Khóa luận Con người cá nhân trong thơ văn đoàn Nguyễn Tuấn
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Con người cá nhân trong thơ văn đoàn Nguyễn Tuấn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_con_nguoi_ca_nhan_trong_tho_van_doan_nguyen_tuan.pdf
Nội dung text: Khóa luận Con người cá nhân trong thơ văn đoàn Nguyễn Tuấn
- TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== NGUYỄN THỊ MINH PHƢỢNG CON NGƢỜI CÁ NHÂN TRONG THƠ VĂN ĐOÀN NGUYỄN TUẤN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI - 2018
- TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN === === NGUYỄN THỊ MINH PHƢỢNG CON NGƢỜI CÁ NHÂN TRONG THƠ VĂN ĐOÀN NGUY ỄN TUẤN KHÓA LUẬN TỐT NGHI ỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HẰNG HÀ NỘI - 2018
- LỜI CẢM ƠN Khóa luận đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn, giúp đỡ của Tiến sĩ Nguyễn Thị Việt Hằng, tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô cùng các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn đã tận tình giúp đỡ, hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình triển khai đề tài. Hà Nội, tháng 3 năm 2018 Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Minh Phƣợng
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận “Con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn” là kết quả nghiên cứu của bản thân dƣới sự hƣớng dẫn của Tiến sĩ Nguyễn Thị Việt Hằng. Kết quả khóa luận không trùng khớp với bất kì công trình nghiên cứu nào khác, nếu sai sót, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng 3 năm 2018 Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Minh Phƣợng
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 2 3. Mục đích nghiên cứu 5 4. Đối tƣợng nghiên cứu 5 5. Phạm vi nghiên cứu 5 6. Phƣơng pháp nghiên cứu 5 7. Đóng góp của khóa luận 6 8. Bố cục khóa luận 6 NỘI DUNG 7 Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 7 1.1. Vấn đề con ngƣời cá nhân trong văn học 7 1.2. Thân thế, sự nghiệp Đoàn Nguyễn Tuấn 9 Tiểu kết chƣơng 1 11 Chƣơng 2. CON NGƢỜI CÁ NHÂN TRONG HẢI ÔNG THI TẬP TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG 13 2.1. Con ngƣời ƣu tƣ trƣớc bể dâu cuộc đời 13 2.2. Con ngƣời nặng lòng với quê hƣơng, gia đình, bè bạn 17 2.3. Con ngƣời với nỗi niềm trăn trở trên con đƣờng “hoạn lộ” 23 Tiểu kết chƣơng 2 33 Chƣơng 3. CON NGƢỜI CÁ NHÂN TRONG HẢI ÔNG THI TẬP TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT 34 3.1. Hình tƣợng nghệ thuật 34 3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật 38 3.3. Thời gian, không gian nghệ thuật 42 3.3.1. Thời gian nghệ thuật 42 3.3.2. Không gian nghệ thuật 46
- Tiểu kết chƣơng 3 50 KẾT LUẬN 51 TÀI LIỆU THAM KHẢO
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Từ cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX đƣợc xem là giai đoạn xảy ra nhiều biến cố mạnh mẽ. Chế độ phong kiến ngày càng khủng hoảng trầm trọng. Trong một thời gian ngắn mà liên tục có nhiều triều đại thịnh rồi suy: Lê, Trịnh, Tây Sơn, chúa Nguyễn. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn do Quang Trung lãnh đạo. Đây cũng là giai đoạn chứng kiến sự đi xuống của Nho giáo. Nếu nhƣ ở thế kỉ XV trƣớc đây, Nho giáo từng chiếm vị trí độc tôn thì đến thế kỉ XVI – XVII, Nho giáo ngày càng lung lay và sang thế kỉ XVIII – XIX thì gần nhƣ bị sụp đổ hoàn toàn. Có thể nói, những mâu thuẫn trong xã hội giai đoạn này trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Vua tôi lẫn lộn, xã hội suy đồi, luân thƣờng đạo lý đảo ngƣợc, “chúa lấn vua, giết vua, chúa anh giết chúa em, bề tôi lột vàng, lột áo chúa thƣợng” [16, 60]. Điều đó khiến cho con ngƣời rơi vào tình trạng khủng hoảng chƣa từng thấy, đặc biệt phải kể đến bộ phận trí thức nho học. Thời thế thay đổi khiến họ trở nên khủng hoảng về tinh thần, mông lung về tƣ tƣởng, không tìm ra hƣớng đi cho bản thân, hầu hết đều mang trong mình một nỗi buồn riêng. Trong đó phải kể đến Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Ngô Thời Nhậm Và Đoàn Nguyễn Tuấn đƣợc xem là một trong những trí thức mang đặc trƣng chung với các tác giả trong giai đoạn này, tuy nhiên ông lại không đƣợc đƣa vào giảng dạy trong chƣơng trình phổ thông, bởi thế mà còn trở nên xa lạ. Tìm hiểu về Đoàn Nguyễn Tuấn phần nào giúp chúng tôi có cái nhìn bao quát về tác giả, tác phẩm của ông đồng thời có cái nhìn rộng rãi hơn về giai đoạn này. Vấn đề con ngƣời cá nhân trong văn học cổ xƣa nay đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, đã có một công trình nghiên cứu chuyên biệt về vấn đề 1
- này, đó là: Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam. Tuy nhiên tìm hiểu về con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn thì đến nay chƣa có một công trình nào nghiên cứu chuyên biệt. Chọn đề tài này, tác giả khóa luận muốn tìm hiểu sâu hơn về vấn đề con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn qua nội dung tƣ tƣởng và hình thức nghệ thuật biểu hiện, đồng thời khẳng định lại những giá trị và đóng góp của Đoàn Nguyễn Tuấn trong việc phát triển nội dung con ngƣời cá nhân trong văn học trung đại Việt Nam. Là một sinh viên khoa Ngữ Văn và cũng là một giáo viên dạy văn trong tƣơng lai, việc bao quát về các tác giả văn học Việt Nam nói chung và văn học trung đại nói riêng vô cùng cần thiết, nghiên cứu con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn sẽ là cầu nối quan trọng góp phần bổ trợ kiến thức cho quá trình học tập và giảng dạy của cá nhân sau này. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Tìm hiểu con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn” cho khóa luận của mình. 2. Lịch sử vấn đề Tìm hiểu, đánh giá về con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn là công việc đã đƣợc một số nhà nghiên cứu quan tâm, song chƣa có một công trình nào nghiên cứu chuyên biệt. Việc nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở một vài nhận xét về cuộc đời, sự nghiệp cũng nhƣ nét khái quát về nội dung và nghệ thuật thể hiện trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau: Trần Văn Giáp trong Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập 1, Nxb Sử học, 1971 có trình bày sơ lƣợc về tiểu sử Đoàn Nguyễn Tuấn và tác phẩm Hải Ông thi tập [5]. Viện nghiên cứu Hán Nôm với Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn – Hải Ông thi tập, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1982 cũng đã đề cập đến tiểu sử Đoàn Nguyễn Tuấn và một số tác phẩm của ông [1]. 2
- Nguyễn Lộc trong Văn học Tây Sơn, giới thiệu thân thế và sự nghiệp Đoàn Nguyễn Tuấn cùng lời nhận xét: “Ông là một trong số ít những ngƣời chỉ ra làm quan dƣới thời Tây Sơn. Điều đó chứng tỏ cảm tình của ông đối với nhà Tây Sơn là nồng hậu Giống nhƣ nhiều nhà thơ khác thời Tây Sơn, thơ ông lạc quan, thể hiện rõ nét tinh thần tự hào về triều đại Tây Sơn” [8, 275]. Tác giả cũng trích dẫn 48 bài trong Hải Ông thi tập để đối chiếu với các bản Cựu Hàn Lâm Đoàn Nguyễn Tuấn thi tập, Trương Mộng Mai thi, Nhật Nam phong nhã thống biên. Nguyễn Tuấn Lƣơng với bài viết “Đoàn Nguyễn Tuấn con ngƣời và thơ văn” trong cuốn Danh nhân Thái Bình, tập 2, (Sở Văn hóa Thông tin Thái Bình) cũng dành sự quan tâm nghiên cứu về Đoàn Nguyễn Tuấn. Đây đƣợc đánh giá là một bài viết khá quy mô (46 trang). Bên cạnh việc giới thiệu về tiểu sử, sự nghiệp Đoàn Nguyễn Tuấn, bài viết còn nêu ra một số vấn đề về con ngƣời ông qua thơ văn. Theo Nguyễn Tuấn Lƣơng, “Con ngƣời của Đoàn Nguyễn Tuấn cũng thể hiện rõ nét qua thơ văn ông. Qua Hải Ông thi tập và chín dị bản khác, nhà thơ Hải Ông đã thể hiện sự phóng khoáng sâu trầm, đa tƣ giản dị, gần gũi quần chúng, yêu quý quê hƣơng Tổ quốc. Ông tỏ rõ một tài ba thơ văn điêu luyện, trong sáng, với cách nhìn nhận sự vật khá độc đáo, tinh tế” [10, 118]. Tác giả bài viết nhận định: “Một khía cạnh khác cũng khá nổi bật trong thơ văn của Hải Ông, đó là: lòng tự hào về dân tộc, về đất nƣớc, con ngƣời và phong tục Việt Nam” [10, 122]. Tạ Ngọc Liễn trong Chân dung văn hóa Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1998, cũng nhắc đến Đoàn Nguyễn Tuấn và có những lời nhận xét sắc sảo, tinh tế: “Đọc thơ Đoàn Nguyễn Tuấn, chúng ta bắt gặp một trái tim giàu xúc cảm, một tâm hồn phong phú và nhạy bén với thế sự, luôn gắn bó với cuộc sống xã hội, với đất nƣớc quê hƣơng” [7, 300]. Tác giả cũng giới thiệu một số bài thơ trong Hải Ông thi tập nhƣ Xích Bích hoài cổ, Đăng Hoàng 3
- Hạc lâu, Quá Trường Thành, Chiêu quân mộ, Đáp vấn Tác giả nhận định: “Trong các nhà thơ thời Tây Sơn, Đoàn Nguyễn Tuấn có lẽ là ngƣời có nhiều bài thơ hay nhất về Thăng Long và là một tác giả có diện mạo riêng rất rõ” [7, 305]. Nguyễn Thạch Giang trong Tinh tuyển văn học Việt Nam (Tập 5 – Quyển 2), Nxb Khoa học Xã hội, 2004 trình bày những nét chính về tiểu sử Đoàn Nguyễn Tuấn. Công trình lựa chọn 23 bài thơ trích trong Hải Ông thi tập để khảo dị, chú thích, dịch nghĩa, cùng lời nhận xét về Đoàn Nguyễn Tuấn: “Ông đã để lại cho chúng ta một tập thơ – Hải Ông thi tập – ngót 250 bài. Nội dung thơ ông cho ta thấy ông là con ngƣời trầm mặc, thanh cao, chân thành, giản dị, thiết tha với quê hƣơng, với tổ quốc. Thơ ông lời chải chuốt, thanh thoát, gợi cảm, ít điển cố. Một số bài ca ngợi triều đại Tây Sơn, nhiệt liệt ngƣỡng mộ Quang Trung, hào hứng trƣớc quang cảnh đất nƣớc dƣới triều đại mới” [3, 55]. Trong Từ điển Văn học (bộ mới), Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá, Nxb Thế giới, 2004, mục “Đoàn Nguyễn Tuấn”, Phạm Tú Châu trình bày sơ lƣợc về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ. Trong đó có đƣa ra nhận xét: “Nhìn chung thơ Đoàn Nguyễn Tuấn dù sáng tác dƣới thời Quang Trung (1753 – 1792) hay Quang Toản (1783 – 1802), đều có những bài chân thành và hào hứng ca ngợi triều đại mới, ca ngợi võ công đánh quân Thanh, dẹp Nguyễn Ánh của đội quân Tây Sơn, mang lại cảnh thanh bình, thịnh trị cho đất nƣớc [ ]; hoặc biểu lộ niềm tự hào về nền văn hiến dân tộc [ ]. Đoàn Nguyễn Tuấn còn cho thấy niềm phấn khởi, lòng tin, ý mong muốn đóng góp nhiều cho thời đại mới. Nhà thơ cũng không giấu giếm những ý nghĩ tiêu cực, buồn nản để lộ rải rác trong thơ. Đó là một sự thật khó tránh. Là một trí thức có gia đình, bạn bè, thân thích đều là những đại thần của triều đại cũ mà nhiều ngƣời trong họ cũng nhƣ chính tác giả đã từng 4
- ôm chí khôi phục nhà Lê nhà Trịnh, Đoàn Nguyễn Tuấn trong tập thơ của mình thành thực nhận rằng ông chƣa rũ bỏ đƣợc hết nỗi băn khoăn, day dứt – những mâu thuẫn và đấu tranh khi đã đi theo Tây Sơn. Tuy nhiên, cuối cùng Đoàn Nguyễn Tuấn đã vƣợt đƣợc dƣ luận, vƣợt đƣợc giáo lý và những mặc cảm của đời và của mình để phục vụ thủy chung cho triều đại mới. Hải Ông thi tập cũng đã ghi nhận điều đó” [6, 52]. Có thể thấy, cho tới nay chƣa có một công trình nào nghiên cứu về con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn. Việc nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp cùng một số nhận xét về phong cách, tƣ tƣởng của tác giả. Đó sẽ là cơ sở quan trọng và cần thiết cho quá trình nghiên cứu của chúng tôi trong việc đi sâu khai thác đề tài này. 3. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật thể hiện con ngƣời cá nhân trong Hải Ông thi tập nhằm cho ra đời một nghiên cứu về con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn. 4. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn, cụ thể là các tác phẩm đƣợc tập hợp trong Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn – Hải Ông thi tập do Nguyễn Tuấn Lƣơng, Đào Phƣơng Bình, Trần Duy Vôn dịch và chú thích, Nxb KHXH, 1982. 5. Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi khóa luận này, chúng tôi đi vào nghiên cứu vấn đề con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn thông qua những biểu hiện từ nội dung tƣ tƣởng đến hình thức nghệ thuật thể hiện. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phƣơng pháp hệ thống - Phƣơng pháp phân tích 5
- - Phƣơng pháp lịch sử - Phƣơng pháp so sánh 7. Đóng góp của khóa luận Thực hiện đề tài này, tác giả khóa luận muốn góp thêm một cái nhìn mới mẻ về con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn qua nội dung và hình thức nghệ thuật thể hiện. 8. Bố cục khóa luận Khóa luận tốt nghiệp đƣợc bố cục nhƣ sau: MỞ ĐẦU NỘI DUNG Chƣơng 1: Những vấn đề chung Chƣơng 2: Con ngƣời cá nhân trong Hải Ông thi tập từ phƣơng diện nội dung Chƣơng 3: Con ngƣời cá nhân trong Hải Ông thi tập từ phƣơng diện nghệ thuật KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO 6
- NỘI DUNG Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Vấn đề con ngƣời cá nhân trong văn học Macxim Gorki từng nói: “Văn học là nhân học, văn học là một khoa học nghiên cứu về con ngƣời”. Vấn đề con ngƣời cá nhân trong văn học từ lâu đã đƣợc các nhà nghiên cứu chú ý và quan tâm. D.X.Likhachôp trong công trình Con người trong văn học Nga cổ xưa (Matxcơva, 1958, tái bản 1970) cũng đã đề cập đến con ngƣời cá nhân trong văn học Nga thế kỉ XVII. XX.Avêrixep trong Văn học Hy Lạp và văn chương Cận Đông (Matxcơva, 1971) cho rằng: “ngƣời kể chuyện cổ đại đã nhận trách nhiệm cá nhân về tất cả những gì họ kể”. A.V.Mikhailôp khi nghiên cứu Quan hệ Tiểu thuyết và phong cách (Matxcơva, 1982) đã nhận xét rằng: “thời trung đại đã có những biểu hiện mang tính cá nhân chống lại các truyền thống chung”. Trong văn học trung đại, vấn đề con ngƣời cá nhân cũng đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng một trong những đặc điểm của văn học trung đại là tính “vô ngã” (không có cái tôi). Nhƣng không vì thế mà văn học trung đại không có những nét riêng của cái tôi cá nhân. Vấn đề này cho đến nay vẫn còn đƣa ra nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, có một thực tế không thể phủ nhận đƣợc, đó là mỗi cá tính sáng tạo riêng của một tác giả trong sự nghiệp sáng tác của mình đều ít nhiều đƣợc thể hiện. Tập thể tác giả: Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vƣơng, Trần Nho Thìn, Đoàn Thị Thu Vân đã có riêng một công trình nghiên cứu chuyên biệt về vấn đề này, đó là Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam. Trong đó, Trần Đình Sử chỉ ra rằng: con ngƣời cá nhân trong văn học thời Lý – Trần nổi bật là “con ngƣời yêu nƣớc, trung nghĩa”, nhƣ trong thơ Lý Thƣờng Kiệt (1019 – 1105), Trần Quang Khải (1241 – 1294), Trần Quốc Tuấn (1226 – 1300), Đặng Dung (thế kỉ XV). Bên cạnh đó, con ngƣời trong văn học giai 7
- đoạn này “chƣa chịu sự ràng buộc chặt chẽ của Nho giáo, còn đầy tinh thần tự chủ, tiến thủ, tích cực kiểu Thiền tông, hoặc con ngƣời vô ngôn, vô ngã, tự do, phá chấp theo giáo lý nhà Phật” [16, 33]. Sang thế kỉ XV – XVII, con ngƣời cá nhân xuất hiện dƣới các hình thái chính “hoặc là lìa bỏ công danh, lìa bỏ thị phi, khen chê, “độc thiện kỳ thân”, đối lập với kẻ khác phàm tục, hoặc là đam mê vật dục, sắc dục nhƣ một tội lỗi, trái với đạo lí nhƣng đã không còn mặc cảm tội lỗi, trái lại đã biểu hiện đƣợc cảm giác đam mê, đẹp, lãng mạn” [16, 163]. Tác giả tiêu biểu trong giai đoạn này phải kể đến Nguyễn Trãi (1380 – 1442), một con ngƣời nhân nghĩa, yêu nƣớc nhƣng phải chịu nhiều bi kịch. Con ngƣời cá nhân trong thơ Nguyễn Trãi đƣợc bộc lộ ở sự lựa chọn giữa “các tƣ tƣởng, các con đƣờng lập thân, dƣỡng thân và nhất là bảo thân”. Ông luôn quan niệm ngƣời có tài thì phải dùng vào việc lớn, có ích cho nhân dân, đất nƣớc: “Lâm truyền ai rặng giá lâm khách?/ Tài đống lƣơng cao ắt cả dùng!/ Đống lƣơng tài có mấy bằng mày.” (Tùng). Sang thế kỉ XVI, xã hội phong kiến Việt Nam bắt đầu suy tàn, con ngƣời cá nhân vì thế cũng chịu sự ảnh hƣởng sâu sắc. Nếu Nguyễn Trãi khẳng định con ngƣời cá nhân mình khi đối lập “ta” với “chúng ngƣơi” thì Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) lại khẳng định mình qua hình thức đối lập “khép kín, không giao tiếp, bằng tƣ thế “độc thiện kỳ thân” – cô độc một cách cao quý, thanh sạch” [16, 157]. Trái với con ngƣời mang lí tƣởng thuần khiết, cao cả trong thơ thiền Lý – Trần, Nguyễn Bỉnh Khiêm là con ngƣời sống trong “đam mê, sắc dục” trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Tính “dục” của cá nhân con ngƣời đƣợc đặt trong mối quan hệ của tình yêu nam nữ. Có thể kể đến cuộc gặp gỡ ái ân của Trung Ngộ với hồn ma Nhị Khanh, cuộc kì ngộ xƣớng họa của Hà Nhân ở trại Tây, rồi kì ngộ Hàn Than và Vô Kỷ, Nhuận Chi và Túy Tiêu, Thị Nghi với quan họ Hoàng Về mặt đạo lý, những cuộc gặp gỡ này không đƣợc nhà nho chấp nhận. Nhƣng về mặt tình cảm lại đƣợc tác giả một tả một 8
- cách khá đẹp, tình tứ trong những vần thơ. Từ đó thể hiện khát vọng cá nhân mạnh mẽ trong cuộc đời trần tục. Đặc biệt giai đoạn văn học từ thế kỉ XVIII – XIX, cái tôi cá nhân đã xuất hiện nhƣ một hiện tƣợng xuyên suốt qua nhiều tác giả khác nhau. Đây đƣợc xem là giai đoạn xã hội phong kiến Việt Nam đi vào tình trạng sụp đổ, vô cùng bế tắc. Điều đó khiến cho con ngƣời trong văn học “kêu to lên nhu cầu về quyền sống cá nhân, quyền hƣởng hạnh phúc cá nhân nhƣ một quyền tự nhiên” [16, 194]. Xuất hiện dòng tƣ tƣởng thƣơng ngƣời, xót thân bên cạnh sáng tác mang hƣớng hƣởng lạc và trào phúng. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn – Đoàn thị Điểm là khúc ngâm của “cái tôi” cá nhân ngƣời chinh phụ mang bao nỗi niềm, bao sự nhớ mong, chờ đợi, tủi hờn, hi vọng, khát vọng và là tiếng nói tố cáo mạnh mẽ của cá nhân ngƣời chinh phụ từ nơi khuê phòng đến nơi biên ải, chiến trƣờng xa. Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ Hồ Xuân Hƣơng là những tiếng nói đòi quyền sống, quyền làm ngƣời, quyền đƣợc thể hiện “cái tôi” cá nhân của ngƣời phụ nữ trong xã hội phong kiến. Ngoài ra văn học giai đoạn này còn chứng kiến sự xuất hiện của “con ngƣời cá nhân công danh hƣởng lạc ngoài khuôn khổ” (thơ văn Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát), “con ngƣời cá nhân giải thoát bằng hƣởng lạc” (thơ ca trù cuối thế kỉ XIX), “con ngƣời cá nhân trống rỗng, mất hết ý nghĩa” (thơ Nguyễn Khuyến). Nhƣ vậy, có thể khẳng định dù mức độ đậm nhạt khác nhau, tác phẩm văn học bao giờ cũng ít nhiều in dấu ấn cá nhân. Nhà mỹ học Lý Trạch Hậu cũng đã từng nói: “Cái gọi là vô ngã, không phải là nói nhà nghệ sĩ không có tƣ tƣởng, tình cảm cá nhân ở trong tác phẩm, mà là nói tƣ tƣởng, tình cảm đó không trực tiếp ngoại lộ” [11, 54]. 1.2. Thân thế, sự nghiệp Đoàn Nguyễn Tuấn Đoàn Nguyễn Tuấn (? - ?) hiệu là Hải Ông, quê ở Hải An, huyện Quỳnh Côi (nay là Quỳnh Phụ), tỉnh Thái Bình. 9
- Đoàn Nguyễn Tuấn là con trai Thám hoa Đoàn Nguyễn Thục (1718 – 1775), con rể tiến sĩ Nhữ Đình Toản (1702 – 1773) và là anh vợ thi hào Nguyễn Du (1765 – 1820). Năm 1786, Trịnh Bồng lên ngôi, Đoàn Nguyễn Tuấn đã tập hợp dân làng đến họp về việc khởi binh giúp Trịnh Bồng đánh Nguyễn Hữu Chỉnh, dành lại ngôi chúa, ổn định tình hình xã hội bấy giờ nhƣng việc không thành. Cuối năm 1787, Vũ Văn Nhậm – tƣớng Tây Sơn đem quân ra Bắc, giết Nguyễn Hữu Chỉnh và đuổi vua Lê Chiêu Thống. Đây là giai đoạn khiến cho Đoàn Nguyễn Tuấn và các nho sĩ Bắc Hà thời bấy giờ mang trong lòng vô số hoang mang, đắn đo lựa chọn những ngả đƣờng xuất xử khác nhau. Cuối năm 1787, Đoàn Nguyễn Tuấn cùng Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích đứng ra giúp nhà Tây Sơn, ông đƣợc giao chức Hàn lâm trực học sĩ (1788). Tháng 9 năm 1789, Đoàn Nguyễn Tuấn vâng mệnh vua Quang Trung đi tiếp sứ Thanh ở trấn Lạng Sơn. Năm 1790, ông cùng Vũ Huy Tấn, Phan Huy Ích đƣợc cử vào đoàn sứ bộ của vua Quang Trung giả, sang Trung Quốc yết kiến vua Càn Long. Khi hoàn thành chuyến đi sứ trở về, Đoàn Nguyễn Tuấn đƣợc thăng làm Tả thị lang bộ Lại, tƣớc Hải Phái hầu (1791). Năm 1794, Hải Ông đƣợc lệnh đến Phú Xuân. Trên hành trình đi ông có viết bài thơ: Giáp Dần mạnh thu phụng mệnh nhập Phú Xuân kinh, đăng trình lưu biệt Bắc Thành chư hữu (Đầu mùa thu năm Giáp Dần vâng mệnh vào kinh Phú Xuân, khi lên đƣờng lƣu biệt các bạn ở Bắc thành). Toàn bộ bài thơ là niềm vui cũng nhƣ niềm tin tƣởng, lạc quan của ông vào triều đại mới. Năm 1798, Đoàn Nguyễn Tuấn đƣợc vua Quang Trung cử đi hộ giá tuần du phƣơng Nam. Ông ghi lại sự kiện này bằng hai bài thơ: Mậu Ngọ Mạnh Đông phụng hộ Nam tuần, hiểu phát Hương giang và Mậu Ngọ niên tái quan Nam hà, dật quan đô úy kinh thảng tương ngộ vu khế chi ngụ, toại tương dữ 10
- vãng lai, y cầu quan Nam du tập họa lưu tặng nguyên tác. Dư nhân y vận đáp phục. Năm 1792, vua Quang Trung mất, Quang Toản lên kế vị. Quang Toản lên ngôi khi còn quá trẻ (9 tuổi) và chƣa có kinh nghiệm nên không giữ đƣợc việc triều chính. Mọi việc đều do cậu là Bùi Đắc Tuyên là thái sƣ nắm giữ. Chính sự rối ren, các đại thần quay sang giết hại lẫn nhau dẫn đến nội bộ lục đục. Thêm vào đó ở phía Nam, nhân cơ hội này Nguyễn Ánh câu kết với quân Xiêm nhằm lật đổ triều Tây Sơn, giành lại chính quyền về phía mình. Tiếp tục phục vụ cho triều Tây Sơn nhƣng Đoàn Nguyễn Tuấn tỏ ra có phần buồn chán với con đƣờng công danh sự nghiệp. Một thời gian sau ông quyết định lui về quê chọn một cuộc sống thanh nhàn (1800). Sự nghiệp văn học của Đoàn Nguyễn Tuấn cho đến nay còn duy nhất tập thơ Hải Ông thi tập với khoảng 241 bài; bao gồm 146 bài thất ngôn bát cú, 34 bài thất ngôn tứ tuyệt, 12 bài ngũ ngôn, 03 bài ca, 03 bài hành, và 01 bài làm theo thể liên cú, 42 bài chƣa đƣợc dịch; chia làm 2 phần: thơ viết trong nƣớc (139 bài) và thơ đi sứ (102 bài). Nội dung thơ ông cho thấy “ông là con ngƣời trầm mặc, thanh cao, chân thành, giản dị, thiết tha với quê hƣơng, với tổ quốc. Thơ ông lời chải chuốt, thanh thoát gợi cảm, ít điển cố. Một số bài ca ngợi triều đại Tây Sơn, nhiệt liệt ngƣỡng mộ Quang Trung, hào hứng trƣớc quang cảnh đất nƣớc dƣới triều đại mới” [3, 55]. Tiểu kết chƣơng 1 Tính “phi ngã” là một trong những đặc điểm của thi pháp văn học trung đại. Tuy nhiên, vấn đề con ngƣời cá nhân trên tiến trình văn học lại xuất hiện nhƣ một nhu cầu thiết yếu. Có thể nói, vấn đề con ngƣời cá nhân trong thơ Việt Nam trung đại đã hình thành, phát triển qua một quá trình biểu hiện sáng tạo. Và đến giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX thì vấn đề con ngƣời cá nhân đã dần đƣợc khẳng định một cách mạnh mẽ. 11
- Đoàn Nguyễn Tuấn là một trí thức nho học dƣới triều Lê – Trịnh sau đứng ra phục vụ cho Tây Sơn. “Đoàn Nguyễn Tuấn cũng nhƣ nhiều bạn bè của ông ít nhiều cũng có những trăn trở, say sƣa trƣớc thắng lợi vĩ đại của dân tộc trong sự nghiệp chống ngoại xâm do Quang Trung lãnh đạo nhƣng vẫn canh cánh bên lòng nỗi niềm “cố quốc” [10, 21]. Có thể nói, Đoàn Nguyễn Tuấn là một trong những trí thức tràn đầy tình yêu quê hƣơng, đất nƣớc, niềm lạc quan, phấn khởi trƣớc triều đại mới Ông đƣợc đánh giá là một sứ thần – nhà thơ có nhiều đóng góp cho triều Tây Sơn và là một tác giả mang diện mạo riêng rất rõ. 12
- Chƣơng 2. CON NGƢỜI CÁ NHÂN TRONG HẢI ÔNG THI TẬP TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG 2.1. Con ngƣời ƣu tƣ trƣớc bể dâu cuộc đời Lâu nay núi sông vẫn thƣờng tƣợng trƣng cho sự vĩnh hằng, chứng nhân cho những đổi thay của thời cuộc. Tạo vật có thay đổi ra sao, triều đại có hƣng vong thế nào thì núi non, sông biển cũng vẫn còn đó, không chuyển dời. Chẳng thế mà đứng trƣớc núi cao hay sông sâu bể rộng, con ngƣời thƣờng mang trong lòng bao suy tƣ về sự đƣợc – mất, thịnh – suy, biến thiên của cuộc đời: “Thiên phong tiễu lập khan triều đại Nhất thủy bình lưu tống cổ câm.” (Ngàn núi đứng sững xem các triều đại, Một dòng phẳng lặng đƣa đón cổ kim.) (Giang trình – Hành trình trên sông) Đoàn Nguyễn Tuấn cũng nằm trong số đó. Trên lộ trình muôn dặm của mình, mỗi khi đứng trƣớc vời vợi núi cao hay mênh mang sông nƣớc, ông không khỏi ngậm ngùi khi nghĩ về “nỗi cổ kim”. Đứng trên đỉnh núi cao trông ra xa trong buổi chiều hôm, trong lòng thi nhân chợt dâng lên bao cảm xúc khó tả: “Nhật mộ thừa cao thư viễn diếu, Vô cùng kim cổ nhất đê đầu.” (Chiều hôm lên cao thƣ thả nhìn ra xa, Cảm nỗi cổ kim man mác, lặng lẽ cúi đầu.) (Quế Hoa tự hoài cổ – Thăm chùa Quế Hoa, nhớ xƣa) Một đêm ngủ lại ở đồn Hoành Sơn, lặng nghe tiếng sóng biển vỗ dƣới khe núi cũng khiến thi nhân phải suy tƣ về lẽ đời, trăn trở về bao “tan hợp”: “Hà xứ đào thanh triệt dạ văn, 13
- Hoành Sơn sơn hạ đại dương tân. Phù sinh danh lợi không giao cát; Thử địa quan hà kỷ hợp phân.” (Tiếng sóng đâu đây vang suốt đêm trƣờng, Dƣới núi Hoành Sơn là bờ biển cả. Danh lợi trong cõi phù sinh luống những rối bời; Núi sông ở dải đất này bao lần tan hợp.) (Túc Hoành Sơn đồn, văn hải đào thanh – Ngủ đêm ở đồn Hoành Sơn nghe tiếng sóng biển) Biển muôn đời đều vậy, chẳng khi nào im tiếng sóng vỗ, lặng tiếng gió thổi. Nằm nghe tiếng sóng cứ từng đợt từng đợt vỗ vào bờ rồi lại dội vào lòng khiến thi sĩ khó mà chợp mắt. Để rồi với một tâm hồn vốn nhạy cảm, trƣớc sự vĩnh hằng của thiên nhiên sông núi, thi sĩ không tránh khỏi những ƣu tƣ, nghĩ suy trƣớc thời cuộc. Khi đi qua sông Trƣờng Giang, cũng nhƣ đa số các nhà thơ khác, Đoàn Nguyễn Tuấn hồi tƣởng lại trận Xích Bích nổi tiếng năm xƣa từng diễn ra, giờ đây những chiến thuyền, binh pháp, thế trận đều không còn, chiến công cũng đều đã qua đi, giờ chỉ có núi sông là còn mãi: “Trường Giang dạ sắc bích du du, Tam Quốc can qua thử địa đầu. Phân đỉnh đồ khuynh sơn tự trĩ, Liên hoàn thuyền tận thủy không lưu.” (Cảnh đêm trên Trƣờng Giang một màu biếc xanh man mác, Nơi đây, từng xảy ra trận can qua thời Tam Quốc. Cơ đồ chia ba chân vạc đã sập, mà núi non vẫn còn sừng sững; Thuyền bè theo kế liên hoàn đã hết, nhƣng sông nƣớc vẫn chảy hoài.) (Xích Bích hoài cổ – Trƣớc cảnh Xích Bích nhớ xƣa ) 14
- Thả hồn trở về theo dòng lịch sử, Đoàn Nguyễn Tuấn nhớ đến Tào Tháo, Gia Cát Lƣợng, Tô Đông Pha, thế chân vạc hiểm trở của trận Xích Bích thời Tam Quốc Trƣớc đây, Chu Du nhờ Gia Cát Lƣợng đã lừa đƣợc Tào Tháo trúng kế của mình. Chu Du đã mƣu trí đốt sạch quân Tào chỉ bằng một trận hỏa công. Có thể nói, mọi thứ đều có thể bị bụi thời gian che phủ, nhƣng thiên nhiên, sông núi và những con ngƣời cao cả nhƣ Pha Tiên vẫn luôn còn mãi. Ngoài tâm trạng hoài cổ, Đoàn Nguyễn Tuấn cũng chiêm nghiệm đƣợc một chân lí sâu sắc: cái đẹp, cái vĩnh hằng là những giá trị mà con ngƣời để lại cho cuộc đời. Tâm trạng hoài cổ, nỗi niềm dâu bể, nghĩ suy trƣớc những đổi thay thời cuộc thƣờng xuất hiện nhiều trong thơ văn hậu kì phong kiến. Với “bãi bể nƣơng dâu, bức tranh vân cầu” (Cung oán ngâm khúc), “vũng tang thƣơng”, “lớp sóng phế hƣng” (Chơi đài khán xuân Trấn Võ, Chùa Trấn Bắc) đều là kết quả của những phen thay đổi sơn hà . Nguyễn Du cũng có nhiều bài thơ thể hiện niềm u hoài trƣớc thời cuộc, trƣớc những bể dâu, biến thiên của cuộc đời: “Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự Giám Hồ hồ biên tằng kiến chi Thành quách suy di nhân sự cải Kỷ độ tang điền biến thương hải” (Tự nhiên nhớ lại hai mƣơi năm trƣớc Bên hồ Giám trong dạ tiệc ta đã thấy nàng Thành quách đã chuyển, ngƣời cũng đổi thay Nƣơng dâu trở thành biển cả đã nhiều) (Long thành cầm giả ca) Với Nguyễn Du, “những biến cố đổi thay triều đại giai đoạn này dội mạnh vào ông nhƣ một cơn lốc ghê gớm trong tình cảm. Và cảnh tang thƣơng 15
- dâu bể của nơi phồn hoa đô hội thân thuộc đối với mình, từ nhiều tầng bậc khác nhau, với nhiều số phận bi hài trớ trêu diễn ra trƣớc mắt, lại cũng khía sâu vào tâm trí nhà thơ những ấn tƣợng khác thƣờng, hình thành nên ở ông một cái nhìn sâu thẳm, đột xuất về phƣơng diện triết học cũng nhƣ thẩm mỹ” (Nguyễn Huệ Chi, Biểu tượng đa nghĩa của Thăng Long trong thơ Nguyễn Du, Hội thảo Văn học, Phật giáo với 1000 năm Thăng Long, tháng 8/2010, do Hội Phật Giáo kết hợp với Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TPHCM tổ chức). Trƣớc khi ra làm quan cho triều Tây Sơn, Đoàn Nguyễn Tuấn từng là một nho sĩ dƣới triều Lê nên cảm tình của ông dành cho triều vua cũ cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, cảm tình ấy cũng chỉ đƣợc bộc lộ ở một mức độ nhất định: “Thiên niên miếu vũ linh như tụy, Nhất biến sơn hà lệ vị thu. Lạn mạn tinh kỳ tân trại lũy, Tiêu điều phong nguyệt cựu tùng du.” (Miếu vũ ngàn năm dầu dãi, khí thiêng nhƣ còn tụ họp; Non sông một phen đổi thay, giọt lệ nay vẫn chửa khô. Phấp phới tinh kỳ trên đồn trại mới; Tiêu điều trăng gió trên tùng du xƣa.) (Thanh Hóa đạo trung – Trên đƣờng Thanh Hóa) Chứng kiến sự hƣng phế của liên tiếp hai triều đại, ông không cầm nổi giọt nƣớc mắt ngậm ngùi. Nhƣng bên cạnh nỗi nghẹn ngào đó ta còn trông thấy hình ảnh một Hải Ông vui mừng, phấn khởi trƣớc ngọn cờ phấp phới trên đồn trại mới. Nhƣ vậy, Đoàn Nguyễn Tuấn – với tƣ cách một “con ngƣời công dân”, ông vui mừng khi đã nhìn ra sự tiến bộ của triều đại mới còn với tƣ cách một “con ngƣời cá nhân”, trƣớc biến thiên cuộc đời ông khó tránh 16
- khỏi những ƣu tƣ, sầu cảm. Tâm trạng này đƣợc ông bộc lộ qua không ít bài thơ của mình: “Bách niên nhân vật điêu linh tận; Nhất vọng sơn hà phá toái dư.” (Trong khoảng trăm năm, nhân vật thảy đà mai một Ngắm qua một lƣợt, núi sông còn đây sau bao tan vỡ.) (Nghệ An đạo trung – Trên đƣờng Nghệ An) Câu thơ dẫu thể hiện niềm tự hào về giang sơn vững vàng qua bao dâu bể, biến cố của thời đại nhƣng ẩn hiện trong đó vẫn có chút ngậm ngùi về sự “mai một”, “tan vỡ” trong “khoảng trăm năm”. Có thể thấy, niềm hoài cổ là sự cộng hƣởng của nhiều ý nghĩa qua bao trải nghiệm, chiêm nghiệm và ý nghĩa lớn nhất chính là ý nghĩa nhân sinh. Nó cho thấy tình cảm, tấm lòng của một tâm hồn thi sĩ nặng lòng với con ngƣời, đất nƣớc và cuộc đời. Cũng nói thêm rằng, tuy ƣu tƣ trƣớc những đổi thay của thời cuộc nhƣng niềm hoài cổ trong thơ Đoàn Nguyễn Tuấn chỉ nhƣ nỗi nghẹn ngào của một tâm hồn thi sĩ vốn đa sầu đa cảm trƣớc dòng chảy cuộc đời. Nó không phải là niềm oán trách hay sự tiếc nuối cùng cực bởi ông đã nhận ra đƣợc cái tốt đẹp ở cuộc sống hiện tại và trong triều đại mới. Đoàn Nguyễn Tuấn cũng đã từng bày tỏ sâu sắc điều này, “ông chƣa rũ bỏ đƣợc hết nỗi băn khoăn, day dứt – những mâu thuẫn và đấu tranh khi đã đi theo Tây Sơn. Tuy nhiên, cuối cùng Đoàn Nguyễn Tuấn đã vƣợt đƣợc dƣ luận, vƣợt đƣợc giáo lý và những mặc cảm của đời và của mình. Ông tỏ ra thức thời và đã phục vụ gần nhƣ trọn vẹn cho triều đại mới” [6, 48]. 2.2. Con ngƣời nặng lòng với quê hƣơng, gia đình, bè bạn Hải Ông thi tập của Đoàn Nguyễn Tuấn không chỉ là bức tranh đƣợc khúc xạ từ hiện thực cuộc sống đƣơng thời mà còn là những mảng màu đƣợc 17
- khúc xạ từ chính tâm hồn nhà thơ. Đọc Hải Ông thi tập ta sẽ thấy chan chứa trong mỗi vần thơ là nỗi nhớ mong, tình cảm yêu thƣơng, tinh thần lạc quan cùng niềm tự hào dân tộc. Phải là một ngƣời có trái tim yêu thƣơng gia đình, nặng lòng với quê hƣơng, đất nƣớc mới có thể bật lên những cung bậc tình cảm sâu sắc nhƣ vậy. Tình cảm ấy trƣớc tiên phải kể đến đó là tình cảm đối với quê hƣơng, nó nhƣ đƣợc thăng hoa trong những tháng ngày phải xa quê sang xứ ngƣời của nhà thơ. Ngay khi vừa bƣớc chân qua ải Nam Quan, nỗi nhớ quê, nhớ nhà ấy đã hiện rõ trong bƣớc chân của ngƣời đi sứ: “Khách bộ sơ tùy thiên tiết tỷ, Hương tâm ám trục mộ vân hoàn” (Bƣớc chân khách chớm rời theo cờ đi sứ; Lòng nhớ quê ngầm theo mây chiều trở về) (Quá quan – Qua cửa ải) Hai chữ “chớm rời” diễn tả thật tinh tế nỗi lòng của ngƣời ra đi. Mắt thì trông theo cờ sứ phía trƣớc nhƣng chân lại chỉ chớm bƣớc đi. Và khi chân bƣớc đi rồi nhƣng “Lòng nhớ quê ngầm theo mây trời trở về ”. Hai câu thơ hiện lên nhƣ một thƣớc phim quay chậm diễn tả xúc động tâm trạng đầy lƣu luyến của ngƣời sắp phải xa quê. Có nhiều đêm, dừng nghỉ chân ở nơi xa lạ, nỗi nhớ quê lại dâng lên nghẹn ngào khiến ông không sao cầm lòng đƣợc, để rồi lại thả hồn tìm về nơi quê nhà: “Thiềm thướng nham đầu ảnh diệt minh Lữ huống hương tình quan bất trước” (Trăng lên đầu núi, khi tỏ khi mờ Nỗi khách tình quê, cầm lòng chẳng đƣợc.) (Quá quan – Qua cửa ải) Ngay cả trong giấc chiêm bao, bóng dáng quê nhà cũng hiện về: 18
- “Mộng lý sơn xuyên thất trở tu. Quy lai dạ dạ cố viên thư” (Núi sông trong mộng không còn gì là xa cách, Đêm đêm trở về với cảnh thu nơi vƣờn cũ) (Thu mộng – Mộng thu) Có thể nói, xa quê nhớ quê là điều dễ hiểu, nhƣng nhớ quê hƣơng nhƣ Đoàn Nguyễn Tuấn thì thật sâu sắc, cảm động. Nỗi nhớ lúc nào cũng hiện trong tâm trí, thƣờng trực mọi lúc, mọi nơi với bao cung bậc sắc thái khác nhau. Trong thơ Đoàn Nguyễn Tuấn ta dễ thấy tác giả thƣờng sử dụng những từ: “hƣơng tâm”, “tâm hƣơng”, “hƣơng hoài”, “hƣơng tình”, “gia hƣơng” để bộc lộ nỗi lòng mình. Đây cũng là tâm trạng chung của những ngƣời phải xa quê sang xứ ngƣời, Nguyễn Du cũng có nhiều câu thơ thể hiện nỗi lòng nhớ nhà, nhớ quê nhƣ vậy : “Vạn lý hương tâm hồi thủ xứ Bạch vân nam hạ bất thăng đa” (Lòng nhớ quê nhà cách xa vạn dặm, quay đầu nhìn lại Phía nam mây trắng nhiều không kể xiết) (Ngẫu hứng) Ngoài tình cảm yêu quê hƣơng đất nƣớc, thơ Đoàn Nguyễn Tuấn còn thể hiện tình cảm với gia đình và bè bạn sâu đậm. Ở thành Quảng Châu, tới ngày giỗ thân phụ không thể về, tình nghĩa mẹ cha hòa cùng nỗi nhớ nhung chất chứa khiến nhà thơ không cầm nổi giọt lệ: “Hà đương bất tỉnh thân, Độc tác tha hương khách. Đối nhân cưỡng ngôn ngữ, Đê, thủ lệ ám trích. Hữu, sinh phụ thù lao, 19
- Lâm thời trướng liêu cách. Phụ hề tối niệm nhi, Thiên biên thùy giám cách.” (Sao ta không biết xét lại mình, Đơn chiếc làm khách quê ngƣời? Trƣớc mặt ngƣời gƣợng trò chuyện, Cúi đầu lệ nhỏ thầm. Từ lúc sinh ra đã phụ công ơn nuôi nấng, Tới ngày cúng giỗ, buồn nỗi cách biệt xa xôi. Cha hỡi, nên thấu nỗi tình con, Xin chứng lòng thành cho đứa con ở chân trời này!) (Tiên khảo húy nhật cảm tác – Cảm xúc nhân ngày giỗ cha) Bài thơ diễn tả xúc động tâm trạng của thi nhân về bổn phận làm con trƣớc ngày giỗ cha. Ngày quan trọng này mà vẫn phải rong ruổi nơi xứ ngƣời không thể về khiến thi nhân cảm thấy day dứt trong lòng. Trƣớc mặt mọi ngƣời ông vẫn gƣợng trò chuyện nhƣng thẳm sâu trong lòng thì không sao tránh đƣợc những giọt nƣớc mắt nghẹn ngào. Cùng với những vần thơ thể hiện tình cảm với cha mẹ, Đoàn Nguyễn Tuấn còn có những bài thơ dành tặng bè bạn. Trong cuộc đời mình, Đoàn Nguyễn Tuấn có một tình bạn đẹp với Nguyễn Đề – ngƣời đã cùng ông đèn sách, hàn huyên tâm sự suốt bao năm trời : “Dữ quân các biện tâm đầu sự Thủy điểu chung mang, dã hạc nhàn” (Cùng ông, ta rõ tâm sự của nhau, Chim nƣớc bận miết, hạc nội lại nhàn) (Họa Nguyễn hàn lâm viện “Hành lộ nan” chi tác) Với Quế Hiên, Hải Ông cũng dành một tình cảm đẹp nhƣ ngƣời tri kỉ: 20
- “Công tế huề quân thanh thưởng xứ, Mai biên bôi tửu, trúc biên cầm.” (Xong việc công, dắt tay anh đến chốn thƣởng ngoạn thanh tao, Chén rƣợu bên cành mai, cây đàn bên khóm trúc) (Kỷ Dậu trọng thu thượng cán, nghinh tiếp sách sứ, tâm hữu Nguyễn Quế Hiên tặng thi nhị thủ y vận đáp) Đoàn Nguyễn Tuấn cũng rất chu đáo, ân cần với Ninh Tốn. Hai ngƣời cũng có nhiều kỉ niệm khó quên khi từng cùng nhau xuôi ngƣợc khắp chân trời góc bể: “Cửu thiên lý lộ trùng du khách, Nhất bách quang âm bán lão thì. Hải giác sâm si tha nhật tứ, Cộng thùy bôi tửu điểm xuân y?” (Trên đƣờng chín ngàn dặm từng là khách hai lần qua lại, Trong cõi đời trăm năm, nay đã tới tuổi sắp già. Phảng phất nhớ lại ngày nơi chân trời góc biển, Đã cùng ai vì một chén rƣợu mà cầm cố áo xuân) (Vãn Ninh Tốn – Viếng Ninh Tốn) Nhƣ vậy, tình yêu quê hƣơng, gia đình, bè bạn là những tình cảm thiêng liêng nhất, chiếm trọng trái tim của thi nhân. Đó là những tình cảm mà ông thƣơng yêu, mong nhớ, trân trọng và tự hào. Tình cảm ấy lại gắn với thời Tây Sơn – một mốc son trong lịch sử dân tộc. Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc cho rằng: “Đối với lịch sử, giai đoạn Tây Sơn giống nhƣ một tia chớp lóe sáng. Tuy vậy nó vẫn có tiếng vang sâu xa trong đời sống tinh thần của dân tộc, mà văn học Tây Sơn mang một chừng mực nào đó có thể coi là tấm gƣơng phản chiếu những thành tựu rực rỡ của phong trào vĩ đại này” [7, 9]. Dƣới một triều đại với nhiều chiến thắng vẻ vang nhƣ vậy, các sứ thần Tây Sơn đều mang 21
- trong mình niềm lạc quan, lòng tự hào dân tộc sâu sắc. Đoàn Nguyễn Tuấn cũng không ngoại lệ, ông có rất nhiều bài thơ ngợi ca triều đại Tây Sơn, ngợi ca ngƣời anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ, đặc biệt phải kể đến những bài ông viết họa đáp với các văn quan, sứ thần Trung Hoa: “Khách vấn An Nam cảnh nhược hà? An Nam phong cảnh dị Trung Hoa. Vi trần bất động sơn hà oánh; Bát tiết như xuân thảo thụ hoa. Thực thiều tỳ ma, đa thúc túc; Y khinh mao cách, trọng lăng la. Tuy nhiên đại hữu tương đồng xứ, Lễ nghĩa văn chương tự nhất gia.” (Khách hỏi An Nam phong cảnh ra sao? Phong cảnh An Nam khác với Trung Hoa. Mảy bụi không gợn, núi sông trong sáng, Tám tiết đều xuân, cây cỏ tƣơi hoa. Thức ăn ít độn, ăn nhiều thóc gạo; Đồ mặc: khinh lông, da; ƣa chuộng lƣợt là. Tuy vậy có chỗ giống nhau rất lớn: Văn chƣơng lễ nghĩa giống nhƣ một nhà!) (Vấn đáp – Trả lời câu hỏi) Với những câu thơ trực tiếp miêu tả cảnh vật thiên nhiên, sông núi, ẩm thực, thời tiết, trang phục của nƣớc Việt, Đoàn Nguyễn Tuấn không chỉ cho thấy vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc, vẻ đẹp trong nét văn hóa, phong tục tập quán lâu đời của ngƣời Việt mà còn thể hiện lòng tự hào dân tộc sâu sắc. Đây cũng là cảm xúc chung của những sứ thần thời này. Trong Tinh sà kỷ hành của Phan Huy Ích, Đoàn Nguyễn Tuấn cũng đã từng nói: “Tòng lai ngô quốc 22
- sứ Hoa vị hữu nhƣ thử chi kỳ thả vinh giả!” (Trƣớc giờ, ngƣời mình đi sứ Tàu chƣa có lần nào lạ lùng và vẻ vang vậy!). Nhƣ vậy, trên lộ trình muôn dặm, tình cảm đối với quê hƣơng, đất nƣớc, gia đình lại càng dâng lên mạnh mẽ, sâu xa hơn bao giờ hết trong lòng thi nhân. Tình cảm ấy giúp Hải Ông vơi bớt những khó khăn, nhọc nhằn trên con đƣờng xa quê, xa nhà. 2.3. Con ngƣời với nỗi niềm trăn trở trên con đƣờng “hoạn lộ” Không chỉ là niềm tự hào, tinh thần lạc quan, khí thế chiến thắng cùng nỗi ngậm ngùi dâu bể, thơ Đoàn Nguyễn Tuấn còn phảng phất những nỗi niềm tâm tƣ khó nói thành lời. Tâm trạng đó xuất hiện khi nhà thơ đã trải qua một quá trình trải nghiệm, chiêm nghiệm. Thời đại thay đổi, khi hầu hết các trí thức còn đƣơng ngơ ngác trƣớc những ngả đƣờng xuất xử khác nhau thì việc ra làm quan cho triều Tây Sơn đã mở ra cho Đoàn Nguyễn Tuấn một hƣớng đi mới. Ông đƣợc đánh giá là một nhà thơ, một sứ thần có đóng góp không nhỏ cho nền bang giao Việt Nam thời Tây Sơn. Đoàn Nguyễn Tuấn là cái tên khi nhắc đến công việc bang giao thời này ngƣời ta không thể không kể đến. Nhƣ vậy, “chí làm trai” coi nhƣ đã thực hiện đƣợc đôi phần. Thế nhƣng, ở Đoàn Nguyễn Tuấn ta lại thấy ông luôn mang trong mình một nỗi niềm u uẩn thầm kín, có không ít lần ông tỏ ra ân hận khi trót bƣớc chân vào con đƣờng khoa hoạn: “Nghiêm quân tị thế võng, Ngã ngộ nhâp trần khuyên.” (Lúc cha ta đã tránh khỏi lƣới đời, Thì ta lại lầm sa vào vòng trần lụy) (Vọng Triều Khẩu cựu trị hữu cảm – Cảm nghĩ khi trông công đƣờng cũ ở làng Triều Khẩu) 23
- Nỗi ân hận khi “lầm sa vào vòng trần lụy” còn đƣợc thể hiện khi Đoàn Nguyễn Tuấn làm thơ viếng Ninh Tốn. Nghĩ về ngƣời bạn tri kỉ nay đã trút bỏ đƣợc “chốn phong trần”, ông nhƣ mừng thầm cho bạn, nhƣng khi ngẫm về bản thân, ông không giấu đƣợc nỗi ngậm ngùi trong lòng: “Thích tài cộng tác thiên biên khách, Kim dĩ tiên vi địa hạ nhân. Vân vật tùy quân quy bích lạc; Hình hài giao ngã trệ phong trần.” (Vừa mới cùng nhau làm khách bên trời. Nay đã đi trƣớc làm ngƣời dƣới đất. Mây khói theo ông về vòm trời xanh biếc; Hình hài khiến tôi còn đọng chốn phong trần.) (Vãn Ninh Tốn – Viếng Ninh Tốn) Nguyễn Khuyến cũng đã từng có bài thơ khóc bạn: Ai chẳng biết chán đời là phải, Vội vàng sao đã mải lên tiên. (Khóc Dương Khuê) Nguyễn Khuyến khóc thƣơng cho ngƣời bạn tri kỉ của mình, ông nhớ lại những kỉ niệm gắn bó bên nhau, cùng nhau dốc bầu tâm sự. Xót thƣơng bạn đồng thời Nguyễn Khuyến cũng xót thƣơng mình. Câu thơ “Ai chẳng biết chán đời là phải” thể hiện một cách kín đáo, sâu sắc tâm sự của một nhà nho về thời thế. Đoàn Nguyễn Tuấn khi viếng Ninh Tốn cũng không giấu đƣợc nỗi ngậm ngùi khi vừa mới đây còn cùng nhau làm “khách bên trời”, đàm đạo văn chƣơng, sẻ chia ngọt bùi mà giờ bạn đã theo làn mây khói ra đi còn mình vẫn vƣớng bận chốn bụi trần. 24
- Không chỉ riêng Đoàn Nguyễn Tuấn, Nguyễn Du cũng đã có lần bày tỏ sự chán ngán chốn quan trƣờng. Nhớ đến câu “Nhất quan bôn tẩu phong trần mạt” của Nguyễn Du, Đoàn Nguyễn Tuấn thể hiện niềm đồng cảm sâu sắc: “Nhất quan bôn tẩu phong trần mạt, Bách tải xâm tầm điện lộ trung. Kỷ đóa hoàng hoa khai cựu kính, Sổ hành bạch phát cảnh suy ông. Tang bồng vận sự tâm đô lãnh, Chung đỉnh tiền triều mộng diệc dung.” (Một chức bôn tẩu ở tận cuối làn gió bụi, Trăm năm thấm thoắt trong khoảng chớp giật móc sa. Mấy đóa cúc vàng nở trên luống cũ; Vài hàng tóc bạc nhắc nhở ông già. Chuyện đẹp tang bồng, lòng đều nguội lạnh; Triều xƣa chung đỉnh, cũng biếng chiêm bao.) (Thu, dư nhập Kinh, đông mạt thủy qui, nhân ức Tố Như thị “Nhất quan bôn tẩu phong trần mạt” chi cú triền thành tứ vận – Mùa thu ta vào Kinh, cuối đông mới về, nhân nhớ câu “Nhất quan bôn tẩu phong trần mạt” của Tố Nhƣ thị bèn dàn thành bốn vần) Thời gian qua nhanh mà dấu chân còn in trên màu tóc. Giờ đây ngẫm lại chặng đƣờng bôn ba của mình, ông nhớ về một thời trai trẻ từng ôm mộng tang bồng và giấc mơ chung đỉnh. Đó từng là hi vọng, chí lớn lẫy lừng bốn phƣơng, tung hoành dọc ngang khắp trời đất, giúp nƣớc, giúp đời. Nhƣng tất cả chỉ còn là hồi ức đẹp trong quá khứ, còn nay thì “lòng đều nguội lạnh”, ngay cả chiêm bao cũng biếng, không còn muốn mơ mộng nữa. Vậy tại sao ông lại có suy nghĩ nhƣ thế, nỗi niềm u uẩn ấy là do đâu? 25
- Phải chăng ông cảm thấy hối hận khi bƣớc chân vào con đƣờng làm quan ngƣợc xuôi khắp chốn chƣa làm tròn chữ hiếu? Ngay cả ngày giỗ cha cũng không thể về thực hiện đạo làm con: “Thê nhi hào tố tịch. Đệ muội dữ thân cố, Lân lý đồng ai thích. Hà đương bất tỉnh thân, Độc tác tha hương khách.” (Vợ con gào khóc bên chiếu vắng. Em trai, em gái cùng các thân bằng, cố hữu, Thêm cả làng xóm, ai cũng xót thƣơng ! Sao ta không biết xét lại mình, Đơn chiếc làm khách quê ngƣời? (Tiên khảo húy nhật cảm tác – Cảm xúc nhân ngày giỗ cha) Nhƣng dám hi sinh tình nhà vì nghĩa nƣớc lâu nay vẫn thƣờng là lựa chọn của đấng trƣợng phu. Và cảm giác khi không làm tròn đạo làm con ấy cũng chỉ là sự day dứt, tự trách bản thân chứ không thể là nỗi ân hận, cho mình là kẻ lầm đƣờng khi làm quan. Vậy phải chăng là do ông cảm nhận đƣợc những hiểm nguy trên con đƣờng làm quan? Đỗ đạt làm quan và đƣợc vua cử đi sứ có thể nói là điều rất đáng tự hào nhƣng cũng lắm hiểm nguy, vất vả: “Mộ túc Trịnh Châu thành, Triều độ Trăn Vị thủy. Mã bồi xa diệc phúc, Dư phương mông đầu thụy. Khởi lai xý xa trung, Nê ninh ô y lý.” (Tối trọ ở thành Trịnh Châu. 26
- Sáng qua đò sông Trăn Vị. Bỗng ngựa ngã rồi xe cũng nhào, Giữa lúc ta đang trùm đầu ngủ. Choàng dậy, nghển nhìn trong xe : Bùn đất lấm cả giày, áo.) (Độ Trăn Vị xa phúc, mạn thành – Qua sông Trăn Vị, xe bị đổ, viết phiếm) Ngày xƣa đƣờng đi còn khó khăn, phải vƣợt qua bao chặng đƣờng, bao chốn rừng thiêng nƣớc độc cộng thêm phƣơng tiện thô sơ. Mỗi chuyến đi sứ kéo dài hàng tháng, hàng năm chứ không phải hai, ba ngày. Đoàn Nguyễn Tuấn bày tỏ chân thực hành trình đi sứ đầy gian nan, vất vả nhƣng không có nghĩa là ông kể khó ngại khổ, muốn dừng chân, bỏ cuộc. Không phải là những hiểm nguy trên đƣờng trƣờng vậy điều khiến ông e ngại phải chăng là ở chốn quan trƣờng? Nhận đƣợc tin tức ngƣời bạn thân của mình, ông vô cùng vui mừng: “Ngã tự Nam qua, phục Bắc hành, Phỏng quân tin tức thập phần ninh. [ ] Miễn quân gia tận cư quan pháp, Châu Lĩnh, Hồng Sơn, nguyệt chính mình.” (Ta tự miền Nam về, lại đi lên Bắc, Hỏi thăm tin ông, mƣời phần bình yên. [ ] Khuyên ông nên cẩn thận về phép tắc làm quan hơn nữa, Đỉnh Châu, non Hồng, vầng trăng đƣơng độ sáng tỏ.) (Ký Nghệ An thư ký – Gửi ông thƣ ký Nghệ An) Biết bạn mình “mƣời phần bình yên”, Đoàn Nguyễn Tuấn nhƣ thở phào nhẹ nhõm, đồng thời không quên khuyên bạn mình càng phải cẩn thận hơn 27
- nữa về phép tắc làm quan. Với Đoàn Nguyễn Tuấn, chiếc áo quan tuy bên ngoài rộng nhƣng lại khiến ngƣời mặc có cảm giác bó chặt, luôn phải co mình lại cho thật vừa vặn bởi không cẩn thận rất dễ mang họa. Lời khuyên ấy do đó cũng là lời khuyên cho chính mình. Nhƣng chốn quan trƣờng lắm đua chen cũng là điều dễ hiểu. Với một con ngƣời khéo léo nhƣ Đoàn Nguyễn Tuấn thì những phép tắc ấy có lẽ cũng chƣa thể là nỗi bận tâm, lo suy lớn nhất trong lòng ông. Vậy đâu là lí do thực sự cho những nỗi niềm, ý thức muốn rút chân ra khỏi chốn quan trƣờng của ông? Câu trả lời có thể nằm ở bài thơ Nghĩ cổ Bạch Lạc Thiên “Tự tiếu hành hà trì” chi tác: “Thu trung phát Quỳnh giang, Thu mộ để Chu thị. [ ] "Tự tiếu hành hà trì?” Thử ý cực nan chỉ. Mạc ngôn đạo lộ trường, Mạc ngôn hương quốc dị, Mạc ngôn cân lực nhuyễn, Mạc ngôn đồng bộc tuỵ, Đãn vị tâm bất tiền, Xạ hành tiện dục chỉ.” (Giữa thu đi từ sông Quỳnh, Cuối thu mới đến chợ Chu. [ ] Tự cƣời đi sao chậm thế! Ý này nói thật khó. Chớ bàn chuyện xa xôi, 28
- Chớ bảo lạ làng lạ nƣớc, Chớ bảo gân cốt yếu ớt, Chớ kêu tôi tớ nhọc mệt. Chỉ vì lòng không muốn đi, Vừa đi đã muốn dừng bƣớc.) (Nghĩ cổ Bạch Lạc Thiên “Tự tiếu hành hà trì” chi tác – Bắt chƣớc bài thơ “Tự cƣời sao đi chậm” của ông Bạch Lạc Thiên đời xƣa) Nhƣ vậy, nỗi niềm bấy lâu chất chứa trong Đoàn Nguyễn Tuấn khiến ông muốn dừng bƣớc nhất chính là tận trong tâm “lòng không muốn đi”. Con đƣờng đi sứ lắm gian nan, vất vả kia chỉ là hình ảnh để ông ngầm nói đến con đƣờng làm quan của mình. Nhƣ vậy, “không muốn đi” ở đây chính là không muốn bƣớc chân vào đƣờng làm quan nữa. “Chuyện đi” giờ đây nhƣ tấm gƣơng phản chiếu giúp ông soi vào để rồi “tự cƣời” mình, tự nhìn sâu vào đáy lòng mình để nói những điều thầm kín chất chứa bao lâu: “Xuất hoạn kinh ngũ niên, Bôn tẩu tổng vô vị. Phàm sự đương thoái lưu” (Làm quan đã trải trăm năm, Tất tƣởi nhƣng đều vô vị. Mọi việc nên rút giữa chừng.) (Nghĩ cổ Bạch Lạc Thiên “Tự tiếu hành hà trì” chi tác – Bắt chƣớc bài thơ “Tự cƣời sao đi chậm” của ông Bạch Lạc Thiên đời xƣa) Là một ngƣời đã nhìn ra đƣợc cái đẹp của triều đại mới, lại đƣợc vua tín nghiệm giao trọng trách đi sứ, đó là những điều đáng tự hào đối với một nho sĩ nhƣng khi ngẫm lại chặng đƣờng làm quan của mình, Đoàn Nguyễn Tuấn lại cho đó là “tất tƣởi nhƣng đều vô vị”. Có lẽ lúc còn trẻ, mang suy nghĩ phải nối nghiệp cha, mong ƣớc có thể làm rạng danh dòng dõi cộng thêm ý thức 29
- của một nhà nho bƣớc ra từ “cửa Khổng sân Trình”, phải hết lòng phò vua giúp nƣớc ổn định, giúp dân có cuộc sống ấm no khiến Đoàn Nguyễn Tuấn phải bƣớc chân vào con đƣờng hoạn lộ nhƣ một điều cần làm và nên làm. Nhƣng khi dấn thân vào rồi thì ông mới nhận ra con đƣờng ấy lồi – lõm thế nào, giống – khác sách vở ra sao. Khi ấy ông mới biết rằng đó không phải là mong ƣớc của mình nên dẫu “tất tƣởi nhƣng đều vô vị” là vì thế. Có lẽ, với tƣ cách là “con ngƣời công dân”, Đoàn Nguyễn Tuấn vẫn luôn cố gắng phò vua giúp nƣớc, cống hiến cho giang sơn xã tắc nhƣng với tƣ cách “con ngƣời cá nhân” thì đó không phải là con đƣờng mà ông muốn dấn thân vào: “Mãnh tỉnh cố ngô thân, Tu mấn tương bà nhiên. Bạch nhật bất khả hệ, Thế lộ quỉ truân chuyên. Phú quí phi chân cảnh, Túc nguyện hà thì viên.” (Chợt nghĩ lại vẫn cái thân ta, Mà nay râu tóc đã sắp trắng xóa. Không thể buộc mặt trời đứng lại, Đƣờng đời đi đến chỗ gian truân. Giàu sang không phải là cảnh thật, Ý muốn xƣa của ta bao giờ trọn vẹn?!) (Vọng Triều Khẩu cựu trị hữu cảm – Cảm nghĩ khi trông công đƣờng cũ ở làng Triều Khẩu) Khi nhìn lại đời mình sau ba mƣơi năm bôn ba, ông nhận ra giàu sang chỉ nhƣ là hƣ ảo, trong khi “ý muốn xƣa” vẫn chƣa thực hiện đƣợc. Vậy “ý muốn xƣa” hay nói khác đi, ƣớc nguyện mà ông luôn mong mỏi là gì mà sao khó thực hiện đến nhƣ thế? Thực ra ƣớc nguyện ấy không phải là điều gì cao 30
- xa, ngƣợc lại đó là điều vô cùng giản dị, tuy nhiên lại rất khó để có đƣợc đối với ông: “Thời nhân vị giải dư tâm lạc, Lạc tại Thiền cung đan quế hương.” (Ngƣời đời chƣa hiểu niềm vui trong lòng ta, Vui chốn cung trăng hƣơng đan quê nồng.) (Trung thu hoài thuật – Nhớ lại đêm Trung thu) Thì ra ƣớc nguyện lớn nhất, điều khiến ông mong mỏi bao lâu nay chính là đƣợc sống “vui” với niềm vui thời thơ trẻ: vô tƣ, không vƣớng chút bụi trần, ông luôn khao khát tìm về với những gì trong sáng nhất của hồn mình. Ƣớc muốn “trở về” đó chính là nỗi niềm mà suốt đời ông mải miết đi tìm. Ta thấy ông tìm lên cõi tiên: “Ngã vọng Na Sơn, lâm vạn khoảnh hề, thích tam quang Tích hữu tiên nhân hề, ư thử thảng dương” (Ta ngắm núi Nƣa ở nơi vạn khoảnh chừ, trên sát vòm trời? Xƣa có ngƣời tiên chừ, nơi đây nhởn nhơ chơi, (Vọng Na Sơn ca – Bài ca trông núi Nƣa) Có lúc ta lại thấy ông tìm lên “cõi mây”: “Phong như tích khối, thảo như nhân, Lộ nhập yên hà viễn thế phân.” (Núi tựa chất hòn, cỏ nhƣ tấm nệm, Đƣờng vào cõi mây khói xa hẳn chốn bụi đời.) (Sơn hành – Đi đƣờng núi) Rồi ông lại lần tìm vào cả cõi Phật: “Mộng lý lao lao trục phiến trần, Hồi đầu tạm học liễu tâm nhân, [ ] 31
- Như hà tần thướng không không giới, Phạn xá thời linh chí đạo tần.” (Trong mộng lao đao đuổi theo hạt bụi trần, Quay đầu lại, tạm học làm ngƣời lòng đã tỉnh ngộ. [ ] Làm sao mà luôn luôn lên đƣợc cõi “không không”, Để mãi mãi đƣợc nghe đạo màu nhiệm của nhà Phật.) (Họa Hoàng Hàn lâm nguyên tác – Họa bài nguyên tác của Hàn lâm họ Hoàng) Nhƣng dù có tìm đến cõi tiên, cõi mây hay cõi Phật thì ông cũng đều không sao tìm thấy. Khi đó, những tƣởng mọi thứ đã tuyệt vọng trong ông, nhƣng giây phút “ngẫu nhiên ngủ” đã đƣa Hải Ông đi vào cõi mộng. Ở đó tất cả mọi điều đều đến một cách tự nhiên, ngẫu nhiên xuất hiện. Nhƣng nó cũng là tất nhiên, là những điều thẳm sâu trong cõi thực, những ƣớc mong bấy lâu chất chứa trong tâm hồn giờ đƣợc bộc lộ một cách vô thức: “Trần cơ tĩnh xứ bách hài khang. Bán hướng công phu thắng tọa vương. Quy tức miên miên cô nguyệt dũ, Điệp hồn hủ hủ bách hoa trang.” (Cơ trần yên ắng, thân thể khỏe gấp trăm, Mới khoảng phút chốc, ngồi mà quên lãng. Giấc rùa miên man dƣới cửa sổ lồng bóng trăng suông; Hồn bƣớm lâng lâng trong trang trại nở rộ trăm hoa. (Họa ngẫu thùy thi – Họa bài thơ ngẫu nhiên ngủ) Nhƣng cái giây phút “ngẫu nhiên ngủ” ấy, khi mọi ƣu tƣ, lo nghĩ, phiền muộn của cuộc sống phút chốc tan biến, chỉ còn là những gì vô tƣ, trong sáng 32
- nhất, trong trạng thái trẻ thơ nhất ấy cũng chỉ vụt đến rồi lại vụt đi một cách nhanh chóng nhƣ một thoáng chợp mắt của giấc chiêm bao mà thôi: “Nhất giác y nhiên cơ huống khổ, Tao đầu khước tiễn Họa Sơn lương.” (Tỉnh giấc, vẫn thấy cảnh lữ khách khổ; Gãi đầu, lại thèm giấc Họa Sơn ngon.) (Họa ngẫu thùy thi – Họa bài thơ ngẫu nhiên ngủ) Có thể nói, đặt trong mối quan hệ xã hội, Đoàn Nguyễn Tuấn đƣợc xem là một trí thức tiến bộ, có những đóng góp không nhỏ cho quê hƣơng, đất nƣớc. Nhƣng trong mối quan hệ với bản thân mình, ông lại luôn mang một nỗi mặc cảm, niềm u uẩn chất chứa để rồi cảm thấy ân hận khi dấn thân vào con đƣờng “hoạn lộ”, không thể rời bỏ đƣợc. Ông mải miết đi tìm sự giải thoát cho bản thân trong cõi tiên, cõi Phật và cả trong cõi mộng nhƣng vẫn không thể tìm đƣợc lối thoát cho bản thân khỏi thực tại. Nhƣ vậy, nếu nhƣ nỗi nhớ quê hƣơng, gia đình, bè bạn là bi kịch của con ngƣời yêu quê mà phải sống đời lữ thứ, niềm dâu bể là bi kịch của con ngƣời nhạy cảm trƣớc những biến thiên của cuộc đời thì nỗi niềm u uẩn khi vƣớng chân vào con đƣờng “hoạn lộ” lại là bi kịch của một con ngƣời mang “chí của một nhà Nho mà khí của một thiền nhân”. Tiểu kết chƣơng 2 Có thể nói, đọc thơ Đoàn Nguyễn Tuấn ta thấy hiện lên chân dung một con ngƣời lạc quan, trầm tƣ mà không rời sự ngay thẳng, giản dị mà chân thành. Không những giàu tình cảm, nhạy bén với thế sự, Đoàn Nguyễn Tuấn còn luôn gắn bó thiết tha, tự hào và có trách nhiệm với gia đình, bè bạn, quê hƣơng đất nƣớc và cũng mang “vô số hoài niệm về kim cổ của con ngƣời” [11, 43]. 33
- Chƣơng 3. CON NGƢỜI CÁ NHÂN TRONG HẢI ÔNG THI TẬP TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT 3.1. Hình tƣợng nghệ thuật Trong tác phẩm Huyền học phật giáo và thiên chúa giáo, D.Tsuzuki (thế kỉ XX) đƣa ra quan điểm: “Bản chất của thơ ca là gợi nên những hình tƣợng không nói lên bằng lời và cao hơn vƣợt hẳn bức tranh đƣợc miêu tả bằng lời, ý nghĩa xác thực của những điều nhà thơ nói lên vọng đến nhƣ một tiếng vang, nó để cho ngƣời đọc tự khám phá những gì tàng ẩn của những thanh âm và những vần điệu ” Đọc thơ Đoàn Nguyễn Tuấn, ta có thể thấy hình tƣợng nghệ thuật thể hiện khá rõ con ngƣời cá nhân nhà thơ, đặc biệt là hình tƣợng tự họa về ngoại hình. Ngoại hình nhà thơ đƣợc thể hiện một cách trực tiếp qua hình tƣợng mái tóc bạc và những hình tƣợng tự họa về dáng vẻ độc tọa (ngồi một mình). Chân dung Đoàn Nguyễn Tuấn hiện lên một cách cụ thể qua hình tƣợng mái tóc, đặc biệt là hình ảnh con ngƣời có mái tóc bạc. Thơ ca Việt Nam trung đại không ít những vần thơ nói về mái tóc bạc. Nguyễn Trãi từng cảm nhận bƣớc đi của thời gian hiện lên qua màu tóc: “Tuổi đã năm mươi đầu đã bạc.” (Tự thán bài 5) Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, hình ảnh mái tóc bạc cũng trở đi trở lại. Lúc là “bạch phát”, khi là “bạch mấn”, khi còn là “bạch đầu” Mái tóc nhƣ biểu tƣợng của nhiều nghĩ suy, những nghiền ngẫm buồn thƣơng cùng sự bế tắc: “Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long” (Thăng Long kỳ 1) “Bạch phát thu phong không tự ta” (Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch) 34
- Mái tóc đã trở thành thƣớc đo sự tàn phai của tuổi trẻ, của đời ngƣời cùng bao tháng năm trên đƣờng “hoạn lộ”, sóng gió cuộc đời. Cũng giống nhƣ các nhà thơ trung đại, Đoàn Nguyễn Tuấn cũng sử dụng hình tƣợng mái tóc bạc để khắc họa bức chân dung tự họa ngoại hình của mình. Nếu nhƣ mái tóc xanh lâu nay vẫn là một ẩn dụ chỉ tuổi trẻ, sức sống, hạnh phúc thì mái tóc bạc trong thơ Đoàn Nguyễn Tuấn không đơn thuần miêu tả diện mạo bên ngoài mà nó còn ký thác nhiều suy tƣ trong con ngƣời ông. Khi qua thành Tĩnh Gia, chợt nhớ đến viên tri huyện Hoằng Hóa, ông thƣơng xót cho ngƣời bạn cũ nhƣng cũng ngậm ngùi cho chính mình: “Tiếu dư do tại, đầu tương bạch, Chỉ hữu đan tâm thượng luyện câm (kim)!” (Cƣời ta nay còn sống nhƣng đầu sắp bạc trắng, Chỉ có tấm lòng son nhƣ thỏi vàng đã luyện rồi!) (Quá Tĩnh Gia thành ức cố Hoằng Hóa huyện doãn cảm tác – Cảm xúc làm thơ khi qua thành Tĩnh Gia, nhớ viên tri huyện Hoằng Hóa cũ) Khi còn trẻ, ý thức nối nghiệp cha, làm rạng danh dòng họ luôn thƣờng trực trong Đoàn Nguyễn Tuấn. Đến khi dấn thân vào chốn quan trƣờng, trực tiếp đối mặt với thực tế, trải qua bao biến cố, thăng trầm của cuộc đời ông mới thấm thía đƣợc nhiều điều, nhƣng đến khi nhận ra thì “râu tóc đã sắp trắng xóa”: “Hồi thủ tam thập niên Nhân vật tận linh lạc, Sơn hà đa biến thiên Mãnh tỉnh cố ngô thân, Tu mấn tương bà nhiên Bạch nhật bất khả hệ” (Ngoảnh đầu lại đã ba mƣơi năm rồi. 35
- Ngƣời, vật thảy đều rơi rụng, Non nƣớc cũng đổi thay nhiều! Chợt nghĩ lại vẫn cái thân ta, Mà nay râu tóc đã sắp trắng xóa Không thể buộc mặt trời đứng lại.) (Vọng Triều Khẩu cựu trị hữu cảm – Cảm nghĩ khi trông công đƣờng cũ ở làng Triều Khẩu) Hay: “Nhất quan bôn tẩu phong trần mạt. Bách tải xâm tầm điện lộ trung Kỷ đóa hoàng hoa khai cựu kính Sổ hành bạch phát cảnh suy ông.” (Một chức bôn tẩu ở tận cuối làn gió bụi Trăm năm thấm thoắt trong khoảng chớp giật móc sa Mấy đóa cúc vàng nở trên luống cũ: Vài hàng tóc bạc nhắc nhở ông già.) (Thu, du nhập Kinh, đông mạt thủy qui, nhân ức Tố Như thị “Nhất quan bôn tẩu phong trần mạt” chi cú triền thành tứ vận – Mùa thu ta vào Kinh, cuối đông mới về, nhân nhớ câu “Nhất quan bôn tẩu phong trần mạt” của Tố Nhƣ thị bèn dàn thành bốn vần) Mái tóc bạc trong thơ Đoàn Nguyễn Tuấn gợi liên tƣởng đến tuổi già nhƣng lại không mang đến cho ông cảnh an nhàn, thảnh thơi. Trái lại, nó gây nên bao điều muộn phiền, lo lắng. Thời gian trôi nhanh, chuyện hƣ danh cùng nhiều tháng năm xa quê, xa nhà nơi xứ ngƣời đã khiến mái tóc xanh ngả màu: “Phù sinh danh lợi không giao cát; Thử địa quan hà kỷ hợp phân. Nhất hoạn tiêu điều suy mấn khách; 36
- Bách hoa tịch mịch cố viên xuân.” (Danh lợi trong cõi phù sinh luống những rối bời; Núi sông ở dải đất này bao lần chia hợp. Khách bạc tóc với một quan chức mọn, Xuân vƣờn xƣa cùng trăm hoa hiu quạnh!) (Túc Hoành Sơn đồn, văn hải đào thanh – Ngủ đêm ở đồn Hoành Sơn nghe tiếng sóng biển) Có thể thấy hình tƣợng mái tóc bạc trong thơ Đoàn Nguyễn Tuấn mang nhiều ý nghĩa. Qua hình tƣợng ấy, ngƣời đọc không chỉ thấy dấu ấn về tuổi tác mà còn thấy những nỗi gian truân, những tâm sự, nỗi niềm cá nhân trong nhà thơ. Hình tƣợng mái tóc bạc biểu tƣợng rất rõ cho chân dung một con ngƣời luôn ƣu tƣ, đa sầu đa cảm trƣớc dâu bể cuộc đời của tác giả. Nhà thơ họ Đoàn không chỉ khắc họa chân dung của mình qua hình tƣợng mái tóc bạc mà còn chú ý đến hình tƣợng tự họa về dáng vẻ ngồi một mình. Có lúc đứng trên bậc đá núi, ngẩng nghe gà trời gáy trên tầng biếc, cúi nhìn nhạn thu điểm trong ráng tƣơi mà lòng nhớ đến nơi cố hƣơng: “Cứ tọa sơn đầu ngưng viễn thế, Phiến vân phi xứ thị ngô gia.” (Ngồi xổm trên núi lặng nhìn nhìn phƣơng xa, Nơi làn mây bay, ấy là nhà ta!) (Đăng Kháo sơn – Lên núi Kháo) Hay khi qua Đèo Ngang lòng nhớ quê cũng dâng lên khiến ông ngậm ngùi đứng trông ra vời vợi núi xa: “Thương thương bách lý thiên niên hải Hạo hạo song đôi lãng khích sa Huống thị qui tâm hương quốc nhĩ Bạch vân thân xá vọng như hà.” 37
- (Trăm dặm xanh xanh, trời liền với biển Đôi cồn bát ngát, sóng đẩy cát lên Thêm nỗi nhớ quê canh cánh bên lòng Trông vời nhà ta dƣới làn mây trắng.) (Độ Hoành Sơn – Vƣợt Đèo Ngang) Cũng có khi vì nhận đƣợc tin cha mất mà ông ngồi một mình trầm ngâm: “Kim cổ huyên điền phân khí trọng, Sóc phong hồi thủ lệ giao liên.” (Tiếng chiêng vang náo, bầu trời nặng nề khí xấu, Quay đầu về hƣớng gió bấc, hai hàng lệ tuôn rơi!) (Tại đồ bàn thành ngoại khách xá trị húy nhật – Tại quán khách ngoại thành Đồ Bàn gặp ngày giỗ cha) Nhƣ vậy, bằng những nét vẽ tinh tế qua hình tƣợng mái tóc bạc cũng nhƣ tƣ thế ngồi một mình, chân dung con ngƣời cô đơn Đoàn Nguyễn Tuấn hiện lên rõ nét, biểu hiện những nỗi niềm u uất trong tâm hồn đƣợc tạo nên từ những hoàn cảnh khác nhau trong cuộc đời: lúc vì nhận đƣợc tin cha mất, lúc vì nhớ quê nhà, khi lại thấy mình là một lữ khách tha hƣơng mà không tránh khỏi những ngậm ngùi. 3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật Theo Từ điển văn học: “Ngôn từ nghệ thuật là khái niệm để chỉ loại hình ngôn ngữ dùng để biểu đạt nội dung hình tƣợng của các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ” [12, 1090]. Trong tác phẩm, ngôn ngữ nghệ thuật là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của ngƣời nghệ sĩ. Hệ thống ngôn ngữ trong thơ Đoàn Nguyễn Tuấn bộc lộ rất rõ con ngƣời cá nhân 38
- của tác giả, cụ thể là qua việc sử dụng những đại từ chỉ ngôi, hệ thống điển cố cùng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc. Khảo sát thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn chúng tôi thấy tác giả sử dụng khá phong phú các đại từ chỉ ngôi: ta (41 từ), tôi (20 từ), mình (12 từ) Con ngƣời cá nhân trong thơ Đoàn Nguyễn Tuấn có khi đứng ở vị trí “chủ thể của hành động” để bộc lộ khát vọng, ƣu tƣ, tâm sự của bản thân: “ Ngã vọng Na Sơn, lâm vạn khoảnh hề, thích tam quang. Tích hữu tiên nhân hề , ư thử thảng dương.” (Ta ngắm núi Nƣa nhòm xuống vạn khoảnh chừ, trên sát vòm trời Xƣa có ngƣời tiên chừ, nơi đây nhởn nhơ chơi.) (Vọng Na sơn ca – Bài ca trông núi Nƣa) Có khi con ngƣời trong thơ Đoàn Nguyễn Tuấn trở thành “khách thể chịu sự tác động của ngoại cảnh”: “Lục tải phong trần phụ cổ san, Tạo nhi giáo ngã mệnh đồ nan.” (Sáu năm gió bụi đành phụ núi xƣa, Con tạo khiến ta số mệnh long đong) (Họa Nguyễn Hàn lâm viện “Hành lộ nan” chi tác – Họa bài “Hành lộ nan” của ông Hàn lâm họ Nguyễn) Có lúc Đoàn Nguyễn Tuấn dùng đại từ nhân xƣng trong vai trò sở hữu: “ngô thân” (thân ta), “tâm lạc” (lòng ta) để bày tỏ nỗi lòng mình, nhớ lại quãng đời nhọc nhằn của mình mà xót xa cho thân phận. Qua những thân phận trực tiếp của “ta”, ngƣời đọc nhận ra nỗi u uất, những tâm sự thầm kín của tác giả: “Mãnh tỉnh cố ngô thân, Tu mấn tương bà nhiên.” 39
- (Chợt nghĩ lại vẫn cái thân ta, Mà nay râu tóc đã sắp trắng xóa.) (Vọng Triều Khẩu cựu trị hữu cảm – Cảm nghĩ khi trồng công đƣờng cũ ở làng Triều Khẩu) Bên cạnh việc sử dụng đại từ nhân xƣng thể hiện con ngƣời cá nhân, Đoàn Nguyễn Tuấn còn đƣa vào tác phẩm của mình nhiều điển cố. Có những điển cố của Lão Trang nhƣ “Na Sơn”, “mộng kê vàng”, “cõi Hi Di” của Phật giáo nhƣ “cõi không không”, “Bát Nhã”, “đan lý” Là nhà nho đƣợc học nơi “cửa Khổng sân Trình”, Đoàn Nguyễn Tuấn đã vận dụng linh hoạt những từ, nhóm từ có xuất xứ từ Luận ngữ, Kinh thi, từ thơ của các tác giả đời Đƣờng nhƣ Thôi Hiệu, Đỗ Phủ, Lý Bạch trong các sáng tác của mình. Trong bài Dạ độ Nhĩ Hà (Ban đêm, qua sông Nhị Hà), Đoàn Nguyễn Tuấn đã có một sáng tạo thú vị trong lối dụng điển: “Hoàng hoa hữu mệnh dạ tương thôi, Tệ cát, luy câu, Nhĩ thủy di. Thành quách mô hồ, thanh vụ lý, Gia hương phiếu diểu bạch vân đôi.” (Có lệnh đi sứ giục giã trong đêm, Áo rách, ngựa gầy ở góc sông Nhị. Thành quách lờ mờ trong sƣơng mù xanh; Làng quê thăm thẳm dƣới làn mây trắng.) Ở 4 câu thơ này, Đoàn Nguyễn Tuấn sử dụng 3 điển cố: “hoàng hoa”; “tệ cát”, “luy câu” và “bạch vân”. Từ “hoàng hoa” và cụm từ “tệ cát, luy câu” đƣợc Đoàn Nguyễn Tuấn sử dụng để nói về việc ông nhận lệnh phải lên đƣờng để chuẩn bị đi sứ ngay trong đêm. Cùng với đó là từ “bạch vân” đƣợc ông lấy từ điển về Địch Nhân Kiệt khi bày tỏ nỗi lòng mong nhớ quê hƣơng của ngƣời làm quan ở nơi xa. Ở đây, Đoàn Nguyễn Tuấn đã có cách vận dụng 40
- điển cố một cách sáng tạo theo cách riêng của mình từ đó tạo nên hàm ý sâu sắc để nói lên tâm trạng bản thân. Trong thiên Ung dã (sách luận ngữ) có câu “Thừa phì mã ý khinh cừu” (cƣỡi ngựa béo, mặc áo cừu nhẹ) để nói đến sự phong lƣu, sang trọng, giàu sang khi hình dung về sứ giả thì ở đây đã đƣợc Đoàn Nguyễn Tuấn vận dụng, tái tạo lại thành “Tệ cát, luy câu, Nhĩ thủy dĩ” (Áo rách, ngựa gầy ở góc sông Nhị). Ta thấy câu thơ của Đoàn Nguyễn Tuấn đã có sự tƣơng phản, đối lập so với nghĩa gốc. Và sự tƣơng phản ý ấy khiến cho ngƣời đọc phải băn khoăn: tại sao đƣợc cử đi sứ, lại là một sứ giả của triều đại vừa có chiến thắng quân sự vẻ vang nhƣ thế mà hình dung lại mỏi mệt, buồn bã, chán nản nhƣ vậy? Câu trả lời nằm ở điển “bạch vân” trong câu thơ thứ tƣ: “Gia hƣơng phiếu diểu bạch vân đôi” (Làng quê thăm thẳm dƣới làn mây trắng). Nhƣ vậy, điều khiến ông u buồn, luôn canh cánh tận sâu trong lòng là nỗi nhớ mong quê nhà da diết, khôn nguôi. Tuy nhiên, bên cạnh những điển tích, điển cố ta còn bắt gặp hệ thống từ vựng giản dị, tự nhiên, gần gũi từ đời sống thực tại thể hiện tình yêu sâu đậm của tác giả với quê hƣơng, đất nƣớc. Đó có thể là tiếng gà gáy quen thuộc, bình dị nơi thôn quê: “Để tỉnh “kha kha” hữu giá cô.” (Gà gô gáy “O! O!” giúp mình thức tỉnh.) (Quá Tam Điệp sơn – Qua núi Tam Điệp) Đó còn là hình ảnh những con vật nhỏ bé nhƣ thỏ, dế, ve: “Tuyệt tái thanh thu, dạ lậu trường, Trì đường bi suất gián hàn tương!” (Giữa trời thu trong trẻo chốn ải xa, giọt đồng lê thê Lên bờ ao tiếng dế sầu bi xen với tiếng ve lạnh lẽo) (Thu suất – Dế thu) 41
- Hay đôi khi chỉ là những lúa, đậu, bãi lau khô, bờ cỏ rậm ở bên đƣờng cũng đƣợc Đoàn Nguyễn Tuấn đƣa vào thơ: “Phương châu thảo mật dao song thúy, Tình các phong sơ cách ngạn hồng.” (Lay động trƣớc song, thảm cỏ rậm trên bãi thơm phô màu xanh biếc; Trên bờ bên kia, rặng phong thƣa nơi gác nắng rực rỡ sắc hồng.) (Đăng Hoàng Hạc lâu – Lên lầu Hoàng Hạc) “Duyên giản thổ phì đa thúc đạo” (Ven suối đất đai màu mỡ trồng nhiều lúa đậu) (Chu giang hí thuật) Nhƣ vậy, bên cạnh những thi liệu cổ, Đoàn Nguyễn Tuấn cũng đã vận dụng linh hoạt những thi liệu hết sức bình dị khi đƣa vào tác phẩm của mình khiến ngôn ngữ thơ không những trang nhã, mẫu mực mà còn tự nhiên, gần gũi. 3.3. Thời gian, không gian nghệ thuật 3.3.1. Thời gian nghệ thuật “Thời gian nghệ thuật là một hình tƣợng thời gian đƣợc sáng tạo nên trong tác phẩm nghệ thuật” (Trần Đình Sử). Trái với thời gian vật chất vận hành theo quy luật tiếp diễn tuần hoàn, mang tính khách quan, thời gian nghệ thuật lại mang tính chủ quan của ngƣời sáng tác. Trong Hải Ông thi tập, thời gian cũng đƣợc vận hành theo cách cảm, cách nghĩ của tác giả. Thời gian thể hiện con ngƣời cá nhân trong thơ Đoàn Nguyễn Tuấn chủ yếu là thời gian ở quá khứ. Là ngƣời luôn mang những nỗi niềm tâm sự chất chứa về thực tại, chỉ những khi nghĩ về quá khứ, về những ngày thơ trẻ ta mới thấy niềm vui trong ông: “Trị hậu ỷ thạch sơn, Trị tiền lâm đại xuyên. 42
- Hoạn nhàn, sự diệc tỉnh, Sơn thủy đa bàn tuyền. Ngã thì tại mao thiều. Huề hồ phủng thi tiên.” (Sau công đƣờng dựa vào núi đá, Trƣớc công đƣờng trông ra sông cái. Quan nhàn, việc cũng ít, Nhiều khi dạo quanh sông núi. Khi ấy, ta còn để trái đào, Mang bầu rƣợu, cắp túi thơ theo hầu.) (Vọng Triều Khẩu cựu trị hữu cảm - Cảm nghĩ khi trông công đƣờng cũ ở làng Triều Khẩu) Cũng có lúc ông nhớ lại thời trai trẻ hai mƣơi năm trƣớc đây từng đi thi ôm ấp bao khát vọng chí tang bồng: “Nhị thập niên tiền trường ốc tử Văn thân phất biến lục nhai hồng.” (Hai mƣơi năm trƣớc là gã học trò đi thi, Chiếc đai văn thân lƣớt khắp sáu phố rực hồng.) (Châu túc Lai Triều cảm tác – Cảm tác khi đâu thuyền đêm ở Lai Triều) Nhƣng đó chỉ còn là những hồi ức trong quá khứ. Nụ cƣời hồn nhiên thời thơ trẻ giờ đây chỉ còn là tiếng thở dài buột ra đầy tâm trạng. Thời gian trôi quá nhanh, cảnh vật đổi thay và con ngƣời cũng khác xƣa nhiều khiến thi nhân không khỏi có tâm trạng “lo lắng, rối bời”: “Tam thập niên tiền trĩ thả cuồng, Đáo lai cánh niệm đố phân mang.” (Ba chục năm trƣớc đã thơ trẻ lại ngông, Đến nay ngẫm lại thấy lo lắng rối bời.) (Trung thu hoài thuật – Nhớ lại đêm Trung thu) 43
- Đối với ông, quá khứ là nơi tâm hồn đƣợc thƣ thái, an yên, ít lo âu nhất nhƣng đó chỉ là những khoảnh khắc thoáng qua, chợt nhớ lại mà thôi, thời gian ấy nhanh chóng bị đẩy lùi, nhƣờng chỗ cho thực tại. Thời gian ở tƣơng lai cũng đƣợc Đoàn Nguyễn Tuấn đề cập khá ít, hầu nhƣ ông không đề cập đến tƣơng lai của bản thân mình. Về thời khắc trong ngày thì chiều tối chính là khoảng thời gian mà Đoàn Nguyễn Tuấn sử dụng nhiều nhất để bộc lộ nỗi lòng mình. Từ xƣa đến nay, thời gian khi trời chiều luôn là lúc khiến cho tâm trạng con ngƣời trở nên bâng khuâng, buồn nhớ, Đoàn Nguyễn Tuấn cũng không ngoại lệ. Viết về những bài thơ mang nỗi niềm tâm sự bản thân thì ông thƣờng thả hồn mình trong những buổi chiều tà: “Tâm hương nhất chú, giang thiên mộ, Phảng phất vân biên địch hưởng lai.” (Hƣơng lòng một nén chiều xế trên sông, Văng vẳng bên mây, tiếng sáo vọng về.) (Thương Ngô tam vịnh – Ba bài thơ vịnh cảnh Thƣơng Ngô) Đặc biệt với những ngƣời xa xứ, cảm xúc lại càng dâng trào hơn lúc nào hết trƣớc khoảng thời gian này – khoảng thời gian mà con ngƣời có thể quên đi những bộn bề, chìm vào phút giây thanh tĩnh, an lành nhất để tâm hồn cô đơn tìm về nơi quê nhà: “Nhật lạc bồng song hương tứ trọng, Họa bình dịch bãi, tửu vi hàm.” (Bóng chiều rọi qua song thuyền, lòng quê trĩu nặng Vẽ bàn cờ đánh xong rƣợu đã ngà ngà) (Chu trình mạn thuật – Viết phiếm về cảnh đi thuyền) Và nếu mùa xuân thƣờng xuất hiện trong thơ Đoàn Nguyễn Tuấn khi nói về sự cảnh sắc tƣơi đẹp của quê hƣơng đất nƣớc thì mùa thu lại là khoảng 44
- thời gian gợi nhiều cảm xúc trong lòng thi sĩ. Nhà thơ đặc biệt có một chùm thơ viết về mùa thu thật đặc sắc, nói lên tâm sự ngƣời đi sứ nhớ về quê hƣơng. Mùa thu vốn đẹp nhƣng buồn, giờ lại đƣợc nhìn qua lăng kính của tác giả lại càng buồn thêm. Trong đêm thu hiu quạnh vọng lại tiếng đàn từ xa: “Nguyệt lạc sa song, ngọc lậu trầm Tiêu điều đồng vận quá phong lâm. Cao sơn lưu thủy thiên thu điệu, Hải giốc thiên nhai, ngũ dạ tâm.” (Trăng lặn song the, giọt ngọc trầm trầm Tiếng tơ đồng hiu hắt thoảng qua rừng phong. Âm điệu ngàn năm: bài non cao nƣớc chảy, Não lòng năm canh kẻ góc biển chân trời.) (Thu cầm – Đàn thu) Tiếng đàn từ đâu vọng tới khiến cảnh đêm càng thêm hiu hắt, nhuốm màu bi thƣơng. Cảnh thu thật não nề nhƣ tâm trạng u buồn khôn xiết của nhà thơ: “Não lòng năm canh kẻ góc biển chân trời”. Cảnh khiến ngƣời buồn hay ngƣời buồn thổi u sầu vào cảnh khó mà bóc tách đƣợc, chỉ biết tâm và cảnh đã hòa vào nhau trong một điệu nhạc thê lƣơng. Giữa đêm thu nơi ải xa, nhà thơ lắng nghe tiếng dế, tiếng ve: “Tuyệt tái thanh thu, dạ lậu trường, Trì đường bi suất gián hàn tương! Vi trùng diệc giải chinh nhân tứ Liêu dẫn u hoài đáo cố hương.” (Giữa trời thu trong trẻo chốn ải xa, giọt đồng lê thê Bên bờ ao tiếng dế sầu bi xen với tiếng ve lạnh lẽo, Loài côn trùng bé nhỏ cũng hiểu lòng kẻ đi xa, Gợi mối u hoài chuyển đƣa về tới quê nhà.) (Thu suất – Dế thu) 45
- Khi đi xa, tình cảm mong nhớ quê nhà không lúc nào nguôi trong lòng Đoàn Nguyễn Tuấn. Nghe tiếng ve, tiếng dế bên bờ ao ông cảm thấy tiếng dế kia kêu nhƣ “sầu bi” hơn, tiếng ve kêu nhƣ “lạnh lẽo” hơn, phải là ngƣời nhạy cảm, mang trong mình nhiều nỗi niềm mới có thể có những cảm nhận sâu sắc nhƣ vậy. Không chỉ nghe thấy những thanh âm cụ thể mà nhà thơ còn cảm nhận đƣợc cả “tiếng thu”: “Thê thê thiết thiết nhập sơ liêm, Thiên địa vô thanh khởi phục tiềm. Bài dẫn u sầu thiên vạn chủng, Hiểu lai bạch phát sổ hành thiêm?” (Thê lƣơng não nuột, lọt vào bức rèm thƣa, Trời đất không có tiếng mà lúc bổng lúc trầm. Lúc thì dẹp yên, lúc thì khêu gợi ngàn vạn mối u sầu, Cứ sáng ra mái tóc bạc lại thêm mấy sợi.) (Thu thanh – Tiếng thu) Tiếng thu kia là tiếng gì của mùa thu? Đó có phải tiếng mƣa thu, tiếng gió thu? Sao nghe khi bổng, khi trầm, khi “dẹp yên”, khi lại “u sầu” đến thế? Hay là tiếng bƣớc đi của thời gian in dấu trên mái tóc ngƣời? Mùa thu là bƣớc chuyển từ sự sống sang héo tàn, có lẽ vì vậy mà thu thƣờng đƣợc dùng để chỉ thƣớc đo thời gian (khi muốn nói đến thời gian dài, ngƣời ta hay dùng từ “ngàn thu”). Đoàn Nguyễn Tuấn lại là ngƣời nhạy cảm với thời gian, với những dâu bể cuộc đời nên thu xuất hiện nhiều trong thơ ông cũng là điều dễ hiểu. 3.3.2. Không gian nghệ thuật Cùng với thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật cũng mang dấu ấn cá nhân tác giả : “không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của ngƣời nghệ 46
- sĩ nhằm biểu hiện con ngƣời và thể hiện quan niệm nhất định về cuộc sống” [14, 108-109]. Trong thơ Đoàn Nguyễn Tuấn nổi lên không gian rộng lớn, cách trở. Không gian càng rộng lớn bao nhiêu, con ngƣời càng cảm thấy nhỏ bé, cô đơn, u sầu bấy nhiêu. Trên hành trình đi sứ, nhà thơ có dịp quan sát nhiều cảnh thiên nhiên kì vĩ nơi xứ ngƣời. Núi cao nhiều hiểm trở, sông sâu lắm thác ghềnh là những hình ảnh phổ biến trong thơ ông. Nhƣng nó không mang đến một hồn thơ rộng mở, khao khát làm chủ, hòa tan vào vũ trụ. Trái lại, với một tâm hồn vốn đa sầu đa cảm, Đoàn Nguyễn Tuấn tìm đến với thiên nhiên nhƣ để gửi gắm bao nỗi niềm cá nhân. Từ xƣa đến nay, khi đứng trƣớc núi non hùng vĩ, con ngƣời thƣờng cảm thấy nhỏ bé, hữu hạn. Ngƣời xƣa thƣờng lấy không gian này để nơi gửi gắm “hùng tâm” hay thỏa chí du ngoạn lúc bình sinh, họ luôn khao khát “đăng cao” để phóng tầm mắt ra xa, chiêm ngƣỡng đất trời. Trên quãng đƣờng kinh lý của mình, Đoàn Nguyễn Tuấn cũng có nhiều dịp “đăng cao”, cũng có lúc thi nhân tìm đƣợc cảm giác sảng khoái, gắn kết với thiên nhiên đất trời, muốn ôm trọn trời đất để tận hƣởng tất thảy: “Ngã dục huề cùng đăng nguyệt đính, Phủ khan đại khối ác triêu huân” (Ta muốn chống gậy lên đỉnh núi cao vút, Cúi nhìn trời đất, nắm ánh bình minh và ánh hoàng hôn) (Thu sơn – Núi thu) Nhƣng đó chỉ là ƣớc mong ban đầu, khi đã đứng trên cao giao hòa cùng vũ trụ thì tất cả những u uẩn, trầm mặc trong đáy lòng bỗng đƣợc bộc phát, trào dâng mãnh liệt và xúc động. Nỗi cô đơn, lòng nhớ nhà, nhớ quê là những nỗi niềm thƣờng trực trong Đoàn Nguyễn Tuấn nhiều nhất khi trèo lên đến đỉnh núi: 47
- “Nhân quá dục truyền hương quốc tín Hồi phong xuy tống nhạn thanh cô.” (Ngƣời qua, muốn gửi tin về quê hƣơng đất nƣớc, Cơn gió xoáy thổi về đƣa tiếng nhạn cô đơn!) (Độ Dũ Lĩnh – Qua núi Dũ Lĩnh) Hay: “Cứ tọa sơn đầu ngưng viễn thế, Phiến vân phi xứ thị ngô gia.” (Ngồi xổm trên núi lặng nhìn nhìn phƣơng xa, Nơi làn mây bay, ấy là nhà ta!) (Đăng Kháo sơn – Lên núi Kháo) Đƣờng mây trắng bay là quãng đƣờng đƣợc Đoàn Nguyễn Tuấn sử dụng khi nói về khoảng cách giữa mình với quê hƣơng. Đó là một khoảng cách vô cùng xa xôi, muôn trùng, bất định. Và nhƣ thế, mỗi khi đứng trên đỉnh núi cao dõi về hƣớng trời Nam, dẫu biết nơi ấy là quê nhà nhƣng mọi vật đều lẩn khuất trong làn mây. Mây trắng cứ từng lớp từng lớp bay trôi lững lờ, lòng lữ khách cũng lửng lơ, vô định. Không chỉ đứng trƣớc núi cao mà khi đứng trƣớc sông nƣớc mênh mông, Đoàn Nguyễn Tuấn cũng mang nhiều nỗi niềm tâm trạng. Khi một mình đối diện với sông sâu bể rộng ngƣời ta thƣờng chạnh nghĩ về mình, về chốn nhân gian cuộc đời. Đoàn Nguyễn Tuấn cũng vậy. Sông gắn liền với những kí ức của tuổi thơ êm đẹp bên cha: “Trị hậu ỷ thạch sơn, Trị tiền lâm đại xuyên. Hoạn nhàn, sự diệc tỉnh, Sơn thủy đa bàn tuyền. Ngã thì tại mao thiều. 48
- Huề hồ phủng thi tiên.” (Sau công đƣờng dựa vào núi đá, Trƣớc công đƣờng trông ra sông cái. Quan nhàn, việc cũng ít, Nhiều khi dạo quanh sông núi. Khi ấy, ta còn để trái đào, Mang bầu rƣợu, cắp túi thơ theo hầu.) (Vọng Triều Khẩu cựu trị hữu cảm – Cảm nghĩ khi trông công đƣờng cũ ở làng Triều Khẩu) Sông cũng giống nhƣ một ngƣời bạn để ông giãi bày, rót chén rƣợu cho vơi nỗi sầu trong lòng: “Lâm phong nhất trù trướng, Thiểu chước cựu giang biên ” (Đứng trƣớc luồng gió, trạnh nỗi ngậm ngùi, Bên bờ sông xƣa, tạm rót chén suông ) (Vọng Triều Khẩu cựu trị hữu cảm – Cảm nghĩ khi trông công đƣờng cũ ở làng Triều Khẩu) Nhƣng không gian mênh mông sông nƣớc cũng khiến Đoàn Nguyễn Tuấn nhận rõ đƣợc sự nhỏ bé, thân phận “bèo bọt” của cảnh tha hƣơng: “Giang hồ hạo diếu than vi ngạnh, Vạn hộc hương hoài lãnh tự thu.” (Sông hồ mênh mông, thân nhƣ bèo bọt Lòng quê muôn hộc lạnh tựa mùa thu.) (An Bình giang vãn thiểu – Chiều tối ngắm cảnh trên sông An Bình) Đứng trƣớc không gian sông nƣớc mênh mông, rộng lớn, con ngƣời thƣờng dâng lên trong lòng nhiều suy ngẫm, xúc cảm. Mang nỗi buồn xa quê 49
- trên nẻo đƣờng vạn dặm, khi đứng trƣớc con sông Ngô ở Trung Hoa, Đoàn Nguyễn Tuấn lại nhớ về sông Quỳnh Giang nơi quê nhà: “Vạn lý tương tùy lâm sóc mạc, Tinh thần nhất dạng chiếu Quỳnh Giang.” (Muôn dặm theo nhau tới triền Cát Bắc, Tinh thần vẫn nhƣ thuở soi xuống sông Quỳnh.) (Thu nguyệt – Trăng thu) Mỗi khi con ngƣời trĩu nặng nỗi niềm, tâm sự thì cảnh vật xung quanh cũng nhƣ giao cảm nỗi niềm. Bởi thế mà không gian tâm trạng thƣờng gắn với nội tâm, cảm xúc của con ngƣời. Trƣớc không gian sông núi mênh mang, rộng lớn, Đoàn Nguyễn Tuấn nhớ lại những hồi ức xƣa và cũng ngẫm lại cuộc đời lữ khách của mình để rồi cảm thấy không gian nhƣ càng mênh mông, cô đơn, lẻ loi nhƣ chính tâm trạng của mình đang đối mặt. Nhƣ vậy, thời gian và không gian nghệ thuật là một trong những yếu tố nghệ thuật quan trọng, là nơi con ngƣời cá nhân trong thơ Đoàn Nguyễn Tuấn bộc lộ một cách trọn vẹn nhất. Tiểu kết chƣơng 3 Với sự sáng tạo nghệ thuật, Đoàn Nguyễn Tuấn đã giúp ngƣời đọc hình dung cụ thể con ngƣời “tài hoa nhƣng cũng đa sầu đa cảm”. Việc xây dựng hình tƣợng đặc sắc, ngôn ngữ thơ trong sáng giản dị, khéo léo sử dụng các điển cố, đại từ nhân xƣng cùng thời gian không gian nghệ thuật thể hiện con ngƣời cá nhân mà chân dung nhân vật hiện lên ấn tƣợng, để lại nhìu cảm xúc trong lòng ngƣời đọc. 50
- KẾT LUẬN Việc đi sâu nghiên cứu, trình bày những nội dung và nghệ thuật thể hiện con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn – Hải Ông thi tập, tác giả khóa luận đã nêu lên ba biểu hiện nhằm thể hiện chân dung con ngƣời cá nhân Đoàn Nguyễn Tuấn: con ngƣời nặng lòng với quê hƣơng, gia đình, bè bạn; con ngƣời ƣu tƣ trƣớc bể dâu cuộc đời và con ngƣời với nỗi niềm trăn trở trên con đƣờng “hoạn lộ”. Với Hải Ông Thi tập, Đoàn Nguyễn Tuấn đã góp một tiếng thơ vào dòng văn học yêu nƣớc thời Tây Sơn nói riêng, văn học dân tộc nói chung. Với những bài thơ viết về quê hƣơng, đất nƣớc, thơ ông tràn đầy niềm lạc quan, khí thế chiến thắng cùng niềm tự hào dân tộc sâu sắc – đó là những giai điệu chung của nền văn học thời kì này. Lại là một sứ thần phải thực hiện trọng trách bang giao, những chuyến đi sứ phải xa nhà, xa quê khiến ông không tránh khỏi lòng mong nhớ gia đình, bè bạn, quê hƣơng da diết. Cùng với đó, trong giai điệu chung của văn học trung đại thể kỉ XVIII – XIX ngập tràn màu sắc tiếc nuối, hoài cảm. Việc ghi lại bức tranh hiện thực cuộc sống với một cái nhìn lạc quan, tin tƣởng vào triều đại mới quả thật là một đóng góp đáng trân trọng của nhà thơ. Bên cạnh nội dung yêu nƣớc với cảm xúc hào sảng, thơ Đoàn Nguyễn Tuấn hiện lên với những bài thơ tự thuật, mang nhiều cảm xúc trữ tình và trĩu nặng tâm tình nhà thơ. Đó là tâm trạng của một con ngƣời đa sầu, đa cảm lại từng đi qua nhiều biến cố thăng trầm của cuộc đời, chứng kiến bao cuộc bể dâu, giờ đây lại sống đời lữ khách tha hƣơng, gánh trọng trách sứ bộ trên vai khiến thơ ông luôn tràn đầy ƣu tƣ, trăn trở. Hải Ông thi tập không chỉ là bức tranh với gam màu tƣơi đẹp, hào hùng của quê hƣơng đất nƣớc sau bao phen thay đổi sơn hà mà còn có những gam màu chân thật nhất về Đoàn Nguyễn 51
- Tuấn, giúp ngƣời đọc đến gần với tâm hồn Hải Ông hơn nữa, một tâm hồn “trong sáng nở hoa giữa một thời đại rực rỡ”. Hơn nữa, chân dung con ngƣời cá nhân Đoàn Nguyễn Tuấn còn đƣợc thể hiện qua một hệ thống nghệ thuật: hình tƣợng; ngôn ngữ; thời gian, không gian nghệ thuật. Về mặt ngôn ngữ, ông sử dụng đa dạng các đại từ nhân xƣng chỉ ngôi, các điển cố cùng ngôn ngữ gần gũi, giản dị. Qua đó thể hiện một cách cụ thể cá tính độc đáo của con ngƣời cá nhân tác giả trong thơ. Bên cạnh ngôn ngữ, hình tƣợng nghệ thuật cũng là một phƣơng tiện nghệ thuật bộc lộ con ngƣời cá nhân Đoàn Nguyễn Tuấn: hình tƣợng mái tóc bạc, hình tƣợng khắc họa con ngƣời với dáng vẻ độc tọa. Thêm vào đó, với cách sử dụng thời gian, không gian nghệ thuật, chân dung con ngƣời cá nhân Đoàn Nguyễn Tuấn càng đƣợc hiện lên rõ nét. Không gian rộng lớn, xa cách càng góp phần thể hiện rõ hơn con ngƣời cô đơn, mang nhiều tâm sự trong thi nhân. Thời gian thể hiện con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn chủ yếu là thời gian quá khứ, là thời khắc buổi chiều tà và thời gian của mùa thu trong năm. Từ trƣớc đến nay văn học luôn vận động trên sự kế thừa và cách tân. Sáng tác của Đoàn Nguyễn Tuấn vừa mang những nột dung và thi pháp văn học trung đại đồng thời cũng có những nét riêng tạo nên phong cách cá nhân nhà thơ. Qua việc tìm hiểu con ngƣời cá nhân trong thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn giúp chúng ta hiểu hơn nỗi lòng, tâm sự của nhà thơ cũng nhƣ của một tầng lớp trí thức trong bối cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX. 52
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Phƣơng Bình, Nguyễn Tuấn Lƣơng (1982), Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn – Hải Ông thi tập, Nxb KHXH, Hà Nội. 2. Nguyễn Kiến Giang (1993), Tuyển tập Nguyễn Kiến Giang, Nxb Trăm hoa, California, 1993. 3. Nguyễn Thạch Giang (2004), Tinh tuyển văn học Việt Nam, tập 5, Nxb KHXH, Hà Nội. 4. Trần Văn Giáp (1971), Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội. 5. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 6. Đỗ Đức Hiểu (Chủ biên), Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), Từ điển Văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội. 7. Tạ Ngọc Liễn (1998), Chân dung văn hóa Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 8. Nguyễn Lộc (Tuyển chọn, giới thiệu) (1986), văn học Tây Sơn, Sở văn hóa thông tin Nghĩa Bình. 9. Nguyễn Lộc (2001), Văn học Việt Nam nửa cuối thể kỉ XVIII – hết thể kỉ XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 10. Nguyễn Tuấn Lƣơng (1978), “Một số nét về Đoàn Nguyễn Tuấn qua Hải Ông thi tập”, Tạp chí văn học, (số 2), tr.13. 11. Phƣơng Lựu (1996), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại Việt Nam, Nxb VH-TT, Hà Nội. 12. Nguyễn Đăng Na (2009), Văn học trung đại Việt Nam, tập 1, Nxb Đại học sƣ phạm, Hà Nội. 13. Nhiều tác giả (1995), Từ điển văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
- 14. Phạm Thị Nết, Trƣơng Sỹ Hùng, Bùi Duy Lan (1986), Danh nhân Thái Bình, tập 2, sở văn hóa thông tin Thái Bình. 15. Trần Đình Sử (2008), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục. 16. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyễn Giang, Trần Ngọc Vƣơng, Trần Nho Thìn, Đoàn Thị Thu Vân (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 17. Văn Tâm (1992), “Giới thuyết “Thơ mới”, Tạp chí Văn học, (số 6), tr10. 18. Đoàn Thị Thu Vân (2008), Văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, TP.HCM. 19. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội. 20. Trần Ngọc Vƣơng (1999), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.