Hiện thực và con người trong trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh

pdf 54 trang thiennha21 16/04/2022 7970
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Hiện thực và con người trong trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfhien_thuc_va_con_nguoi_trong_truong_ca_duong_toi_thanh_pho_c.pdf

Nội dung text: Hiện thực và con người trong trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== NGUYỄN THỊ ÁNH CÚC HIỆN THỰC VÀ CON NGƢỜI TRONG TRƢỜNG CA ĐƯỜNG TỚI THÀNH PHỐ CỦA HỮU THỈNH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI, 2018
  2. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== NGUYỄN THỊ ÁNH CÚC HIỆN THỰC VÀ CON NGƢỜI TRONG TRƢỜNG CA ĐƯỜNG TỚI THÀNH PHỐ CỦA HỮU THỈNH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. LA NGUYỆT ANH HÀ NỘI, 2018
  3. LỜI CẢM ƠN Trước hết em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình tới cô giáo TS. La Nguyệt Anh, người đã hướng dẫn tận tình và luôn động viên em. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam, khoa Ngữ Văn đã tạo điều kiện và đóng góp ý khiến để em hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp. Do thời gian không cho phép nên đề tài khóa luận của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn để đề tài em được hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018 Sinh viên Nguyễn Thị Ánh Cúc
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn tận tình của cô giáo TS. La Nguyệt Anh. Khóa luận chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác, nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018 Sinh viên Nguyễn Thị Ánh Cúc
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 1 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 5. Phương pháp nghiên cứu 4 6. Đóng góp của khóa luận 4 7. Cấu trúc khóa luận 4 NỘI DUNG 5 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRƯỜNG CA VÀ TRƯỜNG CA HỮU THỈNH 5 1.1. Những vấn đề lí luận về trường ca 5 1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của thể loại trường ca 5 1.1.2. Trường ca hiện đại Việt Nam trong tiến trình văn học dân tộc 10 1.2. Cuộc đời và quá trình sáng tác của nhà thơ Hữu Thỉnh 11 1.2.1. Cuộc đời Hữu Thỉnh 11 1.2.2. Quá trình sáng tác và phong cách sáng tác của Hữu Thỉnh 12 Chương 2. HIỆN THỰC CUỘC SỐNG TRONG TRƯỜNG CA ĐƯỜNG TỚI THÀNH PHỐ CỦA HỮU THỈNH 17 2.1. Hiện thực chiến trường 17 2.1.1. Sự khốc liệt nơi chiến hào 17 2.1.2. Sự gian khổ, hi sinh 19 2.2. Hiện thực cuộc sống đời thường 23 2.2.1. Đời sống cộng đồng 23 2.2.2. Đời sống cá nhân 26
  6. Chương 3. CON NGƯỜI TRONG TRƯỜNG CA ĐƯỜNG TỚI THÀNH PHỐ CỦA HỮU THỈNH 30 3.1. Người lính 30 3.1.1. Người lính nơi chiến trường 30 3.1.2. Người lính trong cuộc sống đời thường 34 3.2. Người phụ nữ 35 3.2.1. Người phụ nữ trong chiến tranh 35 3.2.2. Người phụ nữ trong cuộc sống đời thường 40 KẾT LUẬN 45 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  7. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông sáng tác nhiều thể loại nhưng thành công nhất là thể loại trường ca. Trong quá trình sáng tác hơn 30 năm Hữu Thỉnh có nhiều đóng góp đáng kể cho nền thơ ca dân tộc. Với 5 tập thơ và 3 trường ca trong đó tiêu biểu trường ca Đường tới thành phố, Hữu Thỉnh đã khẳng định vị thế của mình trong văn học nước nhà. Hữu Thỉnh là một trong số ít nhà thơ viết về trường ca và đạt được nhiều thành công nhất định. Nguồn cảm hứng từ truyền thống dân tộc và thời đại anh hùng cùng với vốn sống thực tế nơi chiến trường đã tạo tiền đề cho thể loại trường ca phát triển. Trường ca của ông được ghi nhận là một trong những gương mặt tiêu biểu và đóng góp một tiếng nói quan trọng trong thể loại trường ca kháng chiến nói chung và thơ kháng chiến chống Mỹ nói riêng. Trường ca của ông có sức chứa nhiều vấn đề có khả năng khát quát được hiện thực và con người của thời đại lúc bấy giờ. Qua thời gian, và sự mến yêu của độc giả trường ca Hữu Thỉnh vẫn được bạn đọc đón đợi và mong muốn chiếm lĩnh và khám phá. Lựa chọn vấn đề: “Hiện thực và con ngƣời trong trƣờng ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh”, chúng tôi hi vọng sẽ có đóng góp thiết thực vào tìm hiểu thơ Hữu Thỉnh nói chung và trường ca Đường tới thành phố nói riêng. 2. Lịch sử vấn đề Ngay từ khi xuất hiện, trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh đã thu hút được sự quan tâm của độc giả và các nhà nghiên cứu. Tác giả Mai Hương khi đọc Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh đã nhận xét: “Đường tới thành phố cũng lại hàm nghĩa một cuộc hành trình - 1
  8. cuộc hành trình của cả dân tộc trên đường tới chiến thắng cuối cùng trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Đây quả là một cuộc hành trình vĩ đại nhưng cực kì gian nan”. Theo tác giả Mai Hương sức thuyết phục trong ngòi bút của Hữu Thỉnh chính là ở sự chân thực: “Song ngòi bút của Hữu Thỉnh thật tỉnh táo, khỏe khoắn, không một chút cường điệu, dễ dãi khi viết về bước đường gian nan ấy” [22]. Trong bài viết Hữu Thỉnh trên đường tới thành phố, đăng trên báo Văn nghệ Quân đội (số 3 - 1980), nhà phê bình Thiếu Mai cho rằng “chỗ mạnh” của Hữu Thỉnh chính là phương diện cảm xúc: “Cảm xúc dạt dào, phong phú và mạnh mẽ là chỗ mạnh của Hữu Thỉnh trong lòng cuộc chiến đấu chống Mĩ vĩ đại của nhân dân, Hữu Thỉnh thường nghĩ đến vấn đề lớn lao của đất nước, của thời đại. Anh khao khát thơ của mình phản ánh và lí giải được những điều đó Thành công chủ yếu nhất của Hữu Thỉnh cũng chính là thể hiện vừa sâu vừa tinh, vừa khái quát, vừa tỉ mỉ chi li những tình cảm những suy ngẫn của người chiến sĩ trong cuộc chiến đấu chống Mĩ”[23]. Nhà thơ Thế Hanh nhận ra chất hiện thực Từ những người đi tới biển tới Đường tới thành phố. Tế Hanh cho rằng đó là “Thơ từ cuộc đời chiến đấu mà ra là máu thịt chứ không phải giấy mực”[21]. Lưu Khánh Thơ khi đánh giá về Hữu Thỉnh đã khẳng định đó là một phong cách thơ sáng tạo bởi: “Đường tới thành phố đã hội tụ và kết tinh những điểm mạnh của ngòi bút Hữu Thỉnh, anh đã dồn vào trong trường ca này những tình cảm lớn lao, những câu thơ tài hoa xúc động nhất”[24]. Trong bài viết “Hữu Thỉnh với thể loại trường ca”. Tác giả Hoàng Điệp đã khẳng định những đóng góp của Hữu Thỉnh qua thể loại trường ca nói chung nhất là trường ca Đường tới thành phố: “Hữu Thỉnh là một trong những người có đóng góp nhiều và chiếm vị trí quan trọng với thể loại trường ca”. 2
  9. Nhiều tác giả đã khẳng định thể loại trường ca của Hữu Thỉnh chính là đánh dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Khi đề cập đến Hữu Thỉnh với tư cách là một tác giả có phong cách nghệ thuật riêng và độc đáo, bằng cái nhìn tin tưởng, tác giả Mai Hương đã nhận xét: “Đây quả là một cuộc hành trình vĩ đại nhưng cực kì gian nan. Song ngòi bút của Hữu Thỉnh thật tỉnh táo, khỏe khoắn, không một chút cường điệu, dễ dãi khi viết về bước đường gian nan ấy. Người chiến sĩ là hình ảnh trung tâm và xuyên suốt của trường ca. Sự từng trải của người viết đã giúp anh nhận chân dung người chiến sĩ chân thực và sống. Những trang viết của Hữu Thỉnh do đó có sức chinh phục”[22]. Để tiếp tục những công trình nghiên cứu, tôi xin được nghiên cứu và tìm hiểu về “Hiện thực và con người trong trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh” để có cái nhìn tổng quát về phương diện nội dung của Hữu Thỉnh. Cùng với đó tôi cũng muốn đóng góp những ý kiến, quan điểm riêng của mình cùng với các bài viết, các bài nghiên cứu để khẳng định sự nghiệp thơ ca của Hữu Thỉnh trong thi đàn văn học Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Đề tài khóa luận nghiên cứu yếu tố “Hiện thực và con người trong trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh” nhằm bám sát hiện thực cuộc sống và con người qua những năm kháng chiến chống Mĩ qua đó phản ánh tinh thần đoàn kết chiến đấu của toàn dân tộc vì sự nghiệp giải phóng dân tộc nước nhà. 3.2. Nhiệm vụ Dựa vào cơ sở lí thuyết nội dung học về hiện thực và con người trong trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh để tìm hiểu những phương diện sáng tạo tinh tế và vai trò của yếu tố hiện thực và con người trong trường ca Hữu Thỉnh nói chung và trường ca Đường tới thành phố nói riêng. 3
  10. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng Trong khóa luận này, chúng tôi tập trung nghiên cứu sâu về nội dung của trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh. Đặc biệt, chúng tôi tập trung tìm hiểu về hiện thực cuộc sống và con người trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khóa luận này, chúng tôi nghiên cứu tác phẩm trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh đã được xuất bản. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Khi thực hiện đề tài khóa luận này, chúng tôi phối hợp sử dụng các phương pháp sau: Phương pháp hệ thống. Phương pháp phân tích. Phương pháp so sánh, đối chiếu. Phương pháp tổng hợp. 6. Đóng góp của khóa luận Với đề tài khóa luận này, chúng tôi sẽ tìm hiểu những yếu tố về hiện thực và con người trong sáng tác của Hữu Thỉnh đưa ra những quan điểm riêng của mình về thể loại trường ca. Từ đó, hi vọng khóa luận có đóng góp cho thơ ca của Hữu Thỉnh một cách tổng quát nhất. 7. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của khóa luận gồm 3 chương như sau: Chương 1. Những vấn đề chung về trường ca và trường ca Hữu Thỉnh Chƣơng 2. Hiện thực cuộc sống trong trƣờng ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh Chƣơng 3. Hình tƣợng con ngƣời trong trƣờng ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh 4
  11. NỘI DUNG Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRƢỜNG CA VÀ TRƢỜNG CA HỮU THỈNH 1.1. Những vấn đề lí luận về trƣờng ca 1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của thể loại trường ca 1.1.1.1. Khái niệm trường ca Khái niệm trường ca xuất hiện trong văn học phương Tây “trường ca là thuật ngữ văn học dịch từ chữ pòeme của Liên Xô” [20]. Từ những năm 50 của thế kỉ XX trường ca đã bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam, nó có tên gọi khác là sáng tác dân gian có tính chất sử thi và có chiều dài như Đam San, Xinh Nhã Chúng ta có thể gọi trường ca tương đồng với sử thi, anh hùng ca (Iliats, Ôđixê, Ramyana, Mahabharata ). Đồng thời, trường ca còn chỉ các tác phẩm thơ phản ánh những sự kiện lớn trong lịch sử đất nước và nó có dung lượng lớn: Sông núi trên vai của Anh Ngọc (1977), Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh (1979) Để phân biệt ranh giới và sự ra đời một khái niệm thể loại trường ca còn gặp nhiều khó khăn. Các nhà nghiên cứu lí luận phê bình văn học, thậm chí chính các tác giả trường ca nhiều năm qua đã rất chú ý đi tìm một bản chất định nghĩa cũng như những thuộc tính căn bản nhất để phân định trường ca với các loại thơ khác. Theo từ điển thuật ngữ văn học đưa ra khái niệm: “Trường ca là tác phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình. Trường ca cũng được dùng để gọi các tác phẩm sử thi thời cổ và trung đại, khuyết danh hoặc có tác giả” [20]. Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học cho rằng: “Trường ca có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc sườn truyện trữ tình. Chúng được soạn bằng cách xâu chuỗi các bài hát sử thi và truyện kể hoặc bằng một vài truyền thuyết dân gian (Ahoyler) hoặc bằng cách 5
  12. cải biên các cốt truyện cổ xưa trong tiến trình tồn tại của sáng tác dân gian. Trường ca với tư cách một thể loại tổng hợp, trữ tình - tự sự, hoành tráng cho phép kết hợp những chấn động lớn, những cảm xúc trầm sâu và những quan niệm về lịch sử vẫn là một thể loại hiệu năng của thơ ca thế giới” [4]. Khái niệm trường ca có sự khác nhau trong việc xác định ranh giới, nội hàm của thể loại, nhưng chúng ta có thể thấy các nhà phê bình văn học và các tác giả trường ca đều có điểm chung đó là: “Trường ca là những tác phẩm có tầm cỡ, tầm vóc lớn lao cả về hình thức lẫn nội dung. Nó có sức ôm chứa nhiều vấn đề lớn, về nhiều chủ đề tư tưởng, về độ rộng của không gian và độ dài của tời gian. Trường ca có tính tự sự, tính trữ tình, yếu tố suy nghĩ chính luận”. Theo như kết quả của người đi trước đã nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy trường ca của Đào Thị Bình (“Thể trường ca trong văn học Việt Nam từ 1945 đến cuối thế kỉ XX” - LATS, 2008) dường như đã thuyết phục người đọc:“Trường ca thường là các tác phẩm trữ tình có dung lượng lớn hoặc vừa, có khả năng tổng hợp và phát huy những ưu thế nổi trội của cả ba loại hình: trữ tình, tự sự và kịch. Với kiểu kết cấu và phát triển theo hướng đan xen nhiều kiểu kết cấu hoặc kết cấu phức hợp, trường ca có thể bao quát và miêu tả những mảng hiện thực lớn ở cả bề rộng lẫn chiều sâu. Ngôn ngữ, giọng điệu phong phú, đa dạng, giàu chất trí tuệ, vừa mang âm hưởng hào hùng của sử thi vừa thấm đẫm hơi thở của cuộc sống”[7]. 1.1.1.2. Đặc trưng thể loại của trường ca Việt Nam hiện đại 1.1.1.2.1. Về nội dung: Đầu tiên, đặc trưng thể loại trường ca về phương diện nội dung mà truờng ca Việt Nam hiện đại đề cập đến là hiện thực chiến tranh khốc liệt và người lính anh dũng, hi sinh quyết tâm bảo vệ tổ quốc. Chiến tranh đã hủy hoại biết bao ước mơ của con người để lại những mất mát không hề nhỏ đối với dân tộc Việt. Văn học là tấm gương phản chiếu hiện thực cuộc sống, là 6
  13. nơi tái diễn một cách chân thực nhất, tâm thức ấy. Trong trường ca hiện đại Việt Nam, chiến tranh luôn là đề tài chính, là mấu chốt cho những trải nghiệm được tự sự. Trường ca hiện đại tái hiện cuộc đấu tranh của dân tộc ta đối với kẻ xâm lược để dành độc lập tự do cho nhân dân theo lí tưởng cách mạng và cảm hứng chủ đạo yêu nước và chủ nghĩa anh hùng. Ta có thể khẳng định, thơ ca kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trường ca hiện đại Việt Nam đều miêu tả người lính bằng những nét vẽ tinh tế rất đỗi bình thường nhưng không chút tầm thường. Đây cũng là đặc trưng của trường ca hiện đại lúc bấy giờ. Những tác giả của trường ca thời chống Mỹ cứu nước đã khắc họa lên hình tượng người lính hiện thực nơi chiến trường đó là :Người lính lạc quan chiến đấu hết lòng vì nước vì dân, biết hy sinh tình cảm riêng tư của chính mình để kiên cường đánh giặc quyết tâm giành thắng lợi vẻ vang cho dân tộc. Trường ca nói về sự đoàn kết toàn dân tộc trong kháng chiến chống Mĩ chứ không riêng một cá nhân nào đó. Đây cũng là sự tự nhận thức của con người đạt đến độ sâu trong thơ ca chống Mĩ. Nội dung quan trọng tiếp theo mà trường ca phản ánh là đất nước và số phận con người. Trong lịch sử văn học, chủ đề về đất nước vẫn luôn là chủ đề lớn nhất của mỗi giai đoạn. Và trường ca hiện đại cũng đã thể hiện rất rõ nội dung ấy. Đất nước trong đời thường và đất nước trong văn học được kết tinh từ tất cả những mảnh ghép cuộc sống. Các tác giả trường ca chống kẻ thù xâm lược - Mỹ từ sự thôi thúc của trái tim mình đều dồn mọi tâm lực cho sự miêu tả, ngợi ca và dựng nên hình tượng đất nước: “Dân tộc tôi khi đứng dậy làm người Mồ hôi vã một trời sao trên đất” (Những người đi tới biển- Thanh Thảo) Dân tộc ta có truyền thống yêu nước đã tạo nên những anh hùng, tạo nên sức mạnh tiềm tàng mà quật cường để dân tộc có thể chiến thắng giặc ngoại 7
  14. xâm. Đó là đất nước của những người con gái, con trai chưa bao giờ biết sống lùi bước: “Đất nước của những người con gái, con trai Đẹp như hoa hồng cứng hơn sắt thép” (Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi- Nam Hà) Gắn với đất nước là số phận con người. Dường như, trường ca hiện đại xoáy sâu vào mối tương quan với hoàn cảnh, thời gian và không gian tồn tại và số phận của con người. Trước 1975 trường ca chủ yếu đề cập đến những con người mang tính tập thể, sống bằng lí tưởng mà ít đời sống nội tâm. Song một điểm nhấn trong trường ca hiện đại sau 1975 là đã đề cập đến những số phận riêng mà những số phận ấy chịu ảnh hưởng chiến tranh. Các số phận con người đời tư nhiều đau khổ, trái ngang đã được các trường ca sau 1975 đề cập đến như đã tố cáo tội ác của kẻ xâm lược. Biết bao người đã không tìm được hạnh phúc vì chiến tranh, để sự nuối tiếc khổ đau cho cả cuộc đời: “Chết - hy sinh cho tổ quốc - Hùng ơi Máu thấm cỏ, lời ca bay vào đất Hy sinh lớn cũng là hạnh phúc Một cây xuân thành biển khắc tên Hùng” (Nấm mộ và cây trầm - Nguyễn Đức Mậu) Và nỗi lòng se sắt một người mẹ trong trường ca Đất nước hình tia chớp của Trần Mạnh Hảo: “Mỗi bận chiến trường tin báo tử Mẹ lại hoài thai bằng nỗi đau dài” (Đất nước hình tia chớp - Trần Mạnh Hảo) Con người đã gánh chịu tổn thất rất lớn của chiến tranh nhưng đồng thời trong mưa bom bão đạn đó con người cũng đã thể hiện sức mạnh kì diệu. Họ 8
  15. không chỉ vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt đau thương của đất nước mà còn chiến thắng chính cá nhân mình, chiến thắng số phận nhiều lúc không tránh khỏi hẩm hiu. Song, dù phải chịu những mất mát lớn lao, con người vẫn chịu đựng vì sự vĩnh hằng của Tổ quốc. 1.1.1.2.2. Về hình thức Về phương diện thi pháp thể loại, các tác phẩm trường ca hiện đại có yếu tố tự sự trong kết cấu tác phẩm đó là quá trình thơ trữ tình mở rộng với chức năng xã hội - thẩm mĩ. Những năm đầu cuộc kháng chiến chống Mĩ, mô hình quen thuộc là có cốt truyện cho các nhà thơ khi đến thể loại trường ca. Có thể kể tên các tác phẩm như: Bài ca chim chơ rao (Thu Bồn); Theo chân bác của (Tố Hữu); Con đường của những vì sao (Nguyễn Trọng Tạo) yếu tố tự sự, nhân vật đồng thời có cả tính lịch tính trong các trường ca. Cuối những năm kháng chiến chống Mĩ, vào những năm tháng tiếp theo, trường ca phát triển mạnh mẽ và không còn yếu tố tự sự là chính. Trường ca giai đoạn này rất đa dạng và phong phú về các yếu tố: tự sự, trữ tình và chính luận. “Các trường ca dạng này thường được chia thành nhiều chương, khúc mà mỗi chương có thể được đặt tên. Mạch liên kết của các chương là mạch triển khi của chủ đề mang tính chính luận trữ tình”. Các trường ca giai đoạn này chúng ta không thể không kể tên trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh; Ngày đang mở sáng của Trần Anh Thái Vào những năm sau 1975, quá trình vân động của thể loại kết cấu trường ca càng lỏng lẻo; kết cấu lấy tư tưởng - cảm xúc trữ tình làm chỗ dựa ngày càng được các nhà thơ vận dụng và phát huy. Vô hình chung các tác giả có những cách sáng tạo riêng của mình để lựa chọn những sự kiện, kết cấu phối hợp đan xen nhiều hình thức khác nhau trong một tác phẩm từ đó đem lại hiệu quả nghệ thuật cao ở mỗi tác phẩm. Sau này các tác giả sử dụng đan xen nhiều kiểu kết cấu, nhiều giọng điệu, 9
  16. nhiều phương thức thể hiện trong một tác phẩm đã tạo nên khối lượng đồ sộ, nội dung hoành tráng cho trường ca, đồng thời đây cũng là đặc trưng của trường ca. Nhờ sự đa dạng phong phú về hình thức kết cấu đã đem lại cho trường ca sự phát triển vượt trội so với kết cấu của các tác phẩm thơ ca khác. 1.1.2. Trường ca hiện đại Việt Nam trong tiến trình văn học dân tộc Trường ca hiện đại Việt Nam có thể chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn đầu từ 1900 cho đến 1945, với tác phẩm trường ca Tiếng địch sông Ô của Phạm Huy Thông trường ca đã xuất hiện trong phong trào thơ Mới (1932 - 1945). Đó là một khúc anh hùng ca về tiếng địch Trương Lương làm xao lòng khách anh hùng. Ở thời kì này trường ca Việt nam đã ảnh hưởng không ít trường ca của Phương Tây. Có những bài ca dài bất hủ hay cả âm nhạc đều lấy đề tài kháng chiến như: Trường ca Người Hà Nội (Nguyễn Đình Thi), Du kích sông Thao (Đỗ Nhuận) Lúc này trường ca ra đời phục vụ nhiệm vụ chính trị nhưng nó cũng tiếp nối nguồn gốc sử thi anh hùng ca cổ điển của các dân tộc Việt như sử thi Mường (Đẻ đất đẻ nước), các truyện thơ Tày - Nùng - Thái (Chàng Lú nàng Ủa) Giai đoạn thứ hai, từ 1945 đến 1975 thời kì kháng chiến chống Mĩ, mấy năm đầu trường ca hiện đại không có mấy tác giả sáng tác đồng thời số lượng tác phẩm không nhiều, sự xác định giữa trường ca với thơ dài cũng chưa rõ ràng. Các tác giả tiêu biểu như: Xuân Diệu với Ngọn Quốc kì, Thu Bồn với Bài ca chim chơ-rao (1963) Giang Nam với Người anh hùng Đồng Tháp (1968) Nhìn chung, các tác phẩm trường ca trên đã cho thấy được một số sự việc tiêu biểu, nhân vật tiêu biểu trong giai đoạn chống giặc ngoại xâm Pháp, Mĩ. Phải chăng, trường ca giai đoạn này chưa có tầm bao quát và chất lượng nghệ thuật chưa cao. Giai đoạn thứ ba, từ sau 1975 đến nay trường ca lúc này đang phát triển mạnh và có những thành tựu đáng kể. Đề tài chính của trường ca giai đoạn 10
  17. này là đề tài chiến tranh với cảm hứng của thời đại và vốn sống phong phú của các tác giả tích lũy những năm tháng nơi chiến trường. Chúng ta không thể không thể kể đến một số trường ca tiêu biểu như: Những người đi tới biển của Thanh Thảo (1976), Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh (1977), Sông núi trên vai của Anh Ngọc (1977), Trường ca Biển của Hữu Thỉnh (1994) Sau chiến tranh những bản trường ca có những bước tiến rõ rệt về cả chất lượng và số lượng. Nhìn chung các bản trường ca là sự trải nghiệm của chính cá nhân sáng tác đã có cái nhìn toàn diện về cuộc chiến tranh. Khi đất nước hòa bình, các tác phẩm trường ca có nội dung phong phú hình thức đa dạng. Khuynh hướng triết lí, với giọng điệu cắt nghĩa, biện giải và xây dựng các biểu tượng mang tính biểu trưng là những đặc điểm của trường ca giai đoạn này. Trường ca Việt Nam hiện đại đã có con đường phát triển riêng và trải qua các giai đoạn mà trường ca tự hoàn thiện và đạt độ hoàn chỉnh của nó cùng với các thể loại khác trong nền văn học dân tộc. 1.2. Cuộc đời và quá trình sáng tác của nhà thơ Hữu Thỉnh 1.2.1. Cuộc đời Hữu Thỉnh Hữu Thỉnh (sinh 15/2/1942), tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, bút danh Vũ Hữu, là một nhà thơ Việt Nam. Là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1976, Hữu Thỉnh hiện là chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (3 nhiệm kỳ liên tiếp) đồng thời kiêm nhiệm Tổng biên tập Báo Văn Nghệ. Ông sinh ra tại và lớn lên trong một gia đình có truyền thống Nho học, tuổi thơ ấu ông đã trải qua không ít những khó khăn: 6 năm với bác ruột, 10 tuổi phải đi phu, làm đủ mọi thứ lao dịch cho các đồn binh Pháp. Năm 1954, hòa bình lập lại ông mới được đến trường. Năm 1963 ông tốt nghiệp phổ thông và nhập ngũ, trở thành một người lính thuộc Trung đoàn 202. Từ đây Hữu Thỉnh đã tham gia một số hoạt động 11
  18. như học lái xe tăng, làm cán bộ tiểu đội, dạy bổ túc văn hoá, viết báo và làm cán bộ tuyên huấn. Ông tham gia chiến đấu tại miền Bắc, đã trải qua hầu khắp các chiến trường máu lửa như Đường 9 Sau 1975, Hữu Thỉnh học trường Viết văn Nguyễn Du và là một trong số những học sinh khóa đầu tiên của trường. Từ 1982, ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ cán bộ biên tập, Trưởng ban Thơ, Phó Tổng Biên tập của Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Từ 1990 đến nay, Hữu Thỉnh chuyển sang công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam, trở thành Tổng Biên tập Tuần báo Văn nghệ, tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn các khoá 3, 4, 5, Ủy viên Ban Thư ký khoá 3. Hữu Thỉnh đã lần lượt đảm nhiệm chức trách cao Phó Tổng Thư ký Thường trực Hội Nhà văn Việt Nam (nay là chức Phó Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam). Từ năm 2000, Hữu Thỉnh là Tổng Thứ ký Hội Nhà văn Việt Nam. Tháng 5 năm 2016, ông được trung ương giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc Hội Việt Nam khóa XIV (2016-2021) ở đơn vị bầu cử số 3 thành phố Hà Nội gồm các quận Hà Đông, Thanh Xuân và Cầu Giấy nhưng không trúng cử. 1.2.2. Quá trình sáng tác và phong cách sáng tác của Hữu Thỉnh 1.2.2.1. Quá trình sáng tác của Hữu Thỉnh Ông là nhà thơ viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ, đề tài chủ yếu của ông đề tài chiến tranh, người lính và cuộc sống thôn quê. Sáng tác của ông chia làm hai giai đoạn : a, Giai đoạn trước 1975 Thơ của ông gieo trong lòng người đọc, một tiếng thơ trong sáng và độc đáo. Có được đóng góp đó Hữu Thỉnh tìm cho bản thân phong cách riêng không nhà thơ nào có được. Ở giai đoạn này ông đã khai thác và tiếp cận hiện thực theo tình cảm của chính mình. Thơ ông nghiêng về những suy tư và triết 12
  19. lí, không những thế Hữu Thỉnh còn có cái nhìn chiêm nghiệm về cuộc đời. Phải chăng, sự từng trải của cuộc đấu gian khổ mà ông đã từng trải nên những trang thơ của ông là sự thăng hoa của kinh nghiệm sống là tiếng ngân vang của một thời bom đạn. Với hình tượng người lính ông đã ghi nhận và cho ta thấy được cái hiện thực khốc liệt nơi chiến trường bằng những vần thơ giàu nhiệt huyết và trẻ trung. Các tác phẩm trong giai đoạn này : Tiếng hát trong rừng (1974) Sau trận đánh (1972) Đêm chuẩn bị (1974) Tắm mưa (1969) Giấc ngủ trên đường ra trận (1965) b, Giai đoạn sau 1975 Thời kì sau chiến tranh, Hữu Thỉnh viết dưới lăng kính chủ quan của con người ông đi qua những năm tháng nơi chiến trường khốc liệt và ông có cái nhìn nhận, hiện thực cuộc chiến một cách toàn diện. Ông đã gửi gắm vào những trang thơ đầy suy tư và trăn trở về số phận con người đầy giông tố của cuộc đời. Như vậy, Hữu Thỉnh tìm được tiếng nói riêng của mình trên văn đàn văn học nước nhà. Các tác phẩm trong giai đoạn này: Sang thu (thơ 1977) Âm vang chiến hào (thơ, in chung 1975); Đường tới thành phố (trường ca, 1979); Từ chiến hào đến thành phố (trường ca, thơ ngắn, 1985); Khi bé Hoa ra đời (thơ thiếu nhi, in chung, 1985); Thư mùa đông (thơ, 1994) Trường ca biển (trường ca, 1994) Thơ Hữu Thỉnh (thơ tuyển, 1998) Sức bền của đất (trường ca, 2004) 13
  20. Thương lượng với thời gian.(thơ, 2005) Mùa xuân trên tháp pháo(bút kí, truyện ngắn, 2009) Lí do của hi vọng (tiểu luận, phê bình, 2010) Ngoài ra Hữu Thỉnh còn viết nhiều bút kí văn học, viết báo. Nhìn vào chặng đường sáng tác của Hữu Thỉnh, điều dễ dàng chúng tôi nhận ra ở ông là sức sáng tạo bền bỉ không mệt mỏi. Điều đáng khâm phục, kính lể, của tác giả đối với nhà thơ Hữu Thỉnh là ông đạt được nhiểu giải thưởng cao trong nền văn học nước nhà. 1.2.2.2. Phong cách thơ của Hữu Thỉnh. Mỗi người cầm bút đều có những phong cách sáng tác riêng tạo ra những nét độc đáo mà không có nhà thơ nào có được. Hữu Thỉnh cho rằng làm thơ trước hết là ghi chép những gì đang xảy ra trong cuộc đời mình “chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình”. Trên đường hành quân đầy gian nan, thử thách người chiến sĩ - nhà thơ Hữu Thỉnh đã không quên ghi lại những giây phút, “những khoảnh khắc một đi không trở lại” nơi chiến trường khốc liệt. Ông cho rằng: “chiến tranh là một hiện tượng xã hội đột xuất, ở đó lịch sử chảy xiết hơn. Phản ánh cuộc chiến tranh đó vừa là trách nhiệm vừa là say mê của chúng tôi. Chiến tranh ra bài thi nhập môn cũng là nơi thử sức lâu dài của mỗi người. Sự gắn bó tự thân với cuộc chiến đấu sống hết mình trong thử thách hi sinh là cử chỉ đầu tiên của một người cầm bút trung thực. Thơ ca của thế hệ chống Mĩ là tiếng nói sống động và tự tin của những người trong cuộc. Người ta bắt gặp rất nhiều trường hợp nhân danh, nhưng mọi sự nhân danh đều là sự cảm thông của người đọc vì nó đảm bảo bằng chỗ đứng của người viết. Thơ ở đây được đảm bảo bằng máu” [16]. Dường như, những vần thơ, trang thơ của Hữu Thỉnh là trang nhật kí vừa đầy đủ, vừa chân thực hơn của chính người chiến sĩ khỏe khắn, hiên ngang trực tiếp cầm súng ra chiến trường đồng thời cầm bút ghi lại những khoảnh khắc diễn ra trong cuộc đời mình ở thời điểm rất đặc biệt ấy: 14
  21. “Gạo chỉ đem mười ngày còn dành mang súng Còn mang thuốc Còn mang nhau Mang bao nhiêu tai biến dọc đường Mỗi quyển sách nặng bằng năm viên đạn Chúng tôi dành mang đạn trước tiên Không có sách chúng tôi làm ra sách Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình.” (Đường tới thành phố) Qua thơ ca của Vũ Hữu, cuộc sống ở chiến trường đã hiện lên với dáng vẻ sinh động và chân thật nhất. Không phải nhà thơ là người đứng ngoài tưởng tượng ra chiến tranh mà thực sự tác giả đang đứng chiến đấu ở giữa chiến trường. Hiện thực cuộc sống kháng chiến đã nuôi dưỡng tâm hồn thơ của Hữu Thỉnh để cho ra đời những hình ảnh thơ trong sáng, phong phú, mang đậm tính dân tộc. Thơ ca sẽ là đôi cánh giúp cho người lính quên đi những nghiệt ngã trước mắt, hướng đến ngày mai tương sáng hơn. Là nhà thơ cầm súng Hữu Thỉnh đã thấm thía câu thơ đó một phần nào đó, nhất là thơ ca kháng chiến. Phải chăng, thơ ca cũng là món ăn tinh thần của mỗi chúng ta, là “ngọn lửa sưởi ấm trái tim mình”, “Thơ là bữa tiệc của tâm hồn” .Hiện thực chiến trường thật là khốc liệt người lính sẽ gục ngã trước hiện thực nếu không có “tiếng hát át tiếng bom”, và dù không có tiếng hát thì thơ chính là nơi chiến sĩ trẻ gửi gắm một niềm tin, một tâm sự hay đôi khi chỉ là một cảm xúc rất đỗi bình thường nhưng cũng rất tinh tế: “Chúng tôi sưởi những câu thơ ấy Cứ thế đi qua nhiều mùa mưa”. (Đường tới thành phố). 15
  22. Không chỉ vậy, Hữu Thỉnh còn cho rằng thơ là sự “nhập cuộc, dấn thân” “chắt lọc kinh nghiệm”. Điều đó, bạn đọc dễ dàng nhận thấy thơ ông “ngồn ngộn cuộc sống”. Làm thơ chính là cách tốt nhất để tác giả Hữu Thỉnh “ghi lại” khoảnh khắc, âm thanh, sắc màu đa dạng của cuộc sống giản dị đời thường. Đó cũng làm nên phong cách thơ Hữu Thỉnh. Thơ ông ảnh hưởng của văn học dân gian đã giúp thơ ông có nét gần gũi độc đáo so với các nhà thơ cùng trang lứa. Đối với ông cội nguồn là truyền thống, luôn là nơi ông tìm về, là nguồn sống tạo nên bản sắc thơ ca của ông. Tìm cái lớn lao trong cái nhỏ bé tầm thường, mộc mạc đơn sơ trong cái kì diệu Đây cũng nét riêng nổi bật chỉ có Hữu Thỉnh mới có đồng thời cũng là phong cách sáng tác thơ ca của ông. 16
  23. Chƣơng 2. HIỆN THỰC CUỘC SỐNG TRONG TRƢỜNG CA ĐƯỜNG TỚI THÀNH PHỐ CỦA HỮU THỈNH 2.1. Hiện thực chiến trƣờng 2.1.1. Sự khốc liệt nơi chiến hào Trường ca Đường tới thành phố của nhà thơ Hữu Thỉnh được ra đời năm 1977. Tác phẩm tái hiện lại cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, cứu nước của dân tộc ta ở thế kỉ XX. Từ trong chiều sâu tác phẩm, những giá trị nhân văn, triết lí đánh giặc và thắng giặc mang đậm nét truyền thống Việt Nam, phản ánh sức mạnh tổng hợp Việt Nam. Một giai đoạn văn học, một thời đại văn học, một nền văn học có thể sản sinh ra hàng trăm hàng nghìn nhà thơ, nhưng định hình được một giọng điệu riêng, khẳng định được một thi pháp nổi trội, đặc trưng thì không nhiều. Đường tới thành phố in dấu “vân chữ” Hữu Thỉnh, minh triết Hữu Thỉnh. Ông sáng tạo ra một loại thơ tích hợp “vi ngữ và vĩ ngữ”. Gorky nói, cái dằn vặt lớn nhất ở trên đời là dằn vặt về ngôn ngữ. Nhiều câu thơ của Hữu Thỉnh đạt đến độ tinh tế: “ Cứ ngày ngày ra khẩu lệnh cho tôi Dòng Nậm Khìn từ bên Việt chảy sang Thèm vỏ sắn lật mình trôi dưới đáy Đã trở về từng hạt muối ngoài khơi Từng đọt măng trên rừng, từng đám mây lưu lạc” “ Có người chỉ huy từ lứa chúng tôi lên Góp cho đất nước nhiều vầng trán Một buổi sáng chẳng có gì to tát Con ve kêu úp mặt vào cây.” “Anh lớn lên đâu biết trước một ngày 17
  24. Ngồi nhặt sấu dưới vòm cây sốt rét Nắng kí ninh rải rác dọc rừng thưa Thèm trăm thứ nhưng đồng bằng thèm nhất.” (Đường tới thành phố) Ngôn ngữ ấy là ngôn ngữ được ông tích hợp rồi chắt lọc ra từ trải nghiệm văn hoá, lịch sử, bản thân, đồng đội, dân tộc, xương máu, tình yêu, hạnh phúc. Người viết thả lỏng bút pháp. Người đọc bị cái tinh tế của ngôn ngữ dẫn đi, bị cái nhuần nhuyễn của ngôn ngữ mê dụ. Tác phẩm Đường tới thành phố của ông hiện lên rõ những người lính chiến đấu anh dũng, giành lại từng gang đất trong tay kẻ xâm lược. Bởi chúng ta có tinh thần yêu nước nồng nàn từ ngàn năm để lại thế nên một dân tộc nhỏ bé, thua kém về mọi mặt: kinh tế, trình độ khoa học kĩ thuật. Nhưng chúng ta vẫn đánh thắng được một kẻ hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ - Đế quốc Mĩ. Chẳng phải ngẫu nhiên Hữu Thỉnh viết cuộc chiến tranh -giai đoạn cuối “thần tốc”. Trong những thời khắc quan trọng ấy, tinh thần cao độ, sức mạnh Việt Nam được tác giả khắc họa rõ nhất trong trường ca của mình. Hiện thực mà tác giả khắc họa ở chiến trường chính là con đường mà những người lính phải hành quân - nó trở thành biểu tượng trong tác phẩm trường ca. Con đường đi vào văn chương không chỉ ý nghĩa là con đường tự nhiên - lối đi được tạo ra để nối liền với các địa điểm. Với thơ cách mạng đó là cuộc hành trình gian khổ của người lính, dân tộc là con đường về nhà đồng thời cũng là con đường đến với cách mạng. Dường như hình ảnh con đường được tác giả nhắc nhiều nhất trong tác phẩm. Dĩ nhiên, nó có cơ sở hiện thực. Bởi trong chiến tranh, con đường gắn với cuộc hành quân, gắn với đường ra mặt trận nối liền giữa tiền tuyến và hậu phương Như vậy, con đường chính là nơi gặp gỡ ghi lại những gian khổ thấm bao nhiêu nước mắt và máu của đồng đội. Nếu trường ca Nguyễn Đức Mậu là hình ảnh con đường gắn với dấu chân: “Dấu chân đi đủ khép một vòng đời” đó là hành trình gian khổ thử 18
  25. thách của người lính, hành trình hiện thực nhất từ chiến trường này sang chiến trường khác bằng những đôi chân, những trận sốt rét đói khổ. Thì trong trường ca của Hữu Thỉnh hình ảnh con đường chạm nét hiện thực, chân thực nhất. Trong chiến tranh con đường Trường Sơn là con đường huyết mạch của cuộc chiến đấu dân tộc, con đường đó phải gánh chịu không biết bao nhiêu mưa bom bão đạn của kẻ thù. Con đường ấy đã đi vào trong thơ ca kháng chiến của các nhà thơ giai đoạn đó. Đối với Hữu Thỉnh hình ảnh đó không nằm ngoài thơ của ông mà nó hiện ra một cách chân thực nhất với bao nhiêu gập ghềnh khúc khủy, ngổn ngang mùi bốc cháy bởi bom đạn của kẻ thù: “Đường ngổn ngang đường đất còn khét cháy” (Tiếng hát trong rừng). Chúng ta có thể bắt gặp hình ảnh con đường 30/4 và con đường mang tên Bác - Đường Hồ Chí Minh trong trường ca Đường tới thành phố. Những con đường đi vào trang sử của dân tộc, đó là mốc con, bước ngoặt đánh dấu vững vàng của dân tộc. Song, thiêng liêng và cao cả hơn trong trường ca nói riêng và trong văn học nói chung hình ảnh con đường là con đường cứu nước, con đường tìm lí tưởng cách mạng, con đường cao cả mà dân tộc ta đã lựa chọn. 2.1.2. Sự gian khổ, hi sinh Hữu Thỉnh là một nhà thơ nhạy bén và sắc sảo với súng đạn, khói lửa của chiến tranh. Ông đã kịp ghi lại những gì cần cho thế hệ mai sau. Những bản trường ca của ông như hành khúc của đoàn quân Nam Tiến một thời. Ông có Đường tới thành phố với rầm rập những binh đoàn ra chiến trận người lính, những người mẹ, người vợ đó là nhân dân. Để rồi còn lại gì khi ta đúc rút một giá trị khi cảm nhận thể loại trường ca của Hữu Thỉnh. Đọc trường ca Hữu Thỉnh, ta thấy được một thế giới những hình ảnh rất thực. Đó là hình ảnh thật của chiến tranh nơi chiến trường khốc liệt, là hình ảnh nhân dân ta với những sự hi sinh đầy gian khổ nhưng cũng hết sức anh dũng. Hiện thực của sự mất mát, hi sinh đó là gì? Đó là sự hi sinh gian khổ gian khổ tột cùng mà người trong cuộc mới hiểu được hết: 19
  26. “ Đường chúng tôi ra trận lại dài thêm Có chiến đài bốn bin, có đôi dài cao cổ Mỗi tuổi quân chịu sáu tháng mưa rừng.” (Đường tới thành phố) Người chiến sĩ đã trải biết bao cuộc hành quân trên rừng núi: “Mưa trơn quá chân tuột ra khỏi dép” và còn biết bao nỗi đau theo họ suốt cuộc đời “hai vết thương vì rừng, ba vết thương vì pháo” cùng những cơn sốt rét rừng đeo đuổi: “Mưa tối mặt áo quần dán chặt Trận rét rừng xoắn tím cả làn môi.” (Đường tới thành phố) Nếu như trong thơ Chính Hữu, người lính hiện lên với bao nhiêu vất vả khó khăn thiếu thốn “Áo anh rách vai/ Quần tôi có vài mảnh vá” thì người lính trong thơ Hữu Thỉnh được phác họa trong tận sốt rét rừng “xoắn cả làn môi”. Những cung đường hành quân các anh chiến sĩ phải đội cả trận mưa rừng mà đi không những thế mà vượt qua những địa hình nguy hiểm, khó khăn trèo đèo, lội suối. Có biết bao nhiêu người lính phải bỏ lại thân mình sau những cuộc hành quân. Đồng thời những người lính phải đối diện trận mưa bom, bão đạn của kẻ thù mà phải gồng mình chịu đau thương: “Xạ thủ trung liên Nốt ruồi đen chìm xuống Lưỡng quyền cao khói sáng cao lên Sau loạt bom vùi Anh gặp toàn lính mới.” (Đường tới thành phố) Câu thơ đem đến cho người đọc một cảm giác ớn lạnh và gai người. Mọi người hãy tưởng tượng xem, sau một trận chiến đồng đội đều hi sinh, chỉ còn 20
  27. riêng mình ta. Đây là sự hi sinh, mất mát quá lớn không gì có thể bù đắp được. Những giây phút ấy càng tang thương, đau thương bấy nhiêu thì tình đồng chí, đồng đội càng gắn bó bấy nhiêu. Dù gian khổ, hi sinh nhưng các thế hệ vẫn luôn sẵn sàng ra trận bảo vệ hòa bình của đất nước. Chính những khó khăn ấy đã hun đúc tinh thần ý chí nghị lực, với sức mạnh phi thường, chất thép trong con người của các chiến sĩ đã chiến thắng kẻ thù cho dù chúng mạnh đến nhường nào. Sự hy sinh cao cả của người chiến sĩ lái xe tăng, với hình ảnh “nắm cơm cháy” trong trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh: “Đen chỉ còn một nửa Có dấu tay in lõm vào trong Ngón tay bè của đồng chí lá Các anh ăn nửa bữa trong ngày Phần để dành Làm ta day dứt mãi.” (Đường tới thành phố) Đây là một chi tiết đặc sắc giàu tình cảm và có sức lay động lớn đối với độc giả. Câu thơ chan chứa biết bao tình cảm nó như lời ăn tiếng nói hằng ngày, đầy tâm sự mỗi khi đọc lên, chúng ta lại không khỏi trăn trở về những niềm trắc ẩn. Kẻ thù không thể làm ta mềm yếu hay gục ngã, mà chúng chỉ có thể làm ta già đi, đanh thép hơn, ngay trong nụ cười cũng chứa đựng bao nhiêu dũng khí chiến đấu, bao nhiêu khát vọng tự do. Đâu chỉ những khó khăn, mất mát hi sinh nơi mưa bom bão đạn chúng ta nhớ đến 10 cô gái ngã ba Đồng Lộc. Những đau thương đó, những xót xa đó đã được chất chứa trong tiếng thơ nghẹn ngào của nhà thơ Yến Thanh: 21
  28. “Tiểu đội đã về xếp một hàng ngang Cúc ơi! Em ở đâu không về tập hợp Chín bạn đã quây quần đủ hết Nhỏ, Xuân, Hà, Hường, Hợi, Rạng, Xuân, Xanh A trưởng Võ Thị Tần đã điểm danh Chỉ thiếu mình em Chín bỏ làm mười răng được Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng Cúc ơi! Em ở đâu? Gọi em, Gào em Khản cổ cả rồi Cúc ơi!” (Cúc ơi) Các chị đã vĩnh viễn nằm xuống, song tên tuổi của 10 cô gái luôn gắn liền với ngã ba huyết mạch Bắc - Nam và trở thành bất tử trong lòng dân tộc. Khi nói đến hiện thực của chiến tranh, chúng ta không thể không nói đến hình ảnh tội ác của kẻ thù - hình ảnh được coi là đối cực với nhân dân, với chính nghĩa. Khung cảnh của núi rừng Trường Sơn đã gian khổ, đã ác liệt, kẻ thù còn ác liệt tàn bạo hơn gấp bội lần. Và đây là sự đối đầu nguy hiểm nhất đối với các chiến sĩ của ta. Với kẻ thù, Hữu Thỉnh đã nói lên bản chất độc ác, tàn bạo và khét tiếng của chúng. Vì đó là sự thật mà nhân dân ta, tổ quốc ta đã phải chịu đựng: “Vết dầu loang đến “tằm ăn rỗi” Lại thám báo dò đường, B52 dọn bãi Lại dọn đường, dọn bãi tới lui 22
  29. Đất vụn nát trong bữa tiệc quay cuồng của thép Máy ủi hết ngọt ngào trên mỗi trái tim Ủi rồi lấp Bằng chính đất mà chúng tôi vừa chiếm được” (Đường tới thành phố) Như vậy, chúng ta thấy được Hữu Thỉnh cũng như nhiều nhà thơ khác cùng thời khi viết về trường ca không hè né tránh sự thực: Hữu Thỉnh đã săn đuổi hiện thực đến cùng, dựng lên trước mắt người đọc một bức tranh với đầy đủ các gam màu nơi chiến trường mà nguời lính đã tham gia chiến đấu với bao gian nan, thử thách. Đồng thời nói lên số phận con người đã hi sinh nơi chiến trường được Hữu Thỉnh đã tái hiện một cách đa chiều và rất sâu sắc. Những khó khăn thiếu thốn về vật chất cũng như tinh thần, đặc biệt là những mất mát hi sinh, tổn thất trên chiến trường nhưng con người vẫn đầy quyết tâm và nghị lực chiến đấu tất cả đã được Hữu Thỉnh tái hiện một cách chân thực, và đầy đủ trong trường ca Đường tới thành phố. Nó như một thước phim quay chậm để cho thế hệ sau cảm nhận rõ hơn về cuộc chiến tranh thần thánh của người Việt. 2.2. Hiện thực cuộc sống đời thƣờng 2.2.1. Đời sống cộng đồng Chưa trường ca nào trước “Đường tới thành phố” có “sức mạnh tổng hợp chiến tranh nhân dân”, lòng yêu nước nồng nàn, quật khởi, tự giải phóng, được xây dựng, phản ánh sinh động, trung thực, thể hiện sâu sắc, tự nhiên, toàn diện, tràn ngập niềm lạc quan của một cuộc chiến tổng lực như “Đường tới thành phố”: “Giặc đến Người ốm chống giường, chống phản đứng lên Trẻ con vơ tro vơ cát đứng lên 23
  30. Người đang ăn thì cầm lấy đũa Người đi gặt thủ lấy chuôi liềm Không quay mặt, chẳng bao giờ tiếc máu”; (Đường tới thành phố) Tinh thần quyết tâm đánh giặc ấy không chỉ sục sôi ở những lính trực tiếp xông pha trong trận chiến với kẻ thù mà ở trong huyết quản của mọi người con yêu nước Việt Nam: từ người ốm đến trẻ nhỏ đến mọi người dân bình thường khác. Đó là cả một dân tộc đồng lòng quyết chiến với kẻ thù với tất cả những gì mình có, với một tinh thần quả cảm, không ngại hi sinh: “Cửa hầm trông ra sáu bậc cầu ao Những sơ đồ chị gói làm nhân bánh Giặc hành quân: Nhìn khăn mẹ trên đầu”. (Đường tới thành phố) Chính cuộc chiến sáng chói tinh thần đoàn kết dân tộc ấy đã khiến kẻ thù tàn bạo, man rợ, hùng mạnh, điên cuồng bậc nhất thế giới thất bại nhục nhã, cay đắng: “Lá cờ 50 ngôi sao Cuộn thành một tổ sâu Nước Mỹ ra đi với một khuôn mặt héo”. (Đường tới thành phố) Tinh thần đoàn kết dân tộc được biểu dương cao:“thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” (Lời Hồ Chủ Tịch) ngẩng cao đầu chiến thắng: “Cờ bay lộng trên nóc dinh độc lập Những cánh quân sum họp những chân trời”. (Đường tới thành phố) Trong mạch cảm hứng chung hướng về nhân dân vừa gần gũi vừa thiêng liêng khi dân tộc bị đế quốc xâm lược, trường ca của Hữu Thỉnh đã xây dựng 24
  31. hình tượng nhân dân trong hoàn cảnh nguy nan để thấy sức mạnh phi thường và ý chí của cả dân tộc. Với số phận thầm lặng, những con người biết chịu đựng và biết hi sinh đó chính là nhân dân chứ không ai khác: “Suối cứ thế âm thầm nuôi biển lớn Cứ âm thầm chảy xiết với thời gian” (Đường tới thành phố) Hình ảnh “suối” chính là tượng trưng cho sự âm thầm, nhẫn nại, cần mẫn của nhân dân góp phần tạo dựng Tổ quốc. Nhân dân Việt Nam với bản chất “bao dung tin vào nhân nghĩa” nhưng lại trải qua những năm tháng đau thương trong bom đạn. Chính những năm tháng đau thương đó, hình ảnh nhân dân lại hiện lên bao dung vĩ đại. Nhân dân được hiện lên trong trường ca Hữu Thỉnh vói “tấm lá chắn diệu kì” nhận về mình bao nhiêu gian khó để che chở, đùm bọc, nuôi dưỡng cách mạng lí tưởng cộng sản. “Ôi nhân dân tấm lá chắn diệu kì Người nhận mọi vết xăm cho căn hầm nguyên vẹn” (Đường tới thành phố) Nhân dân - những con người giản dị, bình thường nhưng lại mưu trí, dũng cảm từ kinh nghiệm chuyện làm ăn biến thành vũ khí đánh giặc. Rồi trước âm mưu đồng hóa của kẻ thù, nhân dân không cam chịu, không đồng thuận theo âm mưu đó, họ vẫn giữ nguyên bản chất của mình với lòng tự tôn dân tộc sâu sắc: “Vẫn nguyên vẹn nhân dân Răng hạt lựu vẫn không cam đồng hóa Đắng chát cũng tìm cánh kiến, cây sim Mưu trí lấy từ câu chuyện làm ăn Thành vũ khí theo người đi sứ Sách bị đốt vẫn còn nguyên tiếng mẹ Đã bao lần đóng cọc giữ bờ ao” (Đường tới thành phố) 25
  32. Những vần thơ rất đỗi chân thành đầy xúc động trên được viết ra với một ý thức sâu sắc về vị trí cao quý của nhân dân trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, với một tình cảm giản dị, gần gũi và rất đời thường. Nhân dân - người thâm trầm, tinh anh sâu sắc nhưng khi quân xâm lược xâm chiếm quê hương, người giành giật, chiến đấu với kẻ thù đến cùng. Qua hình tượng nhân dân trong trường ca Hữu Thỉnh, ta thấy hiển hiện một dân tộc Việt Nam bất khuất kiên cường, anh dũng, đoàn kết đấu tranh đến cùng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. 2.2.2. Đời sống cá nhân Chiến tranh là nỗi ám ảnh của cả nhân loại với sự hủy hoại cuộc sống bao nhiêu thì mỗi cá nhân chúng ta phải vượt qua gian nan bấy nhiêu để hòa chung với cộng đồng làm lên chiến thắng vang dội khắp năm châu. Bằng những vần thơ hết sức cô đọng, cảm động và ám ảnh. Hữu Thỉnh đã cho ta thấy sự tàn khốc của chiến tranh mà mỗi cá nhân hay chính bản thân người lính phải gánh chịu. Bản thân mỗi cá nhân chúng ta thấy rõ được sự tinh vi hiện đại trong trang bị kỹ thuật của địch, nhưng thay vì trầm trồ thán phục, và hiểu được chặng đường phía trước đầy gian nan, thử thách cũng như cá nhân, anh chiến sĩ không hề ngần ngại vượt qua: “Khẩu súng trường tinh vi và ngắn lại Đường chúng tôi ra trận lại dài thêm.” (Đường tới thành phố) Các trường ca của Hữu Thỉnh không chỉ đề cập đến những mất mát hy sinh của dân tộc ta mà còn tập trung đến con người cá nhân. Chiến tranh đã qua, cùng với vấn đề dân tộc, đó là con người cá nhân trở thành đối tượng được các nhà thơ quan tâm nhiều hơn. Hạnh phúc cá nhân của con người được đặt ra đầy sức ám ảnh; con người còn lại được gì sau chiến tranh? Hình ảnh những người dân tội nghiệp, đói rách đi tìm miếng ăn thực sự làm người đọc ám ảnh: 26
  33. “Người đi mò trai chết bởi thuồng luồng Chết vì rắn mới nhận ra rắn độc Cha mẹ đi tìm miếng ăn Treo con trên cây kiến bâu đầy mặt Tìm thấy miếng ăn Quay về Con đã chết Miếng ăn rơi như máu rụng trong rừng Tiếng hú bật ra vụt tắt ngang chừng.” (Sức bền của đất) Câu thơ gieo vào trong lòng độc giả một sự đắng chát bởi cuộc đời khó nhọc của người dân. Bằng tất cả những trải nghiệm của chính mình, Hữu Thỉnh đã tự cảm nhận được hiện thực lúc bấy giờ khiến người trong cuộc cũng như độc giả không khỏi giật mình xa xót: “Đất chiến trường mau ướt lại mau khô.”“Mau ướt” và “mau khô” đây chính là “máu” của những người chiến sĩ nơi chiến trường. Với sự mất mát và đau thương của người lính, cá nhân trong cuộc sống đời thường không khỏi suy ngẫm và trăn trở. Câu thơ trên như một chân lý mà ở thời đại nào thì “máu người” cũng không bao giờ có thể là “nước lã”. Dường như đó là cái giá chúng ta đã phải trả để có một đất nước hòa bình độc lập: “Tiểu đoàn thồ chẳng có gì thồ cả Cứ đói ròng con gái hóa con trai.” (Đường tới thành phố) Trải qua bao gian khó, bởi vậy mỗi cá nhân không một chút ngần ngại khi: “ thêu trên ngực áo của mình Họ tên, đơn vị Người ta tìm áo để báo tin cho mẹ Đến cái chết đã chẳng cần giấu giếm Trái tim anh càng đập ngang tàng.” (Đường tới thành phố) 27
  34. Qua trường ca“Đường tới thành phố”, tác giả đã viết về những cá nhân đã bỏ mạng sống của chính mình nơi chiến trường. Tuy nhiên, Hữu Thỉnh chỉ thoảng qua những giây phút hi sinh đó chứ không đề cập nhiều, đề cập kĩ. Thay vào đó, tác giả thể hiện rõ nét về những tâm tư cá nhân, những ước mơ của họ nhiều hơn. Chính vì thế mà cái chết của họ khiến người đọc không khỏi xót xa, day dứt. Có lẽ cả “anh”, cả Hữu Thỉnh và cả độc giả đều không rõ “tác giả” của phát súng oan nghiệt làm “anh” phải ngã xuống là ai. Hữu Thỉnh cũng không tiếp tục phản ánh thêm mà chỉ dừng lại tại đây. Tưởng như hạnh phúc đã nắm chắc trong tầm tay, ấy vậy mà anh lại ra đi. Cái chết dường như hết sức phi lý đó càng làm cho nỗi đau con người không có nút tháo gỡ. Cũng giống như sự đau đớn của cánh cò trong những vần thơ Vũ Hữu viết sau đó: “Hãy vạch mặt những thằng bắn lén Sóng đang gầm ngoài vịnh Văn Phong Hãy vạch mặt những thằng bắn lén Cánh cò bay sấp ngửa trên đồng.” (Đường tới thành phố) Sự hy sinh hết sức phi lý của người anh trai mình còn được tác giả thể qua tác phẩm nổi tiếng “Phan Thiết có anh tôi”: “Cánh rừng còn kia trận mạc còn kia Vài bước nữa thì tới đường số Một Vài bước nữa Thế mà Không thể khác Biển màu gì thăm thẳm lúc anh đi”. (Phan Thiết có anh tôi) Chiến tranh đã đi qua nhưng để lại không biết bao hậu quả mà con người ngày ngày vẫn phải gánh chịu nỗi đau của cuộc chiến đó. Và chính con người, 28
  35. những nạn nhân đau khổ của chiến tranh sẽ phải gánh chịu những tất cả những hậu quả nặng nề, đau đớn. Mỗi cá nhân đã chịu những hi sinh đổ máu, những thiệt thòi mất mát, những bi kịch, những cảnh đời trớ trêu và những vết thương không thể hàn gắn của con người. Qua đó, độc giả thấy rõ được khốc liệt của chiến tranh, hiện thực đau thương mất mát về một thời đã qua, tinh thần bất khuất “bi mà không lụy” của cá nhân nói riêng và những người lính nói chung . Qua đó còn thể hiện tinh thần của mỗi cá nhân với sự đoàn kết dân tộc đó là ý chí sắt đá, kiên cường và sự quyết tâm bảo vệ đất nước, giữ vững độc lập tổ quốc của mỗi con người Việt Nam. 29
  36. Chƣơng 3. CON NGƢỜI TRONG TRƢỜNG CA ĐƯỜNG TỚI THÀNH PHỐ CỦA HỮU THỈNH 3.1. Ngƣời lính 3.1.1. Người lính nơi chiến trường Đề tài chủ yếu trong sáng tác của Hữu Thỉnh là hình tượng người lính trên chiến trường, ông có cái nhìn mới mẻ độc đáo trên những trang thơ của ông: “Anh vịn vào tiếng hát vượt gian lao Những năm Trường Sơn bạn bè trong trẻo quá Tiếng hát đi rồi căn hầm còn đó Thành chiếc hộp đàn giữa lòng đất âm sâu”. (Tiếng hát trong rừng) Thì người đọc hiểu rằng, “Trường Sơn vẫn là cái nôi nghệ thuật dữ dội khốc liệt và thơ mộng” [3, tr.51], Trường Sơn vẫn là mảnh đất của thi tứ, đặc biệt ông cũng là người lính trên chiến trường đó nên ông hiểu hơn ai hết những gian khổ nơi chiến hào. Có điều mảnh đất ấy lại có những cảm nhận riêng qua nét khúc xạ của mỗi người; không bắt đầu từ những trận bom hóa học những chuyến xe vận tải .mà bắt dầu từ bạn bè, đồng đội. Cảm hứng về Trường Sơn dữ dội, khốc liệt bao bọc bởi tiếng hát vượt gian lao, lạc quan của người lính. Điểm gặp gỡ của mỗi người lính là ra đi bảo vệ quê hương, Tổ quốc, một nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng nhưng cũng hết sức nặng nề. Hữu Thỉnh đưa đến cho người đọc một cách nhận thức mới về Tổ quốc, không phải là những gì lớn lao mà Tổ quốc có khi chỉ là một gốc sim cằn: “Trời ơi nếu kẻ thù chiếm được Chỉ một gốc sim thôi dù chỉ là gốc sim cằn Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ quốc?.” (Đường tới thành phố) 30
  37. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại nhắc đến hình tượng gốc sim 14 lần trong bài thơ. “Gốc sim cằn” - “Gốc sim bé nhỏ” chính là dấu mốc chủ quyền ranh giới giữa địch - ta, bởi thế nó trở thành biểu tượng của tổ quốc . Giữ lấy “Gốc sim cằn” cũng là giữ lấy vùng chủ quyền của dân tộc Việt. Người lính nghĩ về cuộc chiến đấu trong chiều sâu của sự trải nghiệm: “Ta nhạy cảm với trái tim chiến sĩ Cuộc chiến đấu nên thơ mà cũng khắt khe thế Để sống một nghìn năm ta gắng vượt một ngày”. (Tiếng hát trong rừng - Đêm chuẩn bị) Viết về người lính, Hữu Thỉnh ít tập trung miêu tả ngoại hình, vị Tư lệnh tác giả cũng chỉ phác họa lưỡng quyền cao đen một nốt ruồi; ông chủ yếu đi vào khắc họa rõ nét vẻ đẹp, tâm hồn của người lính trên mặt trận: “Đánh giặc là ước mơ vạm vỡ như rừng Quen nhớ nhà , quen hạt muối Khúc dân ca hát đi hát lại” (Tiếng hát trong rừng - Đêm chuẩn bị) “Chẳng ai biết đã qua trăm trận đánh Chỉ thấy như úp cá ở đâu về.” (Tiếng hát trong rừng - Tắm mưa) Người lính hiện lên qua vẻ đẹp khỏe khoắn nhưng cũng rất đời thường, không ít lần các nhà thơ đã phác họa những giây phút lãng mạn của người lính nào là đánh đàn , thổi sáo, làm thơ, với góc nhìn của một người lính Hữu Thỉnh đã ghi lại được những khoảnh khắc nên thơ: “Các chiến sĩ đã lắc đầy bao gạo Ngồi chia nhau một điếu thuốc rê Cánh tay họ còn dính đầy bụi bám Khói cứ là, cứ bổng, cứ như không.” (Đường tới thành phố) 31
  38. Bằng sự tài tình, khéo léo, tác giả đã kết hợp giữa tầm vóc cao cả và bình dị, làm cho người lính trở nên thân thương gần gũi; xong trận đánh họ lại hồn nhiên như trẻ thơ : “Một số anh thì đuổi nhau trên cát Một số anh thì đổ dế hái hoa Các anh không nói nhiều về chiến thắng đã qua Chỉ mong mưa cho đồng bằng gieo hạt.” (Tiếng hát trong rừng - Sau trận đánh) Sự khốc liệt của chiến trường không làm mất đi bản chất yêu đời của người lính, có khi chỉ một tiếng chim thôi cũng được lọc qua trái tim nghệ sĩ “tiếng chim ngon như ngụm nước lưng đèo”. Chính vì, ông có một trái tim nhân hậu nên những người chiến sĩ rất dễ rung động qua những chi tiết nhỏ nhất mà không phải ai cũng để ý: “Đường ta đi gian khó chẳng mau quên Cả cái vấp cũng găm thành nỗi nhớ.” (Tiếng hát trong rừng - Giấc ngủ trên đường ra trận) Nếu như Phạm Tiến Duật, là một cây bút hàng đầu của thơ ca chống Mỹ đẫm chất giọng tinh nghịch, tếu táo thì Hữu Thỉnh vẫn nuôi cảm xúc trong “âm chủ trầm lắng suy tư”. Trong chiến tranh, hy sinh mất mát là điều khó tránh khỏi, Hữu Thỉnh có cách nhìn khác. Với người lính xe tăng: “Có nắm cơm đã cháy thành than Đen chỉ còn một nửa Có dấu tay in lõm vào trong Ngón tay bè của đồng chí lái.” (Đường tới thành phố - Khúc ba: Thần Tốc) Nếu không phải là lính thì Hữu Thỉnh không thể có cái nhìn chi tiết như vậy. Sự nham hiểm của kẻ thù không phải là những trận càn quét, những chiêu bài dụ hàng mà ở cái cách làm cho người lính chết khi đang còn sống: 32
  39. “Họ tên anh, cả ngày tháng năm sinh Giặc đánh cắp để loan tin báo tử.” (Đường tới thành phố - Những người mới đến) Sự đe dọa của “những lần hổ vồ”, “những lần voi đuổi”, “bữa canh nấm độc cào gan có lẽ chưa thể so sánh được sự độc ác như trên của kẻ thù. Qua thơ Vũ Hữu, ta thấy nhà thơ thường tìm đến bản chất đích thực bên trong của người lính, ở đó ông nhận ra rằng mỗi một người lính đều có một đóng góp riêng để đi đến thắng lợi của dân tộc: “ Cũng có thể anh giỏi toán kia sẽ thành một anh hùng Cũng có thể anh bị mù cả hai mắt Sau cái giật nụ xòe lợi hại của anh.” (Đường tới thành phố - Xuân 1975) Chiến trường đã tôi luyện ý thức cho họ; nếu các tác giả khác miêu tả hy sinh của người lính nhẹ nhàng như mới cày xong thửa ruộng; anh về đất Hữu Thỉnh tìm cách diễn đạt tự nhiên, giản dị của đời sống chiến trường: “Các chiến sĩ đã quen bằng trận đánh Quen hy sinh quen đột biến từng giờ.” (Đường tới thành phố - Xuân 1975) Điệp từ quen được nhà thơ sử dụng thật hiệu quả, qua đó để nhà thơ khẳng định chính họ làm nên chiến thắng vang dội mùa xuân 1975 đưa nước ta trở thành một nước độc lập, thống nhất. Viết về đề tài người lính là một thử thách nghệ thuật của Hữu Thỉnh, song với một hồn thơ “khỏe khoắn”, “giàu nội tâm” cộng với cách diễn đạt “giản dị”, “tự nhiên”, ông đã góp phần bổ sung riêng vào đề tài người lính. Đối với ông người lính ra trận không phải là người máy vô tri, họ là những chàng trai cô gái tràn đầy tình yêu, nhiệt huyết, họ mang một trái tim chất chứa yêu thương nhưng cũng mang cả trong đó sự kiêu hãnh, tự hào của 33
  40. những người con của một dân tộc không bao giờ chịu khuất phục. Và trong chiến tranh họ luôn có một tình yêu theo cách thể hiện riêng mình, khắc sâu vào lịch sử văn học của đất nước. Không phải ngẫu nhiên Hữu Thỉnh chọn câu thơ thay lời mở đầu: “Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình.” Cuộc đời người chiến sĩ trong thơ Hữu Thỉnh luôn có sự tự ý thức giành độc lập, bảo vệ tự do cho Tổ quốc, có đầy đủ sự hào hùng cùng bi tráng mà những người lính - nhà thơ đã mang hết sức mình chuyển tải vào những vần thơ để mãi muôn đời các thế hệ sau này. 3.1.2. Người lính trong cuộc sống đời thường Sau những năm chiến tranh máu lửa, Vũ Hữu trở về đời sống thời bình. Tuy nhiên niềm vui chiến thắng cũng không đọng lại lâu bởi những khó khăn gian nan thử thách của một đất nước vừa đứng lên sau chiến tranh. Có lẽ trong thơ Hữu Thỉnh cũng dần dần đi vào suy tư, trăn trở những triết lí mới về cuộc sống đời thường của mình - người lính. Đó là cuộc sống của người thường nhật, trở về cuộc sống bình thường theo cách nhìn nhận về con người, về cuộc sống cũng như là quan điểm cá nhân cũng có sự thay đổi, trở nên gần gũi với những giá trị truyền thống: “Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc Chúng ta đã từng vò võ đợi nhau Nhưng không phải em ơi, cuốc kêu không phải thế” “Tôi cứ tưởng không còn ai xấu nữa Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế” (Nghe tiếng cuốc kêu) Và có những bi kịch lặng thầm mà có lẽ không ai nghĩ đến trong những tháng ngày chiến đấu gian nan: 34
  41. “Ta đâu có đề phòng từ phía những người yêu Cây đổ về nơi không có vết rìu Ôi hoa tặng, chiều nay ai giẫm nát Mưa dập vỡ trên đường em trở gót”. (Tự thú) Tác giả đã cho thấy được bi kịch khi con người chợt nhận ra giữa thực tiễn cuộc sống và lí tưởng một thời; khát vọng về cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc căn bản không thể ngăn nổi sự thực phũ phàng Hay như trường ca “Ru xanh áo lính”của Tô Nhuần sau chiến tranh người chiến sĩ ấy lại phải đối mặt với đời thường đó là một thử thách, một thực tế khác nhìn bề ngoài có vẻ bình yên nhưng trong lòng sôi sục “đổ máu, day dứt”: “Người lính trở về đối mặt Quê nghèo còn lắm gian nan Biết bao thói đời đen bạc Len lỏi giữa nơi xóm làng.” (Ru xanh áo lính) Người lính trong thơ Hữu Thỉnh không nằm ngoài những thử thách đó. Họ vừa trực tiếp tham gia chiến đấu ở chiến trường trong đó phần lớn dành cho Bộ đội Trường Sơn khói lửa đồng thời đất nước thống nhất hai miềm Nam - Bắc, hòa bình được lập lại nhưng họ vẫn phải đối mặt với những lo âu, trăn trở, những khó khăn của cuộc sống thường nhật. Qua đó, chúng ta thấy được tấm lòng tác giả gắn bó với đồng đội với quê hương đất nước được thể hiện rõ đối với độc giả. Vì vậy hình tượng người chiến sĩ vừa đẫm chất sử thi đồng thời lại rất đỗi đời thường. 3.2. Ngƣời phụ nữ 3.2.1. Người phụ nữ trong chiến tranh Có thể nói, Hữu Thỉnh đã dành những câu thơ hay nhất, cảm động nhất để viết về hậu phương, và không thể thiếu trong đó là hình ảnh của người mẹ tần tảo, giàu đức hy sinh. 35
  42. Hình tượng mẹ xuất hiện đầu tiên và trở đi trở lại nhiều lần trong vần thơ Hữu Thỉnh “Người phụ nữ in đậm dấu ấn trong thơ Hữu Thỉnh là người mẹ Hữu Thỉnh là người nhắc nhiều về mẹ, viết nhiều về mẹ được xếp vào loại hay nhất” [25]. Mẹ nhận hết những công việc nặng nhọc về mình: “Mẹ đi gánh than mẹ thường gánh vã Nhem nhuốc cả ngày xanh” (Đường tới thành phố). Mẹ gánh bao nhiêu gian khổ, vất vả trên vai: “Mẹ đi gánh rạ giữa đồng Rạ chẳng nặng mà nặng nhiều vì gió.” (Đường tới thành phố). Nhà thơ có lẽ đã hóa thân vào người mẹ, thấu hiểu tâm tư tình cảm, những nỗi đắng cay, hi sinh vất vả trong cuộc đời mẹ phải trải qua. Cả cuộc đời mẹ là những lo lắng hi sinh cho chồng con: “Chiến dịch này ăn cơm không phải độn Mừng thì mừng mà thương mẹ biết bao nhiêu Từ chịu đựng neo đơn của mẹ Bao việc làng, việc nước lớn dần ra” (Đường tới thành phố). Hậu phương không chỉ là người mẹ mà còn là người chị chịu bao nhiêu sự tủi nhục: “Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy Cứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc” (Đường tới thành phố). Hình ảnh người vợ cô đơn“chôn vùi tuổi xuân”, cùng với đó, người vợ phải sống một cuộc sống cô đơn xa chồng và chờ đợi chồng trong mỏi mòn: 36
  43. “Một mình một mâm cơm Ngồi bên nào cũng lệch Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền”. (Đường tới thành phố) Chiến tranh không chỉ là sự phân chia tiền tuyến - hậu phương, không chỉ là sự hy sinh mất mát nơi chiến trường mà chiến tranh còn hiện hữu số phận của người phụ nữ đã hy sinh thầm lặng, sự hi sinh vô danh cho tổ quốc. Để làm nên chiến thắng vang dội lừng lẫy khắp năm châu đó là một phần nhờ sự hy sinh của người phụ nữ thầm lặng, vô giá như thế. Nhưng nếu hỏi trong thơ Hữu Thỉnh, cuộc chiến đã để lại vết hằn nào sâu nhất, nỗi đau nào xót xa nhất trong tâm khảm con người thì rất nhiều người có thể trả lời: “Trong tâm khảm của người mẹ, và người vợ”. Người mẹ qua miêu tả trong thơ ca của Hữu Thỉnh có tầm vóc quá cỡ của một người mẹ bình thường nhưng không chút tầm thường: “Mấy cuộc chiến tranh mẹ gánh cùng một lúc Mẹ thường ít ngủ, mẹ thường thức khuya Đêm nào cũng dài” (Đường tới thành phố) Tổ quốc, dằng dặc trong lịch sử là những cuộc binh đao, những cuộc đưa tiễn. Số mệnh xô đẩy thế nào đó làm đất nước luôn bị tước đoạt và đe dọa tước đoạt quyền độc lập, và vì thế, thời điểm nào những thế hệ ưu tú nhất cũng phải đương đầu, những dòng máu tươi nhất cũng sẵn sàng dâng hiến để đòi lại điều đã mất, bảo vệ điều bị đe dọa tước đoạt. Nhưng người đau nhất trong nỗi đau dằng dặc đó là mẹ: “Xe pháo ì ầm vô tận nối nhau đi Áo tân binh xanh thẫm bến phà Những bà mẹ gặp nhau trong lo toan tầm tã 37
  44. Tiếng gọi nào nghe rõ Suốt chiều sâu Mẹ nén đau Giấu tờ báo tử Sáng mai lại tiễn con nhập ngũ Bốn nghìn năm đất nước mấy khi yên.” (Đường tới thành phố) Mẹ nén đau tiễn con nhập ngũ, nhưng người lo thắt từng đêm là mẹ, người nhận về mình phần thắc thỏm từng đêm là mẹ, người hao tổn nhiều nhất là mẹ: “Nếu mẹ biết ta còn đông đủ Đang bập bùng thương nhớ suốt hành lang Ngọn đèn ấy bớt đi nhiều khuya khoắt.” (Đường tới thành phố) Nỗi nhớ khi “Mẹ ta ốm, húp bát canh rau dệu” (Tiếng hát trong rừng); là nhớ “Mẹ tôi mé đồi cỏ cháy” (Đêm chuẩn bị); là nhớ “Mẹ đang xếp lại cho anh bộn bề giá sách”, “Mẹ đang đi gánh rạ giữa đồng” (Đường tới thành phố); là nhớ “Đồng quang bóng mẹ nắng nôi một mình” (Trông ra bờ ruộng) Hữu Thỉnh đã bằng nỗi nhớ của chính mình, ông đã khắc vào thơ ca Việt Nam bức tượng đài cao đẹp mà giản dị của người mẹ trong chiến tranh, đến mức đọc thơ anh, mỗi người đều thấy hiển hiện hình bóng mẹ trong mỗi mái nhà của họ. Nhưng người mang bi kịch lớn nhất của chiến tranh là những người vợ. Thơ ca Việt Nam vốn giàu lòng trắc ẩn, hình như cũng dành những ngôn từ bi thương nhất để nói về những người hóa đá khắp mọi miền đất nước mỗi khi đi qua. Đến Hữu Thỉnh, tác giả xây dựng "con người này" trong hoàn cảnh éo le này: 38
  45. “Chị nuôi anh dưới đất Năm năm trời anh nhìn chị trong đêm Không hay anh ốm mập Không hay anh đen trắng ra sao.” (Đường tới thành phố). Người vợ đó ban đêm xuống hầm bí mật nuôi chồng hoạt động, ban ngày "diễn vai kịch" chết người ngay cạnh nanh vuốt của kẻ thù. “Chị góa bụa trong hồ sơ tự khai Chị cười cợt với thằng chỉ điểm Người nó thắt y chiếc còng số tám Cứ hau háu rình chộp chị đem đi Chị cố làm cho thật lẳng lơ Thắt vạt áo trước bao lời dị nghị Mỗi năm một lần cúng kỵ Khấn anh xong mang xôi trái xuống hầm.” (Đường tới thành phố) Một hoàn cảnh nữa, chiến tranh có rất nhiều nỗi khủng khiếp, nhưng khủng khiếp nhất có phải là sự chờ đợi: “Chị ta ngồi khóc dưới bếp một mình Chị đợi chờ quay mặt vào đêm Hai mươi năm mong trời chóng tối Hai mươi năm cơm phần để nguội Thôi Tết đừng về nữa chị tôi buồn. Chị thiếu anh nên chị bị thừa ra Trong giỗ tết họ hàng nội ngoại.” (Đường tới thành phố) 39
  46. Bi kịch của chị là "hai mươi năm mong trời chóng tối", là chị "không còn trẻ nữa", là sự "thừa ra" bên cái "thiếu" xót xa giữa một ngày sum họp của "họ hàng nội ngoại." Và điểm kết của tấn bi kịch thuở nảo thuở nào, cái "thuở trời đất nổi cơn gió bụi" kia vẫn chưa hề có một lối thoát nào giữa một "sân khấu" còn mịt mờ bom đạn, là: “Một mình một mâm cơm Ngồi bên nào cũng lệch Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền.” (Đường tới thành phố). Hữu Thỉnh viết về chiến tranh, yếu tố hiện thực trở lên là một phần những gì nhân dân và con người mà anh trải nghiệm, là phần đóng góp độc đáo, quan trọng của sự nghiệp sáng tác của Hữu Thỉnh, không thể không bàn đến khi nói về thơ ông. Nhưng nhiều nhà thơ thế hệ chống Mỹ khác, bên cạnh hiện thực chiến tranh, Hữu Thỉnh đem đến trong thơ mình một bức tranh tâm hồn khác, cũng hết sức sâu sắc, làm thành một sắc thái mới của thơ Hữu Thỉnh. Đây là những chiêm nghiệm từ khoảng nửa cuối cuộc đời mình. Rất nhiều những tâm trạng, những suy nghiệm, những trăn trở, những vỡ nhẽ, những đốn ngộ bất ngờ như chính cuộc sống, như chính "cõi nhân gian bé tý", như chính thế giới nội tâm của con người, trong mỗi con người đã được ông "ghi" lại sau những "cặn lắng", những tác giả đã từng trải, với những "Số phận đa đoan/ Phận người chìm nổi". Có thể có cái phiền muộn, xót xa hắt lên từ năm tháng, từ phận người. Nhưng bù lại, thơ như tìm ra mạch đi muôn thuở của nó trước thế thái nhân tình cũng muôn thuở như là những bí mật. Chỉ những trái tim không bị khô cạn, trí tuệ không bị cỗi cằn, ngòi bút không dễ dãi mới tìm thấy những gì cần tìm. 3.2.2. Người phụ nữ trong cuộc sống đời thường Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Hữu Thỉnh cũng như hàng vạn người và đặc biệt người phụ nữ trong cuộc sống đời thường đã bước từ bóng tối của chiến tranh bước ra khoảng trời mênh mông của ánh sáng hòa bình: 40
  47. “Tháng Tư nay cây cỏ cũng ra tù Mùa hạ đón một cơn mưa nồng nhiệt.” (Đường tới thành phố). Nhưng hòa bình là một thứ của hiếm, dù đã đổi bằng núi xương, sông máu của bao người, cũng rất dễ bị chiếm đoạt, xâm phạm. Mới một chút thỏa chí như con tàu chạy dọc đất nước từ Nam ra Bắc, lại thấy lấp ló, ẩn hiện súng đạn ở biên giới. Với một đất nước vừa trải qua mấy chục năm bom đạn, chiến tranh ác liệt đã quen, vì thế, chiến tranh không có gì đáng sợ: “Một đời người mà chiến chinh nhiều quá Vâng thưa mẹ, chiến tranh đừng vô tận.” (Đường tới thành phố) Chiến tranh đã gây nên bao cảnh chia ly đó là vợ xa chồng, mẹ xa con. Nhưng khi đất nước hòa bình người mẹ mong mỏi người chồng, mong người con của mình có ngày trở về đoàn tụ với gia đình, quê hương: “Mẹ đang xếp lại cho anh bộn bề giá sách Nhưng nhớ thương thì biết xếp vào đâu.” (Đường tới thành phố). Chiến tranh tàn khốc không chỉ gây nên bao cảnh li tan, làm đổ biết bao xương máu và gây nên bao nhiêu nỗi đau hiện hình vật chất mà còn để lại những mất mát, đớn đau về tinh thần và tuổi xuân của người phụ nữ không thể hàn gắn nổi. Hình ảnh những người phụ nữ chờ đợi chồng đằng đẵng suốt những năm tháng tuổi trẻ, chôn vùi tuổi thanh xuân trong sự chờ đợi mỏi mòn đã được Hữu Thỉnh cảm thông và khắc họa thật đậm nét trong trường ca: “Chị chờ đợi quay mặt vào đêm Hai mươi năm mong trời chóng tối Hai mươi năm cơm phần để nguội Thôi tết đừng về nữa chị tôi buồn Thôi ai đừng mừng tuổi chị tôi.” (Đường tới thành phố) 41
  48. Thời gian đợi chờ không phải là vài tháng, vài năm mà đằng đẵng suốt hai mươi năm tuổi trẻ. Hai mươi năm không phải là dài với một đời người nhưng cũng là quá lớn cho nỗi mong chờ, khắc khoải của người vợ chờ chồng, cũng đủ làm cho tuổi trẻ tàn phai. Phải chăng, tuổi thanh xuân của người phụ nữ cũng vào chiến trường theo từng bước chân của người đàn ông. Chiến tranh đã kết thúc cuộc sống bình yên trở lại nhưng trong lòng người phụ nữ vẫn khắc khoải nỗi nhớ thương chồng con. Đó là những người vợ mất chồng, cả cuộc đời họ phải sống trong cô đơn quạnh quẽ, và nỗi sợ hãi bủa vây: “Những đêm trở trời trái gió Tay nọ ấp tay kia Súng thon thót ngoài đồn dân vệ Một mình một mâm cơm Ngồi bên nào cũng lệch Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền.” (Đường tới thành phố) Người phụ nữ không những phải chịu nhớ thương xa cách, phải sống cô độc, lẻ loi, phải chôn vùi tuổi xuân trong sự nhớ nhung chờ đợi mà họ còn phải chôn vùi đi cả cái bản năng sâu thẳm trong con người họ. Điều đặc biệt là dù cho số phận nghiệt ngã, cuộc đời người phụ nữ trong trường ca Hữu Thỉnh có gian nan đến đâu thì họ vẫn luôn lạc quan yêu đời và tin tưởng vào tương lai tươi sáng: “Chị vẫn tin chữ hợp cuối trang Kiều Hoa mai nở hai lần hoa có hậu Chị vẫn tin có mùa thu xanh đền cho cuốc kêu tháng sáu Vẫn tin có ngày hái quả cho anh.” (Đường tới thành phố) 42
  49. Nhưng nỗi đau nhân tình thế thái thì không quen, thì ám ảnh vô tận: “Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc Tôi cứ tưởng không ai còn xấu nữa Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế.” (Nghe tiếng cuốc kêu) Đất nước những năm tháng tám mươi của thế kỷ XX khó khăn chưa từng thấy. Những người từng làm nên chiến thắng huy hoàng, có người đang "ba lô lộn ngược nhảy tầu bắc nam “kiếm từng miếng cơm, manh áo” trong hiện tại. Sự gồng mình của toàn dân tộc trong chiến tranh đã đem lại chiến thắng vẻ vang nhưng đã đến lúc phải trả giá: một sự suy kiệt về kinh tế, kéo theo những nổi chìm của nhân tình thế thái, tác động đến từng nhà, từng người, không sót một ai. Nhớ câu thơ xưa của Hữu Thỉnh như một sự thức tỉnh từ rất sớm, ngay trong đêm trước của ngày chiến thắng: “Ngày mai chúng mình sẽ vào thành phố Mọi vui buồn không biết lấy gì che.” (Đường tới thành phố) “Tôi như cây biết giấu lá vào đâu Trong gió bụi cõi người” (Bóng mát) Hữu Thỉnh là người hay lo, cũng có thể là người lính cảm nhận được rất sớm điều có thể đến. Những gì khả dĩ giấu được phần nào trong chiến tranh, có lá rừng che, lại rất có thể bị phơi bày trước một tình thế khắc nghiệt mới. Nỗi đau của người phụ nữ khi hòa bình được lặp lại trong trường ca Hữu Thỉnh là nỗi đau của người mẹ, người vợ chờ con, chờ chồng chở về đoàn tụ nhưng sự chờ đợi đó dường như vô nghĩa đối với người phụ nữ. Có lẽ, người phụ nữ là những con người còn nguyên vẹn tất cả để mà đau. Nỗi đau keo kết, đong vón lại, không thể nào rã tan được. Chính nỗi đau khủng khiếp này đã 43
  50. bật tung sức mạnh Việt Nam. Bom đạn kẻ thù bất lực bởi sức mạnh ấy cùng với đó con người nói chung và người phụ nữ nói riêng đã chịu mọi đau khổ của chiến tranh và sau chiến tranh sẽ phải gánh chịu những tất cả những hậu quả nặng nề, đau đớn mà kẻ thù đã gây lên. Hữu Thỉnh đã cho chúng ta thấy sự thật của chiến tranh đã được phơi bày thông qua những hi sinh của người phụ nữ là mất con, mất chồng, đổ máu, những thiệt thòi, những mất mát, những bi kịch, những cảnh đời trớ trêu và những vết thương lòng không thể hàn gắn của con người. Nhưng cũng qua đó Hữu Thỉnh cho ta thấy nghị lực phi thường của những người phụ nữ Việt Nam họ đã vượt qua tất cả những nỗi đau, sự mất mát để có cuộc sống bình yên như ngày hôm nay. 44
  51. KẾT LUẬN Hữu Thỉnh thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ. Sự nghiệp sáng tác của ông đã đạt được thành tựu đáng kể trong đó có thể loại trường ca. Với bản lĩnh sống, bản lĩnh thi sĩ Hữu Thỉnh đã thấu hiểu được hiện thực chiến tranh tàn khốc nơi chiến trường đầy mưa bom, bão đạn. Trường ca Hữu Thỉnh đã thể hiện sâu sắc những vấn đề của dân tộc, cộng đồng và thời đại. Đó là hành trình cách mạng gian khổ và đi đến thắng lợi của toàn dân tộc trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Đặc biệt ông đã có cái nhìn về hiện thực chiến tranh đa chiều. Bên cạnh âm hưởng sử thi hoành tráng của cuộc chiến vĩ đại trường ca còn cho ta thấy được nỗi đau đớn, mất mát, hậu quả do chiến tranh gây ra đã được Hữu Thỉnh khai thác, phản ánh chân thực và sâu sắc. Hữu Thỉnh là cây bút không còn mấy xa lạ đối với bạn đọc qua trường ca Đường tới thành phố. Ông là người chiêm nghiệm ham tìm tòi, học hỏi cái mới, ông luôn luôn giữ niềm mê đắm thi ca và khao khát đổi mới. Đường tới thành phố là một trường ca đầy ắp những suy tư về các sự kiện lịch sử có thực vừa trải qua của dân tộc như vậy. Chính nhà thơ Hữu Thỉnh sau này cũng đã tâm sự rằng khi viết bản trường ca này, ông “đặt cái thực lên trên hết. Cái thực của đời sống người lính, của chiến tranh, cái thực và tâm trạng con người”. Cái thực đó là những cái thực lớn lao, thiêng liêng mà lịch sử dân tộc vừa trải qua. Chính vì đặt cái thực lên trên hết như thế, cho nên, cũng giống như hầu hết các tác giả trường ca thời bấy giờ, khi Hữu Thỉnh nói đến những từ đất nước, tự do, tổ quốc thì đều xuất phát từ cái hiện thực và tâm trạng con người chứ không hề là những cách phát ngôn sáo rỗng. Đó không chỉ là những nỗi đau thể xác mà còn có những mất mát, tổn thất về tinh thần khó có thể bù đắp nổi. Làm nên chiến thắng vẻ vang của dân tộc không thể không nói đến vai trò của những cá nhân. Những nhân vật 45
  52. trung tâm đã hiện lên một cách tự nhiên, chân thực, khỏe khoắn, giản dị trong trường ca Hữu Thỉnh. Đó là hình tượng những người lính dũng cảm, kiên cường; người mẹ giàu đức hi sinh; người chị kiên trung bất khuất hình tượng nhân dân - những anh hùng yêu nước căm thù giặc. Tất cả họ đoàn kết lại tạo nên sức mạnh phi thường, trường tồn, bất diệt để đánh bại kẻ thù xâm lược. Như vậy qua tìm hiểu trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh, tác giả đã phơi bày hiện thực những năm kháng chiến chống Mĩ thật khốc liệt. Đồng thời ông còn đi sâu vào khám phá thế giới tâm hồn của con người với những suy tư, trăn trở và khát vọng của người con đất Việt. 46
  53. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945 - 1975, Nxb KHXH. 2. Lại Nguyên Ân (1984), “Mấy suy nghĩ về thể loại trường ca”, Tạp chí Văn học, số 4. 3. Lại Nguyên Ân (1986), “Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám, một nền sử thi hiện đại”. chong-my-trong-van-hoc-hien-dai-viet-nam-43886/ 4. Lại Nguyên Ân chủ biên (1988), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG. 5. Mai Bá Ấn (2009), Đặc trưng trường ca Thu Bồn - Nguyễn Khoa Điềm Thanh Thảo, Nxb Hội nhà văn. 6. Đào Thị Bình (1999), Trường ca của các nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ, Luận văn thạc sĩ, ĐHSPHN. 7. Đào Thị Bình (2008), Thể trường ca trong Văn học Việt Nam từ 1945 - cuối TK XX, LATS, ĐHSPHN. 8. Nguyễn Văn Dân (1995), Những vấn đề về văn học so sánh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 9. Phạm Tiến Duật (1981), “Nhân bàn về trường ca, đôi điều nghĩ về hình thức”, Văn nghệ Quân đội, số 4. 10. Phan Huy Dũng (1999), Kết cấu thơ trữ tình (Nhìn từ góc độ loại hình), LATS Ngữ văn, Hà Nội. 12. Hoàng Điệp (2008), “Hữu Thỉnh với thể loại trường ca”, Tạp chí Văn học, số3. 13. Nguyễn Đăng Điệp (2003), “Hữu Thỉnh và quá trình đổi mới thơ ca”, Tạp chí Văn học, số 4. 14. Hà Minh Đức (1977), Thực tiễn Cách mạng và sáng tạo thi ca, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN tnu.edu.vn/ 94.
  54. 15. Hà Minh Đức (1984), Thơ ca chống Mỹ cứu nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 16. Hà Minh Đức (2004), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 17. Hà Minh Đức, Bùi Văn Nguyên, (Đồng chủ biên 2006), Thơ ca Việt Nam - hình thức và thể loại, Nxb ĐHQGHN . 18. Trần Mạnh Hảo (1996), “Thư mùa đông của Hữu Thỉnh”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 4. 19. Trần Mạnh Hảo (1995), Thơ phản thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 20. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên, 2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQGHN. 21. Tế Hanh (1997) “Từ những người đi tới biển tới Đường tới thành phố”, Báo Văn Nghệ, số 24 22. Mai Hương (1980), “Đọc Đường tới thành phố”, Tạp chí Văn học, số 3 23. Thiếu Mai (1980), “Thanh Thảo thơ và trường ca”, Tạp chí Văn học, số 2 24. Lưu Khánh Thơ (2005), Hữu Thỉnh - một phong cách thơ sáng tạo, in trong cuốn Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại, Nxb khoa học xã hội. 25. Lưu Khánh Thơ, Đôi nét về trường ca những năm gần đây nhìn từ góc độ thể loại, Văn Nghệ Quân đội.