Khóa luận Giá trị của thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Giá trị của thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_gia_tri_cua_tho_vinh_su_trong_hong_duc_quoc_am_thi.pdf
Nội dung text: Khóa luận Giá trị của thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== ĐỖ THỊ PHƯƠNG THẢO GIÁ TRỊ THƠ VỊNH SỬ TRONG HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP CỦA LÊ THÁNH TÔNG VÀ HỘI TAO ĐÀN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học Th.S. An Thị Thuý HÀ NỘI - 2017
- LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện khóa luận này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn – trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam và ThS. An Thị Thúy là người hướng dẫn trực tiếp. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và gửi lời cảm ơn trân trọng nhất đến các thầy cô! Hà Nội, ngày 10 tháng 04 năm 2017 Tác giả khóa luận Đỗ Thị Phương Thảo
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan những nội dung trình bày trong khóa luận là kết quả quá trình nghiên cứu của bản thân tôi. Những nội dung này không trùng khớp với kết quả nghiên cứu của người khác. Hà nội, ngày 10 tháng 04 năm 2017 Tác giả khóa luận Đỗ Thị Phương Thảo
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 5. Phương pháp nghiên cứu 5 6. Bố cục của khóa luận 5 NỘI DUNG 6 Chương 1. NHỮNG VẪN ĐỀ CHUNG 6 1.1. Tác giả và tác phẩm 6 1.1.1. Tác giả 6 1.1.2. Tác phẩm 9 1.2. Thơ vịnh sử 12 1.2.1. Khái niệm thơ vịnh sử 12 1.2.2 Thơ vịnh sử trước và sau Hồng Đức quốc âm thi tập 13 Chương 2. GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA THƠ VỊNH SỬ TRONG HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP 18 2.1. Thống kê và phân loại 18 2.2. Thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập nhìn từ phương diện nội dung 19 2.2.1. Thơ vịnh về các nhân vật lịch sử 19 2.2.2. Thơ vịnh về các nhân vật truyền thuyết 30 2.2.3. Thơ vịnh về di tích lịch sử 39
- 2.3. Thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập nhìn từ phương diện nghệ thuật. 42 2.3.1. Thể thơ 42 2.3.2. Giọng điệu 46 2.3.3 Sử dụng điển tích, điển cố 48 KẾT LUẬN 51 TÀI LIỆU THAM KHẢO
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thời đại Hồng Đức không những đánh dấu một giai đoạn cực thịnh trong xã hội phong kiến Việt Nam mà còn ghi lại một mốc lớn trên con đường phát triển của lịch sử văn học dân tộc với sự ra đời của tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập. Tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập do những nhân sĩ của hội Tao Đàn sáng tác dưới sự chủ xướng của vua Lê Thánh Tông. Tuy sáng tác còn nặng lối cung đình tuy nhiên tập thơ đã đem đến cho văn học những vần thơ hết sức thi vị. Có thể thấy ở tập thơ này, về mặt nội dung rất phong phú, có sự kế thừa và tiếp thu những tinh hoa nghệ thuật của thơ Nôm trước đó. Từ trước đến nay đã có nhiều độc giả đón nhận và khai thác tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập không chỉ để hiểu rõ cái hay về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm mà còn tiếp cận tác phẩm như một nguồn tài liệu lịch sử quý giá về một giai đoạn lịch sử dân tộc, có thêm sự hiểu biết về các nhân vật lịch sử của Trung Quốc và của dân tộc ta. Trong tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập đề tài thơ vịnh sử là một đề tài lớn không chỉ trong tác phẩm mà còn của cả văn học trung đại, được gợi ra từ cảm hứng lịch sử của Trung Quốc và Việt Nam. Qua những lời thơ đánh giá và bình luận về một nhân vật hoặc một sự kiện lịch sử đã có độ lùi về thời gian, bằng hình tượng văn học và ngôn ngữ thi ca người đọc sẽ hiểu thêm về quan điểm nhân sinh của các tác giả hội Tao Đàn và đặc biệt với những bài thơ vịnh nhân vật Nam sử ta còn có thêm tình yêu và lòng tự hào đối với dân tộc. Từ trước đến nay tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập được đưa vào giảng dạy ở các trường chuyên nghiệp, tuy nhiên người học hầu như chỉ quan tâm đến thơ vịnh cảnh, vịnh vật mà chưa có sự quan tâm đúng mức đến một đề tài lớn trong tác phẩm đó là thơ vịnh sử. Cộng với đó là khoảng cách thời gian 1
- lịch sử và hạn chế trong việc giới thiệu tài liệu học tập nên người học và độc giả khó khăn về mặt tiếp cận, hơn nữa các tài tiệu nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc khái quát chung mà chưa đi vào những vấn đề cụ thể. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Giá trị thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn” với mong muốn được tìm hiểu, học hỏi tài năng văn chương và nhân cách lịch sử của những nhà thơ thế kỉ thứ XV và hy vọng đề tài sẽ soi sáng một phần quan trọng trong Hồng Đức quốc âm thi tập. Từ đó giúp bạn đọc có những hiểu biết cơ bản về Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn, cũng như giúp cho việc học tập giảng dạy những bài thơ trong Hồng Đức quốc âm thi tập có hiệu quả hơn. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Hồng Đức quốc âm thi tập là tập thơ lớn của Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn ở thế kỉ thứ XV. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về tập thơ nổi tiếng này. Tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu đều dừng lại ở việc phân tích khái quát tập thơ, chứ chưa đi vào từng khía cạnh cụ thể. Riêng với đề tài “Giá trị thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn” thì ít tác giả đề cập đến, nếu có thì các tác giả cũng chỉ nói một cách chung chung mà chưa nói đến những giá trị cụ thể của thơ vịnh sử được thể hiện trong tập thơ. Trong lời giới thiệu về tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập của tác giả Phạm Trọng Điền và tác giả Bùi Văn Nguyên (phiên âm – chú giải – giới thiệu) có viết “ nếu như tình thơ của tác giả chan chứa trước cảnh trí thiên nhiên trong mục (Thiên đạo môn), thì tình thơ của tác giả cũng tha thiết đối với vận mệnh đất nước, cũng tràn đầy tự hào dân tộc trong mục ( Nhân đạo môn ), và các mục khác . Nhưng đọc những vần thơ vịnh sử ta mới thấy ý 2
- kiến trên được diễn ra đầy đủ hơn ” [3, tr21]. Song những ý kiến này chỉ dừng lại ở những nhận xét ban đầu chưa đi vào vấn đề cụ thể. Trong cuốn Văn học trung đại Việt Nam (tập 1) của tác giả Nuyễn Đăng Na (chủ biên), Lã Nhâm Thìn – Định Thị Khang đã phân tích những nội dung cơ bản về nội dung và nghệ thuật của tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập. Trong giáo trình này, các tác giả đã đề cập đến thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập “ Lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc còn thể hiện qua mảng thơ viết về đề tài lịch sử. Có thể nói đây là một trong những mảng thơ đặc sắc nhất của Hồng Đức quốc âm thi tập” [7, tr153] .Tuy nhiên, việc nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc khảo sát chứ chưa thực sự đi sâu phân tích cụ thể giá trị của thơ vịnh sử trong tập thơ. Trên tạp chí Văn học số 8-1997, trong bài Cảm hứng dân tộc và cảm hứng nhân văn qua thơ nôm vịnh sử của Lê Thánh Tông PGS. Bùi Duy Dân đã khẳng định rằng : “Chỉ đến thời Lê Thánh Tông mới xuất hiện lối thơ vịnh Nam sử và viết bằng chữ Nôm của chính nhà vua. Lê Thánh Tông là người đầu tiên dùng chữ Nôm vịnh nhân vật lịch sử dân tộc mở đường cho sự xuất hiện một lối thơ rất độc đáo và rất phong phú về cảm hứng dân tộc, cảm hứng nhân văn trong văn học Trung Đại Việt Nam”. Và "Cái mới của Lê Thánh Tông so với các tác giả khác ở chỗ ông đó biết kết hợp hài hòa hơn tinh thân thần dân tộc và tinh thần Nho giáo, trong việc xác định tiêu chí cái đẹp có tính lịch sử cho thơ vịnh sử. Thơ vịnh sử của ông đầy cảm hứng dân tộc, cảm hứng nhân văn cảm hứng lịch sử, và luôn có khả năng trở thành những bài ca yêu nước và tự hào về nền văn hiến dân tộc" . Nhìn chung, vấn đề về thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn đã được đề cập ở nhiều góc độ khác nhau, hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp. Tuy nhiên, những bài viết đó, chưa đặt thành vấn đề riêng biệt, chưa khảo sát toàn diện hệ thống, mà còn mang tính tản 3
- mạn. Chính vì vậy tiếp thu thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước chúng tôi mạnh dạn tìm hiểu đề tài “Giá trị của thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn”. Hy vọng tìm ra những nét độc đáo, hấp dẫn và khẳng định được giá trị to lớn của tập thơ trên thi đàn văn học dân tộc. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Đề tài hướng tới những mục đích sau - Góp phần tìm hiểu về tác giả Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn - Có được cái nhìn khái quát nhất về thơ vịnh sử trong văn học trung đại Việt Nam, đặc biệt là trong tập thơ Hồng đức quốc âm thi tập. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu - Nêu được những nét khái quát nhất về thơ vịnh sử trong văn học trung đại. - Thấy được giá trị của thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập trên cả hai phương diện nôi dung và nghệ thuật. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Với khuôn khổ của một khóa luận và khả năng làm chủ tư liệu có hạn, đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những bài thơ viết về những nhân vật và sự kiện lịch sử trong cuốn Hồng đức quốc âm thi tập do tác giả Phạm Trọng Điền và Bùi Văn Nguyên phiêm âm, chú giải và giới thiệu. 4.2 Phạm vi nghiên cứu Giới hạn phạm vi nghiên cứu của khóa luận là chỉ tập trung nghiên cứu một khía cạnh của tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập, cụ thể là “giá trị của thơ vịnh sử” được thể hiện trong tập thơ. 4
- 5. Phương pháp nghiên cứu Để khai thác để khai thác được đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp chính sau: - Phương pháp thống kê, phân loại - Phương pháp phân tích, bình giảng - Phương pháp đối chiếu, so sánh - Phương pháp tổng hợp 6. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận gồm hai chương chính. Chương 1. Những vấn đề chung Chương 2. Giá trị nội dung và nghệ thuật của thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn 5
- NỘI DUNG Chương 1 NHỮNG VẪN ĐỀ CHUNG 1.1. Tác giả và tác phẩm 1.1.1. Tác giả Tác giả của tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập là những nhân sĩ thời Hồng Đức mà chủ yếu là những nhân sĩ tập hợp trong hội Tao Đàn. Theo các sách Đại Việt sử kí toàn thư đời Lê, Việt sử thông giám cương mục đời Nguyễn, tháng 11 năm Ất Mão (1495) nhân gặp thời tiết thuận hòa, mùa màng tươi tốt, mọi việc nhàn rỗi, Lê Thánh Tông sáng tác chín khúc ca làm thành Quỳnh uyển cửu ca, tự soạn bài tựa, tự xưng là Tao đàn nguyên súy, chọn hai mươi tám văn thần ứng với hai mươi tám ngôi sao trên trời, phong làm Tao Đàn nhị thập bát tú, và truyền họa lại dung vần chín khúc Quỳnh uyển cửu ca nói trên. Hai mươi tám người đó là Đại nguyên soái: Lê Thánh Tông 1. Thân Nhân Trung, (Yên Ninh – Yên Dũng - Bắc Giang), Đông các đại học sĩ, Phó Nguyên Súy. 2. Đỗ Nhuận, (Kim Anh - Phúc Yên), Đông các đại học sĩ, Phó nguyên súy. 3. Ngô Luân, (Tam Sơn - Từ Sơn - Bắc Ninh), Đông các hiệu thư. 4. Ngô Hoán, (Tượng Đáp - Nam Sách - Hai Dương), Đông các hiệu thư 5. Lưu Hưng Hiếu, (Hà Lương - Quảng Hóa - Hưng Hóa), Hàn lâm viện thị độc tham trưởng viện sự. 6. Nguyễn Xung Xác, (Kim Đôi - Võ Giàng - Bắc Ninh), Hàn lâm viện thi độc tham trưởng viện sự. 7. Nguyễn Quang Bật (Bình Ngô - Gia Bình - Bắc Ninh), Hàn lâm viện thị thư. 6
- 8. Nguyễn Đức Huấn, (Yên Định - Chí Linh - Hải Dương), Hàn lâm viện thị thư. 9. Vũ Dương, (Mạnh Nhuế - Nam Sách - Hải Dương), Hàn lâm viện thị thư. 10. Ngô Thầm, (Tam Sơn - Từ Sơn - Bắc Ninh), Hàn lâm viện thị thư. 11. Ngô Văn Cảnh, (Yên Ninh - Yên Dũng - Bắc Ninh), Hàn lâm viện thì chế. 12. Phạm Trí Kiêm, (An Trang - Lang Tài - Bắc Ninh), Hàn lâm viện thị chế. 13. Lưu Thư Mậu, (Đa Nghi - Vĩnh Bảo - Hải Dương), Hàn lâm viện thị chế. 14. Nguyễn Tôn Miệt, (Vĩnh Phú), Hàn lâm viện hiệu lý. 15. Nguyễn Nhân Bị, (Kim Đôi - Võ Giàng - Bắc Ninh), Hàn lâm viện lý. 16. Ngô Quyền, (Nghiêm Xá – Thường Tín - Sơn Nam - Hà Đông), Hàn lâm viện lý. 17. Nguyễn Bảo Khê, (Lý Hải - Yên Lăng - Sơn Tây), Hàn lâm viện lý. 18. Bùi Phố, (Lê Xá - Kiến Thụy - Kiến An - Hải Dương), Hàn lâm viện lý. 19. Dương Trực Nguyên, (Thượng Phúc - Thường Tín - Hà Đông - Hà Nội), Hàn lâm viện lý. 20. Bùi Phổ, (Lê Xá - Kiến Thụy - Kiến An - Hải Dương), Hàn lâm viện lý. 21. Chu Hoãn, (Hải Dương), Hàn lâm viện lý. 22. Phạm Cẩn Trực, ( Đàm Xá - Gia Lộc - Hải Dương), Hàn lâm viện kiểm thảo. 23. Nguyễn Ích Tốn, (Mậu Hòa - Đan Phượng - Hà Nội), Hàn lâm viện kiểm thảo. 24. Đỗ Thuần Thứ, (Tú Kiều - Khoái Châu - Hưng Yên), Hàn lâm viện kiểm thảo. 25. Phạm Như Huệ, (Thái Bình), Hàn lâm viện kiểm thảo. 7
- 26. Lưu Dịch, (Lãi Xuyên - Kim Thành - Hải Dương), Hàn lâm viện kiểm thảo. 27. Đàm Nhuận Huy, (Hương Mặc - Từ Sơn - Bắc Ninh), Hàn lâm viện kiểm thảo. 28. Phạm Đạo Phú, (Nghĩa Hưng - Sơn Nam - Nam Định), Hàn lâm viện kiểm thảo. 29. Chu Huân, (Ngọc Đô - Võ Giàng - Bắc Ninh), Hàn lâm viện kiểm thảo. Theo sách Thoái thực kí văn còn có thêm hai người nữa gọi là sái phu: Lương Thế Vinh (Cao Hưng - Nghĩa Hưng - Nam Định) và Thái Thuận (Liễu Lâm - Thuận Thàn - Bắc Ninh). Hội viên Tao Đàn thường làm thơ chữ Hán, hoặc quốc âm để xướng họa cùng nhau, hay nói dùng hơn là họa những bài xướng của Lê Thánh Tông. Lê Thánh Tông là người đứng đầu hội Tao Đàn và là người đứng ra thành lập hội. Lê Thánh Tông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442), mất ngày 30/1 năm Đinh Tỵ (1497), có tên là Tư Thành, là con trai út của vua Thái Tông. Thân Mẫu là bà Ngô Thị Ngọc Dao con gái của Thái Bảo Ngô Từ, một trong những công thần khai quốc nhà Lê, người làng Động Bàng, huyện Yên Định (Thanh Hóa). Vua Lê Thánh Tông là vị vua không chỉ có tài trị quốc mà còn là vị vua có tâm hồn thi sĩ, học sĩ Đào Cử đã nói về Lê Thánh Tông một cách hết sức tôn kính như sau: “Từ khi đức vua lên ngôi, trong ngoài đều phục, mưa nắng thuận hòa , dân yên, vật thịnh. Trong khi nhàn rỗi nhà vua thường bỏ hết thú vui như đàn hát, săn bắn, khiến cho sạch lòng, dục ít. Như cây ngay từ gốc, nước trong từ nguồn , biểu hiện ở lời ngâm vịnh. Ngài chỉ phóng bút một lúc chín bài xong ngay. Trước thì vịnh thời tiết thuận năm được mùa . Nghĩa lý thật cao xa, lời lẽ thật mạnh mẽ, thiện ý khuyên răn, chan chứa ở lời, thực là văn dạy người ở bậc đế vương .” [10, 125]. Người 8
- đã cổ súy việc bình thơ và sáng tác thơ, tạo điều kiện cho thơ ca phát triển, trong tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập, Lê Thánh Tông là một tác giả lớn với nhiều bài thơ được xác định do nhà vua sáng tác, đó là những bài xướng về những chủ đề như vịnh năm canh, vịnh tứ thời, vịnh các nhân vật lịch sử Trung Quốc, vịnh các nhân vật lịch sử Việt Nam. Được sự khuyến khích của nhà vua, các nhân sĩ thời Hồng Đức đều hăng say sáng tác thơ, những bài mang tính chất vịnh được xác định là của các văn thân xong rất khó xác định một cách chính xác ai đã viết bài nào. Như vậy, có thể khẳng định tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập là tập hợp những sáng tác của nhiều tác giả, chủ yếu là thành viên của hội Tao Đàn trong đó không thể thiếu vua Lê Thánh Tông, cũng có người không phải là thành viên của hội Tao Đàn, bình thơ và sáng tác thơ dưới sự chủ súy của nhà vua. 1.1.2. Tác phẩm 1.1.2.1 Hoàn cảnh ra đời Văn học là một hiện tượng xã hội vì thế sự hình thành và phát triển của một nền văn học, một dòng văn học hay chỉ đơn thuần là một tác phẩm văn học bao giờ cũng gắn liền với những tiền đề lịch sử - xã hội, văn hóa – văn học nhất định. Sự ra đời của Hồng Đức quốc âm thi tập cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, hòa bình được lập lại, Lê Thái Tổ đã xây dựng một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền dựa trên một cơ sở xã hội khác hẳn thời Trần. Sự nghiệp đó tiếp tục được củng cố về mọi mặt qua các đời vua Thái Tông, Nhân Tông, đặc biệt là vua Thánh Tông. Đến nửa sau thế kỉ thứ XV, nhà nước phong kiến thời Hậu Lê đã đạt tới giai đoạn cực thịnh, là quốc gia cường thịnh nhất khu vực Đông Nam Á lúc bấy giờ. Đây cũng chính là tiền đề quan trọng cho sự phục hưng văn hóa, văn học thế kỉ thứ XV nói chung và nửa sau thế kỉ thứ XV nói riêng. 9
- Công cuộc phục hưng văn hóa thế kỉ thứ XV xuất phát xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử những năm đầu thế kỉ. Có thể khẳng định: công cuộc phục hưng văn hóa thời Hậu Lê được tiến hành đồng bộ qua cánh ứng xử với văn hóa vật chất, chú ý nâng cao văn hóa – tổ chức đời sống xã hội và phát triển mạnh văn hóa giáo dục. Bên cạnh đó, sự phát triển của Nho giáo đã đồng thời khích lệ sự phát triển của văn hóa, văn học Môi trường xã hội ấy là những tiền đề quan trọng cho việc phát triển một nền văn hóa, văn học rực rỡ. Vì thế văn học nửa sau thế kỉ thứ XV đã kế tục xuất sắc những thành tựu văn học của thời đại Lý – Trần, văn học nửa đầu thế kỉ tiếp nối và phát triển dòng thơ Nôm Đường luật với một đội ngũ sáng tác đông đảo, đứng đầu là Lê Thánh Tông. Hồng Đức quốc âm thi tập đã ra đời trong không khí xã hội ấy. Không chỉ có vậy, sự ra đời của Hồng Đức quốc âm thi tập còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của dòng văn học chữ Nôm trước đó. Đặc biệt là tập Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Có thể khẳng định rằng, Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là một cột mốc lớn, ở vị trí hàng đầu của chặng đường phát triển tiếng Việt, là tiền đề quan trọng cho sự ra đời của Hồng Đức quốc âm thi tập, tạo nên một thời đại thơ Nôm phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử văn học tiếng Việt thời trung đại. Đặc biệt, tháng 11 năm Ất Mão (1495) nhân gặp tiết trời thuận hòa, mùa màng tươi tốt, mọi việc nhàn rỗi, Lê Thánh Tông sáng tác chín khúc ca làm thành Quỳnh uyển cửu ca, tự soạn bài tựa, tự xưng là Tao đàn nguyên súy, chọn hai mươi tám văn thần, phong làm Tao đàn nhị thập bát cú, và truyền họa lại đúng vần chín khúc Quỳnh Uyển cửu ca nói trên. Sự ra đời của hội Tao đàn chính là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự ra đời của Hồng Đức quốc âm thi tập. Trên đây là những tiền đề lịch sử - xã hội, văn hóa – văn học đưa đến sự ra đời của Hồng Đức quốc âm thi tập. Hiểu được những tiền đề xuất hiện tác 10
- phẩm này sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn, một cách đánh giá đầy đủ, khoa học và chính xác hơn, tránh được lối áp đặt, giáo điều khi khảo sát, nghiên cứu khi khảo sát văn chương nhất là văn chương cổ. 1.1.2.2. Nội dung chính Về nội dung của tập Hồng Đức quốc âm thi tập, tác giả Phạm Trọng Điền và Bùi Văn Nguyên trong cuốn Hồng Đức quốc âm thi tập cho rằng: “ Đây là tập hợp thơ nhiều tác giả cho nên ý thơ và lời thơ cũng muôn màu muôn vẻ Tuy nhiên, hướng sáng tác vẫn tập trung dưới sự chỉ đạo của nhà vua, từ trật tự đến các chủ đề chung: tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu chính nghĩa, yêu trí óc thông minh, yêu tâm hồn trong sáng, và từ đó toát lên niềm tự hào dân tộc, trong tổ quốc độc lập và thanh bình.” [3, tr 17] Bên cạnh đó, Hồng Đức quốc âm thi tập cũng có nét mô tả đời sống nhân dân trong thôn xóm, trong đồng ruộng mặc dù còn sơ sài nhưng rất quý. Các nhà thơ ở đây đã chú ý đến hình dáng “con trâu”, “đụn củi”, đến “cơm trắng”, “cá tươi” của người bình dân và phần nào thấy được cảnh khổ của những người thuộc lớp dưới. Toàn tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập hiện có 328 bài, chia làm năm phần như sau: 1. Thiên địa môn, gồm 59 bài. 2. Nhân đạo môn, gồm 46 bài. 3. Phong cảnh môn, gồm 66 bài. 4. Phẩm vật môn, gồm 69 bài. 5. Nhàn ngâm chư phẩm, gồm 83 bài. Hồng đức quốc âm thi tập cũng là một tập thơ nhiều tác giả, cho nên nội dung cũng như nghệ thuật có nhiều hình, nhiều vẻ và khi nhận định không thể đánh đồng nhất loạt được. Bên cạnh mặt hạn chế thì tập thơ cũng thể hiện được những mặt tích cực và khả thủ về nội dung cũng như về hình thức ngôn 11
- ngữ văn học. Đồng thời tập thơ cũng phản ánh được một số vấn đề thuộc lĩnh vực đời sống của dân tộc trong thời bấy giờ 1.2. Thơ vịnh sử 1.2.1. Khái niệm thơ vịnh sử Theo Từ điển thuật ngữ văn học “ Thơ vịnh sử là thơ ca vịnh sự kiện và nhân vật lịch sử. Bài thơ vịnh sử nổi tiếng đầu tiên trong lịch sử văn học Trung Quốc là của Ban Cổ đời Hán, viết về sự tích nàng Đề Oanh xin chịu tội thay cha, lấy “ Vịnh sử” làm tên bài thơ. Nhưng thơ vịnh sử có thể bắt đầu sớm hơn từ trong Kinh Thi và Li Tao”. [4, tr320] Theo giáo trình Văn học Việt Nam thế kỉ thứ X đến nửa đầu thế kỉ thứ XVIII: “ Thơ vịnh sử là loại thơ vịnh truyện cũ người xưa “ Làm thơ vịnh sử chủ yếu gửi gắm ý khen chê” trích lời tự tập thơ Việt giám vịnh sử của Đặng Minh Khiêm). Cũng như các thể tài khác, thơ vịnh sử được sáng tác theo những quan niệm truyền thống, trong đó nổi bật là tính chất sùng cổ và tính giáo huấn theo quan niệm chính thống” [6, tr204] Như vậy, khái niệm về thơ vịnh sử đã chỉ cho thấy hai yếu tố căn bản: Thứ nhất là thể loại thơ ca. Thứ hai là đề tài viết về lịch sử. Nói về đề tài lịch sử thì thơ vịnh sử khai tác chất liệu lịch sử ở ba bình diện. 1- Nhân vật lịch sử 2- Sự kiện lịch sử 3- Di tích lịch sử (phong cảnh, địa danh có liên quan đến lịch sử, ghi dấu những sự kiện lịch sử). Các tác giả lấy chất liệu lịch sử ở hai nguồn cơ bản: 1- Truyền thuyết, truyện cổ dân gian Việt Nam và Trung Quốc. 2- Sách sử (dã sử và chính sử), ghi chép lịch sử dân tộc, lịch sử Trung Quốc (Bắc sử và Nam sử). 12
- Dựa vào những bình diện khác nhau trong khai thác chất liệu lịch sử, người ta chia thơ vịnh sử ra làm nhiều loại: vịnh nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử (đối với thơ vịnh nhân vật các tác giả chia làm nhiều loại nhân vật, thí dụ Đặng Minh Khiêm trong Thoát Hiên thi tập phân thành danh thân; danh nho; danh tướng; nữ chúa ) có khi ở dạng vịnh đền miếu, chùa quán nhưng tính chất vịnh sử thường thể hiện rõ ở loại vịnh nhân vật, các tác giả cũng thiên về vịnh nhân vật. Vì là thơ vịnh nên có những đặc điểm khác thơ ca bình thường. Thơ vịnh luôn biểu lộ thái độ, tình cảm của người làm thơ trước đối tượng được đưa ra làm khách thể. Có thể nói, thơ vịnh sử là những áng văn chương nhằm xác định giá trị của nhân vật hoặc sự kiện lịch sử, dưới góc độ một lý tưởng nào đó. Người làm thơ vịnh sử có thể bộc lộ thái độ khen chê, tán thưởng hay phê phán, tự hào, khâm phục trước sự liện lịch sử, trước nhân vật được nhắc tới tùy theo góc nhìn nhận. Việc thống kê và phân tích thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập sẽ cụ thể hóa khái niệm thơ vịnh sử của một thời kì. 1.2.2. Thơ vịnh sử trước và sau Hồng Đức quốc âm thi tập 1.2.2.1. Thơ vịnh sử trước Hồng Đức quốc âm thi tập Dòng văn học Việt Nam được hình thành cùng với sự ra đời của quốc gia phong kiến độc lập đầu tiên đứng đầu là vua Lý Thái Tổ (thế kỷ thứ X). Từ thời Lý, bên cạnh loại văn học chính luận (hịch, chiếu, biểu) đã có văn học hình tượng, điểm xuyết trong những lời truyền đạo, giảng kinh (thường là những bài thơ ngắn theo thể cổ phong) đã có những hình ảnh, liên tưởng thoát ra ngoài ý nghĩa biểu hiện khô khan, khuân sáo. Các nhà sư không chỉ dùng “ngôn từ” cô đọng để minh họa giáo lý nhà Phật, quan niệm thế giới, nhân sinh mà dần dùng thơ để “tỏ chí”, biểu lộ cảm xúc cuộc đời, những bài thơ “ngôn hoài”, “thuật hoài” đã kín đáo bộc lộ cái “bản ngã” “cái riêng” của nhà 13
- sư (đồng thời là thi sĩ) thời Lý. Sự khảng định “chân giá trị” của con người từ chỗ ý thức về sự tồn tại cá nhân (tiểu hồn) trong vũ trụ, (đại hồn) mở rộng dần ra đối tượng khách quan. Thơ ca ngợi những nhân vật của lịch sử (những con người có tác động đến lịch sử, đó không phải là những nhân vật anh hùng trong thần thoại hoặc truyền thuyết, những anh hùng chống ngoại xâm mà chủ yếu là những nhà sư). Thơ thời Lý bị thất truyền nhiều, số còn lại với chúng ta ngày nay bao gồm nhiều loại trong đó có những bài thơ vịnh nhân vật. Như Lý Nhân Tông có bài Tặng Giác Hải thiền sư. Ở thời kì mà Phật giáo đang thịnh hành thì những môn đồ của Thích Ca trở thành thần tượng được cả xã hội tôn thờ. Sự tồn tại của những nhà sư gắn liền với sự tồn tại của một thời kì lịch sử, có ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển của lịch sử. Sang thời Trần (thế kỉ thứ XIV) lối thơ vịnh bằng chữ Hán đã bắt đầu xuất hiện nhưng còn rất ít, số tác phẩm được lưu lại không nhiều, nếu như ở thời Lý đối tượng vịnh là các nhà sư thì đến thời Trần, đối tượng vịnh được mở rộng hơn nhân vật là những anh hùng dân tộc như Hưng Đạo Vương, Trần Nguyên Đán. Những người có công xây dựng văn hiến như Chu Văn An, những nhân vật trong lịch sử Trung Quốc như Hán Cao Tổ, Đường Trúc Tông, Hạng Vũ. Bên cạnh những bài thơ vịnh nhân vật còn có những bài thơ vịnh dấu tích lịch sử (vịnh cảnh có liên quan tới chiến tích), ví dụ như: Hàm Tử Quan (Trần Lâu), Chi Lăng Động (Phạm Sư Mạnh), Bạch Đằng Giang ( Trần Minh Tông) hoặc những địa danh liên quan tới truyền thuyết như Tản Viên Sơn, Vọng Phu Thạch Đầu thế kỉ thứ XV, Lý Tử Thần có bài ca Pháp vân cổ tự kí kể về truyền thuyết Nam Vương được coi là bài thơ vịnh sử (theo Lê Quý Đôn), Nguyễn Trãi cũng có một số bài thơ bằng chữ Hán vịnh di tích lịch sử như Vân Đồn, Bạch Đằng Giang, Đề Kiếm số lượng các bài thơ là quan trọng nhưng quan trọng hơn là ý thức của các tác giả trong sáng tác theo một “kiểu thơ” lấy đề 14
- tài trong lịch sử, nó không bó hẹp ở các dạng viếng, tặng một cách trực tiếp mà vịnh cả nhân vật xa xưa được sử sách ghi chép lưu truyền (thơ Trần Anh Tông). Điểm qua một số thành tựu của văn học trước Hồng Đức quốc âm thi tập để có thể thấy rằng: xu hướng tái hiện sự kiện lịch sử của văn học bằng những hình thức nhất định đã được hình thành từ trước thế kỉ thứ XV thời điểm ra đời của Hồng Đức quốc âm thi tập, lịch sử (qua nhân vật lịch sử) và sự kiện lịch sử trở thành đối tượng (đề tài) của thơ ca. 1.2.2.2. Thơ vịnh sử sau Hồng Đức quốc âm thi tập Từ sau thế kỉ thứ XV, thơ vịnh sử đã phát triển mạnh. Bên cạnh những bài thơ vịnh nhân vật Bắc sử còn chú trọng cả nhân vật Nam sử, nhưng từ sau thế kỉ thứ XV, thơ vịnh sử phát triển là một biểu hiện khuynh hướng cảm thán thời thế của các nhân sĩ trước thực trạng xã hội phong kiến suy vi, thơ vịnh sử tiếp tục chủ nghĩa yêu nước trong văn học ở loại đề tài lịch sử. Sự phát triển của thơ vịnh sử được đánh dấu bằng: Thứ nhất, là những bài thơ vịnh sử có tính chất hệ thống, chuyên đề. Ngay cùng thời với Hồng Đức quốc âm thi tập, Lê Thánh Tông bên cạnh việc khuyến khích các văn thần xướng họa, vịnh nhân vật lịch sử, các sử gia sưu tập sự tích chuyện dân gian để viết bộ sử nước nhà, ông còn sáng tác tập thơ vịnh sử bằng chữ Hán Cổ tâm bách vịnh là tập thơ vịnh sử có hệ thống đầu tiên trong văn học viết Việt Nam. Hầu hết các tác giả thơ văn từ thế kỉ thứ XVI đều có thơ vịnh sử, nhiều tác giả có những tập thơ vịnh sử lớn có ý thức trong sáng tác thơ vịnh sử. Thơ vịnh sử không còn phát triển lác đác, thưa thớt mà đã trở thành một dòng văn học. Các tác giả lớn của dòng thơ vịnh sử thời kì này: Đặng Minh Khiêm với tác phẩm Việt giám vịnh sử gồm 125 bài thơ (ông vịnh các nhân vật nước Nam từ vua chúa, tướng lĩnh đến các văn thần, danh nho, liệt nữ ), Hà Nhiệm Đại với Khiếu vịnh thi tập gồm 106 bài thơ 15
- (vịnh các đề xướng, công thần, gian thần thuộc thời Lê), Lê Quang Bí và Vũ Công Đạo với tác phẩm Tư hương vạn lục (Vịnh các nhân vật Nam sử vừa có tính chất địa phương vừa có tính chất gia tộc, hai ông đã để công trong việc sưu tập truyện kể về thần hoàng ở các làng xã, đền miếu và những con người cụ thể ở địa phương). Ngoài các tác giả với những thi tập lớn còn có những tác giả khác có sáng tác thơ vịnh sử như Phùng Khắc Khoan, Lê Công Triều, Nguyễn Cư Trinh, Ngô Thì Ức, Phạm Lan Anh hàng loạt các tác giả sáng tác thơ vịnh sử, hàng loạt tác phẩm được sáng tác với đề tài vịnh sử đã chứng tỏ sự phát triển của đề tài này từ sau thế kỉ thứ XV khuynh hướng phát triển ấy dẫn đến sự hình thành của loạt diễn ca lịch sử vào thế kỉ thứ XVII. Thứ hai, là đến thế kỉ thứ XVII, về mặt thể loại của thơ ca đã có sự phát triển, không chỉ có thơ cổ phong, thơ hàn luật, Đường luật mà nhu cầu phản ánh cuộc sống, đời sống tình cảm đã thúc đẩy thơ lục bát và song thất lục bát phát triển. Trước khi được sáng tác khúc ngâm và truyện thơ, loại thể này đã được dùng để “viết sử”, người ta đã có những sáng tác “dài hơi” hơn để kể chuyện lịch sử. Ví dụ như Thiên nam ngữ lục xuất hiện vào nửa đầu thế kỉ XVIII với hơn 8000 câu thơ lục bát giống như cuốn biên niên bằng thơ làm sống lại các thời kì lịch sử của dân tộc. Thiên nam ngữ lục đánh đấu thành tựu lớn của thể loại lịch sử - văn học không phải ở trữ lượng sự kiện lịch sử được phản ánh mà đáng kể nhất là ngôn ngữ Nôm tiếp tục phát huy được vai trò của nó trong việc tái hiện lịch sử. Thơ vịnh sử Nôm bắt đầu từ Hồng Đức quốc âm thi tập nhưng đến thế kỉ thứ XVII các nhà thơ ít sử dụng chữ Nôm trong thơ vịnh sử (phần lớn các bài thơ vịnh sử được viết bằng chữ Hán). Tiếp sau Thiên Nam ngữ lục nửa cuối thế kỉ XVII, tập diễn ca lịch sử Thiên Nam minh giám ra đời với 936 câu thơ song thất lục bát tái hiện lịch sử dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà bên cạnh những bộ sử kí (chính sử) đồ sộ lại có những truyện thơ về lịch sử, truyện thơ lịch sử (diễn ca lịch sử) không 16
- những tái hiện lịch sử mà còn tái tạo lịch sử bằng hình tượng lịch sử. Nó cung cấp không chỉ những cứ liệu lịch sử mà còn đem đến những rung cảm thẩm mỹ đối với nhân vật và sự kiện lịch sử, diễn ca lịch sử tạo ra con đường riêng của nghệ thuật đối với chức năng nhận thức lịch sử và phản ánh lịch sử. Thứ ba, vào thế kỉ thứ XVIII các tác giả tiếp tục sáng tác thơ vịnh sử. Nguyễn Du trong Bắc hành tạp lục đã vịnh các nhân vật Bắc sử (Hàn Tín, Tào Tháo, Dương Quý Phi, Đỗ Phủ ). Thơ vịnh sử của Nguyễn Du thể hiện cái nhìn nhân đạo của ông. Ông thường chú ý “vịnh” số phận bi kịch của con người hơn là những phẩm chất anh hùng. So với thơ vịnh sử của các tác giả khác cùng thời thì thơ vịnh sử của Nguyễn Du có bản sắc riêng. Cuối thế kỉ thứ XVIII, Cao Bá Quát viết khá nhiều thơ vịnh nhân vật Bắc sử và Nam sử. Thơ vịnh sử là nơi ông gửi gắm ý chí, phẩm cách cao khiết của mình. Thơ vịnh sử không chỉ phản ánh lịch sử mà còn là sự thể hiện mình đối với các tác giả từ sau Hồng Đức quốc âm thi tập thơ vịnh sử mang cảm xúc cá nhân rõ rệt hơn. Đó cũng là sự phát triển của thơ vịnh sử qua tài năng sáng tạo của các tác gia văn học viết. Như vậy, cùng với sự phát triển của văn học viết, thơ vịnh sử sau Hồng Đức quốc âm thi tập đã phát triển với một số lượng ngày càng lớn, đặc biệt hơn nữa thời kì này thơ vịnh sử đã lấy chất liệu từ lịch sử Việt Nam. Thơ vịnh sử được sáng tác theo những nguyên tắc nghệ thuật của thơ ca cổ nhưng vấn đề cơ bản là sáng tạo ra những vần thơ mang tâm hồn của dân tộc. Điều đó khiến cho lịch sử được khúc xạ vào nghệ thuật không còn đơn thuần là lịch sử. 17
- Chương 2 GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA THƠ VỊNH SỬ TRONG HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP 2.1. Thống kê và phân loại Sau khi tiến hành khảo sát tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập chúng tôi thấy có 48 bài thơ vịnh sử và được phân loại như sau : 2.1.2. Vịnh về nhân vật STT Nhân vật được đề Số lượng Loại nhân vật được Nhân vật Nhân vật vịnh bài đề vịnh Việt Trung Nam Quốc Nhân vật Nhân vật truyền lịch sử thuyết 1 Ngưu Lang - 3 bài x x Chức Nữ 2 Thánh Gióng 1 bài x x 3 Chử Đồng Tử 1 bài x x 4 Triệu Ân 1 bài x x 5 Trưng Vương 1 bài x x 6 Lý Ông Trọng 1 bài x x 7 Lê Du 1 bài x x 8 Lương Thế Vinh 1 bài x x 9 Nguyễn Trực 1 bài x x 10 Vũ Nương 1 bài x x 11 Mỵ Ê 1 bài x x 12 Lưu Nguyễn 1 bài x x 18
- 13 Vương Chiêu 3 bài x Quân 14 Tô Vũ 2 bài x x 15 Khổng Tử 3 bài x x 16 Quan Vân 6 bài x x Trường 17 Gia Cát Lượng 1 bài x x 18 Triệu Tử Lang 1 bài x x 19 Tào Tháo 1 bài x x 20 Điêu Thuyền 1 bài x x 21 Hán Cao Tổ 1 bài x x 22 Hạng Vũ 1 bài x x 23 Trương Lương 1 bài x x 24 Tiêu Hà 1 bài x x 25 Hàn Tín 1 bài x x 26 Mẹ Vương Bằng 1 bài x x 2.1.2. Vịnh về địa danh lịch sử 1. Bạch Đằng giang 2.2. Thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập nhìn từ phương diện nội dung 2.2.1. Thơ vịnh về các nhân vật lịch sử 2.2.1.1. Khắc họa chân dung anh hùng dân tộc 19
- Thơ vịnh sử bên cạnh gửi gắm tâm trạng chủ quan của tác giả thì chủ yếu là giải quyết những vẫn đề của lịch sử. Khác với những thể loại văn học phản ánh hiện thực lịch sử (tức là những vấn đề lịch sử đang đặt ra, ví dụ trong Hịch, Cáo ), thơ vịnh sử lại đặt nặng những vấn đề suy tư lịch sử. Trước Hồng Đức quốc âm thi tập đã có nhiều bài thơ vịnh sử song đó chủ yếu là thơ vịnh các nhân vật lịch sử Trung Quốc và được viết bằng chữ Hán. Đề tài, chủ đề vịnh sử Nôm chỉ thực sự được khai mở từ Hồng Đức quốc âm thi tập, các nhà thơ Nôm khác ít viết về đề tài chủ đề lịch sử. Vì thế có thể khẳng định Hồng Đức quốc âm thi tập ra đời đánh dấu bước phát triển mới cho thơ vịnh sử Nôm “Do thái độ sùng cổ nhân và mục đích giáo hóa của văn chương, văn học mới có đề tài vịnh sử. Thể tài ấy mới thấy ít bài chữ Hán vịnh các nhân vật Bắc sử thời Trần. Đến Lê Thánh Tông thơ vịnh sử trải qua bước phát triển mới Có ý nghĩa hơn cả là những bài vịnh sử Nôm, tuy chỉ vài chục bài, lại vịnh Bắc sử khá nhiều, nhưng những bài vịnh Nam sử của Lê Thánh Tông và các tác giả thời Hồng Đức đến nay vẫn là cổ kính nhất [10, tr.121]. Trước những cái đã qua, con người được phán xét và khái quát thành quy luật: Lê Thánh Tông và những văn thần thời ông hiểu sự tồn tại của thời đại mình từ những cái bắt đầu như thế nào. Con người Đại Việt từ bao đời đã phát huy ý thức độc lập tự cường, luôn khẳng định mình, luôn đấu tranh để bảo vệ quyền sống trên mảnh đất phương Nam vốn được định bởi “sách trời”. Lê Thánh Tông đã kế tục sự nghiệp dựng nước trên những thành quả đổi bằng xương máu của các thế hệ trước. Vịnh những nhân vật lịch sử Việt Nam (gắn nhân vật với sự kiện lịch sử) chính là “nỗi niềm ưu ái”, sự trân trọng quá khứ dân tộc của các tác giả thời Hồng Đức. Nếu như các bài thơ vịnh nhân vật lịch sử Trung Quốc thể hiện khá rõ tính khuôn mẫu, điền phạm của văn chương nhà Nho (sùng bái cổ nhân với 20
- mục đích triết lý, giáo huấn), thì các bài thơ vịnh các nhân vật lịch sử nước nhà của Lê Thánh Tông và các văn nhân thời Hồng Đức là một đóng góp quan trọng vào tiến trình phát triển của nước nhà, đem đến cho Đường luật Nôm một cảm hứng mới mẻ. Vịnh các nhân vật lịch sử Việt Nam, các tác giả thời Hồng Đức chú ý khai thác vẻ đẹp truyền thống: đề cao những anh hùng vệ quốc và danh nhân văn hóa quốc gia. Đặc biệt, vịnh các nhân vật lịch sử Việt Nam các tác giả tỏ ý thức về sự gắn bó chặt chẽ giữa họ với đất nước, nhân dân, dân tộc và “ Khác với những bài thơ vịnh nhân vật lịch sử Trung Quốc, khi vịnh các nhân vật lịch sử Việt Nam, nhìn chung các tác giả không mang tư tưởng Nho giáo khoác lên người họ. Cảm hứng về đất nước về dân tộc là cảm hứng chủ đạo tạo nên vẻ đẹp của các nhân vật lịch sử Việt Nam trong Hồng Đức quốc âm thi tập” [ 9, tr 104]. Khi xây dựng “tượng đài” bằng thơ về những anh hùng chống ngoại xâm các tác giả thời Hồng Đức thường lấy chất liệu từ truyền thuyết nhằm tô đậm thêm truyền thống dân tộc trong các bài vịnh Nam sử. Bài “Triệu Ân” (Triệu Thị Trinh – thế kỉ thứ VI thời Bắc thuộc) cũng lấy chất liệu từ truyền thuyết. Tác giả chú trọng ngoại hình của nhân vật. Cao một trượng, cả mười vầng Bỏ tóc ngang lung, vú chấm sừng Tư thế bà Triệu lúc xung trận Họp chúng rừng xanh oai nác nức Cỡi đầu voi trắng tiếng vang lừng . Mác dài trỏ vây tan đàn giặc Trong miêu tả ngoại hình có nét phóng đại nhưng không hẳn là những nét dị hình, thần kì. Nữ tướng ra trận cưỡi trên con voi trắng, cầm ngọn giáo chỉ huy quân sĩ đánh đông dẹp bắc, tiếng tăm vang lừng quân Cửu chân. Vẻ đẹp “Oai phong lẫm liệt” của người con gái Việt đã được vịnh qua những chi 21
- tiết cụ thể. Hình ảnh bà Triệu “Đạp cơn gió mạnh, cưỡi cá kình trên biển Đông”, một mình đứng lên khởi nghĩa, không chịu “cam tâm làm tì thiếp cho người” trong bài thơ vịnh của tác giả Hồng Đức không “xa” với hình ảnh bà Triệu trong nhận thức của dân gian. Từ thế giới nhân vật là thần đến bán thần rồi tới con người trần gian bằng da bằng thịt (tuy còn những nét dị hình, dị tướng) cho thấy nhận thức của nhân dân về người anh hùng, về sức mạnh và tài năng của họ đã dần thoát khỏi tính chất hoang đường. Tác giả của những bài thơ vịnh nhân vật anh hùng chống ngoại xâm đã chọn lọc những chi tiết tiêu biểu để khắc họa hình tượng nhân vật. Các nhân sĩ thời Hồng Đức còn tập trung ngòi bút của mình để miêu tả Hai Bà Trưng và cuộc khởi nghĩa oanh liệt của hai Bà, Hồng Đức quốc âm thi tập có bốn câu: Trợ dân dẹp loạn trả thù mình Chị nhủ cùng em cất nghĩa binh Tô Định bay hồn âng một trận Lĩnh Nam mở cõi vững trăm thành (Trưng Vương) Khi nước ta bị phương Bắc đô hộ, tên thái thú Tô Định tham tàn đã giết chết Thi Sách – chồng của Trưng Trắc. Bà căm hận đã cùng em gái chiêu mộ quân sĩ đánh phá quận Giao Chi. Tô Định phải bay hồn trở về Nam Hải. Vì công lao to lớn ấy mà sau này nhân dân đã xây đền thờ Trưng Trắc và tôn là “Nữ trung đệ nhất đấng tài danh”. Một anh hùng dân tộc nữa được các nhân sĩ Hồng đức hết lời ca ngợi là Lý Ông Trọng. Tầm cả tầm cao chín xuất quần Khí thiêng quan nhạc dấu mười phần Phò nam, dẹp bắc tài văn võ 22
- Chắc nước, dời non sức quỷ thần Vòi vọi Thụy hương từ đã đặng, Nhơn nhơn Tư Mã tiếng còn dăn. Chàng Cao, gã Triệu chiêm bao rõ, Càng sợ An Nam có thánh nhân. (Lý Ông Trọng) Trong lịch sử nhân vật Lý Ông Trọng theo giúp vua Tần Thủy Hoàng, nhờ có sức mạnh và tài năng mà chấn động xứ Hung nô. Lý Ông Trọng không tham gia vào kháng chiến dân tộc nhưng vẫn là niềm tự hào của người Việt vì đã có một người anh hùng lừng danh “ngoại quốc”. Lý Ông Trọng là người hùng, là người Đại Việt, thơ vịnh Lý Ông Trọng với ý nghĩa đó. Thơ vịnh Nam sử của các tác giả thời Hồng Đức không chỉ có hình ảnh của các nhân vật lịch sử trong quá khứ mà còn có cả các nhân vật cùng thời với họ như Lương Thế Vinh, Nguyễn Trực Lương Thế Vinh vốn là người thông minh, đỗ trạng nguyên từ năm hai mươi ba tuổi, từng làm quan đến Hàn lâm viện thừa chi, biên soạn nhiều sách giáo khoa về đạo Phật và quển Toán pháp đại thành Vì thế khi ông mất đi đã để lại niềm tiếc thương vô hạn: Khuất ngón tay than tài cái thế Lấy ai làm trọng nước Nam ta! (Điếu cao hương Lương trạng nguyên) Khác với Lương Thế Vinh, Nguyễn Trực lại sinh ra trong một gia đình đời đời theo nghiệp Nho. Ông đỗ trạng nguyên khoa Nhâm Tuất niên hiệu Bảo Đại thứ ba và sau này khi đi xứ Trung Quốc, gặp nhà Minh mở khoa thi ông xin thi và đỗ cao. Tài năng ấy đã được ca ngợi: Đời đời nho tông phát ấp bang Trong đạo đức, có từ chương. 23
- Nối dòng thi lễ nhà truyền báu, Tranh giải khôi nguyên bảng chói vàng. Nam bắc hai triều danh dậy, Phong lưu một cửa họ sang. (Điếu nghĩa – bang trạng nguyên) Thời đại Lê Thánh Tông là thời đại thịnh trị của giai cấp phong kiến. Nhà vua luôn có ý thức củng cố địa vị vững mạnh của vương triều. Do vậy ca ngợi truyền thống, ca ngợi anh hùng dân tộc tức là khẳng định thêm sức mạnh của quốc gia phong kiến. Sự khẳng định không chỉ có giá trị “tự thân” của truyền thống dân tộc mà còn trong so sánh với Bắc triều bấy giờ đang song song tồn tại. Khi vịnh các nhân vật lịch sử Việt Nam, các tác giả thời Hồng Đức đã có ý thức về sự gắn bó chặt chẽ giữa họ với đất nước, nhân dân và dân tộc. Vì thế các nhà nghiên cứu đã khẳng định: “Lê Thánh Tông là một nhà thơ giàu sáng tạo trong một giai đoạn khai sáng thơ Nôm Đường luật. Ông là tác giả vịnh sử Nôm đầu tiên viết về các nhân vật lịch sử nước nhà mở đường cho sự xuất hiện của lối thơ rất độc đáo, rất phong phú và rất giàu bản ngã Lê Thánh Tông, bản ngã Đại Việt tạo nguồn mạch cho thơ vịnh sử Nôm hình thành và phát tiển” [9, tr 104]. 2.2.1.2. Khắc họa các nhân vật lịch sử Trung Hoa Nếu như các bài thơ vịnh Nam sử chủ yếu đề cao vẻ đẹp truyền thống, các nhân vật ít bị chi phối bởi Nho giáo thì các nhân vật lịch sử trong các bài thơ vịnh Bắc sử lại mang nặng tính chất giáo dục của Nho giáo. Các nhân vật Bắc sử được lựa chọn đều không phải ngẫu nhiên mà các nhân vật đó đều mang trong mình một bài học về đạo đức, xã hội. Thế kỉ thứ XV, dưới thời Lê Thánh Tông, Nho giáo đã vươn lên vị trí độc tôn. Về mặt ý thức hệ, giai cấp phong kiến thời Hồng Đức lấy đạo Nho làm rường cột để xây dựng và củng cố chế độ phong kiến tập quyền, tiếp tục 24
- đưa Đại Việt thành quốc gia phong kiến độc lập và hưng thịnh. Thời kì này đạo Nho đã được vận dụng tương đối triệt để cả mặt tích cực lẫn hạn chế của nó. Sự phát triển đến đỉnh cao của vương triều phong kiến cũng là sự phát huy mạnh nhất những yếu tố tích cực của tư tưởng Nho giáo. Thời đại Lê Thánh Tông là thời đại khẳng định của vương quyền. Chế độ phong kiến cực thịnh có sức phong tỏa của nó ở mọi mối quan hệ. Nhưng được đề cao hơn tất cả và chú trọng hơn tất cả là mối quan hệ vua – tôi. Tư tưởng “trung quân” là một đặc trưng tiêu biểu của ý thức hệ phong kiến. Thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập có rất nhiều những điển hình về tấm lòng “trung với vua” hy sinh hết mình về vua. Đó là Tô Vũ (người đất Hán) được vua Hán trao cho lá cờ tiết mao đi sứ Hung nô, bị chúa thuyền Vũ bắt giam trong hang núi bỏ nhịn đói. Tô Vũ phải ăn tuyết và lông thú để sống và sau đó bị đầy đi xứ Bắc để chăn dê 19 năm. Gần 20 năm sống ở đất người, Tô Vũ vẫn một lòng hướng về vua Hán. Đất Hồ sương tuyết gầy mình hạc Đền Hán ngày đêm nhớ mặt rồng (Vịnh Tô Vũ) Mười chín năm trải qua thử thách Tô Vũ đã trở thành một bầy tôi nổi tiếng về lòng trung thành. Nhà Hán đã sai vẽ dung mạo của Tô Vũ để treo gác kì lân như “ gương sáng răn đời”. Hầu như đời vua nào cũng có những tấm gương tiêu biểu về lòng “trung” xả thân cứu chúa, cứu vua. Bộ ba anh hùng thời Đông Hán là Tiêu Hà, Trương Lương và Hàn Tín, những nhân vật hết lòng phụng sự cho vua Cao Hán Tổ. Trương Lương phò vua nhà Hán, khi vua bị nước Tần giết đã theo Lưu Bang đánh Tần đế trả thù cho vua. Việc báo thù này không chỉ sảy ra một lần, vì sự nghiệp nhà Hán, vì sự tồn tại của đế vương Trương Lương sẵn lòng “vào sinh ra ra tử” để làm tròn bổn phận “tôi - trung” của mình. 25
- Hàn Tín thủa hàn vi phải làm nghề câu cá sau được bà Phiếu Mẫu thương hại nhường cơm cho ăn, khi theo Hán Cao Tổ làm nên công trạng, đền ơn vua đi liền với đền ơn người cưu mang mình. Nhưng gánh nặng với vua vẫn là trên tất cả: Nghìn vàng tấc tấc đền ơn mụ Một gánh quằn quằn trả nợ vua (Lại vịnh Hàn Tín) Và hơn tất cả vua cũng là người phán xét, giám định công lao của những người đã xả thân vì “ngai vàng”. Tiêu Hà theo Hán Cao Tổ cầm quân đánh Nam dẹp Bắc, lập nhiều thành tích, kết quả sau cùng người anh hùng ấy “thấm nhuần ơn vua”. Vận Lương trần ải no quân Hán Phần đất phong hầu đôi tước châu (Vịnh Tiêu Hà) Sức hút đối với những người anh hùng là “Thiên tử”. Sở dĩ họ trở thành anh hùng cũng vì họ đã phụng sự hết mình cho sự nghiệp của nhà vua. Các tác giả đã vịnh những nhân vật anh hùng theo tư tưởng chính thống của thời đại: khẳng định chế độ vương quyền đang ở giai đoạn cực thịnh cần và rất cần đến những bề tôi “giác ngộ” lòng trung một cách triệt để. Trung quân là mối quan hệ đầu tiên trong “tam cương” của Nho giáo nhưng không phải là duy nhất. Bên cạnh “Tam cương” còn có “ngũ thường” quy định những con người quan hệ ràng buộc giữa con người và con người trong xã hội. Người anh hùng xét về một mặt nào đó là bề tôi trung thành nhưng cũng là con người với những cương vị khác nhau trong xã hội. Người anh hùng không chỉ khẳng định mình bằng sức mạnh mà con bằng nhân nghĩa trên cơ sở của tình người. Trong thơ vịnh nhân vật Bắc sử có những cặp nhân vật đối lập: thời Tam Quốc có Lưu Bị và Tào Tháo. Cả hai viên tướng lĩnh đều vào hàng kiệt xuất về tài ba, mưu lược nhưng đối lập với Lưu Bị biết 26
- dùng người theo lòng “nhân” đối xử với con người bằng nghĩa, Tào Tháo vì hoài nghi mà trở thành kẻ nhẫn tâm lỡ giết cả những người đã làm ơn cho mình, giết cả những người vô tội. Trái ngược với bản tính xảo trá nanh nọc của Tào, Quan Vân Trường là người nhất mực nhân nghĩa, rất mực trung trực, nhân hậu. Quan Vân Trường đã đem sự trong sạch của mình để thắng mưu mô của địch thù là Tào Tháo. Một con người giàu sức mạnh: Chỉ thanh long tan đất Hứa Giọng xích thố bạt sông Ngô (Lại bài Quan Thánh, 2) Cũng chính là người nhân nghĩa trọn vẹn, trung thành lời thề với Lưu Bị: Mở năm cửa ải trở ra về, Danh chẳng mang bao, lợi chẳng mê. Nợ Tháo đã đành muôn kiếp trả, Nghĩa Lưu hằng chứa một lời thề. (Lại bài Quan Thánh, 3) Khi trong hoàn cảnh éo le, sẵn sàng chấp nhận hy sinh để giữ vẹn tình huynh đệ: Năm canh giong bóng vì hai chị Nghìn dặm pha sương tưởng một anh (Lại vịnh Quan Thánh, số 4) Quan Vân Trường là người hùng “Dốc lòng công nghĩa, vẹn công danh”. So với những nhân vật được vịnh, thì Quan Vân Trường được vịnh khá nhiều (6 bài). Người ta dành tình cảm cho nhân vật này hẳn không phải là không có dụng ý. Một cặp nhân vật đối lập nữa là Lưu Bang (tức Hán Cao Tổ) và Hạng Vũ (Hạng Tịch) – hai anh hùng thời Đông Hán tiếng tăm, uy danh lẫy lừng một thời. Một người thì: 27
- Học thông muôn dịch dám ai đè, Nền bá vương xưa vẫn nhăm nhe. Mười một phen khua Tần lạnh gáy, Bảy mươi trận đã Hán tanh mè. (Vịnh Hạng Vũ) Người kia cũng không kém phần tài ba, dũng mãnh Sục vào núi Trĩ hươu chùn cổ. Đuổi đến sông Ô khỉ ướt đuôi (Vịnh vua Cao Tổ nhà Hán, bài 1) Cất quân nhân nghĩa yên đòi chốn, Lấy đức khoan hòa trị bốn phương. (Vịnh vua Cao Tổ nhà Hán, bài 2) Nhưng Hạng Tịch bị chê không biết dùng người, làm nên sự nghiệp nhưng lại thiêu đốt sự nghiệp vì sự tàn bạo. Người ta “tiếc” cho Hạng Tịch là “tiếc” cho cánh sử sự bất nghĩa của Tịch. Ngược lại Hán Cao Tổ lại được ca ngợi vì đã biết lấy lòng “nhân” mà chinh phục thiên hạ. Cho tước chẳng quên người chực giỏ Phong hầu còn nhỏ kẻ cầm muôi. (Vịnh vua Cao Tổ nhà Hán, bài 1) Nhân tố tài năng, trí tuệ, sức khỏe của cá nhân người anh hùng là một phần quan trọng quyết định thành công của họ “khi phong trần” giữa cuộc đời đối chọi “tranh hùng” làm bá chủ một phương nhưng khi làm trái với nhân đức thì không thể bền vững lâu dài được. Hán Cao Tổ “tài” hơn Hạng Tịch, thành công hơn Hạng Tịch vì giữ được đạo đức khoan hòa đó: Choi chói gây lên công nghiệp Hán Vì hay thâu đãi kẻ hiền lương (Vịnh vua Cao Tổ nhà Hán, bài 2) 28
- Trong Hồng Đức quốc âm thi tập, các tác giả không chỉ vịnh các vị “anh hùng hảo hán” mà họ còn vịnh cả về người phụ nữ - những thân phận “nhỏ bé” bị ràng buộc bởi bao lễ giáo, bị áp bước bởi giai cấp và còn thêm áp bức bởi chế độ phụ quyền. Trong hệ thống những bài thơ vịnh về nhân vật lịch sử của Trung Quốc của Hồng Đức quốc âm thi tâp có nhắc tới một mỹ nhân khá nổi tiếng đó là Vương Chiêu Quân. Đây là một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn nhưng số phận thì bất hạnh. Vịnh về nàng Vương Chiêu Quân là các tác giả thời Hồng Đức muốn lên án xã hội phong kiến với chế độ phụ quyền quá khắc nghiệt với người phụ nữ. Lời oán giận xa xôi của Vương Tường đối với vua Hán Nguyên Đế chính là sự đồng tình của tác giả với số phận của nàng. Ai về nhắn nhủ cung phi Hán Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng (Chiêu Quân xuất tái) Đó là lời nhắn gửi, là nỗi niềm riêng của một cung phi đồng thời cũng là lời lên án ông vua vô tình, bất công chỉ đánh giá con người qua bức vẽ và theo lời xiểm nịnh của tên nịnh thần, hắt hủi người con giá tài sắc. Bài thơ có nhắc đến Mao Diên Thọ là kẻ vẽ dung nhan của Vương Tường vì không được “ăn của lót” nên đã dã tâm làm hại đời nàng. Nhưng nguyên nhân sâu xa lại do triều đình nhà Hán quá bất công. Nhà vua đem đổi sự yên ổn bằng tài sắc của một người đàn bà. Tiếng than của Vương Chiêu Quân vừa chua xót, vừa mỉa mai: Mặt hoa dễ khiến duyên vô phận, Mũi bút khôn nài đứa bất nhân. Một thiếp lạnh lùng ngoài cửa ải, Chín trùng đầm ấm thủa đền xuân. Dùng chân ngựa truyền tin hỏi: Vàng chuộc tôi hầu nặng mấy cân? (Chiêu Quân tự tình) 29
- Và rốt cuộc chính Mạo Diên Thọ lại ngẫu nhiên tăng thêm giá trị cho Vương Tường, ý nói: Một thân vực được Hán sơn hà Là phê phán triều đình ,vua tôi nhà Hán hơn là oán trách tên thợ vẽ. Khi vịnh về nàng Vương Chiêu Quân các tác giả thời Hồng Đức nghiêng về khẳng định phẩm chất, hoàn cảnh để biểu hiện phẩm chất chứ không nhấn mạnh bi kịch của hoàn cảnh. Những tâm gương về phẩm hạnh lại chính là những tấm gương về sự bất hạnh cho khách “hồng quần” soi chung. Khi vịnh những nhân vật lịch sử Trung Quốc, vua Lê Thánh Tông và các văn thần thời ông hẳn có ý muốn hướng con người theo những mẫu mực nhất định, giáo dục con người bằng những tấm gương cụ thể, giáo điều để đề cao đạo đức, lý tưởng Nho giáo, phục vụ cho triều đại Lê Thánh Tông và chế độ phong kiến nói chung. 2.2.2. Thơ vịnh về các nhân vật truyền thuyết 2.2.2.1. Thơ vịnh về các nhân vật truyền thuyết của dân tộc Ở thời Hồng Đức, sự tìm kiếm truyền thuyết dân gian, thần tích, truyện dân gian đã được vua Lê Thánh Tông trực tiếp khuyến khích. Ông muốn có một bộ chính sử (quốc sử) quy mô xứng tầm vóc Đại Việt đang thời thịnh trị. Những chặng đường đã qua của Đại Việt, những người anh hùng Đại Việt đã làm nên chiến thắng, tất cả những con người, sự kiện đã qua thử thách của thời gian cần được lưu giữ, đánh giá và truyền cho thế hệ tiếp theo. Truyền thuyết lịch sử và truyền thuyết anh hùng là hai cơ sở rất quan trọng cung cấp đề tài cho văn học viết, việc ghí chép lại những “tích cổ” có một ý nghĩa rất lớn là “các nhà trí thức phong kiến làm như vậy là vì muốn đi tìm những truyền thống tốt đẹp tiềm tàng trong văn hóa dân gian để củng cố them ý thức dân tộc và niềm tự hào dân tộc rất cần thiết cho việc xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời kì lịch sử này” [5, tr184] 30
- Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, luôn có sự hiện diện của những người anh hùng vĩnh cửu. Các thời đại kế tiếp nhau tìm thấy sức mạnh từ “hào khí anh linh” được truyền lại. Những lớp lịch sử mà người đời sau bồi lên chính là sức sống của hình tượng anh hùng trong lịch sử dân tộc. Thánh Gióng được xem là anh hùng chống ngoại xâm đầu tiên: Tinh anh dấu được khí kiền khôn, Thiên tướng vang lừng tám cõi đồn. Nghe tiếng Hùng Vương bèn nảy việc, Máng danh nghịch tặc đã kinh hồn. Vợt vàng ngựa sắt hằng di để, Làng Gióng non Trâu miếu hãy còn. Tự điển trời Nam ngôi đệ nhất, Âm phò quốc thế vững bằng non. (Xung thiên thần vương) Bài thơ như một câu truyện khá đầy đủ và xúc tích về Thánh Gióng: xuất thân khác thường như là sự kết tinh của khí thiêng trời đất – dấu hiệu của một thiên tướng nên tiếng đồn vang tám cõi. Việc đầu tiên của Gióng là hưởng ứng lời hiệu triệu cứu nước của Hùng Vương. Nghe danh Gióng giặc đã kinh hồn khiếp vía. Có “vợt vàng”, “ngựa sắt” để lên đường theo yêu cầu của Gióng. Có “làng Gióng”, “non Trâu”, miếu thờ khi Gióng về trời. Tên Gióng được ghi ở trang đầu từ điển “Từ điển nước Nam” và đời đời phù hộ cho đất nước được thái bình vững chắc Một nhân vật trong truyền thuyết nữa bước vào trong thơ vịnh sử của Hồng Đức quốc âm thi tập là Chử Đồng Tử. Nhân vật Chử Đồng Tử (theo truyền thuyết thì truyện Chử Đồng Tử là sự tích bãi tự nhiên hay đầm Nhất Dạ) ông được vịnh ở hai khía cạnh: lòng hiếu thảo và tính chất hiển linh của vị thần giúp Triệu Quang Phục chống quân xâm lược nhà Lương, Nguyễn Trãi chống Minh. Trước tiên cái làm cho một người trần gian nghèo khổ, 31
- không mảnh áo che thân, không tấc đất cắm dùi trở thành vị thần chính là tấm lòng hiếu thảo: Hiền thảo dòng nhà thấu bích thiên, Đành hay phúc thiện máy từ nhiên Mấy thu nhem nhuốc rèn gan sắt Mốt phút giàu sang kết bạn tiên. (Chử Đồng Tử) Và khi thành thần thì hiển linh giúp con cháu chống giặc ngoại xâm: Triệu Việt nạn xong nên nghiệp cả! Ức Trai mộng tỏ phỉ lời nguyền. Anh linh miếu dõi từng hương khói Còn nước còn non còn tiếng truyền. (Chử Đồng Tử) Vì sao có hiện tượng “song đôi” Chử Đồng Tử vừa là anh hùng chinh phục tự nhiên (đầm lầy) vừa là anh hùng chống giặc ngoại xâm. Đó là lối bồi đắp các lớp lịch sử cho nhân vật để giữ gìn truyền thống của văn học dân gian mà thơ vịnh sử tiếp tục khai thác khi vịnh nhân vật anh hùng. Thơ vịnh sử là thơ “vịnh truyện cũ, người xưa” do đó thơ vịnh sử không chỉ vịnh những nhân vật anh hùng mà còn tái hiện cả những mối tình trong truyền thuyết với khát vọng hạnh phúc, khát vọng tình cảm đương đại. Quay trở về với những đề tài “cổ xưa” nhưng các tác giả Hồng Đức đã phần nào “hiện đại hóa” những câu chuyện tình yêu của dân gian, mượn tích cổ, người xưa để phản ánh tinh thần của thời đại. Trước Hồng Đức quốc âm thi tập, thơ văn viết về tình yêu đôi lứa rất ít nếu không muốn nói rằng không có. Thoảng hoặc, có tác giả đề cập đến nhưng thường gửi gắm một cách kín đáo xa xôi (thơ Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Thái Thuận ). Ít có những bài thơ vịnh về những mối tình 32
- trong truyền thuyết, cổ tích Nhưng đến Hồng Đức quốc âm thi tập thì những khát vọng hạnh phúc, nhu cầu tình cảm được bộc bạch một cách đa dạng hơn. Trong Hồng Đức quốc âm thi tập có đề cập đến một mối tình rất nổi tiếng trong lịch sử là Ngưu Lang – Chức Nữ. Trong truyền thuyết Việt Nam và Trung Quốc đều có mô típ này nên người viết xin được xếp các bài vịnh về Ngưu Lang – Chức Nữ vào chùm những bài thơ vịnh về các nhân vật truyền thuyết dân tộc. Dân gian kể về Ngưu Lang – Chức Nữ, kể về mối tình cách trở của đôi trai gái mỗi năm một lần gặp nhau giữa sông Ngân Hà, trên cầu ô thước. Đó cũng là cách giải thích tự nhiên theo trí tưởng tượng và lãng mạn của người xưa: Vì sao tháng Bảy trời mưa ngâu (đêm gọi là đêm thất tịch, đêm Ngưu Lang – Chức Nữ gặp nhau), vì sao đầu quạ lại trụi một mảng lông (vì con nọ nối con kia làm cầu cho nàng Chức và chàng Ngưu đoàn tụ). Truyền thuyết Ngưu Lang – Chức Nữ đã làm chọn chức năng của nó là đem lại cho con người nhận thức đơn sơ về hiện tượng tự nhiên. Sự tái tạo của tác giả Hồng Đức quốc âm thi tập đối với truyền thuyết không theo nghĩa đó. Tác giả của những bài thơ vịnh không kể về mối tình sum họp rồi chia xa, làm cái cớ để những giọt mưu trời dầm dề, lai láng. Thơ miêu tả từng thời khắc, từng diễn biến của tâm tư, những biểu hiện của nỗi nhớ mong chồng chất theo ngày tháng của đôi lứa hai phương trời thăm thẳm. Bắt đầu của mối tình không phải là gặp gỡ giữa Chức Nữ và Ngưu Lang, mà là lúc chia li, từ biệt. Tác giả không vịnh toàn bộ câu chuyện mà chỉ vịnh một vài chi tiết. Một năm dài dằng dẵng ngóng trông nhau, đợi đến một ngày của mùa thu hội ngộ. Giây phút hạnh phúc lứa đôi quá ngắn ngủi so với những ngày tháng xa cách. Nỗi buồn trước lúc “tương phùng” có lẽ dễ chịu hơn nỗi buồn của lúc chia xa. Nhìn thấy nhau đây mà “biết đâu rồi nữa chỉ là chiêm bao”, lại một năm nữa, Chức Nữ mới mong thấy lại người yêu dấu: 33
- Giã người cho khách lại Hà tây, Khôn xiết nguồn cơn nỗi đấy đây. Bát ngát mặn ngừng chan giọt ngọc, Dùng dằng chân bước bước đường mây. Băng trông cầu thước sầu thêm chất, Đoái thấy danh ngân thảm dễ xây. Chầy kíp hẹn lành tin lại hợp, Thu sau càng thắm nữa thu này. (Ngưu Lang từ Chức Nữ) Người thiếu nữ Chức Nữ đành lòng chẳng vậy, đưa tiễn người về chốn cũ trong lệ rơi chan chứa, bước chân “dùng dằng” bịn rịn, đôi mắt ngoái nhìn về phía trời xa càng trông càng thấy sầu, thấy nhớ. Bài thơ không dùng điển cố, mặc dù từ ngữ còn ước lệ mà miêu tả chi tiết cụ thể tâm trạng (dùng dằng, trông, đoái, sầu thêm chất, thảm dễ xây ) và sự tương tư của Chức Nữ bắt đầu từ giây phút phân cách “nỗi đấy đây” có sức gợi cảm rất lớn. Hình như đó là tiếng nói của chủ thể trữ tình khi nàng nhân ra khoảng cách vốn đã thành “lệ” mà không là “lệ” bao giờ với tình yêu, khao khát hạnh phúc của nàng. Mới đó “một thu là một hợp” vậy mà thoáng chốc đã thành “đấy” thành “đây” xa xăm, cách trở. Chức Nữ sau khi từ biệt Ngưu Lang sống trong nỗi nhớ mênh mông, vò xé: Một mình vò võ chốn Hà Đông, Nhớ khách đầy vơi luống những trông Gói ngọc giấc màng êm dưới đệm, Thoi vàng tay ngại mắc trên không. Đêm thanh lầm tưởng hai phương nguyệt, Ngày vắng buồn xem một dải sông. Gẫm thấy một thu là một họp, Còn hơn kẻ chực Quảng hàn cung. (Chức Nữ ức Ngưu Lang) 34
- Bài thơ phảng phất phong vị của ca dao khi tả nỗi nhớ: Đêm qua ra đứng vờ ao Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ Buồn chông con nhện gang tơ Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ duyên ai Khách đã về phía sông Ngân, Chức Nữ chẳng còn thấy mặt, cũng chẳng còn tìm bóng để “đoái” nhìn, chỉ còn lại một mình với “sông trăng” với chăn đơn, gối chiếc và nàng luôn chập chờn, khắc khoải với giấc mộng hạnh phúc. Niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi càng trở lên mãnh liệt trong những ngày tháng li biệt: Thơ bày chữ gấm ngàn hàng thảm, Cửu mắc thoi vàng mấy đoạn sầu. ( Lại bài Chức Nữ - Ngưu Lang) Như vậy, đến với Hồng Đức quốc âm thi tập, thơ trữ tình đã mạnh dạn hơn khi bộc lộ khát vọng hạnh phúc của con người. Trí tưởng tượng của các thi nhân thời Hồng Đức không phải để tạo nên những hình tượng thần kì, huyền ảo, mà giúp họ tái tạo lại mối tình cách trở với tất cả những nỗi nhớ nhung sầu muộn rất con người, rất hiện thực. Chọn thời điểm vịnh cũng chính là cách khai thác truyền thuyết ở một khía cạnh nào đó. Thơ vịnh truyền thuyết Ngưu Lang – Chức Nữ đi vào khía cạnh tâm tư, niềm ước mong hạnh phúc tình yêu. Sự chia xa là của chuyện xưa nhưng nỗi nhớ mong là gắn với cảm xúc của con người đương đại. 2.2.2.2. Thơ vịnh về các nhân vật truyền thuyết Trung Hoa Bên cạnh những nhân vật truyền thuyết của dân tộc, các tác giả Hồng Đức còn vịnh về những nhân vật truyền thuyết Trung Hoa. Trong Hồng Đức 35
- quốc âm thi tập có một câu truyện truyền thuyết của Trung Quốc được nhắc tới đó là mối tình Lưu Nguyễn và Tiên Tử. Trong Hồng Đức quốc âm thi tập có một chùm bài thơ vịnh hai mối tình trong truyền thuyết: Ba bài vịnh mối tình Ngưu Lang – Chức Nữ và mười bài vịnh mối tình Lưu Nguyễn với tiên nữ núi Thiên Thai. Có thể xem đây là những truyện thơ loại nhỏ, những tiểu thuyết bằng thơ đầu tiên kể lại diễn biến của những mối tình khá lãng mạn. Nếu như mối tình của Ngưu Lang – Chức Nữ được xoáy sâu vào nỗi nhớ thì mối tình của Lưu Nguyễn và tiên nữ Thiên Thai được thuật lại trọn vẹn. Lưu, Nguyễn tức Lưu Thần và Nguyễn Triệu người ở diễm khê đời Đông Hán. Theo Thiệu hưng phủ chí chép, khi năm Vĩnh bình (58 – 74 CN) đời Hán Minh đế, nhân ngày tiết Đoan dương, Lưu Thần và Nguyễn Triệu vào núi Thiên thai hái thuốc, bị lạc đường không biết lối ra, bèn trèo lên một ngọn núi khác, gặp hai tiên nữ. Tiên nữ gọi tên hai người và hỏi: Sao các người đến chậm thế? Rồi mời về nhà tiếp đãi tử tế. Ở trong núi được nửa năm, Lưu và Nguyễn nhớ nhà xin trở về. Khi về đến nhà thì đã cách bảy đời rồi. Sau hai người lại tìm đường vào núi Thiên thai nhưng không gặp hai tiên nữ đâu cả. Mối tình này có gặp gỡ, say sưa với hạnh phúc, chia xa, tương tư, hoài niệm của tình yêu giữa chàng trai đương thế với những nàng tiên trong núi. Người xưa thường hướng đến những cảnh tiên, chốn tiên, cung tiên nơi mà con người được giải thoát khỏi những lo toan của cuộc đời trần tục, được hưởng niềm vui, lạc thú và hơn tất cả là sự thanh thản về tâm hồn. Thiên nhiên trong thơ xưa được so sánh với cảnh tiên, con người muốn tìm hạnh phúc thường hướng tới chốn tiên hoặc đang đầy cảm hứng cũng tự cho mình đang được ở cung tiên Chốn “tiên” trở thành thế giới lý tưởng đầy hấp dẫn nhưng đó là cái lý tưởng trong tưởng tượng. Do vậy, nói tới chốn tiên, ngưỡng vọng chốn tiên cũng chính là nói chuyện hiện thực, những khát vọng bắt nguồn từ cuộc 36
- sống trần gian. Thơ có kể về mối tình tiên nhưng cảm xúc lại nhuốm màu sắc trần gian. Cảnh sắc là của nơi bồng lai nhưng tương tư sầu nhớ lại là của con người, rất thực, rất lãng mạn. Trong mười bài thơ, có một bài tả cảnh gặp gỡ của Lưu Nguyễn và Tiên Tử. Mối tình nảy nở giữa “tiên tục” được miêu tả bằng bút pháp tượng trưng, ước lệ: Mây che cửa, chim bay hết Suối thay cầm tiếng nhật khoan Sông có bích đào non nước đầy Cõi nhiều hồng hạnh tháng ngày trường (Lưu Nguyễn động trung ngộ Tiên Tử) Chỉ có cảnh, không có người, không có tâm trạng. Cảnh vật mơ màng và thơ mộng, bồng bềnh như hư, như thực, thiên tình sử bắt đầu trong khung cảnh “thoát tục” lung linh, mờ ảo. Nó xa lạ với một đêm trăng “tát nước bên đình”, xa lạ với “gốc đa”, “bến nước”, một miếng trầu têm cánh phượng, chiếc nhẫn cỏ, chiếc nón bay tạo nên chiếc cầu nối tình yêu của những chàng trai, cô gái trong dân gian. Nếu như ca dao, cổ tích thể hiện tình yêu đôi lứa qua những chi tiết cụ thể gắn với cuộc sống lao dộng hàng ngày nơi thôn dã thì văn học cung đình hướng tới những tình yêu nơi tiên giới với những cảnh sắc ước lệ và khuân sáo. Lối vịnh này tạo nên một bức tranh tương đối cổ điển trong Hồng Đức quốc âm thi tập, cảnh vật bị đóng khuân theo những mẫu có sẵn, cảnh núi thiên thai: Dải non cao, trăng khối nguyệt Doành sâu thẳm, một đường xuân (Lưu Nguyễn nhập động) Hoặc vịnh tám cảnh Đào nguyên, vịnh trăng Đây cũng là hạn chế về khả năng sáng tạo trong thơ của các tác giả Hồng Đức. Có lẽ chất say đắm 37
- nồng nàn của mối tình Lưu Nguyễn và tiên nữ vẫn là lúc chia xa. Lưu Nguyễn giã từ “người đẹp” trở về quê cũ trong ngập ngừng nối tiếc: Một niềm nhớ chúa một âu nhà, Cửa động dùng dằng ngại bước ra. Hương tứ phiêu, khi gió thổi, Cổ viên lạc, thủa trăng tà Non cao mấy phủ dư ngàn dặm, Sông thẳm sầu đeo mấy phút hoa. Dầu nhẫn bắc nam đường có cách, (Lưu Nguyễn từ Tiên Tử) Lại bước chân dùng dằng, với những giọt lệ chứa chan, những lời dặn dò, nhắn gửi thiết tha, trìu mến. Người về, người ở mang nặng tương tư, hoài niệm, nên “cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu”, thấy cảnh mà lòng càng nôn nao, nuồn nhớ: Đất nhiều cỏ ngọc qua ưa biếc Nước có hoa đào hết tấc hương, Gió thổi đèn tàn thêm lạnh lẽo, Thân này khôn chước hỏi Lưu lang (Tiên tử hoài Lưu Nguyễn) Giục khách mưa sầu khoan lại nhặt , Trêu ai mây thảm lạt thì nồng. Nôn nao xuân lại bằng nguyền cũ, Ngỏ nỗi đôi phương thủa chốc mòng. (Lại bài Lưu Nguyễn hoài Tiên tử) Cảnh vật gợi sầu, gợi nhớ. Cảnh vật mang tâm trạng. Cỏ mọc xanh biếc, hoa nở thắm tươi như nhắc nhở ngày xưa, ngọc gió hiu hắt với ánh đèn lẻ loi như tô đậm sự vắng xa, như chứng tỏ rằng hạnh phúc đã đi qua Và mưa không còn là “mưa”, trăng không còn là “trăng”, “mây” cũng chẳng tỏ tình trước nỗi lòng của con người : “Gió thảm”, “sông sầu”, “mây thảm”. Thiên 38
- nhiên qua cảm xúc yêu đương bộc lộ những tín hiệu riêng của sự tương đồng hay đối lập. Ngôn ngữ Nôm đã phát huy được khả năng gợi cảm, phong phú của nó trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Dù từ ngữ, hình ảnh được sử dụng còn mang tính ước lệ nhưng đã thể hiện được sắc thái tình cảm khác nhau (tương tư, nhớ nhung, chờ đợi ) 2.2.3. Thơ vịnh về di tích lịch sử Dòng sông được coi là địa bàn chiến đấu, là cái bẫy nguy hiểm chặn bàn chân xâm lược của kẻ thù phương Bắc. Trong lịch sử Việt Nam có một dòng sông vô cùng nổi tiếng – đó chính là sông Bạch Đằng. Bạch Đằng có cả một quá trình lịch sử: từ Ngô Quyền chống quân Nam Hán, đến Lê Đại Hành chống Tống và rồi đến Trần Quốc Tuấn chống Nguyên. Dòng sông không chỉ là một cảnh đẹp mà còn là một di tích lịch sử. Bạch Đằng giang là bài thơ duy nhất vịnh di tích lịch sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập. Khi vịnh về sông Bạch Đằng, các tác giả Hồng Đức đã bắt đầu bằng bức tranh toàn cảnh. Leo lét dành xanh nước tựa đầu Chăm ngòi, ngàn lạch, chảy về chầu Khác với Bạch Đằng hải khẩu của Nguyễn Trãi. Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu, Bạch Đằng giang trong Hồng Đức quốc âm thi tập lại mang một dáng vẻ khác, hiền hòa, lặng lẽ hơn. Có màu sắc, có không gian (bề rộng bát ngát) của cái thể quần tụ của những nguồn nước cùng hẹn nhau về biển. Cửa sông Bạch Đằng mở ra mênh mang với màu nước trong xanh nhưng cảnh vật đang ở trong thể tĩnh, thiếu âm thanh. Trước đó có thể người ta đã quen với một Bạch Đằng hùng vĩ, sôi động. Một Bạch Đằng cuồn cuộn trào dâng không ngừng nghỉ. Đó là một dòng sông của những biến động. Tác giả của bài vịnh Bạch Đằng giang trong Hồng Đức quốc âm thi tập có một cái nhìn thật đặc biệt, đó là một cái nhìn châm biếm pha một chút trịch 39
- thượng, kiêu hãnh khi đánh giá cái thế của “ta” và “giặc”, giữa sự tồn tại và tiêu vong, giữa khẳng định và phủ nhận Quá khứ không chỉ là cảnh chiến địa, cảnh giao tranh được thua, phân chia cụ thể mà những gì “còn”, “mất” của lịch sử được dòng sông ghi nhận một cách công minh. Con người sống trong thời đại thanh bình, thịnh trị có quyền được soi sáng quá khứ của mình bằng niềm tự hào “lâng lâng”, được khẳng định sự bề vững, dài lâu của vương triều khi đã qua đấu tranh để giành lại được, cũng được quyền phán xét bằng cái nhìn diễu cợt, pha chút hài hước: Rửa không thay thảy thằng Ngô dại, Địa mọi lâng lâng khách Việt hầu. Nọ đỉnh Thái sơn rành rạch đó, Nào hồn Ô Mã lạc loài đâu. Một câu hỏi, một cách liên tưởng “mỏng manh” giữa hiện tại và quá khứ giống như khi xưa nơi Hàm Tử giữa cảnh “nước biếc non xanh”, con người thả hồn vào trời mây ngút ngàn và trong tiềm thức hiện trở lại một thoáng chuyện xưa: “Toa Đô thủ tủ trị hà xứ” (Không biết Toa Đô nộp đầu nơi nào?). Phải chăng đặt câu hỏi bâng quơ như vậy cũng là một kiểu tái hiện? Nhắc tới linh hồn bơ vơ của tướng giặc, cái bơ vơ không có chỗ dung nạp của kẻ phi nghĩa, dám xâm phạm nước người cũng chính là nhắc lại một thời lịch sử, có cả chiến công của Đại Việt và thất bại nhục nhã của kẻ thù. Bài thơ vịnh phong cảnh nhưng để nói về lịch sử. Dòng sông chỉ là cái cơ để “luận” về những sự kiện đã qua trong lịch sử. Nơi đây chứng kiến sức mạnh của Đại Việt, chính nghĩa của Đại Việt. Nơi đây đã khẳng định sự tồn tại hòa bình của dân tộc. Ô Mã Nhi là kẻ trực tiếp bị tiêu diệt ở sông Bạch Đằng, còn trong lịch sử Đại Việt đã có biết bao tướng giặc bỏ mạng, chỉ còn “oan hồn” lạc loài như thế?. 40
- Cảm hứng tự hào trong bài vịnh chiến tích đã được biểu hiện ở nhiều khía cạnh. Có thể cảm hứng đó bộc lộ qua sự miêu tả của thiên nhiên mang màu sắc anh hùng ca, qua những chi tiết tái hiện lịch sử dân tộc, lại có thể qua thái độ của nhà thơ đối với hiện tại. Loại thơ vịnh sử (vịnh di tích), giữa khách quan và chủ quan bao giờ cũng có mối quan hệ: quá khứ - cảnh - hiện tại. Qua cảnh để nhận thức quá khứ và qua cảnh để nhận thức thời đại. Mở đầu Bạch Đằng giang của Hồng Đức quốc âm thi tập là dòng sông trong trẻo, bình lặng, kết thúc bài thơ cũng vẫn là dòng sông trong trẻo, bình lặng ấy: Bốn phương phẳng lặng kình bằng thóc Thong thả dầu ta bủa lưới câu Bạch Đằng nhắc nhở người ta nhớ về quá khứ, quá khứ dường như chỉ thoáng qua nhưng lại tăng thêm nguồn tự hào, tin tưởng của tác giả vào thời đại. Một thời anh hùng đã qua, những ngày chói lọi của kháng chiến chống ngoại xâm đã lùi vào quá khứ, bóng dáng quân thù chỉ hiện về trong mộng. Không khí thanh bình của đất nước cho phép con người được thanh thản , sảng khoái hưởng thụ niềm vui trước thiên nhiên, sông núi. Khi con người được “trả lại” tâm trạng lâng lâng, phong thái ung dung, thong thả thì cảm nhận thiên nhiên cũng khác khi hiện thực chiến tranh còn đang là vấn đề cần thiết. Đối với những bài thơ vịnh thiên nhiên mang dấu tích lịch sử, thì tình yêu thiên nhiên gắn liền với niềm tự hào dân tộc, khám phá thiên nhiên gắn với sự tìm tòi dấu tích lịch sử. Mối quan hệ đó có tính quy luật: “Nhà thơ yêu thiên nhiên hùng vĩ của đất ước nhưng lại yêu mến hơn mỗi khi tìm thấy ở đó “chiều xưa sự nghiệp còn di tích” [5, tr238 ]. Thơ vịnh sử đưa người ta trở về với quá khứ huy hoàng của dân tộc. Sự khám phá chiều sâu lịch sử không mẫu thuẫn với sáng tạo nghệ thuật mà ngược lại lại tạo điều kiện cho sáng tạo. Bởi thế cùng một địa danh nhưng mỗi thời hiện lên mỗi khác. 41
- Một số bài thơ vịnh cảnh trong Hồng Đức quốc âm thi tập thấp thoáng khía cạnh truyền thống (Nam Công sơn, Song Ngư sơn, Chuông lại – nguyệt bình than ) Tuy nhiên dấu hiệu của lịch sử còn mờ nhạt, chỉ vịnh thế “núi sông” hơn là sự kiện, lịch sử cụ thể. Chỉ có Bạch Đằng giang là một bài thơ vịnh sử khi thể hiện được tương quan thiên nhiên và lịch sử. Thiên nhiên – lịch sử là sự kết hợp giữa giá trị thẩm mỹ và giá trị nhận thức lịch sử của thơ vịnh sử. 2.3. Thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập nhìn từ phương diện nghệ thuật 2.3.1. Thể thơ Văn học Việt Nam trung đại chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Trung Hoa trên nhiều phương diện: chữ viết, đề tài, thể loại Trong sự ảnh hưởng sâu rộng đó, thì thơ Đường chiếm một vị trí quan trọng, tác giả Ngô Văn Phú trong cuốn Thơ Đường ở Việt Nam, đã nhận định “Trên thế giới có lẽ hiếm có quan hệ văn chương nào đặc biệt như quan hệ giữa thơ Đường với thơ Việt”. Mối quan hệ đặc biệt đó của Đường thi và thơ ca Việt Nam được biểu hiện rõ nhất ở phương diện đặc trưng thể loại. Cha ông ta tiếp thu thể loại thơ thất ngôn bát cú Đường luật để làm phong phú hơn cho nền thơ ca Việt Nam. Người làm thơ Đường luật phải tuân theo những luật lệ, quy tắc khó làm nhất nhưng lại được các tiền nhân ưa thích, thường dùng để bày tỏ tình cảm, ý chí, xướng họa, khai bút đầu xuân, ngâm vịnh Và các nhân sĩ thời Hồng Đức trong chùm thơ vịnh sử của mình cũng sử dụng khá nhuần nhuyễn thể thơ Thất ngôn bát cú. Thơ Đường thất ngôn bát cú là thơ độc vận thuộc một vần; là thơ phổ biến theo luật trắc vần bằng, hoặc luật bằng vần trắc. Hệ thống thanh bằng, thanh trắc được tính từ chữ thứ hai của câu thứ nhất. Nếu chữ thứ hai của câu thứ nhất là thanh bằng thì bài thơ được làm theo luật bằng và ngược lại nếu 42
- chữ này là thanh trắc thì bài thơ được làm theo luật trắc. Một bài thơ Thất ngôn bát cú thường có tám câu, cấu trúc bốn phần theo mô hình truyền thống: Đề, Thực, Luận, Kết. Hai câu đầu tiên (1 và 2) là Mở đề và vào đề; hai câu tiếp (3 và 4) là hai câu Thực (miêu tả), yêu cầu của hai câu này là đối nhau cả về thanh và về nghĩa; hai câu 5 và 6 là hai câu Luận (suy luận), yêu cầu đối nhau về thanh và về nghĩa (tuy nhiên cũng có bài chỉ đối ở một phần); hai câu cuối là hai câu Kết (Kết luận) không yêu cầu đối nhau. Các tác giả Hồng Đức đều là những người có học vấn uyên thâm, được đào tạo bài bản ở “Cửa Khổng, sân Trình” vì thế họ đã có những bài thơ vịnh sử tuân thủ một cách nghiêm ngặt các quy tắc của thơ Đường. Tinh anh dấu được khí kiền khôn, Thiên tướng vang lừng tám cõi đồn. Nghe tiếng Hùng Vương bèn nảy việc, Máng danh nghịch tặc đã kinh hồn. Vợt vàng ngựa sắt hằng di để, Làng Gióng non Trâu miếu hãy còn. Tự điển trời Nam ngôi đệ nhất, Âm phò quốc thế vững bằng non. (Xung thiên thần vương) Nhìn vào bài thơ, chúng ta thấy hai câu đầu (hai câu đề) nhà thơ giới thiệu về xuất thân và tiếng tăm lẫy lừng của Thánh Gióng; hai câu 3 và 4 (hai câu thực) tuân thủ đúng yêu cầu đối nhau về thanh và về nghĩa : Nghe tiếng – mang danh, Hùng Vương – nghịch tặc, nảy việc – kinh hồn; hai câu 5 và 6 (hai câu luận) tác giả khẳng định những công lao của nhân vật được đề vịnh; hai câu 7 và 8 (hai câu kết), tác giả kết thúc bài thơ, một lần nữa khẳng định tiếng tăm của Thánh Gióng còn sống mãi với “trời Nam”. 43
- “Chử Đồng Tử” cũng là một bài vịnh tuân thủ một cách nghiêm ngặt các nguyên tắc của thơ Đường: Hiền thảo dòng nhà thấu bích thiên, Đành hay phúc thiện máy từ nhiên Mấy thu nhem nhuốc rèn gan sắt Mốt phút giàu sang kết bạn tiên. Triệu Việt nạn xong nên nghiệp cả! Ức Trai mộng tỏ phỉ lời nguyền. Anh linh miếu dõi từng hương khói Còn nước còn non còn tiếng truyền. Cũng giống như bài “Xung thiên thần vương”, chúng ta thấy hai câu đầu (hai câu đề) nhà thơ giới thiệu về xuất thân của Chử Đồng Tử; hai câu 3 và 4 (hai câu thực) tuân thủ đúng yêu cầu đối nhau về thanh và về nghĩa : mấy thu – một phút, nhem nhuốc – giàu sang, gan sắt – bạn tiên; hai câu 5 và 6 (hai câu luận) tác giả khẳng định những công lao của Chử Đồng Tử; hai câu 7 và 8 (hai câu kết), tác giả kết thúc bài thơ, khẳng định tiếng tăm của Chử Đồng Tử “Còn nước còn non tiếng hãy còn”. Tương tự như vậy các bài như Trưng Vương, Lý Ông Trọng, Gia Cát Lượng, Quán Thánh . đều không bị thất niêm, thất luật khá chuẩn mực. Việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc của thơ Đường luật cho thấy kiến thức uyên thâm của các nhân sĩ thời Hồng Đức đồng thời điều này đã nâng thơ Nôm lên địa vị thơ cung đình, mang tầm vóc quốc gia, sánh ngang với thơ chữ Hán. Các tác giả Hồng Đức quốc âm thi tập là những người rất sành thi luật tuy nhiên trong sáng tác thơ Nôm họ vẫn có xu hướng phá cách thơ luật. Trong thơ vịnh sử của Hồng Đức quốc âm thi tập có một vài bài thơ viết theo thể thất ngôn, chen lục ngôn – một thể thơ mang đậm tính dân tộc. 44
- Đây là một thể thơ quen thuộc trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi mà sang thế kỉ sau vẫn còn nhiều nhà thơ vận dụng. Thể thơ thất ngôn chen lục ngôn là kết quả của sự tìm tòi sáng tạo của các nhà thơ đi trước trên cơ sở kết hợp hai thể loại thất ngôn và lục ngôn vốn có trong thơ ca Trung Quốc . Sự sáng tạo ra thể thơ này là biểu hiện của một khuynh hướng muốn thoát ra khỏi cấu trúc gò bó và đơn điệu của luật Đường để tìm về với một hình thức dân tộc trong các điều kiện các thể thơ của dân tộc chưa được đưa vào sáng tác văn học viết. Thơ vịnh sử được viết theo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn khá thành thục. Ví dụ như : Cây rợp non tiên một nẻo phân, Đất chăng bụi bụi cỏ êm chân. Khói xanh bóng tiên xem đương mặt, Nước biếc duyên ưa nọ có thân. Dải non cao, chăng khối nguyệt, Doành sông thẳm, một đường xuân. Chẳng hay người ấy về đâu tá? Niệm đến Đào – nguyên hỏi chủ nhân. (Lưu Nguyễn nhập động) Tác giả đã sáng tạo hai câu luận từ bảy chữ còn lại sáu chữ “Dải non cao trăng khối nguyệt – Dòng sông thẳm, một đường xuân” để nhấn mạnh vào khung cảnh thần tiên nơi Lưu Nguyễn và Tiên Tử gặp nhau. Có khi câu lục ngôn ở phần kết: Thờ chúa thờ chồng hết tấc thương, Một mình lọn đạo việc cương thường. Non thiêng dễ hóa hồn tinh vệ, Nước biếc khuân nhìn mặt Phạm vương. 45
- Dòng bạc thề cùng thu có nguyệt, Sử xanh chép để bút còn hương. Rầy mừng thấy tin rồng đến, Phủ cơn dâm khắp bốn phương. (Vịnh Mỵ Ê) Sử dụng hai câu lục trong phần luận của bài thơ tác giả như muốn khẳng định, nhấn mạnh hơn nữa tấm lòng chung thủy với chồng của nàng Mỵ Ê. Như vậy, như vậy bên cạnh những bài thơ vịnh sử tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc của thơ Đường thì vẫn có những bài thơ thất ngôn xen lục ngôn đầy phá cách và sáng tạo của các nhân sĩ thời Hồng Đức. Chính sự phá cách này đã khẳng định tinh thần dân tộc của Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn. 2.3.2. Giọng điệu Khái niệm giọng điệu nghệ thuật là khái niệm siêu ngôn ngữ. Giọng điệu bộc lộ cảm xúc thẩm mĩ, tư tưởng, tình cảm, thái độ của người cầm bút trước đối tượng được nhắc tới. Tìm hiểu thơ vịnh sử không thể bỏ qua đặc điểm giọng điệu nghệ thuật. Trước hết giọng điệu chủ đạo trong những sáng tác vịnh sử của Hồng Đức quốc âm thi tập là giọng điệu ca ngợi, cảm hứng khâm phục, ngưỡng mộ các tài danh trong lịch sử. Các nhà thơ ngợi ca cái kì lạ của Thánh Gióng; ca ngợi người phụ nữ anh hùng như Hai Bà Trưng khiến cho “Tô Định bay hồn vang một trận”; ca ngợi công lao của Chử Đồng Tử; ca ngợi tài trí phi thường của Lý Ông Trọng; ca ngợi tài đức của Hán Cao Tổ, Quan Vân Trường, Gia Cát Lượng ; Giọng điệu ca ngợi bộc lộ rõ qua ngôn ngữ thơ ca được chọn lọc để khắc họa “chân dung” nắm được “hồn cốt” nhân vật đề vịnh. Chẳng hạn, khi ca ngợi tầm vóc cao lớn, hùng dung như một vị thần của bà Triệu Thị Trinh các tác giả Hồng Đức đã sử dụng từ ngữ phóng đại vô cùng đặc sắc. 46
- Cao một trượng, cả mười vầng, Bỏ tóc ngang lung, vú chấm sừng. (Triệu Âu) Hay để ca ngợi Quan Vân Trường, tác giả đã sử dụng một loạt những từ Hán Việt để khẳng định vẻ đẹp của người anh hùng: “tướng, danh giá, đấng trượng phu, anh hùng, kính phục .”. Nhấn mạnh đến tên tuổi của người anh hùng Trưng Vương với tiến trình lịch sử của dân tộc, tác giả Hồng Đức đã sử dụng cách diễn đạt “Nữ trung đệ nhất đấng tài danh” . Cứ như thế các bài thơ vịnh sử của Hồng Đức quốc âm thi tập luôn gọi đúng người, gọi đúng hồn cốt, đúng tài danh, đúng công trạng của từng nhân vật lịch sử. Bên cạnh giọng điệu ngợi ca trong thơ vịnh sử của Hồng Đức quốc âm thi tập còn thể hiện giọng điệu phê phán. Giọng điệu phê phán thường được tác giả đứng trên quan niệm lý tưởng của Nho giáo và đặc điểm Nho giáo để bình luận nhân vật. Giọng điệu này xuất hiện không nhiều nhưng vẫn bộc lộ rõ qua những bài thơ vịnh về Tào Tháo, Hạng Tịch. Khi vịnh về Tào Tháo tác giả đã phê phán tính đa nghi mà trở thành người vô tâm lỡ giết cả những người những người đã làm ơn cho mình, những người vô tội: Sức ấy mấy người can đảm ấy Hiềm chưng một chút tính nhiều ngờ (Tào Tháo) Vịnh về Hạng Tịch vốn là một người anh hùng thời Đông Hán tiếng tăm, uy danh lẫy lừng một thời nhưng lại thất bại do không biết cách dùng người, thiêu đối sự nghiệp vì sự tàn bạo, bất nghĩa : Chí sĩ nay dầu bàn bạc tới, Khá hờn, khá tiếc, khá mè he. (Vịnh Hạng Vũ) 47
- Giọng điệu phê phán còn xuất hiện ở bài thơ vịnh về nhân vật Vũ Nương. Tác giả đã phê phán thái độ tàn nhẫn, hành động phũ phàng của chàng Trương với người vợ dịu dàng, đoan chính: Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng (Lại bài viếng Vũ Thị) Ngoài giọng điệu ngợi ca, phê phán, Hồng Đức quốc âm thi tập còn có giọng điệu xót xa, thương cảm. Giọng điệu này được thể hiện nhiều nhất trong những bài thơ vịnh sử về người phụ nữ. Các tác giả Hồng Đức luôn đồng cảm với những thân phận nhỏ bé, những số phận hẩm hiu trong xã hội xưa và đương thời. Họ thương cảm trước số phận của Mỵ Ê chung thủy với chồng nên khi bị vua ép hầu rượu đã lao mình xuống sông tự vẫn, Vương Chiêu Quân một người con gái đẹp nhưng bị biến thành vật cống tế, Vũ Nương tiết hạnh bị chồng nghi oan tìm đến sông Hoàng Giang để tỏ tấm lòng trinh bạch. Xót xa, thương cảm với những người phụ nữ bất hạnh cũng đồng nghĩa với việc các nhân sĩ Tao Đàn đang âm thầm lên tiếng bảo vệ họ trước những lễ giáo hà khắc của chế độ phong kiến. 2.2.3. Sử dụng điển tích, điển cố Điển tích, điển cố đóng vai trò khá quan trọng trong văn học trung đại Việt Nam. Dùng điển tích, điển cố, người xưa không chỉ vận dụng nó như một phương tiện diễn đạt mà còn thể hiện vốn kiến thức dồi dào về lịch sử, văn học, văn hóa, xã hội, kinh nghiệm sống. Nhìn lại nền văn học quá khứ, điển tích, điển cố thực sự chiếm lĩnh một vai trò và thể hiện một chức năng quan trọng. Có những giai đoạn, điển cố là phương tiện hàng đầu và hữu hiệu cho người cầm bút. Từ tác giả của những bài thơ, bài văn, đến những nhà ngoại giao, chính khách, thậm chí kẻ đi học cũng tự trang bị cho mình vốn kiến thức trong nhiều năm đèn sách để có thể dùng điển tích, điển cố. Các nhân sĩ Tao 48
- Đàn đều là những nhà nho đỗ đạt trong triều Trần, với học vấn uyên bác, trong các sáng tác thơ văn, họ cũng sử dụng khá nhiều điển tích, điển cố. Cách dụng điển trong thơ vịnh sử của Hồng Đức quốc âm thi tập khá thành thục và nhuần nhuyễn. Những điển cố giúp tác giả diễn tả được nhiều ý nghĩa, nhiều bài học trong khuôn khổ một lượng từ hạn hẹp. Lượng điển mà tác giả dùng nguyên ý của nó (nguyên điển) chiếm tỉ lệ khá cao và giá trị biểu đạt nội dung của điển khá linh hoạt, Trong bài Vịnh vua Cao Tổ nhà Hán, có hai câu thơ: Sục vào núi Trĩ hươu chùn cổ Đuổi đến sông Ô khỉ ướt đuôi. Trong hai câu thơ mà có tới ba điển: Điển Núi Trĩ: Theo Vũ Lăng ký chép: Núi Bạch Trĩ có con trĩ trắng bằng đá, từ đầu đến đuôi dài chừng hai trượng, vươn cánh như muốn bay lên không. Lại theo Liệt di truyện chép: Mục công nhà Tần đi săn, bắn được chim trĩ cái, chim trĩ liền hóa ra một tảng đá. Do đấy người ta gọi núi ấy là núi Trĩ, tên một địa điểm then chốt của nhà Tần. Điển Hươu chùn cổ: Khoái Triệt nói với Hán Cao Tổ rằng: “Nhà Tần làm sổng con hươu, mọi người đều đuổi bắt, ai tài giỏi lanh chân thì bắt được”. Ở đây tác giả lấy chuyện con hươu để ví với ngôi vua nhà Tần. Khi Lưu Bang kéo quân đến Hàm Dương, vua Nhị đế nhà Tần yếu thế phải đầu hàng và ngôi vua bị lật đổ. Ý nói Lưu Bang đã bắt được vua nhà Tần. Điển Khỉ ướt đuôi: Hàn Sinh ví Hạng Vũ như con khỉ đội mũ. Khi đánh nhau với Lưu Bang, Hạng Vũ bị thua ở Cai Hạ và chạy đến (sông) Ô Giang tự vẫn. Hay bài Lại bài Khổng Thánh văn miếu có câu: Nguồn khơi Thu, Tứ thông nguồn đạo, Phép thấy Nghiêu, Văn dõi phép đời. 49
- Trong hai câu thơ có nhắc đến điển cố Nghiêu Thuấn tức là vua Đường Nghiêu và Ngu Thuấn là hai ông vua huyền thoại của Trung Quốc nổi tiếng về sự tài giỏi, đạo đức và lòng nhân từ. Ý nói Khổng Tử noi theo đạo thống vua Đường Nghiêu và Ngu Thấn, giữ vững phép tắc vua Văn vua, Vũ nhà Chu. Các tác giả Hồng Đức còn sử dụng điển để nói về sự nhớ nhung, xa cách của tình yêu trong mối tình Lưu Nguyễn va Tiên Tử: Tưởng người ngọc nữ thêm ngừng mặt Như nỗi Vu - sơn dễ chạnh lòng. (Lại bài Lưu Nguyễn hoài Tiên Tử) Trong bài thơ này, tác giả có sử dụng điển Vu – sơn. Theo lời tựa trong bài phú Cao đường của Tống Ngọc, thì vua nước Sở đi chơi Cao – đường, nằm mộng thấy tiên nữ cùng chung chăn gối. Khi ra đi thần nữ nói thiếp ở phía nam núi Vũ – sơn, buổi sáng làm mây, buổi chiều làm mưa. Do đấy sau người ta dùng điển này để tượng trưng cho sự hội ngộ của trai gái. Ngoài việc sử dụng điển thì việc sử dụng thi liệu Hán học cũng rất phổ biến. Ví dụ như trong bài Điếu Lê Du có câu: Dẹp yên tám cõi mới buông tay, Lồ lộ thai tinh một đóa mây. Trong hai câu thơ xuất hiện thi liệu là “thai tinh” tức là tên gọi chung của ba ngôi sao lớn. Đời cổ vi tam công ở trong triều như tam thai ở trên trời, nên thường dùng danh từ này để tượng trưng cho các viên quan lớn. Ở đây ý nói Lê Khôi làm quan to. Như vậy có thể thấy, các thi sĩ Tao Đàn đã khơi lại quá khứ để cổ vũ cho tương lai. Dùng điển là cách kết nối với tiền nhân - cách tri nhận những bài học lịch sử, cách lĩnh hội những phương diện khác nhau trong ý nghĩa của mỗi dữ kiện lịch sử. Nó phản ảnh tinh thần hồi cố điển nhã của những bậc túc nho từng ôm mộng đèn sách, coi sách vở từ chương là cái đích đẹp đẽ trong lí tưởng hành đạo của mình. 50
- KẾT LUẬN Thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập đưa chúng ta vào một cuộc hành trình. Một cuộc hành trình có chiều dài thời gian và chiều rộng không gian. Trong cuộc hành trình này chúng ta gặp lại những nhân vật, những sự kiện của những thời đại khác nhau. Có thời đã qua không bao giờ trở lại, nhưng sự tỏa sáng của nó còn mãi. Thơ vịnh sử đã đón bắt và tô điểm thêm những hồi quang của các tiền triều để soi sáng cho những thời đại tiếp theo. Như bất cứ một loại thơ nào cũng là sản phẩm của sáng tạo nghệ thuật, thơ vịnh sử luôn thể hiện một sự tìm tòi, một sự cách tân những yếu tố cũ, đối tượng cũ, khám phá những nét mới của đối tượng vịnh trên tinh thần thời đại. Khó có thể đòi hỏi thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc thi tập một sự sáng tạo hoàn toàn mới mẻ, những hư cấu về lịch sử mang đậm tính chất nghệ thuật mà phải đặt hệ thống thơ vịnh sử trong những loại tác phẩm thuộc loại hình văn học trung cổ để đánh giá chất lượng lịch sử được phản ánh, giá trị nghệ thuật, sức sáng tạo của thi nhân trong loại thơ này. Nhân vật trong thơ vịnh sử của Hồng Đức quốc âm thi tập rất phong phú. Đặc biệt, bên cạnh nhân vật Bắc sử là những nhân vật quen thuộc trong thơ vịnh sử thì Hồng Đức quốc âm thi tâp còn có một hệ thống những bài thơ vịnh Nam sử. Thông qua những bài thơ này các nhân sĩ Tao đàn muốn ghi lại những chặng đường đã qua của Đại Việt, những anh hùng Đại Việt đã làm nên chiến thắng, tất cả những sự kiện, con người đã qua thử thách của thời gian cần được lưu giữ, đánh giá và truyền cho thế hệ tiếp theo. Và dù vịnh nhân vật nào thì các tác giả Hồng Đức cũng luôn hướng tới duy trì truyền thống dân tộc, khẳng định sự tồn tại vững mạnh của chế độ phong kiến đương đại và chủ yếu là xây dựng ý thức tự hòa dân tộc, nâng cao cuộc sống tinh thần dân tộc. 51
- Về nghệ thuật, thơ vịnh sử của Hồng Đức quốc âm thi tập đã sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú và thể thơ thất ngôn xen lục ngôn. Giọng điệu thì đa dạng phù hợp với từng nhân vật được vịnh. Bên cạnh đó các tác giả Hồng Đức đã sử dụng điển tích điển cố góp phần nâng cao khả năng biểu hiện, tính hàm súc của ngôn ngữ, cũng như tính hình tượng văn học. “Giá trị thơ vịnh sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn” là một đề tài hấp dẫn. Tuy nhiên để tìm hiểu kĩ về vẫn đề này cần phải có rất nhiều thời gian và công sức. Vì vậy, với một khoảng thời gian ngắn cùng khả năng làm chủ tài liệu có hạn, nên có thể chúng tôi còn nhiều sai sót . Do đó chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô và các bạn sinh viên. 52
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Duy Dân(1997), Cảm hứng dân tộc và cảm hứng nhân văn qua thơ nôm vịnh sử của Lê Thánh Tông, Tạp chí Văn học số 8 2. Trần Quang Dũng (2005), Hồng Đức quốc âm thi tập trong tiến trình phát triển thơ nôm Đường luật, Nxb. Đại học sư phạm. 3. Phan Trọng Điềm – Bùi Văn Nguyên (1982), Hồng Đức quốc âm thi tập, Nxb. Văn học. 4.Lê Bá Hán (chủ biên) (1997), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb. Đại học quốc gia. 5. Đinh Gia Khánh (1980), Lịch sử văn học Việt Nam tập 1, Nxb. Khoa học tự nhiên Hà Nội. 6. Đinh Gia Khánh (chủ biên) – Bùi Duy Tân, Mai Cao Hương (1997), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X – nửa đầu thế kỉ XVIII, Nxb Giáo dục. 7.Nguyễn Đăng Na (chủ biên) – Lã Nhâm Thìn – Đinh Thị Khang, Văn học trung đại Việt Nam tập 1, Nxb Đại học Sư phạm. 8. Nhiều tác giả (1997), Hoàng đế Lê Thánh Tông con người và sự nghiệp, Nxb. Văn học. 9. Nhiều tác giả (2001), Hoàng Đế Lê Thánh Tông nhà chính trị tài năng, nhà văn hóa lỗi lạc, nhà thơ lớn. Nxb. Thanh niên. 10. Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận một số tác gia, tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, Nxb. Giáo dục.