Khóa luận Công tác vận động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh

pdf 54 trang thiennha21 16/04/2022 4301
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Công tác vận động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_cong_tac_van_dong_quan_chung_o_ba_vi_ha_noi_hien_n.pdf

Nội dung text: Khóa luận Công tác vận động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh

  1. Ƣ Ọ Ƣ Ộ KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ Ỗ THỊ U ƢƠ CÔNG TÁC VẬ ỘNG QUẦN CHÚNG Ở BA VÌ, HÀ NỘI HIỆN NAY THEO Ƣ ƢỞNG HỒ CHÍ MINH UẬ Ệ Ọ u ƣ tƣởng Hồ Chí Minh HÀ NỘI, 2019
  2. Ƣ Ọ Ƣ Ộ KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ Ỗ THỊ U ƢƠ CÔNG TÁC VẬ ỘNG QUẦN CHÚNG Ở BA VÌ, HÀ NỘI HIỆN NAY THEO Ƣ ƢỞNG HỒ CHÍ MINH UẬ Ệ Ọ u ƣ tƣởng Hồ Chí Minh ƣ ƣ d ọc: TS. PH M THỊ THÚY VÂN HÀ NỘI, 2019
  3. L I CẢ Ơ Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến TS.Phạm Thị Thúy Vân, người đã tận tâm nhiệt tình, hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, quý thầy cô trong khoa Giáo dục Chính Trị nói và các thầy cô trong tổ Tư tưởng Hồ Chí Minh, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đã quan tâm tạo điều kiện và giúp đỡ em trong quá trình học tập và nghiên cứu. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 05 năm 2019 Tác giả khóa luận ỗ Thị u ƣơ
  4. L O Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Công tác vận động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội hiện nay theo tưởng Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả nghiên cứu này không trùng với bất kì kết quả nghiên cứu của tác giả nào.” Hà Nội, tháng 05 năm 2019 Tác giả khóa luận ỗ Thị u ƣơ
  5. MỤC LỤC MỞ ẦU 1 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu 4 6. Đóng góp của khóa luận 4 7. Kết cấu của khóa luận 5 ƣơ 1. Ƣ ƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC VẬ ỘNG QUẦN CHÚNG 6 1.1. Một số khái niệm cơ bản 6 1.1.1. Khái niệm “quần chúng” 6 1.1.2. Khái niệm “Công tác vận động quần chúng” 8 1.1.3. Khái niệm “tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng” 10 1.2. Vai trò của quần chúng nhân dân và những nội dung cơ bản của công tác vận động quần chúng trong tư tưởng Hồ Chí Minh 10 1.2.1. Về vai trò của quần chúng nhân dân 10 1.2.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng nhân dân 13 Tiểu kết chương 1 24 ƣơ . VẬN DỤ Ƣ ƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC VẬ ỘNG QUẦN CHÚNG VÀO VIỆC THỰC HIỆN CÔNG TÁC VẬ ỘNG QUẦN CHÚNG Ở BA VÌ, HÀ NỘI HIỆN NAY 25 2.1. Những nhân tố tác động đến công tác vận động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội hiện nay 25
  6. 2.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư 25 2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 26 2.2. Thực trạng công tác vận động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội hiện nay và nguyên nhân 28 2.2.1. Thực trạng công tác vận động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội hiện nay 28 2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng 33 2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác vận động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh 36 2.3.1. Tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở Đảng bộ và chính quyền huyện Ba Vì 37 2.3.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền huyện Ba Vì trong công tác vận động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội 39 2.3.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động quần chúng ở huyện Ba Vì, Hà Nội 40 2.3.4. Tiếp tục quan tâm xây dựng đội ngũ, cán bộ công chức thực hiện công tác vận động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội 41 Tiểu kết chương 2 44 KẾT LUẬN 45 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 47
  7. MỞ ẦU 1. Lí do chọ đề tài “Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, Người đã dành tất cả tình cảm, trí tuệ và cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta”. Người đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá”, “đó là tư tưởng của Người, trong đó có quan điểm sâu sắc về vai trò của quần chúng nhân dân, đây cũng là yếu tố vô cùng quan trọng để Hồ Chí Minh xác định sức mạnh to lớn của nhân dân ta”. “Truyền thống trọng dân, dân là gốc trong tiến trình lịch sử Việt Nam và những bài học kinh nghiệm qua các triều đại phong kiến Việt Nam cũng là cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân”. Lịch sử đã chứng minh: Mỗi triều đại phong kiến Việt Nam trong thời kì hưng thịnh đều có quan điểm về dân đúng đắn, tích cực nên được dân ủng hộ, tập trung được sức mạnh của dân, đánh thắng được giặc ngoại xâm xây dựng được đất nước” phồn thịnh. “Kết quả này do nhiều nguyên nhân, nhưng cơ bản nhất là vua, quan không quan tâm đến dân, không đủ năng lực để điều hành đất nước, quan lại kéo bè, kéo cánh, đục khoét nhân dân, từ đó lòng dân ly tán, chính quyền sụp đổ”. Khi đất nước “bị thực dân Pháp” xâm lược, “các phong trào của nhân dân ta” diễn ra thường xuyên nhưng đều thất bại. Hồ Chí Minh nhận thấy “vai trò của quần chúng nhân dân” rất quan trọng và Người đã đi sâu vào công tác quần chúng để thức tỉnh họ. Phát huy “sức mạnh của quần chúng nhân dân trong thời đại mới thì Đảng và Nhà nước cần tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng” trong tình hình mới, luôn luôn coi “công tác vận động”, tổ chức “quần chúng nhân dân tham gia” vào mọi công việc của đất nước. Nói đến “công tác vận động quần chúng”, Hồ Chí Minh đã triển khai “công tác này một cách triệt để”, rõ ràng và thực hiện rộng rãi ở nhiều nơi trên đất nước. Huyện Ba Vì, Hà Nội là “cái nôi của huyền thoại Sơn Tinh – Thủy Tinh” từ thuở các vua Hùng dựng nước. “Trong tiến trình lịch sử của dân tộc, vùng đất này đã làm rạng rỡ thêm những truyền thống kiên cường dũng cảm trong chiến đấu chống thiên tai và chống giặc ngoại xâm”. Nhân 1
  8. dân cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động sản xuất xây dựng quê hương từ thế hệ này qua thế hệ khác trên quê hương núi tản sông Đà. “Nhân dân ở huyện Ba Vì, Hà Nội luôn thực hiện tốt chủ trương lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đề ra, đặc biệt là trong công tác vận động quần chúng theo tư tưởng Hồ Chí Minh”. “Công tác vận động quần chúng là một công tác quan trọng tác động đến sự phát triển của nền kinh tế”- xã hội, tác động sâu sắc đến các phong trào ở địa phương. “Cần nâng cao công tác vận động” quần chúng ở Ba Vì, phát huy những mặt tích cực và hạn chế trong công tác này nhằm “góp phần xây dựng” sự nghiệp “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực của huyện Ba Vì đã đạt được trong “công tác vận động quần chúng”, thì hiện nay “công tác này vẫn còn tồn tại một số hạn chế” cho nên chưa huy động được nhân dân tham gia vào những công tác chung của xã, huyện hoặc chưa phát huy được khối đại đoàn kết dân tộc. Và từ thực tế đó, đặt ra yêu cầu là cần phải “tăng cường, nâng cao hiệu quả hơn” nữa trong việc vận động quần chúng nhân dân. “Từ những lí do nêu trên, tôi đã lựa chọn đề tài”: “Công tác vận động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội hiện nay theo tưởng Hồ Chí Minh” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Cho đến nay việc “nghiên cứu công tác vận động quần chúng theo tư tưởng Hồ Chí Minh” đã nhận được nhiều “sự quan tâm của nhiều nhà khoa học”. Cụ thể như: - Đỗ Quang Tuấn (2005) (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Kiều Tô Hoài (chủ biên) (2011), Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng và việc vận dụng tư tưởng đó trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. - Nguyễn Bá Linh (chủ biên) (2005),“Khái niệm, nguồn gốc và quá trình hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2
  9. - Thanh Tuyền (chủ biên) (2005), Phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Phạm Thế Anh (chủ biên) (2012), Vấn đề đổi mới công tác vận động quần chúngvở Đảng bộ xã Tam Uyên, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2005 đến nay, “Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Lý luận chính trị - hành chính và nghiêp vụ” đoàn - đội - hội, Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ. - Lê Hoàng Minh (chủ biên), (2005),“Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động nông dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội”. Như vậy, nhìn chung “đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về công tác vận động quần chúng theo tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tuy nhiên, cho đến nay, nhìn chung “vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về công tác vận động quần chúng ở huyện Ba Vì, Hà Nội. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài này của tác giả là không bị trùng lặp với các công trình khác. Những “công trình nghiên cứu của các tác giả có giá trị” là tài liệu tham khảo, là nguồn tài liệu chủ đạo để khóa luận tốt nghiệp hoàn thiện những vấn đề nghiên cứu. 3. Mục đíc v ệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Khóa luận có mục đích làm rõ những nội dung cơ bản của “tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng, từ đó vận dụng hệ thống tư tưởng này vào việc nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ những “nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng. - Đánh giá thực trạng thực hiện công tác vận động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời, chỉ ra nguyên nhân của thực trạng đó. - Đề xuất một số giải pháp có “cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của công tác vận động quần chúng”ở Ba Vì, Hà Nội hiện nay “theo tư tưởng Hồ Chí Minh”. 3
  10. 4. ố tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu công tác vận động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu công tác vận động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí minh, trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2018. 5. ơ sở lí luậ v p ƣơ p áp cứu 5.1. Cơ sở lí luận Dựa trên những quan điểm của “chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”về vai trò của công tác quần chúng nhân dân. Những chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo và thực hiện công tác vận động quần chúng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong suốt quá trình nghiên cứu, khóa luận đã sử dụng một số phương pháp: phương pháp luận của triết học Mác-Lênin, các phương pháp khoa học xã hội” như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic. 6. ó óp của khóa luận “Khóa luận làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài: Công tác vận động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội theo tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay. Tìm hiểu “tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng, đó là những “lý luận và giá trị thức tiễn mà Hồ Chủ tịch để lại. Đồng thời, mong muốn những giá trị trong công tác vận động quần chúng sẽ được vận dụng và góp phần xây dựng đất nước dân chủ, văn minh, giàu mạnh, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay”. Khóa luận có thể tìm “tài liệu tham khảo cho sinh viên” trong việc tìm hiểu và nghiên cứu công tác vận động quần chúng”ở huyện Ba Vì nói riêng và của cả nước Việt Nam nói chung. 4
  11. 7. Kết cấu của khóa luận “Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 02 chương và 05 tiết. 5
  12. ƣơ 1 Ƣ ƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC VẬN ỘNG QUẦN CHÚNG 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm “quần chúng” Từ rất lâu quan niệm về “quần chúng hay còn được gọi là dân, nhân dân” được những nhà Nho giáo hoặc một số vị vua quan niệm như sau: Một là, “dân” trong quan niệm của Khổng Tử là Thần dân trăm họ, là ““bá tính” chịu sự cai quản thống trị của người chịu cai quản cao nhất là vua. Khổng Tử cũng có những tư tưởng trọng dân và hết sức vì dân. Theo “Khổng Tử, đức tin của dân giữ một vai trò quan trọng, nếu thiếu lòng tin của nhân dân thì chính quyền sớm muộn cũng sẽ sụp đổ. Khổng “Tử không chỉ quan tâm đến việc nuôi, dưỡng dân về mặt vật chất, “chăm lo đời sống tinh thần cho nhân dân”. Hai là, trong tư tưởng của Mạnh Tử dân là người lao động chân tay, họ đã và đang “sản xuất ra của cải vật chất duy trì sự tồn tại của xã hội”. Mạnh “Tử chú trọng đến việc “chăm lo đời sống no đủ cho nhân dân”, có thể nói tư tưởng “trọng dân”, “tín dân”, “dân vi quý”, quan tâm đến “đời sống vật chất, tinh thần cho dân, coi nhẹ hình phạt giáo hóa dân của Khổng Tử và Mạnh Tử đã trở thành tư tưởng tiền đề cho các học thuyết nói chung” và quan điểm về “dân” “vai trò nhân dân của Hồ Chí Minh” nói riêng. “Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn”, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng tam dân đó là: “độc lập dân tộc, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”. Tư “tưởng này đề cao hết sức vai trò của nhân dân và nó trở thành ba nguyên tắc: “Độc “lập - Tự do - Hạnh phúc” của cả “nước Việt Nam Dân Chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập” sau này. Ba là, “Nguyễn Trãi quan niệm về dân như sau: tư tưởng về dân của Nguyễn Trãi, đó là tư tưởng trọng dân, biết ơn dân”. Nguyễn “Trãi nhận thức được rằng lực lượng làm ra thóc, cơm ăn, áo mặc là do ở nhân dân; rằng điện ngọc cung vàng của vua chúa cũng đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân” 6
  13. mà có: “thường nghĩ quy mô lớn lao, lộng lẫy đều là sức lao khổ của quân dân”. Chính “xuất phát từ suy nghĩ như vậy, nên khi đã làm quan trong triều đình, được hưởng lộc của vua ban, Nguyễn “Trãi đã nghĩ ngay đến nhân dân, những người dãi nắng dầm mưa, những người lao động cực nhọc”. Do “đó, ông đã nhận thấy rất rõ những đức tính cao quý của nhân dân, hiểu được nguyện vọng tha thiết của nhân dân, thấy rõ được sức mạnh vĩ đại của nhân dân trong sáng tạo lịch sử”. Từ “những quan điểm trước, chủ nghĩa Mác – Lênin đã “kế thừa và phát triển quan điểm về quần chúng nhân dân vượt trội so với các quan điểm khác trong lịch sử xã hội”. Chủ “nghĩa lịch sử duy vật cho rằng”: Quần “chúng là người sáng tạo ra lịch sử”. Vai trò của quần chúng nhân dân rất quan trọng, trong chủ nghĩa duy vật lịch sử được thể hiện trên ba quan điểm sau”: Quần chúng là lực lượng sản xuất, lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Quần chúng là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng trong xã hội”. Quần chúng là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần và văn hóa vật chất. Trong“Wikypedia, “quần “chúng hay còn gọi là nhân dân, người dân, dân là thuật ngữ chỉ về toàn thể những con người sinh sống trong một quốc gia, và tương đương với khái niệm dân”tộc”. Nhân “dân còn có khái niệm rộng hơn và được sử dụng trong pháp lý, trong tư tưởng chính” trị. Trong “lĩnh vực chính trị pháp lý, nhân dân còn tương đồng với thuật ngữ công dân là những con người mang quốc tịch và được bảo hộ của một nhà nước nơi họ đang sinh sống và thông thường là không bao gồm những người trong bộ máy cai” trị. Khái “niệm quần chúng hay còn được gọi là dân, nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh” có nội hàm rất rộng, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa là mỗi con người Việt Nam cụ thể, cả hai đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc”. Đó “là “Mọi con dân nước Việt”, “Mỗi một con Rồng cháu Tiên”, “không phân biệt dân tộc, tín” ngưỡng”, “già, trẻ gái trai, giàu nghèo, 7
  14. quý tiện” [16, tr.195]. Hồ “Chí Minh đưa ra một số quan điểm về quần chúng như sau”: Thứ “nhất, “quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử, cách mạng là sự nghiệp quần chúng”. Hồ “Chí Minh luôn có lòng tin vô tận đối với quần chúng. Người “luôn chăm lo tăng cường mối liên hệ với quần chúng, coi đó là “nguồn sức mạnh tạo nên mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng”. Thứ “hai, Hồ Chí Minh có viết: “quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội, quần chúng còn là người sáng tác nữa”. Những “sáng tác ấy là những hòn ngọc quý”. Những “giá trị tinh thần do nhân dân sáng tạo là cơ sở cho sự phát triển văn hóa nghệ thuật”. Như vậy, quan điểm của Hồ Chí Minh về quần chúng là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định. 1.1.2. Khái niệm “Công tác vận động quần chúng” Khái “niệm “công tác vận động quần chúng” còn được hiểu là “công tác dân vận”. Là làm cho dân tin tưởng, ủng hộ và thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra. Là “tuyên truyền cho dân hiểu để loại bỏ những hủ tục lạc hậu từ thời xa xưa hoặc các phong tục tập” quán như: “mê tín dị đoan ở một số dân tộc ít người sống ở khu vực miền núi nước ta hoặc hủ tục cướp vợ, chữa bệnh bằng phương thức cúng bái”. Dân “vận là vận động tất cả các lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân”, “để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”. Dân “vận không thể chỉ dùng, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, báo chương, truyền đơn, chỉ thị mà đủ” mà phải kết hợp công tác vận động tuyên truyền đến từng người dân để dân hiểu và thực hiện. “Hồ Chí Minh có nói về công tác dân vận”: “Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân”, “Phải “đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết” [17, tr.432]. Trong “lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, khuyến khích dân”. Khi “thi hành xong phải cùng với dân kiểm tra lại công việc, rút kinh nghiệm, phê 8
  15. bình và khen thưởng động viên dân”. Chủ “tịch Hồ Chí Minh dạy chúng ta, muốn làm công tác dân vận khéo thì phải thật sự yêu dân, kính dân, thương dân và hiểu dân, phải biết vận động nhân dân làm tốt những việc có lợi cho cách mạng, cho đất nước”, “để đem tài dân, sức dân, của dân mà làm lợi cho dân”. Ðây “sẽ là cẩm nang cho Ðảng và Nhà nước ta trong tiến trình lãnh đạo, tổ chức toàn dân tiến hành sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Chủ “tịch Hồ Chí Minh còn nêu bật vai trò nhân dân trong đổi mới đất nước và đi lên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” mà trong Di chúc Người đã căn dặn Ðảng ta, “trong cuộc chiến đấu chống lại những hư hỏng, nghèo nàn, lạc hậu để xây dựng những cái mới mẻ, tốt tươi thì phải dựa vào nhân dân, giáo dục và tổ chức toàn dân”. Những “việc đó chính là để nhân dân tự giác thực hiện trách nhiệm của mình, có những đóng góp nhiều nhất vào quá trình tiến hành đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta” hiện nay. Phát “huy quyền làm chủ của nhân dân, trong nhiều tác phẩm, bài nói và viết trên các bài báo”, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh: “Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân thi hành”. “Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, thực hiện đường lối mở cửa, hội nhập của Ðảng, mỗi cán bộ, đảng viên của đảng cầm quyền, để thật sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, thiết nghĩ tự mỗi người cần thường xuyên học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh”: “Dân “vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” [16, tr.698]. Như “vậy, “công tác vận động quần chúng là vận động nhân dân làm tốt những việc có lợi cho cách mạng”, là làm cho dân tin tưởng, “ủng hộ và thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước”, đồng thời “phải tuyên truyền cho dân hiểu và thấy được lợi ích của dân để nhân dân tự giác thực hiện trách nhiệm của mình trong công cuộc xây dựng sự nghiệp đất nước”. 9
  16. 1.1.3. Khái niệm “tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng” Hồ “Chí Minh có quan điểm nhất quán về dân, vạch rõ nguồn gốc, lực lượng tạo ra quyền hành đó là nhân dân Đây “là quan điểm gốc để Người coi sự nghiệp cách mạng quần chúng nhân dân; công cuộc đổi mới, xây dựng, kháng chiến kiến quốc là trách nhiệm và công việc” của dân. Theo “quan điểm Hồ Chí Minh thì dân có vai trò rất quan trọng, tất cả mọi lợi ích đều vì “nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích nào khác”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân; việc gì có lợi cho dân chúng dù nhỏ cũng có gắng, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng phải tránh”. Dân “là gốc của nước, Hồ Chí Minh luôn luôn tâm niệm”: Phải “làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành”. Khái “niệm "công tác vận động quần chúng" cũng được sử dụng bằng cụm từ "dân vận". “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết”: "Dân “vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã giao cho". Như vậy, “tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng là hệ thống quan điểm” toàn diện sâu sắc về: “xây dựng củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc”; “trách nhiệm của Đảng và Chính quyền trong công tác vận động quần chúng, tuyên truyền”; “vận động và tổ chức quần chúng nhân dân tham gia sự nghiệp cách mạng”; “yêu cầu đối với cán bộ làm công tác vận động quần chúng”. Đó “là hệ thống tư tưởng có ý nghĩa chỉ đạo đối với thực tiễn cách mạng Việt Nam”. 1.2. Vai trò của quần chúng nhân dân và những nộ du cơ bản của công tác vậ động quầ c ú tr tƣ tƣởng Hồ Chí Minh 1.2.1. Về vai trò của quần chúng nhân dân “Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc ta”. Không “những 10
  17. vậy, Người “còn là một là chiến sĩ xuất sắc, nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc”. Trong “lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các vị anh hùng dân tộc, các bậc minh quân đều đánh giá cao vai trò, sức mạnh quật cường của nhân dân Việt Nam”, “biết tập hợp và khai thác lực lượng của nhân dân lập nên những chiến công lẫy lừng và những thành công rực rỡ”. Nghiên “cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, từ những bài nói, bài viết, cho đến cả cuộc đời hoạt động cách mạng vô cùng phong phú và và đa dạng, ta thấy quan điểm quần chúng của Người vô cùng đúng đắn, kiên định, phong phú, sáng tạo và mang tính chất độc đáo của Việt Nam”. Ở “quan điểm quần chúng của Hồ Chí Minh, ta không những thấy tư tưởng tiến bộ, đúng đắn của chủ nghĩa Mác về vai trò quần chúng trong lịch sử”. “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, quần chúng nhân dân vừa là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, vừa là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội, đồng thời cũng là người sáng tạo, lưu giữ những giá trị văn hóa tinh” thần” , “mà còn thấy sự phát triển sáng tạo và truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam”. Hồ “Chí Minh đã nêu cao quan điểm về con người, và đồng thời là quan điểm về dân”: “Tất “cả vì con người và do con người; tất cả vì dân và do dân; con người là vốn quý nhất, là lực lượng to lớn nhất”. Tư “tưởng đó được thể hiện trên nhiều phương diện”. Trước “hết đó là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh”: Sống “vì nước, vì dân, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xã hội. Con người vừa là mục tiêu”, vừa “là động lực biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui, hạnh phúc”. “Quan “điểm về con người, về nhân dân của Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở tư tưởng chính trị”- xã hội” “ dân là chủ”. Bao “nhiêu lợi ích và quyền hạn đều làm cho dân và vì dân”. “Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Quan “điểm về vai trò của quần chúng nhân dân”, “về con người ở Hồ Chí Minh đã trở thành phương pháp, tác phong công tác”: “tin ở dân, dựa vào dân, học hỏi dân”. “Có dân là có tất cả”. “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong” [23, tr.212]. “Quan “điểm về tác phong quần chúng của Hồ Chí Minh bao hàm nhiều nội dung phong phú”. Trước “hết đó là niềm tin tưởng mãnh liệt vào sức 11
  18. mạnh vĩ đại của quần chúng; là tính khiêm tốn học hỏi quần chúng, tôn trọng quần chúng; quan tâm đến lợi ích thiết thân của quần chúng; sống có tình có nghĩa với quần chúng - một truyền thống tốt đẹp của nhân dân” ta. Ngay “từ những ngày đầu cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng”: Công “tác vận động quần chúng là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng”, “có ý nghĩa quyết định cho sự thành bại của cách mạng Việt Nam”. Tư “tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận - công tác vận động quần chúng - là một hệ thống những quan điểm, phương thức dân vận được thấm nhuần trong cả cuộc đời và trong các tác phẩm của” Người. Thương “yêu nhân dân, thương yêu con người, tin tưởng ở sức mạnh đoàn kết của nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân là quan điểm bao trùm trong toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh”, “cơ sở để hình thành tư tưởng về công tác dân vận của” Người. “Người luôn ý thức dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết”. “Dân là gốc của nước. Trong “bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Trong xã hội muốn thành công phải có ba điều kiện là thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa. Nhân hòa là quan trọng hơn hết” [16, tr.194]. Tư “tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân “xuất phát từ cơ sở nhận thức khoa học” đúng đắn: “Cách “mạng là sự nghiệp của nhân dân. Vấn “đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề đoàn kết, dân có đoàn kết lại thì mới tập hợp được đông đảo nhân dân”. Đảng “dù vĩ đại đến mấy cũng chỉ là một bộ phận của nhân dân”. Người nêu lên một luận đề như một chân lý: “Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” [16, tr.698]. Hồ “Chí Minh muốn khẳng định công tác dân vận không chỉ là những thao tác cụ thể, những “công thức có sẵn mà bản thân nó là một khoa học - khoa học về con người, một nghệ thuật - nghệ thuật tiếp cận và vận động con người, phải dày công tìm tòi suy nghĩ để phân tích chính xác tình hình nhân” dân, vận “dụng sáng tạo và phát triển lý luận vào thực tiễn sinh động để vận động nhân dân có hiệu quả”. “Mắt “trông, tai nghe, chân đi” là “yêu cầu sát cơ sở, sát thực tế, đến với nhân dân để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân mà giúp dân giải quyết các 12
  19. công việc cụ thể, đề xuất chính sách hoặc điều chỉnh chính sách cho phù hợp”,“vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách”. “Miệng“nói, tay làm” là “phong cách quan trọng nhất hiện nay”, “phải thật thà nhúng tay vào việc”, “không “được nói một đằng, làm một nẻo, miệng thì vận động người khác nhưng mình thì không làm hoặc làm ngược lại”. Bác cũng nghiêm khắc phê phán “bệnh nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh” [16, tr.73]. Đối “lập với tác phong “miệng nói, tay làm” là lối “chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh” tức là “nói mà không làm, và nếu có làm thì chỉ làm việc theo lối quan liêu” “bàn giấy”. Hồ “Chí Minh nhấn mạnh hậu quả và tác hại của căn bệnh này”: Cái “lối làm việc như vậy rất có hại”. Nó “làm cho chúng ta không đi sát phong trào”, không “hiểu rõ được tình hình bên dưới cho nên phần nhiều chủ trương của chúng ta không thi hành được đến nơi”, đến “chốn làm ảnh hưởng đến lợi ích nhân dân” nói chung. “Người làm dân vận phải thật thà” “nhúng” tay vào việc, tức “là làm việc một cách thật sự”, phải “cùng lao động, cùng chiến đấu, lăn vào cuộc sống hàng ngày của quần chúng để thực hiện mục đích của công tác dân vận”. Nếu “chỉ nói xuông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh” thì “làm sao hiểu được dân”, làm sao “vận” được dân, “làm sao dân hiểu và thực hiện, làm sao để dân có tự do, hạnh phúc thật”sự”. Về “vai trò của quần chúng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong những năm qua được Đảng ta vận dụng một cách đúng đắn và công tác dân vận của cả hệ thống chính trị được triển khai với nhiều nội dung, hình thức phong phú”. Cần phát huy vai trò của quần chúng hơn nữa trong tình hình mới, để đạt kết quả tốt và thành công trong những lĩnh vực” khác nhau. 1.2.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng nhân dân Một là, “xây dựng và củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc” Ngay “khi giành được thắng lợi, chủ tich Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò to lớn của khối đại đoàn kết dân tộc là một vai trò vô cùng quan trọng”. Theo Người: “Muốn “đoàn kết toàn dân, cần phải có một đoàn thể rộng lớn, rất độ lượng thì mới có thể thu hút được mọi đoàn thể và cá nhân có 13
  20. lòng thiết tha yêu nước, không phân biệt tuổi tác, gái trai, tôn giáo, nghề nghiệp, giai cấp, đảng phái” [8, tr.480]. Đại “đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân tổ chức lãnh đạo là các tổ chức Đảng”, được “thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó có các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu”. Phát “huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trước hết là trách nhiệm của Đảng vì Đảng là hạt nhân lãnh đạo”, là “Đảng cầm quyền của cả hệ thống chính trị, Đảng lãnh đạo toàn dân tộc Việt” Nam. Đường “lối đúng đắn của Đảng là yếu tố quan trọng hàng đầu để khơi dậy và phát huy sức mạnh toàn thể nhân” dân. Đổi “mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng để Đảng đoàn kết, thống nhất, và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đồng thời phải đào tạo một đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực, gắn bó mật thiết với nhân dân, làm việc có trách nhiệm và có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân” ta. Thấm nhuần lời Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức” [11, tr.16]. Từ đó, “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước”, Nhà “nước là trụ cột của hệ thống chính trị, người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng mà cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, “bảo đảm những nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; cán bộ, công chức phải thật sự là công bộc của dân”. Đây là “yếu tố rất quan trọng, bảo đảm sự bền vững chặt chẽ của cả hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân” tộc. Đảng ta đã “xác định việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc”, tập “hợp rộng rãi sức mạnh toàn dân và phát huy cao độ sức mạnh vật chất tinh thần nhằm thực hiện các mục tiêu cách mạng không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời, mà là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài về sau trong mọi thời kì cách” mạng”. Mặc “dù có lúc, có nơi chưa quán triệt một cách đúng đắn và đầy đủ lối đại đoàn kết, nhưng về tổng thể, xuyên suốt các chặng đường lãnh đạo cách mạng”, Đảng “ta thường xuyên chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết, phê phán 14
  21. các quan điểm coi thường công tác mặt trận, đánh giá không đúng vai trò của quần chúng nhân” dân. Thực “tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam chỉ cho thấy khi nào từ trung ương đến thẩm uyền thấm nhuần quan điểm xác định vai trò vị trí của nhân dân đúng với tư cách là chủ thể lịch sử”. “Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân là một yếu tố nội sinh có ý nghĩa to lớn quyết định thành công hay thất bại của cách mạng dân tộc và coi trọng được xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân thì sự nghiệp cách mạng dù khó khăn đến mấy cũng thể vượt qua và giành thắng lợi vẻ vang”. Đại “đoàn kết dân tộc hiểu theo nghĩa chung là thực thể liên kết giữa các giai cấp, tầng lớp dân cư, tôn giáo và các tầng lớp nhân dân vừa có lợi ích chung vừa có lợi ích” riêng.Trong “xã hội, mỗi giai cấp, các tầng lớp có lợi ích riêng khác nhau”, song về cơ bản lại “thống nhất ở lợi ích dân tộc chân chính, cùng một chung mục tiêu là nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh”. Mặt khác, “bên cạnh lợi ích chung, mỗi giai cấp có lợi ích riêng. Vì “vậy, đường lối chính sách của Đảng phải được đảm bảo hài hòa giữa lợi chung và lợi ích riêng của mỗi giai cấp, tầng lớp, bả đảm chăm lo cho xây dựng cơ sở xã hội của chế độ trong xã hội”. Trong “cách mạng dân tộc dân chủ và độc lập và thống nhất Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng cao cả của mọi con người Việt Nam”. Giương “cao ngọn cờ, Đảng đã phát huy được mọi sức mạnh của giai cấp, của mọi tầng lớp, mọi dân tộc và tôn giáo trong Mặt trận dân tộc thống nhất phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt” Nam. Đồng thời, “Đảng cũng coi trọng việc đề ra các chính sách cụ thể nhằm đáp ứng từng bước yêu cầu, nguyện vọng của từng giai cấp và tầng lớp khác nhau”. “Đảng và Nhà nước đề ra nhiều chủ trương, chỉ thị hay những chính sách và hệ thống pháp luật nhằm bảo dảm thực hiện yêu cầu dân chủ, bình đẳng, công bằng trên tất cả các mặt trong xã hội như: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cho các giai cấp, tầng lớp, các đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, kể cả người Việt Nam đang sinh sống định cư nước” ngoài”. Chính vì vậy, “Đảng đã và đang huy động mạnh sức mạnh đông đảo khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước Việt Nam”. 15
  22. Hai là, “trách nhiệm của Đảng, chính quyền trong công tác vận động quần chúng”. Công “tác vận động quần chúng của Đảng bao giờ cũng là vấn đề có ý nghĩa chiến lược nhằm tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân”. “Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc” [3, tr.160]. Trong “thời kỳ mới của cuộc cách mạng, mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân tiếp tục được khẳng định trong nhiều những Nghị quyết khác nhau của Đảng”, đó là việc: “đổi“mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân”. Các “tổ chức Đảng, các cán bộ, Đảng viên phải làm tốt công tác quần chúng vì đây là công tác cơ bản của Đảng”, “nó có mối quan hệ với công tác xây dựng Đảng, xây “dựng chính quyền Nhà nước của dân, do dân và vì dân”. “Cán “bộ, đảng viên và đoàn viên phải đoàn kết chặt chẽ; phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích chung của nhân dân lên trên lợi ích riêng của mình; phải làm gương mẫu trong đoàn kết dân” tộc” [18, tr.96]. Từ đó, “Đảng cũng khẳng định”: Công “tác quần chúng không những là trách nhiệm của các đoàn thể mà còn là trách nhiệm của tất cả tổ chức khác trong hệ thống chính trị, có phối hợp với nhau chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng”. “Mọi cán bộ Đảng viên, nhân viên Nhà nước đều phải làm công tác quần chúng theo chức trách của mình và hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình”. Có “như vậy, mới tập hợp được mọi lực lượng, đoàn kết được toàn dân dân tộc”. Tư “tưởng xem nhẹ công tác vận động quần chúng hoặc khoán trắng cho Mật trận đoàn thể cần được phê phán và khắc phục triệt” để. Những “quan điểm chỉ đạo đổi mới công tác vận động quần chúng trên là sự tổng kết từ thực tiễn cách mạng nước ta, vừa có tính lý luận vừa có tính thực tiễn sâu sắc cần tiếp tục vận dụng quán triệt trong tình hình” mới. Trên “cơ sở phương hướng công tác vận động quần chúng của Đảng trong thời kỳ mới, cần xác định và thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ lớn của công tác vận động quần chúng” hiện nay. Cụ “thể thực hiện tốt việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc”, phát “huy vai trò làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Căn “cứ nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, căn cứ vào sự 16
  23. chuyển dịch cơ cấu xã hội, giai cấp để xác định các chính sách cụ thể đối với từng giai cấp, tầng lớp xã hội, tạo được động lực mới thúc đẩy phong trào cách” mạng. Các “cấp ủy phải luôn tăng cường và kiện toàn, đổi mới đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng”, phải “luôn coi trọng lãnh đạo và kiểm tra các cấp chính quyền về trách nhiệm phục vụ nhân dân, cải cách nền hành chính Nhà nước, khắc phục mọi biểu hiện sai trái, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân”. Công “tác vận động quần chúng có vai trò đặc biệt quan trọng nhằm giáo dục, tổ chức và vận động nhân dân ta vượt qua khó khăn thử thách, tạo nên bước tiến nhanh và vững chắc để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, bảo đảm thắng lợi của công cuộc đổi mới đất” nước. Trong “quan hệ giữa dân và Đảng, Hồ Chí Minh quan niệm”: dân “là chủ và dân làm chủ thì Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên là đầy tớ và làm đày tớ cho dân”. Dân “chủ trong xã hội Việt Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội” Dân “chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất, nổi bật nhất và được biểu hiện tập trung trong hoạt động của Nhà nước”. Hồ “Chí Minh coi dân chủ thể hiện ở việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân”. Dân “chủ không dừng lại với tư cách như là một thiết chế xã hội của một quốc gia, mà còn có ý nghĩa biểu thị mối quan hệ quốc tế, hòa bình giữa các dân tộc”. Đó “là dân chủ, bình đẳng trong mọi tổ chức quốc tế, là nguyên tắc ứng xử trong các quan hệ quốc tế”. Ngay “sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, Hồ “Chí Minh đã chủ trương xây dựng và ban hành bản Hiến pháp mới”. “Hiến pháp năm 1946 đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện quyền lực của nhân dân”. Điều “đó thể hiện rõ ở Chương II Hiến pháp năm 1946 gồm 18 điều quy định về nghĩa vụ và quyền lợi công dân, điều 6 ghi rõ”: “Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”. Quan “điểm nhất quán của Hồ Chí Minh đáp ứng được khát vọng của cả dân tộc: độc “lập cho dân tộc, 17
  24. dân chủ cho nhân dân, cơm no áo ấm cho mọi người dân Việt Nam”. Hồ “Chí Minh cho rằng”, Đảng “trở thành hạt nhân chính trị của toàn xã hội là nhân tố tiên quyết để bảo đảm tính chất dân chủ của xã hội”. Dân “chủ trong Đảng trở thành yếu tố quyết định tới trình độ dân chủ của toàn xã hội, phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực có trong dân để đem lại lợi ích cho nhân” dân. Ba là, “tuyên truyền, vận động và tổ chức quần chúng nhân dân tham gia sự nghiệp cách mạng”. Khi “nói về vai trò và sức mạnh của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định”: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng” [21, tr.197]. Ngày 15/10/1949, Người “viết bài “Dân vận” đăng trên tờ “Sự Thật” số 120. Đến “nay, tuy hơn sáu thập kỷ đã trôi qua nhưng bài báo ấy vẫn tỏa sáng những quan điểm tư tưởng xuyên suốt của Hồ Chí Minh về công tác vận động quần” chúng. Hội “nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa VIII) một lần nữa đã khẳng định vai trò công tác dân vận “Đổi “mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân” và “quyết định lấy ngày 15/10 hàng năm làm ngày Dân vận, xem đây là dịp kiểm điểm và tăng cường nhận thức, hành động để củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân” dân. Từ “những ngày đầu hoạt động, Hồ Chí Minh đã dạy công dạy cho cán bộ nhận thức được sâu sắc rằng”: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Vì vậy, khi “ở Liên Xô về Trung Quốc, cuối năm 1924, Hồ “Chí Minh đã tìm mọi cách liên lạc”, đưa “thanh niên ta sang Quảng Châu mở lớp đào tạo những hạt giống cho cách mạng”. Trong “số những người học trò đầu tiên của Hồ Chí Minh lúc bấy giờ có đồng chí Trần Phú, sau này trở thành Tổng Bí Thư của Đảng ta”. Thời “kỳ Hồ Chí Minh đi công tác Côn Minh - Hồ Khẩu, thời gian rất ngắn, công việc lại nhiều, nhưng “tối đến Hồ Chí Minh vẫn triệu tập mọi người đến giảng giải về công tác cách mạng, nhiệm “vụ của người đảng viên”. Khi về Pác Bó, có “điều kiện hơn ở ngoài nước, nhiều lớp huấn luyện chính trị và quân sự được Hồ Chí Minh”liên tiếp mở ra thu hút rất nhiều cán bộ ta”. Mỗi “lớp như thế thường được mở trong tuần hay mười hôm”. Hồ Chí Minh đào tạo, huấn “luyện anh em rồi trả họ về cơ sở, rèn luyện họ trong thực tiễn cách mạng”. Đối “với Hồ Chí Minh, một hạt giống tốt không thể để 18
  25. tự nó lớn lên và chết dần mà phải làm cho nó nảy nở ra trăm ngàn hạt giống” khác”. Lớp “học lúc bấy giờ cũng rất đơn giản, không bàn không ghế”. Mấy “anh em ngồi xung quanh đống lửa vừa được sưởi ấm vừa được nghe nói chuyện”. Những “câu chuyện Hồ Chí Minh nói thường là những câu chuyện thực trong đời sống hàng ngày”, hay “trong cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô” Một lần, có “một số anh em bàn riêng với nhau chuẩn bị giết tên tổng đoàn - tên này rất ác, sau hắn giết anh Kim Đồng - trong một buổi huấn luyện, Hồ Chí Minh đem đọc cho mọi người nghe đoạn nói về tả khuynh và ám sát cá nhân trong cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô”. Đọc xong Người giải thích: “Ám sát cá nhân không phải là đường lối cách mạng chân chính. Nhất là khi ta chưa nắm được chính quyền, chủ trương ám sát cá nhân là một điều hết sức sai” lầm”. Thường “đấy là những cái cớ để bọn đế quốc tìm cách tăng cường đàn áp cách mạng”. Mục “tiêu của ta là tiêu diệt bọn đế quốc, bọn “phong kiến thống trị chứ không phải là giết một thằng là xong”. Hôm “nay chúng ta giết thằng này, ngày mai chúng lại đưa thằng khác lên”. Chủ “trương đúng đắn nhất của những người cách mạng chân chính là biết cách tổ chức quần chúng lại thành một khối thống nhất, vững chắc, đấu tranh tiêu diệt cả chế độ của” chúng. “Mấy anh em ngồi nhìn nhau, không hiểu làm sao Hồ Chí Minh lại biết được ý của một số anh em”. Nhưng “cũng từ đó, anh em nhận thức thêm được một vấn đề mà từ trước còn mờ mịt, còn nhầm lẫn đúng sai”. Cứ “qua thực tế như vậy Hồ Chí Minh đã đem ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin rọi vào trí óc non nớt và thơ ngây của chúng tôi, giúp chúng tôi đi những bước vững chắc trong công tác cách mạng”. Lúc “bấy giờ, Hội nghị Trung ương lần thứ VIII chưa họp, nhưng “Hồ Chí Minh đã lập ra những hội cứu quốc”: “Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc”. Hồ “Chí Minh giải thích: Chúng ta muốn có một đội võ trang mạnh”, trước “hết phải có một đội quân tuyên truyền mạnh, đội quân chính trị vững”. Hồ “Chí Minh lấy một đoạn trong cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô nói cho chúng tôi nghe. Khi cách mạng tháng Hai lật đổ Nga hoàng”, bọn “Kêrenxki nắm chính quyền, Lênin chủ trương phải đi giải thích cho quần chúng rõ”. Lênin “nhấn mạnh: giải thích và giải thích”. Muốn “giải thích phải có đội quân chính trị”. Nói “xong 19
  26. Hồ Chí Minh kết luận”: ở “nước ta hiện nay, muốn đánh Pháp, đuổi Nhật thì ai là người vác súng, ai là người tự giác, tự nguyện đứng dậy làm cách mạng. Đó là đa số đại quần chúng”. Cho “nên ta phải tuyên truyền vận động quần chúng”. Có “như vậy cách mạng mới thắng được. Người“đề nghị chúng tôi làm thế nào giáo dục quần chúng để trong một thời gian ngắn ta có được một phong trào chống Pháp đuổi Nhật như ngọn thủy triều dâng lên ở các địa phương”. Trong “công tác cũng như trong khi giảng dạy ở các lớp huấn luyện”, Hồ Chí Minh “chú trọng đặc biệt đến cách tuyên truyền vận động quần chúng”. Hồ Chí Minh thường nói: “Chúng ta ở rất bí mật. Nhưng đó là bí mật với tụi tổng đoàn, với bọn mật thám, bọn Tây, bọn thống trị chứ không phải bí mật với nhân dân” [9, tr. 14]. Hồ “Chí Minh còn yêu cầu lấy quần chúng làm bình phong bảo vệ và che chở cho cách mạng”. Muốn “được như thế, cán bộ không được làm cái gì trái với ý quần chúng, trái với phong tục tập quán địa phương”. Có “những phong tục tốt, cần giữ lại. Cũng có nhiều phong tục tập quán không tốt, cần phải thay đổi”. Nhưng “không phải tự ý cán bộ thay đổi ngay một lúc mà phải vận động từ từ để quần chúng giác ngộ và tự cải cách lấy”. Trong “những năm đất nước ta còn nằm dưới ách đô hộ của thực dân đế quốc xâm lược”. Công “cuộc kháng chiến luôn gặp muôn ngàn khó khăn thử thách, nhưng do Đảng ta biết dựa vào sức dân, tạo “được thế trận lòng dân và được dân tin yêu hết lòng ủng hộ”. Chính “nhân dân là người không tiếc máu xương, của “cải để bảo vệ Đảng, che chở cách mạng”. Bài “học về sức mạnh to lớn của nhân dân và sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân có ý nghĩa sâu sắc không chỉ đối với Cách mạng tháng Tám 1945 mà còn xuyên suốt hai cuộc kháng chiến cho đến ngày thống nhất non sông”. Ngày “nay trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”, quán “triệt sâu sắc lời dạy của Bác Hồ, Đảng“ta một lần nữa khẳng định mạnh mẽ quan điểm” “Lấy dân làm gốc”. Trên tinh thần đó, công “tác Dân vận thật sự đã góp phần làm cho mối quan hệ giữa Đảng”, Nhà “nước với nhân dân được củng cố và phát triển”, đưa “đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế và tiếp tục phát triển kinh tế theo hướng hiện đại hóa, chính trị ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững”. 20
  27. Tiếp “thu chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng chủ nghĩa ấy vào thực tiễn, Hồ Chí Minh càng thấm sâu chân lý: Cách “mạng là sự nghiệp của quần chúng; và trong tư tưởng tình cảm và hành động, Người “luôn thể hiện nhất quán chân lý đó. Quần “chúng cách mạng chính là các tầng lớp nhân dân nước ta mà Hồ Chí Minh đã tìm thấy sức mạnh to lớn ở họ. Cơ “sở của quan điểm tư tưởng ấy là lòng tin vào con người của Hồ Chí Minh. Người “cho rằng, nhân dân rất thông minh, cần cù lao động sáng tạo; nhân “dân là lực lượng đông đảo của toàn xã hội; nhân “dân là người hiểu biết tất cả; nhân “dân là nguồn sức mạnh vô tận ở mọi nơi, mọi lúc. Chính “vì thế, Người cho rằng nhân, nghĩa là nhân dân và trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng của nhân dân. Tư “tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân được hình thành trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc” địa. Những “thành công hay thất bại của các phong trào ấy đều được Người nghiên cứu rút ra những bài học cần thiết cho việc hình thành tư tưởng về sức mạnh của nhân dân. Hồ “Chí Minh chỉ rõ, Đảng “lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, nhưng “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân đông đảo. Người “nhắc nhở, công “tác dân vận của Đảng phải tìm mọi cách giải thích cho từng người dân hiểu rõ, việc “mình làm là vì lợi ích của chính họ, nên họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Người “cũng chỉ rõ làm bất cứ việc gì cũng phải bàn với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân thi hành”. Đảng “phải lãnh đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải phóng và xây dựng xã hội mới do mình làm chủ”. Sự “nghiệp ấy chỉ có thể được thực hiện bằng sức mạnh của nhân dân”. Nhân “dân mới chính là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ thể của lịch sử, là người làm nên lịch sử”. Người “nhấn mạnh, cá nhân dù có tài giỏi mấy cũng không thay thế được nhân dân”. Trong “xu thế mở cửa hội nhập trong khu vực và trên toàn thế giới, nước ta đang có nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn, đặc biệt là âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch chia rẽ khối đại đoàn kết 21
  28. toàn dân, hòng làm giảm sức mạnh của lực lượng quần chúng trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất” nước. Các “cấp ủy Đảng, chính quyền, ban ngành, đoàn thể cần phải sâu sát hơn nữa quan điểm của Đảng về công tác Dân vận”; coi “trọng việc giữ gìn, phát huy mối quan hệ khắn khít giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, thực hiện tốt phương châm ý Đảng - lòng dân trong mọi chủ trương, việc làm của mình”. Mỗi “cán bộ đảng viên phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng nhân dân và hướng dẫn nhân dân, tổ chức thành lực lượng, thành “phong trào hành động cách mạng trên các lĩnh vực, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” Riêng “các tầng lớp của nhân dân cần tích cực tham gia xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức”. Hướng “tới kỷ niệm 89 năm Ngày truyền thống công tác Dân vận (15/10/1930 - 15/10/2019) mỗi cán bộ, đảng viên càng ra sức học tập”, rèn “luyện để trở thành tấm gương cho quần chúng noi theo, nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần XI của Đảng đã đề ra cống hiến đặc sắc, có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn rất quan trọng”. Bốn là, “yêu cầu đối với cán bộ làm công tác vận động quần chúng”. Chủ “tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn “việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” [13, tr.188]. Ðó “là một chân lý nhất định. Ngay từ khi chính quyền cách mạng nhân dân được thành lập”, Chủ “tịch Hồ Chí Minh đã mời những nhân sĩ, học giả, trí thức của xã hội cũ ra làm việc và tham gia vào công tác chính quyền”. Tất “cả những ai có chuyên môn, cần dùng vào lĩnh vực nào nếu có nhiệt tâm đều được trọng dụng”.Bên “cạnh việc đào tạo và rèn luyện đội ngũ cán bộ cần kiệm liêm chính, chí công vô tư làm công bộc cho dân”, Chủ “tịch Hồ Chí Minh kêu gọi các ngành các cấp và địa phương tìm và tiến cử nhân tài để kiến quốc”. Nhờ “sự góp sức đồng lòng của toàn dân, toàn quân mà cuộc kháng chiến trường kỳ của ta thắng lợi vẻ vang và sự nghiệp cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Ðảng từng bước phát triển bền vững”. “Ngày nay, các thế hệ cán bộ của chúng ta được đào tạo cơ bản, đầy đủ, chính quy với số lượng đông đảo thường xuyên nhưng thực tế chất lượng cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, không ít cán bộ lãnh đạo sa vào tham nhũng, lãng phí, quan liêu khiến nhân dân bất bình, giảm lòng 22
  29. tin”. Nhưng “vì cách lãnh đạo của ta còn kém, thói quan liêu còn nhiều cho nên có những người như thế cũng bị dìm xuống, không được cất nhắc”. Muốn “tránh khỏi sự hao phí nhân tài, chúng ta cần phải sửa chữa cách lãnh đạo”. Theo “Hồ Chí Minh, có nhiều cán bộ quên rằng so với nhân dân thì số đảng viên chỉ là tối thiểu”, hàng “trăm người dân mới có một người đảng viên”. “Nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì hết”. Người “lãnh đạo không nên kiêu ngạo, mà nên hiểu thấu”. Sự “hiểu biết và kinh nghiệm của mình cũng chưa đủ cho sự lãnh đạo đúng đắn”.Vì “vậy, ngoài kinh nghiệm của mình, người lãnh đạo còn phải dùng kinh nghiệm của đảng viên, của dân chúng để thêm cho kinh nghiệm của mình”. “Phải “lắng tai nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân”, của những người “không quan trọng”. Một số cán bộ không nhận thức rõ “dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Dân “chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng”. Nhưng “đặc điểm rõ nhất trong tư tưởng của dân chúng là họ hay so sánh. Họ so sánh bây giờ và so sánh thời đã qua. Họ “so sánh từng việc và họ so sánh toàn bộ phận”. Do “sự so sánh, họ thấy chỗ khác nhau, họ “thấy mối mâu thuẫn”. Từ “đó, họ kết luận, đề ra cách giải quyết”. Vì “sự so sánh kỹ càng đó, mà cách giải quyết của dân chúng bao giờ cũng gọn gàng, hợp lý, công bằng”. 23
  30. Tiểu kết c ƣơ 1 “Tư tưởng Hồ Chí về công tác vận động quần chúng là tư tưởng có ý nghĩa quan trọng về vai trò của quần chúng nhân dân và những nội dung cơ bản của công tác vận động quần chúng”. “Và cho đến nay, hệ thống tư tưởng đó vẫn mang giá trị lí luận và giá trị thực tiễn sâu sắc”. “Cần tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí về công tác vận động quần chúng trong tình hình mới và vận động mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào công cuộc đổi mới của đất nước hiện nay”. 24
  31. ƣơ VẬN DỤ Ƣ ƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC VẬ ỘNG QUẦN CHÚNG VÀO VIỆC THỰC HIỆN CÔNG TÁC VẬ ỘNG QUẦN CHÚNG Ở BA VÌ, HÀ NỘI HIỆN NAY 2.1. Những nhân tố tác độ đến công tác vậ động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội hiện nay 2.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư “Ba Vì là một huyện thuộc vùng bán sơn địa, nằm về phía Tây Bắc cách thủ đô Hà Nội 40km”. “Với tổng diện tích 414km2, dân số hơn 267 nghìn người (bao gồm 3 dân tộc Kinh, Mường, Dao), toàn huyện có 31 xã, thị trấn, trong đó có 7 xã miền núi, một xã giữa sông Hồng. Phía đông giáp thị xã Sơn Tây, phía nam giáp tỉnh Hòa Bình, phía tây giáp tỉnh Phú Thọ và phía Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc”. “Thực hiện Nghị quyết 15 của Quốc Hội khóa XII, Ba Vì tái nhập Thủ đô Hà Nội tháng 8 năm 2008”. “Địa hình của huyện thấp dần từ phía Tây Nam sang phía Đông Bắc, chia thành 3 tiểu vùng khác nhau: Vùng núi, vùng đồi, vùng đồng bằng ven sông Hồng”. “Về khí hậu, Ba Vì nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Các yếu tố khí tượng trung bình nhiều năm ở trạm khí tượng Ba Vì cho thấy”: “Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 9 với nhiệt độ trung bình 232C, tháng 6 và tháng 8 có nhiệt độ trung bình cao nhất là 28,60c”. “Tổng lượng mưa là 1832 mm (chiếm 91% lượng mưa cả năm). Lượng mưa các tháng đều vượt trên 100 mm với 103 ngày mưa và tháng mưa lớn nhất là tháng 8 (339 mm)”. “Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 và kết thúc vào tháng 3 với nhiệt độ xấp xỉ 200C, tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất 15,80C; Lượng mưa các tháng biến động từ 15,0 đến 64,4mm và tháng mưa ít nhất là tháng 12 chỉ đạt 15mm”. “Đất đai huyện Ba Vì được chia làm 2 nhóm, nhóm vùng đồng bằng và nhóm đất vùng đồi núi”. “Nhóm đất vùng đồng bằng có 12.893 ha bằng 41% 25
  32. diện tích đất đai toàn huyện. Nhóm đất vùng đồi núi: 18.468 ha bằng 58% đất đai của huyện”. “Động thực vật Ba Vì rất đa dạng, phong phú. Hiện nay các nhà thực vật học Việt Nam ước khoảng hơn 2000 loại. Gồm thực vật nhiệt đới, á nhiệt đới bước đầu kê được 800 loài thực vật bậc cao với 86 họ thực vật, 280 loài bậc cao gồm nhiều loại gỗ quý hiếm như lát hoa, kim giao sến mật, sồi, dẻ gai” “Hai loại cây rất quý được ghi vào” "Sách đỏ Việt Nam" là “Bách xanh và Thông đỏ đang được bảo vệ nghiêm ngặt”. “Động vật cú 44 loài thú, 104 loại chim, 15 loại bò sát, 9 loại lưỡng cư (tài liệu quy hoạch Vườn quốc gia Ba Vì). Đây là nguồn tài nguyên rừng quý hiếm được bảo vệ nghiêm ngặt”. “Ba Vì có một hệ thống đường giao thông thuỷ bộ rất thuận lợi nối liền các tỉnh Tây Bắc, Việt Bắc với toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ, trong đó có thủ đô Hà Nội - Trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước và điều kiện khá thuận lợi trong giao lưu kinh tế, văn hóa với bên ngoài, tiếp thu những tiến bộ khoa học - kỹ thuật để phát triển kinh tế với cơ cấu đa dạng: nông nghiệp, dịch vụ, du lịch, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp”. “Nhân dân Ba Vì vốn bình dị, thông minh, hiếu học, cần cù, sáng tạo trong lao động kiên cường, bất khuất trong chống giặc ngoại xâm nhất là trong hai cuộc kháng chống Thực dân Pháp và đế Quốc Mỹ xâm lược”. “Trong thời kỳ đổi mới Đảng bộ, nhân dân huyện Ba Vì tiếp tục phát huy truyền thống quê hương, phát triển mạnh mẽ và vững chắc góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp hiện đại hóa đất nước”. “Những thành tích mà Đảng bộ và nhân dân huyện Ba Vì đã được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Mỹ, Huân chương lao động hạng nhất thời kỳ đổi mới”. 2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội “Về kinh tế xã hội (số liệu hết năm 2012): Trong những năm qua, được sự quan tâm của thành phố, sự nỗ lực của Đảng bộ, nhân dân các dân tộc huyện Ba Vì đã phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XX (2005 - 2010)”. “Các mục tiêu cơ bản đạt và vượt Nghị 26
  33. quyết đề ra. Tổng giá trị sản xuất đạt 10 tỷ đồng, giá trị tăng thêm đạt 5 tỷ đồng tăng trưởng kinh tế đạt 20%”. “Sản xuất nông lâm nghiệp thủy sản theo giá trị tăng thêm đạt gần 2 tỷ đồng, tăng 25% so với cùng kỳ”. “Nông nghiệp với hai sản phẩm đặc trưng Ba Vì đó là Chè sản lượng đạt 13.000 tấn/năm và sản lượng sữa tươi đạt 10.000 tấn/năm”. “Sản xuất công nghiệp, TTCN: Giá trị tăng thêm đạt 350 tỷ đồng, tăng 35% so với cùng kỳ. Huyện có hai cụm công nghiệp (Cam Thượng và Đồng Giai xã Vật Lại) và 12 làng nghề đang hoạt động hiệu quả”. “Dịch vụ du lịch: Giá trị tăng thêm đạt gần 2 tỷ đồng, tăng 50% so với cùng kỳ”. “Doanh thu du lịch đạt 75 tỷ đồng, thu hút 2 triệu lượt khách đến với Ba Vì. Huyện có 15 đơn vị hoạt động kinh doanh du lịch”. “Chính sách xã hội, lao động việc làm, nông nghiệp, nông thôn, nông dân được quan tâm giải quyết việc làm mới cho gần 11.000 lao động; sự nghiệp giáo dục được quan tâm đã có 18 trường trên địa bàn đạt chuẩn quốc gia; Công tác y tế đã có 25/31 trạm có Bác sỹ, 30/31 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; Về văn hóa đã có 97 làng và 46 cơ quan đạt danh hiệu văn hóa”. “Cải cách hành chính có sự tiến bộ, an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội được giữ vững”. “Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể luôn có sự chỉ đạo tập trung; hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở được củng cố, đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết đề ra”. “Với truyền thống đoàn kết, cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất và bảo vệ tổ quốc được sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương, của Thành ủy, Hội Đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân và các Sở ngành Thành phố, sự đóng góp của các doanh nghiệp”. “Đảng bộ và nhân dân huyện Ba Vì phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI đã đề ra (2010- 2015). Xây dựng Ba Vì trở thành huyện phát triển của thành phố Hà Nội vững bước trên con đường hội nhập và phát triển”. “Từ những tác động mà tác giả đã nêu trên, những yếu tố như điều kiện tự nhiên, điều kiện dân cư xã hội đã ảnh hưởng ít nhiều trong công tác vận động ở người dân huyện Ba Vì theo tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay”. “Người 27
  34. dân có nhận thức đúng đắn về công tác vận động và xây dựng phát triển hơn nữa mọi hoạt động trong điều kiện hiện nay”. 2.2. Thực trạng công tác vậ động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội hiện nay và nguyên nhân 2.2.1. Thực trạng công tác vận động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội hiện nay “Công tác vận động quần chúng là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng bộ, chính quyền huyện Ba Vì, xây dựng hệ thống chính trị, nhằm tuyên truyền, giáo dục, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tổ chức thực hiện và động viên quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. “Công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Những thực trạng này được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau”: Một là, “về việc xây dựng củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc”. “Hiện nay ở Ba Vì, Hà Nội thì việc xây dựng củng cố phát triển khối đại đoàn kết của huyện đã được đẩy mạnh và đạt được những kết quả cụ thể”. “Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và cấp ủy các cấp, công tác dân vận nói chung, công tác dân vận của chính quyền của huyện Ba Vì nói riêng đã có chuyển biến rõ nét”. “Chính quyền các cấp phát huy dân chủ trong xây dựng, thực hiện các cơ chế, chính sách, chủ động nắm tình hình đời sống, tâm tư nguyện vọng, giải quyết kịp thời những kiến nghị, những vấn đề bức xúc của nhân dân”; “đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện công khai các chủ trương, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của nhân dân, góp phần tích cực vào việc xây dựng và củng cố khối đoàn kết toàn dân, vận động nhân dân thi đua thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh”. “Ở huyện ủy đã thường xuyên tổ chức cho nhân dân những buổi tiếp xúc cử tri và đổi mới cách tiếp xúc cử tri”. “Cũng như nhiều địa phương khác, trước và sau mỗi kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân thành phố, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc thành phố Hà Nội, các quận, huyện đều phối hợp với Đoàn đại 28
  35. biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân thành phố tổ chức các cuộc tiếp xúc cử tri”. “Đây là những buổi sinh hoạt chính trị - xã hội rất có ý nghĩa, thể hiện trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân với cử tri, đồng thời thể hiện quyền làm chủ của nhân dân đối với những vấn đề quan trọng của đất nước; quyền giám sát hoạt động của những đại biểu do mình bầu ra”. “Đây cũng là dịp để lãnh đạo Đảng bộ và chính quyền huyện gặp gỡ đông đảo nhân dân, trực tiếp lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân đề đạt với Đảng bộ và chính quyền huyện Ba Vì”. “Ngoài ra chính quyền ở Huyện, Đảng bộ còn tổ chức những buổi họp lấy ý kiến của nhân dân trong nhưng công việc chung của huyện”. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Ba Vì phát biểu đặt vấn đề về Dự án quần thể du lịch, nghỉ dưỡng sinh thái trên địa bàn xã Vân Hòa; về tình hình chung của huyện, về quyết tâm của tập thể lãnh đạo huyện phấn đấu vươn lên thoát nghèo và phát triển bền vững; nghe ý kiến phát biểu, những thắc mắc, kiến nghị của bà con nhân dân bảy xã miền núi. Đối với các ý kiến về sự cố môi trường, hậu quả để lại cho nhân dân các xã là hết sức nghiêm trọng, lãnh đạo huyện rất thông cảm và chia sẻ đối với những bức xúc và khó khăn của bà con. Cùng với các chính sách của Trung ương, huyện sẽ có các giải pháp hỗ trợ tối đa về đời sống trước mắt. Về lâu dài, cần có các giải pháp đồng bộ, nhất là vấn đề giải quyết việc làm cho bà con; huyện sẽ thực hiện chủ trương và giải pháp của Chính phủ. “Những yếu kém, hạn chế trên xuất phát từ cả yếu tố chủ quan và khách quan” như: “Huyện có địa bàn rộng, dân cư phân bố không đều, giao thông đi lại khó khăn, là huyện nghèo, cơ sở vật chất phục vụ công tác tuyên truyền vận động còn nhiều thiếu thốn”; “năng lực, kinh nghiệm tuyên truyền, vận động của cán bộ cơ sở còn yếu; là huyện có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, văn hóa thấp, nhận thức hạn chế, vì vậy hiệu quả công tác tuyên truyền vận động thấp; bên cạnh đó là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội cũng gây nên không ít khó khăn cho công tác tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia vào một số hoạt động của huyện ủy”. 29
  36. “Trong thời gian tới, với việc nhận thức sâu sắc về vai trò, ý nghĩa của công tác vận động quần chúng ở huyện Ba Vì”; “trên cơ sở phát huy những kết quả đạt được, từng bước khắc phục những hạn chế, yếu kém”; “công tác vận động quần chúng ở các xã, các địa phương của huyện Ba Vì chắc chắn sẽ đạt nhiều thành tích hơn, góp phần quan trọng và việc phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, đưa Ba Vì phát triển đi lên cùng với các huyện trong thành phố và các địa phương khác trong cả nước”. Hai là, “trách nhiệm của Đảng bộ và chính quyền huyện Ba Vì, Hà Nội trong công tác vận động quần chúng”. Hiện nay Đảng bộ và chính quyền huyện Ba Vì đã đưa ra rất nhiều chủ trương, quyết định, nghị quyết biện pháp để tăng cường công tác vận động quần chúng ở địa phương. “Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền đối với công tác vận động nhân dân được đổi mới; đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần; phát huy quyền làm chủ của nhân dân”. “Hệ thống tổ chức Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội được kiện toàn, củng cố, đổi mới phương thức hoạt động; giữ vai trò nòng cốt trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”. “Công tác dân vận thời gian qua đã góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”. “Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế, từ Đại hội lần thứ VIII đến nay, Đảng bộ huyện Ba Vì đã kế thừa và cụ thể hóa các quan điểm, tư tưởng của Bác về công tác dân vận”, Quyết định số 290 “về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị”; Nghị quyết số 25 “về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”; Quyết định số 217, Quyết định số 218 “về Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền” 30
  37. Tuy nhiên những quyết định, nghị quyết trên mới chỉ tập trung đến văn hóa, kinh tế, y tế Một số quyết định, nghị quyết về giáo dục ở một số xa miền núi, khó khăn vẫn còn những hạn chế. “Qua quá trình thực hiện công tác vận động qquần chúng huyện Ba Vì còn gặp phải những khó khăn vướng mắc, cụ thể: Ở một vài thời điểm và ở một số nơi hiệu quả công tác vận động quần chúng vẫn còn thấp đặc biệt là ở một số xã miền núi như Vân Hòa, Yên Bài, Minh Quang, Khánh Thượng” “Vì vậy mà nhiều chủ trương của Đảng bộ và chính quyền huyện Ba Vì không đến kịp với các xã có vùng đồng bào dân tộc thiểu số”. “Việc phát huy vai trò các chủ tịch xã, người có uy tín trong cộng đồng, trong các tôn giáo vào công tác vận động quần chúng ở huyện ủy vẫn còn nhiều hạn chế”. Ba là, “công tác tuyên truyền, vận động và tổ chức quần chúng ở huyện Ba Vì, Hà Nội tham gia vào sự nghiệp cách mạng”. “Công tác vận động tuyên truyền, quần chúng ở huyện Ba Vì huy trong thời gian qua ở huyện Ba Vì là vai trò giám sát và phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền được quan tâm thực hiện”. “Tích cực vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân tham gia phong trào thi đua yêu nước, thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kinh tế - xã hội trong nhiệm kỳ, nhất là phong trào xây dựng nông thôn mới gắn xây dựng đời sống văn hóa”. “Tổ chức, bộ máy Dân vận, Mặt trận, Đoàn thể từ huyện đến cơ sở được củng cố vững mạnh, chú trọng phát triển số lượng đi liền với nâng cao chất lượng đoàn viên, hội viên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, nhất là việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, vận động chức sắc, tôn giáo và đồng bào có đạo phát huy tinh thần yêu nước, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, sống tốt đời đẹp đạo” “Bên cạnh đó, các cấp ủy Đảng luôn coi trọng công tác chăm lo đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận”. “Huyện ủy xem xét điều động, luân chuyển cán bộ có trình độ, năng lực, có uy tín vào cơ quan dân vận”. “Hằng năm huyện cũng đã tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng tuyên truyền cho cán bộ trong hệ thống ngành, chỉ đạo xây dựng đội ngũ báo cáo viên từ huyện đến cơ sở, hỗ trợ thêm kinh phí hoạt động cho các đoàn thể”. “Đồng thời, Huyện ủy cũng duy trì họp giao ban hàng quý, 6 tháng và cuối 31
  38. năm để nghe cơ quan dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể báo cáo những thuận lợi, khó khăn, đề xuất nhằm có sự chỉ đạo kịp thời, sâu sát”. “Ngoài ra, trong quá trình thực hiện công tác vận động tuyên truyền, vận động quần chúng, các cấp ủy đặc biệt quan tâm đến lợi ích của đoàn viên, hội viên, nhân dân, kịp thời khen thưởng những tập thể, cá nhân có nhiều thành tích xuất sắc từ đó tập hợp được nhiều quần chúng tham gia”. “Nhận thức rõ vai trò của công tác tuyên truyền, vận động ở cơ sở, trong những năm qua, huyện ủy Ba Vì luôn coi trọng và đặc biệt quan tâm đến công tác này”. “Huyện đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị tích cực, chủ động làm tốt công tác dân vận của Đảng”. “Từ năm 2012 đến nay, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy, Ban Dân vận Huyện Ba Vì ủy đã phối hợp với các ban ngành, đoàn thể của huyện xây dựng Chương trình phối hợp và đã tổ chức được 20 đợt phát động quần chúng, 150 buổi tuyên truyền cho 30.544 lượt quần chúng nhân dân”; “tổ chức được 15 cuộc tiếp xúc cử tri; mở được hơn 15 lớp học tập chính trị lồng ghép phát động quần chúng”; “phối hợp với Công an huyện tổ chức hàng trăm cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với các đối tượng cá biệt”. “Tuy nhiên, công tác tuyên truyền, vận động quần chúng vẫn chưa đạt được những thành công do một số cán bộ chưa thực hiện tốt nhiệm vụ của Đảng bộ và chính quyền huyện ủy đề ra”. “Các đơn vị cán bộ, nhân viên chưa trực tiếp xuống cơ sở sinh hoạt với bà con để vận động, tuyên truyền, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân”. “Vì vậy, công tác tuyên truyền, vận động ở cơ sở chưa thực sự có những chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tình trạng quan liêu, xa dân vẫn còn diễn ra. Trước tình hình đó, cần tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng huyện Ba Vì, sự quản lý, điều hành của chính quyền địa phương”. Bốn là, “yêu cầu đối với cán bộ làm công tác vận động quần chúng ở huyện Ba Vì, Hà Nội”. Cán bộ, công chức ở huyện Ba Vì hiện nay rất tích cực hăng hái tham gia vào “công tác vận động quấn chúng và đạt nhiều thành công ở rất nhiều mặt như tăng cường củng cố xây dựng khối đại đoàn kết, có trách nhiệm với 32
  39. nhiệm vụ của mình được giao, công tác tuyên truyền” được thực hiện khá tốt, “Trong giai đoạn hiện nay chúng ta vẫn cần xây dựng quan hệ bền chặt giữa đội ngũ cán bộ, công chức với nhân dân”. “Mỗi cán bộ, công chức không được lãng phí của công, phải sẵn sàng phục vụ nhân dân , luôn luôn nêu cao đạo đức cách mạng, sẵn sàng hi sinh quyền lợi các nhân của mình cho Tổ quốc, phục vụ cho quyên lợi chính đáng của nhân dân làm mục tiêu cho hoạt động của mình”. Nhìn chung, đa số cán bộ làm công tác vận động quần chúng ở huyện Ba Vì , Hà Nội đều phát huy tích cực. Điển hình tiêu biểu là đồng chí Hoàng Văn Thảo, sinh năm 1981, dân tộc Mường ở thôn Ri, xã Minh Quan là một trong 30 gương mặt tiêu biểu của đoàn đại biểu người có uy tín ở huyện Ba Vì về tham gia công tác đoàn, Đảng. Những năm qua, đồng chí Thảo đã xây dựng Hội đồng nhân dân huyện đoàn Ba Vì “thành một tập thể đoàn kết, trí tuệ, dân chủ, kỷ cương, tình thương và trách nhiệm”. “Đồng thời, luôn quan tâm đến hoàn cảnh, nguyện vọng từng cán bộ, công chức trong huyện, cảm thông, chia sẻ, tạo điều kiện để họ công tác tốt”. “Đồng chí Hoàng Văn Thảo đi đầu trong việc vận dụng nhiều phương pháp mới để nâng cao chất lượng trong công tác. Đặc biệt, đồng chí Thảo vận dụng tốt các biện pháp quản lý bằng kế hoạch, hưởng ứng các cuộc vận động và phong trào thi đua của Nhà nước và ngành giáo dục; thực hiện tốt công tác phối hợp với Công đoàn cơ sở, sự lãnh đạo của chi bộ Đảng và chính quyền”. “Bên cạnh đó, vẫn còn một số bộ phận cán bộ vẫn chưa tích cực tự giác làm tốt nhiệm vụ của mình và chưa đạt hiệu quả trong công tác vận động quần chúng”. “Một số cán bộ, công chức vẫn còn lãng phí của công, chưa nêu cao đạo đức cách mạng và chưa mang lại quyền lợi cho nhân dân”. “Đặc biệt phải chống những căn bệnh mà người cán bộ, công chức nào cũng có thể mắc phải đó là tham ô, lãng phí, quan liêu, chưa gắn với tình hình thực tế, chưa học hỏi lí luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Cán bộ phải luôn gần dân, hiểu dân và vì dân, mang lại lợi ích là cho nhân dân. 2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng 33
  40. “Trên cơ sở quán triệt những chủ trương, quan điểm của Đảng và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận, Đảng bộ và Chính quyền huyện Ba Vì luôn coi công tác dân vận là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo”. “Thời gian qua, Đảng bộ Ba Vì đã tập trung chỉ đạo các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước”. “Qua đó, đã góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân vững mạnh”. * Nguyên nhân của những thành tựu Thứ nhất, “Đảng bộ và nhân dân huyện Ba Vì luôn đoàn kết, thống nhất, phát huy tinh thần tự lực tự cường, hăng hái thi đua lao động sản xuất, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị”. “Đến nay, có tất cả các hộ gia đình đã dùng điện lưới và được phủ sóng truyền hình. Giáo dục và đào tạo có nhiều tiến bộ, giáo dục các cấp được quan tâm”. “Mạng lưới y tế được mở rộng, công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân và phòng chống dịch bệnh được tăng cường”. “Đời sống nhân dân và bộ mặt nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có nhiều khởi sắc, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh; các hoạt động văn hóa, thông tin, phát thanh truyền hình, thể dục, thể thao được quan tâm đầu tư”. “Các chính sách an sinh xã hội được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm”. Thứ hai, “quần chúng hăng hái tham gia thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Thực hiện Chỉ thị số 30 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, sau hơn 10 năm triển khai, gắn với thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đã tạo nên sức mạnh và sự thống nhất trong Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh”. “Các nội dung công khai để nhân dân biết; nội dung nhân dân được bàn và quyết định trực tiếp; nội dung nhân dân được tham gia ý kiến; nội dung nhân dân giám sát đều được thông báo công khai qua các phương tiện thông tin đại chúng, trong các cuộc họp, các đợt tiếp xúc cử tri và công khai tại cơ sở và nơi công cộng”. 34
  41. Thứ ba, “công tác vận động quần chúng được thực hiện thường xuyên, liên tục. Huyện Ba Vì có hơn 10 dân tộc cùng chung sống, trong đó, dân tộc thiểu số chiếm 40%”. “Trong những năm qua, công tác vận động quần chúng trong đồng bào có đạo được thực hiện thường xuyên; các khiếu nại, kiến nghị của nhân dân được giải quyết kịp thời, góp phần động viên quần chúng nhân dân tập trung thực hiện các mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đời sống văn hóa, giữ trật tự trị an, đấu tranh ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo, truyền đạo trái pháp luật” Thứ tư, “trong những năm qua, công tác vận động quần chúng luôn hướng về cơ sở, khắc phục hành chính hóa công tác dân vận”. “Đối tượng tuyên truyền, vận động là đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân; công tác vận động quần chúng đã có sự phối hợp với các cấp chính quyền trong giải quyết những thắc mắc, kiến nghị của người dân, từng bước đáp ứng tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân, đặc biệt là công tác tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng, chủ trương xây dựng nhà máy Alumin Nhân Cơ”, “Trên cơ sở định hướng công tác tuyên truyền và làm tốt công tác dân vận, tạo được sự đồng thuận trong nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước”. * Nguyên nhân của những hạn chế Thứ nhất, việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc các vấn đề liên quan đến công tác dân vận chưa được thường xuyên, chưa đi vào nền nếp. Công tác tuyên truyền, nhất là ra đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân còn nhiều hạn chế về phương pháp. Mô hình thì nhiều, phong trào cũng nhiều nhưng chưa thật sự bền vững và xuất phát từ một số nguyên nhân, dù có sự quan tâm, “nhưng cấp ủy, chính quyền, cùng cán bộ, đảng viên một vài nơi vẫn nhận thức chưa đầy đủ, quan tâm chưa được đúng mức”. Đối với cấp cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện các mô hình, các phong trào, nhưng điều kiện làm việc có phần hạn chế nên cũng ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động Thứ hai, “việc tuyên truyền, triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của một số địa phương chưa thường xuyên, từ đó một số cán bộ, nhân dân chưa hiểu hết quyền, trách nhiệm của mình trong thực thi pháp luật”. “Có thể 35
  42. nhận rõ các nội dung chưa được thường xuyên triển khai và thực hiện như thu, chi ngân sách địa phương, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, phương án đền bù và tái định cư , từ đó khiến người dân chưa thông, chưa hiểu hết vấn đề, dễ sinh ra các vấn đề bức xúc”. “Thực tế đã chỉ rõ, công tác vận động quần chúng muốn được thực hiện tốt đòi hỏi phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị”, chứ không chỉ riêng đối với Ban Dân vận hoặc Khối Vận cơ sở. “Nhiều lĩnh vực đều có liên quan đến công tác dân vận, nhất là những lĩnh vực hay tiếp xúc với người dân”. Trong đó, “công tác cải cách thủ tục hành chính đã có nhiều tiến bộ, nhưng vẫn còn tình trạng giải quyết hồ sơ chậm trễ, hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng có hiệu quả, nhưng chưa thật sự cao và vẫn còn hình thức”. Bên cạnh đó, việc kiểm tra, đôn đốc thực hiện các quy chế, quy ước chưa thường xuyên nên việc nhận thức về chính sách, pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hạn chế Chất lượng và hiệu quả công tác vận động quần chúng “phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó sự quan tâm, sự ủng hộ, sự vào cuộc của cấp ủy, chính quyền các cấp là một trong những nhân tố quyết định”. “Cần đẩy mạnh công tác vận động quần chúng giúp người dân biết tìm ra những tương đồng chung, biết gác lại những khác biệt và hành động trên cơ sở những tương đồng chung ấy”. “Đó chính là cơ sở để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân, là yếu tố cơ bản để phát huy nội lực của đất nước”. 2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác vậ động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh “Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, công tác vận động quần chúng cần phải thực hiện tốt hơn nữa nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển”. “Công tác vận động quần chúng là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của Đảng, là một đặc trưng chủ yếu trong hoạt động lãnh đạo của Đảng nói chung và ở huyện Ba Vì, Hà Nội nói riêng”. “Công tác vận động quần chúng không chỉ là vận động nhân dân thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và 36
  43. Nhà nước, mà còn là phương thức thu hút nhân dân vào việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách đó”. “Trong những hoạt động này vấn đề cốt lõi là phải quan tâm đến lợi ích chính đáng của nhân dân. Vấn đề tưởng như đơn giản, dễ làm nhưng thực tế đến nay nhiều lúc, nhiều nơi vẫn làm chưa tốt”. “Bên cạnh số đông cán bộ đảng viên vẫn giữ được phẩm chất cách mạng và gắn bó với nhân dân, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên mang nặng bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, nạn tham ô, hối lộ vẫn còn xảy ra”. “Không ít đoàn thể cũng bị quan liêu hoá, hành chính hoá, không chịu đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tập hợp các tầng lớp nhân dân, làm giảm sự gắn bó của nhân dân với Đảng và Nhà nước những hiện tượng đó là tiếng chuông cảnh báo để chúng ta phải làm tốt hơn nữa công tác dân vận”. “Để nâng cao hiệu quả của công tác dân vận bên cạnh việc hoàn thiện chủ trương, chính sách cho phù hợp với thực tiễn đang đặt ra còn phụ thuộc rất lớn vào phương thức tiến hành dân vận”. “Công tác vận động quần chúng ở giai đoạn hiện nay cần được đẩy mạnh hơn nữa, bên cạnh đó cần vận dụng để thực hiện tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng ở huyện Ba Vì, Hà Nội chúng ta cần giải quyết một số vấn đề sau”: 2.3.1. Tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở Đảng bộ và chính quyền huyện Ba Vì Trước hết, “tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền ở các cấp huyện ủy Ba Vì và Chính quyền về sự cần thiết phải tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. “Công tác tuyên truyền cần phải làm cho nhân dân thấm nhuần lời dạy của Người. Cùng với đó, cần quán triệt, thực hiện quan điểm của Đảng”: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh của giai cấp do Đảng lãnh đạo” [2, tr.158]. “Để tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, huyện Ba Vì cần phát huy những yếu tố và lực lượng của quần chúng trong 37
  44. mọi việc. Qua đó, để mọi người nhận thức rõ khối đại đoàn kết toàn dân tộc bao gồm mọi người dân đang sinh sống và làm việc ở Ba Vì”. Hai là, “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ và Chính quyền huyện Ba Vì về đại đoàn kết toàn dân tộc”. “Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với việc tăng cường, củng cố, phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. “Huyện Ba Vì không ngừng hoàn thiện, thể chế hóa, cụ thể hóa hệ thống đường lối, chính sách, pháp luật” để “bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” [2, tr.159], “nhân dân thực sự làm chủ, được bày tỏ nguyện vọng của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân”. “Khắc phục triệt để tình trạng thực hiện không đúng, thậm chí trái ngược với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đề ra”. “Phải khuyến khích, động viên, phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”. Đồng thời, “có những chính sách cụ thể, quan tâm mọi mặt đối với các tầng lớp, giai cấp trong xã hội, nhất là chính sách đối với những xã miền núi, tạo điều kiện để họ khắc phục khó khăn, đảm bảo ổn cuộc sống”. “Tạo cơ hội để nhân dân Ba Vì tham gia thảo luận, góp ý những vấn đề quan trọng của huyện ủy; phổ biến sâu rộng và thực hiện tốt hơn nữa Quy chế Dân chủ ở cơ sở, giải quyết tốt những vấn đề xã hội bức xúc đang đặt ra”. “Cấp ủy và chính quyền các cấp phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết khó khăn”. Ba là, “tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng bộ và chính quyền huyện Ba Vì trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn”. “Là tổ chức đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân, Đảng bộ và Chính quyền huyện Ba Vì tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, sâu sát quần chúng, cơ sở, quan tâm hơn nữa đến quyền lợi chính đáng của con người”. “Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận của mọi người dân”. “Phát huy vai trò của nhân dân trong việc xây dựng Đảng bộ và chính quyền Ba Vì, chính quyền vững mạnh, tạo sự đồng thuận xã hội, vận động các tầng lớp nhân dân khắc phục khó khăn mắc phải”. 38
  45. Bốn là, “Đảng bộ và chính quyền huyện Ba Vì kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn”. “Các cán bộ huyện Ba Vì cần tham gia tuyên truyền sâu rộng để mọi tầng lớp nhân dân nhận thức rõ âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch đang lợi dụng những khuyết điểm, hạn chế, sơ hở của các cấp chính quyền, của Đảng, Nhà nước và vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. “Từ đó, tạo sự chuyển biến căn bản trong nhận thức, nâng cao tinh thần cảnh giác, sự nhạy bén trong nhận diện và tích cực tham gia đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch”. 2.3.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền huyện Ba Vì trong công tác vận động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội “Đảng bộ và chính quyền huyện Ba Vì ta luôn quan tâm đến đời sống và các tất cả các lĩnh vực của nhân dân”. “Đầu năm 2018 đại bộ phận nhân dân huyện Ba Vì hứng khởi, tin tưởng trước sự nghiêm túc, chỉ đạo đúng đắng, thực hiện các nghị quyết, kết luận của Trung ương và quốc hội. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn một số vấn đề đang tác động trực tiếp đến đến người dân như tại một số địa phương đã xảy ra một số tình trạng mất trật tự an ninh xã hội”. “Trước những diễn biến tác động trực tiếp đến tâm lí của quần chúng nhân dân, các cơ quan lãnh đạo, các tổ chức cơ sở huyện Ba Vì cần nắm bắt tình hình đánh giá một cách khách quan, trung thực qua các sự việc, phán ảnh với tổ chức trên huyện”. “Từ đó sẽ có cơ sở đề ra các giải pháp phù hợp, góp phần nâng cao nhận thức của người dân, xây sựng chính quyền trong sạch, tổ chức Đảng bộ và chính quyền huyện Ba Vì vững mạnh hơn”. “Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền huyện Ba Vì đối với công tác vận động quần chúng trong tình hình mới, bên cạnh việc xác định rõ về tư tưởng, nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị về vấn đề quan trọng này”, “cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động quần chúng thực hiện tốt công tác dân vận chính quyền; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong các tầng lớp nhân dân phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh”. 39
  46. “Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua, huyện Ba Vì không ngừng học tập và nêu cao tinh thần đoàn kết”, “coi đó là đường lối chiến lược cơ bản, lâu dài, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; luôn xác định “cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. 2.3.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động quần chúng ở huyện Ba Vì, Hà Nội “Ban Dân vận Huyện ủy Ba Vì thường xuyên phối hợp với các cấp, các ngành nắm vững tình hình nhân dân, tham mưu đề xuất giúp cấp uỷ, chính quyền giải quyết kịp thời những vướng mắc trong nội bộ nhân dân, không để các vụ việc kéo dài, lan rộng”. “Vận động nhân dân trong công tác giải phóng mặt bằng phục vụ dự án sông Tích và các dự án trên địa bàn; tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện quyền và nghĩa vụ tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp”. Bên cạnh đó, phong trào thi đua “Dân vận khéo” đã và đang được triển khai, nhân rộng trong đời sống, sinh hoạt, công tác, đã có nhiều mô hình tốt, việc làm hay đạt hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực và được cấp trên đánh giá cao. “Hệ thống dân vận huyện phối hợp với Mặt trận Tổ quốc , các đoàn thể nhân dân thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục về chính trị, tư tưởng cho đoàn viên hội viên và quần chúng nhân dân”. “Kết quả hoạt động của công tác dân vận trong 9 tháng đầu năm 2018 đã cho thấy quyết tâm rất cao trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ được cấp trên giao”, cụ thể: “tham mưu Ban Thường vụ ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo hệ thống dân vận từ huyện đến cơ sở”; “tăng cường công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương”; “tham mưu giúp cấp ủy tổ chức thành công Hội nghị tổng kết 20 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW, tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW, sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW”; “tham mưu giúp Ban chỉ đạo thực hiện”. “Hoạt 40
  47. động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể huyện hoàn thành tốt các nhiệm vụ đề ra theo chức năng nhiệm vụ”; “các Hội quần chúng tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, triển khai thực hiện có hiệu quả các nội dung theo chương trình”. Quy chế dân chủ của huyện, “phối hợp với Ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ thành phố kiểm tra việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ tại các xã trên địa bàn”; “tham mưu giúp Ban chỉ đạo công tác tôn giáo huyện nắm bắt tình hình hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn”; xây dựng và ban hành Báo cáo số 03-BC/BCĐ, ngày 29/6/2018 về tình hình liên quan đến việc xây dựng công trình trái phép của ông Lê Viết Long tại thôn Phú Yên, xã Yên Bài “Ban Dân vận Huyện ủy phối hợp với Uỷ ban nhân dân huyện, Ban chỉ huy Quân sự huyện, Công an huyện, Phòng Dân tộc huyện, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể huyện tổng hợp số liệu xây dựng các báo cáo sơ kết 9 tháng đầu năm và phương hướng nhiệm vụ 3 tháng cuối năm về công tác dân vận và các chương trình phối hợp hoạt động”. 2.3.4. Tiếp tục quan tâm xây dựng đội ngũ, cán bộ công chức thực hiện công tác vận động quần chúng ở Ba Vì, Hà Nội “Ban Dân vận Huyện ủy Ba Vì, trong năm 2018, công tác dân vận của chính quyền tiếp tục đạt nhiều kết quả tích cực, tăng cường và đổi mới công tác dân vận trong các cơ quan hành chính các cấp; phát huy quyền làm chủ của nhân dân”. “Hệ thống chính quyền cơ sở từng bước được củng cố và hoàn thiện; thực hiện tốt công tác công tác tiếp dân, phát huy trách nhiệm của người đứng đầu các cấp chính quyền trong việc đối thoại với nhân dân, lắng nghe và giải quyết kịp thời các kiến nghị, bức xúc, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân”. “Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, công tác dân vận của huyện Ba Vì vẫn còn những vấn đề cần phải tiếp tục chấn chỉnh và đổi mới”. “Công tác tiếp dân, đối thoại giữa người đứng đầu cơ quan huyện ủy với dân chưa được quan tâm đúng mức”. “Từ tình hình đó, vấn đề đặt ra là phải nâng cao nhận thức hơn nữa về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác dân vận trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức”. 41
  48. Trước hết, “cần phải tiếp tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng” bộ và chính quyền huyện ủy Ba Vì đối với “công tác dân vận trong tình hình mới”; nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên về công tác dân vận; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận. Mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong “huyện Ba Vì phải được học tập, quán triệt sâu sắc Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về công tác dân vận, kết hợp chặt chẽ với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với xây dựng, rèn luyện đạo đức công vụ”. Thứ hai, người cán bộ phải ý thức được rằng mình là người đi đầu trong mọi hoạt động, vì thế mọi chính sách người cán bộ phải trực tiếp tuyên truyền đến dân, làm công tác triệt để cho dân hiểu để dân thực hiện. Ngoài ra, người cán bộ còn phải giải thích đúng đắn những chính sách đó để trách tình trạng dân hiểu sai lệch về các “chủ trương, quan điểm của Đảng”. Dân chúng là một lực lượng đông đảo, nhờ có sức mạnh đoan kết của dân mà đất nước đi lên một cách nhanh chóng, phát triển mọi mặt vì thế, vị trí và vai trò của dân là đặc biệt quan trọng”. “Trong đời sống xã hội cũng như kinh doanh, dân còn gặp nhiều khó khăn thì cán bộ, đảng viên cần phải giúp đỡ dân về mặt vật chất cả tinh thần, động viên dân trong mọi hoàn cảnh”. “Mỗi cán bộ, đảng viên là một tấm gương sáng để dân noi theo, học theo”. “Phải luôn gắn bó, đoàn kết, tôn trọng, yêu thương dân, tuyệt đối không được xa nhân dân, khinh dân coi thường dân, không được vô cảm trước đời sống nhân dân”. “Cải thiện, giúp đỡ, nâng cao dân trí, sâu sát trong từng hoạt động của quần chúng và phải có mối quan hệ với nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân”. Thứ ba, “là nâng cao đạo đức phẩm chất con người trong mỗi cán bộ, công chức ở huyện Ba Vì, Hà Nội”. “Phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, luôn luôn tu dưỡng”, “có chí tiến thủ”, không ngừng “học tập và nâng cao trình độ về mọi mặt, học ở trường, học ở trong cuộc sống, trong công tác, học ở thầy, học ở bạn”. “Theo Hồ Chí Minh mỗi cán bộ, công chức phải giữ vững được phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực công tác”. Đồng thời, “cán bộ, công chức phải chăm lo đời sống cho nhân dân, tất cả vì lợi ích của nhân dân, vì lợi ích Tổ quốc, của nhân dân, không vì lợi ích của một cá nhân nào”. “Chức vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức là do dân ủy 42
  49. thác, ủy quyền để làm việc cho lợi ích quốc lợi dân không vì chủ nghĩa cá nhân”. 43
  50. Tiểu kết c ƣơ “Huyện Ba Vì là một trong huyện” có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội. Vì vậy, việc thực hiện công tác vận động quần chúng”ở Ba Vì cũng là một yêu cầu hết sức cần thiết. Hiện nay Ba Vì “đã đạt được nhiều thành tích quan trọng” trong vận động quần chúng. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn “tồn tại một số hạn chế cần phải khắc phục. “Để nâng cao hiệu quả trong công tác vận động”quần chúng ở Ba Vì hiện nay cần đồng bộ thực hiện các giải pháp để góp phần xây dựng Đảng bộ và chính quyền Ba Vì trong sạch, vững mạnh. 44
  51. KẾT LUẬN 1. Ngày nay “trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kì hội nhập trên thế giới thì vấn đề công tác vận động quần chúng hay còn gọi là công tác dân vận có vai trò rất quan trọng, đặc biệt là sự vận dụng công tác quần chúng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Cần tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí minh về công tác vận động quần chúng về vai trò và vị trí của nhân dân. Bên cạnh đó Đảng và chính quyền cần có trách nhiệm hơn nữa trong công tác này. Luôn luôn tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân “tham gia mọi công cuộc của đất nước. Những tư tưởng của Người về công tác vận động quần chúng vẫn luôn mang giá trị lí luận và thực tiễn sâu sắc đến thế hệ sau này. 2.“Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng” ở huyện Ba Vì thành phố Hà Nội hiện nay là “một yếu tố vô cùng quan trọng và thực sự cần thiết. Đảng bộ và chính quyền huyện Ba Vì” đã đề ra một số biện pháp : Tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc”, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền huyện Ba Vì trong công tác vận động quần chúng, đẩy mạnh“công tác tuyên truyền, vận động quần chúng”, tiếp tục quan tâm xây dựng đội ngũ, cán bộ công chức thực hiện công tác vận động quần chúng. Một số biện pháp trên nhằm thực hiện tốt công tác vận động quần chúng”ở huyện Ba Vì. 3. Ba Vì“một huyện ở miền núi phía Bắc”với những con người cần cù, sáng tạo, những người dân nơi đây luôn “thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước” đề ra, không ngừng học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tức là trọng dân, gần dân và lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Ở mỗi giai đoạn thì hoàn cảnh khác nhau, cần biết tận dụng thời cơ và khắc phục những khó khăn trong quá trình xây dựng huyện Ba Vì vững mạnh nói riêng và sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc nói chung. Mỗi cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phải đi sâu vào quần chúng nhân dân để dân hiểu được rằng Nhà nước này là của dân nhân và dân được phát huy quyền làm chủ của mình. Công tác vận động quần 45
  52. chúng ở huyện ủy phải được triển khai thuờng khai thường xuyên và thực hiện một cách triệt, làm cho dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền huyện Ba Vì. Mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên huyện Ba Vì nói riêng thấm nhuần và quán triệt sâu sắc những tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh, thật sự tự giác rèn luyện, tu dưỡng theo lời dạy của Người, thì nhất định Đảng ta sẽ ngày càng trong sạch, vững mạnh. 46
  53. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Thế Anh (chủ biên) (2012), Vấn đề đổi mới công tác vận động quần chúng ở Đảng bộ xã Tam Uyên, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2005 đến nay, Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Lý luận chính trị - hành chính và nghiêp vụ đoàn - đội - hội, Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ. 2. Khuất Duyên (chủ biên) (2007), Công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số huyện Ba Vì, Báo điện tử Kinh tế & Đô thị, Hà Nội. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 4. Kiều Tô Hoài (chủ biên) (2011), Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng và việc vận dụng tư tưởng đó trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. 5. Trần Minh Hồng (chủ biên) (2012), Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong vùng đồng bào dân tộc Mông tỉnh Cao Bằng, khcncaobang.gov.vn, 10/4/2019. 6. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 11. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 17. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 19. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 47
  54. 21. Ban Dân Vận huyện Ba Vì, 22. Cổng thông tin điện tử huyện Ba Vì, 23. Các bài viết về Ba Vì – Trang 1 - Cẩm nang du lịch iVivu.com, 24. Huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội - tinbds.com, noi/ba-vi 25. Giới thiệu huyện Ba Vì, thông tin giới thiệu huyện Ba Vì, 48