Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- phuong_huong_hoan_thien_phap_luat_dau_tu_nuoc_ngoai_tien_toi.pdf
Nội dung text: Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
- LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
- LỜI NÓI ĐẦU Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thắng lợi quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước đã có nhiều khởi sắc, được nhân dân ta và quốc tế đánh giá cao. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu rõ: “Nghiên cứu để tiến tới áp dụng một khung pháp luật thống nhất chung cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tạo mặt bằng pháp lý chung cho cả đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước là một trong những quy luật khách quan của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Theo lời của Thủ tướng Phan Văn Khải, thì “ Cái chính là mặt bằng pháp luật, mặt bằng cơ chế chính sách”. Nếu không có một “hành lang pháp lý” vững chắc, bảo đảm sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước trong mọi quá trình của hoạt động đầu tư từ khẩu tìm hiểu đầu tư đến khâu thành lập, triển khai, mở rộng hoặc thu hẹp và chấm dứt dự án đầu tư thì sẽ không theo kịp với tiến trình hội nhập. Có thể nói, sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước hiện nay được coi là một trong những hạn chế ảnh hưởng tới tính hấp dẫn, tính cạnh tranh của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong những năm qua, chúng ta có nhiều cố gắng trong việc đưa các quy định của pháp luật đầu tư nước ngoài và các quy định về đầu tư trong nước xích lại gần nhau. Một khi còn tồn tại hai hệ thống quy phạm pháp luật riêng điều chỉnh đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, thì không thể có khái niệm “sân chơi” bình đẳng cho hoạt động đầu tư trong nước, bất kể đó là đầu tư nước ngoài hay đầu tư trong nước. Tất nhiên, do hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ mạnh, nên nếu phải vào cùng một “sân chơi”, trong cùng một “mặt bằng” với các nhà đầu tư nước ngoài, có tiềm lực kinh tế, giàu kinh nghiệm, có công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại hơn hẳn chúng ta, thì các doanh nghiệp Việt Nam không thể cạnh tranh nổi. Chính vì vậy, trước mắt vẫn cần phải có hành lang 1
- pháp lý riêng cho từng loại đối tượng. Nhưng do xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế đang trở thành vấn đề bức xúc và do yêu cầu của việc hội nhập, các quốc gia đang dần xoá bỏ sự khác biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Việt Nam muốn hoà vào xu thế chung đó thì không có cách nào khác là phải từng bước tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Chúng ta phải tính toán để đưa ra những bước đi thích hợp với trình độ, hoàn cảnh và đặc điểm của Việt Nam. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài “Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” hiện nay mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn đòi hỏi thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại Việt Nam. 2
- CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 1.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM Trong đời sống xã hội, pháp luật luôn là một phương tiện quan trọng không thể thay thế để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tổ chức, quản lý đời sống xã hội, bảo đảm cho xã hội ổn định, phát triển, phù hợp với những mục đích mà Nhà nước và xã hội đặt ra. Tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X đã ban hành Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, trong đó quy định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân"; Điều 12 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN ". Quản lý kinh tế nói chung, quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng, là chức năng cơ bản của Nhà nước ta trong điều kiện cụ thể hiện nay. Để thực hiện chức năng này, chúng ta phải nhận thức đúng đắn các quy luật kinh tế – xã hội khách quan, khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước và các điều kiện quốc tế, xây dựng chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, sử dụng đồng bộ và hợp lý các công cụ kế hoạch, chính sách và các đòn bẩy kinh tế. Trong hệ thống các công cụ và biện pháp quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng, được thể hiện ở một số nội dung sau đây: Thứ nhất, để điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, Nhà nước có thể và cần phải sử dụng nhiều công cụ, biện pháp và hình thức khác nhau như chính sách, kế hoạch đầu tư trực tiếp nước ngoài, đòn bẩy kinh tế, pháp luật đầu tư 3
- nước ngoài Tuy nhiên, trong số các công cụ, biện pháp đó, pháp luật đầu tư nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng, bởi lẽ với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của Nhà nước một cách nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô toàn xã hội. Thứ hai, pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nước, luôn luôn gắn liền với Nhà nước và chỉ Nhà nước mới sử dụng công cụ này. Nhà nước điều chỉnh mọi quá trình xảy ra trong xã hội và hành vi của con người, trong đó có hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước được thực hiện bằng một cơ chế thực thi pháp luật và nhờ có quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị thực hiện ý chí của mình, buộc cả xã hội phải tuân theo và phục tùng bằng cách đề ra pháp luật và thực hiện pháp luật trên thực tế. Nhà nước điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng pháp luật. Do đó chỉ có điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng pháp luật thì quyền lực nhà nước mới có ý nghĩa và mới đem lại hiệu quả thiết thực. Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, nên cũng có thể khẳng định, pháp luật đầu tư nước ngoài ra đời từ nhu cầu bảo vệ lợi ích của nhân dân, trong đó có lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị. Thứ ba, sự phát sinh, phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, sau khi pháp luật đầu tư nước ngoài đã được ban hành, các cơ quan nhà nước phải triệt để tuân thủ trong quá trình thực hiện chức năng quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây cũng là một trong những nội dung cơ bản của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay. Thứ tư, trong nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN, sự tồn tại của pháp luật là một nhu cầu khách quan bắt nguồn từ những đòi hỏi của các quan hệ kinh tế. Đây là điểm khác biệt so với thời kỳ quan liêu, bao cấp, vì ở thời kỳ này, sự tồn tại của pháp luật như một nhu cầu chủ quan bắt nguồn từ những đòi hỏi của Nhà nước, là một phương tiện 4
- trong tay Nhà nước để kìm hãm, xóa bỏ những quan hệ kinh tế nào đó một cách duy ý chí. Đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, pháp luật đầu tư nước ngoài được hình thành trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài, tồn tại như một quan hệ nội tại của sự vận động, phát triển kinh tế đối ngoại. Pháp luật đầu tư nước ngoài là hệ thống các quy phạm, chuẩn mực, mà dựa vào đó các nhà đầu tư nước ngoài tìm được "sân chơi", các nhà quản lý có phương tiện để điều khiển "cuộc chơi". Pháp luật đầu tư nước ngoài là mực thước để phân định đúng, sai, kiểm nghiệm và điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phù hợp với nhu cầu xã hội. Sự điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng pháp luật phải bảo đảm cho hoạt động này vận động theo đúng những quy luật khách quan, không thể áp đặt bằng ý chí chủ quan, duy ý chí. Bằng pháp luật, Nhà nước tạo môi trường và hành lang pháp lý để những nhà đầu tư nước ngoài có thể tự chủ sản xuất kinh doanh, tự bảo vệ lợi ích của mình, đồng thời không làm tổn hại đến lợi ích của các chủ thể khác và toàn xã hội. Thứ năm, trong việc điều chỉnh quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài, pháp luật quy định cho các bên tham gia một số quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định, đồng thời thiết lập cơ chế đảm bảo cho các quyền và nghĩa vụ pháp lý đó được thực hiện. Vì vậy, khi tham gia vào các quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài do pháp luật điều chỉnh, các chủ thể phải có hành vi phù hợp với các yêu cầu của pháp luật. Tuy nhiên, việc điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng pháp luật, không chỉ tác động tới các hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài, mà còn tác động đối với toàn xã hội nói chung. 1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 1.2.1. Khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài Để làm sáng tỏ khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài, cần làm rõ khái 5
- niệm đầu tư, đầu tư nước ngoài, các hình thức, phương thức đầu tư nước ngoài, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài. 1.2.1.1. Khái niệm đầu tư, đầu tư nước ngoài, hình thức, phương thức đầu tư nước ngoài Khái niệm “đầu tư nước ngoài” Để làm sáng tỏ khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài, trước hết cần làm rõ khái niệm đầu tư. Theo Đại từ điển tiếng Việt, đầu tư là: "Bỏ vốn vào sản xuất, kinh doanh để được hưởng phần lời lãi"1. Dưới góc độ khoa học, đầu tư (investment) là việc sử dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra năng lực sản xuất lớn hơn. Nói cách khác, đầu tư là việc đưa vốn vào một hoạt động nào đó nhằm mục đích thu lợi nhuận. Vốn đầu tư bao gồm tiền và các tài sản khác như động sản, bất động sản, tài sản hữu hình, tài sản vô hình Như vậy, có thể đưa ra khái niệm đầu tư như sau: đầu tư là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền hoặc tài sản khác để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận. Về khái niệm đầu tư nước ngoài, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) đã đưa ra định nghĩa: "đầu tư nước ngoài được hiểu là tất cả những loại giá trị vật chất mà nhà đầu tư đưa từ nước ký kết này sang nước ký kết hữu quan theo pháp luật của nước sử dụng đầu tư". Ở khái niệm này, đầu tư nước ngoài được hiểu với nghĩa rất hẹp chỉ bao gồm các giá trị vật chất, còn các loại tài sản vô hình thì lại chưa được đề cập đến. Trong báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 1996: "Đầu tư thương mại và các thỏa thuận chính sách quốc tế", có đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài: "là một khoản đầu tư liên quan đến các quan hệ dài hạn và phản ánh một lợi ích lâu dài và sự kiểm soát một thực thể trong một nền kinh tế (nhà đầu tư nước ngoài hay công ty mẹ) thông qua một doanh nghiệp 1 Xem: Nguyễn Như Ý (chủ biên): Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội, 1998, tr. 610 6
- thuộc về một nền kinh tế khác, nền kinh tế của nước có nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài". Ở nước ta, ngay từ năm 1977, khái niệm đầu tư nước ngoài đã chính thức được ghi nhận trong Điều lệ Đầu tư của nước ngoài được ban hành kèm theo Nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977 (sau đây gọi tắt là Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977): “ Được coi là đầu tư của nước ngoài ở Việt Nam việc đưa vào sử dụng ở Việt Nam những tài sản và vốn sau đây, nhằm xây dựng những cơ sở mới hoặc đổi mới trang bị kỹ thuật, mở rộng các cơ sở hiện có: - Các loại thiết bị, máy móc, dụng cụ (gồm cả những thứ dùng cho việc thí nghiệm), phương tiện vận tải, vật tư kỹ thuật cần thiết cho mục đích nói trên; - Các quyền sở hữu công nghiệp, bằng sáng chế, phát minh, phương pháp công nghệ, bí mật kỹ thuật (know - how), nhãn hiệu chế tạo - Vốn bằng ngoại tệ hoặc vật tư có giá trị ngoại tệ, nếu phía Việt Nam thấy cần thiết ” Phân tích khái niệm trên cho thấy, không phải bất cứ sự vận động vốn (tư bản) nào từ nước ngoài vào Việt Nam đều được coi là đầu tư nước ngoài, mà chỉ những tài sản và vốn được quy định tại Điều 2 Điều lệ đầu tư nước ngoài, được đưa vào sử dụng ở Việt Nam mới được coi là đầu tư nước ngoài. Trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành năm 1987, khái niệm đầu tư nước ngoài đã được ghi nhận tại khoản 3 Điều 2 như sau: "Đầu tư nước ngoài là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này". Có thể nói, với quy định mới này, khái niệm đầu tư nước ngoài đã được mở rộng hơn so với khái niệm đầu tư nước ngoài trong Điều lệ đầu tư nước ngoài năm 1977. Trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, khái niệm đầu tư được 7
- hiểu theo một nghĩa rộng hơn: "là mọi hình thức đầu tư trên lãnh thổ của một Bên do các công dân hoặc công ty của Bên kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp, bao gồm các hình thức: một công ty hoặc một doanh nghiệp; cổ phần, cổ phiếu và các hình thức góp vốn khác, trái phiếu, giấy ghi nợ và các quyền lợi đối với các khoản nợ dưới các hình thức khác trong công ty; các quyền theo hợp đồng như quyền theo các hợp đồng chìa khóa trao tay, hợp đồng xây dựng hoặc hợp đồng quản lý, các hợp đồng sản xuất hoặc hợp đồng phân chia doanh thu, tô nhượng hoặc các hợp đồng tương tự khác ”. Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm đầu tư nước ngoài như sau: đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư của nước này đưa vốn bằng tiền hoặc tài sản khác vào nước khác để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Trong khái niệm này, yếu tố nước ngoài được thể hiện bằng hai dấu hiệu đặc trưng chính, đó là: có sự tham gia của chủ thể nước ngoài và có sự di chuyển vốn từ nước này sang nước khác. Đầu tư nước ngoài được phân làm hai loại: đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình kinh doanh, trong đó nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn thiết lập ra cơ sở sản xuất, kinh doanh cho riêng mình, tự đứng ra làm chủ sở hữu, tự quản lý hoặc thuê người quản lý cơ sở này (đầu tư 100% vốn), hoặc hợp tác với một hay nhiều doanh nghiệp của nước sở tại thành lập một doanh nghiệp liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh, cùng làm chủ sở hữu, cùng quản lý cơ sở sản xuất, kinh doanh này. Đầu tư gián tiếp nước ngoài là loại hình đầu tư, trong đó nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của cơ sở kinh tế, nhưng không tham gia điều hành cơ sở kinh tế đó. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ là một trong bốn nguồn tài chính nước ngoài được đưa vào một quốc gia, đó là: 1) Viện trợ phát triển chính thức (ODA) và phi chính phủ (NGO); 2) Tín dụng thương mại; 3) Tín phiếu, trái 8
- phiếu, cổ phiếu; 4) Vốn đầu tư trực tiếp. Bốn nguồn vốn này có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau, nguồn vốn này là tiền đề để thu hút nguồn vốn khác và tạo điều kiện để trả nợ nguồn vốn khác. Nếu một quốc gia đang phát triển không nhận được vốn ODA đủ mức cần thiết để hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, thì khó có thể thu hút được nguồn vốn FDI và các nguồn vốn tín dụng khác. Nhưng nếu chỉ chú trọng nguồn vốn ODA, mà không tìm cách thu hút nguồn vốn FDI và các nguồn vốn tín dụng khác, thì quốc gia đó sẽ không thể có khả năng để trả nợ vốn ODA. Hình thức đầu tư Thực tiễn đầu tư nước ngoài của nhiều nước trên thế giới cho thấy, có rất nhiều hình thức đầu tư phong phú như: hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hình thức liên doanh, hình thức công ty cổ phần, công ty quản lý vốn, chi nhánh công ty nước ngoài, hình thức gia công, lắp ráp Ở nước ta, đầu tư trực tiếp nước ngoài được pháp luật đầu tư nước ngoài hiện hành quy định dưới ba hình thức: - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là loại hình đầu tư, trong đó nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh ở nước ta và có tư cách pháp nhân của Việt Nam - Doanh nghiệp liên doanh là loại hình đầu tư, trong đó nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước cùng góp vốn thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. - Hợp đồng hợp tác kinh doanh là loại hình đầu tư, trong đó nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước cùng bỏ vốn kinh doanh theo một hợp đồng, mỗi bên giữ tư cách pháp nhân riêng, không thành lập pháp nhân mới. Phương thức đầu tư Có thể hiểu phương thức đầu tư là cách tổ chức đưa vốn vào kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài. Pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định các phương thức sau: - BOT (Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao) là phương thức, 9
- trong đó nhà đầu tư nước ngoài ký kết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, tự kinh doanh để thu hồi vốn, lợi nhuận trong thời hạn nhất định, sau thời hạn đó chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. - BTO (Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh) là phương thức, trong đó nhà đầu tư nước ngoài ký kết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. - BT (Hợp đồng xây dựng - chuyển giao) là phương thức, trong đó nhà đầu tư ký kết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. - Khu chế xuất là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định do Chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập, thực hiện các dịch vụ phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu, tiến hành hoạt động xuất khẩu, - Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ phục vụ sản xuất hàng công nghiệp do Chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập. 1.2.1.2. Khái niệm đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài Pháp luật đầu tư nước ngoài nếu được hiểu theo nghĩa rộng gồm ba bộ phận: Bộ phận thứ nhất: gồm đạo luật Đầu tư nước ngoài và các văn bản hướng dẫn trực tiếp thi hành. Bộ phận thứ hai: gồm các chế định có liên quan đến đầu tư nước ngoài được quy định trong các đạo luật khác. Bộ phận thứ ba: gồm các quy phạm pháp luật có liên quan đến đầu tư nước ngoài được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. 10
- Pháp luật đầu tư nước ngoài được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm đạo luật Đầu tư nước ngoài và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành trực tiếp. Về đối tượng điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật đã chỉ ra rằng, đối tượng điều chỉnh của pháp luật là các quan hệ xã hội có liên quan đến đời sống cộng đồng, củng cố địa vị và lợi ích của Nhà nước và công dân trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội Chúng có thể thay đổi tùy theo từng giai đoạn lịch sử cụ thể, phụ thuộc vào ý chí của giai cấp thống trị và các điều kiện chính trị, xã hội khác. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm: - Quan hệ giữa nhà đầu tư nước ngoài với Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam mà đại diện là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. - Quan hệ giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với Nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. - Quan hệ hợp tác kinh doanh, liên doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư trong nước. - Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế. - Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các tổ chức, cá nhân nước ngoài. - Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư trong nước với người lao động. - Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư trong nước với các cơ quan tài phán trong nước và quốc tế. - Các quan hệ khác. Dấu hiệu đặc trưng có tính chất bắt buộc của các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài là yếu tố nước ngoài. Các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của các ngành luật khác như Luật Dân sự, 11
- Luật Thương mại, Luật Kinh tế có thể cũng có yếu tố nước ngoài, nhưng không có tính chất bắt buộc như quan hệ đầu tư nước ngoài. Về phương pháp điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài Xét dưới góc độ lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, phương pháp điều chỉnh của pháp luật được hiểu là tổng hợp những cách thức tác động của pháp luật lên các quan hệ xã hội. Phương pháp điều chỉnh của pháp luật có những đặc điểm: do Nhà nước thông qua và các cơ quan có thẩm quyền đặt ra; được ghi nhận trong quy phạm pháp luật; được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các chế tài mang tính chất cưỡng chế. Pháp luật Đầu tư nước ngoài có ba phương pháp điều chỉnh: phương pháp thỏa thuận (hay còn gọi là phương pháp tự nguyện); phương pháp mệnh lệnh (hay còn gọi là phương pháp bắt buộc); phương pháp khuyến khích. Ba phương pháp điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau và được sử dụng trong sự kết hợp với nhau. Nghiên cứu pháp luật đầu tư nước ngoài hoặc pháp luật khuyến khích đầu tư nước ngoài của một số nước trên thế giới như Indonesia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc, cho thấy, các nước này đều sử dụng cả ba phương pháp điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài, chỉ khác nhau ở cách thức kết hợp ba phương pháp. Như vậy, pháp luật đầu tư nước ngoài có đối tượng và phương pháp điều chỉnh mang tính đặc thù. Sự khác nhau về đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh có thể nói là xuất phát từ chức năng của mỗi ngành luật. Pháp luật đầu tư nước ngoài không điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như các ngành luật khác mà nó chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm về pháp luật đầu tư nước ngoài như sau: Pháp luật đầu tư nước ngoài là hệ thống những quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. 12
- Pháp luật đầu tư nước ngoài gồm hai phần: Phần chung và Phần riêng. Phần chung của pháp luật đầu tư nước ngoài bao gồm các quy phạm điều chỉnh các quan hệ mang tính chất nguyên tắc, phát sinh trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài như các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam, nguyên tắc bảo đảm quyền sở hữu đói với vốn đầu tư và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài ; các quy phạm định nghĩa về các khái niệm cơ bản trong hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như "Bên nước ngoài", "Bên Việt Nam", "Đầu tư nước ngoài", "Xí nghiệp liên doanh" Phần riêng của pháp luật đầu tư nước ngoài bao gồm các nhóm quy phạm điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài cụ thể, nói cách khác là các quy định về: - Những quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. - Những quy định về hình thức đầu tư, phương thức đầu tư. - Những quy định về đất đai, xây dựng, lao động. - Những quy định về thuế, ngân hàng, tài chính, kế toán, thống kê. - Những quy định về chuyển giao công nghệ, sở hữu công nghiệp. - Những quy định về Hải quan, xuất nhập khẩu. - Những quy định về hợp đồng kinh tế, trọng tài, xử lý tranh chấp. 1.2.2. Đặc trưng cơ bản của pháp luật đầu tư nước ngoài Từ khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài đã được trình bày ở trên và qua nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật đầu tư nước ngoài hiện hành, có thể rút ra những đặc trưng cơ bản như sau: 1.2.2.1. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật đầu tư nước ngoài có một số quy phạm pháp luật đầu tiên hướng tới nền kinh tế thị trường Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 ra đời vào năm 1977, chỉ sau hai năm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đây là thời điểm nhân dân ta mới bắt tay vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp đang rất thịnh hành và nền kinh tế về cơ bản chỉ có hai thành phần là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể. Trong bối cảnh đó, Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 là văn bản pháp lý đầu tiên trong hệ thống pháp luật của 13
- Việt Nam tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Trong Điều lệ này, Nhà nước ta đã khuyến khích, kêu gọi đầu tư nước ngoài vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế, trừ những ngành bị cấm. Điều đó thể hiện chủ trương cởi mở, đa dạng hóa các lĩnh vực đầu tư của nước ta. Như vậy, xét dưới góc độ lý luận, có thể khẳng định, công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà nước khởi xướng chính thức được tính từ năm 1986, nhưng tiền đề của nó đã xuất hiện ngay từ năm 1977 trong Điều lệ Đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Như vậy, trong hệ thống pháp luật Việt Nam, thời kỳ từ năm 1977 đến năm 1986, Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 là văn bản pháp lý đầu tiên hướng tới nền kinh tế thị trường, thể hiện chính sách "mở cửa" của Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh đó, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 cũng có một số quy định "vượt rào" so với Hiến pháp năm 1980 như không quốc hữu hóa, thừa nhận thành phần kinh tế tư bản, tư nhân 1.2.2.2. Pháp luật đầu tư nước ngoài ra đời trước khi có quan hệ đầu tư nước ngoài trên thực tế ở Việt Nam Để điều chỉnh các quan hệ xã hội tồn tại, phát triển theo hướng mà Nhà nước mong muốn và có thể phản ánh đúng thực tiễn khách quan, Nhà nước xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, so sánh với tiến trình của các quan hệ kinh tế, pháp luật thường xuất hiện chậm so với sự biến động và phát triển của các quan hệ kinh tế. Năm 1977, khi các quy phạm pháp luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam lần đầu tiên được ban hành, thì trên thực tế ở Việt Nam hoàn toàn chưa có quan hệ đầu tư nước ngoài. Thời điểm đó, cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp đang ngự trị trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội; các khái niệm cơ bản của kinh tế thị trường như tự do thương mại, tự do cạnh tranh, thị trường vốn chưa được chấp nhận chính thức trong các văn bản của Đảng và Nhà nước ta. Đầu tư nước ngoài với tính chất là sự vận động trực tiếp của tư bản nước ngoài vào Việt Nam lúc đó vẫn chưa được tán thành. Chỉ sau khi có chính sách đổi mới tư duy lý luận và tư duy kinh tế của Đảng và Nhà nước, thì đạo luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mới có cơ hội 14
- ra đời, các quan hệ đầu tư nước ngoài mới hình thành và phát triển trên cơ sở pháp lý đó. Vì những lẽ đó mà TS. Hoàng Phước Hiệp cho rằng "hệ thống các quy phạm pháp luật đầu tư nước ngoài được ban hành trước khi có quan hệ đầu tư nước ngoài theo đúng nghĩa của từ đó trên thực tế tại Việt Nam"1. Việc pháp luật đầu tư nước ngoài "vượt trước" hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam không phải là hiện tượng trái quy luật. Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, cơ sở hạ tầng có mối quan hệ biện chứng với kiến trúc thượng tầng và trong một số trường hợp nhất định, pháp luật có thể "vượt trước", thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, xã hội. Mặt khác, nếu xem xét nền kinh tế nước ta dưới góc độ là một bộ phận của nền kinh tế khu vực và trên thế giới, thì hoạt động đầu tư nước ngoài đã tồn tại từ rất lâu ở nhiều nước trên thế giới với các mức độ khác nhau. Như vậy, pháp luật về đầu tư nước ngoài và hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam là cái có sau so với nhiều nước trên thế giới và đương nhiên bị chi phối bởi quá trình quốc tế hóa nền kinh tế của các nước. Đây có thể coi là vấn đề hợp quy luật trong tiến trình hội nhập của nước ta vào đời sống kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. 1.2.2.3. Pháp luật đầu tư nước ngoài có một số chủ thể đặc thù Pháp luật đầu tư nước ngoài điều chỉnh quan hệ đầu tư nước ngoài, trong đó ít nhất một bên là cá nhân, tổ chức kinh tế hoặc cơ quan nhà nước Việt Nam và bên kia là tổ chức, cá nhân nước ngoài. Tổ chức kinh tế Việt Nam được hiểu là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập, tổ chức và hoạt động theo các quy định của pháp luật Việt Nam; cơ quan nhà nước ở đây là cơ quan được Chính phủ ủy quyền ký kết với các cá nhân, tổ chức nước ngoài thực hiện các hợp đồng BOT, BT, BTO; tổ chức, cá nhân nước ngoài là các tổ chức kinh tế nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài tham gia quan hệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Chủ thể của quan hệ pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam gồm có: 1 Xem: TS. Hoàng Phước Hiệp (1996), Cơ chế điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ luật học, Hà Nội 15
- 1) Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. 2) Các nhà đầu tư nước ngoài tham gia quan hệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 3) Các nhà đầu tư Việt Nam tham gia quan hệ đầu tư nước ngoài. 4) Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp BOT, BT, BTO. 5) Người lao động. 6) Các cơ quan tài phán trong nước và quốc tế. Cơ sở pháp lý để hình thành quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có những nét đặc thù riêng so với các ngành luật khác. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các chủ thể của quan hệ pháp luật đó có các quyền và nghĩa vụ nhất định trên cơ sở các quy định của pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, pháp luật của nước mà cá nhân, tổ chức kinh tế nước ngoài mang quốc tịch và các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, hoặc trên cơ sở kết hợp các quy định đó. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam còn được xác định theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập như Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (1999), Hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ Cơ quan đảm bảo đầu tư đa biên MIGA 1985 (Multilateral Investment Guarantee Agency), Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài Các điều ước quốc tế đó là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng được xác định theo quy định của pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, theo Giấy phép đầu tư và theo các văn bản cụ thể được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chuẩn y. Trong một số trường hợp đặc biệt còn 16
- được xác định theo quy chế riêng do Chính phủ Việt Nam ấn định sau khi có sự thỏa thuận với đối tác bên ngoài, ví dụ một số hợp đồng BOT, BT, BTO 1.2.2.4. Pháp luật đầu tư nước ngoài có bộ phận cấu thành là một số lượng lớn các điều ước quốc tế có liên quan trực tiếp đến đầu tư nước ngoài mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập Khác với các ngành luật khác, pháp luật đầu tư nước ngoài có bộ phận cấu thành là một số lượng lớn các điều ước quốc tế như Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN, 41 Hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 34 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kỳ Việc ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế hai bên và nhiều bên được tiến hành theo các quy định của pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế. Các ngành luật khác cũng có thể có một bộ phận cấu thành là các điều ước quốc tế, nhưng không nhiều hoặc phong phú như Luật Đầu tư nước ngoài. Ví dụ: Luật Tố tụng hình sự có các điều ước quốc tế song phương về tương trợ tư pháp hoặc hẹp hơn là về dẫn độ tội phạm. Nhưng trong lĩnh vực này, Việt Nam tham gia với số lượng rất ít, chủ yếu là ký kết với các nước XHCN trước đây. Trong pháp luật đầu tư nước ngoài, các quy phạm trong các điều ước quốc tế tham gia điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của chủ thể các quan hệ pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài coi các điều ước quốc tế là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Đây có thể nói là một nét đặc thù của pháp luật đầu tư nước ngoài, bởi lẽ tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội của các ngành luật khác có thể có các quy phạm được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, nhưng số lượng của chúng không nhiều và phổ biến như ở pháp luật đầu tư nước ngoài. 1.2.3. Vai trò của pháp luật Đầu tư nước ngoài Trong xã hội chủ nghĩa, pháp luật giữ vai trò quan trọng. Pháp luật là phương tiện thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng, đảm bảo sự lãnh đạo 17
- của Đảng được thực hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội. Pháp luật là phương tiện để Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Pháp luật đầu tư nước ngoài với tư cách là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực đầu tư, luôn tác động và ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới các quan hệ đầu tư nói chung, cũng như tới tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng nói riêng. Pháp luật đầu tư nước ngoài có một số vai trò chủ yếu sau đây: 1.2.3.1. Pháp luật đầu tư nước ngoài là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư Bộ máy quản lý nhà nước nói chung, bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư nói riêng là một thiết chế phức tạp gồm nhiều cơ quan khác nhau. Để bộ máy đó hoạt động có hiệu quả, phải xác định đúng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi loại cơ quan, phải xác lập một cách đúng đắn và hợp lý mối quan hệ giữa chúng, phải có những phương pháp và hình thức tổ chức, hoạt động phù hợp để tạo ra một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập quyền lực nhà nước trong lĩnh vực đầu tư. Tất cả những điều đó chỉ có thể thực hiện được khi dựa trên cơ sở vững chắc của những nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật đầu tư. Thực tiễn Việt Nam trong những năm qua cho thấy, khi chưa có hệ thống các quy phạm pháp luật đầy đủ, đồng bộ, phù hợp và chính xác để làm cơ sở cho việc củng cố, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư, thì dễ dẫn đến tình trạng trùng lập, chồng chéo, thực hiện không đúng chức năng, thẩm quyền của một số cơ quan nhà nước trong lĩnh vực này, dễ sinh ra cồng kềnh, kém hiệu quả. 1.2.3.2. Pháp luật đầu tư nước ngoài bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng tổ chức và quản lý đầu tư, góp phần xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội Chức năng tổ chức và quản lý đầu tư có phạm vi rộng và phức tạp bao gồm nhiều mối quan hệ, nhiều vấn đề mà Nhà nước cần xác lập, điều tiết và giải quyết như: hoạch định các chính sách đầu tư, quy định các chế độ tài chính, tiền tệ, giá cả Tất cả những điều đó đều đòi hỏi sự hoạt động tích cực của Nhà nước để 18
- tạo ra một cơ chế đồng bộ, thúc đẩy hoạt động đầu tư đúng hướng, mang lại hiệu quả thiết thực. Do tính chất phức tạp của hoạt động đầu tư (nhiều vấn đề cần giải quyết) và phạm vi rộng (trên quy mô toàn quốc) của chức năng quản lý đầu tư, Nhà nước không thể tham gia vào các hoạt động đầu tư cụ thể mà chỉ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư. Quá trình đó không thể thực hiện được nếu không dựa vào pháp luật đầu tư nước ngoài. Chỉ có pháp luật đầu tư nước ngoài với những tính chất đặc thù của nó mới là cơ sở để Nhà nước hoàn thành được chức năng của nó trong lĩnh vực đầu tư. Quá trình tổ chức và quản lý đầu tư ở Việt Nam trong những năm qua đã là một thực tiễn sinh động khẳng định vai trò của pháp luật đầu tư nước ngoài. Tình trạng thiếu các quy phạm pháp luật về đầu tư nước ngoài cũng như sự tồn tại quá lâu những văn bản, những quy phạm pháp luật đầu tư của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, đã làm giảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, kìm hãm sự phát triển của hoạt động đầu tư nước ngoài nói riêng, của nền kinh tế Việt Nam nói chung. 1.2.3.3. Pháp luật đầu tư nước ngoài bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời bảo hộ sản xuất trong nước Nhằm khuyến khích, kêu gọi đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 và 1996 đã khẳng định quyền được tôn trọng và bảo vệ của các nhà đầu tư nước ngoài và quy định một số ưu đãi hơn đối với đầu tư trong nước. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, Nhà nước ta đã xác lập những chế định bảo hộ và khuyến khích đầu tư nước ngoài rất rõ ràng. Tuy nhiên, chúng ta khuyến khích đầu tư nước ngoài một phần là vì nhu cầu phát triển sản xuất trong nước. Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định "Vốn nước ngoài là quan trọng, vốn trong nước là quyết định". Do vậy, đi đôi với việc khuyến khích, ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài, pháp luật đầu tư trong nước chú trọng bảo hộ sản xuất trong nước. Đây là nguyên tắc phát triển kinh tế của mọi quốc gia, có chăng chỉ khác nhau về mức độ và nội dung bảo hộ mà thôi. Chính bản thân sự xuất hiện của pháp luật đầu tư nước ngoài đã nói lên tư tưởng bảo hộ sản xuất trong nước. Việc đề ra pháp luật đầu tư nước ngoài là nhằm quy định 19
- một hành lang pháp lý riêng cho hoạt động đầu tư nước ngoài, để tách một số hoạt động, cũng như một số ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài khỏi "sân chơi" của các doanh nghiệp Việt Nam, dành một số lợi thế so sánh cho các doanh nghiệp trong nước. Trong giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam còn được hưởng một số đặc quyền hoặc ưu đãi thì mới tồn tại và phát triển được, nhất là trong giai đoạn nền kinh tế của ta còn nhiều hạn chế, các doanh nghiệp trong nước chưa đủ mạnh. Chúng ta chủ trương bảo hộ sản xuất trong nước trong một số lĩnh vực, phạm vi và mức độ nhất định để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước dần mạnh lên. Vì vậy, có thể khẳng định một trong những vai trò rất quan trọng của pháp luật đầu tư nước ngoài là bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài, nhưng đồng thời cũng là hành lang pháp lý để bảo hộ sản xuất trong nước. Điều đó góp phần từng bước xây dựng một nền kinh tế tự cường, loại bỏ mọi nguy cơ biến nền kinh tế nước ta thành một nền kinh tế lệ thuộc vào bên ngoài. 1.2.3.4. Pháp luật đầu tư nước ngoài góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư tại Việt Nam Pháp luật đầu tư nước ngoài ra đời là để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội về đầu tư. Pháp luật đầu tư nước ngoài cũng tác động trở lại làm cho các quan hệ đầu tư phát sinh, phát triển theo hướng có lợi. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo chỉ có thể mang lại kết quả khi pháp luật nói chung, pháp luật đầu tư nước ngoài nói riêng phản ánh đúng các quy luật kinh tế khách quan trong điều kiện mới của nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Chính sự đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài, tạo tiền đề cho sự cởi trói, thúc đẩy các quan hệ đầu tư mới phát triển. Đối với sự phát triển hoạt động đầu tư, pháp luật đầu tư nước ngoài có vai trò cụ thể như sau: Thứ nhất, pháp luật đầu tư nước ngoài tạo cơ sở cho việc xác lập những nguyên tắc pháp lý cơ bản đảm bảo cho sự vận hành của hoạt động đầu tư tại Việt Nam có hiệu quả. 20
- Có thể nói đây là vai trò quan trọng của pháp luật đầu tư nước ngoài, phản ánh những đòi hỏi khách quan của sự phát triển các quan hệ đầu tư được thể chế hóa, hình thành những nguyên tắc pháp lý xuyên suốt, chi phối sự vận hành của cơ chế quản lý đầu tư cũng như đảm bảo sự phát triển có hiệu quả của các quan hệ đầu tư. Để xây dựng một nền kinh tế thị trường, không thể bỏ qua các nguyên tắc cơ bản như: tự do kinh doanh, tự do sở hữu, tự do hình thành giá cả, khuyến khích cạnh tranh. Một khi các nguyên tắc trên được thể chế hóa thành những nguyên tắc pháp lý, thì nó trở thành những tiêu chí cho sự lựa chọn hệ thống các giải pháp, công cụ để tác động lên hoạt động đầu tư, làm cho nó không thoát ly trật tự hình mẫu mà nó đang vươn tới và đem lại những kết quả khả quan cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Thứ hai, pháp luật đầu tư nước ngoài xác lập môi trường an toàn cho sự xuất hiện của các quan hệ đầu tư nước ngoài, đảm bảo cho các quan hệ đó được điều chỉnh trong trật tự. Đây là vấn đề mang tính quy luật, bởi lẽ sự hợp tác và mối quan hệ giữa các tổ chức, cá nhân nước ngoài với nước ta chỉ có thể phát triển trong môi trường chính trị, kinh tế, xã hội ổn định và có đủ độ tin cậy lẫn nhau. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, thị trường đầu tư của họ rất rộng lớn trong phạm vi quốc tế; quan hệ đầu tư ra nước ngoài của họ là quan hệ kinh doanh, mục đích của họ là tìm kiếm lợi nhuận cao. Vì vậy, họ chỉ chấp nhận đầu tư vào đâu có lợi nhuận thỏa đáng. Đảm bảo hoạt động đầu tư cho họ đồng nghĩa với đảm bảo cho họ có đủ điều kiện để có lợi nhuận. Đó là môi trường đầu tư ổn định, độ rủi ro trong kinh doanh không cao, thủ tục đầu tư đơn giản, thuận tiện. Ở Việt Nam đã có môi trường pháp lý đáng tin cậy, và nhờ đó, các quan hệ kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động đầu tư nước ngoài nói riêng đã mở rộng, phát triển và đem lại hiệu quả đáng kể góp phần quan trọng và sự phát triển xã hội. 1.2.3.5. Pháp luật đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy và phát triển mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa Việt Nam với các quốc gia, dân tộc 21
- Trong thời đại ngày nay, phạm vi các mối quan hệ bang giao giữa các nước ngày càng lớn và tính chất các mối quan hệ đó ngày càng đa dạng. Cơ sở cho việc thiết lập các mối quan hệ đó chính là pháp luật: pháp luật quốc tế và pháp luật của mỗi nước. Xuất phát từ nhu cầu đó, hệ thống pháp luật của mỗi nước có bước phát triển mới; bên cạnh pháp luật đầu tư trong nước điều chỉnh hoạt động đầu tư của cá nhân, tổ chức trong nước, còn có pháp luật đầu tư nước ngoài điều chỉnh các quan hệ có liên quan đến hoạt động đầu tư của tổ chức, cá nhân nước ngoài. Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, từng bước hội nhập vào kinh tế khu vực và quốc tế, pháp luật đầu tư trong nước và pháp luật đầu tư nước ngoài là công cụ quan trọng không chỉ tạo ra môi trường pháp lý an toàn cho việc mở cửa nền kinh tế, mà còn tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào thị trường quốc tế. Pháp luật đầu tư nước ngoài là điều kiện quan trọng để tạo ra niềm tin, là cơ sở để mở rộng mối quan hệ hữu nghị với các quốc gia, dân tộc. Nói cách khác, sự phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài gắn liền với sự phát triển về chính sách đối ngoại, thu hút đầu tư nước ngoài của Đảng và Nhà nước Việt Nam. CHƯƠNG 2 SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 2.1. GIỚI THIỆU VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có thể được hiểu theo nghĩa rộng, hoặc nghĩa hẹp. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, gồm ba bộ phận cấu thành: Bộ phận thứ nhất: Đạo luật Đầu tư nước ngoài và các văn bản hướng dẫn trực tiếp thi hành. Văn bản pháp luật đầu tư nước ngoài được ban hành ngày 18/4/1977 là 22
- Điều lệ Đầu tư nước ngoài (sau đây gọi là Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977). Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 là văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước ta quy định các nguyên tắc cơ bản về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và những vấn đề về lĩnh vực đầu tư, đối tác đầu tư, góp vốn đầu tư, hình thức đầu tư, thời hạn đầu tư, thuế áp dụng cho đầu tư nước ngoài, quản lý ngoại hối và chế độ kế toán thống kê, thủ tục đầu tư, giải thể, xử lý tranh chấp. Đạo luật đầu tư nước ngoài thứ hai được Quốc hội ban hành ngày 31/12/1987, tạo cơ sở pháp lý có giá trị cao cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Việc soạn thảo Luật này dựa trên cơ sở rút kinh nghiệm Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và có tham khảo kinh nghiệm lập pháp đầu tư nước ngoài của nhiều nước trên thế giới. Tiếp đó, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định 139/HĐBT ngày 5/9/1988 (sau đây gọi là Nghị định 139) gồm 11 chương, 113 điều quy định chi tiết việc thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Để thực hiện yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, ngày 30/6/1990, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa VIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990). Sau khi sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất Luật Đầu tư nước ngoài vào năm 1990, 7 văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng đã được ban hành mới hoặc được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Tiếp theo đó, ngày 23/12/1992, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992). Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 được thông qua, Nghị định số 18/CP ngày 26/12/1992 của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Nghị định 18), thay thế cho Nghị định số 28/HĐBT ngày 6/2/1991 (sau đây gọi là Nghị định 28) và 17 văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng đã được ban hành. 23
- Ngày 12/11/1996 Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992, tiếp tục tạo môi trường pháp lý hấp dẫn, thể hiện chính sách nhất quán thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam của Đảng và Nhà nước ta. Sau khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, Nghị định số 12/CP ngày 18/2/1997 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Nghị định 12) và 15 văn bản pháp luật khác có liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng được ban hành. Ngày 9/6/2000, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000). Trên cơ sở Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 và Nghị định 24, các Bộ, ngành có liên quan đã ban hành hơn 20 văn bản pháp lý để hướng dẫn thi hành. Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 và Nghị định 24 cùng hệ thống các văn bản pháp luật nói trên đã tạo dựng khung pháp lý cơ bản điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài phù hợp với đường lối, quan điểm của Đảng về phát triển và mở cửa nền kinh tế ở nước ta hiện nay. Bộ phận thứ hai: pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không chỉ thuần túy là các đạo luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành năm 1987, 1996 và các văn bản hướng dẫn trực tiếp mà còn là các quy định trong các đạo luật khác như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Phá sản doanh nghiệp, Luật Đất đai, các đạo luật về thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế xuất nhập khẩu, Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân, thuế VAT Các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài là đối tượng điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài phần lớn mang tính chất hàng hóa, tiền tệ, cho nên pháp luật đầu tư nước ngoài có quan hệ rất chặt chẽ với Bộ luật Dân sự. Pháp luật đầu tư nước ngoài chỉ quy định nguyên tắc, còn một số chế định của Bộ luật Dân sự có liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài, đồng 24
- thời cũng là bộ phận cấu thành pháp luật đầu tư nước ngoài quy định cụ thể. Phần thứ VII Bộ luật Dân sự quy định về các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, trong đó quy định cụ thể các vấn đề về nguyên tắc áp dụng pháp luật nước ngoài và điều ước quốc tế (Điều 828), căn cứ chọn pháp luật áp dụng đối với người không có quốc tịch hoặc người nước ngoài có nhiều quốc tịch (Điều 829), năng lực dân sự của pháp nhân nước ngoài (Điều 832), quyền sở hữu tài sản (Điều 838). Trong Bộ luật Dân sự còn có những điều luật quy định trực tiếp một số vấn đề của đầu tư nước ngoài, ví dụ: việc sát nhập, mua lại, chuyển đổi và tái cơ cấu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện trên cơ sở Điều 19a Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 và Điều 321 Bộ luật Dân sự. Trong đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao giờ cũng phát sinh quan hệ lao động giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với người lao động làm việc trong các doanh nghiệp đó và các quan hệ khác gắn bó chặt chẽ với quan hệ lao động như quan hệ giữa công đoàn với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, quan hệ trong việc giải quyết tranh chấp lao động Luật Đầu tư nước ngoài hiện hành không có các điều khoản riêng quy định về việc sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nên các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải tuân thủ các quy định trong Bộ luật Lao động, các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động của Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Thời kỳ ta chưa có Bộ luật Lao động, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 và Nghị định số 139/HĐBT ngày 5/9/1988 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (sau đây gọi là Nghị định 139) đã dành hẳn một chương quy định những vấn đề về quan hệ lao động trong hoạt động đầu tư nước ngoài. Nhưng khi có Bộ luật Lao động năm 1994, đạo luật Đầu tư nước ngoài chỉ quy định mang tính chất dẫn chiếu như Điều 25 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 quy định: "Quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động làm việc trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được bảo đảm bằng hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và các quy định của pháp luật về lao động". 25
- Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có liên quan đến một loạt vấn đề rất nhạy cảm, như: sử dụng đất, giải phóng mặt bằng, bồi thường, thế chấp quyền sử dụng đất. Đối với các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực sử dụng đất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đạo luật Đầu tư nước ngoài chỉ quy định những vấn đề mang tính đặc thù của đầu tư nước ngoài, còn các chế định của Luật Đất đai liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài và là một bộ phận của pháp luật đầu tư nước ngoài, quy định những vấn đề cụ thể. Ví dụ: Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi là Nghị định 24) chỉ quy định những vấn đề đặc thù của đầu tư nước ngoài có liên quan đến đất đai, như: thuê đất, trả tiền thuê đất, mức tiền thuê đất và miễn, giảm tiền thuê đất, thẩm quyền quyết định cho thuê đất, đền bù, giải phóng mặt bằng, thời hạn tính tiền thuê đất, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Những thủ tục cụ thể được quy định trong Thông tư số 679/TT-ĐC ngày 12/5/1997 của Tổng cục Địa chính hướng dẫn việc cho thuê đất để thực hiện các dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Nghị định số 22/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 4/4/1998 quy định về việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất đai để sử dụng cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia và công cộng Cũng như các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải có nghĩa vụ đóng góp các khoản thuế nhất định cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đối với các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thuế của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, pháp luật đầu tư nước ngoài chỉ quy định những vấn đề có tính đặc thù của đầu tư nước ngoài, còn các đạo luật thuế quy định những vấn đề cụ thể. Nghị định số 28/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ quy định chi tiết việc thực hiện thuế giá trị gia tăng, Thông tư số 89/1998/TT-BTC ngày 27/6/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 28/1998/NĐ-CP; Nghị quyết số 90/1999/NQ-UBTVQH ngày 3/9/1999 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung danh mục hàng hóa và dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng, Nghị định số 15/2000/NĐ-CP ngày 26
- 9/5/2000 của Chính phủ quy định chi tiết việc thực hiện Nghị quyết số 90/1999/NQ-UBTVQH và Thông tư số 49/2000/TT-BTC ngày 31/5/2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 15/2000/NĐ-CP ngày 9/5/2000 của Chính phủ Trước đây, pháp luật đầu tư nước ngoài quy định các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải nộp thuế lợi tức. Khi Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp ra đời năm 1997, thì đối tượng áp dụng được quy định bao gồm cả các dự án đầu tư nước ngoài (Điều 1, 3). Về mức thuế suất, do đặc thù của đầu tư nước ngoài, nên khoản 2 Điều 10 của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp quy định vẫn áp dụng mức thuế suất của Luật Đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, cách tính thuế và quy trình, thủ tục nộp thuế thì được thực hiện theo quy định của Thuế Thu nhập doanh nghiệp. Ngoài ra, Điều 49 Luật Đầu tư nước ngoài hiện hành còn quy định: "Ngoài các loại thuế quy định tại luật này, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh phải nộp các loại thuế khác theo quy định của pháp luật". Như vậy, ngoài các quy định mang tính đặc thù của pháp luật đầu tư nước ngoài về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, thuế nhập khẩu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải nộp các loại thuế khác bình đẳng như doanh nghiệp Việt Nam. Đối với những vấn đề liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Luật Thương mại quy định cụ thể các điều kiện và thủ tục xuất nhập khẩu, gia công, đại lý, mua bán hàng hóa của các các doanh nghiệp nói chung, trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, còn đạo luật Đầu tư nước ngoài chỉ có những quy định mang tính đặc thù của hoạt động đầu tư nước ngoài hoặc có những quy định có tính nguyên tắc. Ví dụ: Điều 31 Luật Đầu tư nước ngoài hiện hành quy định quyền tự chủ kinh doanh trong việc nhập khẩu, ủy quyền nhập khẩu, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, còn trình tự, thủ tục của việc nhập khẩu, ủy quyền nhập khẩu tiêu thụ hàng hóa thì được quy định cụ thể trong Luật Thương mại 27
- Một vấn đề quan trọng của hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là chấm dứt hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong số các dự án đầu tư nước ngoài, một số dự án có thể phải chấm dứt hoạt động do doanh nghiệp gặp khó khăn trong tài chính, thậm chí ở trong tình trạng phá sản. Đối với những trường hợp như vậy, Nhà nước phải có những quy định để đảm bảo các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thanh lý, chấm dứt hoạt động hoặc phá sản một cách công bằng. Để xử lý việc chấm dứt hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đạo luật đầu tư nước ngoài chỉ quy định nguyên tắc, còn các chế định của Luật Phá sản doanh nghiệp liên quan đến việc phá sản doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và là một bộ phận của pháp luật đầu tư nước ngoài quy định những vấn đề cụ thể. Ví dụ: vấn đề phá sản doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quy định cụ thể trong Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, Nghị định số 189/CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp, Nghị định số 92/CP ngày 19/12/1995 của Chính phủ về quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản Như vậy, trong mối quan hệ với pháp luật đầu tư nước ngoài, nhiều chế định của Luật Phá sản doanh nghiệp được coi là một bộ phận cấu thành pháp luật đầu tư nước ngoài, đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh khi chấm dứt hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra, một số quan hệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam còn chịu sự điều chỉnh của một số ngành luật chuyên biệt. Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực khoáng sản chịu sự quy định của Luật Khoáng sản về thời hạn của các giấy phép thăm dò, khai thác, diện tích được phép thăm dò, khai thác; đầu tư trong lĩnh vực dầu khí chịu sự điều chỉnh của Luật Dầu khí; đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng chịu sự điều chỉnh của Luật các tổ chức tín dụng Bộ phận thứ ba: là các quy phạm pháp luật có liên quan đến đầu tư nước ngoài được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. 28
- Khác với các ngành luật khác, pháp luật đầu tư nước ngoài có bộ phận cấu thành là một số lượng lớn các điều ước quốc tế như Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN, 41 Hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 34 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kỳ Việc ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế hai bên và nhiều bên được tiến hành theo các quy định của pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế. Các ngành luật khác cũng có thể có một bộ phận cấu thành là các điều ước quốc tế, nhưng không nhiều hoặc phong phú như Luật Đầu tư nước ngoài. Ví dụ: Luật Tố tụng hình sự có các điều ước quốc tế song phương về tương trợ tư pháp hoặc hẹp hơn là về dẫn độ tội phạm. Nhưng trong lĩnh vực này, Việt Nam tham gia với số lượng rất ít, chủ yếu là ký kết với các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, pháp luật đầu tư nước ngoài chỉ bao gồm đạo luật Đầu tư nước ngoài và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành 2.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ Trên cơ sở phân tích tình hình kinh tế-xã hội trong nước, có thể chia sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài thành 3 giai đoạn: - Giai đoạn thứ nhất, từ năm 1975 đến năm 1987 - Giai đoạn thứ hai, từ năm 1987 đến năm 1996 - Giai đoạn thứ ba, từ năm 1996 đến nay 2.2.1. Giai đoạn thứ nhất (từ năm 1975 đến năm 1987) Giai đoạn này có đặc điểm là miền Nam mới được giải phóng, nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; cả nước hòa bình, độc lập và thống nhất, cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và các tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra. 29
- Thể chế hóa đường lối, chính sách kinh tế và đối ngoại của Đảng, ngày 18/4/1977, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Điều lệ Đầu tư nước ngoài (sau đây gọi là Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977). Việc nghiên cứu Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 cho thấy, đây là văn bản pháp lý đầu tiên hướng vào nền kinh tế thị trường, thể hiện bước đầu quan điểm "mở cửa" của Đảng và Nhà nước ta, bởi lẽ Điều lệ khuyến khích đầu tư nước ngoài vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế, trừ những ngành nghề bị cấm. Tuy nhiên, do Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 được ban hành trong bối cảnh của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp đang thịnh hành trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; các vấn đề lý luận về kinh tế thị trường đang là điều cấm kỵ, cho nên Điều lệ cũng không tránh khỏi những hạn chế, còn bộc lộ nhiều điểm chưa hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài như xí nghiệp tư doanh chỉ được phép thành lập với điều kiện chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, mà đây là điều kiện rất khó thực hiện; thời hạn cho phép đầu tư nước ngoài quá ngắn: từ 10 đến 15 năm kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư Trước tình hình bị Mỹ bao vây, cấm vận kinh tế, chúng ta đã ký kết một số hiệp định hợp tác đầu tư với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Các họat động đầu tư nước ngoài vào thời điểm này không chịu sự điều chỉnh của Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 mà chịu sự điều chỉnh của các Hiệp định này. 2.2.2. Giai đoạn thứ hai (từ năm 1987 đến năm 1996) Vào những năm đầu của giai đoạn này, tình hình kinh tế – xã hội nước ta có những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng chậm, hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp, có mặt gay gắt hơn; đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, các hiện tượng tiêu cực diễn ra ở nhiều nơi, có nơi có lúc nghiêm trọng. Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra, ngày 31/12/1987, Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý có giá trị cao cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Việc 30
- soạn thảo Luật này dựa trên cơ sở rút kinh nghiệm Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và có tham khảo kinh nghiệm lập pháp đầu tư nước ngoài của nhiều nước trên thế giới. So với Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã có một bước tiến bộ vượt bậc về kỹ thuật lập pháp, về sự phù hợp với tập quán và luật pháp quốc tế, tạo môi trường pháp lý tương đối đầy đủ cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã có một điều riêng (Điều 2) nêu 12 khái niệm pháp lý quan trọng, tạo điều kiện nhận thức và áp dụng thống nhất luật này trên phạm vi toàn quốc. Bên cạnh đó, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định cụ thể hơn về: 1) Đối tượng hợp tác đầu tư với nước ngoài; 2) Lĩnh vực khuyến khích đầu tư; 3) Hình thức đầu tư; 4) Biện pháp bảo đảm đầu tư; 5) Quy định về thuế; 6) Quy định về vốn pháp định; 7) Chế độ kế toán, thống kê, bảo hiểm; 8) Mở tài khoản; 9) Thời hạn đầu tư; 10) Cơ quan nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài. Để thực hiện yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, ngày 30/6/1990, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa VIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990). Luật này đã sửa đổi, bổ sung 15 trên tổng số 42 điều của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987. Với sự sửa đổi, bổ sung một cách đồng bộ này, hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài đã góp phần làm cho môi trường đầu tư nước ngoài ở Việt Nam vào những năm 1990 thêm hấp dẫn. Ngày 23/12/1992, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992). Luật này đã sửa đổi, bổ sung 9 điều, bổ sung mới 3 điều tập trung vào 9 vấn đề quan trọng. Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 được thông qua, Nghị định số 18/CP ngày 26/12/1992 của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành 31
- Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Nghị định 18), thay thế cho Nghị định số 28/HĐBT ngày 6/2/1991 (sau đây gọi là Nghị định 28) và 17 văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng đã được ban hành. Như vậy, cho đến trước khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, Nhà nước đã ban hành khoảng 110 văn bản luật và dưới luật liên quan đến đầu tư nước ngoài, tạo môi trường pháp lý tương đối đầy đủ, đồng bộ cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 2.2.3. Giai đoạn thứ ba (từ năm 1996 đến nay) Giai đoạn này đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội; quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt. Đảng và Nhà nước ta đã có các chủ trương, giải pháp cụ thể trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Ngày 12/11/1996 Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992, tiếp tục tạo môi trường pháp lý hấp dẫn, thể hiện chính sách nhất quán thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam của Đảng và Nhà nước ta. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 được ban hành trong bối cảnh hệ thống pháp luật về kinh tế đã được xây dựng, sửa đổi, bổ sung tương đối đầy đủ, so với trước kia. Nhiều đạo luật quan trọng đã được ban hành vào thời điểm này như Bộ luật Dân sự, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm thu hút tối đa mọi nguồn vốn đầu tư, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Sau khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, Nghị định số 12/CP ngày 18/2/1997 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Nghị định 12) và 15 văn bản pháp luật khác có liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng được ban hành. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 cùng hệ thống các văn bản luật nói trên đã tạo dựng khung pháp lý cơ bản điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài phù 32
- hợp với đường lối, quan điểm của Đảng về phát triển và mở cửa nền kinh tế, đáp ứng được yêu cầu của thời điểm đó. Tuy nhiên, từ sau năm 1997, tình hình trong nước cũng như khu vực và thế giới đã có nhiều thay đổi. Ở trong nước, tuy khu vực đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục có đóng góp tích cực vào sự phát triển của kinh tế đất nước, nhưng những năm sau đó, nhịp tăng thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam liên tục suy giảm. Trước thực tế trên, để chặn đà suy giảm, tiến tới có sự tăng trưởng của đầu tư nước ngoài; ngày 9/6/2000, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000). Luật này đã bổ sung hai điều mới và sửa đổi, bổ sung 20 điều của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996. Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã đưa ra nhiều quy định mới nhằm tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn, giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sau đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định 24. Nghị định gồm 14 chương, 125 điều và kèm theo 2 phụ lục. Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 và Nghị định 24 đã tạo điều kiện xích gần hơn giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo thế chủ động trong tiến trình hội nhập và đảm bảo các cam kết quốc tế, làm cho môi trường kinh doanh của Việt Nam hấp dẫn, thông thoáng hơn so với trước đây và so với một số nước trong khu vực. 2.3. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN MỘT SỐ CHẾ ĐỊNH PHÁP LÝ CHỦ YẾU CỦA PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM Việc nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài nói chung cho ta thấy bức tranh tổng thể mang tính khái quát về pháp luật đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, sẽ là đầy đủ hơn, nếu chúng ta đi sâu phân tích sự hình thành và phát triển của một số chế định pháp lý chủ yếu của pháp luật đầu tư nước ngoài như: chủ thể tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài; hình thức đầu tư 33
- và phương thức đầu tư; các biện pháp bảo đảm đầu tư; các biện pháp khuyến khích đầu tư; quản lý tài chính và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; giải quyết tranh chấp, giải thể, thanh lý, phá sản doanh nghiệp; thủ tục đầu tư; quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài. 2.3.1. Chủ thể tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định cụ thể về chủ thể tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài. Đây là bước tiến so với Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977, vì trong Điều lệ chưa quy định cụ thể đối tượng nào thuộc Bên Việt Nam được tham gia đầu tư nước ngoài. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định rất cụ thể những chủ thể thuộc Bên Việt Nam tham gia đầu tư, đó là: "Một bên hoặc nhiều tổ chức kinh tế Việt Nam có tư cách pháp nhân. Các tư nhân Việt Nam có thể chung vốn với tổ chức Việt Nam thành bên Việt Nam để hợp tác kinh doanh với Bên nước ngoài". Theo chúng tôi, việc quy định tư nhân phải chung vốn với tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân để thành Bên Việt Nam là chưa hoàn toàn phù hợp với chính sách kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta, mà nên quy định tư nhân Việt Nam được phép độc lập tham gia hợp tác với nước ngoài để tạo cơ hội cho các nhà đầu tư thuộc nhiều thành phần kinh tế, tự nguyện bỏ vốn để hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài, qua đó góp phần nâng cao tỷ trọng vốn trong nước so với toàn bộ cơ cấu đầu tư của nền kinh tế. Tuy nhiên, việc cho phép tư nhân được độc lập hợp tác đầu tư nước ngoài có những mặt trái, đó là: tư nhân Việt Nam, bên cạnh tiềm năng về vốn và năng lực kinh doanh mà ta cần khai thác, còn có thể có những biểu hiện tiêu cực, như lợi dụng sơ hở trong quản lý nhà nước để làm ăn không chính đáng, móc ngoặc với Bên nước ngoài, vì lợi ích riêng mà bỏ qua lợi ích của đất nước; các nước tư bản lớn có chính sách thù địch với ta đều có ý đồ thông qua việc phát triển thành phần kinh tế tư nhân để tiến tới "tư nhân hóa" toàn bộ nền kinh tế của ta, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Vì vậy, chủ trương cho phép thành phần kinh tế tư nhân được đứng độc 34
- lập thành Bên Việt Nam để hợp tác đầu tư với nước ngoài cần được gắn với việc hạn chế hoạt động của họ đối với một số lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với an ninh, quốc phòng, như: công nghiệp quốc phòng, khai thác dầu khí và các tài nguyên quý hiếm, một số ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn khác Trên cơ sở đó, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990 đã quy định như sau: "Bên Việt Nam là một bên gồm một hoặc nhiều tổ chức kinh tế Việt Nam có tư cách pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế" và "Các tổ chức kinh tế tư nhân Việt Nam được hợp tác kinh doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài trong lĩnh vực và điều kiện do Hội đồng Bộ trưởng quy định". Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định các tổ chức, cá nhân nước ngoài phải đứng chung thành Bên nước ngoài để hợp tác với Bên Việt Nam, chứ không được đứng riêng thành nhiều Bên nước ngoài độc lập với nhau. Thực tiễn thi hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 cho thấy, không phải lúc nào các tổ chức, cá nhân nước ngoài cũng muốn đứng chung thành Bên nước ngoài. Có nhiều trường hợp, họ muốn đứng thành từng Bên nước ngoài độc lập với nhau để tham gia liên doanh với Bên Việt Nam. Về phía Bên Việt Nam cũng xảy ra những trường hợp tương tự. Vì vậy, việc mở ra hình thức liên doanh có nhiều Bên nước ngoài và nhiều Bên Việt Nam tham gia là cần thiết, tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài được đứng riêng, độc lập với nhau để hợp tác với các đối tác Việt Nam thành lập doanh nghiệp liên doanh. Trên tinh thần đó, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990 đã quy định tại khoản 4 Điều 2 về vấn đề này như sau: "Nhiều bên là Bên Việt Nam và các Bên nước ngoài, hoặc là Bên nước ngoài và Bên Việt Nam hoặc là các Bên Việt Nam và các Bên nước ngoài". Từ việc quy định "Hai bên", đã bổ sung thêm thuật ngữ "Nhiều bên" ngay sau thuật ngữ "Hai bên" tại các khái niệm "Hợp đồng hợp tác kinh doanh" (khoản 5 Điều 2), "Hợp đồng liên doanh" (khoản 6 Điều 2), "Xí nghiệp liên doanh" (khoản 10 Điều 2). Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 cho phép các tổ chức kinh tế tư nhân có tư cách pháp nhân được hợp tác kinh doanh với nước ngoài như những 35
- bên độc lập. Tổ chức kinh tế tư nhân có tư cách pháp nhân là công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần (Điều 18 Luật Công ty), còn doanh nghiệp tư nhân theo Luật Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân. Như vậy, doanh nghiệp tư nhân chưa được hợp tác kinh doanh với nước ngoài. Trong khi đó, tư nhân ở nước ta có nguồn vốn không nhỏ, nhưng đầu tư vào mục tiêu phát triển sản xuất còn quá ít; những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cũng như một số đối tác khác muốn đầu tư vào Việt Nam với quy mô vừa phải, phù hợp với khả năng thực tế của mình. Để pháp luật đầu tư nước ngoài phù hợp hơn với chính sách kinh tế nhiều thành phần đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992 và huy động khả năng hợp tác đầu tư của tư nhân Việt Nam và một số đối tác bên ngoài, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 đã sửa đổi điểm 2 Điều 2 như sau: "Bên Việt Nam là một bên gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế". Từ sự phân tích ở trên cho thấy, với mỗi lần sửa đổi, bổ sung pháp luật đầu tư nước ngoài, chế định chủ thể tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài ngày càng phát triển theo hướng thông thoáng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài. 2.3.2. Hình thức đầu tư và phương thức đầu tư Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã có những sửa đổi, bổ sung về ba hình thức đầu tư đã được quy định trong Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 theo hướng cụ thể, thực tiễn hơn. Trên cơ sở hình thức hợp tác sản xuất chia sản phẩm được quy định trong Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã hoàn thiện thành hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh và quy định rất rõ đặc trưng cơ bản của nó là các bên cùng góp vốn kinh doanh, sau đó phân chia kết quả kinh doanh mà không thành lập một pháp nhân mới như hình thức liên doanh. Mỗi bên hợp doanh vẫn giữ tư cách pháp nhân của mình, tự quản lý, thực hiện nghĩa vụ tài chính theo pháp luật của nước mình: Bên hợp doanh Việt Nam 36
- thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo pháp luật Việt Nam, Bên nước ngoài thực hiện nghĩa vụ tài chính theo pháp luật nước ngoài. Có thể nói, đây là hình thức đầu tư được nhiều nhà đầu tư nước ngoài hoan nghênh vì nó rất đa dạng, linh hoạt. Về hình thức xí nghiệp liên doanh, Điều 2 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã đưa ra khái niệm doanh nghiệp liên doanh như sau: "Xí nghiệp liên doanh là xí nghiệp do Bên nước ngoài và Bên Việt Nam hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng hợp tác liên doanh hoặc Hiệp định ký giữa Chính phủ Cộng hòa XHCN Việt Nam và Chính phủ nước ngoài". Từ quy định trên cho thấy, Nhà nước ta cho phép xí nghiệp liên doanh chỉ có hai bên là Bên nước ngoài và Bên Việt Nam; trường hợp có nhiều tổ chức, cá nhân muốn hợp tác đầu tư dưới hình thức này, thì phải thỏa thuận lại thành một bên nước ngoài và một bên Việt Nam để liên doanh với nhau. Hình thức Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài đã được quy định trong Điều lệ đầu tư nước ngoài năm 1977 với điều kiện chặt chẽ, bắt buộc phải xuất khẩu 100% sản phẩm làm ra. Lúc đó, hình thức này được gọi là: "Xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng xuất khẩu". Để có sức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã đổi tên lại thành hình thức Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài và quy định tại Điều 14 như sau: "Các tổ chức, cá nhân nước ngoài được thành lập tại Việt Nam Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, tự mình quản lý xí nghiệp, chịu sự kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài, được hưởng quyền lợi và phải thực hiện các nghĩa vụ ghi trong Giấy phép đầu tư. Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam". Theo quy định này, Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài không bắt buộc phải xuất khẩu 100% sản phẩm làm ra. Thực tiễn của nhiều nước đã cho thấy, thành lập Khu chế xuất là một hình thức đầu tư có sức hấp dẫn, thu hút được nhiều vốn đầu tư, tạo được nhiều việc làm, tăng nhanh khả năng xuất khẩu và tác động tích cực tới kinh tế nội địa. Khu 37
- chế xuất có một số đặc thù về cơ chế quản lý, nhưng vẫn nằm trong tổng thể của chính sách đầu tư nước ngoài, chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn Nhà nước ta quy định về Khu chế xuất trong Luật Đầu tư nước ngoài để họ yên tâm đầu tư vào đó. Do vậy, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992 đã bổ sung Điều 19a như sau: "Các tổ chức, cá nhân nước ngoài được đầu tư vào các Khu chế xuất tại Việt Nam dưới các hình thức quy định tại Điều 4 Luật này Quan hệ trao đổi hàng hóa giữa các doanh nghiệp trong thị trường Việt Nam với các xí nghiệp chế xuất được coi là quan hệ xuất nhập khẩu và theo các quy định của pháp luật xuất nhập khẩu". Bên cạnh đó, việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng, như: cầu cống, đường sá, bến cảng, nhà máy cung cấp nước là ưu tiên hàng đầu của Nhà nước ta. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng đòi hỏi số vốn đầu tư lớn, nhưng việc thu hồi vốn lại gặp nhiều khó khăn. Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 đã bổ sung Điều 19b như sau: "Các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam xây dựng công trình hạ tầng có thể ký hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. Các tổ chức, cá nhân nước ngoài được hưởng các quyền lợi và thực hiện các nghĩa vụ quy định trong hợp đồng". Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã bổ sung một số quy định nhằm hoàn thiện hình thức đầu tư, phương thức đầu tư như quy định đa dạng hóa các phương thức đầu tư theo phương thức BOT, BTO, BT; cho phép bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu hợp tác đầu tư với nước ngoài; luật hóa khu công nghiệp, cho phép doanh nghiệp liên doanh được hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam để thành lập liên doanh mới. 2.3.3. Các biện pháp bảo đảm đầu tư 2.3.3.1. Không quốc hữu hóa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định những nguyên tắc và biện 38
- pháp bảo đảm đầu tư nhằm làm cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư vào nước ta: "Nhà nước Việt Nam bảo đảm quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, tạo những điều kiện thuận lợi và định các thủ tục dễ dàng cho các tổ chức, cá nhân đó đầu tư vào Việt Nam". Đồng thời, Điều 21 cũng khẳng định: "Trong quá trình đầu tư vào Việt Nam, vốn và tài sản của các tổ chức, cá nhân nước ngoài không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hóa". Ngoài ra, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 còn cho phép nhà đầu tư nước ngoài chuyển về nước vốn, lợi nhuận và mọi khoản tiền khác thuộc quyền sở hữu hợp pháp của họ (Điều 22); cho phép nhân viên nước ngoài làm việc trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được chuyển về nước thu nhập hợp pháp của mình, sau khi đã nộp đủ thuế thu nhập (Điều 23). 2.3.3.2. Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài khi có sự thay đổi về chính sách, pháp luật Đối với các nhà kinh doanh, yêu cầu hàng đầu là pháp luật cũng như chính sách của Nhà nước phải ổn định, để không làm đảo lộn các tính toán kinh doanh của họ. Nhưng dưới góc độ quản lý vĩ mô của Nhà nước, khi tình hình thay đổi, thì chính sách, pháp luật cũng phải được thay đổi cho phù hợp. Để giải quyết mâu thuẫn nói trên, cần có giải pháp thích hợp về mặt pháp luật. Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã thay khoản 3 Điều 21 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 bằng Điều 21a trên cơ sở luật hóa Điều 101 Nghị định 12, nhằm quy định cụ thể các biện pháp đảm bảo quyền lợi nhà đầu tư trong trường hợp do có những thay đổi trong quy định của pháp luật Việt Nam mà làm thiệt hại đến lợi ích của nhà đầu tư, theo hướng: - Cho phép nhà đầu tư tiếp tục được hưởng các ưu đãi đã được quy định trong Giấy phép đầu tư và Luật Đầu tư nước ngoài; hoặc - Áp dụng các biện pháp như: cho phép thay đổi mục tiêu hoạt động của dự án; miễn, giảm thuế theo quy định của pháp luật; thiệt hại của doanh nghiệp 39
- có vốn đầu tư nước ngoài, của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được khấu trừ vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp; được xem xét bồi thường thỏa đáng trong một số trường hợp cần thiết. Việc sửa đổi cũng nêu rõ những quy định mới ưu đãi hơn ban hành sau khi cấp Giấy phép đầu tư, sẽ được áp dụng cho Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các Bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh. 2.3.3.3. Bảo đảm, bảo lãnh của Chính phủ Đối với các dự án BOT và các dự án cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng, nhà đầu tư nước ngoài mong muốn được Chính phủ bảo lãnh các nghĩa vụ về tài chính và chia sẻ rủi ro với nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí là những cam kết bảo lãnh mà pháp luật chưa quy định. Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã bổ sung cơ chế pháp lý về bảo lãnh đối với một số dự án đặc biệt quan trọng là: căn cứ vào nguyên tắc quy định của Luật Đầu tư nước ngoài Việt Nam, Chính phủ có thể ký kết các thỏa thuận với nhà đầu tư nước ngoài hoặc đưa ra những biện pháp bảo đảm, bảo lãnh về đầu tư. 2.3.3.4. Áp dụng pháp luật nước ngoài Để đảm bảo tính rõ ràng, ổn định của hệ thống pháp luật, phù hợp với thông lệ quốc tế và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký; đồng thời làm cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư tại Việt Nam, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã bổ sung Điều 66 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 như sau: "Trong trường hợp pháp luật Việt Nam chưa có quy định, các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng việc áp dụng pháp luật nước ngoài nếu việc áp dụng pháp luật nước ngoài không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam". 2.3.4. Các biện pháp khuyến khích đầu tư 2.3.4.1. Quy định lĩnh vực khuyến khích đầu tư Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã cho phép các tổ chức, cá nhân nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. 40
- Đồng thời, đoạn 2 Điều 3 còn quy định cụ thể những lĩnh vực được khuyến khích đầu tư như: - Thực hiện các chương trình kinh tế lớn, sản xuất hàng xuất khẩu và hàng thay thế hàng nhập khẩu; - Sử dụng kỹ thuật cao, công nhân lành nghề, đầu tư theo chiều sâu để khai thác, tận dụng các khả năng và nâng cao công suất của các cơ sở kinh tế hiện có; - Sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu và tài nguyên thiên nhiên sẵn có ở Việt Nam; - Xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng; Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã có một bước tiến so với Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 ở chỗ đã quy định cụ thể những lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư nước ngoài, các lĩnh vực đầu tư có điều kiện, những lĩnh vực và địa bàn không cấp phép đầu tư nước ngoài và giao cho Chính phủ quy định các địa bàn khuyến khích đầu tư; ban hành danh mục các dự án khuyến khích, đặc biệt khuyến khích đầu tư, danh mục các lĩnh vực đầu tư có điều kiện, danh mục các lĩnh vực không cấp Giấy phép đầu tư. Tuy nhiên, trong Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, chúng ta vẫn chưa quy định được danh mục các ngành nghề cụ thể cấm đầu tư hoặc đầu tư có điều kiện. Cho đến khi Nghị định 24 được ban hành, Chính phủ mới công bố chính thức Danh mục lĩnh vực khuyến khích đầu tư, Danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư, Danh mục địa bàn khuyến khích đầu tư, Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện, Danh mục lĩnh vực không cấp Giấy phép đầu tư. 2.3.4.2. Quy định về thuế Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định về các loại thuế một cách hợp lý, vừa đảm bảo lợi ích của Nhà nước Việt Nam, vừa đảm bảo lợi ích của nhà đầu tư, đồng thời có tính hấp dẫn hơn so với các loại thuế tương ứng được ban hành ở các nước Đông Nam Á và Trung Quốc. Về thuế lợi tức 41
- Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định thuế lợi tức đối với xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp có 100% vốn nước ngoài và bên nước ngoài hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng từ 10% đến 25% lợi nhuận thu được. Trên cơ sở quy định này, Nghị định số 139, đã quy định ba loại: trường hợp đặc biệt cần khuyến khích đầu tư áp dụng 10% đến 14% lợi nhuận thu được, trường hợp ưu tiên áp dụng từ 15% đến 20% lợi nhuận thu được, trường hợp phổ thông áp dụng từ 21% đến 25% lợi nhuận thu được. Đối với trường hợp tái đầu tư, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định cơ quan thuế phải hoàn lại số tiền thuế lợi tức đã nộp liên quan đến phần lợi nhuận tái đầu tư cho nhà đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh có thể được miễn thuế lợi tức trong một thời gian tối đa là 2 năm kể từ khi bắt đầu kinh doanh có lãi và được giảm 50% thuế lợi tức trong một thời gian tối đa là 2 năm tiếp theo. Nếu so sánh với các nước trên thế giới, với mức thuế suất thuế lợi tức phổ thông áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta là 25%, thì thuế suất của Việt Nam vào loại thấp nhất, vì mức thuế suất thu nhập công ty của các nước thường ở khoảng 30% đến 60%. Mức thuế suất phổ thông của Việt Nam, cũng như trong các trường hợp miễn, giảm được coi là hấp dẫn so với các nước trong khu vực: Brunei: 30%, Lào: 20%, Malaysia: 28%, Myanmar: 30%, Philippines: thuế thu nhập công ty giảm dần từ mức 34% năm 1998, 33% năm 1999 và 32% từ năm 2000; Singapore: 26%, Thái Lan: 30%, Trung Quốc: 30% ngoài ra còn phải trả thuế thu nhập địa phương là 3%, Ấn Độ: 35%. Tuy nhiên theo tinh thần Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp mới thì kể từ ngày 1/1/2004 mức thuế thu nhập sẽ áp dụng chung cho đầu tư trong nước và nước ngoài với các mức 10%; 15%; 20% và 28%. Về thuế xuất nhập khẩu Việc miễn thuế nhập khẩu được áp dụng cho thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ để tạo tài sản cố định 42
- hoặc mở rộng quy mô dự án đầu tư và phương tiện vận chuyển nhập khẩu dùng để đưa đón công nhân. Chính phủ quy định việc miễn giảm thuế suất, nhập khẩu đối với các hàng hóa đặc biệt cần khuyến khích đầu tư khác. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 bỏ quy định miễn thuế nhập khẩu đối với vật tư và xe ô tô con. Nghị định 12 quy định cụ thể việc miễn thuế nhập khẩu đối với trường hợp mở rộng quy mô dự án, thay thế, đổi mới công nghệ; miễn thuế nhập khẩu đối với các giống cây trồng, giống vật nuôi, nông dược đặc chủng được phép nhập khẩu để thực hiện dự án nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp; miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa, vật tư khác dùng cho các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Nhằm khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài và tháo gỡ khó khăn đối với các dự án đang hoạt động, Chính phủ đã tiếp tục ban hành nhiều chính sách ưu đãi liên quan đến miễn thuế nhập khẩu đối với các dự án đầu tư nước ngoài (như Nghị định số 10/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ; Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg ngày 26/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ ). Để nâng cao hiệu lực pháp lý của các biện pháp quan trọng này, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã luật hóa các quy định trên và sửa đổi, bổ sung một số quy định về miễn thuế nhập khẩu và Nghị định 24 đã quy định như sau: "Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng nhập khẩu để tạo tài sản cố định Việc miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu quy định tại khoản này được áp dụng cho cả trường hợp mở rộng quy mô dự án, thay thế, đổi mới công nghệ. Nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất của các dự án thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được miễn thuế nhập khẩu trong thời hạn 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất". Về thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài 43
- Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định cụ thể về mức thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là từ 5% đến 10% số tiền chuyển ra nước ngoài. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 quy định cụ thể hơn: ngoài việc phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài vẫn phải nộp một khoản thuế là 5%, 7%, 10% số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài, tùy thuộc vào quy mô góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp. Để cải thiện môi trường đầu tư, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài năm 2000 đã sửa đổi Điều 43 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 theo hướng giảm mức thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài xuống các mức tương ứng là 3%, 5% và 7%. Tuy nhiên theo tinh thần Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp mới thì kể từ ngày 1/1/2004 sẽ xoá bỏ hoàn toàn thuế chuyển lợi nhuận. Đây là điểm rất quan trọng nhằm tạo điều kiện thuân lợi cho các nhà đầu, đồng thời hướng tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và nước ngoài. Về thuế giá trị gia tăng Đây là loại thuế mới chưa được quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996. Khi Luật Thuế giá trị gia tăng được ban hành, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải nộp thuế giá trị gia tăng đối với các loại máy móc, thiết bị, vật tư nhập khẩu đồng bộ để tạo tài sản cố định (chỉ được miễn đối với các loại thiết bị, máy móc, phương tiện chuyên dùng trong nước chưa sản xuất được). Quy định này thực chất là đánh thuế vào vốn đầu tư của doanh nghiệp, làm tăng chi phí của doanh nghiệp, trong khi sức hấp dẫn, tính cạnh tranh của môi trường đầu tư ở Việt Nam đang giảm dần. Để tháo gỡ những vướng mắc về thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã sửa đổi theo hướng: cho phép thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải nhập khẩu đồng bộ (không phụ thuộc vào việc trong nước sản xuất được hay chưa) và vật tư trong nước chưa sản xuất được đều là đối tượng không thuộc diện chịu thuế 44
- giá trị gia tăng. 2.3.4.3. Chuyển lỗ của doanh nghiệp Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 quy định cho phép doanh nghiệp liên doanh được chuyển lỗ của bất kỳ năm thuế nào sang năm tiếp theo và được bù lỗ đó bằng lợi nhuận của những năm tiếp theo nhưng không quá 5 năm. Quy định đó chưa thật công bằng đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh. Vì vậy, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã sửa đổi theo hướng cho phép doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh cũng được hưởng ưu tiên như doanh nghiệp liên doanh là được chuyển lỗ sang năm tiếp theo và được bù khoản lỗ đó bằng lợi nhuận của những năm tiếp theo, nhưng không quá 5 năm. 2.3.4.4. Quy định về hàng thay thế hàng nhập khẩu và trả lương bằng tiền nước ngoài Một trong các lĩnh vực được Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 khuyến khích đầu tư là sản xuất hàng xuất khẩu và hàng thay thế hàng nhập khẩu (khoản 1 Điều 3). Tuy nhiên, một số quy định trong luật này lại không khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Điều 16 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định: "Lương và các khoản phụ cấp khác thu được của người lao động Việt Nam được trả bằng tiền Việt Nam có gốc tiền nước ngoài". Quy định này trên thực tế đã ngăn cấm cả việc Xí nghiệp dùng những khoản tiền Việt Nam mà Xí nghiệp thu được bằng cách tiêu thụ sản phẩm tại thị trường Việt Nam để trả lương cho người lao động Việt Nam. Điều 27 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 về điều kiện để được miễn, giảm thuế lợi tức quy định: "Tùy thuộc vào lĩnh vực đầu tư, quy mô đầu tư, khối lượng hàng xuất khẩu, tính chất và thời gian hoạt động, cơ quan nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài có thể miễn thuế lợi tức cho xí nghiệp liên doanh trong thời gian tối đa là hai năm, kể từ năm bắt đầu kinh doanh có lãi và giảm thuế lợi tức trong một thời gian tối đa là 2 năm tiếp theo"; rõ ràng quy định này cũng không đề cập đến vấn đề sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu. 45
- Để giải quyết những vướng mắc nêu trên, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990 đã sửa đổi, bổ sung Điều 16 và Điều 27 của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 như sau: - Đoạn cuối của Điều 16 được sửa lại là: "Lương và các khoản phụ cấp của người lao động Việt Nam được trả bằng tiền Việt Nam hoặc tiền nước ngoài trích từ tài khoản của xí nghiệp mở tại Ngân hàng". - Bổ sung vào Điều 27 một đoạn như sau: "Tùy thuộc vào lĩnh vực đầu tư, quy mô vốn đầu tư khối lượng hàng xuất khẩu, khối lượng hàng thay thế hàng nhập khẩu thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ, tính chất và thời gian hoạt động ". 2.3.4.5. Miễn, giảm tiền thuê đất Việc miễn giảm tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển được áp dụng cho các dự án xây dựng - kinh doanh - chuyển giao, xây dựng - chuyển giao - kinh doanh, xây dựng - chuyển giao; dự án đầu tư vào miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn theo quy định của Chính phủ. 2.3.4.6. Cho doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được hưởng ưu đãi như doanh nghiệp liên doanh Trong Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 có sự phân biệt chế độ ưu đãi giữa xí nghiệp liên doanh và xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, trong đó xí nghiệp liên doanh được hưởng ba điều ưu đãi mà xí nghiệp 100% không được hưởng, đó là: được miễn, giảm thuế trong vài năm đầu (Điều 27, 28); trong trường hợp đặc biệt được hưởng khung thuế lợi tức thấp nhất từ 10% đến 15% (Điều 27, 28); được chuyển lỗ của năm trước sang các năm sau (Điều 27). Có thể thấy mục đích chính của Việt nam khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 là khuyến khích việc thành lập hình thức xí nghiệp liên doanh, vì trong đó có phần góp vốn của Bên Việt Nam và thông qua hình thức xí nghiệp liên doanh để học hỏi kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường, thông qua Bên Việt Nam trong liên doanh để giám sát, kiểm tra hoạt động của xí nghiệp. Đến nay chủ trương này vẫn đúng. Nhưng thực tiễn thi hành Luật đầu tư còn cho thấy, 46
- trong thời gian đầu, nhiều nhà đầu tư nước ngoài muốn thành lập xí nghiệp liên doanh, vì họ chưa quen thị trường Việt Nam, nên muốn thông qua Bên Việt Nam trong liên doanh để cùng chia sẻ rủi ro và lo các thủ tục hành chính cần thiết. Đến nay, nhiều nhà đầu tư nước ngoài, nhất là những người đã quen thị trường Việt Nam và có ý đồ làm ăn lớn, có xu hướng muốn thành lập xí nghiệp 100% vốn nước ngoài hơn là xí nghiệp liên doanh vì họ muốn tự do trong kinh doanh hơn. Nếu nhà đầu tư nước ngoài thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, thì lại không được hưởng những khuyến khích về tài chính như xí nghiệp liên doanh. Họ bị đặt trước tình huống phải cân nhắc, nhiều khi ngần ngại kéo dài và dễ đi đến "bỏ cuộc". Vì vậy, việc xóa bỏ sự phân biệt về ưu đãi tài chính giữa xí nghiệp liên doanh và xí nghiệp 100% vốn nước ngoài là yêu cầu bức xúc đặt ra. 2.3.5. Quản lý tài chính và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2.3.5.1. Quy định về vốn pháp định Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 lần đầu tiên đưa ra khái niệm vốn pháp định: "Vốn pháp định là vốn ban đầu của xí nghiệp liên doanh được ghi trong điều lệ xí nghiệp" (khoản 2 Điều 9). Đây là bước tiến về kỹ thuật lập pháp về đầu tư nước ngoài. Nhằm hạn chế việc thu hẹp đầu tư, Điều 31 Nghị định số 139 quy định là xí nghiệp liên doanh không được giảm vốn pháp định. Quy định này không cho phép nhà đầu tư nước ngoài sau khi đã góp vốn pháp định, tùy tiện rút vốn ra để tránh ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế, nếu các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn về nước. Ngược lại, trong trường hợp nhà đầu tư muốn tăng vốn, thì phải được sự chuẩn y của cơ quản lý cấp phép đầu tư, nhằm khuyến khích đầu tư vào những lĩnh vực mà ta đang cần đầu tư. Tuy nhiên, thực tiễn đầu tư nước ngoài đã cho thấy, trong một số trường hợp bất khả kháng về khả năng tài chính của công ty mẹ, hoặc nhu cầu của thị trường tiêu thụ bị thu hẹp doanh nghiệp đầu tư nước ngoài buộc phải cơ cấu lại vốn đầu tư, vốn pháp định. Để giải quyết vướng mắc này, Nghị định 24 đã quy 47
- định cho phép doanh nghiệp cơ cấu lại vốn đầu tư, vốn pháp định trong trường hợp thay đổi mục tiêu, quy mô dự án, đối tác, phương thức góp vốn và các trường hợp khác được cơ quan cấp Giấy phép đầu tư chấp nhận (Điều 34). Tuy nhiên, việc cơ cấu lại vốn đầu tư, vốn pháp định không được làm giảm tỷ lệ vốn pháp định xuống dưới mức 30% so với tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp. 2.3.5.2. Về chế độ kế toán, thống kê, bảo hiểm Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 (khoản 2 Điều 14) và Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 (Điều 18) đều quy định các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được áp dụng chế độ kế toán Việt nam hoặc theo những nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế phổ biến mà được Bộ Tài chính chấp thuận. Nhưng nay, do chế độ kế toán của Việt Nam đã có nhiều cải tiến, phù hợp với hệ thống kế toán quốc tế phổ biến. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã quy định chặt chẽ hơn nhằm thống nhất sự quản lý. Luật quy định các doanh nghiệp nên áp dụng hệ thống kế toán Việt Nam. Trường hợp do nhu cầu kế toán toàn cầu của những công ty, tập đoàn lớn hoặc thuộc ngành nghề đặc biệt thì mới được Bộ Tài chính cho áp dụng hệ thống kế toán nước ngoài (Điều 37 Luật Đầu tư nước ngoài và Điều 62 Nghị định 24). Đối với việc bảo hiểm tài sản, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định tài sản của xí nghiệp liên doanh được bảo hiểm tại Công ty bảo hiểm Việt Nam hoặc tại các công ty bảo hiểm khác do hai bên thỏa thuận. Đây là quy định mới rất cần thiết, bảo đảm bảo hiểm tài sản cho các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà trước kia Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 chưa quy định. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 chỉ cho phép các Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài tham gia Hợp đồng hợp tác kinh doanh bảo hiểm tài sản và trách nhiệm dân sự tại các công ty bảo hiểm được phép hoạt động tại Việt Nam. Điều này có nghĩa là họ không được mua bảo hiểm ở nước ngoài. 2.3.5.3. Vấn đề mở tài khoản Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được mở tài khoản bằng tiền Việt Nam và tiền nước ngoài tại Ngân 48
- hàng Ngoại thương Việt Nam hoặc tại các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đặt tại Việt Nam được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận (Điều 17). So với quy định tương ứng trong Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977, thì quy định trên mở rộng hơn, vì Điều lệ quy định các doanh nghiệp phải mở tài khoản tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 đã sửa đổi, bổ sung Điều 17 như sau: "Xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mở tài khoản bằng tiền Việt Nam và tiền nước ngoài tại Ngân hàng Việt Nam hoặc tại Ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đặt ở Việt Nam". Tiếp tục hoàn thiện quy định trên, Điều 35 Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã sửa đổi theo hướng quy định: trong trường hợp đặc biệt được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được mở tài khoản tại ngân hàng nước ngoài. 2.3.5.4. Cân đối ngoại tệ Nhằm mục đích ổn định cán cân thanh toán quốc tế trong điều kiện đồng tiền Việt Nam chưa có khả năng chuyển đổi và dự trữ ngoại tệ có hạn, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 quy định doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh tự đảm bảo nhu cầu về tiền nước ngoài cho hoạt động của mình. Để thực hiện từng bước xử lý vấn đề chuyển đổi ngoại tệ đối với các giao dịch vãng lai, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp và tạo cơ sở pháp lý cho các ngân hàng được quyền quyết định mua, bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tùy khả năng và điều kiện cụ thể, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã sửa đổi Điều 33 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 theo hướng: - Thay quy định doanh nghiệp tự cân đối ngoại tệ bằng việc cho phép Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các Bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được mua ngoại tệ tại ngân hàng thương mại để đáp ứng các giao dịch vãng lai và các giao dịch được phép khác theo các quy định của pháp luật 49
- về quản lý ngoại hối. - Chính phủ bảo đảm cân đối ngoại tệ đối với một số dự án đặc biệt quan trọng đầu tư theo chương trình của Chính phủ trong từng thời kỳ. 2.3.5.5. Vấn đề chuyển nhượng vốn Việc chuyển nhượng vốn là hiện tượng bình thường trong kinh tế thị trường và là quyền chính đáng của nhà đầu tư. Tuy nhiên, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 chỉ quy định việc chuyển nhượng vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở đó, Điều 33 Nghị định 139 đã quy định việc chuyển nhượng vốn trong doanh nghiệp liên doanh và các bên ưu tiên chuyển nhượng cho các bên trong liên doanh. Việc chuyển nhượng này phải được Hội đồng quản trị nhất trí và phải được Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) chuẩn y. Sau này, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã quy định việc chuyển nhượng vốn một cách đầy đủ và thoáng hơn, cụ thể là: quy định việc chuyển nhượng của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cũng như của hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 quy định việc phải nộp thuế lợi tức (nay là thuế thu nhập doanh nghiệp) 25%; trường hợp chuyển nhượng cho Bên Việt Nam thì tùy từng trường hợp sẽ được miễn, giảm thuế Do quy định trên về chuyển nhượng vốn còn phức tạp và mang tính áp đặt, nên Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã quy định: hợp đồng chuyển nhượng vốn chỉ cần đăng ký với Cơ quan cấp phép đầu tư (Điều 34). 2.3.5.6. Vấn đề tổ chức lại doanh nghiệp Việc chuyển đổi hình thức đầu tư, mua lại, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp là thực tế phổ biến trong hoạt động đầu tư ở các nước. Một trong các hạn chế của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 là chưa đề cập đến các hình thái vận động của doanh nghiệp trong quá trình phát triển như chuyển đổi hình thức đầu tư, việc chia tách, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp Thời gian qua, mặc dù chúng ta đã xử lý linh hoạt việc cho nhà đầu tư lựa chọn cũng như chuyển đổi hình thức đầu tư, nhưng mới dừng lại ở việc xem xét từng trường 50
- hợp cụ thể, chưa có quy định chính thức về mặt pháp lý. Hơn nữa, vấn đề này đã được quy định cụ thể trong Luật Doanh nghiệp. Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã bổ sung Điều 19a quy định việc cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh trong quá trình hoạt động được chuyển đổi hình thức đầu tư, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp. 2.3.6. Giải quyết tranh chấp, giải thể, thanh lý, phá sản doanh nghiệp Theo quy định tại khoản 2 Điều 52 của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hợp đồng hợp tác kinh doanh chấm dứt hoạt động trong những trường hợp do đề nghị của một hoặc các bên và được cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài chấp thuận. Thực tiễn cho thấy, quy định trên không phù hợp với thông lệ quốc tế vì thông thường, việc quyết định chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp liên doanh phải theo thỏa thuận của các bên. Việc cho phép một Bên đơn phương đề nghị chấm dứt hoạt động với sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài mà không thỏa thuận với Bên kia đã gây ra sự bất bình đẳng giữa các Bên liên doanh, cho phép các cơ quan nhà nước can thiệp sâu không cần thiết vào hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Vì vậy, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã sửa đổi khoản 2 Điều 52 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 theo hướng cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh chấm dứt hoạt động theo các điều kiện chấm dứt hoạt động được quy định trong hợp đồng, điều lệ doanh nghiệp hoặc thỏa thuận của các bên. Về vấn đề thanh lý, phá sản đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: trong thời gian qua, việc giải thể doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhất là đối với việc giải thể doanh nghiệp trước thời hạn, thường nảy sinh tình trạng doanh nghiệp không có khả năng thanh toán các khoản nợ cho chủ nợ. Theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, khi hết thời hạn thanh lý thì các tranh chấp được chuyển cho Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, trên thực tế, cơ 51