Đề tài Chương trình – Giáo trình

pdf 32 trang yendo 4910
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Chương trình – Giáo trình", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfde_tai_chuong_trinh_giao_trinh.pdf

Nội dung text: Đề tài Chương trình – Giáo trình

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA GIÁO DỤC BỘ MÔN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM   ĐỀ TÀI: A. Tình hình chung của giáo dục đại học B. Giáo dục đại học ngoài công lập Hãy phân tích về: Chương trình – Giáo trình GVHD: PGS.TS. Phạm Lan Hương Thực hiện: Nhóm 09 TP. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 201
  2. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 ĐẶT VẤN Đ Ề 2 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM. 3 CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ CHƯƠNG TRÌNH VÀ GIÁO TRÌNH. 4 1. Chương trình đào tạo. 4 1.1. Khái niệm về chương trình đào tạo. 4 1.2. Phân loại chương trình đào tạo. 4 1.3. Yêu cầu của chuong trình đào tạo 4 2. Giáo trình đào tạo. 5 2.1. Khái niệm về giáo trình đào tạo 5 2.2. Các loại giáo trình sử dụng trong các trường đại học. 5 2.3. Yêu cầu của giáo trình đào tạo. 5 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ CHƯƠNG TRÌNH VÀ GIÁO TRÌNH ĐÀO TẠO. 7 1. Thực trạng về chương trình đào tạo hiện nay. 7 2. Thực trạng về giáo trình đào tạo hiện nay. 16 3. Kết luận. 28 TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
  3. LỜI MỞ ĐẦU Đổi mới giáo trình và chương trình giáo dục đại học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của người học và của xã hội là một trong những vấn đề cần được quan tâm không chỉ trong hệ thống giáo dục đào tạo của nước ta mà còn là của thế giới. Vấn đề đặt ra đối với chương trình đào tạo của từng cơ sở đào tạo là hướng đến nhu cầu của người học, của người tuyển dụng hay vì mục tiêu chủ quan của từng cơ sở đào tạo? Vì không thể có mục tiêu chung chung là đáp ứng nhu cầu của xã hội. Giáo dục và đào tạo phải gắn liền với thực tiễn và phải đáp ứng nhu cầu của xã hội. Do đó mục tiêu, chương trình, giáo trình, giáo dục, đào tạo phải được xác định rõ ràng và thiết thực, nếu không thì mọi vấn đề tranh cãi về đổi mới chương trình phương pháp giáo dục nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đều không có điểm kết thúc. Trong bài tiểu luận này, theo quan điểm của nhóm thực hiện, thì mục tiêu chương trình đào tạo phải hướng đến nhu cầu của người học, cụ thể là phải đáp ứng những kiến thức căn bản nền tảng tối thiểu và những kiến thức, kỹ năng thực tế, phù hợp với yêu cầu của nghề nghiệp chuyên môn mà người học đã lựa chọn. Ngoài ra, chương trình đào tạo cao đẳng, đại học còn phải phân ranh giới rõ ràng giữa đào tạo “thợ” hay “thầy”, nếu là “thầy” thì “thầy phải là thầy của thợ” hoặc “thầy có thể làm thợ khi chưa có điều kiện chưa trở thành thầy”. Yêu cầu này thiết nghĩ mọi người đều đã và đang nghĩ tới, và có lẽ đây cũng là một hướng đi phù hợp với tâm lý người học và thực trạng kinh tế- xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Từ những lập luận trên, đòi hỏi một giải pháp, định hướng tương lai để nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo đại học cao đẳng, là phải hiện đại hóa chương trình đào tạo ở các bậc học, ngành đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân, song song đó là phải đẩy mạnh xúc tiến đổi mới biên soạn giáo trình giảng dạy hoặc tối thiểu phải đẩy mạnh biên soạn “giáo trình thực tiễn” song song với “giáo trình hàn lâm”. Đây là nội dung mà nhóm thực hiện xin phép đặt ra và đề xuất những bước đi cụ thể trong giải quyết vấn đề đã nêu ra. 1
  4. ĐẶT VẤN ĐỀ Giáo dục Đại học Việt Nam đã được nhà nước quan tâm đặc biệt trong những năm gần đây, ngân hàng thế giới đã đầu tư cho giáo dục Việt Nam qua nhiều dự án lên đến hàng trăm triệu đô la nhưng tình hình Giáo dục Đại học Việt Nam hiện nay vẫn chưa có nhiều khởi sắc. Tại nhiều Hội thảo với chủ đề nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra những thực trạng, hạn chế: phương pháp lạc hậu, giảng viên còn thiếu và yếu, tình trạng dạy và học không đáp ứng được nhu cầu thực tiễn Một trong những nguyên nhân của những thực trạng trên xuất phát từ việc xây dựng và áp dụng chương trình đào tạo chưa hiệu quả, chưa phù hợp, giáo trình vay mượn, chắp vá không phản ánh đúng mục tiêu đào tạo và không phù hợp với đối tượng đào tạo của từng đơn vị cụ thể. Dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề này, nhưng với tư cách là những người giảng viên trẻ, mới bước chân vào sự nghiệp trồng người, nhóm nghiên cứu có những trăn trở và mong muốn thể hiện suy nghĩ của mình về chương trình, giáo trình đào tạo đại học; những bất cập, nguyên nhân của bất cập và đề ra những kiến giải cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả trong việc xây dựng chương trình và giáo trình đào tạo phù hợp với nhu cầu thực tiễn. Với lý do nêu trên, nhóm nghiên cứu hi vọng đề tài sẽ mang đến cái nhìn mới mẻ, hiện đại dưới con mắt của những người trẻ làm khoa học. Những đề xuất sẽ cụ thể và phù hợp, mang tính khả thi nhằm hạn chế những bất cập xuất phát từ chương trình, giáo trình đào tạo đại học, đồng thời nâng cao hơn nữa việc xây dựng và áp dụng chương trình và giáo trình, góp phần đưa nền giáo dục đại Việt Nam ngày càng tiến lại gần hơn với nền giáo dục các nước trên thế giới. 2
  5. CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM Nền giáo dục đại học Việt Nam hiện nay đã cung cấp nguồn nhân lực cần thiết cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đóng góp rất quan trọng vào thành tựu của đất nước: vượt qua khủng hoảng kinh tế, thoát khỏi tình trạng nước nghèo, chủ động hội nhập quốc tế ngày càng hiệu quả. Nâng cao được trình độ đào tạo, trình độ và kỹ năng nghề nghiệp của người lao động. Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ. Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên, góp phần đáp ứng yêu cầu nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam vận hành trong bối cảnh thay đổi nhanh chóng của thế giới việc làm. Tuy nhiên, ở Việt Nam, chất lượng giáo dục đại trà, đặc biệt ở bậc đại học còn thấp. phương pháp giáo dục còn lạc hậu và chậm đổi mới.Các điều kiện bảo đảm phát triển giáo dục còn nhiều bất cập. Đội ngũ giáo viên vừa thiếu vừa thừa, chưa đồng bộ, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận còn thấp. Cơ sở vật chất rất thiếu và lạc hậu. Nguồn lực tài chính cho giáo dục chưa bảo đảm nhu cầu chi thường xuyên, nhất là đối với các tỉnh khó khăn. Con em gia đình nghèo, gia đình có thu nhập thấp (cận nghèo) và con em đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận giáo dục, nhất là ở các bậc học cao.M ột số hiện tượng tiêu cực trong giáo dục chậm được giải quyết. Tư duy giáo dục chậm được đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của đất nước cũng như đòi hỏi của sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế.Quản lý về giáo dục còn yếu kém và bất cập. Vì thế, Bộ giáo dục và đào tạo đã và đang thực hiện nhiều quyết sách và chiến lược mang tính toàn diện theo Nghị quyết Trung ương XI với mục tiêu “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế”. 3
  6. CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ CHƯƠNG TRÌNH VÀ GIÁO TRÌNH 1. Chương trình đào tạo. 1.1. Khái niệm về chương trình đào tạo. Theo từ điển Giáo dục học - NXB Từ điển bách khoa 2001. khái niệm chương trình đào tạo được hiểu là : "Văn bản chính thức quy định mục đích, mục tiêu,yêu cầu, nội dung kiến thức và kỹ năng, cấu trúc tổng thể các bộ môn , kế hoạch lên lớp và thực tập theo từng năm học, tỷ lệ giữa các bộ môn, giữa lý thuyết và thực hành, quy định phương thức, phương pháp, phương tiện, cơ sở vật chất, chứng chỉ và văn bằng tốt nghiệp của cơ sở giáo dục và đào tạo " Theo Wentling ( 1993 ): "Chương trình đào tạo ( Program of Training) là một bản thiết kế tổng thể cho một hoạt động đào tạo ( khoá đào tạo ) cho biết toàn bộ nội dung cần đào tạo, chỉ rõ những gì có thể trông đợi ở người học sau khoá đào tạo, phác thảo ra quy trình cần thiết để thực hiện nội dung đào tạo, các phương pháp đào tạo và cách thức kiểm tra ,đánh giá kết quả học tập và tất cả những cái đó được sắp xếp theo một thời gian biểu chặt chẽ." Theo Tyler ( 1949 ) cho rằng : Chương trình đào tạo về cấu trúc phải có 4 phần cơ bản : 1. Mục tiêu đào tạo. 2. Nội dung đào tạo. 3. Phương pháp hay quy trình đào tạo. 4. Cách đánh giá kết quả đào tạo. 1.2. Phân loại chương trình đào tạo. Chương trình đào tạo bao gồm: - Chương trình môn học. - Chương trình Mô dun. 1.3. Yêu cầu của chương trình đào tạo. - Các cách tiếp cận phát triển chương trình đào tạo, bao gồm: +Tiếp cận nội dung ( Content Approach). + Tiếp cận mục tiêu ( Objective Approach). +Cách tiếp cận phát triển: (Developmental Apporoach). 4
  7. +Tiếp cận hệ thống. - Quy trình phát triển chương trình đào tạo, bao gồm các bước: + Phân tích bối cảnh và nhu cầu đào tạo. + Thiết kế chương trình đào tạo. + Thử nghiệm và đánh giá chương trình đào tạo. - Yêu cầu của chương trình đào tạo: mỗi cở sở đào tạo phải xây dựng chương trình đào tạo riêng cho cở sở của mình. Chương trình đào tạo phải đảm bảo phù hợp với sứ mệnh của cơ sở đào tạo, mục tiêu đào tạo, gắn với nhu cầu của xã hội, đảm bảo năng lực của sinh viên khi ra trường đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng. 2. Giáo trình đào tạo. 2.1. Khái niệm về giáo trình đào tạo. Giáo trình cụ thể hóa yêu cầu về nội dung kiến thức, kỹ năng và thái độ quy định trong chương trình đào tạo đối với mỗi môn học, ngành học, trình độ đào tạo của giáo dục đại học, đáp ứng yêu cầu về phương pháp giáo dục đại học và kiểm tra, đánh giá chất lượng đào tạo. Giáo trình là tài liệu quan trọng phục vụ cho việc giảng dạy, chuẩn bị bài giảng của giảng viên và là tài liệu học tập chính thức đối với môn học có trong chương trình đào tạo. 2.2. Các loại giáo trình sử dụng trong các trường đại học. - Giáo trình do cơ sở giáo dục đại học tổ chức biên soạn đối với trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ. - Giáo trình do cơ sở giáo dục đại học tổ chức lựa chọn đối với trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ. 2.3. Đặc điểm, yêu cầu của giáo trình đào tạo. - Ngôn ngữ dùng trong biên soạn giáo trình. + Ngôn ngữ dùng để biên soạn giáo trình là tiếng Việt. + Khuyến khích việc biên soạn giáo trình bằng tiếng nước ngoài đối với các cơ sở giáo dục đại học thực hiện chương trình tiên tiến, chương trình đào tạo ngôn ngữ và văn hóa nước ngoài, chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài và một số 5
  8. chương trình đào tạo khác giảng dạy bằng tiếng nước ngoài theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. - Yêu cầu đối với giáo trình. + Nội dung giáo trình phải phù hợp với mục tiêu đào tạo, chương trình đào tạo và chuẩn đầu ra đã ban hành, đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng cơ bản và thái độ của môn học, giúp cho người học có thể tự nghiên cứu theo hướng dẫn của giảng viên, phải thường xuyên cập nhật nội dung giáo trình, đảm bảo nội dung giáo trình không bị lạc hậu, phải kịp thời bổ sung nội thông tin mới, phục vụ tốt cho việc dạy và học. + Nội dung kiến thức trong giáo trình được trình bày khoa học, đầy đủ, logic chặt chẽ, đảm bảo cân đối giữa lý luận và thực hành, phù hợp với mục tiêu và đặc thù của môn học. + Giáo trình được biên soạn theo hướng tinh giản, phù hợp với thực tiễn, đảm bảo tính hiện đại, cập nhật những thành tựu mới nhất của khoa học - công nghệ. + Những nội dung được trích dẫn trong tài liệu tham khảo dùng để biên soạn giáo trình phải có nguồn gốc và chú thích rõ ràng. + Cuối mỗi chương phải có danh mục tài liệu tham khảo, câu hỏi hướng dẫn ôn tập, định hướng thảo luận và bài tập thực hành theo yêu cầu của chương trình môn học. + Hình thức và cấu trúc của giáo trình phải đảm bảo tính đồng bộ và tuân thủ các quy định cụ thể của cơ sở giáo dục đại học. 6
  9. CHƯƠ NG 3: THỰC TRẠNG VỀ CHƯƠNG TRÌNH VÀ GIÁO TRÌNH ĐÀO TẠO 1. Thực trạng về chương trình đào tạo hiện nay. - Thực trạng 1: Chương trình học ở Việt Nam quá dài. + Ví dụ: Thời gian học 4 năm ở lớp tại Việt Nam là 2183 giờ so với 1380 giờ ở Mỹ. Như vậy chương trình ở Việt Nam dài hơn gần 60%. Hoặc một trong những đặc trưng nổi bật của phương pháp giáo dục Mỹ là tôn trọng thực tế, hiệu quả và "không nhồi nhét". Một học kỳ, thay vì học học 7-10 môn học như ở Việt Nam, ở M ỹ, sinh viên Mỹ chỉ học 4 đến 5 môn, hiếm có sinh viên nào chọn học 6 môn một học kỳ. Một năm học ở Mỹ trên lý thuyết là học 9 tháng nhưng thời gian học thực tế chỉ thường khoảng 7 tháng vì sinh viên ở đây có rất nhiều kỳ nghỉ xuyên suốt một năm học như đã nói ở trên.(theo Vũ Quang Việt - So sánh chương trình giáo dục đại học ở Mỹ và Việt Nam) Ngoài ra, M ột giảng viên đại học kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh cho biết là số tiết của các môn Mác Lê Nin bậc đại học thuộc nhóm ngành kinh tế là 60 tiết ở 2 năm đại cương, 75 tiết khi vào năm 3 tức chuyên ngành, ở bậc cao học là 90 tiết, nay chuẩn bị nâng lên 120 tiết. Ngoài ra còn có các môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối với các sinh viên kinh tế, còn có một môn nữa là Lịch sử các học thuyết kinh tế có 45 tiết học, nhưng trong đó có 30 tiết dành cho kinh tế Mác Lê Nin. Và theo giảng viên ở Đại học kinh tế này thì số giờ dùng vào các môn học này là quá nhiều. + Nguyên nhân: Điều này có thể là do thiếu sách vở nên thầy phải vào lớp đọc cho trò chép hoặc là quán tính từ quá khứ để lại. Với thời gian ngồi lớp như vậy, học sinh sẽ còn ít thì giờ để tự học, nghiên cứu. + Giải pháp:Rà soát lại chương trình đào tạo theo hướng tinh gọn để rút ngắn thời gian đào tạo. Xu hướng phát triển như vũ bão của khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện nay đã gây ra hiện tượng “bùng nổ” thông tin. Theo ước tính của các nhà khoa học, chỉ cần 3-4 năm, khối lượng kiến thức của nhân loại sẽ tăng gấp đôi. Điều này cũng đồng nghĩa với “chu kỳ bán rã thông tin” đã rút ngắn chỉ còn khoảng 3-4 năm, đặc 7
  10. biệt đối với khối kiến thức khoa học xã hội và nhân văn, tốc độ này còn lớn hơn nữa. Song song với việc điều chỉnh nội dung giảng dạy, các cơ sở đào tạo đại học cũng cần nghiên cứu để rút ngắn thời gian đào tạo xuống càng ngắn càng tốt, xu hướng chung là còn khoảng 2,5-3,5 năm. Điều này nhằm đảm bảo cho các kiến thức trang bị cho sinh viên trong trường đại học vẫn còn có giá trị sử dụng trong thực tế khi ra trường, nếu thời gian đào tạo kéo dài sẽ dẫn đến tình trạng các kiến thức bị lỗi thời, làm giảm hiệu quả đào tạo. Mặt khác, do đào tạo theo diện rộng, nên kiến thức hướng vào kiến thức cơ bản do đó khi ra trường sinh viên cần được doanh nghiệp tham gia vào bổ sung kiến thức thực tế tại doanh nghiệp, điều này là thực tế hơn việc cho sinh viên đi thực tập khi còn ở trong môi trường đại học. Nên rút ngắn thời gian đào tạo để chuyển phần trang bị kinh nghiệm làm việc thực tế về cho doanh nghiệp thực hiện trong giai đoạn đầu khi sinh viên ra trường (đào tạo bổ sung) sẽ tốt hơn (Đào Hữu Hòa - Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng). - Thực trạng 2: Chương trình đào tạo ở Việt Nam không phải là dạy nghề cũng không phải là đào tạo một người có kiến thức sâu, tính sáng tạo và không trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản, toàn diện về khoa học tự nhiên, nhân văn, văn chương và nghệ thuật, không có một lớp nào về phương pháp nghiên cứu và viết luận văn. + Ví dụ: Chương trình học kinh tế đòi hỏi 1451 giờ học kinh tế so với ở Mỹ chỉ đòi hỏi tối thiểu là 480 giờ (tức là 1/3 chương trình đại học), như vậy đòi hỏi học các môn kinh tế gấp 3 lần số giờ ở đại học Mỹ. Nhìn chương trình giảng dậy ở Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh ta thấy, sinh viên trong 4 năm phải học gần như tất cả mọi thứ trên đời về kinh tế mà nhà trường có thể nghĩ ra được, từ các môn cơ bản như kinh tế vi mô và vĩ mô, đến các môn như kinh tế lao động, quản trị xí nghiệp, kế toán, địa lý kinh tế, luật kinh tế, dân số họ, chính sách thương mại, kinh tế tài nguyên và môi trường, phân tích dự án kinh tế, thị trường chứng khoán, v.v. Đây là những môn ít khi dạy ở cấp đại học 4 năm và có dạy thì chỉ là những môn để học sinh có thể chọn lựa, và đây cũng là những môn mà trường đại học có thầy đã và đang nghiên cứu chuyên sâu. Đòi hỏi mỗi thứ một tí, học sinh không có khả năng 8
  11. hoặc thì giờ đi sâu vào bất cứ vấn đề gì và chắc chắn là thầy cũng chỉ đọc sách nói lại mà không hiểu thầy có hiểu không nữa. Theo các tài liệu giáo khoa của trường thì nội dung rất là rất nặng lý thuyết mà nhiều phần học sinh ở M ỹ chỉ học trong chương trình sau cử nhân. Như vậy trường chỉ nhằm nhồi sọ kiến thức lý thuyết kinh tế nhưng sự phân chia chi li các lớp học thì lại có vẻ thực dụng như dạy nghề. (theo Vũ Quang Việt - So sánh chương trình giáo dục đại học ở Mỹ và Việt Nam). Ngoài ra, Theo số liệu dự báo của Bộ Thông tin và Truyền thông, đến năm 2018, Việt Nam sẽ có 50-60 triệu người sử dụng Internet, có khoảng 40 triệu người sử dụng smartphone, và trên 1 triệu smart tivi tích hợp Internet. Để đón đầu xu hướng đó, trong vài năm trở lại đây, các doanh nghiệp CNTT cũng tăng cường nhu cầu tuyển dụng nhân lực. Riêng năm 2012 nhu cầu này đã tăng hơn 66% so với năm 2011, đặc biệt nhu cầu tuyển dụng nhân sự trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học chuyên ngành như lập trình viên, kỹ sư hệ thống mạng, kỹ sư phần cứng, tester, nhân viên phát triển phần mềm, thiết kế lập trình web, lập trình mobile Đối lập với tương lai màu hồng đó, thị trường lao động năm 2012 cho thấy nguồn cung nhân lực chỉ đáp ứng 70% nhu cầu tuyển dụng. Ngoài ra, nguồn cung đa số lại là sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng còn hạn chế về kỹ năng, chưa phù hợp yêu cầu chuyên ngành lẫn trình độ ngoại ngữ. Chia sẻ vấn đề này, đại diện công ty Micro Game cho biết công ty không yêu cầu quá cao về mặt chuyên môn khi tuyển dụng, nhưng phần lớn sinh viên mới ra trường quá thiếu kỹ năng làm việc và chậm thích nghi với môi trường, văn hóa doanh nghiệp. Điều này gây khó khăn cho quá trình tuyển dụng nhân sự, cũng như làm cho công ty phải tiêu tốn khá nhiều chi phí để đào tạo lại cho các ứng viên. Giải thích cho nghịch lý thừa thầy - thiếu thợ trong ngành CNTT, ông Phí Anh Tuấn - Phó chủ tịch Hội tin học TPHCM, cho rằng những khó khăn chính trong việc đào tạo CNTT hiện nay là chương trình giảng dạy còn chú trọng lý thuyết trong khi doanh nghiệp cần kỹ năng, các trường thiếu phương tiện thực hành cho sinh viên và thiếu thông tin về nhu cầu thị trường. Bên cạnh đó, với sức hút của một ngành đang phát triển mạnh mẽ và được đầu tư để trở thành ngành chủ lực thì các trường đại 9
  12. học, cao đẳng, trung cấp đua nhau đưa CNTT vào đào tạo và mỗi năm thu hút hàng nghìn thí sinh dự thi. Nhưng chất lượng đào tạo thì không phải đơn vị nào cũng đặt lên hàng đầu. Tiếc rằng, dù được định hướng khá nhiều, cho đến nay, tâm lý có tấm bằng đại học vẫn là mục tiêu duy nhất của các phụ huynh khi cho con mình chọn trường, chọn nghề. Hoặc khi so sánh với GDĐH ở Mỹ thì Giáo dục Mỹ chú trọng nhiều đến đào tạo học sinh một cách toàn diện. Việc học và việc chơi được kết hợp hết sức nhuần nhuyễn. Ngoài giờ lên lớp, sinh viên ở Mỹ còn tham gia vào rất nhiều các câu lạc bộ, các tổ chức khác nhau, rồi chơi thể thao, hát, chơi nhạc Các hoạt động này vừa giúp tăng cường thể chất đồng thời cũng có tác dụng phát triển tính năng động, sáng tạo, và nhất là khả năng lãnh đạo (leadership skill). Đối với mỗi sinh viên, nếu chỉ biết học mà không hoạt động sẽ là một thiệt hại lớn. Đơn cử như chuyện xin học đại học của sinh viên M ỹ, không có những kỳ thi đại học căng thẳng, những giờ học thêm tối ngày, việc bạn có vào được một trường đại học tốt hay không được hoàn toàn quyết định bởi toàn bộ quá trình phấn đấu của học sinh ở trường trung học. Ngoài chuyện điểm học, điểm thi các kỳ thi bắt buộc thì chuyện bạn năng động, tích cực trong môi trường trường học cũng là một yếu tố quan trọng có tính chất quyết định trong việc bạn có được nhận vào đại học hay không.( theo Phương pháp giáo dục tại các trường ở Mỹ - vnuitp.edu.vn). + Nguyên nhân: Do định hướng về dạy trong đào tạo chưa chuẩn mực, quá nghiêng về số lượng, hình thức, chưa chú trọng chất lượng. Trong chất lượng lại chưa coi trọng giáo dục phẩm cách, giáo dục tính chân thiện mỹ cho sinh viên mà thường chú trọng chuyên môn, nhưng có nghịch lý là chuyên môn cũng chưa đạt yêu cầu. (theo TS Bùi Thị An - Theo Tạp chí Giáo dục Thủ đô số 45 tháng 10/2013) + Giải pháp:Điểm mấu chốt của chương trình đào tạo nằm ở chỗ trong quá trình đào tạo, các trường nghề đẩy mạnh công tác liên kết và hợp tác cùng các doanh nghiệp để mang lại những cơ hội học tập tốt nhất cho sinh viên. Các bạn thường xuyên được làm trên các dự án thật do doanh nghiệp cung cấp cũng như đến thực tập trực tiếp tại công ty để có thể làm quen với môi trường công việc, rèn luyện, nâng cao tay nghề và không bị bỡ ngỡ khi bắt tay vào công việc thực tế. 10
  13. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của chương trình giáo dục (mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục) theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực người học. Nội dung chương trình phải đổi mới từ phân hóa theo môn học thành tích hợp theo mục tiêu đào tạo; giảm lý thuyết từng chương, tăng cường thực tế; đổi mới mạnh mẽ từ nhà trường khép kín, gò bó sang giáo dục xã hội, mở rộng cửa trường đưa nhà trường thâm nhập vào cuộc sống. - Thực trạng 3:Các trường xây dựng chương trình đào tạo phải tuân theo chương trình khung của Bộ giáo dục một cách cứng nhắc. Ở đại học Việt Nam tất cả các môn có tính bắt buộc, học sinh không có quyền tự chọn, Sinh viên phải học tất cả mọi thứ mà nhà trường đã quyết định sẵn (Chỉ được chọn môn tự chọn từ 1 đến 3 môn trong một học kì, hoặc năm cuối khi học theo tín chỉ). + Ví dụ: Trao đổi về vấn đề này, Thầy Ngô Đăng Thành, giảng viên Trường ĐH Kinh tế TP. HCM đã có ý kiến: "Kiến thức chuyên ngành sinh viên được học quá ít. Ví dụ, một chương trình cử nhân, bao gồm 125-130 tín chỉ tất cả các môn, trong đó có khoảng 80-90 tín chỉ là môn chung. Các môn chung của ngành cũng khoảng 20 tín chỉ. Cho nên những kiến thức sẽ học để sau này sinh viên đi làm thực tế chỉ còn khoảng 20 tín chỉ nữa, tương đương với 4-5 môn." (Nguyễn Hoàng Hạnh, 2008) GS-TSKH Đỗ Trần Cát, Tổng Thư ký Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước cho rằng Bộ giáo dục đào tạo phải xem xét và phân bổ lại chương trình học. Ví dụ đối với môn chung như triết học, kinh tế chính trị trong các trường đại học nên phân bố số tiết ít hơn, để dành thời gian giảng dạy các môn chuyên ngành sẽ thiết thực hơn. (H.L.Anh - D. Hằng, 2005) Còn ThS. Đào Đức Tuyên, Phó Trưởng khoa Ngoại ngữ (Trường ĐH Nông Lâm Tp.HCM) phát biểu: môn Giáo dục thể chất được quy định trong chương trình khung của Bộ, nên chăng đổi lại thành môn tự chọn vì như vây sinh viên có thể chọn những môn thể thao phù hợp với điều kiện sức khỏe và thể lực của mình. M ôn Giáo dục quốc phòng cũng vậy, nên chuyển sang thành môn tự chọn vì một tháng 11
  14. học ròng rã cả lý thuyết lẫn thực hành như hiện nay thực sự không cần thiết đối với sinh viên, đặc biệt là sinh viên nữ (H.L.Anh - D. Hằng, 2005). + Nguyên nhân: Hiện nay, chương trình giáo dục đại học tại Việt Nam vẫn còn kém hiệu quả. Nguyên nhân do Bộ khống chế quá chặt về chương trình khung và yêu cầu các trường phải tuân thủ một cách cứng nhắc. Ngày xưa, để có thể đưa vào một nội dung mới hay bỏ đi nội dung cũ rất khó khăn. Bởi thời lượng chỉ có từng ấy, trong khi nội dung nào cũng quan trọng, không biết phải bớt cái gì; cái mới nào cũng thấy cần, cũng muốn đưa vào. Ngoài ra, Chưa nhận thức sâu sắc và chậm đổi mới tư duy về phát triển giáo dục trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều cấp ủy Đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương còn lúng túng trong việc cụ thể hóa quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu” và xử lý các vấn đề của giáo dục trong thực tiễn; chưa thể chế hóa kịp thời, phù hợp các chủ trương, chính sách của Đảng về giáo dục. Chưa có sự phối hợp tốt giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển giáo dục. Việc xác định nhiều mục tiêu phát triển giáo dục chưa tính toán đầy đủ đến các điều kiện thực hiện. Thiếu quy hoạch phát triển nhân lực của đất nước, của ngành giáo dục. Không kịp thời sơ kết, tổng kết, đánh giá các chính sách về giáo dục. Các chế độ, chính sách đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa thỏa đáng. + Giải pháp: Bộ Giáo dục và Đào tạo không nên quy định các trường đại học phải tuân theo chương trình khung một cách cứng nhắc mà hãy để các trường đại học chủ động biên soạn chương trình. Chương trình khung của Bộ là chương trình chuẩn để các trường dựa vào đó tự thiết kế chương trình cho mình, như thế mỗi trường đại học sẽ có chương trình đặc thù mang thế mạnh riêng. Đối với những môn chuyên ngành, trường sẽ giao cho khoa chủ động xây dựng chương trình. Như vậy chương trình giảng dạy sẽ hữu dụng hơn vì dựa vào nhu cầu thực tế của xã hội và trình độ của sinh viên, cơ sở đào tạo sẽ điều chỉnh và cải tiến chương trình học một cách khoa học và kịp thời. 12
  15. - Thực trạng 4:Không xây dựng tốt chuẩn đầu ra đối với chương trình đào tạo. + Ví dụ: TS Nguyễn Đức Nghĩa, Phó Giám đốc ĐH Quốc gia TP HCM , cảnh báo tại hội thảo “Giải pháp phát triển nghề nghiệp hướng đến ASEAN 2015” do ĐH Quốc gia TP HCM tổ chức ngày 16-11: “Nếu các trường ĐH Việt Nam không nâng được chất lượng đào tạo, không xây dựng chuẩn đầu ra ngang tầm khu vực thì không khéo các kỹ sư, cử nhân Việt Nam sẽ thất bại ngay chính trên sân nhà vì không cạnh tranh được với đồng nghiệp đến từ các nước khác trong khu vực”. Hoặc, Thạc sĩ Trần Anh Tuấn, Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP HCM, cho biết hằng năm, TP HCM có 55.000 sinh viên (SV) các trường ĐH, CĐ tốt nghiệp. Nếu tính cả học sinh trung cấp, công nhân kỹ thuật, đào tạo ngắn hạn thì có khoảng 180.000 người. Trong đó có khoảng 80% SV ra trường tìm được việc làm đúng trình độ đào tạo; số còn lại tìm việc rất khó khăn hoặc không tìm được việc làm, phải làm công việc thấp hơn trình độ được đào tạo. + Nguyên nhân: Do khi bắt đầu xây dựng hay cải tiến chương trình không khảo sát ý kiến của doanh nghiệp, hỏi họ xem sinh viên của mình ra trường yếu, mạnh ở điểm nào, phải bổ sung gì, thường doanh nghiệp phải đào tạo lại những gì. Từ khảo sát đó sẽ điều chỉnh lại chuẩn đầu ra cho phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp. Tiếp theo, tiến hành xây dựng chuẩn đầu ra, việc xây dựng chuẩn đầu ra cũng cần lấy ý kiến doanh nghiệp. Bên cạnh đó do nhu cầu tuyển dụng giảm cũng là một nguyên nhân nhưng cái chính là SV thiếu kỹ năng thực tế, không thuyết phục được nhà tuyển dụng. + Giải pháp: Cần xây dựng các chương trình giảng dạy phải có chuẩn đầu ra. Chuẩn đầu ra ở đây là phải lấy thực tế khách quan và yêu cầu xã hội làm căn cứ, chứ không phải là “chuẩn” nhưng do nhà trường tự quyết định như nhiều cơ sở đào tạo đại học đang làm. Chuẩn đầu ra phải hiểu là đáp ứng nhu cầu rất đa dạng về chủng loại và chất lượng. Để thanh niên tự tin hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, bên cạnh các hoạt động hỗ trợ từ nhà trường, từng cá nhân sinh viên phải không ngừng tự học, rèn luyện, tự 13
  16. tu dưỡng, tự chịu trách nhiệm để trang bị cho mình kỹ năng, kỷ luật, có tác phong của lao động chất lượng cao. - Thực trạng 5:Nhiều chương trình liên kết của một số trường ĐH chưa được kiểm định chất lượng nhưng vẫn được đưa vào hoạt động tại Việt Nam, tư cách pháp nhân của nhiều đối tác nước ngoài không bảo đảm. + Ví dụ: Nguyên Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân đã nêu ra một thực tế giật mình về việc liên kết đào tạo với nước ngoài: Trong số 200 chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài có những chương trình đào tạo liên kết triển khai tại ĐH Quốc gia Hà Nội và TP.HCM chất lượng không tốt, không hiệu quả do không thẩm định hồ sơ chặt chẽ. Bên cạnh đó có tới 40 chương trình liên kết chui, đào tạo không cấp phép hoặc sai lệch với nội dung cấp phép chương trình(vietbao.vn). Hay, Có thể chỉ ra Công ty TNHH Đào tạo công nghệ thông tin và Quản trị kinh doanh Singapore có chức năng đào tạo nghề trình độ sơ cấp và đào tạo bồi dưỡng ngoại ngữ trình độ A, B, C; tin học trình độ A, B, kỹ thuật viên; công ty không được phép tổ chức hoạt động giáo dục theo chương trình giáo dục mầm non, phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, thạc sĩ và tiến sĩ trên lãnh thổ Việt Nam.Nhưng thực tế, qua thanh tra công ty này đã tuyển sinh chương trình cao đẳng và cử nhân khoa học, vi phạm Nghị định 49/2005/NĐ-CP và phải chịu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục; Thanh tra Bộ GD&ĐT cũng đã kiểm tra, phát hiện Công ty Melior Việt Nam vì hoạt động quảng cáo, tuyển sinh, đào tạo trái phép các ngành quản trị kinh doanh, quản trị du lịch và khách sạn trình độ cao đẳng và đại học trên lãnh thổ Việt Nam.(Thu Phương – Thanh Phong – cand.com.vn) + Nguyên nhân:Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng cho rằng, công tác quản lý hoạt động liên kết đào tạo với nước ngoài trong thời gian qua cũng còn nhiều hạn chế. Tiến độ soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật về liên kết đào tạo với nước ngoài còn quá chậm; nhiều vấn đề mới phát sinh, nhiều nội dung không phù hợp kéo dài nhưng vẫn chậm được sửa đổi, bổ sung dẫn tới những bất cập trong liên kết đào tạo tại một số cơ sở đào tạo trong thời gian qua. Công tác thanh tra, kiểm tra trong liên kết đào tạo với nước ngoài chưa đủ rộng 14
  17. khắp và kịp thời dẫn tới tình trạng liên kết “chui” không xin phép của một số đơn vị, đặc biệt là một số viện nghiên cứu tư nhân, trung tâm và một số cơ sở khác không có chức năng đào tạo, không đáp ứng được các điều kiện về liên kết đào tạo với nước ngoài. Công tác thẩm định năng lực của đối tác liên kết còn chưa sâu sát dẫn đến có trường hợp tư cách pháp nhân của đối tác nước ngoài không bảo đảm, nhiều chương trình liên kết của một số trường ĐH chưa được kiểm định chất lượng nhưng vẫn được đưa vào hoạt động tại Việt Nam (như Trường ĐH Frederick Taylor, Trường ĐH Quốc tế Mỹ, Trường ĐH Preston, Trường ĐH Nam Thái Bình Dương, Trường ĐH Irvine - Hoa Kỳ, ). Hoặc, Ông Trần Văn Rũng - Viện trưởng IABM - cho biết sau khi Báo Tuổi Trẻ phản ánh, Viện đã ngừng tuyển sinh chương trình thạc sĩ của ĐH quốc tế Adam. Với chương trình tiến sĩ của IAU mà viện đang tổ chức, ông Rũng nói đó chỉ là những khóa học chuyên đề, lồng ghép chương trình của các ĐH nước ngoài. (kenhtuyensinh.vn) Hay, Khảo sát của đồng tác giả PGS- Tiến sĩ Ngô Doãn Đãi và PGS- Tiến sĩ Lê Đức Ngọc (ĐHQG Hà Nội) cũng đúc rút 4 tồn tại trong liên kết đào tạo ĐH xuyên biên giới ở Việt Nam cần khắc phục. Cụ thể: Quy mô liên kết còn nhỏ, do những hạn chế về cơ sở vật chất và trình độ ngoại ngữ của đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên của các trường ĐH Việt Nam. Do vậy, liên kết đào tạo ĐH với nước ngoài chưa đáp ứng nhiều nhu cầu học tập ĐH của sinh viên. Vì sao nhiều gia đình Việt Nam dù điều kiện kinh tế còn hạn hẹp nhưng vẫn tìm cách cho con đi du học là do chất lượng đào tạo trong các chương trình liên kết do các trường ĐH Việt Nam tự tìm đối tác được đảm bảo chất lượng đến mức độ nào chưa có câu trả lời. + Giải pháp: Thực hiện Nghị quyết 50/2010/QH12 của Quốc hội, cơ quan quản lý nhà nước đã chú trọng hơn tới việc quản lý các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài nhằm một mặt bảo đảm phát huy mặt mạnh của liên kết đào tạo, mặt khác ngăn chặn, hạn chế những nguy cơ, rủi ro của hoạt đông liên kết đào tạo với 15
  18. nước ngoài. Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 73/2012/NĐ-CP ngày 26/9/2012 quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục (thay thế và khắc phục một số bất cập về pháp lý cũng như nhiều nội dung không còn phù hợp của các quy định liên quan đến hợp tác, liên kết đào tạo của Nghị định 06/2000/NĐ-CP Nghị định số 18/2001/NĐ-CP của Chính phủ). Đồng thời, Bộ GD- ĐT thời gian qua đã có nhiều văn bản chỉ đạo, yêu cầu tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động liên kết đào tạo với nước ngoài cũng như tăng cường đảm bảo thực hiện tốt công tác thẩm định và cấp phép các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài như không cấp phép những chương trình liên kết đào tạo với những đối tác nước ngoài nếu chưa được công nhận chất lượng đào tạo tại nước sở tại. Bộ GD-ĐT đã tiến hành kiểm tra hoạt động liên kết đào tạo với nước ngoài tại 27 cơ sở giáo dục ĐH và thanh tra 12 đơn vị khác đang tổ chức hoạt động đào tạo có yếu tố nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, qua đó đã kịp thời phát hiện những bất cập và chỉ đạo chấn chỉnh hoạt động liên kết đào tạo với nước ngoài của các cơ sở như yêu cầu lập hồ sơ xin phép liên kết đào tạo theo đúng quy định; đình chỉ một số chương trình liên kết đào tạo và xử phạt vi phạm hành chính 10/12 đơn vị, buộc dừng hoạt động tuyển sinh và tổ chức đào tạo trái phép trên lãnh thổ Việt Nam, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người học. 2. Thực trạng về giáo trình đào tạo hiện nay. - Thực trạng 1: Giáo trình thiếu tính cập nhật kiến thức quốc tế, thiếu tính mới, thiếu tính ứng dụng thực tế, nhiều trường phải sử dụng giáo trình của trường khác để giảng dạy, còn quá nặng về lý thuyết, dẫn đến tình trạng sinh viên có thói quen học một cách thụ động. + Ví dụ: TS Nguyễn Văn Đệ cho rằng, mục tiêu đảm bảo các chương trình đào tạo đều có đủ giáo trình không khó, khó ở chỗ các trường cần phải có một bộ giáo trình phù hợp. M à đa số các trường đều không đủ khả năng lực và điều kiện thực hiện, vì vậy cần có sự hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau trong xây dựng chương trình đào tạo và biên 16
  19. soạn giáo trình, bài giảng để có thể công nhận chương trình đào tạo của nhau và phát huy thế mạnh về hoạt động trong biên soạn trong từng môn học, từng ngành đào tạo mỗi trường. Các trường “mạnh” có nhiều chuyên gia đầu ngành, đồng thời là các chuyên gia viết giáo trình, họ cũng đồng thời có cả nhà xuất bản nên sẽ là nơi cung cấp giáo trình cho các trường ĐH, CĐ khác trong toàn quốc. Tuy nhiên, các trường “mạnh” thường có nguồn tuyển sinh chất lượng cao nên giáo trình được viết ra dành cho các đối tượng này sẽ rất khó sử dụng trong các trường có nguồn tuyển sinh chất lượng thấp hơn. Chưa kể hiện tượng vi phạm bản quyền, luật sở hữu trí tuệ (photo copy giáo trình) cũng ảnh hưởng rất nhiều tới công tác biên soạn và xuất bản giáo trình. Hay,Hiệu trưởng Trường ĐH Nguyễn Trãi – PGS. TS Nguyễn Văn Nhã, các trường ĐH, CĐ nếu không phải là các trường đầu ngành thì không nên tổ chức biên soạn giáo trình, mà lựa chọn giáo trình chuẩn, chất lượng để mua, trao đổi, phủ kín các môn học của các ngành - đó là một trong các giải pháp tiết kiệm và khoa học. Trường ĐH Nguyễn Trãi đã đi theo cách đó là chính. Với một số ít các môn học mang đặc thù nghề nghiệp, trường đầu tư kinh phí thỏa đáng để các giảng viên giỏi của trường biên soạn. Hiện thư viện của Trường ĐH Nguyễn Trãi có đầy đủ cả 3 loại giáo trình: Giáo trình bản cứng, giáo trình số hóa và các bài giảng điện tử. 100% môn học đều có giáo trình. Hoặc, Bộ giáo trình viết cho các khóa đào tạo tin học trong khuôn khổ Đề án 112 sau khi thẩm định được đánh giá là “cuốn cao cấp thì quá cao cấp và cuốn thấp cấp thì quá thấp cấp”. M ột đơn vị được giao thẩm định bộ sách đồ sộ dùng cho các khóa đào tạo của Đề án 112 phải mất 2 tháng trời để đọc. “Đọc xong tôi toát mồ hôi hột vì thấy có sách dường như viết để cho các nhà chuyên môn về CNTT, có sách viết miên man trên trời dưới bể và có sách lại viết về những gì mà ngoài thị trường bán đầy rẫy” - Một chuyên gia tham gia thẩm định nhận xét. Khách quan mà nói, vẫn theo chuyên gia này, có không ít cuốn viết đạt chất lượng cao như Giáo trình Sử dụng, Quản trị & Lập trình UNIX/LINUX và Giáo trình Nhập môn Ngôn ngữ XML Có những cuốn khá thiết thực cho địa phương và 17
  20. cơ sở như Tài liệu hướng dẫn vận hành hệ thống thông tin tổng hợp kinh tế xã hội phục vụ điều hành trên địa bàn huyện. Nhưng nhìn chung, phần lớn các cuốn đều nặng về lý thuyết, quá cao so với yêu cầu đặt ra đối với học viên. Mỗi cuốn viết cho thời gian học chính thức 40 - 60 tiết. “Tập huấn kéo dài như thế vừa không phù hợp về tâm sinh lý vừa không cần thiết với học viên là công chức để thực thi hệ thống máy tính hiện hành”. Có những cuốn viết về các phần mềm cơ bản như Word, Excel mà bất cứ ai nhập môn máy tính đều có thể mua sách ngoài chợ và thậm chí tự học. “Viết những sách như thế là thừa, lãng phí vô cùng - Chuyên gia nhận xét - Nếu thực sự cầu thị, Ban Điều hành 112 chỉ cần yêu cầu địa phương tự tổ chức đào tạo những vấn đề cơ bản đó và họ hoàn toàn đủ sức mua sách ngoài chợ để có thể chọn những cuốn tốt nhất”. Thậm chí có những cuốn như Quản lý Văn bản & Hồ sơ Công việc ấn hành vào năm 2005 để hướng dẫn cho phần mềm dùng chung quản lý hồ sơ công việc mang mã số 112.HS.002.P1. Cuốn này được đánh giá là in ra mà không ai đọc, được dạy rất ít và nhất là, không biết tác dụng của nó thế nào. Đơn giản là vì, đến thời điểm năm 2005, cả ba phần mềm dùng chung đều bộc lộ sự kém hiệu quả, hầu như không dùng chung được. “Vậy thì viết về cái thấy mười mươi không dùng được nữa để làm gì”. (Giáo trinh đào tạo của Đề án 112 xa thực tiễn – www.tienphong.vn). + Nguyên nhân: Do sự thiếu sót trong việc gắn kết, đi sâu vào những nội dung “gần gũi đối với thực tế” trong giáo trình, hầu hết các cơ sở đào tạo đều nhận thấy nhưng chưa có giải pháp khắc phục tận gốc. Những giải pháp mà các cơ sở đào tạo và đội ngũ giảng viên đang cố gắng thực hiện trong thời gian qua là tăng cường các học phần thực hành, các buổi tham quan thực tế, giao lưu với người thành đạt hoặc bổ sung thêm một số tình huống mang tính minh họa , nhưng lại thiếu sót tiền đề căn bản để đảm bảo thống nhất nội dung cũng như nâng cao chất lượng là tài liệu học tập được nghiên cứu đảm bảo tính khoa học, chính là các giáo trình mang nội dung tình huống và xử lý tình huống. Nguyên nhân tiếp theo mà đa số tất cả các trường đại học dù là công lập hay ngoài công lập đều mắc phải là tình trạng vay mượn, chắp vá giáo trình. Thông 18
  21. thường, những trường ra đời sau sẽ có sự tiếp thu, học hỏi cả chương trình và giáo trình đào tạo từ những trường lâu năm, uy tín. Tuy nhiên chính sự tiếp thu không chọn lọc, không hiểu rõ mục tiêu, sứ mạng, đối tượng sinh viên và điều kiện thực tế của từng trường đã làm nên những giáo trình không phù hợp, nội dung chắp vá từ nhiều nguồn khác nhau dẫn tới sự lệch pha so với thực tế. M ột nguyên nhân nữa không thể không nhắc đến là chủ quan trong việc mời viết sách, Chẳng hạn như là toàn bộ kế hoạch viết sách mang tính giáo dục và đào tạo cho ngành giáo dục & đào tạo lại không được tham khảo ý kiến, một quan chức ở Bộ Giáo dục & Đào tạo tiết lộ.Điều thất vọng nhất đối với những người viết sách là họ hầu như không bám sát diễn tiến của chương trình để điều chỉnh nội dung viết và, thậm chí, để không viết nữa. Dường như không có sự chỉ đạo và giám sát nào trong quá trình các tác giả viết sách.Thậm chí, dường như các hợp đồng viết sách là giữa Ban Điều hành với các cá nhân chứ không phải là với đơn vị của họ. + Giải pháp: Hiện nay giáo trình đào tạo còn quá nặng nề lý thuyết, chưa gắn liền với thực tế công việc cụ thể, dẫn đến tình trạng SV có thói quen học một cách thụ động. Vì vậy, việc giảng dạy lý thuyết cần đi kèm với những dẫn chứng và tình huống cụ thể được áp dụng trên thực tế để SV dễ dàng nắm bắt, hiểu và biết cách áp dụng những kiến thức đã học. Bên cạnh đó, với chương trình đào tạo cần giảm bớt thời lượng dành cho phần kiến thức đại cương và kiến thức giáo dục chuyên nghiệp để dành nhiều thời gian hơn cho kiến thức chuyên ngành, hướng tới việc kiến thức chuyên ngành chiếm từ 50% thời gian đào tạo trở lên”. Đặc biệt là nên biên soạn bổ sung “giáo trình thực tiễn” có thể được xem là lựa chọn tốt nhất để khắc phục một số khiếm khuyết của thực trạng giáo trình hiện nay như đã nêu ở phần trên. “giáo trình thực tiễn”có thể được xem là một tài liệu kiểm nghiệm những kiến thức mà người học đang tiếp nhận từ “giáo trình hàn lâm”, là kiểm nghiệm của người học với thực tế mà họ đang tiếp xúc, là những kinh nghiệm mà người học có thể học ngay trên giảng đường, và có lẽ đó chính là sự kiểm định rõ ràng nhất đối với khả năng “đứng lớp” của từng giảng viên đại học. Một số kiến nghị tác giả xin được phép đề cập để xúc tiến đẩy mạnh biên soạn “giáo trình thực tiễn”. 19
  22. Ngoài ra, Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của chương trình giáo dục (mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục) theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực người học Xác định mục tiêu giáo dục con người vừa đáp ứng yêu cầu xã hội vừa phát triển cao nhất tiềm năng của mỗi cá nhân. Phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ thay vì chỉ chú trọng trang bị kiến thức; kết hợp hài hòa dạy người, dạy chữ và dạy nghề; Chuyển từ chủ yếu thực hiện chương trình giáo dục trên lớp học sang tổ chức đa dạng các hình thức thực hiện chương trình giáo dục, tăng cường các hoạt động xã hội, nghiên cứu khoa học của người học. Coi trọng sự phối hợp chặt chẽ giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học, tăng cường áp dụng hình thức giáo dục từ xa có chất lượng. Nội dung giáo dục đổi mới theo hướng tinh giản, cơ bản, hiện đại, giảm tính hàn lâm, tăng tính thực hành và vận dụng kiến thức, kỹ năng vào thực tiễn. Thiết kế nội dung theo hướng tích hợp cao các môn học ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học trên, giảm số môn học bắt buộc, tăng số môn học, chủ đề và hoạt động giáo dục dành cho học sinh tự chọn. Đa dạng hóa nội dung giáo dục nghề nghiệp theo hướng tích hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ, hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học. Đổi mới nội dung giáo dục đại học theo hướng cơ bản, tích hợp các lĩnh vực kiến thức, kỹ năng và hiểu biết xã hội, tiếp cận thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến trên thế giới. Đổi mới chương trình giáo dục đạo đức, giáo dục công dân, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí M inh theo hướng tập trung vào những giá trị cơ bản của đạo lý dân tộc, đạo đức xã hội, trách nhiệm cộng đồng, những giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa M ác - Lênin; giảm tải phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề đào tạo. Dạy học ngoại ngữ và tin học theo hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng thực tế của người học. Chú trọng dạy tiếng nói và chữ viết của dân tộc thiểu số. Phát triển đa dạng nội dung, tài liệu học tập đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của mọi người. 20
  23. Từng bước đổi mới nội dung giáo trình, loại bỏ những kiến thức không thiết thực, bổ sung những nội dung cần thiết theo hướng bảo đảm kiến thức cơ bản, cập nhật những tiến bộ khoa học, công nghệ, tăng nội dung công nghệ ứng dụng, tăng cường giáo dục kỹ thuật tổng hợp và năng lực thực hành. Tăng cường các môn khoa học xã hội và nhân văn , nhất là tiếng Việt, lịch sử dân tộc Việt, địa lý và văn hoá Việt Nam. Tổ chức cho sinh viên, học sinh tham gia công tác xã hội, tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao phù hợp với yêu cầu giáo dục toàn diện. Tóm lại, việc biên soạn giáo trình có thể là một vấn đề không mới, nhưng theo ý kiến chủ quan của tác giả, chưa thật sự được quan tâm và đánh giá đúng mức trong thời gian qua. Giải pháp này theo tác giả thiết nghĩ không tốn kém quá nhiều chi phí nhưng sẽ góp phần giải quyết căn bản việc nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, nâng cao uy tín và khẳng định thương hiệu của cơ sở đào tạo và mục tiêu mấu chốt chính là tăng khả năng thích ứng của người học với môi trường thực tế, đó cũng là một giải pháp cụ thể hóa phương châm giáo dục theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “học đi đôi với hành”, “lý thuyết gắn liền với thực tế. - Thực trạng 2: Ở Việt Nam chính sách tài chính về viết giáo trình và NCKH chưa hợp lý. Vì vậy giảng viên không nhiệt tình với việc viết giáo trình và NCKH. + Ví dụ: PGS.TS Nguyễn Văn Nhã – Nguyên Trưởng Ban đào tạo ĐHQG Hà Nội, hiện là Hiệu trưởng Trường ĐH Nguyễn Trãi đưa ra 4 cái khó: M ột là, có những thầy giỏi không muốn “cho người khác học, lộ bài”. Hai là, có thầy lại quan niệm ĐH, CĐ không phải phổ thông cấp 4 nên không có giáo trình mà chỉ có một số sách tham khảo. Ba là, kinh phí đầu tư cho viết giáo trình quá thấp, rất thấp nên chưa khuyến khích và tạo động lực để các thầy viết giáo trình. Bốn là, không phải thầy cô nào dạy ĐH, CĐ cũng viết được giáo trình. Hay, Trong Chương trình “Dân hỏi-Bộ trưởng trả lời” vừa diễn ra, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KHCN) Nguyễn Quân cho biết một trong những nguyên nhân gây chậm trễ trong cấp phát kinh phí nghiên cứu KHCN thời gian qua là do hành chính hóa việc phê duyệt các nhiệm vụ nghiên cứu KHCN như các dự án đầu tư xây dựng cơ bản.“Ví dụ kinh phí dành cho các nhiệm vụ nghiên cứu khoa 21
  24. học công nghệ cấp nhà nước năm 2011 đến tháng 2/2012 mới được giao, kinh phí nghiên cứu năm 2012 thì đến tháng 10/2012 mới được giao và kinh phí năm 2013 thì vừa mới có”, Bộ trưởng Nguyễn Quân cho biết thêm. Ngoài ra, PGS-TS Mai Hồng Quỳ cho biết:“Chúng tôi đang hối thúc tất cả các khoa tiến hành làm giáo trình để sinh viên có tài liệu học tập, tuy nhiên, việc làm giáo trình vô cùng khó khăn do các giảng viên bận đi giảng dạy hoặc đi học tại nước ngoài”. Tuy nhiên, một lý do khiến cho giảng viên không tha thiết trong việc viết giáo trình chính là thù lao quá thấp. Và Bà cho biết hiện mỗi giảng viên trình độ thạc sĩ trở lên tham gia viết sách chỉ được trả thù lao 60.000 đồng/trang. Trong khi đó, để viết được một trang giáo trình, giảng viên phải đầu tư rất nhiều thời gian và công sức. Hoặc, PGS- TS Võ Văn Sen cũng nêu thực tế: “Hiện mỗi giảng viên tham gia viết giáo trình được trả khoảng từ 7- 9 triệu đồng/cuốn, mà để viết xong một giáo trình phải mất từ 6 tháng đến 1 năm, thậm chí 2 năm mới xong. Trong khi chỉ cần đi dạy từ 45 - 90 tiết, giảng viên có thể có số thù lao cao hơn số tiền đó”. Cũng đã từng tham gia viết giáo trình, PGS-TS Trịnh Sâm cho biết nhiều nhà xuất bản trả cho giảng viên thù lao 8%-10% trên giá bìa. Có giáo trình chỉ xuất bản 200 – 500 cuốn, như vậy giảng viên chỉ được hưởng 2 - 5 triệu đồng/cuốn. “Thù lao trả cho trí tuệ khoa học của giảng viên “quá bèo”. Giảng viên “âm thầm” đi dạy thêm chắc chắn có thù lao cao hơn và ít chịu trách nhiệm hơn so với viết sách” - GS Trịnh Sâm nhìn nhận. Thêm vào đó, kinh phí dành cho việc làm giáo trình tại các trường hiện rất hạn chế, đặc biệt là các trường dân lập. “Có cuốn sách tôi viết từ năm 1995, chưa đến nỗi lạc hậu nhưng nếu có kinh phí chắc chắn tôi sẽ phải viết thêm để cập nhật kiến thức mới, tuy nhiên, hiện trường chưa cấp kinh phí để làm” - GS Bùi Khánh Thế nói. PGS-TS Trịnh Sâm cũng cho biết đã chuyển sang đào tạo tín chỉ, nhưng chưa thấy nhà trường đề cập đến việc cấp kinh phí để các khoa làm lại giáo trình. Hoặc, GS Bùi Khánh Thế cho rằng để khuyến khích giảng viên đầu tư vào việc viết giáo trình, trước hết phải trả công xứng đáng với trí tuệ và công sức của họ. PGS - TS M ai Hồng Quỳ cho rằng để giảng viên viết sách thì phải giảm giờ lên lớp 22
  25. cho họ, tuy nhiên, nếu giảm giờ lên lớp thì trường phải tuyển thêm giảng viên trong khi quỹ lương cứng rất eo hẹp. Đây chính là bài toán khó mà các trường đang đối mặt + Nguyên nhân: Cơ chế quản lý, sử dụng đội ngũ giảng viên hiện nay không phát huy hết tiềm năng của cả đội ngũ và từng cá nhân, không kích thích được sự phấn đấu trong chuyên môn, không sàng lọc được dễ dàng và thường xuyên những người yếu kém. Cơ chế, chính sách đãi ngộ chưa tương xứng, vẫn dựa chủ yếu vào khối lượng giảng dạy và thâm niên công tác mà không căn cứ vào thành tích và khả năng nghiên cứu của cá nhân, chưa bảo đảm cho giảng viên có cuộc sống đủ để có thể toàn tâm, toàn ý cho việc bảo đảm chất lượng hoạt động giảng dạy và NCKH. Nguyên nhân gây chậm trễ trong cấp phát kinh phí nghiên cứu thời gian qua là do hành chính hóa việc phê duyệt các nhiệm vụ nghiên cứu Khoa học và Công nghệ. M ột nguyên nhân nữa là xuất phát từ những quy định thiếu hợp lý từ Bộ giáo dục: “Trường nào có sai phạm về việc biên soạn giáo trình thì trường đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật vì nước ta đã có Luật”.Gọi chung là Bộ lại “trói” trường: Đó là ý kiến của nhiều giảng viên về dự thảo thông tư quy định việc biên soạn, lựa chọn, thẩm định, duyệt và sử dụng giáo trình giáo dục đại học của Bộ GD- ĐT. + Giải pháp: Tăng cường cơ sở vật chất và kinh phí cho hoạt động nghiên cứu và viết giáo trình trong đội ngũ giảng viên: Chính sách này cần thực hiện đồng bộ ở tất cả các cấp, từ việc tăng thêm ngân sách hàng năm của N hà nước đến việc tăng tỉ lệ ngân sách dành cho hoạt động nghiên cứu khoa học ở từng trường, tăng kinh phí cho các đề tài nghiên cứu và đầu tư thêm cho các phòng thí nghiệm phục vụ nghiên cứu. Tất nhiên, không phải tăng kinh phí một cách “bình quân chủ nghĩa” mà nên đầu tư “có trọng điểm” đối với các đề tài thực sự cần thiết và chắc chắn mang lại hiệu quả nếu được thực hiện tốt. Có như vậy mới khuyến khích được người đảm nhiệm đề tài, nhưng bên cạnh đó, chủ nhiệm đề tài cũng phải là những người có “tâm” và đủ “tầm”. 23
  26. Tạo điều kiện cho giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học có nhiều cơ hội tiếp xúc, tham gia những hoạt động nghiên cứu, các Hội thảo ở các địa phương trong nước và các nước có nền khoa học và giáo dục phát triển. Cũng có thể tham khảo mô hình của một số trường đại học trên thế giới: dành một khoản ngân sách riêng cho những giảng viên có kết quả nghiên cứu được công nhận rộng rãi ở trong nước và quốc tế. Số tiền này tỷ lệ thuận với số công trình công bố trong năm và đảm bảo cho họ có thể trang trải cho việc tham gia các H ội thảo trong nước (và quốc tế). Điều này đòi hỏi những người làm quản lý nhà nước, đặc biệt là lãnh đạo các bộ ngành phải đổi mới tư duy, nếu nói rằng luật ngân sách là chân lý, không thể thay đổi được và yêu cầu thực hiện theo những điều luật đã trở nên lạc hậu, thì chắc chắn chúng ta không bao giờ đổi mới được hoạt động khoa học công nghệ nói riêng và cơ chế chính sách để phát triển đất nước nói chung. - Thực trạng 3: Một số trường khác (trường nhỏ, trường mới thành lập, ) phải sử dụng giáo trình của trường khác để giảng dạy. + Ví dụ:Hiện nay, nhiều bộ môn của các trường ĐH vẫn phải mượn giáo trình của trường khác hoặc dựa vào bài soạn của giảng viên trong khi việc làm giáo trình riêng của các trường gặp rất nhiều trở ngại. Khoảng 30%-70% giáo trình đi mượn. PGS-TS Võ Văn Sen cho biết số giáo trình do giảng viên Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM viết chỉ chiếm khoảng 40% giáo trình được sử dụng cho các bộ môn, 60% còn lại phải mượn của các trường khác hoặc dựa vào giáo án của giảng viên. PGS - TS Trịnh Sâm, Trưởng Khoa Ngữ văn Trường ĐH Sư phạm TPHCM, cũng cho biết số giáo trình khoa tự biên soạn hiện chiếm khoảng 70%, phần còn lại 30% phải sử dụng sách của các trường khác. Hay,PGS-TS M ai Hồng Quỳ- Trường ĐH Luật TPHCM, cũng cho biết hiện trường mới chỉ làm được khoảng 40 đầu sách cho sinh viên làm tài liệu học tập, trong khi bộ giáo trình đầy đủ cho sinh viên trường là 70 cuốn. Chính vì giáo trình chưa đầy đủ nên cùng một môn học nhưng sinh viên phải sử dụng các giáo trình khác nhau.Ví dụ giáo trình Luật Hình sự tập I sinh viên dùng sách của trường, nhưng tập II lại phải sử dụng sách của Trường ĐH Luật Hà Nội. Mỗi giáo trình có chuẩn riêng về mặt khoa học lẫn thực nghiệm. Tuy nhiên, việc mượn giáo trình của 24
  27. trường khác để sử dụng sẽ khiến cho giảng viên mất đi quan điểm riêng của mình cũng như sự sáng tạo trong giờ lên lớp. Ngoài ra, tại các trường ĐH dân lập, giáo trình do trường biên soạn chỉ đếm trên đầu ngón tay. GS Bùi Khánh Thế, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Ngoại ngữ - Tin học TPHCM, thừa nhận thiếu giáo trình chính là nhược điểm lớn nhất của các trường dân lập. Hiện nay, nhiều bộ môn phải dùng chung giáo trình của trường khác, phần lớn giảng viên tự soạn giáo án lên lớp rồi photocopy cho sinh viên học. + Nguyên nhân: Có nhiều thầy cô giỏi không muốn người khác học, lộ bài, hay lại có quan niệm đại học, cao đẳng không phải là phổ thông cấp 4 nên không cần có giáo trình mà chỉ cần có sách tham khảo là đủ. Nhưng, không phải cơ sở đào tạo nào cũng có khả năng viết giáo trình. M ột số trường không đủ năng lực và điều kiện để xây dựng và biên soạn giáo trình trong từng môn học và từng ngành đào tạo của mỗi trường. + Giải pháp: Xây dựng hệ thống học liệu (hệ thống giáo trình, bài giảng, sách, báo, tạp chí, tài liệu tham khảo khác ở dạng in và dạng số hoá, các nghiên cứu mẫu) đạt chuẩn của trường đại học nước ngoài có uy tín. Đảm bảo tất cả các môn học có ít nhất 2 giáo trình, tài liệu tham khảo đạt chuẩn quốc tế. M ua và sử dụng hệ thống tạp chí khoa học số hoá trên mạng (VD: sciencedirect). - Thực trạng 4: Nhập khẩu giáo trình từ nước ngoài còn nhiều khó khăn. Cách này giúp các trường nhanh có được giáo trình tốt, chất lượng từ nhiều trường ĐH có uy tín trên thế giới. Tuy nhiên, cái khó chính là việc lựa chọn được giáo trình phù hợp, và quan trọng hơn: Phải có đủ tiền. + Ví dụ: Tại Trường ĐH FPT, ngoại trừ các môn Chính trị - Quốc phòng, tất cả các môn học còn lại đều dùng giáo trình nước ngoài với khoảng 200 đầu sách. Việc nhập giáo trình có thể theo phương án là mua bản quyền in sách ở Việt Nam hoặc nhập sách trực tiếp, đảm bảo mỗi sinh viên có một bộ giáo trình dùng riêng. Với mỗi môn học ứng với một giáo trình cụ thể, trường soạn thêm tài liệu hướng dẫn kế hoạch triển khai giảng dạy cụ thể, phù hợp với thời lượng giảng dạy dành cho môn học đó, bổ sung quy định kiểm tra, thi cử Quy trình nhập giáo trình của Trường ĐH FPT được Hiệu trưởng, TS Lê 25
  28. Trường Tùng chia sẻ: Với mỗi môn học, đầu tiên là tìm hiểu xem với môn này các trường trong Top 100 thế giới dùng giáo trình gì, có tài nguyên gì đi theo giáo trình đó? Sau đó mới chọn ra 3 đến 5 bộ giáo trình. Bước tiếp theo là đặt mua trực tiếp các giáo trình để xem xét chi tiết. Cuối cùng là chọn một bộ giáo trình chính thức và đàm phán mua bản quyền hoặc nhập sách. Trường ĐH FPT có Ban Phát triển chương trình do một phó hiệu trưởng phụ trách. Tuy nhiên, theo ông Lê Trường Tùng, lựa chọn giáo trình tốt là công việc mất nhiều công sức. Mua giáo trình nước ngoài cũng tốt không ít tiền, đặc biệt với mục tiêu mỗi sinh viên có 1 bộ giáo trình dùng riêng miễn phí. Hiện nay, Trường ĐH FPT mỗi năm mua bổ sung khoảng 3 tỷ tiền giáo trình cho thư viện. Hay, PGS. TS Nguyễn Văn Nhã, việc ưu tiên bố trí kinh phí, chỉ đạo tổ chức biên soạn, lựa chọn giáo trình, mua bản quyền nước ngoài, dịch và in trong nước , đó là một số những giải pháp thông thường mà mỗi trường ĐH, CĐ đều sử dụng, ĐH Nguyễn Trãi cũng hết sức chú trọng việc này. Cụ thể, chi kinh phí cho tổ chức biên soạn đáp ứng phần nào nhu cầu huy động chất xám của các học giả, giao cho trưởng khoa duyệt các đề cương môn học và danh mục các giáo trình cần mua, tổ chức khai thác sử dụng có hiệu quá các tư liệu hiện có chứ không đắp chiếu, hợp tác với các ĐH, CĐ có cùng ngành đào tạo để khai thác sử dụng chung nguồn cơ sở dữ liệu; sắp xếp để các cơ sở đào tạo (các campus) đều có thư viện và hệ thống mạng truy cập internet. Ngoài ra, PGS. TS Bùi Thiện Dụ, Hiệu trưởng Trường ĐH Phương Đông chia sẻ quan điểm tán thành với việc nhập giáo trình từ nước ngoài. Tuy nhiên, việc nhập về phải gia công lại cho phù hợp với con người và hoàn cảnh của trường. Ở Việt Nam hiếm có việc sinh viên lên thư viện tự học, tự tìm hiểu tài liệu hơn 10 giờ một ngày, hơn nữa hệ thống thư viện của trường cũng chưa đáp ứng được điều đó. Với quan điểm đó, từ năm 2007, Trường ĐH Phương Đông đã nhập và sử dụng những giáo trình tiên tiến, chủ yếu dùng cho những sinh viên năm thứ 3 trở đi. Đó là giáo trình một số chương trình đặc biệt như kế toán, quản trị. Tuy nhiên những giáo trình đó bên cạnh việc thể hiện phần nhập, vẫn có phần kiến thức phù hợp với trường chứ không sao chép toàn bộ. PGS. TS Bùi Thiện Dụ nhận xét: Lấy giáo trình 26
  29. nguyên là rất khó nhưng có thể tham khảo cách đặt vấn đề của họ sao cho thích nghi với điều kiện, tài chính của trường và thực tế, sức khỏe của sinh viên. Nói hình ảnh phải giống như con tôm lột xác. + Nguyên nhân: Các trường ĐH và CĐ không sẵn sàng chia sẻ thông tin về giáo trình với các trường ĐH khác, không sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm sử dụng giáo trình và nếu như có Chương trình quốc gia thỏa thuận với nước ngoài để mua bản quyền in ấn tại Việt Nam, dùng cho sinh viên Việt Nam thì chi phí giáo trình cũng sẽ rất nhiều. Nói chung các NXB nước ngoài không mặn mà với việc cho in giáo trình bằng tiếng Anh tại Việt Nam, vì e ngại về bản quyền và việc xuất khẩu sách in giá rẻ tại Việt Nam sang các nước khác. + Giải pháp: Xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng dịch vụ GDĐH ở Việt Nam phù hợp với quốc tế. Trước mắt, củng cố hệ thống quản lí và đảm bảo chất lượng GDĐH quốc gia hiện có cho phù hợp đối với các hệ thống đảm bảo chất lượng và chuẩn quốc tế. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các chuẩn/ tiêu chí kiểm định cơ sở/chương trình GDĐH trên cơ sở tương thích với các chuẩn quốc tế, nghiên cứu ban hành quy trình kiểm định chất lượng GDĐH. Nghiên cứu xây dựng các tài liệu hướng dẫn và tập huấn cán bộ quản lý các CSGD ĐH tự đánh giá theo chuẩn, Xác định các điều kiện và thủ tục cấp phép thành lập cũng như giải thể, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ sở kiểm định chất lượng GDĐH, nghiên cứu xây dựng các tiêu chí để công nhận các cơ sở kiểm định chất lượng GDĐH và xác định cơ quan chịu trách nhiệm công nhận các cơ sở kiểm định chất lượng GDĐH. Nghiên cứu đề xuất các chính sách nhằm tăng cường hoạt động quản lí và đảm bảo chất lượng trên phạm vi quốc tế. Xây dựng năng lực quản lí và đảm bảo chất lượng dịch vụ GDĐH nói chung, dịch vụ GDĐH nhập khẩu nói riêng 27
  30. KẾT LUẬN Nhằm xây dựng và phát triển một nền giáo dục đại học trong công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa nhằm đáp ứng nhu cầu nhà tuyển dụng, hướng đến đào tạo nguồn nhân lực chất lượng, gắn với nhu cầu thực tế xã hội là định hướng mà ngành Giáo dục đã và đang hướng đến. Chúng ta đều biết hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đang còn rất non yếu, ngay khi so sánh với các nước trong khu vực. Trong đó chương trình đào tạo và giáo trình là yếu tố quan trọng đối với mỗi cơ sở đào tạo giáo dục, đây được ví như là xương sống của một cơ thể. Việc đầu tư đúng mức, có chương trình đào tạo phù hợp, bộ giáo trình tốt là yếu tố then chốt góp phần quyết định sự thành công của cơ sở đào tạo, giúp tạo ra nguồn nhân lực tốt đáp ứng được yêu cầu xã hội. Các cơ sở đào tạo không được xem nhẹ chương trình đào tạo và giáo trình. Với những phân tích về chương trình, giáo trình đào tạo trong các cơ sở giáo dục đại học công lập nói chung và ngoài công lập nói riêng, nhóm nghiên cứu mong muốn cung cấp một cái nhìn tổng quan cùng những bất cập trong việc xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo trong giáo dục đại học tại Việt Nam. Qua đó, đưa ra những đề xuất góp phần nâng cao hiệu quả trong việc xây dựng chương trình, giáo trình, hướng tới mục tiêu đào tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng tốt nhu cầu xã hội, đưa nền giáo dục đại học Việt Nam xích lại gần hơn với nền giáo dục đại học của các nước trên thế giới. Để làm được điều đó, cần có sự chung tay góp sức của cả một hệ thống giáo dục từ trung ương đến địa phương. Nhưng trước hết, thiết nghĩ với cương vị một người giảng viên, là người trực tiếp áp dụng theo chương trình, giáo trình của Bộ giáo dục và đơn vị công tác, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện tốt công việc giảng dạy, trao dồi chuyên môn. Từ đó, nghiên cứu và tìm ra những điểm hợp lý, chưa hợp lý trong chương trình, giáo trình so với thực tế giảng dạy, đưa ra những giải pháp cụ thể, phù hợp với lĩnh vực chuyên môn. Việc làm này tưởng chừng nhỏ bé, nhưng lại mang một ý nghĩa vô cùng to lớn, góp phần nâng cao chất lượng trong việc xây dựng chương chình, giáo trình đào tạo đại học tại Việt Nam. 28
  31. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] PGS.TS. Phạm Lan Hương, “Giáo dục hội nhập quốc tế”,Trường đại học KHXH & NV TPHCM (lưu hành nội bộ), 2013. [2] Lâm Quang Thiệp, Giáo dục đại học Hoa Kỳ, NXB Giáo dục, 2007. [3] Lâm Quang Thiệp, “Giáo dục đại học thế giới – Lược sử; hiện trạng và phương hướng phát triển”, 2008. [4] Phạm Đỗ Nhật Tiến, Vị trí so sánh của GD VN, hội thảo ĐHSP TPHCM, 2008. [5] Đại Học Quốc Gia Hà Nội Web, 144 Đường Xuân Thủy, Quận Cầu Giấy, Hà Nội. [6] Giáo Dục và Thời Đại Web, Cơ quan của Bộ Giáo dục và Đào tạ [7] Hướng Về Giáo Dục, Trang Web chính thức của N hóm Nghiên Cứu Cải Cách Giáo Dục, Hà Nội [8] Talawas Forum Web, Tổng Biên Tập : Phạm Thị Hoài [9] Thanh Niên Online, Diễn Đàn của Hội Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam, 248 Cống Quỳnh, Quận 1, Saigon [10] Tuổi Trẻ Online, Cơ Quan của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí M inh, 60A Hoàng Văn Thụ, Phường 9, Quận Phú Nhuận, Saigon [11] Việt Nam Net, (VNN.VN) Công ty phần mềm và truyền thông VASC. Cơ quan chủ quản : Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam. [12] Việt Nam News Network (VNN), 15568 Brookhurst St., # 247, Westminster, CA 92683, USA [13] - dung-chuong-trinh-dao-tao-1970483/ [14] kien-nghi.html?m=1 [15] tao-chua-duoc-kiem-dinh-739359.htm [16] 29
  32. [17] 08212013162120.html [18] brpage 30