Khóa luận Giọng điệu nghệ thuật thơ Tản Đà

pdf 51 trang thiennha21 16/04/2022 9381
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Giọng điệu nghệ thuật thơ Tản Đà", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_giong_dieu_nghe_thuat_tho_tan_da.pdf

Nội dung text: Khóa luận Giọng điệu nghệ thuật thơ Tản Đà

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN NGUYỄN THỊ CẨM TÚ GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT THƠ TẢN ĐÀ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học ThS. NGUYỄN PHƯƠNG HÀ HÀ NỘI, 2016
  2. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện khóa luận này, tôi đã được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong tổ bộ môn Văn học Việt Nam, khoa Ngữ văn trường Đại học sư phạm Hà Nội 2. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các thầy cô, đặc biệt là tới Thạc sĩ Nguyễn Phương Hà người đã tạo điều kiện tận tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua. Khóa luận được hoàn thành song không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ các thầy cô giáo để khóa luận được hoàn thiện hơn. Hà Nội,ngày 05 tháng 5 năm 2016 Sinh viên Nguyễn Thị Cẩm Tú
  3. LỜI CAM ĐOAN Khoá luận Giọng điệu nghệ thuật thơ Tản Đà là kết quả nghiên cứu của riêng mình tôi, có tham khảo ý kiến của những người đi trước và dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Phương Hà. Khóa luận không phải là sao chép từ một tài liệu hay công trình có sẵn nào. Kết quả khóa luận ít nhiều có những đóng góp vào việc tìm hiểu, nghiên cứu và giảng dạy tác giả Tản Đà trong chương trình phổ thông. Hà Nội,ngày 05 tháng 5 năm 2016 Sinh viên Nguyễn Thị Cẩm Tú
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 2 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3 4. Mục đích nghiên cứu 3 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 3 6. Phương pháp nghiên cứu 4 7. Đóng góp của khóa luận 4 8. Cấu trúc của khóa luận 4 NỘI DUNG 5 Chương 1: GIỚI THUYẾT CHUNG 5 1.1. Giọng điệu nghệ thuật 5 1.1.1. Khái niệm giọng điệu nghệ thuật 5 1.1.2. Vai trò của giọng điệu nghệ thuật trong thơ 5 1.2. Tác giả Tản Đà 6 1.2.1. Cuộc đời 6 1.2.2. Sự nghiệp sáng tác 7 1.2.3. Vị trí Tản Đà trên tiến trình thơ ca Việt Nam 8 Chương 2: NHẬN DIỆN GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT THƠ TẢN ĐÀ 13 2.1. Các kiểu giọng điệu 13 2.1.1. Giọng điệu ngông, khinh bạc 13 2.1.2. Giọng hài hước tự trào 18 2.1.3. Giọng điệu tâm tình 21 2.2. Các phương thức biểu hiện giọng điệu thơ Tản Đà 24
  5. 2.2.1. Sự đan xen giữa ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng với ngôn ngữ đời thường, khẩu ngữ 24 2.2.2. Sử dụng đại từ nhân xưng 29 2.2.3. Kết cấu 33 KẾT LUẬN 44 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  6. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Tản Đà được xem là nhà thơ của văn học buổi giao thời. Nói đến Tản Đà là nói đến “một cá tính độc đáo, một nhân cách thanh cao” (GS.Nguyễn Đình Chú). Ông cũng là một trong số những nhà thơ khép cánh cửa văn học trung đại và đặt nền móng, “dạo những bản nhạc mở đầu cho cuộc hòa nhạc tân kỳ đang sắp sửa” (Hoài Thanh). Bởi vậy, nghiên cứu thơ Tản Đà là công việc cần thiết giúp chúng ta đánh giá cụ thể hơn, đúng đắn hơn vị trí và công lao to lớn của ông trong quá trình vận động và đổi mới thơ ca Việt Nam, văn học Việt Nam. Cuộc đời và thơ ca Tản Đà không chỉ là niềm say mê của bao độc giả mà còn là đối tượng khám phá của nhiều công trình khoa học, các nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Tìm hiểu thơ ca Tản Đà, chúng ta không thể không nói tới giọng điệu nghệ thuật. Chính giọng điệu đã góp phần tạo nên giá trị thơ văn ông đồng thời còn giúp người đọc hiểu rõ hơn về những cảm xúc phong phú trong một hồn thơ và những cách tân mới mẻ của một phong cách nghệ thuật độc đáo. Thơ Tản Đà được giảng dạy, học tập khá nhiều trong nhiều cấp nhà trường của chúng ta hiện nay: Đại học, Cao đẳng, Trung học phổ thông, Trung học cơ sở Vì thế, nghiên cứu thơ Tản Đà nói chung và giọng điệu nghệ thuật nói riêng sẽ là hành trang kiến thức bổ ích cho chúng tôi trong việc học tập và công tác giảng dạy ở trường phổ thông sau này. Đó chính là lí do chúng tôi lựa chọn đề tài khóa luận: Giọng điệu nghệ thuật thơ Tản Đà. Hi vọng đề tài nghiên cứu này sẽ góp một phần nhỏ trong việc tìm hiểu, khám phá các tác phẩm của Tản Đà nói chung và giọng điệu nghệ thuật nói riêng. 1
  7. 2. Lịch sử vấn đề Tản Đà là hiện tượng phức tạp trong lịch sử văn học Việt Nam. Tuy nhiên, cuộc đời và sự nghiệp văn chương của ông trải qua nhiều thăng trầm. Đã có nhiều bài báo, công trình nghiên cứu, chuyên luận về thơ ca Tản Đà, thu hút đông đảo sự quan tâm, đánh giá của các nhà phê bình văn học và những người yêu thơ văn. Khi Tản Đà xuất hiện trên văn đàn năm 1916 với tập thơ “Khối tình con” đã đem đến cho độc giả một “luồng gió lạ”. Trên Nam Phong tạp chí (số 7 - năm 1918), tác giả Phạm Quỳnh đã khen Tản Đà: “Từ khi xuất bản tập “Khối tình con” được mấy bài thơ, văn, từ khúc có giọng mới, ý lạ được quốc dân nhiều người cổ võ cũng là để tưởng lệ, mong cái văn nghiệp của ông mỗi ngày tinh tiến mãi lên”. Nhưng cũng chính Phạm Quỳnh đã phê phán thơ Tản Đà “đem cái ngông ra mà phô diễn trong mấy chục tờ giấy thì thật là quá đáng vậy”. Nhà nghiên cứu Hoài Thanh - Hoài Chân mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam đã nhận xét: “Đôi bài thơ của tiên sinh đã ra đời hơn hai mươi năm trước đã có giọng phóng túng riêng. Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kì đang sắp sửa” [13]. Điểm lại lịch sử nghiên cứu thơ Tản Đà, tác giả Phạm Văn Diêu trong Tạp chí văn học Sài Gòn (số 107 - 1970) đã bàn đến ngôn ngữ và giọng điệu trong thơ Tản Đà. Ông cho rằng: “Ngôn ngữ trong thơ Tản Đà là một ngôn ngữ dân tộc bình dị, trong sáng, duyên dáng, giàu khả năng gợi cảm, đạt tới mức điêu luyện”. Đánh giá về tài năng của Tản Đà, tác giả Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức trong cuốn Các thể thơ ca và sự phát triển của hình thức thơ ca trong văn học Việt Nam khẳng định: Tản Đà đã “đem đến một tiếng nói trẻ trung với một tình cảm chân thực và tứ thơ phóng túng” [10]. Nhận xét về giọng điệu thơ Tản Đà, tác giả Dương Quảng Hàm trong Văn học Việt Nam sử yếu cho rằng: “Lời thơ Tản Đà có một giọng điệu nhẹ 2
  8. nhàng, du dương cách dùng chữ (thường dùng tiếng nôm) và đặt câu lại uyển chuyển êm đềm” [7]. Điểm lại lịch sử nghiên cứu thơ Tản Đà, hầu hết các nhà nghiên cứu đều chỉ ra giọng điệu riêng trong thơ ông. Tuy nhiên, theo chúng tôi các bài viết, công trình nghiên cứu còn riêng lẻ, gợi mở, mang tính khái quát. Trên cơ sở kế thừa những người đi trước, chúng tôi đi sâu nghiên cứu đề tài: Giọng điệu nghệ thuật thơ Tản Đà giúp người đọc có cái nhìn hệ thống và toàn diện hơn về con người cũng như thơ ca của Tản Đà trong nền văn học dân tộc. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Như tên gọi của khóa luận, chúng tôi đi tìm hiểu: Giọng điệu nghệ thuật thơ Tản Đà. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Để giải quyết vấn đề đặt ra, chúng tôi tập trung khảo sát, nghiên cứu giọng điệu nghệ thuật thơ Tản Đà qua văn bản: “Tuyển tập Tản Đà” do Nguyễn Khắc Xương tuyển chọn, NXB Hội nhà văn, 2002. 4. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hướng đến các mục đích sau: - Tìm hiểu về giọng điệu nghệ thuật thơ Tản Đà. - Thấy được vị trí, vai trò của Tản Đà trong sự vận động thơ ca nửa đầu thế kỉ XX và trên tiến trình thơ ca Việt Nam nói chung. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Khóa luận đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: Khảo sát, thống kê và tìm hiểu các giọng điệu trong thơ Tản Đà. Chỉ ra một số phương diện nghệ thuật thể hiện giọng điệu thơ Tản Đà (sử dụng đại từ nhân xưng, kết cấu, đan xen ngôn ngữ tượng trưng với ngôn ngữ đời thường ). 3
  9. 6. Phương pháp nghiên cứu Giải quyết vấn đề mà đề tài đặt ra, chúng tôi sử dụng những phương pháp sau : Phương pháp thống kê, phân loại Phương pháp so sánh Phương pháp phân tích và bình giảng văn học 7. Đóng góp của khóa luận - Khẳng định tài năng của Tản Đà. - Góp phần thiết thực cho việc giảng dạy và học tập về Tản Đà ở trường phổ thông sau này. 8. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận được chia thành 2 chương: Chương 1: Giới thuyết chung Chương 2: Những biểu hiện của giọng điệu nghệ thuật thơ Tản Đà Kết luận Tài liệu tham khảo 4
  10. NỘI DUNG Chương 1: GIỚI THUYẾT CHUNG 1.1. Giọng điệu nghệ thuật 1.1.1. Khái niệm giọng điệu nghệ thuật Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân, sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm. Ngoài ra, giọng điệu còn phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật” [134-135, 8]. Có thể thấy, giọng điệu là một phương tiện cơ bản cấu thành hình thức nghệ thuật của văn học. Đây là hình thức nghệ thuật mang tính quan niệm, nó là thước đo không thể thiếu để xác định tài năng và phong cách độc đáo của một nhà văn, nhà thơ. 1.1.2. Vai trò của giọng điệu nghệ thuật trong thơ Bàn về vai trò của giọng điệu trong sáng tạo văn chương, nhà nghiên cứu Lê Ngọc Trà cho rằng: “Giọng vừa liên kết các yếu tố hình thức khác nhau, làm cho chúng cùng mang một âm hưởng nào đó, cùng có chung một khuynh hướng nhất định, vừa là chỗ dựa chính để các yếu tố của tác phẩm quy tụ lại và định hình, thống nhất với nhau theo một kiểu nào đó, trong chỉnh thể giọng ấy, mỗi yếu tố hiện ra rõ hơn, thậm chí có khi mới mẻ hơn” [14]. Trên thực tế, để nhận diện chính xác giọng điệu của nhà thơ trong tác phẩm không phải là việc đơn giản. Nó cần tới trực cảm nhưng đồng thời cần cái 5
  11. nhìn lí tính để kiểm định và phân tích sự cảm nhận ấy một cách cụ thể. Giọng điệu là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành nét đặc trưng của thể loại, phong cách mỗi nhà văn, nhà thơ. Giọng điệu văn học là một hiện tượng “siêu ngôn ngữ”, nó biểu hiện thái độ cảm xúc của chủ thể đối với đời sống. Trong các tác phẩm nghệ thuật, giọng điệu bao giờ cũng mang cá tính sáng tạo của nhà văn, nhà thơ. Giọng điệu chính là một hiện tượng nghệ thuật mang tính cá nhân cao độ. Nhưng thực tế là bên cạnh giọng điệu cá nhân còn có giọng điệu thời đại. Giọng điệu cá nhân chịu sự quy định, ảnh hưởng của giọng điệu thời đại mặt khác giọng điệu cá nhân góp phần làm phong phú thậm chí làm thay đổi cấu trúc giọng điệu thời đại. Giọng điệu là một yếu tố cơ bản của phong cách nghệ thuật. Một nhà văn tài năng bao giờ cũng phải tạo được một giọng điệu độc đáo. Giọng điệu gắn với cảm hứng chủ đạo, giọng điệu góp phần tăng giảm hiệu suất cảm xúc của tác phẩm văn chương. Trong nghệ thuật, giọng điệu bao giờ cũng được tổ chức công phu, là kết quả của một quá trình sáng tạo thực thụ. Giọng điệu trở thành một yếu tố cấu thành, phụ thuộc vào hệ thống không phải là ngẫu hứng. Không chỉ hàm chứa cảm xúc, thái độ của người nói, giọng điệu còn thể hiện nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính của chủ thể phát ngôn. Tóm lại, giọng điệu chính là chất kết dính tạo nên chỉnh thể tác phẩm. Tìm hiểu về giọng điệu giúp ta có cái nhìn toàn diện hơn về cá tính, phong cách nhà thơ đồng thời tạo ra cảm xúc thẩm mĩ cao hơn, rộng mở hơn với giá trị tư tưởng tác phẩm. 1.2. Tác giả Tản Đà 1.2.1. Cuộc đời Tản Đà (1889 - 1939) tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Ba Vì, Hà Nội). Quê hương ông nằm bên bờ sông Đà, gần chân núi Tản Viên. Chính vì thế, ông mới lấy tên hiệu là Tản Đà: 6
  12. Nước dợn sông Đà con cá nhảy Mây trùm non Tản cánh diều bay. Dòng họ của Tản Đà có truyền thống khoa bảng. Thân phụ của ông - Nguyễn Danh Kế đỗ cử nhân, làm quan đến chức Án sát Ninh Bình, ngự sử trong kinh. Mẹ Tản Đà là Nhữ Thị Nghiêm, một đào hát tài sắc ở Nam Định. Bà là người hát hay và có tài làm thơ Nôm, lấy lẽ Nguyễn Danh Kế khi ông làm tri phủ Xuân Trường và được gọi là bà phủ ba. Cuộc đời của Tản Đà trải qua nhiều thăng trầm. Lên ba tuổi, bố mất. Vì bất hòa với gia đình chồng, bà Nhữ Thị Nghiêm, trở lại nghề ca xướng, bỏ lại Tản Đà sống với bà cả và bà hai. Vì thế, Tản Đà luôn sống với sự dằn vặt, mặc cảm về thân phận vợ lẽ con côi. Cuộc đời Tản Đà còn lận đận trong thi cử. Mặc dù ngay từ khi mười lăm tuổi, ông đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn Tây nhưng Tản Đà liên tiếp trượt cả hai kỳ thi hương năm 1909 và 1912. Cũng mùa xuân năm 1912, ông không qua được kỳ thi vào trường Hậu bổ vì trượt môn vấn đáp tiếng Pháp. Thất bại trong khoa cử gắn liền với đổ vỡ trong tình duyên đã khiến cuộc đời ông rẽ sang một ngả khác. Đó chính là con đường tạo nên Tản Đà - một nhà nho tài tử. Năm 1939, Tản Đà mất tại nhà số nhà 71 đường Cầu Mới, Ngã Tư Sở, Hà Nội (nay là nhà số 47 đường Nguyễn Trãi) và an táng tại nghĩa trang Quảng Thiện (Hà Nội ngày nay). 1.2.2. Sự nghiệp sáng tác Nói đến Tản Đà là nói đến một nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch, dịch thuật. Nhưng phần tinh túy nhất, không thay thế được của ông đó chính là thơ ca. Ông sáng tác rất nhiều thơ, thuộc nhiều thể loại. Thơ Tản Đà thường diễn tả cảm giác say sưa, chán ngán đời thực, đắm chìm trong cõi mộng, những mối tình với người tri kỉ xa xôi, song cũng có những bài mang 7
  13. tính ẩn dụ, ngầm phê phán hiện thực. Thơ ông thường làm theo thể cổ phong, cũng có khi theo thể đường luật, đường luật phá thể, hay thể lục bát, song thất lục bát. Ngoài ra thể loại hát nói, phong dao cũng là một lĩnh vực nổi bật trong sáng tác của ông. Nội dung của nó thể hiện triết lý sống phóng khoáng, một tâm hồn hay mơ mộng, hoài cổ nhưng man mác nỗi sầu nhân thế. Tản Đà đã để lại cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm vô cùng giá trị. Có thể kể đến hàng loạt tác phẩm: “Khối tình con I, II, III”, “Giấc mộng con” , “Giấc mộng lớn” “Đài gương”, “Thần tiền”, “Thề non nước”, “Lên sáu”, “Lên tám”, “Tuồng Tây thi”, “Lưu Nguyễn nhập thiên thai”. Tản Đà còn dịch truyện “Liêu trai chí dị”, dịch thơ Đường, Kinh thi, Đại học và ông đã nhiều năm làm chủ bút báo Hữu Thanh, An Nam tạp chí, Đông Pháp thời báo. Đặc biệt, từ khi có bài được đăng trên “Nam Phong tạp chí” cho đến về sau Tản Đà luôn cho người đọc thấy được mình là một cây bút đầy tài năng. Chỉ tiếc thay cho sự nghiệp báo chí ấy cũng gian nan như chính cuộc đời ông vậy. Với một tâm hồn mới mẻ, cái tôi lãng mạn, bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương, ưu ái trong thơ văn ông đã chinh phục thế hệ độc giả mới đầu thế kỉ XX. Giữa lúc thơ phú nhà nho tàn cuộc, Tản Đà có lối đi riêng, vừa tìm về với ngọn nguồn thơ ca dân gian và dân tộc, vừa có những sáng tạo độc đáo, tài hoa. Thơ văn Tản Đà có thể xem như một gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại. Đúng như Xuân Diệu từng khẳng định: “Tản Đà là thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám giữ một cái tôi” [173, 3]. 1.2.3. Vị trí Tản Đà trên tiến trình thơ ca Việt Nam Trước khi Pháp xâm lược, Việt Nam là một xã hội phong kiến. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ 8
  14. máy thống trị ở Việt Nam. Việt Nam đã bị biến đổi từ một xã hội phong kiến thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mất hẳn quyền độc lập, phụ thuộc vào nước Pháp về mọi mặt. Xã hội ấy với những đổi thay về kinh tế, chính trị, đời sống, văn hóa tất yếu dẫn đến nhu cầu đổi mới về văn học, đặt biệt là trong sự cách tân về thơ ca. Sự cách tân này diễn ra do hai nguyên nhân. Thứ nhất, văn học truyền thống (thơ Đường luật) tồn tại lâu đời với những niêm, luật, vần với mục đích giãi chí, tỏ lòng giờ đây đã không còn phù hợp với tình hình xã hội đương thời. Hơn nữa, nó còn là sự cản trở cho việc sáng tạo thơ ca của giới văn nghệ sĩ. Thứ hai, do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây mà chủ yếu là văn hóa Pháp du nhập vào xã hội lúc bấy giờ xuất hiện lớp công chúng mới, tri thức du học từ phương Tây về. Trong văn chương, người ta cần phải sống với những cái có thật, những chi tiết gây được sự thỏa mãn, tò mò. Người đọc muốn tự mình rút ra những kinh nghiếm sống từ những sự nếm trải qua hình tượng nghệ thuật, từ cảm xúc trong văn chương chứ không phải từ những giáo lí khô khan, có sẵn. Hơn nữa, cả nghệ sĩ và công chúng đều đòi hỏi phải được phát triển về cảm thụ văn chương với những cảm xúc cá nhân. Tản Đà là con người của hai thế hệ cựu học và tân học, là nhà nho sống giữa xã hội đang trên con đường tư sản hóa. Ông cũng là người mở đường, đi đầu trong lĩnh vực đổi mới thơ ca hiện đại. Tản Đà sáng tác văn chương gắn với môi trường đô thị từ năm 1916 cho đến khi kết thúc cuộc đời. Với cốt cách của nhà nho tài tử, quan niệm mới mẻ về văn chương, Tản Đà đã thổi vào thơ ca những luồng gió mới lạ. Ông trở thành cầu nối giữa hai thời đại văn học. Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, Tản Đà trở thành thi sĩ đầu tiên đem văn chương bán phố phường, coi văn chương trở thành nghề kiếm sống. Không 9
  15. những thế ông còn trình diễn cái tôi cá nhân, cái tôi tự ý thức bản thân, thoát khỏi lễ giáo phong kiến, hăm hở muốn được khẳng định, tự giới thiệu mình: Vùng đất Sơn Tây nảy một ông Tuổi chửa bao nhiêu, văn rất hùng Sông Đà núi Tản ai hun đúc? Bút thánh câu thần sớm vãi vung Chữ chữ nôm nôm nào kém cạnh Khuyên khuyên điểm điểm có hay không Bởi ông hay quá ông không đỗ Không đỗ, ông càng tốt bộ ngông. (Tự trào) Thậm chí trong cái ngông của Tản Đà vẫn toát lên vẻ đẹp của con người, nhân cách thanh cao, vượt ra khỏi danh lợi tiền bạc: Bạc tiền gió thoảng, thơ đầy túi Danh lợi bèo trôi, rượu nặng vai. (Tự vịnh) Trời sinh ra bác Tản Đà Quê hương thời có cửa nhà thời không Nửa đời Nam, Bắc, Tây, Đông Bạn bè sum họp, vợ chồng biệt ly Túi thơ đeo khắp ba kỳ Lạ chi rừng biển thiếu gì gió trăng Thú ăn chơi cũng gọi rằng Mà xem chửa dễ ai bằng thế gian. (Thú ăn chơi) Không những thế, Tản đà còn mang hồn thơ tràn đầy cảm xúc lãng mạn: Quái lạ! Làm sao cứ nhớ nhau Nhớ nhau đằng đẵng suốt đêm thâu 10
  16. Bốn phương mây nước, người đôi ngả Hai chữ tương tư, một gánh sầu. (Tương tư) Con người đa tình ấy luôn tìm về với thiên nhiên, cõi mộng, cõi tiên để được thỏa sức tự do, phóng túng: Gió hỡi gió, phong trần ta đã chán Cánh chim bằng chín vạn những chờ mong. (Hỏi gió) Kiếp sau xin chớ làm người Làm đôi chim nhạn tung trời mà bay. (Hơn nhau một chén rượu mời) Thể hiện những cảm xúc mới, Tản Đà còn có những cách tân về phương diện nghệ thuật khi mang hình thức lời nói vào thơ ca, chuyển thơ trữ tình từ điệu ngâm sang điệu nói. Nhờ sự sáng tạo thơ ca dân gian giúp Tản Đà mang lời nói vào thơ một cách tự nhiên, tài tình: Người ta đi ngược đi xuôi Sao em đội nón ra ngồi gốc cây Lạnh lùng gió táp mưa bay Lấy chồng làm lẽ có ngày oan gia. (Phong dao) Mình ơi, có nhớ ta chăng? Nhớ mình đứng tựa bóng trăng ta sầu Trăng kia soi nửa vòng cầu Mà ai tìm cái phong hầu thấy chưa?. (Phong dao) Thơ Tản Đà bên cạnh những đổi mới về nội dung, thể loại vần bị ảnh hưởng của yếu tố truyền thống, đặc biệt là về ngôn ngữ. Ngôn ngữ trong thơ ông vẫn mang tính ước lệ tượng trưng, sử dụng nhiều điển tích, điển cố: 11
  17. Xương mai một nắm hao gầy Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương Trời tây ngả bóng tà dương Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha. (Thề non nước ) Từ vào thu đến nay: Gió thu hiu hắt, Sương thu lạnh Trăng thu bạch Khói thu xây thành. (Cảm thu, tiễn thu ) Lá đào rơi rắc lối thiên thai, Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi!. (Tống biệt ) Nhìn lại toàn bộ văn học ba mươi năm đầu thế kỉ, Tản Đà sống trọn trong giai đoạn văn học giao thời. Có thể thấy, Tản Đà góp phần không nhỏ trong quá trình hiện đại hóa văn học. Đồng thời, bản thân ông cũng là sản phầm của thời đại văn học đó. Vì thế, sáng tác của Tản Đà thể hiện rõ tính giao thời của văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. 12
  18. Chương 2: NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT THƠ TẢN ĐÀ 2.1. Các kiểu loại giọng điệu Nhận xét về Thơ mới, nhà phê bình Hoài Thanh trong cuốn Thi nhân Việt Nam đã khẳng định: “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên, và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” [13]. Để làm được “cuộc cách mạng” này, công đầu tiên thuộc về thi sĩ Tản Đà. Tản Đà đã mang vào thơ ca đương thời một “luồng gió lạ”, trước hết ở giọng điệu mới mẻ trong các sáng tác của ông. Giọng điệu đó không đơn giản là tín hiệu âm thanh có âm sắc riêng mà chính là một thứ giọng chuyên chở nội dung tình cảm, thái độ, thẩm mỹ. Đó cũng là yếu tố làm nên sự đa dạng về giọng điệu trong thơ Tản Đà. Có khi là giọng điệu ngông, khinh bạc, có lúc là giọng điệu hài hước, tự trào, giãi bày, thở than, tâm tình 2.1.1. Giọng điệu ngông, khinh bạc Trong dòng chảy văn học Việt Nam, Tản Đà là “người của hai thế kỉ”, mở đầu cho thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông cũng là người đầu tiên đã có can đảm làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, ông dám giữ một bản ngã, một cái tôi riêng mình.(Xuân Diệu). Cái tôi cá nhân trong thơ Tản Đà được thể hiện qua nhiều cung bậc khác nhau, đó là cái tôi đa sầu, đa cảm, cái tôi đa tình và cái tôi ngông nghênh, khinh bạc. Tản Đà không phải là một trường 13
  19. hợp “ngông” cá biệt trong văn học Việt Nam. Trước ông, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đều ngông. Nguyễn Du đã từng ngậm ngùi mà xưng tên: Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như. (Độc Tiểu Thanh kí ) Hồ Xuân Hương trong Mời trầu cũng tự khẳng định: Này của Xuân Hương mới quệt rồi Hay Nguyễn Công Trứ : Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng (Bài ca ngất ngưởng ) Nhưng có lẽ Tản Đà là một nhà thơ ngông hơn cả trên đàn văn giao thời hai thế kỉ XIX - XX: Vùng đất Sơn Tây nảy một ông Tuổi chửa bao nhiêu, văn rất hùng Sông Đà núi Tản ai hun đúc? Bút thánh câu thần sớm vãi vung. (Tự trào) Giọng điệu ngông, khinh bạc là giọng điệu chủ đạo trong nhiều bài thơ của Tản Đà, đi liền với quan niệm sống của ông với xã hội đương thời. “Ngông” là thái độ khinh đời, ngạo đời dựa trên sự tài hoa uyên bác. Người Trung Hoa hiểu ngông là cuồng, là loạn. Xét đến cùng, ngông thể hiện một cá tính đặc biệt. Khái niệm “ngông” trong văn học thường được dùng để chỉ định một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác thói thường của những nhà văn, nhà thơ có ý thức cá nhân cao độ. Tất nhiên, ý thức cá nhân ấy cũng chỉ được phát triển mạnh mẽ trong những điều kiện xã hội nhất định, gắn liền với tổng thể những quan niệm khá mới mẻ (trong khuôn khổ trung đại) về vũ 14
  20. trụ, nhân sinh và nghệ thuật. Đối với Tản Đà, cái ngông ấy không nên hiểu đơn thuần chỉ là cái ngông của những nhà nho tài tử, của đám văn nhân, mà phải hiểu theo góc độ khác, từ nhân sinh quan. Trước hết, khi thể hiện mình ngông, nghĩa là khi con người sống thật với mình nhất, thể hiện cá tính không trộn lẫn với người khác, dù người khác ấy có sự chi phối mạnh mẽ đến bản thân mình. Xã hội phong kiến là xã hội không cho cá tính phát triển, người có tài trong xã hội phong kiến là người chỉ được múa một tay. Con người trong xã hội phong kiến phải tuân theo các phép tắc của cộng đồng, phải hòa mình vào số đông của tập thể. Sự phát triển cá tính trong xã hội phong kiến là một mầm họa. Vì thế, mọi phép tắc ứng xử trong xã hội phong kiến, suy cho cùng là để bóp chết cá tính của con người. Trong xã hội ngột ngạt như thế mà có những tính cách trỗi dậy thì rõ ràng không thể xem đó là sự ương ngạnh. Mặt khác trong những năm hai mươi của thế kỉ XX, trước luồng gió của chủ nghĩa cá nhân tư sản và trào lưu văn học lãng mạn trên thế giới, xã hội nảy sinh nhu cầu đòi giải phóng bản ngã, đòi tự do và đời sống tình cảm riêng tư chống lại sự kiềm hãm, đè nén của xã hội phong kiến. Cái “ngông” của Tản Đà thực chất là sự phản ứng của xã hội đương thời ở góc độ nhân sinh quan. Sự phản ứng đó là hết sức táo bạo, thể hiện bản lĩnh của một nhân cách sống. Tản Đà được ví là nhà thơ của say, ngông và mộng. Tản Đà đã thể hiện cái ngông trong cuộc sống và trong cả thơ văn. Ngay trong lời tự bạch, Tản Đà đã hiện lên với hình ảnh của một lữ khách chơi ngông nhất: Trời sinh ra bác Tản Đà Quê hương thời có, cửa nhà thời không Nửa đời Nam, Bắc, Tây, Đông Bạn bè sum họp, vợ chồng biệt ly Túi thơ đeo khắp ba kỳ 15
  21. Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng. (Thú ăn chơi) Tản Đà coi bốn phương là nhà, mang túi thơ đi khắp trong thiên hạ, mang cái ngông nghênh của mình thách thức với cả sông núi. Và ông cho rằng đó là định mệnh sắp đặt ông như vậy, dù ông dù mọi người có chấp nhận hay không. Tản Đà đã hiên ngang thể hiện cái tôi của mình qua việc tự xưng danh: Dạ, bẩm lạy Trời, con xin thưa Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn Quê ở Á châu và Địa cầu Sông Đà, núi Tản, nước Nam Việt. (Hầu Trời) Nhưng cách xưng danh tính của Tản Đà cũng khác thể hiện rõ dấu ấn trong cung cách của ông, đó là cách xưng hô tên trước, họ sau giống phương Tây, tách tên, họ theo một kiểu cung khai lí lịch rất hiện đại, lại còn nói rõ bản quán, quốc tịch, châu lục, Vì vậy đã ngông lại càng ngông. Nhưng đó là cái ngông của người có tài và biết trân trọng, khẳng định tài năng của mình. Có một nụ cười hóm hỉnh ẩn sau vẻ thành khẩn trước “đấng chí tôn”, nhưng điều đáng nói hơn hết vẫn là ý thức cá nhân, ý thức dân tộc của nhà thơ. Một cái tên - tên thật chứ không phải tự hay hiệu - mà được nói ra trịnh trọng đến vậy hẳn nhà thơ phải thấy có một giá trị không thể phủ nhận gắn liền với nó. Hơn nữa, ông còn muốn Trời thấy được Nguyễn Khắc Hiếu chính là của Á Châu - của xứ sở có một nền văn minh tinh thần cao quý, đáng tự hào. Tản Đà xưng rõ danh tính, hóm hỉnh hơn, nhà thơ còn khẳng định cả phong cách ngông của mình qua việc mượn lời của Thiên tào tra sổ: Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu Đày xuống hạ giới vì tội ngông. 16
  22. (Hầu Trời) Nếu không có cái ngông thị tài của Cao Bá Quát, không có cái ngỗ ngược của Nguyễn Công Trứ thì khó mà có cái tuyên ngôn ngạo nghễ của Tản Đà: Thơ lưng chất nặng tay buồn rỗi Bán áo mà mua giấy viết ngông. (Dạm bán áo đoạn) Tản Đà còn nói về tài năng của bản thân bằng niềm tự hào với giọng điệu ngông nghênh, phóng túng: Vùng đất Sơn Tây nảy một ông Tuổi chửa bao nhiêu, văn rất hùng Sông Đà núi Tản ai hun đúc? Bút thánh câu thần sớm vãi vung Chữ chữ nôm nôm nào kém cạnh Khuyên khuyên điểm điểm có hay không Bởi ông hay quá ông không đỗ Không đỗ, ông càng tốt bộ ngông. (Tự trào) Chất tài hoa, phóng túng, ngông nghênh khinh bạc thể hiện khi ông tìm đến rượu. Cái ngông ấy như được kích thích, ngông lại càng ngông: Say sưa nghĩ cũng hư đời Hư thời hư vậy, say thời cứ say Đất say đất cũng lăn quay Trời say mặt đất đỏ gay ai cười?. (Lại say) 17
  23. Tản Đà đã say, đã sống trọn vẹn trong cái say của mình, cái say ngạo mạn và thách thức. Tản Đà không say rượu. Rượu chẳng qua chỉ là cái cớ, giúp Tản Đà ngất ngưởng, vùng vẫy trong cuộc chơi: Cảnh đời gió gió mưa mưa Buồn trông ta phải say sưa đỡ buồn. (Thơ rượu) Tản Đà cho rằng, cuộc đời thực không lấy gì làm hạnh phúc, đời đáng chán, đáng buồn. Ông mong muốn thoát li thực tại, đắm mình vào những giấc mộng để quên đời. Khi mộng, Tản Đà được sống những cuộc đời mới mẻ, đẹp đẽ, tự ông vẽ ra theo trí tưởng tượng của bản thân. Chính trong những giấc mộng, Tản Đà mới tìm lại được cái tôi của mình, gặp được những người trong ý tưởng và suy nghĩ của mình. Tản Đà đã từng muốn làm thằng Cuội lên cung trăng chơi với chị Hằng: Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi Trần thế em nay chán nửa rồi, Cung quế đã ai ngồi đó chửa ? Cành đa xin chị nhắc lên chơi. (Muốn làm thằng Cuội ) Tóm lại, trong thơ Tản Đà, ngông là một đặc điểm nổi bật thể hiện cách sống khinh bạc, làm trái ngược đời để tỏ rằng mình tỉnh trong khi kẻ khác say, để chứng minh rằng mình thanh bạch trong khi người khác ô trọc, dơ bẩn. Đó cũng là cách thể hiện ý thức về tài năng, giá trị đích thực của bản thân và khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời. Sau Tú Xương, có lẽ Tản Đà là một nhà thơ ngông hơn cả trên thi đàn văn giao thời hai thế kỉ XIX -XX. 2.1.2. Giọng hài hước tự trào Trong văn học Việt Nam, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương đặc biệt sau này là Tú Xương đã từng đem chính cuộc đời mình vào làm đề tài để sáng tác. Nhưng có lẽ, chưa ai mang chính cuộc đời mình vào thể hiện trong tác phẩm một 18
  24. cách chân thực và đầy đủ như Tản Đà. Vì thế, đọc thơ Tản Đà, chúng ta hình dung ra bức chân dung tự họa của ông bằng giọng điệu hài hước, tự trào, thể hiện ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân, đem cái cá nhân trình diện với cuộc đời. Tản Đà đã kế tục truyền thống trào lộng của văn học thông tục, sáng tác những vần thơ dung dị, giòn giã, từ cái nhếch mép, mỉa mai nhẹ nhàng đến tiếng cười trào phúng cay độc đủ các cung bậc. Tiếng cười làm ta nhớ đến Tú Xương trong bài Xuân: Chí cha chí chát khua giầy dép Đen thủi đen thui cũng lượt là. Còn đối với thơ Tản Đà, tiếng cười ấy lại là: Thối om sọt phẩn, nhiều cô gánh Tanh ngắt hơi đồng, lắm cậu yêu. (Sự đời) Có khi phảng phất phong cách bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương: Nước tuôn ngòi biếc trong trong vắt Đá hỏm hang đen tối tối mò Chốn ấy muốn chơi còn mỏi gối Phàm trần chưa biết, nhắn nhe cho. (Chơi chùa Hương Tích) Ngay cả khi tự trào về cảnh đời nghèo túng bằng giai điệu hóm hỉnh, nhà thơ không giấu được sự cay đắng trước nỗi cơ cực của mình: Hôm qua chửa có tiền nhà Suốt đêm thơ nghĩ chẳng ra câu nào! Đi ra rồi lại đi vào Quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ. (Ngẫu hứng) Nhà tớ xưa nay vốn vẫn nghèo Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu 19
  25. Quanh năm luống những lo văn ế Thân thế xem thua chú hát chèo Càng đau mà vẫn phải càng theo Theo mãi cho nên vẫn cứ nghèo Nghèo chỉ có văn, văn lại ế Ế cho văn tớ hết tiền tiêu (Lo văn ế) Giọng điệu hài hước, tự trào còn thể hiện rõ khi ông viết về bi kịch của cuộc đời mình. Đó là bi kịch của một kẻ sĩ đi thi nhiều lần nhưng không đỗ: Mỗi năm Hậu Bổ một lần thi Năm ngoái năm xưa tớ cũng thi Cử, tú, ấm sinh vài chục kẻ Tây, ta, quốc ngữ bốn năm kì. (Thi Hậu Bổ bị trượt kì vấn đáp ) Bên cạnh đó lại có cả những bài thơ nói về sự tiết tháo của một nhà nho nghèo, không bao giờ chịu vì đồng tiền mà hạ phẩm cách con người. Trước cuộc đời đen bạc, nhân tình thế thái đổi thay, Tản Đà là người luôn tự hào về tâm hồn thanh cao không màng danh lợi. Đối với ông, bạc tiền, công danh chỉ là phù du: Bạc tiền gió thoảng thơ đầy túi Danh lợi bèo trôi, rượu nặng vai. (Tự vịnh) Hơn nữa, Tản Đà còn luôn lạc quan, thể hiện bản lĩnh của mình trước cái nghèo: Người ta hơn tớ cái phong lưu Tớ cũng hơn ai cái sự nghèo (Sự nghèo) 20
  26. Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Xương đã từng khẳng định:“Cái sự nghèo nổi bật lên như là một thử thách để tạo nên tính cách và bản lĩnh của Tản Đà”. Như vậy, qua giọng điệu hóm hỉnh, tự trào của mình, Tản Đà đã khẳng định nhân cách thanh khiết và cao quý của mình đồng thời đó là sự phản kháng đối với xã hội đương thời đang bị đảo lộn, kệch cỡm. 2.1.3. Giọng điệu tâm tình Trong thơ Tản Đà, bên cạnh giọng điệu hài hước, ngông, khinh bạc, ta còn thấy giọng điệu tâm tình bộc lộ rõ nét. Nó còn bắt nguồn từ cảm hứng lãng mạn cái tôi thi sữ buổi giao thời. Nhu cầu được giãi bày, được tâm tình cho thấy cái tôi trong thơ Tản Đà luôn cô đơn, mong tìm được sự đồng cảm, sẻ chia. Chính giọng điệu tâm tình đã làm cho nỗi buồn trong thơ Tản Đà khắc khoải hơn, não nùng hơn, hướng cảm xúc thơ đi vào chiều sâu tâm hồn thi sĩ. Trong thơ Tản Đà, ta thấy cảm xúc tâm tình luôn chất chứa, lúc thì man mác, lâng lâng, khi lại thiết tha tràn đầy thể hiện một sự chờ mong, nhớ thương da diết hay trách móc, dỗi hờn tạo nên giai điệu ngọt ngào khó quên: Sông nước chảy, núi mây bay. Mình ơi, có biết ta đây nhớ mình Nhớ mình ra ngẩn vào ngơ Trông mây, trông nước nay chờ mai mong (Thư trách người tình nhân không quen biết) Những câu hỏi, những lời trách móc xuất hiện đậm đặc trong thơ Tản Đà thể hiện nhu cầu tâm hồn được sẻ chia, nỗi niềm riêng cần được biết tới một cách thiết tha, mãnh liệt: Hỡi khách đa tình ai đó tá Cuộc cờ năm mới tính ra sao?. (Trăm năm trọn đời người) 21
  27. Bèo hợp nước tan người một nẻo Cậy ai mà nhắn một đôi câu?. (Nhớ chị hàng cau) Ngày ngắn đêm dài đêm lại sáng Đêm qua ai có bạc đầu không?. (Hủ nho lo mùa đông) Và có lẽ không ở đâu giọng giãi bày, tâm sự lại dạt dào, quấn quýt như trong bài Thề non nước : Non cao tuổi vẫn chưa già Non thời nhớ nước, nước mà quên non Dù cho sông cạn đá mòn Còn non, còn nước hãy còn thề xưa. Non cao đã biết hay chưa Nước đi ra bể lại mưa về nguồn. Nước non hội ngộ còn luôn Bảo cho non chớ có buồn làm chi. Khi cái tôi công danh thất bại, Tản Đà cũng tìm đến rượu: Trời đất sinh ta rượu với thơ Không thơ không rượu sống như thừa Công danh hai chữ mùi men nhạt Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ (Ngày xuân thơ rượu) Hay tìm vào say để tiêu sầu và tìm cảm hứng cho niềm vui sống, cho sáng tạo nghệ thuật: Cảnh đời gió gió mưa mưa Buồn trông ta phải say sưa đỡ buồn! Rượu ngon thơ lại khơi nguồn 22
  28. Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình. (Thơ rượu) Hình tượng nổi bật trong thơ Tản Đà là con người suốt đời đi tìm người tri kỉ để cuối cùng chỉ còn lại mãi mãi một nỗi bơ vơ, trông ngóng. Trông ngóng đợi chờ trong vô vọng, nên ôm một mối sầu: Ngàn sương bạc bay qua tiếng nhạn Ngọn đèn xanh khơi cạn đĩa dầu Mình ai chiếc bóng đêm thâu Nỗi riêng, riêng một mối sầu vì ai?. (Thư đưa người tình nhân có quen biết) Nhu cầu giãi bày, tâm sự thúc đẩy Tản Đà đi tìm bạn tri âm, nhưng bạn tri âm, tri kỷ chỉ có ở cõi tiên: Tri kỉ trông lên đứng tận trời. (Tây Hồ Vọng Nguyệt) Chung quanh những đá cùng cây Biết người tri kỉ đâu đây mà tìm? (Vô đề) Hoặc ở cõi trần thì lại là những “người tình nhân không quen biết”. Cho nên nỗi buồn, nỗi cô đơn, vọng lên mang âm điệu thở than, ngao ngán. Vì thế, nỗi buồn, cô đơn cất lên với giọng điệu buồn bã, se sắt, mênh mang: Hỏi cùng núi, mây xanh chẳng biết Hỏi cùng sông, nước biếc không hay Sông nước chảy, núi mây bay Mình ơi, có biết ta đây nhớ mình?. (Thư trách người tình nhân không quen biết) Ngồi buồn lấy giấy viết thư chơi Viết bức thư này gửi đến ai Non nước xa khơi tình bỡ ngỡ 23
  29. Ai tri âm đó nhận mà coi. (Thư đưa người tình nhân không quen biết ) Chính vì thế, thơ Tản Đà còn giọng của kẻ trải đời, va vấp, pha chút chán ngán đã hiện lên: Ruột tằm rút mãi chưa thành kén Có nhẽ lôi thôi suốt cả đời. (Đề khối tình con thứ hai) Hai mươi năm lẻ hoài cơm áo Mà đến bây giờ có thế thôi. (Đề khối tình con thứ nhất) Xuân Diệu từng khẳng định trong Công của thi sĩ Tản Đà: “Lần đầu, người ta được nghe một giọng nói dịu dàng trong trẻo, nhẹ nhõm có duyên, người ta thấy một tấm lòng thực thà hé phơi và được người ta được cảm động. Lễ nghi trói buộc con người Việt Nam trong bao lâu, hồn thơ ngẹt giữa gông cùm, trái tim bị đè không dám đập, cuộc sống thu chật lại giữa khuôn phép bất nhân, lần đầu tiên Tản Đà dám vẩn vơ, dám mơ mộng, dám cho trái tim và linh hồn được có quyền sống cái đời riêng của chúng, cái đời phóng khoáng như gió, trăng, mây, nước chứ không phải chỉ có cuộc sống vật chất mà thôi” [73, 3]. Có thể thấy rằng, Tản Đà đã mang đến cho thơ ca giọng điệu mới mẻ. Ông luôn khát khao được tâm sự, sẻ chia, giãi bày bởi nỗi sầu, cô đơn chất chứa trong lòng. Mặt khác, giọng điệu tâm tình trong thơ Tản Đà mở ra một lối trữ tình mới. Đó là nền tảng cho sự phát triển thơ trữ tình hiện đại sau này. 2.2. Các phương thức biểu hiện giọng điệu thơ Tản Đà 2.2.1 Sự đan xen giữa ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng với ngôn ngữ đời thường, khẩu ngữ Quá trình hiện đại hóa văn học ba mươi năm đầu thế kỉ thể hiện rõ sự thay đổi, cách tân về mặt hình thức nghệ thuật. Ngôn ngữ bình dân, ngôn ngữ 24
  30. của đời sống hàng ngày đã được đưa vào thơ ca, khác với tính chất uyên bác, sùng cổ, phi ngã của ngôn ngữ văn học trung đại. Nhờ đó, ngôn ngữ hiện đại trở nên giản dị, gần gũi, phù hợp với đời sống tình cảm của tầng lớp công chúng mới. Có thể thấy trên con đường hiện đại hóa văn học, Tản Đà được coi là một đại diện tiêu biểu. Ông đã đem đến thơ ca luồng gió mới bằng tiếng nói trẻ trung với những tình cảm chân thực, bình dị, thiết tha. Kế thừa các nhà thơ trước, Tản Đà đưa khẩu ngữ, lời ăn tiếng nói vào thơ khiến câu thơ giản dị, tự nhiên, trong sáng, cảm xúc được diễn tả một cách tự nhiên, thành thực. Thơ Tản Đà không chỉ nằm ngoài bề mặt, mà trong đó là một tinh hoa với màu sắc, âm thanh của từng con chữ. Như một trò chơi chữ nghĩa, thơ ông không câu nệ, không theo khuôn khổ, các con chữ được tự do phóng khoáng, lời thơ trôi chảy tự nhiên. Nếu khẩu ngữ chỉ thường thấy trong sinh hoạt thì ở thơ ông khẩu ngữ, những từ cảm thán xuất hiện rất tự nhiên mà trước đó ít nhà thơ nào sử dụng. Quái lạ! Làm sao cứ nhớ nhau Nhớ nhau đằng đẵng suốt đêm thâu Bốn phương mây nước, người đôi ngả Hai chữ tương tư, một gánh sầu!. (Tương tư) Ước sao tháng tháng sẵn tiền Tiền nhà cứ tháng ta liền đóng ngay Rồi ra thơ nghĩ mới hay Tri âm ai đó mới say vì tình. (Ngẫu hứng ) Quái! Say sao? Say mãi thế này Say suốt cả đêm ngày như bất tỉnh 25
  31. Thê ngôn tuý tửu chân vô ích Ngã dục tiêu sầu thả tự do Việc trần ai, ai tỉnh ai lo Say tuý luý nhỏ to đều bất kể. Trời đất nhỉ, cái say là sướng thế!. (Lại say ) Một đặc điểm dễ nhận ra, đó là Tản Đà đã đưa lời nói hàng ngày vào trong những bài thơ trường thiên như: Lo văn ế, Hầu Trời, Tiễn ông Công lên chầu trời, Thăm mả cũ bên đường khiến bài thơ trở nên dung dị, tự nhiên không chút gò bó, cứng nhắc: - Đêm qua chẳng biết có hay không - Dạ bẩm lạy trời con xin đọc - Dám bẩm lạy trời con xin thưa - Bẩm trời cảnh con thực nghèo khó (Hầu Trời ) Ra văn mà bán chẳng ra tiền Cái nghiệp văn chương nghĩ thật phiền Văn ế bao giờ cho bán hết Phen này có nhẽ gánh lên tiên. (Lo văn ế ) - Hay là là thuở trước kẻ cung đao - Hay là thuở trước kể văn chương - Hay là thuở trước khách hồng nhan (Thăm mả cũ bên đường) Thể thơ Đường luật vốn nhiều điển cố, cứng nhắc được Tản Đà vận dụng khéo léo, uyển chuyển làm câu thơ mềm mại, nhẹ nhàng mang hơi thở tự nhiên, hiện đại: 26
  32. Đầu ai sao tóc rối lung tung Chắc hẳn vì chưng nỗi tưởng chồng Cậu ấy đi đâu mà lâu thế nhỉ? Phòng riêng hay vẫn hãy còn không?. (Ghẹo người vu vơ) Trong quá trình sáng tác, cùng với vốn sống, vốn hiểu biết, Tản Đà đã sử dụng ngôn ngữ ca dao như một chất liệu nghệ thuật chính yếu. Bằng việc sử dụng những cấu trúc mô típ trong ca dao: “Bây giờ”, “Đêm qua”, “Nhớ ai”, “Ai làm” hoặc cặp từ “chàng - thiếp”, “mình - ta”, “Thân em” Nhiều bài thơ của Tản Đà đã đạt đến cái “chất ca dao” thật là nhuyễn, đưa ca dao đến mức thật duyên dáng, tình tứ: Đêm thu gió đập cành cau Chồng ai xa vắng ai sầu chăng ai? Đêm thu gió hút ngoài tai Gió ơi! Có biết chồng ai nơi nào? Đêm thu gió lọt song đào Chồng ai xa vắng gió vào chi đây? Đêm thu gió lọt đôi mày Gió ơi có biết nỗi này cho chăng?. (Phong dao 8) Ai làm cho khói lên giời? Cho mưa xuống đất! Cho người biệt ly! Ai làm cho Nam Bắc phân kỳ? Xót xa hàng lệ đầm đìa tấm thương. (Phong dao 35) Đêm qua anh nhớ đến mình Nhớ câu ứ hự nhớ tình chơi vơi Ra sân bắc ghế kêu Trời 27
  33. Ở dưới hạ giới có người tương tư Bây giờ anh gặp mình đây Bên kia thời núi, bên này thời sông Sông kia núi nọ hợp đồng Sao cho nên vợ nên chồng hỡi em!. (Phong dao) Những vần thơ nhẹ nhàng, phất qua như gió, những câu ca có duyên, những đoạn phong dao mộc mạc Thi sĩ Tản Đà khéo léo biến những bài thơ, câu thơ trở nên trong trẻo, tự nhiên. Trong quá trình sáng tác, tiếp thu hệ thống ngôn ngữ cổ, Tản Đà vẫn sử dụng những từ ngữ Hán - Việt cũ, điển tích hoặc từ ngữ mang sắc thái cổ: “xương mai”, “tóc mây”, “tuyết sương”, “bể dâu”, “dâu bể”, “trăm năm”, “hạt châu”, “thân nam tử”, “chí tang bồng”, “cánh hồng” Bảy thước thân nam tử Bốn bể chí tang bồng Đường mây chưa bổng cánh bồng Tiêu ma tuế nguyệt ngại ngùng tu mi (Cảm thu, tiễn thu) Xương mai một nắm hao gầy Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương Trời tây ngả bóng tà dương Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha. (Thề non nước) Lớp từ ngữ giàu tính chất ước lệ tượng trưng làm cho thơ Tản Đà mang màu sắc trang trọng của văn chương. Đặc biệt, trong thơ Tản Đà, ta thấy một hệ thống ngôn từ cũ với những lối diễn đạt ước lệ đã trở nên hết sức quen thuộc như: non xanh nước biếc, 28
  34. con tằm, mối tơ, ruột tằm, tủi liễu oan đào, tử biệt sinh ly, gầy ba đông, vóc xương mai, đầu xanh, phận bạc, lụy ngọc, hạt châu Lớp từ ngữ này khiến thơ Tản Đà mang màu sắc trang trọng nhưng cũng ít nhiều tạo ra sự nhàm chán, sáo mòn: Ứa bốn bể đôi hàng lụy ngọc Gầy ba đông một vóc xương mai. (Thư lại trách người tình nhân không quen biết ) Trần ai mặc những ai đâu Ai thương tử biệt ai sầu sinh ly. (Nói chuyện với bóng ) Ruột tằm dù héo chưa mòn Tơ lòng một mối xin còn vấn vương. (Qua cầu Hàm Rồng hứng bút ) Tóm lại, sự đan xen giữa ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng với ngôn ngữ đời thường, khẩu ngữ đã minh chứng cho sự cách tân, “phá cách vứt điệu luật” trong thơ Tản Đà. Ông đã thổi vào đó không khí mới mẻ buổi đầu trong khi thơ ca vẫn im lìm trong phạm trù văn học trung đại. Chính Tản Đà đã báo hiệu và tạo tiêu đề cho thơ ca, đặc biệt là phong trào Thơ mới giai đoạn 1932- 1945 sau này. 2.2.2. Sử dụng đại từ nhân xưng Vốn từ thuộc một ngôn ngữ nào đó bao giờ cũng là của chung của dân tộc sử dụng ngôn ngữ ấy. Nhưng mỗi một từ nằm trong kho từ vựng chung khi đi vào từng trang thơ, trang văn của mỗi tác giả có tài đều mang đậm dấu ấn riêng của phong cách và cá tính sáng tạo của tác giả ấy. Tản Đà là thi sĩ tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc. Đặc biệt, ông vận dụng khéo léo, sáng tạo các đại từ ai, tớ trong hầu hết các thể loại ca dao. 29
  35. “Ai” là một đại từ phiếm chỉ vừa dùng để làm từ hỏi, vừa dùng để chỉ những đối tượng xác định và không xác định, có khi dùng để chỉ bản thân người nói. Cũng như ca dao, Tản Đà sử dụng từ “ai” với nhiều ý nghĩa, rất nhiều biểu hiện. “Ai” là chủ, “ai” cũng là khách, “ai” là một nghi vấn, “ai” cũng để biểu đạt sắc thái mơ hồ trong cảm xúc. Trước hết, đại từ “ai” được sử dụng với vai trò là đại từ phiếm chỉ, chỉ một đối tượng nào đó, có thể là để chỉ người yêu, hướng tới người yêu, Tản Đà dùng để gọi người tri kỷ, người yêu hay thổ lộ nỗi nhớ nhung, niềm trách móc của mình : Nhớ ai cành khế ngọn đèo Nhớ ai mây sớm mưa chiều đâu xa. (Nhớ ai ) Đại từ “ai” một mặt làm cho giọng thơ Tản Đà nhuốm màu sắc dân gian, gợi cái nhẹ nhàng, man mác của ca dao, dân ca, mặt khác, nó tạo nên giọng giãi bày tâm tình. Tản Đà luôn muốn tâm sự với một người nào đó nhưng đối tượng tâm tình trở nên mơ hồ, xa xôi: Ai làm cho cuốc kêu hè Kêu đêm nghe chán lại nghe kêu ngày Chim hồng chắp cánh bay cao Nắng mưa thui thủi thương mày cuốc ơi. (Phong dao) Phải chăng đó chính là nỗi buồn, nỗi khát vọng cả một thế hệ con người đang đi tìm một cái mới chưa tới trong khi cái cũ đã tàn phai. Đó là một sự chờ đợi khắc khoải. Thứ hai, đại từ "ai" còn để diễn tả tình cảm cá nhân, cốt cách phong tình của nhà thơ. Đó là những câu thơ mang giọng điệu thác ngụ tâm sự yêu nước sâu kín của Tản Đà: 30
  36. Ai làm Nam, Bắc phân kỳ Xót xa hàng lệ đầm đìa tấm thương! (Phong dao ) Ông cha ta chỉ để lại từ “ai” trong vốn từ dân tộc. Nhưng với một nghệ sĩ tài hoa như Tản Đà, nhà thơ đã tìm thấy những ý nghĩa biểu hiện phong phú cùng những âm vang bất tận của nó. Ông có nhiều câu thơ sử dụng điệp từ “ai” nhưng người đọc vẫn phân biệt được ý nghĩa và giá trị biểu cảm khác nhau của mỗi từ “ai” do nhà thơ khéo đặt chúng vào đúng vị trí, chức năng như thể một vị tướng khéo điều binh vậy. Với ý nghĩa nghi vấn, ở đây, đại từ “ai” được đặt ở các vị trí khác nhau, từ “ai” có thể đứng ở đầu câu hoặc cuối câu: Ai xui ta nhớ Hàm Rồng Muốn trông chẳng thấy cho lòng khôn nguôi. (Nhớ cảnh cầu Hàm Rồng ) Sông Đà, núi Tản ai hun đúc? Bút thánh câu thần sớm vãi vung. (Tự trào ) Khi đứng ở cuối câu, đại từ “ai” có thể là lời tự vấn, lời than thở hoặc lời bộc bạch, thổ lộ giãi bày: Mả xanh còn dấu còn căm Suối vàng lạnh lẽo, cô nằm với ai?. (Tế chiêu Quân) Hồ giấy bây giờ mua kiếm khó Non sông ai hỡi đợi chờ ai?. (Địa đồ rách thứ ba) Bên cạnh đại từ “ai”, còn có đại từ “tớ” xuất hiện nhiều trong thơ ông. Con người với đời sống tình cảm phong phú được ông giãi bày một cách thành thực, thậm chí là tự trào về cuộc đời của chính mình: 31
  37. Người ta hơn tớ cái phong lưu Tớ cũng hơn ai cái sự nghèo. (Sự nghèo) Tản Đà sử dụng đại từ “tớ” ở đây bộc lộ sự hài hước, tự trào, nghèo vẫn hơn người. Với đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất: “tớ”, giọng điệu lời nói giúp Tản Đà bộc lộ rõ ràng, dứt khoát lập trường, tư tưởng, tình cảm của mình. Đó cũng là tiếng cười hài hước mà chua xót. Tản Đà rất tự nhiên khi để lộ nỗi bi quan yếm thế không gay gắt, nhưng nhè nhẹ và thâm trầm: Như tớ xưa nay vốn vẫn nghèo Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu. (Lo văn ế) Đó còn là sự thể hiện chân thực về nhu cầu của một cuộc sống thực, sống cho bản thân mình, được ăn chơi, hưởng thụ một cách tự nhiên: Tớ muốn chơi cho thật mãn đời Đời chưa thật mãn, tớ chưa thôi Chẳng hay đời tớ lâu hay chóng? Dù chóng hay lâu tớ hãy chơi. (Còn chơi) Tản Đà có lối vào thơ thật tự nhiên để thể hiện tình cảm của mình cũng rất đỗi tự nhiên: Ngồi buồn đâm nhớ chị hàng cau Khoảng mấy năm trời ở những đâu? Khăn vải chùm hum lâu vắng mặt Chiếu buồm che giữ có tươi màu? Ai đương độ ấy lăm răm mắt Tớ đã ngày nay lún phún râu. 32
  38. (Nhớ chị hàng cau) Có thể thấy rằng, điều khiến Tản Đà gần độc giả hôm nay hơn chính là sự vận dụng kho tàng ca dao, dân ca, tục ngữ của dân tộc vào sáng tác văn chương. Và các đại từ “ai”, “tớ” được Tản Đà sử dụng vô cùng khéo léo và linh hoạt, góp phần đắc lực trong việc truyền tải nội dung và cảm xúc trong thơ ông. Tản Đà đã thể hiện tài năng của mình trong việc khai thác triệt để sự đa nghĩa của tiếng Việt qua các đại từ phiếm chỉ ấy khiến thơ ca ông mang giá trị sâu sắc và hàm chứa những tâm tư tình cảm sâu đậm. 2.2.3. Kết cấu Theo giáo trình Lí luận văn học, tác giả Lê Lưu Oanh cho rằng: Kết cấu là một phương diện cơ bản của sáng tác nghệ thuật. Kết cấu là sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố trong tác phẩm để tạo dựng được thế giới hình tượng giàu ý nghĩa thẩm mĩ, có khả năng khái quát đời sống, thể hiện tư tưởng của nhà văn [134, 11]. Bàn về khái niệm kết cấu, trong giáo trình Lí luận văn học, GS Trần Đình Sử cho rằng: Kết cấu là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu tác phẩm không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và tư tưởng trong tác phẩm [153, 12]. Cần có sự phân biệt giữa kết cấu và bố cục. Bố cục là sự sắp xếp các phần, các chương, các đoạn, các khổ thơ Ðây chỉ là sự tổ chức hình thức bên ngoài của tác phẩm. Nói cách khác bố cục mới chỉ là kết cấu bề mặt của tác phẩm. Thuật ngữ kết cấu rộng và phức tạp hơn nhiều. Bên cạnh việc tổ chức, sắp xếp các yếu tố của tác phẩm, kết cấu còn bao hàm sự liên kết bên trong, những mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố thuộc về nội dung và hình thức của tác phẩm, trong đó có cả yếu tố của bố cục. 33
  39. Kết cấu là yếu tố tất yếu của mọi tác phẩm. Chính vì vậy kết cấu có vai trò và chức năng rất quan trọng trong tác phẩm văn học. Vai trò chính của kết cấu là tổ chức các yếu tố thành một chỉnh thể nghệ thuật. Điều này không nghĩa là nhà văn tạo ra các yếu tố trước rồi lắp ráp kết cấu vào mà sự sáng tác văn chương có sự kết hợp nhuần nhuyễn ,chặt chẽ giữa yếu tố nội dung và kết cấu. Bên cạnh đó, kết cấu còn làm cho tác phẩm tăng cường tính nghệ thuật của tác phẩm, cũng như sâu sắc hơn về tình cảm, tư tưởng, nội dung được bộc lộ trong tác phẩm. Xây dựng kết cấu trong tác phẩm trữ tình là sự tổ chức hệ thống cảm xúc, tâm trạng trong quá trình vận động và phát triển của chúng. Một kết cấu tốt trong tác phẩm trữ tình phải liên kết được các mạch thơ, dòng thơ, các biện pháp biểu hiện nhằm thể hiện tốt nhất sự vận động cảm xúc nội tâm của nhân vật. Có rất nhiều các thủ pháp kết cấu như: kết cấu đầu cuối tương ứng, kết cấu đối lập, kết cấu trùng điệp, kết cấu không gian, kết cấu thời gian, kết cấu điểm nhìn, kết cấu theo dạng câu chuyện kể, Qua quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy hai thủ pháp kết cấu tiêu biểu được Tản Đà sử dụng trong thơ của mình đó là kết cấu trùng điệp và kết cấu theo dạng câu chuyện kể. 2.2.3.1. Kết cấu trùng điệp Kết cấu trùng điệp là lối kết cấu mà ở đó có một chi tiết, một hình ảnh hay một sự kiện được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm. Kiểu kết cấu này đã được rất nhiều nhà thơ sử dụng trong các sáng tác của mình. Như trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu với giọng điệu “ân tình” đằm thắm: Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. 34
  40. Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?. Hay ta cũng sẽ gặp kiểu kết cấu này trong bài Trên dòng Hương Giang của Tố Hữu có đoạn mở đầu như sau: Trên dòng Hương Giang Em buông mái chèo Trời trong veo Nước trong veo Em buông mái chèo Trên dòng Hương Giang Trên dòng Hương Giang Trăng lên trăng đứng trăng tàn Đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng Đoạn mở đầu này có một kết cấu tương tự như một đoạn mở đầu bài Cảm thu, tiễn thu của Tản Đà: Từ vào thu đến nay Gió thu hiu hắt Sương thu lạnh Trăng thu bạch Khói thu xây thành Lá thu rơi rụng đầu ghềnh Sông thu đưa lá bao ngành biệt li Tuy nhiên, kiểu kết cấu trùng điệp được Tản Đà sử dụng thành công nhất trong bài Thề non nước. Kiểu kết cấu này được Tản Đà sử dụng rất linh hoạt, diễn tả một cách sâu sắc nội dung của bài thơ. 35
  41. Ghép núi Tản, sông Đà làm bút danh để trước tác cả một đời trên cõi trần ai này, dường như trong Tản Đà đã có Thề non nước. Ông đã tự tìm đến cái bút hiệu thuộc về non nước này, hay nước non đã tự tìm đến thi sĩ như một hẹn hò, một duyên nghiệp? Thật khó mà nói cho cùng. Chỉ biết rằng nước - non đã thực sự là một ám ảnh lớn trong suốt cả đời văn của thi sĩ. Bất cứ người đọc Tản Đà cũng có thể thấy hình tượng non - nước trở đi trở lại trong văn chương của thi sĩ như một mạch nguồn cuốn tuôn chảy khi thì chứa chan ào ạt, khi thì âm thầm len lấn vào biết bao thi đề, thi tứ, thi cảm của thi nhân. Mạch nguồn ấy cũng đã đem về cho Tản Đà nhiều áng thi ca hào hoa phong nhã, thanh tú. Bài thơ Thề non nước là một kiệt tác của Tản Đà. Bài thơ nằm trong truyện ngắn cùng tên, được Tản Đà sáng tác năm 1921. Cô đào Vân Anh và một du tử - hai nhân vật trong truyện, ngồi uống rượu, cùng nối lời nhau, làm thơ vịnh bức tranh sơn thuỷ - bức cổ hoạ - có 3 chữ triện, chữ Nôm “Thề Non nước” mà thành bài thơ này. Bức cổ hoạ chỉ có một dãy núi, không có vẽ sông nước, dưới chân núi có một ngàn dâu gợi cảnh tang thương biến đổi. Bài thơ viết bằng thể thơ lục bát, gồm hai mươi hai câu thơ. Bốn câu đầu là lời vịnh của du khách, 10 câu tiếp theo của cô đào Vân Anh, sáu câu nối tiếp lại là lời của du khách, hai câu cuối là tiếng thơ của Vân Anh. Qua việc vịnh bức tranh sơn thủy, bài Thề non nước đã gián tiếp ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên cùng một mối tình thủy chung của lứa đôi, đồng thời gửi gắm một tình yêu nước thầm kín và sâu nặng. Các từ “non”, “nước” trong bài có sự lặp lại không chỉ làm cho người đọc dễ hiểu, dễ nhớ mà đó còn là một cách thể hiện vừa bóng gió, kín đáo, lại vừa rõ ràng, trực diện, nêu lên chủ đề đất nước, nhưng đồng thời nhà thơ biết tự mình vượt lên nỗi đau buồn lớn lao để hy vọng và làm cho người khác hy vọng của nhà thơ. Đó là lời thề rất sâu nặng, đem cả trái tim để nguyện thề: 36
  42. Nước non nặng một lời thề, Nước đi, đi mãi không về cùng non Nhớ lời nguyện ước thề non Nước đi chưa lại, non còn đứng không Hay hàng loạt các hình ảnh như “suối khô dòng lệ”, “xương mai một nắm”, “tóc mây” ở đoạn thơ trước là hàng loạt các hình ảnh đẹp của thiên nhiên. Thế nhưng đó chính là sự hao mòn của non khi chờ núi. Nỗi nhớ, niềm thương, sự mong đợi khiến cho dáng hình của non hao gầy, tàn úa. Thế nhưng non vẫn chưa già mà có già thì non vẫn cứ mong chờ nước quay về. Non cao tuổi vẫn chưa già Non thời nhớ nước, nước mà quên non! Dù cho sông cạn đá mòn Còn non còn nước hãy còn thề xưa Giọng điệu dứt khoát, khẳng định dù thời gian có làm cho non vàng úa phôi pha thì non vẫn cứ tình chung với nước, mãi mãi đợi chờ trong mong ngóng. Đồng thời qua đó nhà thơ muốn kín đáo gửi gắm tâm sự của mình là khao khát hồn nước sẽ sống lại, chủ quyền sẽ trở về với non sông Tổ quốc. Đoạn thơ tiếp theo chúng ta mới hiểu được nỗi lòng mà nước trao cho non. Dù nước có đi nhưng vẫn để lại lời nhắn nhủ: Non cao đã biết hay chưa? Nước đi ra bể lại mưa về nguồn Nước non hội ngộ còn luôn Bảo cho non chớ có buồn làm chi! Nước kia dù hãy còn đi Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui Nước như hỏi non nhưng lại chính là đang nhắn nhủ, an ủi non. Nước không đi mãi bỏ non một mình mà nước có ra bể lớn thì cùng lại mưa về nguồn thôi. Khi ấy nước non sẽ hội ngộ, nước dẫu hãy còn đi nhưng nước 37
  43. chắc chắn sẽ trở về. Vậy nên, non không nên buồn làm chi. Những lời nói ấy như an ủi động viên non và thể hiện tình cảm sắc son của mình. Đồng thời tác giả bộc lộ niềm tin về một tương lai không xa đất nước sẽ được tự do. Từ “non, nước” được liên tiếp lặp lại ở những vị trí khác nhau, ngày càng gần lại, ban đầu còn cách biệt câu trên câu dưới, còn song đôi nhưng chưa gặp gỡ thì sau đã đi liền nhau như tái hợp, sum vầy. Ta thấy từ trong mỗi câu thơ lóe lên những tia hi vọng tươi sáng, hợp thành một niềm tin chắc chắn vào một ngày sum họp gần kề. Tản Đà đã rất hữu ý khi sắp xếp từng câu chữ. Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ với sự khẳng định tình cảm đẹp đẽ của non và nước: Nghìn năm giao ước kết đôi Non non nước nước không nguôi lời thề. Con số nghìn năm là một khoảng thời gian rất dài mà thời gian luôn làm cho mọi thứ phôi pha, nhạt nhòa và thay đổi. Thế nhưng, với non và nước thì nghìn năm chỉ là con số bình thường, lời thề nguyền vẫn cứ được giữ nguyên không bao giờ tan biến. Thề non nước là “bài thơ tuyệt tác” như thi sĩ Lưu Trọng Lư đã ngợi ca. Một bài thơ đa nghĩa, có chuyện vịnh cảnh, có màu sắc phong tình tài hoa, và còn có tấm lòng thiết tha gắn bó của thi sĩ với Tổ quốc giang sơn trong cảnh ngộ mất chủ quyền. Tản Đà không đủ dũng khí công khai tình cảm yêu nước trực diện mà ông lấy hình tượng non - nước để nói về tình yêu đất nước của mình. Có thể nhất thời non - nước bị chia cắt nhưng Tản Đà vẫn hi vọng, tin tưởng tương lai nước non sẽ đoàn tụ, hội ngộ. Sắc điệu trữ tình thiết tha của Thề non nước mãi mãi hòa quyện hồn người và hồn nước thiêng liêng. Cái hay của bài thơ là ở ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ điêu luyện của Tản Đà, cũng là ở tấm lòng ưu ái của ông với đất nước. 2.2.3.2. Kết cấu theo dạng câu chuyện kể 38
  44. Kết cấu theo dạng câu chuyện kể trong thơ Tản Đà được thể hiện rõ nhất trong bài Hầu Trời. Hầu Trời là một bài thơ thuộc thơ tự sự - trữ tình: có cốt truyện, mở đầu, phát triển, kết thúc, có các nhân vật tình tiết nhưng được kể bằng thơ xen cảm xúc trữ tình. Có thể tóm tắt nội dung bài thơ như sau : Đêm khuya thanh vắng, thi sĩ buồn nên đun nước pha trà uống rồi cất tiếng ngâm văn. Hai tiên nữ xuống truyền lệnh Trời đòi thi sĩ lên hầu chuyện. Thi sĩ được đón tiếp trọng vọng, được mời đọc văn. Trời và chư tiên hết lời khen ngợi, tán thưởng. Trời truyền hỏi danh tính, thi sĩ kể lể tình cảnh khốn khó của kẻ theo đuổi nghề văn dưới hạ giới. Trời an ủi, khuyên nhủ, thi sĩ cảm kích lạy tạ ra về. Cuối cùng là cuộc chia tay đầy xúc động của thi sĩ với Trời và chư tiên. Bài thơ Hầu Trời gây ấn tượng sâu sắc với người đọc bằng cách vào đề, cách dẫn dắt khá bất ngờ và thú vị, cuốn hút người đọc vào câu chuyện mà tác giả sắp kể: Đêm qua chẳng biết có hay không Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể Thật được lên tiên - sướng lạ lùng. Chính tác giả là chủ thể của giấc mơ cũng không dám khẳng định là giấc mơ đó có hay không, thực hay hư ảo. Nhưng ở các câu thơ tiếp theo với việc dùng ngữ điệu mãnh mẽ như để khẳng định yếu tố thực của giấc mơ. Từ “thật” được lặp lại bốn lần cũng như để nhấn mạnh sự thật của các chi tiết, hình ảnh trong giấc mơ. Ở những khổ thơ tiếp theo, tác giả kể về lí do được lên hầu trời của mình: Nguyên lúc canh ba nằm một mình Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh 39
  45. Nằm buồn, ngồi dậy đun ấm nước Uống xong ấm nước, ngồi ngâm văn. . Vào trông thấy Trời, sụp xuống lạy Trời sai tiên nữ dắt lôi dậy Ghế bành như tuyết vân như mây Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy. Câu chuyện hoàn toàn hư cấu mà giống như một câu chuyện có thật vì có đủ tình huống, không gian, thời gian diễn ra sự việc và tác giả là nhân vật chính. Tác giả giải thích lí do của buổi hầu trời là do tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà khiến Trời mất ngủ. Trời bèn sai tiên nữ xuống gọi thi sĩ lên đọc văn cho Trời nghe. Lí do của buổi hầu trời mà tác giả đưa ra như một khẳng định rằng: Tản Đà ý thức được cái tài của mình, đã khẳng định bản ngã cái tôi phóng túng, ý thức tài năng giá trị của mình giữa cuộc đời. Trước Tản Đà các nhà nho tài tử đều hết thảy thị tài nhưng chữ tài mà họ nói tới nhiều khi mang một nội hàm khá rộng. Họ không dám nói đến cái hay, cái “tuyệt” của thơ mình, hơn nữa, lại nói trước mặt Trời. Rõ ràng ý thức cá nhân ở nhà thơ đã phát triển rất cao độ. Chính vì vậy mà đến Trời cũng phải tán thưởng: Trời lại phê cho: văn thật tuyệt! Văn trần được thế có ít Nhời văn chau chuốt đẹp như sao băng Khí văn hùng mạnh như mây chuyển! Êm như gió thoảng tinh như sương! Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!. Đây là đoạn thơ thú vị, độc đáo nhất trong bài. Tác giả cố tình mượn lời Trời để ca ngợi thơ văn mình. Rõ ràng ý thức về “cái tôi” cá nhân của Tản Đà rất cao và thi sĩ không hề vô lí khi tự khen mình đến thế : Văn đã giàu thay lại 40
  46. lắm lối. Cái hay, cái đẹp trong thơ văn Tản Đà được chính tác giả đem so sánh với vẻ đẹp tuyệt vời của các hiện tượng, sự vật trong vũ trụ như: sao băng, mây, gió, sương, tuyết Thái độ của tác giả tỏ ra rất tự hào, kiêu hãnh về tài năng văn chương của mình. Đây chính là cái “ngông” của thi sĩ, tự khẳng định một cách rất “ngông”, rất Tản Đà: Thiên tào tra sổ xét vừa xong, Đệ sổ lên trình Thượng Đế trông: Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu Đày xuống hạ giới về tội ngông. Cái ngông ở đây được nói đến là ngông dựa trên khả năng mình có, nghĩa là chỉ những người tài năng, tự tin bởi cái tài của mình, tự tin để khẳng định nó với đời mới là cái ngông được người đời chấp nhận. Khi nghe Thiên tào bẩm báo xong, Trời mới phán rằng đó không phải là Trời đày mà là nhờ làm việc “thiên lương” của nhân loại. Thấy Trời phán vậy, thi sĩ liền trình bày một mạch nỗi khổ của bản thân và những khó khăn của nghề kiếm sống bằng ngòi bút: Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó Trần gian thước đất cũng không có Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều Vốn liếng còn một bụng văn đó. Giấy người mực người thuê người in Mướn cửa hàng người bán phường phố. Văn chương hạ giới rẻ như bèo Kiếm được đồng lãi thực rất khó. Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu. Lo ăn lo mặc hết ngày tháng 41
  47. Học ngày một kém tuổi ngày cao Sức trong non yếu ngoài chen rấp Một cây che chống bốn năm chiều. Trời lại sai con việc nặng quá Biết làm có được mà dám theo. Đoạn thơ này là một bức tranh hiện thực được vẽ bằng bút pháp tả chân thực, tỉ mỉ và rất cụ thể, phản ánh chính xác đời sống cùng cực của tầng lớp văn nghệ sĩ và tình hình lộn xộn của thị trường văn chương thời ấy. Cảm xúc ở đoạn thơ khi thi sĩ đọc thơ cho Trời nghe hứng khởi bao nhiêu thì đoạn này lại ngậm ngùi, chua xót bấy nhiêu. Giấc mơ hầu trời như sự biểu hiện tha thiết, mãnh liệt của khát khao được thể hiện tài năng của thi sĩ. Dường như Trời cũng thấu hiểu được tình cảnh của thi sĩ nên khuyên nhủ: Rằng: Con không nói Trời đã biết Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết Thôi con cứ về mà làm ăn Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết. Đúng theo kết cấu của một câu chuyện, đã có mở đầu thì bao giờ cũng có kết thúc. Tiếng gà gáy xao xác, tiếng người dậy báo hiệu đã hết đêm. Cuộc chia tay giữa thi sĩ với Trời và các chư tiên diễn ra trong niềm xúc động: Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi Trông xuống trần gian vạn dặm khơi Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống Theo đường không khí về trần ai. Thi sĩ đã tỉnh khỏi giấc mộng nhưng những sự việc diễn ra vẫn còn đầy ấn tượng khiến thi sĩ phải thốt ra như sự tiếc nuối: Một năm ba trăm sáu mươi đêm Sao được mỗi đêm lên hầu Trời. 42
  48. Có thể thấy, giọng kể chuyện trong Hầu Trời mang đậm tính chất hài hước. Ở Hầu Trời cũng như trong nhiều tác phẩm thơ văn khác của Tản Đà, tính chất hài hước, hóm hỉnh không chỉ thể hiện qua tình huống truyện mà còn ở cách kể chuyện, sử dụng ngôn từ. Tính chất khôi hài ở Hầu Trời không chỉ làm cho độc giả, và các tiên nữ nữa, phải mủm mỉm cười mà Trời cũng phải bật cười. Hầu Trời là bài một thơ hay, độc đáo, có nhiều nét mới mẻ về mặt thi pháp, tiêu biểu cho tính chất giao thời giữa cái mới và cái cũ trong nghệ thuật thơ Tản Đà. Qua bài thơ, người đọc có thể nhận ra đôi điều về xu hướng phát triển của thơ ca Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỉ XX. Bằng tài năng của mình, Tản Đà đã rất thành công trong việc sử dụng kiểu kết cấu trùng điệp trong Thề non nước và kiểu kết cấu theo dạng câu chuyện kể trong Hầu Trời. Hai kiểu kết cấu này có tác dụng liên kết được các mạch thơ, dòng thơ nhằm thể hiện tốt nhất sự vận động cảm xúc của nhân vật trữ tình. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà thơ, nhà văn rất nổi tiếng và thuộc nhiều trường phái khác nhau, đặc biệt là Xuân Diệu, Tú Mỡ, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân đã rất khâm phục Tản Đà và coi ông là bậc đàn anh đáng kính đã có công mở ra nhiều “ngã rẽ” cho văn học Việt Nam hiện đại. 43
  49. KẾT LUẬN Nhắc đến Tản Đà, người ta nói đến ông không chỉ với vai trò cầu nối, là "người của hai thế kỉ" mà còn "báo tin xuân" cho phong trào Thơ mới. Tuy không song hành được đến cùng với các nhà Thơ mới, nhưng “nốt nhạc dạo đầu” của bản trường ca thơ Việt Nam hiện đại đã thuộc về Tản Đà. Vinh dự đó thật lớn lao. Nhà nghiên cứu Hoài Thanh - Hoài Chân đã rất có lý khi kính cẩn nghiêng mình “cung chiêu anh hồn Tản Đà” về dự hội tao đàn thơ mới. Là một nhà thơ hoàn toàn dân tộc lại cũng là nhà thơ ươm mầm cho một cuộc cách mạng thi ca chưa từng có trong lịch sử, Tản Đà quả đã giữ một vị trí vinh dự mà không ai có thể thay thế được. Con người Tản Đà tạo nên phong cách thơ mang tính dân tộc, nó phản ánh qua giọng điệu. Đặc biệt, khám phá giọng điệu nghệ thuật trong thơ Tản Đà cho thấy những đóng góp của ông trong quá trình vận động và hiện đại hóa thơ ca dân tộc. Có thể dễ dàng nhận thấy thơ Tản Đà là sự kế thừa những đề tài cũ song đã mang nhiều yếu tố mới, sắc thái mới, hướng vào ngôn ngữ đời sống hàng ngày với những vần thơ trong sáng, giản dị, tự nhiên, thông qua việc sử dụng các đại từ, tổ chức kết cấu Những vần thơ nhẹ nhàng, phất qua như gió, những câu ca có duyên, những đoạn phong dao mộc mạc, thi sĩ Tản Đà làm rất thuần thục, rất trong trẻo như hơi thở tự nhiên của hồn thơ Việt. Ông có một giọng trôi chảy dễ dàng, lẫn với những mặn mà ý nhị. Cái hài hước của ông vừa bóng bẩy, vừa ngộ nghĩnh, điểm một thứ hóm hỉnh nhè nhẹ rất đặc biệt. Trong khi các nhà thơ khác chỉ thiên về một mảng thể loại nào đó thì Tản Đà đã tìm về với hầu hết mọi thể loại thơ ca truyền thống. Tản Đà đã làm 44
  50. cho âm điệu dân tộc trở nên phong phú hơn so với thơ ca trước đó. Ông đã đào sâu và tìm tòi ngôn ngữ thơ ca truyền thống, làm cho nó giàu sức biểu hiện mới. Sáng tạo ra thể thơ mới, giải phóng sự thể hiện cảm xúc, tình cảm, tư tưởng, đối mới kết cấu thơ trữ tình. Tản Đà đã đưa thơ ca Việt Nam thoát khỏi sự tù túng, “ngạt giữa gông cùm” của văn học trung đại. Mặt khác, Tản Đà không ngần ngại lấy chính cuộc đời mình làm đối tượng phản ánh, tạo ra sự đa giọng điệu trong thơ Tản Đà. Thơ Tản Đà là một kết hợp tài tình, nhuần nhuyễn giữa yếu tố truyền thống với hiện đại, vận dụng ngôn ngữ thơ ca cổ điển, thơ ca dân gian và sáng tạo ngôn ngữ mới, với việc tổ chức lời thơ mới. Đó là một thế giới ngôn ngữ sinh động đã tạo nên một giọng thơ mới mẻ. Khi thì mang giọng tâm tình, lúc lại ngông nghênh như thách thức với đời hay mỉa mai, tự cười mình trong những vần thơ tự trào. Chính giọng điệu tràn đầy cảm xúc mới mẻ ấy đã mang đến cho văn học Việt Nam một luồng sinh khí mới những năm đầu thế kỷ XX. Là một nhà thơ dân tộc, đồng thời là người ươm mầm cho một cuộc cách mạng thi ca chưa từng có trong lịch sử. Tản Đà đã giữ một vị trí vinh dự mà không ai có thể thay thế được. 45
  51. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Đình Chú, (1989), Đến với Tản Đà, Văn nghệ số 15, tháng 7. 2. Xuân Diệu, Nguyễn Khắc Xương, (2002), Tuyển tập Tản Đà, NXB Hội nhà văn. 3. Xuân Diệu, ( 2007), Công của thi sĩ Tản Đà - Thơ Tản Đà, tác phẩm và lời bình, NXB Văn học. 4. Tầm Dương, (1963), Một hiện tượng văn học phức tạp - Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Tạp chí văn học. 5. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức, (2000), Văn học Việt Nam (1900 - 1945), NXB Giáo dục. 6. Nguyễn Đăng Điệp, (2003), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học. 7. Dương Quảng Hàm, (2005), Việt Nam văn học sử yếu, NXB Trẻ. 8. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi, (2012), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục. 9. Trần Đình Hượu - Lê Chí Dũng, (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp. 10. Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức, (1999), Các thể thơ ca và sự phát triển của hình thức thơ ca trong văn học Việt Nam, NXB Thành phố Hồ Chí Minh. 11. Lê Lưu Oanh, (2008), Lí luận văn học, NXB Đại học sư phạm Hà Nội. 12. Trần Đình Sử, (2011), Lí luận văn học, NXB Đại học sư phạm. 13. Hoài Thanh - Hoài Chân, (1988), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học. 14. Lê Ngọc Trà, (1990), Lí luận và văn học, NXB Trẻ. 15. Nguyễn Khắc Xương (1989), Vài nét về văn học hiện thực Tản Đà, tạp chí văn học số 3. 16. Nguyễn Khắc Xương (1995), Tản Đà thơ và đời, NXB Văn học. 17. Nguyễn Khắc Xương, (1997), Tản Đà trong lòng thời đại, NXB Hội nhà văn.