm từ thiện mà không cần quan tâm đến tiền đó có bất hợp pháp hay không.Việc thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng từ nguồn thu nhập hay hỗ trợ bất hợp pháp sẽ hoàn toàn không có ý nghĩa và cần phải được quy định chặt chẽ trong thời gian tới. [20] 51
  58. Tiểu kết Chƣơng 3 Luật hóa những quy định pháp luật về doanh nghiệp xã hội là một chủ trương đúng của Nhà nước và phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Doanh nghiệp xã hội ra đời giúp Nhà nước giảm bớt gánh nặng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường do tác động của kinh tế và sự phát triển của xã hội dẫn đến phân hóa giàu nghèo và các điều kiện xã hội thay đổi từ quá trình hội nhập kinh tế. Doanh nghiệp xã hội ra đời và phát triển còn thể hiện tinh thần và trách nhiệm đối với xã hội của các doanh nhân, hình thành văn hóa và đạo đức kinh doanh cần thiết và lan tỏa những giá trị xã hội trong cộng đồng doanh nghiệp tại Việt Nam. Doanh nghiệp xã hội phát triển và hoạt động có hiệu quả, kết hợp giá trị kinh tế và giá trị xã hội góp phần giảm thiểu những tiêu cực trong bộ máy Nhà nước, hạn chế tham nhũng, giảm áp lực cho Nhà nước đối với những vấn đề mà bất kỳ giai đoạn lịch sử nào cũng cần phải giải quyết để đảm bảo cuộc sống tốt đẹp cho cộng đồng. Sự phát triển của Doanh nghiệp xã hội sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội theo hướng văn minh, tiến bộ, phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, vì vậy đây không chỉ là xu thế chung của thế giới mà còn rất cần thiết ở Việt Nam. Kinh nghiệm thế giới chỉ ra rằng vai trò của Nhà nước với hệ thống pháp luật và chính sách là những điều kiện thiết yếu để các doanh nghiệp xã hội phát triển. Vì vậy, Nhà nước cần sớm hoàn thiện pháp luật và chính sách để gia tăng tác động xã hội của các doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam. 52
  59. KẾT LUẬN Nhà nước đã tích cực thực hiện chính sách xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục và y tế từ khoảng 10 năm trở lại đây. Điều đó cho thấy có sự chuyển biến trong nhận thức của Nhà nước về yêu cầu chia sẻ một số lĩnh vực từng được coi là trách nhiệm “độc quyền” của Nhà nước cho các chủ thể ngoài Nhà nước. Sự chuyển biến về nhận thức còn được ghi nhận trong cải cách hành chính khu vực công. Nhà nước khuyến khích các đơn vị sự nghiệp công lập chuyển đổi hoạt động theo mô hình doanh nghiệp, tổ chức Khoa học và Công nghệ công lập chuyển đổi thành Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ, cởi mở thị trường cung ứng các dịch vụ công cho sự tham gia của khu vực tư nhân, cơ sở ngoài công lập dưới hình thức đầu thầu cạnh tranh nhằm đạt hiệu quả cao hơn. Điều đó cho thấy Nhà nước đã tán đồng với xu hướng áp dụng mô hình kinh doanh, nguyên tắc thị trường cho việc thực hiện các chức năng xã hội của mình. Mặc dù vậy, còn nhiều lĩnh vực chưa được xã hội hóa, đó là giải quyết việc làm cho các đối tượng yếu thế, hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tái hòa nhập người nhiễm HIV/AIDS, bảo vệ môi trường Trong bối cảnh này, vai trò của các tổ chức xã hội đặc biệt là sự xuất hiện của doanh nghiệp xã hội có thể lấp đầy những nhu cầu và giải quyết các vấn đề của xã hội. Doanh nghiệp xã hội là một khái niệm dùng để chỉ hoạt động của các doanh nhân xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau tùy thuộc vào mục đích và điều kiện hoạt động cụ thể. Doanh nghiệp xã hội lấy lợi ích xã hội làm mục tiêu chủ đạo, được dẫn dắt bởi tinh thần doanh nhân nhằm đạt được cả mục tiêu xã hội/ môi trường và mục tiêu kinh tế. Có thể nói, doanh nghiệp xã hội là một mảnh ghép còn thiếu trong một bức tranh tổng thể về sự phát triển của xã hội với sự tham gia của các khu vực Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và các tổ chức NGO. Đồng thời là một đối tác hỗ trợ đắc lực cho Nhà nước trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, ra đời vì mục tiêu và sứ mệnh cộng 53