Khóa luận Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa

pdf 51 trang thiennha21 16/04/2022 14071
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_but_ki_ai_da_dat_ten_cho_dong_song_cua_hoang_phu_n.pdf

Nội dung text: Khóa luận Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== NGUYỄN THỊ THẢO BÚT KÍ AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG? CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI – 2017
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN === === NGUYỄN TH Ị THẢO BÚT KÍ AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG? CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA KHÓA LUẬN TỐT NGHI ỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI – 2017
  3. LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới T.S La Nguyệt Anh. Cô đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và thực hiện khóa luận. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Tổ Bộ môn Văn học Việt Nam, khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa luận này. Hà Nội, tháng 5năm 2017 Sinh viên Nguyễn Thị Thảo
  4. LỜI CAM ĐOAN Kết quả nghiên cứu này là của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của T.S La Nguyệt Anh. Đề tài không trùng lặp với bất cứ nghiên cứu nào. Tôi xin cam đoan rằng: - Khóa luận là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. - Mọi tư liệu, trích dẫn trong khóa luận là hoàn toàn trung thực. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng 5 năm 2017 Sinh viên Nguyễn Thị Thảo
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 2 3. Mục đích nghiên cứu 4 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 6. Phương pháp nghiên cứu 5 7. Đóng góp của khóa luận 5 8. Kết cấu của khóa luận 5 NỘI DUNG 6 CHƯƠNG 1 6 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 6 1.1. Những vấn đề lí luận chung 6 1.1.1. Khái niệm văn hóa 6 1.1.2. Khái niệm và cách phân loại thể kí 7 1.1.3. Mối quan hệ giữa kí văn học và văn hóa 10 1.2. Hoàng Phủ Ngọc Tường và quá trình sáng tác 12 1.2.1. Vài nét về tác giả 12 1.2.2. Quá trình sáng tác 12 1.2.3. Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường 15 CHƯƠNG 2 18 DẤU ẤN VĂN HÓA TRONG AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG? 18 CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG 18 2.1. Địa - văn hóa Huế qua Ai đã đặt tên cho dòng sông? 18
  6. 2.2. Đời sống tinh thần của người dân xứ Huế qua Ai đã đặt tên cho dòng sông? 26 CHƯƠNG 3 34 ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TRONG AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG 34 3.1. Ngôn ngữ giàu chất thơ 34 3.2. Giọng điệu trữ tình 39 KẾT LUẬN 43 TƯ LIỆU THAM KHẢO
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học vốn đã có từ trong bản chất đến nay lại càng sâu sắc và không thể tách chia. Sự phát triển mạnh mẽ và ngày càng sâu của văn hóa vào nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn, trong đó có văn học, làm cho mọi người càng nhận thức vai trò và sự gắn kết của văn hóa với văn học. Tìm hiểu văn học từ góc nhìn văn hóa là hướng đi đầy triển vọng trong nghiên cứu hiện nay. Trên tinh thần chung ấy, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa” với các lí do sau: Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài năng. Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã được đưa vào chương trình sách giáo khoa hiện hành và đây cũng là một tác phẩm được nhiều nhà nghiên cứu cũng như độc giả quan tâm. Trong nhà trường phổ thông, Ai đã đặt tên cho dòng sông? được tiếp nhận từ góc độ thể loại, được đánh giá là một thiên bút kí đặc sắc ở cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Bên cạnh sự phong phú về nội dung và sự độc đáo trong hình thức biểu hiện, bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phản ánh chân thực vẻ đẹp văn hóa của dòng sông Hương sử thi và diễm lệ. Bạn đọc cần suy ngẫm và lắng đọng mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp ấy cũng như ẩn ý mà tác giả gửi gắm. Lựa chọn đề tài: “Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa”, chúng tôi hi vọng góp phần xác định cơ sở 1
  8. khoa học để đánh giá những nét đặc sắc trong kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường và phục vụ cho việc học tập, giảng dạy môn Ngữ văn ở Trung học Phổ thông sau này. 2. Lịch sử vấn đề Đến nay có không ít những công trình khoa học, những bài báo nghiên cứu bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Theo nhà văn Nguyễn Tuân, Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường có “rất nhiều ánh lửa” [17, 501]. Nhà văn Nguyên Ngọc có viết: “Trong một cuốn sách gần đây của anh, viết và in ngay giữa những ngày anh đang vật lộn với cơn bệnh nặng – chứng tỏ ở anh một đức tính dũng cảm và nghị lực phi thường của một người lao động nghệ thuật – anh tự coi mình là “người ham chơi”. Quả thật, anh là một người ham sống đến mê mải, sống và đi, đi để được sống, với đất nước, với nhân dân, với con người, đi say mê và say mê viết về họ ” [17, 502]. Nhà thơ Hoàng Cát nhận xét: “Hoàng Phủ Ngọc Tường có một phong cách viết bút kí văn học của riêng mình. Thế mạnh của ông là tri thức văn học, triết học, lịch sử, địa lí sâu và rộng, gần như đụng đến vấn đề gì, ở thời điểm nào và ở đâu thì ông vẫn có thể tung hoành thoải mái ngòi bút được” [17, 503 ]. Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên khi nói về Chân dung văn học Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên sau 1975 cũng nhận xét: “Nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường yêu Huế và hiểu Huế, thì đó là một lẽ đương nhiên. Tôi muốn đi xa hơn nữa, tìm một căn nguyên thầm kín để cắt nghĩa cho sự thành công của mĩ mãn của những trang viết ấy: phải chăng ở đây đã có một sự hòa hợp, tương giao, linh ứng giữa cảnh sắc Huế, lịch sử Huế, văn hóa Huế với một tâm hồn nhà văn dễ rung động, nhạy cảm, tinh tế. Phải là sự tương giao, đến mức hòa quyện chặt chẽ mới sinh ra được những áng văn tài hoa 2
  9. không dễ một lần thứ hai viết được như thế. Ngỡ như không khác được: viết về song Hương là phải vậy, viết về “văn hóa vườn” ở Huế là phải vậy” [dẫn theo 5, 55]. Trong bài viết Ai đã đặt tên cho dòng sông? – bút kí sử thi của Hoàng Phủ Ngọc Tường, GS Trần Đình Sử khẳng định: “Bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cuộc đi tìm cội nguồn, một sự phát hiện bề dày văn hóa và lịch sử của các hiện tượng đời sống Cái mới của Hoàng Phủ Ngọc Tường là khám phá bình diện văn hóa với tư liệu lịch sử phong phú và một tâm hồn Huế nồng nàn” [14, 295]. Có thể thấy, bài viết không chỉ bó hẹp vấn đề nghiên cứu ở bình diện thể loại mà quan tâm tới bình diện văn hóa, lịch sử trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đây là những gợi mở quí báu cho chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Tác giả Trần Thùy Mai trong bài viết Kí văn hóa của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phân tích và khẳng định những giá trị tác phẩm kí văn hóa. Bài viết đi sâu nghiên cứu những truyện kí về các nhân vật lịch sử ở Huế hoặc ít nhiều liên quan đến Huế như Nguyễn Trãi, Đặng Huy Trứ, Đào Duy Từ, Nguyễn Huệ Và kết luận về thái độ, tấm lòng của Hoàng Phủ Ngọc Tường: “Không nhìn vào cõi xưa với thái độ của người hiếu cổ hay người phục cổ càng không có ý mượn xưa để nói nay; điều anh muốn đạt tới, và đã đạt tới, là tìm cho ra dòng chảy của sự sống đã nối liền những con người Việt Nam từ xa xưa cho đến bây giờ” [9]. Trong sách Ngữ văn 12 có nhận xét: “Kí Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, nội dung thông tin về văn hóa lịch sử rất phong phú” [11, 197]. Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu chủ yếu đề cập đến bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn thể loại. Yếu tố văn hóa trong bút kí này của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói 3
  10. chung và Ai đã đặt tên cho dòng sông? nói riêng, mặc dù đã được đề cập nhưng vẫn còn nhiều bỏ ngỏ, cần thiết có một công trình nghiên cứu chuyên biệt. Trên cơ sở những gợi mở quí báu trên, khóa luận tiếp tục nghiên cứu bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu tìm hiểu bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa giúp chúng ta thấy được nét riêngtrong địa – văn hóa Huế; những phong tục sinh hoạt và con người xứ Huế mộng mơ. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Khóa luận đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu về Hoàng Phủ Ngọc Tường – và bút kí của ông. - Đi tìm hiểu xứ Huế qua địa văn hóa. - Thấy được nét độc đáo và đặc sắc trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường, khẳng định những đóng góp của ông đối với văn học Việt Nam hiện đại. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài khóa luận đặt ra vấn đề nghiên cứu: “Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa” cho nên chúng tôi chọn xuất phát điểm từ vấn đề có ý nghĩa khái quát về thể kí, về văn hóa, từ đó đi vào tìm hiểu bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? trong chương trình Ngữ văn 12, tập 1. - Phạm vi tư liệu:Tư liệu chính mà chúng tôi khảo sát là bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? trong sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1. Bên cạnh đó, khi cần thiết khóa luận có sự liên hệ đến các sáng tác thuộc thể bút kí của nhữngHoàng Phủ Ngọc Tường và các nhà văn khác. 4
  11. 6. Phương pháp nghiên cứu Vận dụng phương pháp nghiên cứu tác giả, tác phẩm văn học, khóa luận sử dụng phối hợp các phương pháp: - Phân tích và tổng hợp - Phương pháp so sánh hệ thống - Phương pháp nghiên cứu liên ngành 7. Đóng góp của khóa luận - Khóa luận nghiên cứu bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường. - Kết quả nghiên cứu của khóa luận một lần nữa khẳng định tài năng độc đáo của Hoàng Phủ Ngọc Tường và góp phần vào việc tiếp nhận tác phẩm văn học cũng như việc học tác phẩm kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong nhà trường THPT 8. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung của khóa luận gồm ba chương: Chương 1. Những vấn đề chung Chương 2. Dấu ấn văn hóa trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường Chương 3. Đặc sắc nghệ thuật trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường 5
  12. NỘI DUNG CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Những vấn đề lí luận chung 1.1.1. Khái niệm văn hóa Văn hóa là một khái niệm có nội hàm rất rộng. Theo nghĩa rộng, văn hóa bao hàm tất cả những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo nên trong quá trình lao động sản xuất. Còn theo nghĩa hẹp, văn hóa là những giá trị tinh thần của con người. Có nhiều ý kiến cho rằng khi hiểu văn hóa theo nghĩa hẹp chủ yếu được hiểu về mặt văn hóa tư tưởng. Có khá nhiều những định nghĩa cũng như khái niệm văn hóa khác nhau, mỗi học giả lại có cách tiếp nhận và góc nhìn riêng. Theo F. Boas định nghĩa: “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất và những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên của họ, với những nhóm người khác, với những thành viên trong nhóm và của chính các thành viên này với nhau” [ dẫn theo 16, 149]. Theo như định nghĩa này thì giữa cá nhân, tập thể và môi trường có mối quan hệ quan trọng và đặc biệt mối quan hệ này rất quan trọng trong việc hình thành văn hóa của con người. Ở Việt Nam, văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày và mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [7, 431] . Theo như cách hiểu này thì văn hóa là toàn bộ 6
  13. những gì con người sáng tạo và phát minh ra. Văn hóa theo cách nói của Hồ Chí Minh là một nội hàm rất rộng trong đó có văn học, nghệ thuật, . Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến co người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, qua trình con người làm nên lịch sử (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức và phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh” [dẫn theo 18, 22]. Như vậy, có thể hiểu văn hóa là toàn bộ những gì mà con người sáng tạo và phát minh ra trong qua trình phát triển. Đó là toàn bộ những giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình phát triển và hoàn thiện bản thân, xây dựng những giá trị chuẩn mực của xã hội. Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng, nó là thước đo và định hình các giá trị, trình độ phát triển của một quốc gia, một dân tộc. Ngay cả việc cải tạo con người, định hướng lối sống, cách cảm, cách nghĩ, nó chi phối mọi mặt đời sống của con người trong xã hội. 1.1.2. Khái niệm và cách phân loại thể kí 1.1.2.1. Khái niệm Theo Từ điển thuật ngữ văn học, kí là một loại hình văn học trung gian nằm giữa báo chí và văn học, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi tự sự như: bút kí, hồi kí, du kí, kí sự, phóng sự, tùy bút, tạp văn, tản văn Đặc trưng của kí là: “tôn trọng sự thật khách quan của cuộc sống, không hư cấu”. Các tác giả trong Từ điển Tiếng Việt cho rằng: kí là “thể văn tự sự có tính chất thời sự, trung thành với hiện thực cao nhất” [6, 501]. Kí ra đời sớm trong lịch sử nhân loại. Nhưng phải đến thế kỉ 17, đặc biệt từ thế kỉ 19, khi đời sống lịch sử phát triển theo hướng tăng tốc, khi kĩ 7
  14. nghệ in ấn và báo chí phát triển, văn học mở cửa, xé rào để xâm nhập vào các hoạt động tinh thần khác, nhà văn ngày càng có ý thức tham gia trực tiếp vào những cuộc đấu tranh xã hội, kí mới thực sự phát triển mạnh mẽ. Kí thường không có cốt truyện có tính hư cấu, kí thường dựng lại các hình tượng mang tính khái quát. Tính khái quát được tác giả thể hiện bằng suy tưởng. Tính xác thực là đặc trưng cơ bản của thể kí. Kí phản ánh hiện thực khách quan. Những sự kiện, con người trong kí đều xác thực. Kí cũng có khả năng hư cấu, nhưng liều lượng hư cấu có giới hạn và không xa rời thực tiễn . Kí là thể loại in đậm dấu ấn cá nhân hình tượng của tác giả. So với tiểu thuyết và truyện ngắn, người viết kí không “ẩn mình” mà trực tiếp viết ra những gì mình muốn chứng kiến, quan sát. Cái “tôi” tác giả kể, thông tin, miêu tả hoặc dẫn dắt người đọc tiếp cận với cuộc sống, con người. Ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm kí chủ yếu là ngôn ngữ trực tiếp của tác giả. Nhà văn kể, và cùng với lời kể là phân tích, luận giải đánh giá những sự việc hiện tượng được đề cập trong tác phẩm. Là thể loại nhanh nhạy, kí phản ánh kịp thời những vấn đề sôi bỏng của cuộc sống đời thường, nên ngôn ngữ kí khá gần gũi. Đánh giá chung về thể loại kí, tác giả Hoàng Ngọc Hiến khẳng định: “Trong nghiên cứu văn học Việt Nam đương đại, kí là một thuật ngữ được dùng để gọi tên một thể loại văn học bao trùm nhiều thể hoặc tiểu loại: bút kí, hồi kí, du kí, kí sự, phóng sự, tùy bút, tạp văn, tản văn tiều phẩm ”. Tác giả cũng nhấn mạnh tính phức thể của kí, đó là “thể loại nằm giữa báo chí và văn học” [17, 503]. Kí là một loại hình văn học trung gian, nằm giữa báo chí và văn học, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi tự sự như bút kí, hồi kí, du kí, phóng sự, kí sự,nhật kí, tùy bút, Do tính chất trung gian có người liệt kí vào cận văn học. Như vậy, trong quá trình xác định thể loại, các nhà nghiên cứu đã có 8
  15. nhiều cách tiếp cận để nhận diện kí, nhưng cho đến nay giới lí luận văn học vẫn chưa đưa ra được một hệ thống nhất quán cho thể loại văn học này. Tuy nhiên, vẫn có thể khẳng định kí là tên gọi cho một nhóm thể tài nằm ở phần giao nhau giữa văn học và cận văn học (báo chí, chính luận, ghi chép tư liệu các loại). 1.1.1.2. Cách phân loại Kí báo chí Xuất hiện là do nhu cầu truyền đạt thông tin, nhu cầu phản ánh thực tiễn với tư cách là người truyền đạt thông tin tới công chúng, nhà báo luôn tìm tòi những hình thức mới để vượt qua khỏi cái khung của lối văn thông tấn mà vẫn đảm bảo được tính xác thực, tính thời sự của nội dung được phản ánh. Hiện thực được trình bày luôn đảm bảo độ chính xác tối đa và lập luận phải xuất phát từ tư duy loogic của sự thực. Cái tôi luôn là cái tôi nhân chứng tỉnh táo và lí trí. Kí văn học Trong kí văn học thì hiện thực được tái hiện trong tác phẩm ở cự ly gần nhất, đem đến cho công chúng những cách nhìn, cách cảm đa dạng, nhiều chiều. Kí có nhiều tiểu loại: kí sự, bút kí, phóng sự, nhật kí, hồi kí, tùy bút Ngoài những đặc trưng chung của thể kí là phản ánh sự thật khách quan và tính xác thực, mỗi tiểu loại lại có đặc điểm riêng. Bút kí là thể loại ghi chép các sự kiện, qua đó ghi lại những cảm xúc, suy nghĩ của tác giả. Bút kí là một thể văn ghi lại những điều mắt thấy tai nghe trong cuộc sống của người viết và có kèm theo cả những cảm nhận, nhận xét của riêng người viết. Bút kí hay nói về người thật việc thật cùng những suy nghĩ, bình luận chân thực của người viết. Kí sự là thể kí ghi lại những người và việc có thật của đời sống, không thêm một chút gì thuộc chủ quan người viết. 9
  16. Hồi kí là sáng tác thuộc nhóm thể tài ký, là một thiên trần thuật từ ngôi tác giả, kể về những sự kiện có thực xảy ra trong quá khứ mà tác giả chứng kiến. Hồi kí mang đậm tính chủ quan. Các sự kiện được kể lại không khỏi chịu tác động bởi các quy luật quên lãng, làm méo lệch của cơ chế hồi ức. Tính chủ quan khiến cho hồi kí không thể so bì với các tư kiệu gốc, các chứng tích, về tính xác thực. Tuy nhiên sự thiếu hụt sự kiện, thông tin hay phiens diện về đối tượng miêu tả trong hồi kí lại được bù đắp bởi văn phong sinh động, cảm tưởng trực tiếp của cá nhân tác giả. Tùy bút là một loại của thể kí, nhưng tùy bút là thể giàu chất trữ tình nhất trong các loại kí. Tùy bút là thể loại khá tự do trong quá trình sáng tạo. Nhà văn tùy theo ngọn bút đưa đi, tự sự việc này đến sự việc kia, từ liên tưởng này đến liên tưởng kia, để bộc lộ những cảm xúc, những suy nghĩ của mình. Ngôn từ trong tùy bút thường giàu hình ảnh, giàu chất thơ. Tùy bút cũng phản ánh những sự kiện, nhưng đan xen với những sự kiện là cảm xúc, suy ngẫm của tác giả về con người, cuộc sống. Trong thành tựu của kí người đọc đã từng biết đến những nhà văn sở trường về thể loại tùy bút như Nguyễn Tuân, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, 1.1.3. Mối quan hệ giữa kí văn học và văn hóa Giữa văn hóa, văn học có mối quan hệ khăng khít và mật thiết với nhau. Văn học nằm trong văn hóa và chịu sự chi phối của toàn bộ nền văn hóa đó, mang tính lịch sử, thời đại nhất định. Đồng thời văn hóa chi phối đặc điểm của văn học. Bởi ở thời đại nào thì văn học ấy, tư tưởng văn hóa của thời đại sẽ chi phối tới khuynh hướng sáng tác văn học. Nếu như ở một thời đại mà nền văn hóa mờ nhạt không có gì nổi bật thì văn học khó có thể có những thành tựu rực rỡ được, cũng giống như văn học vậy nếu như văn học mà không sôi nổi và nhiều thành tựu thì văn hóa cũng khó có thể mang nhiều màu sắc được. Vì vậy đặc trưng văn hóa thời đại sẽ chi phối đến đặc điểm văn học. 10
  17. Một nền văn hóa lớn sẽ là cơ sở, là nền móng để văn học phát triển rực rỡ và đạt được nhiều thành tựu. Qua văn học sẽ giúp bạn đọc có thêm những hiểu biết về văn hóa, có thể là một nét đẹp văn hóa hay một nền văn hóa đã bị lãng quên. Ở mỗi một nền văn hóa khi đi vào văn học lại có những nét đặc sắc khác nhau. Nếu như vùng đất phủ đầy băng tuyết với nghệ thuật gejsha của Kawabata được hiện lên qua Xứ Tuyết, đó là một vùng đất với vẻ đẹp đến nao lòng và nghệ thuật gejsha là một đặc trưng văn hóa của xứ sở Phù Tang. Thì trong văn học hiện đại Việt Nam, người đọc sẽ được biết đến với những nét đặc sắc văn hóa của các vùng miền thông qua những món ăn hay thậm chí nếp cảm nếp nghĩ của những con người nơi đây. Hoàng Phủ Ngọc Tường cho ta thấy dược nếp nghĩ, nếp cảm của con người vùng Trung Bộ; Nguyễn Tuân lại đưa ta về với vùng núi phía Bắc với những con người mạnh mẽ và phi thường. Bên cạnh việc giúp bạn đọc có thêm hiểu biết về những nền văn hóa khác nhau thì văn học còn giúp bạn đọc vượt thời gian và không gian, để thấy và hiểu được cả một thời kì văn hóa, xã hội của nhân loại. Như hai bản trường ca Illiade và Odyssee của Homere đã đưa bạn đọc tới những chiến công oanh liệt và hiển hách trong cuộc chiến thành Troie, bên cạnh đó là bề dày lịch sử và văn hóa của cả một thời kì hoàng kim. Con người luôn luôn có khao khát chiến đấu và chiến thắng để bảo vệ đất nước của mình, họ là những con người trí tuệ và cống hiến hết mình cho quốc gia và cho dân tộc. Xét đến cùng, sáng tác văn học chính là một hành vi văn hóa cao đẹp của người nghệ sĩ. Văn hóa tác động sâu sắc tới văn học thông qua sự cảm nhận, thẩm thấu giá trị văn hóa của người nghệ sĩ. Ngược lại văn học cũng tác động ngược trở lại đối với nền văn hóa. Văn học có vai trò tích lũy những giá trị tinh hoa nhất của một nền văn hóa để từ đó làm giàu đẹp thêm. Những bài vè, ca dao hay những câu thành ngữ tục ngữ đều 11
  18. là những kinh nghiệm của ông cha ta đúc kết và để lại cho thế hệ mai sau và đây chính là những giá trị văn hóa truyền thống vô giá cho muôn đời sau. Văn học đã trở thành một yếu tố không thể thiếu trong món ăn tinh thần trong đời sống của con người, những câu nói quen thuộc những hình tượng văn học đặc biệt đã đi vào đời sống xã hội và nó trở nên gần gũi hơn. 1.2. Hoàng Phủ Ngọc Tường và quá trình sáng tác 1.2.1. Vài nét về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại thành phố Huế. Ông là người xã Triệu Long, huyện Triệu Hải, tỉnh Quảng Trị, hiện ông đang sinh sống và làm việc tại Huế. Ông đã học và tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Sài Gòn khóa 1, ban Việt Hán năm1960, cử nhân triết học Đại học Văn Khoa Huế, là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Ông đã từng dạy học, rồi tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ. Ông viết văn, viết báo từ khi tuổi đời còn rất trẻ. Ông từng là Chủ tịch Hội văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương, Cửa Việt. Ông được vinh dự nhận giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 1980 với tác phẩm Rất nhiều ánh lửa. Trong số không nhiều nhà văn đã cống hiến gần như toàn bộ lao động nghệ thuật của mình cho thế kỉ hiện nay, Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cây bút đặc sắc, ông có những đóng góp đáng kể cho nền văn học Việt Nam đương đại. 1.2.2. Quá trình sáng tác Hoàng Phủ Ngọc Tường là một tác giả có nhiều đóng góp trong văn học Việt Nam hiện đại. Ông là nhà văn có phong cách độc đáo, tài hoa. Đến với tác phẩm Hoàng Phủ Ngọc Tường người đọc sẽ tiếp xúc với một thế giới tâm hồn sâu sắc tinh tế, đồng thời được cung cấp một lượng thông tin phong phú, thú vị về nhiều lĩnh vực. 12
  19. Sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường gồm các thể loại như: bút kí, thơ, nhàn đàm. Ở thể loại bút kí có thể kể đến những tác phẩm sau: Ngôi sao trên đỉnh Phù Vân Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông (1984), Bản di chúc của cỏ lau (truyện kí 1991), Hoa trái quanh tôi, Huế di chúc và con người (1995), Ngọn núi ảo ảnh (1999), Trong mắt tôi (2001), Rượu hồng đào chưa nhắm đã say (2001), Trịnh Công Sơn và cây đàn Lya của hoàng tử bé (2005), Miền cỏ thơm (2007) Ở thể loại nhàn đàm với: Nhàn đàm (1997), Người ham chơi (1998) và Miền gái đẹp (2001). Với thơ gồm có: Những dấu chân qua thành phố (1976) và Người hái phù dung (1995). Toàn bộ tinh hoa và năng lực của Hoàng Phủ Ngọc Tường dường như đều dành cho thể kí. Nhà văn đã thành danh và đóng góp nhiều cho văn học sau 1975 là ở thể loại này. Theo đánh giá của Nguyên Ngọc: “Anh là một trong những nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay ”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đi nhiều. Ông đã rong ruổi khắp mọi miền đất nước trong những năm chiến tranh, những năm tháng hòa bình. Bằng khả năng quan sát tinh tường, ông đã kịp thời ghi lại những hình ảnh, sự kiện, con người của từng vùng đất. Kí Hoàng Phủ Ngọc Tường đa dạng về đề tài: viết về chiến tranh, những danh thắng ở nước ngoài, về những vùng miền đất nước Từ Lạng Sơn đến Cà Mau, từ những miền đất xa xôi hẻo lánh đến những thành phố đông đúc hay vùng châu thổ sông Hồng, mảnh đất nào cũng từng in dấu chân Hoàng Phủ Ngọc Tường và hiện hình sống động trong từng trang kí của nhà văn. Phần lớn kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường thuộc dạng kí – văn hóa. Ở dạng này, yếu tố văn hóa – lịch sử đậm đặc. Bằng thể kí nhà văn đã chuyển tải được nhiều vấn đề thuộc về văn hóa vật thể lẫn phi vật thể của nhiều vùng quê 13
  20. hương đất nước. Kí viết về Huế chiếm số lượng lớn trong sự nghiệp sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Huế trở thành một phần trong đời sống tinh thần của nhà văn. Những mẩu kí viết về Huế thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng của Hoàng Phủ Ngọc Tường với mảnh đất giàu trầm tích văn hóa. Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn tự nhận mình là “người ham chơi” vì theo ông “ham chơi là gốc văn hóa của người Việt”. Cũng chính bởi quan niệm này mà ông đã đem đến cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm hay và đặc biệt hấp dẫn. Ông khá thành công ở thể loại kí mặc dù kí không phải là thể loại đầu tiên tác giả viết khi mới vào nghề mà thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết mới là thể loại đầu tay của tác giả. Năm 1959, truyện ngắn Chuyện một người đi qua sa mạc và tiểu thuyết Cửa rừng ra đời sau đó ít năm đã báo hiệu sự có mặt của Hoàng Phủ Ngọc Tường trên văn đàn nhưng không mấy thành công. Phải đến năm 1971 với sự ra đời của bút kí Những ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu thì tên tuổi của ông mới có nhiều người biết tới và tác phẩm đã được nhà văn coi là tác phẩm “khai sinh” cho sự nghiệp viết văn của mình. Nhà văn từng tâm sự “Bước ra khỏi cuộc chiến tranh tôi nghiệm ra một điều là tôi cần phải nói về những gì tôi đã trải nghiệm. Tiểu thuyết và truyện ngắn có vẻ như không giúp được tôi làm điều này. Thế là tôi chọn kí, thể loại loại gần nhất với hiện thực đời sống. Với thể kí tôi có thể nói tùy thích những gì đang diễn ra trong tâm hồn tôi, những trải nghiệm đẹp và cả những đau khổ nữa”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chọn kí làm phương tiện để bộc lộ tài năng cũng như những trải lòng của mình. Là một người con của Huế và giường như ông dành trọn tình yêu của mình với Huế vậy. Bên cạnh tình yêu Huế là tình yêu lớn hơn ông dành cho đất nước Việt Nam xinh đẹp này, ta có thể bắt gặp mọi miền của Tổ quốc trong những trang viết chan chứa tình yêu quê hương, 14
  21. đất nước và con người của tác giả. 1.2.3. Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường Sông Hương đã trở thành đối tượng thẩm mĩ của thơ ca nhạc họa, nhưng dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông thi ca này lại được soi chiếu từ nhiều phía. Đến với Ai đã đặt tên cho dòng sông? người đọc có dịp hiểu rõ thêm về cội nguồn sông Hương, thiên nhiên, lịch sử, văn hóa và con người Huế. Nội dung kí viết về sông Hương, nhưng ý nghĩa của nó không dừng lại ở một dòng sông, mà sâu rộng hơn là lịch sử - văn hóa một vùng cố đô. Đã có những dòng sông quê hương thành thơ, thành nhạc, nhưng ít có dòng sông nào mang chứa trong mạch ngầm của nó những lớp trầm tích văn hóa như sông Hương. Ngay từ đầu Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khẳng định: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Nét độc đáo của sông Hương và sự am tường của nhà văn đã bộc lộ rõ ở lời khẳng định này. Đúng vậy, hiếm có dòng sông lớn nước láng giềng và nối dài đến biển khơi. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh sông Hương với những dòng sông nổi tiếng của thế giới, nơi gót chân phiêu lãng của ông đã đi qua. Từ đó nhà văn đã phóng chiếu cái nhìn đầy cảm xúc để cảm nhận và miêu tả dòng sông từ nhiều góc nhìn. Hành trình của dòng sông qua cách miêu tả tài hoa, độc đáo của nhà văn: Với câu hỏi gợi tìm Ai đã đặt tên cho dòng sông?, bằng những bước chân rong ruổi, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm về cội nguồn và dòng chảy của sông Hương. Cứ ngỡ sông Hương hiền hòa chảy giữa lòng kinh thành Huế, nhưng không, sông Hương đã vượt qua một cuộc hành trình với sự chuyển dòng liên tục. Sông Hương với thiên nhiên Huế: Nhìn từ góc nhìn địa lí, nếu tách 15
  22. riêng sông Hương ra khỏi thành phố Huế, dòng sông chỉ còn là dòng nước vô chi chảy giữa đôi bờ. Bằng sự hiểu biết tường tận vùng đất kinh kì cũ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm cuộc hành trình ngược về cội nguồn của dòng sông và gắn kết nó với thiên nhiên, cảnh sắc Huế. Lần theo dòng chảy của sông Hương, ta bắt gặp những bức tranh thiên nhiên đẹp mượt mà. Sông Hương và con người Huế: Thiên nhiên và dòng sông Hương gắn bó, gần gũi với con người. Qua điệu chảy của dòng sông nhà văn thấy đươc tính cách con người xứ Huế: mềm mại, chí tình, “mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”. Qua màu sắc của trời Huế, màu sương khói trên sông Hương nhà văn thấy cách trang phục trang nhã, dịu dàng của các cô gái xứ Huế ngày xưa – “sắc áo cưới màu điều – lục các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng”. Vẻ đẹp của sông Hương từ nhiều góc nhìn: Ở góc nhìn lịch sử, sông Hương không còn là cô gái “Di – gan man dại”, không còn là “người đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa”, mà trở thành nhân chứng của những biến thiên lịch sử. Quay về quá khứ xa xưa, ngòi bút nhà văn lấp lánh niềm tự hào về lịch sử một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng đã từng giữ những nhiệm vụ lịch sử quang vinh. Sông Hương từ góc nhìn văn hóa trong cảm nhận tinh tế của nhà văn, sông Hương còn hàm chứa trong bản thân nó nền văn hóa phi vật chất. Trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện cái tôi say mê kiếm tìm cái đẹp và luôn gắn bó với thiên nhiên, cái tôi yêu quê hương đất nước và luôn hướng về cội nguồn và một cái tôi uyên bác, tài hoa. Phải đi nhiều, phải quan sát kĩ, và phải gắn bó với thiên nhiên Hoàng Phủ Ngọc Tường mới thể hiện hết mình sự tài hoa và tấm lòng yêu quê hương nồng cháy qua hình ảnh dòng sông Hương chảy giữa vùng đất cố đô. Bút kí Ai đã dặt tên cho dòng sông? bộc lộ một khả năng quan sát tinh tường, một trí tưởng tượng phong phú. Sông Hương tự nó đẹp với sắc thái đa 16
  23. dạng, nhưng bằng sự mẫn cảm của một trái tim thi sĩ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã quan sát và miêu tả những biến thái của thiên nhiên tinh tế. Kết hợp giữa biện pháp nhân hóa với những liên tưởng bất ngờ giúp nhà văn thổi hồn vào dòng sông, biến sông Hương thành một sinh thể có tính cách, có nỗi niềm. Dòng sông Hương chảy tràn trên những trang kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường với nhiều dáng vẻ, biến hóa linh hoạt. Qua Ai đã đặt tên cho dòng sông?, ta nhận thấy một ngòi bút kí giàu chất thơ nó được toát ra từ thiên nhiên cảnh vật, từ tâm hồn con người và từ những huyền thoại mà nhà văn sử dụng đúng chỗ. Chất trí tuệ và chất thơ kết hợp hài hòa trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường tạo nên phong cách đặc sắc của nhà văn. Tác phẩm thu hút người đọc ở hai yếu tố này. Ai đã đặt tên cho dòng sông? có nhiều sự phát hiện về lịch sử và văn hóa xứ Huế. Huế từ rất lâu đã chiếm chỗ sâu bền trong tâm hồn người Việt, là nỗi ước mong của trí thức bao đời Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một bài thơ bằng văn xuôi về “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”, một người mẹ không thể hiểu được chỉ bằng một cái nhìn bề ngoài hời hợt. Hành trình của sông Hương từ thượng nguồn ra biển là hành trình của tâm hồn xứ Huế, bộc lộ mọi cung bậc của nó, vừa mãnh liệt vừa lắng sâu, vừa trữ tình vừa thiết tha, vừa bình thản trí tuệ. Với bút kí để đời dành cho sông Hương: Ai đã đặt tên cho dòng sông? nhiều bạn văn của anh vẫn bảo: Sẽ khó có ai viết được nữa bởi anh đã khai thác đến tận cùng nguồn ngọn, chi li từng cọng rêu, giọt nước mà thâm hậu và trải nghiệm đến tận cùng. 17
  24. CHƯƠNG 2 DẤU ẤN VĂN HÓA TRONG AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG? CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG 2.1. Địa - văn hóa Huế qua Ai đã đặt tên cho dòng sông? Nói về văn hóa, không thể không quan tâm đến khía cạnh địa – văn hóa, trong đó, con người và thiên nhiên, văn hóa và địa lý tương tác qua lại với nhau, tạo nên những tính cách, ứng xử văn hóa khác nhau Nói về địa – văn hóa, là nhằm bàn đến những điểm đại đồng và tiểu dị được/ bị chi phối bởi những yếu tố địa lý, làm nên tính nhất quán và phong phú của văn hóa. Phủ định tính vùng miền trong văn hóa là phủ định tính phong phú, miệt thị tính vùng miền là gây chia rẽ Có ý kiến cho rằngTrong so sánh về tính vùng miền, có ý kiến cho rằng nên dùng phép “so sánh hơn” đầy vi tế, chứ không nên dùng phép “so sánh nhất” mang tính cực đoan. Những tính cách chung của cả nhân loại, hay của một dân tộc, sẽ trội lên hay chìm xuống tùy theo hoàn cảnh địa lý. Một tính cách có ở vùng miền này, hay ở dân tộc này, chắc chắn sẽ có ở vùng miền khác, hay ở dân tộc khác, chỉ là trội hay chìm mà thôi Phân tích về tính vùng miền, là để so sánh, gạn lọc những cái tốt thì giữ lại, phát huy, những cái xấu thì bỏ đi, hạn chế , nhằm khiến cho cả nhân loại, hay một dân tộc, ngày càng tốt hơn, văn minh hơn ! Nói chung, nơi nào có thiên nhiên khắc nghiệt, khí hậu thất thường, địa thế hùng hiểm, sông sâu nước xiết, lắm thác nhiều ghềnh, núi non đột khởi, chớn chở chập chùng thì con người thường có tính cách sâu sắc, quyết liệt, cương mãnh , thậm chí bạo liệt, cực đoan ; nơi nào có thiên nhiên ưu đãi, khí hậu thuận hòa, địa thế mềm mại, sông lặng núi bình, đồng bằng trải rộng thì con người thường có tính cách khoáng đạt, nhu nhuyễn, hiền hòa , thậm chí dễ dãi, hời hợt Trung Bộ chỉ có người xứ Huế có lối sống khá kiểu cách, do là đất 18
  25. "Thần Kinh", "Đế Đô", còn đa phần vẫn do khí hậu nắng hạn mưa lụt, canh tác khó khăn nên cũng có tính cách cần kiệm, lại do thời kỳ gian lao mở cõi nên tình tương thân tương ái cũng khá đậm đà, nhưng cũng rất bảo thủ Trong tình cảm của nhiều người, nói đến Huế là nghĩ ngay đến sông Hương. Sông Hương đã trở thành biểu tượng của Huế, là linh hồn của Huế trầm mặc, cao sang, trữ tình. Sông Hương có hai nguồn chính đều bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn. Dòng chính của Tả Trạch dài khoảng 67 km, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn Đông, ven khu vực vườn quốc gia Bạch Mã chảy theo hướng tây bắc với 55 thác nước hùng vĩ, qua thị trấn Nam Đông rồi sau đó hợp lưu với dòng Hữu Trạch tại ngã ba Bằng Lãng (khoảng 3 km về phía bắc khu vực lăng Minh Mạng). Hữu Trạch dài khoảng 60 km là nhánh phụ, chảy theo hướng bắc, qua 14 thác và vượt qua Phà Tuần để tới ngã ba Bằng Lãng, nơi hai dòng này gặp nhau và tạo nên sông Hương. Từ Bằng Lãng đến cửa sông Hương, sông Hương dài 33 km và chảy rất chậm. Khi chảy quanh dọc chân núi Ngọc Trâm, sắc nước sông Hương xanh hơn – đây là địa điểm Điện Hòn Chén, tại đây có một vực rất sâu. Sông Hương được cho là rất đẹp khi chiêm ngưỡng nó từ nguồn và khi nó chảy quanh các chân núi, xuyên qua các cánh rừng rậm của hệ thực vật nhiệt đới. Con sông chảy chậm qua các làng mạc như Kim Long, Nguyệt Biều, Vỹ Dạ, Đông Ba, Gia Hội, chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh. Sông Hương ngoài vẻ đẹp tự nhiên được tô điểm bằng các công trình kiến trúc hai bên bờ sông gồm thành quách, thị tứ, vườn tược, chùa chiền, tháp và đền đài khiến con sông mang theo nhiều chất thơ và tính nhạc. Chẳng biết từ bao giờ, sông Hương đã đi vào thơ ca, nhạc, họa, là nguồn cảm hứng sáng tác cho bao thế hệ văn nghệ sĩ. Với câu hỏi gợi tìm Ai đã đặt tên cho dòng sông?, bằng những bước 19
  26. chân rong ruổi, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm về cội nguồn và dòng chảy của sông Hương. Qua ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương được phác vẽ ở cự li gần và bằng nét bút chân thực nhất. Sông Hương hiền hòa chảy giữa lòng kinh thành Huế đã vượt qua cuộc hành trình với sự chuyển dòng liên tục và mang chở cả những thăng trầm văn hóa xứ sở. Ở thượng nguồn sông Hương mang vẻ đẹp hùng vĩ; chảy “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn ” ; sông Hương “phóng khoáng và man dại”, như một con người “bản lĩnh gan dạ” Ra khỏi đại ngàn, sông Hương chuyển dòng, sông Hương giấu kín cuộc hành trình gian truân giữa lòng Trường Sơn, “ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Cách viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật gợi cảm, giúp người đọc hiểu thấu đáo hơn vẻ đẹp dữ dội, hùng vĩ của sông Hương giữa rừng già còn ít người biết đến. Biện pháp nhân hóa được nhà văn sử dụng như một phép tu từ chủ đạo và với một so sánh độc đáo, sông Hương từ một cô gái Di – gan thành người đẹp được đánh thức sau giấc ngủ nhiều thế kỉ. Khi ra khỏi vùng rừng núi, sông Hương trở nên dịu dàng, “uốn mình theo những đường cong thật mềm”, “vẽ một hình cung thật tròn” xuôi dần về Huế. “Dòng sông mềm như tấm lụa”, êm đềm trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, chảy qua những lăng tầm đồ sộ, chảy qua chùa Thiên Mụ và “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. Ở chặng đường này, sông Hương trở thành “ người mẹ phù sa” mang vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”. Giữa lòng thành phố Huế, dòng sông trở nên tĩnh lặng, trôi thật chậm, in bóng cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp trông xa nhỏ nhắn như “những vành trăng non”. Cách liên tưởng của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật gợi cảm khiến cho sông Hương như càng đẹp hơn bội phần. Cách dùng từ tượng hình khiến hình ảnh sông Hương hiện ra rõ nét, sống động: “Sông Hương uốn một 20
  27. cánh cung rất nhẹ”. Xuôi về Cồn Hến “Quanh năm mơ màng trong sương khói”, hòa với màu xanh của những khu vườn Vĩ Dạ, sông Hương mang vẻ đẹp huyền ảo, mơ màng khiến ta không khỏi liên tưởng đến “dòng sông trăng” và sương khói trong thơ Hàn Mặc Tử. Và thật bất ngờ, trước khi rời khỏi kinh thành Huế, sông Hương “đột ngột rẽ dòng để gặp lại thành phố lần cuối”. Ở khúc quanh đột ngột này, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại dùng biện pháp nhân hóa để nội tâm hóa dáng hình của dòng sông. Nhà văn cho rằng : “ Đó là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Liên tưởng xa hơn, nhà văn ví sự dùng dằng của sông Hương như nàng Kiều “chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi ra biển cả”. Biện pháp nhân hóa sử dụng khéo léo đã giúp tác giả thổi hồn vào dòng sông, và hơn thế nữa là một phương thức để nhà văn kết nối sông Hương với con người và văn hóa của mảnh đất Châu Hóa xưa và xứ Huế ngày nay. Bằng sự hiểu biết tường tận vùng đất kinh kì cũ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm cuộc hành trình ngược về cội nguồn của dòng sông và gắn kết nó với thiên nhiên, cảnh sắc Huế. Lần theo dòng chảy của sông Hương, ta bắt gặp những bức tranh thiên nhiên đẹp mượt mà: Thiên nhiên được nhà văn tái hiện với vẻ đẹp đa dạng trong thời gian và không gian. Sông Hương phản quang vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế với “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Gắn với dòng sông, những địa danh quen thuộc của thành phố Huế như Hòn Chén, Nguyệt Biểu, Tuần, Vọng Cảnh, Thiên Thai, dường như sông động hơn: “sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “sắc nước trở nên xanh thẳm”, “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách” Sông Hương tôn tạo vẻ đẹp cho cảnh sắc thiên nhiên Huế và ngược lại dòng sông cũng hun đúc mọi âm vang của sắc trời, văn hóa vùng đất cố đô. Những bãi Nguyệt Biều, chân đồi Thiên Mụ, chân núi Ngọc Trản, Vọng Cảnh, điện Hòn Chén 21
  28. không còn là những lớp vỏ ngôn từ mà như có chiều sâu tâm linh. Sông Hương hòa nhập với phần văn hóa vật thể cố đô (từ những “quần sơn lô xô), những đền đài lăng tẩm mang “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa” đến những rừng thông u tịch) để làm nên một tổng thể xứ Huế sơn thủy hữu tình như lời ca dao Huế : “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Thiên nhiên và dòng sông Hương luôn gắn bó, gần gũi với con người. Qua điệu chảy của dòng sông nhà văn thấy được tính cách con người xứ Huế : mềm mại, chí tình, “mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”. Qua màu sắc của trời Huế, màu sương khói trên sông Hương nhà văn thấy cách trang phục trang nhã, dịu dàng của cô gái xứ Huế xưa “sắc áo cưới màu điều – lục các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng”. Hoàng Phủ Ngọc Tường viết về Huế với nguồn cảm hứng bất tận dành chi đất và con người nơi đây. Trong mảng đề tài viết về những mảnh đất khác thì Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn luôn nhắc tới Huế như một tình yêu sâu lắng và kín đáo. Chất tài hoa trong phong cách nghệ thuật cùng với tấm lòng sâu nặng với Huế đã mang đến cho những trang kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường sự ỗi cuốn, thu hút và đặc biệt đã đánh thức trong lòng độc giả những rung động yêu thương. Qua đó độc giả có thể khám phá được những nét đẹp văn hóa truyền thống từ ngàn đời nay của người dân xứ Huế. Sông Hương được Hoàng Phủ Ngọc Tường ví như con người xứ Huế vậy, bởi lẽ chính dòng sông ấy đã chứng kiến bao thăng trầm và biến cố của thành phố từ thời các vua Hùng cho đến hiện tại dòng sông ấy vẫn luôn song hành cùng sự phát triển không ngừng của thành phố. Dòng sông không lặp lại mình, cũng giống như nơi khởi nguồn cho những sáng tác bất tận của các nghệ nhân, nghệ sĩ khi đến với vùng đất này. Con người xứ Huế luôn luôn được chính dòng sông này bảo vệ, bồi đắp phù sa với những vùng Châu Hóa 22
  29. rộng mênh mông với lượng phù sa bồi đắp hàng năm lớn, và ngay cả điệu chảy lững lờ của dòng sông cũng mang lại cho Huế một nét đặc sắc không nơi nào có được. Sông Hương được bao bọc bởi những vùng đất phù sa màu mỡ và cả những khu nhà vườn mang đậm chất Huế, tất cả đều mang lại cho dòng Hương Giang một vẻ đẹp mà hiếm có dòng sông nào có được. Những bóng cây đại ngàn, hay những cánh rừng già đã hun đúc cho dòng Hương Giang một sức mạnh to lớn, “Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác dịu dàng và đắm say giữa những rặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Một góc trời đều là cây, những đám cây hay cả một cánh rừng thì tất cả đều là điểm tựa quan trọng của dòng sông Hương, chính bởi sự xuất hiện của những cánh rừng mà dòng sông như được tiếp thêm sức mạnh để có thể nhanh chóng tìm về với biển nơi nó được sinh ra, để về được với nơi bắt đầu là cả một cuộc hành trình dài đầy khó khăn và vất vả gian truân nhường nào. Với sự hun đúc của rừng già và bao bọc bởi những bóng cây đại ngàn dòng Hương Giang đã có một cuộc hành trình đầy bí ẩn và vấn vương chút gì đó lưu luyến ở mỗi nơi mà nó đi qua, vẻ đẹp mỗi vùng đất với đầy hoa thơm và cỏ dại, hay vẻ phù sa màu mỡ của những bãi bồi, Tất cả đều mang lại cho bạn đọc một cảm nhận đặc biệt, không phải ai cũng cảm được cái mà tác giả muốn nói tới nhưng trong sâu thẳm mỗi một tâm hồn lại có những cách cảm nhận hoàn toàn khác nhau. Thiên nhiên gắn liền với dòng sông đặc biệt là vậy, nét đẹp ấy sẽ mãi in sâu trong tiềm thức của mỗi một con người khi đi qua dòng sông này. Tôi cũng đã từng được đến nơi đây, nơi mà con sông chảy qua, không phải ở nơi rừng núi hùng vĩ mà lại là nơi thành phố Huế mơ màng, khi dòng Hương Giang chảy qua thành phố nó không còn dữ dội cuộn xoáy ghềnh thác nữa mà nó bỗng dịu dàng như chính nơi mà nó đi 23
  30. qua vậy. Thành phố Huế hay dòng Hương Giang, tất cả đều dịu dàng như chính cái tên của nó vậy, khi tới nơi đây tôi có một cảm giác thật lạ, không có những tiếng ồn chói tay mà thay vào đó là những âm thanh dịu nhẹ không quá ồn ào như Hà Nội mà tôi vẫn thường sống, không gian ấy khiến tôi như muốn ở mãi không đi, cũng giống như dòng chảy Hương Giang vậy. Nó chảy chậm và hình như cũng không muốn đi, sự lưu luyến ấy không phải do yếu tố nào chi phối mà đó là do chính dòng chảy của dòng sông đặc biệt vậy đấy.Những nơi mà dòng Hương Giang đi qua đều để lại cho chính dòng sông những kỉ niệm khó quên, khi qua những nhánh rừng, qua những hòn đảo nhỏ, hay những thành phố náo nhiệt thì dòng Hương Giang vẫn giữ cho mình một nét riêng độc đáo. Không quá nhanh cũng không quá chậm bởi ở mỗi nơi nó đi qua đều in dấu một nét đẹp, rừng già với vẻ đẹp hùng vĩ và hoang sơ, những bãi bồi hay những hòn đảo, nơi chất chứa vẻ đẹp màu mỡ và ngay cả những thành phố khoác lên mình sự náo nhiệt nhưng vẫn giữ được vẻ dịu dàng vốn có. Tất thảy những chi tiết ấy đều làm nên cho sông Hương một vẻ đẹp tươi mới, vẻ đẹp ấy chỉ có thể là của sông Hương mà thôi. Trong cảm nhận tinh tế của nhà văn, sông Hương còn hàm chứa trong bản thân nó nền văn hóa phi vật chất. Từ âm thanh của dòng sông (tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga rền mặt nước, tiếng mái chèo khuya nước giữa đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn đò ) đã hình thành những điệu hò dân gian và nền âm nhạc cổ điển Huế. Và ngược lại trên sông nước mênh mang những câu hò xứ Huế vút lên, luyến láy ngân rền, bồi hồi xao xuyến những điệu hò mang vẻ đẹp của người xứ Huế: “Còn non, còn nước, còn dài – Còn về, còn nhớ ”. Bằng những liên tưởng thú vị, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ví sông Hương như “một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Và rất tự nhiên nhà văn gắn kết sông Hương với nền âm nhạc cổ điển Huế : “Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước con 24
  31. sông này, một trong khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Từ dòng sông “mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi” những điệu hò vút lên, khiến nhà văn liên tưởng đến tiếng đàn của bậc tài nữ Thúy Kiều. Viết về sông Hương nhiều lần tác giả đã liên tưởng đến Truyện Kiều của Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc đã có thời gian sống ở Huế, những trang Kiều ra đời từ mảnh đất truyền thống nhã nhạc cung đình. Trong trí tưởng tượng của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Du đã có những đêm trăng xuôi thuyền trên sông Hương, ngắm “phiến trăng sầu” treo lơ lửng giữa bầu trời trên sông nước êm đềm. Giữa dập dềnh trăng nước, thi nhân lắng nghe âm thanh của dòng sông, gửi hồn vào những điệu nhạc dìu dặt từ khoang thuyền, để rồi âm hưởng của dòng nhạc cổ điển cũng như những điệu hò dân gian đã ít nhiều để lại dấu vết trong Truyện Kiều chăng? Phải chăng những câu thơ tả tiếng đàn của Thúy Kiều ra đời từ đó và trở thành bất tử. Trong tiếng đàn ai oán nỉ non, lúc gió thả mưa sầu, lúc trong lúc đục của Thúy Kiều phải chăng có âm hưởng của nhạc cổ điển Huế? Có lúc Hoàng Phủ Ngọc Tường lại hóa thân vào một nghệ nhân già, nghe những câu thơ tả tiếng đàn của Thúy Kiều, chợt nhận ra âm hưởng của âm nhạc cung đình và bật thốt lên: “Đó chính đại tứ cảnh”. Bóng dáng Nguyễn Du và những trang Kiều nhiều lần xuất hiện trong bài kí bộc lộ một khả năng liên tưởng phong phú, một vốn liếng văn hóa sâu rộng và sự gắn kết với truyền thống, một đồng điệu tâm hồn của nhà văn. Bằng những kiến thức phong phú, với một cách viết đầy chất thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường thức dậy một dòng sông đã gợi cảm hứng sáng tạo cho bao người nghệ sĩ xưa, nay và cả mai sau. Với cách viết liên văn bản, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm sống dậy những vần thơ biếc xanh của Tản Đà về Huế “Dòng sông trắng – Lá cây xanh”. Giữa “màu cỏ lá xanh biếc” của một nhà văn rất Huế và “dòng sông trắng – Lá cây xanh” trong con mắt đa 25
  32. tình của Tản Đà có sự tương giao đồng điệu của những tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm với sắc biếc của thiên nhiên. Ở cuối tác phẩm, như một lời vĩ thanh, tác giả một lần nữa đã nhắc đến những thăng trầm lịch sử đã đi qua dòng sông trữ tình và sử thi này, lí giải tên của dòng sông bằng một chi tiết đặc biệt: “vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bên bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống lòng sông, để làn nước thơm tho mãi mãi”. Hiện nay sông Hương không còn được như ngày trước nữa, một phần là bởi sự phát triển ngày càng nhanh chóng mức độ đô thị hóa, kèm theo đó là ý thức của người dân chưa cao. Nhưng với Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường sẽ giữ lại cho Huế, cho cố đô tất cả vẻ đẹp nguyên sơ, khi dịu dàng, khi dữ dội của sông Hương, lưu giữ những trầm tích văn hóa Huế. 2.2. Đời sống tinh thần của người dân xứ Huế qua Ai đã đặt tên cho dòng sông? Cùng với dòng chảy của nó, sông Hương còn chuyên chở cả dòng văn hóa tâm linh, văn hóa tinh thần của người dân xứ Huế. Theo bước chân của nhân vật “tôi”, ta như bồng bềnh giữa cõi thực và cõi mơ, cảm nhận âm hưởng sâu thẳm của Huế, từ những gian truân mà dòng chảy của nó vượt qua, để hiểu thấu cái phần mà “dòng sông hình như không muốn bộc lộ”. Sông Hương sau đoạn vượt qua cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, được Hoang Phủ Ngọc Tường ví như người con gái đẹp đang “ngủ mơ màng” được đánh thức bởi “người tình mong đợi”. Sông Hương đã “chuyển dòng một cách liên tục” khi vừa ra khỏi rừng. Nó như nôn nóng đi tới gặp người tình - thành phố tương lai của nó. Nó đã “vòng những khúc quanh đột ngột”. Nó đã “uốn mình theo những đường cong thật mềm ”. 26
  33. Con sông Hương được nhân hóa như đang làm duyên đang múa lượn. Sông Hương lúc thì trôi theo hướng sang tây bắc vòng qua bãi Nguyệt Biều, Lương Quán. Rồi nó “đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc ôm lấy đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Dòng chảy của sông Hương qua các địa danh ngã ba Tuần, điện Hoàn Chén, Ngọc Trản, bãi Lương Biều, Lương Quán, Vọng cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo, được tác giả vẽ ra, nhắc lại một cách chính xác. Những địa danh ấy, ngoài việc thể hiện những kiến thức về địa lí, văn hóa còn cho thấy sự am tường của Hoàng Phủ Ngọc Tường về vấn đề tâm linh. Trước khi dòng chảy vòng qua trung tâm của thành phố, sông Hương đã đi qua những vùng đất linh thiêng, ôm vào lòng nó tất cả sự diệu kì. Sông Hương ở đoạn chảy qua điện Hòn Chén đã mang theo nhiều giai thoại. Dân gian còn lưu truyền rằng điện Hoàn Chén có ý nghĩa là “trả lại chén ngọc”, vì vua Minh Mạng trong một lần lên đây đã đánh rơi một chén ngọc xuống dòng Hương, tưởng không cách gì lấy lại được thì bỗng nhiên một con rùa to bằng chiếc chiếu nổi lên ngậm chén ngọc trả lại cho nhà vua! Trước điện là một cái vực rất sâu chưa ai đo được. Xưa kia, lắm người chài ngư nổi danh bơi lội cũng không lặn tới đáy sông được. Người ta tin rằng, vua Hà Bá ngự trị ở chốn này. Ghe thuyền mỗi khi đi qua đều im hơi lặng tiếng để tỏ lòng thành kính. Tương truyền nhiều người bị đắm thuyền chết đuối chỉ vì đã ngạo mạn với Mẫu thần. Nơi đáy vực có con ba ba to bằng chiếc chiếu rộng, mỗi lần nổi lên thường gây sóng gió dữ dội, mọi người lúc bây giờ đều tin đó là sứ giả của thần Hà Bá. Thấy dân chúng bị nạn, trong một buổi cúng tế, vua Tự Đức đã đeo vào tay thần một chuỗi bồ đề để cầu xin lòng từ bi cho chúng sanh. Người ta còn kể rằng, trong một hốc đá ở bợt bến, có một con cá trạch lớn như chiếc chiếu, thỉnh thoảng vụt lên mặt nước làm tung bọt trắng xóa. Dân chúng hoảng hốt sợ, không dám gọi là "con" mà gọi bằng "cố"- Cố Trạch. Trong số mười ba vị vua triều Nguyễn thì vua Đồng Khánh là một tín 27
  34. đồ rất ngưỡng mộ vị Thánh Mẫu này. Vua Đồng Khánh còn làm thơ văn ca tụng công đức của Mẫu Thiên Yana. Chính vua đã ban hành việc dùng Quốc lễ để tế tại Huệ Nam Điện. Theo lệnh vua, vào dịp xuân - thu nhị kỳ hằng năm đều tổ chức tế lễ, vị chủ tế là một triều thần. Tại Huế vẫn truyền tụng câu ca “Tháng 7 Vía Cha, tháng ba Vía Mẹ” là nói đến 2 lễ tế này. Sau vua Đồng Khánh, các vị vua chỉ cử quan thần tới chủ tế một lần vào tháng ba, còn tháng bảy dân làng Hải Cát tự tổ chức. Nghi lễ tại Ðiện Hòn Chén rất long trọng. Dân làng tổ chức tế tại đình, trước ngày chánh tế có lễ nghinh thần để rước tất cả các vị thần trong làng về đình. Chùa Thiên Mụ được mệnh danh là “đệ nhất cổ tự Huế”. Chùa còn có tên là Linh Mụ, là một ngôi chùa cổ nằm trên đồi Hà Khê, ở phía tả ngạn sông Hương. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm 1601 - đời chúa Nguyễn Hoàng - vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong. Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê. Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: "Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh". Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn. Chùa thiên Mụ không chỉ là điểm quy hướng tâm linh của cộng đồng mà còn là nơi thường diễn ra các quốc lễ, các nghi lễ Phật giáo quan trọng kể từ đầu thế kỷ XVII. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã nhắc tới một trong những nét đẹp truyền thống nơi đây đó chính là những lễ hội và đặc biệt hơn đối với “tôi” đó 28
  35. là “hội vật làng Sình”. “Tôi đã có dịp đi xem hội vật Đông Anh và Kiếp Bạc”, không phải đơn thuần là những hội vật mà đó là cả một dòng chảy, dòng chảy của truyền thống dòng chảy của những lễ hội và cả những nét đặc sắc về văn hóa truyền thống. Đây là nét đẹp truyền thống xứ Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có nhắc đến một lễ hội đặc biệt “nay tôi đến hội vật Sình những nơi mà ông cha đã trải nhiều thời đánh thắng giặc trên sông nước”, đó không phải chỉ là một lễ hội đơn thuần mà nó còn là dấu ấn khó phai về dòng chảy tâm linh đối với con người xứ Huế. Lễ hội được tổ chức vào ngày 10 tháng Giêng âm lịch hàng năm và được tổ chức tại đình làng Lại Ân (còn gọi là làng Sình), xã Phú Mậu, huyện Phú Vang (Thừa Thiên – Huế). Đây là một hoạt động văn hóa truyền thống, giàu tinh thần thượng võ của con người xứ Huế. Các đô vật sẽ thi đấu theo thể thức vòng tròn. Những người già ở làng Sình kể lại hội vật truyền thống của làng đã có lịch sử hơn 200 năm và phát triển liên tục cho đến ngày hôm nay. Hội vật làng Sình rất chú trọng tinh thần thượng võ vì thế các đô vật không được sử dụng các đòn thế nguy hiểm đến tính mạng của đối thủ, Một nét đặc biệt nữa ở hội vật này đó chính là tất cả mọi đô vật không dành chiến thắng đều được nhận một phần quà từ ban tổ chức, hội vật còn thể hiện rõ tinh thần đồng đội giữa các địa phương, một đô vật của làng nào bị thua sẽ có đô vật khác lên tiếp sức. Nếu để thua một trận các đô vật sẽ phải trờ đến năm sau mới đấu lại được, vì thế các đô vật thường rèn luyện suốt năm, tu dưỡng đạo đức để tới đầu năm có dịp lại tiếp tục tham gia giải đấu vật. Nét truyền thống ấy vẫn cứ tiếp tục chảy trôi cho tới tận ngày hôm nay, mỗi một đô vật khi tham gia đều đã chuẩn bị sẵn sàng cho lượt đấu của năm sau qua một năm rèn luyện. Đây cũng chính là yếu tố mong cho dân khỏe, làng yên, mùa màng tươi tốt, hạnh phúc đến với muôn người còn là một hoạt động vui, khỏe đầy tinh thần thượng võ, kích thích việc rèn luyện sức khỏe, lòng dũng cảm, sự tự tin, 29
  36. mưu trí đối với lớp trẻ. Vẻ đẹp của Huế đã in đậm trong Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ bởi cảnh sắc thiên nhiên nơi đây hay những ngày lễ hội. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Huế còn in đậm trong ông bằng một màu sắc đặc biệt của “sắc áo cưới”. Hoàng Phủ Ngọc Tường có viết: “Thỉnh thoảng, tôi vẫn còn gặp trong những ngày nắng đem áo ra phơi, một sắc áo cưới của Huế ngày xưa, rất xưa: Màu áo điều lục với loại vải vân thưa màu xanh tràm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện, thấp thoáng sau bóng người, thửa ấy các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng.”. Màu sắc áo cưới ấy đã từng khơi gợi trong ông biết bao nhiêu là sự hiếu kì để rồi làm nảy nở một thứ tình cảm đặc biệt đối với nơi đây mà chính tác giả không thể nào lí giải được. Chuyện cũ kể rằng, khoảng thời gian thập niên 30, áo dài màu tím là đồng phục của nữ sinh trung học Đồng Khánh Huế và nhanh chóng trở thành mầu thời trang xứ Huế. Có phải màu thiên nhiên nơi đây đã nhuộm tím chiếc áo nữ sinh trong hoàng hôn qua cầu Trường Tiền và bến đò Thừa Phủ? Hay như khúc Nam Ai vương cung bậc buồn thương của Chiêm Thành, áo dài nơi đây nhuộm một màu tím ngát bởi những chiêm nương xưa trên vùng Ô Rí cũng ưa thích một màu tím hoang sơ ? Tuy nhiên, thiên nhiên Huế muôn đời vẫn thế và dòng chảy văn hóa Huế vẫn âm thầm bạo liệt để một ngày áo dài trắng nữ sinh và tà áo tím xưa trở lại. Không hẹn mà gặp và cũng không ai qui định nhưng áo dài tím Huế bây giờ đã trở thành màu áo chủ đạo của đội ngũ nữ hướng dẫn viên ngày ngày đưa du khách đến thăm các di tích cố đô. Màu tím ngát mịn màng của hoàng hôn, sông nước, cỏ cây xứ Huế tương thích với kiến trúc lăng tẩm, đền đài, cổ tự, danh lam khi các kiến trúc nơi đây đều hài hoà với thiên nhiên xứ Huế. Sáng chiều giữa di tích Huế, các hướng dẫn viên với tà áo tím và nón bài thơ toả đi khắp nơi đã tạo nên một nét mới trong văn hóa du lịch vùng đất 30
  37. này. Các đoàn khách thường đề nghị cô hướng dẫn mặc áo dài tím Huế khi hướng dẫn hoặc ít ra cũng mặc một lần trong nhiều buổi tham quan Huế. Không may giữa rừng áo tím một sớm mai, một hường dẫn viên mang màu áo khác sẽ cảm thấy mình lạc lõng giữa các đồng nghiệp và xa lạ ngay với chính đoàn khách mà mình đang hướng dẫn. Áo dài tím đã trở thành thông điệp của văn hóa học với du khách gần xa. Áo dài tím trang nhã mà kín đảo, gần gũi nhưng không hòa nhập như chức năng của người hường dẫn đối với khách tham quan. Du khách có thể giao hoà, cùng đệm hò với nghệ sĩ trong một đêm ca Huế trên sông, có thể hòa tan cùng hát với ca sĩ trên sân khấu đèn màu nhưng giữa người hướng dẫn và khách tham quan có một khoảng cách nhất định, giữa lòng di tích chỉ có quá khứ và hiện tại, chỉ có giá trị di sản và khách tham quan mà người hướng dẫn là chiếc cầu nối giữa đôi bờ đó. Áo dài tím Huế gần mà xa là thế. Màu tím Huế đã phục hưng trong đời sống hôm nay. Có một hội trại của thanh niên trên vùng gò đồi Tây Nam Huế đã dành một buổi để mọi người trèo núi Bãng Lãng ngắm hoàng hôn tím Huế. Ngũ sắc Huế là lục, xanh, đỏ, tím, vàng trên hệ thống chiếu sáng cầu Trường Tiền về đêm – màu tím ngát, tím rịm lòng người không chỉ là du khách muôn nơi mà chính cả lòng người cố xứ. Mỗi dịp về đêm qua cầu Trường Tiền ngũ sắc luân phiên, tôi lại điều chỉnh tốc độ xe để làm sao được đi giữa Trường Tiền tím ngát. Và ở một hàm nghĩa rộng hơn, nếu hiểu tâm linh là trí tuệ và tinh thần, thì Sông Hương cũng thấm đẫm tinh thần của thời đại. Sông Hương không còn là cô gái “Di gan man dại”, không còn là “người đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa”, mà trở thành chứng nhân của biến thiên lịch sử. Cách so sánh, ví von của nhà văn thật độc đáo. Nếu Nguyễn Tuân đã từng so sánh nước với lửa khi miêu tả sông Đà hung bạo: “Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa đổ 31
  38. lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng” thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại so sánh nước với cái trừu tượng thiêng liêng là những trang sử của dân tộc. “Sông Hương là vậy, dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Ví sông Hương như “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhấn mạnh sự hòa quyện giữa chất hùng tráng và chất trữ tình, sông Hương là một bản hùng ca, đồng thời giữa đời sông Hương là một bản tình ca Phải chăng khi viết những dòng sử thi giữa màu cỏ lá xanh biếc, nhà văn nghe vọng về từ sâu thẳm câu hò Huế mang chứa nỗi niềm của con người vùng đất cố đô: “Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông Thuyền ai thấp thoáng bên sông Đưa câu mái đẩy, chạnh lòng nước non ” Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn thấy từ dòng sông những dấu tích lịch sử; từng nhánh rẽ của dòng sông, đến “những cây đa, cây cừa cổ thụ” cũng hàm ẩn một phần lịch sử. Nhà văn đã ngược về quá khứ để khẳng định vai trò của sông Hương trong lịch sử dân tộc. Từ thời đại vua Hùng, sông Hương là “dòng sông biên thùy xa xôi”. Trong những thế kỉ trung đại, với tên gọi là Linh Giang, nó đã “oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ Quốc Đại Việt”. Sông Hương gắn liền với chiến công Nguyễn Huệ; sông Hương đẫm máu những cuộc khởi nghĩa thế kỉ 19 Sông Hương đã chứng kiến cuộc Cách mạng tháng Tám với những chiến công rung chuyển. Và sông Hương cùng những di sản văn hóa Huế đã oằn mình dưới sự tàn phá của Mĩ trong mùa xuân lịch sử Mậu Thân Viết về cuộc đấu tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, ngòi bút Hoàng Phủ 32
  39. Ngọc Tường đã xoáy sâu, kể tội ác của đế quốc Mĩ khi chúng đang tâm hủy diệt văn hóa một vùng đất. Không cần những lời lẽ căm thù, không cần những ngôn từ phẫn nộ, nhà văn chỉ dẫn nguyên văn lời đánh giá của một người Mĩ về sức tàn phá ghê gớm của sự kiện mùa xuân 1968 mà sông Hương trở thành nhân chứng: “Các trung tâm lớn của chúng ta về lịch sử, vănp hóa, học thuật và chính quyền rất nhiều. Phải hiểu rằng Huế là một thành phố kết hợp tất cả những cái đó, giống như các thành phố Luân Đôn, Pa-ri và Béc- lin, Một số các di sản đó đã bị phá hủy lúc Thành Nội bị ném bom. Không thể so sánh sự mất mát này với sự mất mát của một bảo tàng hay một thư viện ở Mĩ. Sự phá hủy những di sản này cũng có tính chất giống như sự mất mát xảy ra đối với nền văn minh châu Âu khi một số công trình của nền văn minh Hi Lạp và La Mã cổ đại bị đổ nát vì các nhà thờ bị phá hoại”. Không gì thâm độc và đau đớn bằng sự tàn phá những di sản văn hóa của dân tộc. Sự nối kết đầy chất trí tuệ này làm cho những cứ liệu của tác giả càng có sự thuyết phục, tô đậm thêm nỗi đau mất mát tinh thần. Có thể nói, qua Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ làm đẹp thêm thành phố yêu thương của mình, làm vẻ vang thêm truyền thống lịch sử và văn hóa Huế. Với Ai đã đặt tên cho dòng sông?, dòng Hương Giang trữ tình, thơ mộng một lần nữa lại làm mê đắm những người vốn đã yêu Huế, yêu sông Hương. Hiểu hơn về Huế, về sông Hương, về những trầm tích văn hóa nơi đây ta càng thêm cảm phục tài năng của Hoàng Phủ Ngọc Tường. 33
  40. CHƯƠNG 3 ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TRONG AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG 3.1. Ngôn ngữ giàu chất thơ Nhắc đến kí Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đọc đặc biệt bị lôi cuốn, hấp dẫn bởi ngôn ngữ trữ tình, giàu chất thơ của ông. Có thể nói, ngôn ngữ của ông rất đẹp, có khả năng mê hoặc. Sự tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện trong cách dùng từ, viết câu và sử dụng các biện pháp tu từ đặc sắc. Chất thơ ở đây là sự kết hợp của cả chất trữ tình và sự biến ảo của ngôn ngữ. Qua Ai đã đặt tên cho dòng sông?, ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát lộ. Khai mở tác phẩm, ta bắt gặp tầng ngôn từ – tầng đầu tiên để đi vào khám phá cấu trúc, ý nghĩa của văn bản. Và ở đây, chúng ta đã bất ngờ, ngạc nhiên trước hệ thống từ ngữ đầy chất thơ, chất họa trong từng trang viết của ông. Phải chăng tất cả là do khả năng bẩm sinh của một con người có tâm hồn nhạy cảm, yêu người và yêu đời thiết tha? Hay đó là quá trình rèn giũa, tôi luyện, sự trưởng thành của một ngòi bút và trái tim tinh tế, sâu sắc? Những trang viết về Huế của ông luôn thấm đượm tình cảm nồng ấm và miên man những dòng suy tư, triết lí về cuộc đời. Đến với thế giới cỏ cây, thiên nhiên bao la, vang vọng bên ngoài kia, tác giả đều cảm hoài một nỗi niềm yêu thương, trân trọng, ngợi ca Cảnh vật thiên nhiên được miêu tả qua ngôn ngữ trữ tình giàu chất thơ, đậm chất Huế ngoài cho người đọc thấy được thiên nhiên xứ Huế đẹp, thơ mộng mà cái tài cái tài nắm bắt thần thái cảnh vật của tác giả. Sông Hương – vẻ đẹp mặn mà, duyên dáng của xứ Huế càng khơi nguồn thi hứng của tác giả. Ngắm sông Hương, ông “cảm nhận cái âm hưởng 34
  41. sâu thẳm của Huế những vầng trăng thắm thiết”. Sông Hương là hình tượng đa dạng, muôn sắc màu: “là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn ( ) có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, “như một cô gái di-gan phóng khoáng và man dại”, “sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ , trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”, “như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”, “một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”, “bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng” Đọc Ai đã đặt tên cho dòng sông? ta cảm nhận kho tàng từ vựng của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật phong phú, vô tận và trữ tình. Ông đã sử dụng một hệ thống từ Hán Việt trang trọng để biểu hiện được những suy nghĩ, tình cảm của mình với dòng sông yêu thương và cũng nhờ vậy mà nó mới có thể khoe hết vẻ đẹp rực rỡ, bí ẩn của mình. Bên cạnh đó là những từ thuần Việt mộc mạc, giản dị song như nói đúng nỗi lòng của ông nên những câu văn đó dễ đem đến trong lòng người đọc sự thăng hoa cảm xúc. Ngoài ra, để có được những câu văn hay đi vào lòng người thì Hoàng Phủ Ngọc tường đã sử dụng hệ thống tính từ, từ ngữ mang tính tượng hình cao như từ láy, từ tượng thanh, từ tượng hình: dồn dập như lặng lờ, lững lờ, lô xô, bồng bềnh, lập lòe, rầm rộ, chói lọi, ngập ngừng, sừng sũng, xúm xít, để làm sống dậy thủy trình về với biển của sông Hương. Ngôn ngữ giàu chất trữ tình, chất thơ, rất hoa mĩ, trau chuốt, tinh luyện nhưng cảm giác như đó là sự gửi gắm của cả tấm lòng chân thành, gần gũi và nồng thắm biết bao. Ngôn ngữ trong Ai đã đặt tên cho dòng sông?, vì thế còn được gọi là ngôn ngữ cảm 35
  42. xúc, tuân theo quy luật cảm xúc ( ). Cũng bởi tuân theo quy luật cảm xúc mà câu văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường được nhận xét là thường dài, nhiều mệnh đề, nhiều bổ ngữ: “Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”, rồi “Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách với, những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa”, Kiểu câu văn ấy được ví “như những lớp sóng ngôn từ xao động” để diễn đạt những lớp sóng hưng phấn cảm xúc Hãy nghe nhà văn diễn tả cảm giác của mình “Mùa thu tôi ngồi đọc Kiều dưới mái rêu phong của chiếc cổng vòm quay mái ra sông ăn trái hồng ngọt và thanh đến độ tưởng như mỗi miếng vừa ngậm vào nửa chừng đã tan ra thành dư vang của một tiếng chim”. Chỉ có ăn một trái hồng thôi mà thấy đủ cả hương vị, thanh sắc của đất trời, huống hồ là khi đối diện với với một con sông của một miền đất mà mình yêu mến, tự hào và gắn bó. Dường như có bao nhiêu góc nhìn, điểm nhìn về con sông thì có bấy nhiêu kiểu chữ nghĩa được huy động để diễn tả cho thật riêng, thật sắc, thật tinh góc nhìn, điểm nhìn ấy: Cần đặt con sông trong không gian địa lí thì nó là “một bản trường ca của rừng già rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào dưới đáy vực bí ẩn, dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đổ quyên rừng, dịu dàng và trí tuệ khi trở thành bà mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở, mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá, trầm mặc như triết lí, như cổ thi gữa đám quần sơn lô 36
  43. xô, đền đài lăng tẩm và rừng thông u tịch , vô tư giữa những biền bãi xanh biếc, yên tâm kéo một nét thẳng khi nhìn thấy chiếc cầu của thành phố in ngầm trên nền trời ” Cần đặt con sông trong tổng thể những sắc màu văn hoá thì nó trở thành một “vang bóng trong thời gian hình tượng của cặp tình nhân lý tưởng của Truyện Kiều”, lập loè trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ”, điệu chảy lặng lờ như một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy. Cần đặt sông Hương trong dòng chảy lịch sử thì sông Hương lại là “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử viết giữa màu cỏ lá xanh biếc ”, khi “tự biến đời mình thành một chiến công ”, khi lại trở về “làm một người con gái dịu dàng của đất nước ”. Đây không phải thứ chữ nghĩa mà ta quen gặp trong văn xuôi thông thường.Lối chữ nghĩa giàu hình ảnh và thấm đượm cảm xúc đó là kiểu chữ nghĩa thường chỉ thấy nhiều trong thi ca, nó khiến người đọc không chỉ tiếp nhận được những thông tin cần thiết mà còn có thêm hứng thú và nguồn mĩ cảm dồi dào. Qua lớp ngôn từ trữ tình, tác giả xây dựng một thế giới hình tượng đa dạng, sinh động, lung linh sắc màu, dáng hình với khả năng tạo hình cao: trong rừng già, sông Hương sống động “như một cô gái di-gan phóng khoáng và man dại”, nhưng khi về thành phố nó nhanh chóng “trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” Ngôn ngữ trữ tình còn được thể hiện ở những vần thơ giàu cảm xúc, tư duy của chính tác giả hoặc của các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng từ cổ chí kim. Những câu thơ được Hoàng Phủ Ngọc Tường đưa vào tác phẩm kí của mình với sự đan xen thích hợp, tạo hiệu quả thẩm mĩ. Những vần thơ rất sâu chảy vào tâm hồn của khách đa tình như men say của chén rượu đầu đông lưu luyến ấm áp mãi không nguôi. Sự kết hợp giữa tự sự của bút kí và chất trữ tình của thơ ca đã làm cho bút kí Ai đã đặt tên cho 37
  44. dòng sông? nói riêng và các tác phẩm bút kí khác nói chung của ông tăng chất thơ, chất họa, lôi cuốn và hấp dẫn biết bao thế hệ người đọc. Bằng tình yêu tha thiết, vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng nhà văn đã miêu tả cặn kẽ, tỉ mỉ hành trình tình yêu của Hương Giang, phô ra kiến thức muôn màu về địa lí, lịch sử, văn hóa xoay quanh dòng sông và mảnh đất cố đô. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phối hợp linh hoạt giữa kể và tả sử dụng tài hoa các biện pháp tu từ nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ. Qua nghệ thuật nhân hóa, dòng sông vô tri, vô giác bỗng trở nên có sinh mệnh, có linh hồn, có tính cách, có tâm trạng. Khi mạnh mẽ, quyết liệt, khi dịu dàng đắm say, khi e lệ kín đáo, khi tình tứ lẳng lơ. Nghệ thuật so sánh hết sức tự nhiên bất ngờ bộc lộ sự liên tưởng, tưởng tượng phóng túng, tinh tế, tài hoa của người nghệ sĩ. Đó là khi Hoàng Phủ Ngọc Tường ngầm so sánh sông Hương với người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Còn thành phố Huế là người tình mong đợi. Những con chữ, đoạn văn lấp lánh huyền thoại tạo chất thơ: “Lập lòa trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ ”, “Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”, “Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòn những rừng thông u tịch, và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên” Với những liên tưởng kì thú, diễm tình, tác giả ví sông Hương như một người con gái đẹp được người tình mong đợi đến đánh thức. Những câu văn đẹp đầy màu sắc và ấn tượng. “Sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “Sắc nước trở nên xanh thẳm”, “nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như những thành quách”. “Dòng sông như tấm lụa, với những chiếc thuyền 38
  45. xuôi ngược nhỏ bé vừa bằng con thoi, những ngon đồi này tạo nên nhiều mảng phản quang nhiều màu sắc”. “Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” Bằng những con chữ biết nói, qua Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lưu giữ vẻ đẹp thiên nhiên và con người Huế, lưu giữ bản sắc Huế và đã góp cho kí Việt một tiếng nói riêng của một nhà văn rất Huế. 3.2. Giọng điệu trữ tình Giọng điệu khác với âm thanh giọng nói, cũng khác với ngôn ngữ là vỏ ngữ âm vật chất của ngôn từ. Giọng điệu là ngữ điệu tâm hồn, là khẩu khí, là cá tính, là phong cách sáng tạo của mỗi nhà văn. Giọng điệu văn chương của Hoàng Phủ Ngọc Tường là cốt cách tinh thần của người Huế, là giọng điệu trữ tình, giọng điệu sử thi của vùng địa văn hóa cố đô. Trong Ai đã đặt tên cho dòng sông?, giọng điệu trữ tình được xây dựng trên cơ sở của cái “tôi” viết kí. Nó là những suy nghĩ, cảm xúc được nhà văn cụ thể hóa thành những lời tâm sự, giãi bày. Ở bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?, chất trữ tình thấm đẫm trong từng dòng văn, hiện diện ở giọng kể chuyện chậm rãi như đang tâm tình của tác giả khi ông ca ngợi cảnh xứ Huế và thiên nhiên nơi đây: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến. Hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ, giữa bong cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Đặc biệt khi viết về lịch sử, văn hóa, thiên nhiên Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dành tất cả tâm hồn thơ mộng của mình để trang văn trở nên ngọt ngào, da diết: “Mùa thu, tôi ngồi đọc Kiều dưới mái rêu phong của chiếc cổng quay mặt ra sông, ăn những trái hồng ngọt Chính trong những giờ phút 39
  46. bồng bềnh giữa cõi thực và cõi thơ ấy, tôi đã cảm nhận ra cái âm hưởng sâu thẳm của Huế” Giọng trữ tình khiến cho các vấn đề được diễn tả trên các trang kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ kỉ niệm tuổi thơ đến chân dung các nhân vật đều trở nên ngọt ngào thi vị.Có dòng thi ca về sông Hương và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó: từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ, dòng sông trắng – lá cây xanh trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, từ tha thiết mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên như kiếm dựng trời xanh trong khí phách của Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài cổ với bong chiều bảng lảng trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan, nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn, trong thơ Tố Hữu. Và ở đây, một lần nữa, sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều, trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả Từ ấy. Tất cả đều xuất phát từ tài năng và trái tim nặng trĩu những yêu thương dành cho đất nước và con người Việt Nam của tác giả. Và giọng điệu đó đã xuyên suốt hành trình sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường góp phần thể hiện một phong cách viết kí trữ tình đầy sáng tạo trong dòng kí Việt Nam đương đại. Kết cấu tác phẩm được dẫn dắt theo mạch cảm xúc của nhà văn với câu hỏi Ai đã đặt tên cho dòng sông? được lặp lại nhiều lần ở nhan đề, ở phần giữa, và ở đoạn cuối văn bản, là yếu tố cốt lõi để dẫn dắt mạch văn; đưa nhà văn làm một cuộc hành trình lịch sử tìm về cội nguồn của dòng sông và cảm nhận, miêu tả vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn huyền thoại – văn hóa – lịch sử. Câu hỏi ở phần cuối của bài kí bộc lộ sâu sắc những suy nghĩ, trầm tư của nhà văn về cái đẹp của sông Hương ở chiều sâu của nó và khiến cho giọng điệu tác giả trở nên da diết. Dòng sông Hương vốn tiềm ẩn bao vẻ đẹp quyến rũ, nhưng một điều 40
  47. chắc chắn là ta không thể khám phá nét đẹp, nét quyến rũ của dòng sông mà không có ngòi bút tài hoa uyên bác mê đắm vẻ đẹp thiên nhiên xứ sở của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bằng tình yêu tha thiết, vốn hiểu biết phong phú sâu rộng nhà văn đã tường thuật miêu tả cặn kẽ, tỉ mỉ hành trình tình yêu của Hương Giang, phô ra kiến thức muôn màu về địa lí, lịch sử, văn hóa xoay quanh dòng sông và mảnh đất cố đô này. Mỗi đoạn văn là một chắt lọc tinh túy về hành trình, về dáng vẻ, về vẻ đẹp của sông Hương, diễn tả tình yêu say đắm của tác giả với Hương Giang diễm tình và đầy chất sử thi. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện sự mê đắm ấy với sông Hương bằng một giọng điệu vừa mạnh mẽ vừa quyến rũ: “Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái di-gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Nhưng khi miêu tả dòng chảy của sông Hương khi về đến đồng bằng, tác giả như hạ giọng, chọn một sắc điệu phù hợp, vừa đằm thắm vừa tha thiết: “Sông Hương khi về đồng bằng đã thay đổi tính cách, sông như đã chế ngự bản năng ở người con gái để mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ của vùng văn hóa xứ sở”. Giọng văn đầy biến hóa, khi tha thiết, ngân vang, khi bâng khuâng xao xuyến, khi dịu dàng, đằm thắm trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? đã khiến những trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường càng thêm cuốn hút. Say mê vẻ đẹp của Hương Giang bao nhiêu, ta càng yêu ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường bấy nhiêu. 41
  48. Có thể thấy, với những cảm xúc sâu sắc cộng với những kiến thức phong phú, trí tưởng tượng và trải nghiệm thực tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thực sự mê hoặc được người đọc. Tác giả hoàn toàn chủ động trong việc dẫn dắt người đọc đi theo nhà văn để hào hứng thưởng thức vẻ đẹp của dòng sông Hương. Qua ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tương, Hương Giang không phải chỉ là con sông địa lí vô tri nữa mà đã trở thành một con người cụ thể - một người con gái có nhan sắc, có tâm hồn, có sức sống và cũng đầy sức mạnh để đi hết cuộc hành trình, sống trọn vẹn đời sống và khẳng định mạnh mẽ bản lĩnh và lý tưởng của mình. Thành công đó của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một minh chứng thuyết phục nhất khẳng định tài năng nghệ thuật của ông, khẳng định sự tài hoa của tác giả trong việc chỉ huy đội quân ngôn ngữ. Cùng với sự tài tình trong cách sử dụng ngôn ngữ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện năng lực sáng tạo riêng bằng một giọng điệu nghệ thuật rất đặc trưng, không dễ lẫn. 42
  49. KẾT LUẬN Văn học chính là thành tố quan trọng của văn hóa. Văn học vừa tái hiện, vừa lưu giữ, vừa góp phần sáng tạo nên giá trị văn hóa mới. Vì vậy khi tìm hiểu, nghiên cứu văn học không thể tách rời các biểu hiện văn hóa, sự ảnh hưởng chi phối và cả những tác động hai chiều giữa văn hóa và văn học. Tìm hiểu bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa, khóa luận đã góp phần thiết thực nghiên cứu, khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và văn học. Trên tinh thần đó, khóa luận đã khai thác những dấu ấn Huế từ địa – văn hóa, kì vọng thấu hiểu cả những trầm tích mà “dòng sông hình như không muốn bộc lộ”. Cũng qua nghiên cứu đề tài này, tác giả khóa luận đã góp phần khẳng định tài năng nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường - một gương mặt xuất sắc của nền văn học Việt Nam đương đại. Những đóng góp của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đặc biệt là những đóng góp ở thể bút kí đã làm giàu có cho thể loại kí Việt Nam, làm thay đổi cách quan niệm về thể loại kí. Bằng một ngôn ngữ văn xuôi đầy chất thơ, một giọng điệu thấm đẫm chất trữ tình, bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?của Hoàng Phủ Ngọc Tường giống như một bài thơ đẹp và sẽ còn làm mê đắm nhiều thế hệ độc giả, sẽ tiếp tục là đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình khoa học. Khóa luận chỉ mới bắt đầu đi vào tìm hiểu, nghiên cứu bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc độ nhìn văn hóa, vì vậy sẽ còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ và cần thiết có sự kiến giải sâu sắc hơn đúng tầm của thiên bút kí đẹp này. 43
  50. TƯ LIỆU THAM KHẢO 1. Lại Nguyên Ân (1992), 150 thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội. 2. Thùy Dung, Huế qua miền di sản, Nhà xuất bản Thuận Hóa. 3. Bùi Minh Đức (2007), Hình tượng sông Hương trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạp chí Dạy và học ngày nay. 4. Bùi Minh Đức (2010), “Dấu tích văn hóa Huế”, Nhà xuất bản Thuận Hóa. 5. Lê Thị Hường (2008), Chuyên đề dạy – học Ngữ văn 12, Nhà xuất bản Giáo dục 6. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (1997), Từ điển thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia, Hà Nội. 7. Hồ Chí Minh Toàn tập, (1995), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội 8. Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên (1992), Tác giả văn học Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 9. Trần Thùy Mai (2002), Kí văn hóa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạp chí Sông Hương, số 161. 10. Đặng Nhật Minh (2002), “Hoàng Phủ Ngọc Tường – một tâm hồn Huế”, Tạp chí Sông Hương, số 163, chi/c102/n705/Hoang-Phu-Ngoc-Tuong-mot-tam-hon-Hue.html. 11. Phan Trọng Luận (2012), Ngữ văn 12, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục. 12. Hoàng Phê chủ biên (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng 13. Phạm Phú Phương (1986), Ai đã đặt tên cho dòng sông – nghĩ về chặng đường sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạp chí Sông Hương, số 20.
  51. 14. Trần Đình Sử (1987), “Ai đã đặt tên cho dòng sông – Bút kí sử thi của Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Tạp chí Văn nghệ, số 7. 15. Trần Đình Sử (1996), Lí luận và phê bình văn học, Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội. 16. Huỳnh Ngọc Thu (), Văn hóa là gì?, 8956e0aa5632. 17. Trần Thức tuyển chọn và giới thiệu (2002), Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, tập 2,Nhà xuất bản Thuận Hóa. 18. Trần Quốc Vượng (2005), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục.