Luận văn Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước

pdf 104 trang tranphuong11 27/01/2022 3580
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_de_xuat_mot_so_giai_phap_nham_hoan_thien_co_che_qua.pdf

Nội dung text: Luận văn Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước

  1. Luận văn thạc sĩ 1 Kinh tế TNTN và Môi trường MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đối với bất cứ một quốc gia nào, muốn nền kinh tế phát triển bền vững thì trước hết Nhà nước luôn luôn phải quan tâm huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư xây dựng mới, cải tạo mở rộng các công trình công nghiệp; công trình cơ sở hạ tầng; công trình y tế, giáo dục, phúc lợi công cộng; công trình du lịch, dịch vụ; công trình an ninh, quốc phòng, theo một quy hoạch tổng thể và định hướng phát triển kinh tế dài hạn sao cho có hiệu quả cao nhất. Đối với Việt Nam điều đó không phải là ngoại lệ, nhất là nước ta đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu và trải qua thời gian chiến tranh kéo dài. Đầu tư phát triển, đặc biệt là đầu tư xây dựng cơ bản có vai trò quyết định trong việc tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật cho xã hội, là nhân tố quyết định làm thay đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tốc độ và quy mô tăng đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần quan trọng vào tốc độ tăng GDP hàng năm, tăng cường tiềm lực nền kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Nguồn vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước có vai trò chủ đạo, dẫn dắt, thu hút các nguồn vốn của xã hội vào đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển nói chung và công tác đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) nói riêng luôn có một vị trí vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội của mỗi nước, điều đó mọi người đều khẳng định; song việc đầu tư xây dựng các công trình sao cho có hiệu quả cao lại càng quan trọng hơn. Bản thân mỗi dự án tự nó không thể hiện hiệu quả cao hay thấp, mà chính do con người phải căn cứ vào những đặc điểm riêng có của sản phẩm xây dựng cơ bản để đề ra các giải pháp quản lý đúng đắn hợp lý, đồng thời phải thường xuyên hoàn thiện nâng cao các giải pháp quản lý sao cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế, ở tất cả các giai đoạn hoạt động đầu tư, nhất là trong công tác quản lý chi vốn đầu tư phát triển sao cho hiệu quả nhất, tránh lãng phí, thất thoát vốn vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  2. Luận văn thạc sĩ 2 Kinh tế TNTN và Môi trường Ở Việt Nam trong những năm qua, quản lý Nhà nước về đầu tư phát triển nói chung và đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng có một số mặt tiến bộ hơn. Việc sửa đổi, bổ sung các quy chế về quản lý đầu tư, xây dựng, đấu thầu đã tạo khung pháp lý hoàn thiện hơn về đầu tư xây dựng cơ bản. Công tác chỉ đạo, điều hành lập, tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch và kiểm tra giám sát được quan tâm. Cơ chế quản lý đầu tư được cải tiến một bước theo hướng tăng cường phân công, phân cấp cho các Bộ, ngành và địa phương. Tính công khai, minh bạch, công bằng, hợp lý trong việc phân bổ vốn đầu tư phát triển theo Luật Ngân sách Nhà nước mới (năm 2002) đã được quan tâm hơn. Những đổi mới này đã giảm thiểu sự bao cấp của ngân sách Nhà nước, nâng cao ý thức trách nhiệm, mở rộng quyền hạn cho các cấp, các ngành, địa phương trong quản lý đầu tư và xây dựng. Tuy nhiên, những kết quả đạt được còn rất khiêm tốn, cơ cấu nền kinh tế còn chuyển biến chậm, tình trạng phân tán, lãng phí, kém hiệu quả trong đầu tư xây dựng thuộc nguồn ngân sách Nhà nước còn khá phổ biến. Hệ thống cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà nước đã được bổ sung, song chưa thật phù hợp với sự phát triển nhanh của nền kinh tế thị trường. Mặt khác, việc thực hiện quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước rất phức tạp và mang tính chất phân tán rộng, dẫn đến sự lỏng lẻo trong quản lý, tạo điều kiện cho cơ chế “xin - cho”, lãng phí, tham nhũng tiền của Nhà nước, đồng thời dễ dẫn đến khuynh hướng quản lý cứng nhắc, máy móc, gây ách tắc, thiếu đồng bộ, làm vốn bị ứ đọng, thời gian thi công kéo dài, chậm tiến độ, gây lãng phí và kém hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Xuất phát từ yêu cầu bức xúc nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước” để làm Luận văn thạc sĩ kinh tế. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Trên cơ sở nhận thức những vấn đề lý luận về đầu tư và đầu tư phát triển, đánh giá thực trạng quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước cho các dự án đầu tư xây dựng, nghiên cứu đề xuất các giải pháp thiết Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  3. Luận văn thạc sĩ 3 Kinh tế TNTN và Môi trường thực, hữu hiệu, khả thi góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý sử dụng vốn ngân sách Nhà nước cho các dự án đầu tư xây dựng trong thời gian tới. 3. Phương pháp nghiên cứu Đề tài vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học như: nghiên cứu tài liệu, khảo sát thực tiễn, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, dự báo để làm sáng tỏ những nội dung lý luận và thực tiễn, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Đề tài là sự tổng hợp cơ sở lý luận khoa học đã được nghiên cứu và khẳng định trong cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Nghiên cứu của đề tài là một nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các tổ chức hoặc cơ quan quản lý vận dụng để quản lý tốt hơn các dự án đầu tư xây dựng được đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước của đơn vị mình. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề về đầu tư phát triển và quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước; trong đó tập trung vào nghiên cứu quản lý chi vốn đầu tư phát triển trong nước giai đoạn từ 2006 - 2010. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn đầu tư phát triển từ nguồn vốn trong nước của ngân sách Nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn từ 2006 - 2010, các giải pháp đề xuất giai đoạn 2011 - 2015 và các năm tiếp theo. 6. Kết quả dự kiến đạt được - Hệ thống hóa và phân tích sáng tỏ nhận thức luận cơ bản về đầu tư phát triển, vốn đầu tư phát triển và cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển của ngân sách Nhà nước. Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  4. Luận văn thạc sĩ 4 Kinh tế TNTN và Môi trường - Tổng hợp và phân tích làm r thực trạng đầu tư, quản lý và cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng từ nguồn vốn trong nước thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. - Trên cơ sở phân tích lý nguyên lý chung về đầu tư (qua Luật và các văn bản Pháp quy khác), tình hình quản lý sử dụng vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước (qua thực tiễn); Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện những vấn đề về lý luận và thực tiễn trong công tác quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn trong nước của ngân sách Nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, từ đó góp phần vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế nói chung. 7. Nội dung của luận văn Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và tài liệu tham khảo, Luận văn được cấu trúc từ 3 chương nội dung chính: - Chương 1: Lý luận chung về cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước. - Chương 2: Thực trạng cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước. - Chương 3: Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  5. Luận văn thạc sĩ 5 Kinh tế TNTN và Môi trường CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHO CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG THUỘC NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TỪ NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 1.1.1. Khái niệm về cơ chế Từ "cơ chế" là chuyển ngữ của từ mécanisme của phương Tây. Từ điển Le Petit Larousse (1999) giảng nghĩa "mécanisme" nghĩa là cơ chế, là "cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau". Còn Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học 1996) giảng nghĩa cơ chế là "cách thức theo đó một quá trình thực hiện". Từ "cơ chế" được dùng rộng rãi trong lĩnh vực quản lý từ khoảng cuối những năm 1970, khi chúng ta bắt đầu chú ý nghiên cứu về quản lý và cải tiến quản lý kinh tế, với nghĩa như là những qui định về quản lý. Nói một cách khác, cơ chế quản lý một vấn đề gì đó cũng đồng nghĩa với những quy định về quản lý vấn đề đó. 1.1.2. Khái niệm cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn ngân sách nhà nước được quy định thực hiện thông qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan lập pháp hoặc hành pháp ban hành như Luật, Nghị định, Nghị quyết, Thông tư, Chỉ thị. Song hành với các văn bản này là bộ máy quản lý và các bước tiến hành triển khai thực hiện một dự án đầu tư xây dựng, việc quản lý này lại có liên quan và xuyên suốt tất cả các khâu, bước đi của một dự án, từ chủ trương quy hoạch, chủ trương đầu tư, lập và ghi kế hoạch vốn, phân bổ vốn, lập báo cáo đầu tư, quyết định phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình, quyết định phê duyệt thiết kế - kỹ thuật, dự toán, tổng dự toán, giải phóng mặt Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  6. Luận văn thạc sĩ 6 Kinh tế TNTN và Môi trường bằng, đấu thầu, tạm ứng, thanh toán đến khâu lập, thẩm tra, phê duyệt quyết toán dự án đầu tư hoàn thành đưa vào khai thác, sử dụng. Tóm lại, có thể hiểu một cách chung nhất về quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước như sau: quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng từ ngân sách Nhà nước là một bộ phận của cơ chế quản lý tài chính do Nhà nước ban hành, thông qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và bộ máy quản lý, qua đó quy định các biện pháp cụ thể, cách thức tổ chức và vận hành có hiệu quả các biện pháp nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách đầu tư trong một thời kỳ nhất định. 1.1.3. Nội dung, phân loại cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước Quản lý vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước được chia thành 2 nhóm cơ chế sau đây: 1.1.2.1. Nhóm cơ chế có liên quan đến việc đảm bảo và sử dụng vốn đầu tư - Cơ chế huy động vốn ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển. - Cơ chế phân bổ và phân cấp quản lý vốn ngân sách đầu tư (cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước). Nội dung chủ yếu của quy chế, quy trình quản lý đầu tư bao gồm: - Những chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của dự án đầu tư, nhất là các tiêu chuẩn thiết kế, định mức dự toán phù hợp nhằm vừa hạ thấp được chi phí đầu tư nhưng vừa đảm bảo chất lượng của dự án. - Thực hiện thẩm định dự án dầu tư, lựa chọn được phương án khả thi để phê duyệt. Đây là khâu quyết định mức vốn đầu tư cho công trình. - Xây dựng cơ chế đấu thầu, chọn thầu, khoán gọn góp phần tích cực trong việc chống thất thoát, lãng phí vốn đầu tư. - Quản lý các nguồn vốn đầu tư, xây dựng quy trình và quản lý cấp phát, thanh toán, quyết toán vốn đầu tư. - Quy định các thủ tục hành chính trong quản lý đầu tư như: giấy cấp đất, giấy phép hành nghề, giấy phép xây dựng, hợp đồng xây dựng. Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  7. Luận văn thạc sĩ 7 Kinh tế TNTN và Môi trường - Quản lý quá trình đầu tư xây dựng cơ bản dự án đảm bảo chất lượng công trình. - Thẩm định quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành, xác định giá trị tài sản hình thành qua đầu tư, bàn giao cho đơn vị sử dụng. Sự hoạt động của những cơ chế này được dựa trên hàng loại các căn cứ như: quan điểm, mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch đầu tư 5 năm và kế hoạch phân kỳ hàng năm đối với nền kinh tế và từng ngành, địa phương, khả năng thu ngân sách Nhà nước, khả năng vay trong nước và nước ngoài, những quy định về phân cấp quản lý vốn đầu tư theo Luật Ngân sách Nhà nước. Nguyên tắc hoạt động của nhóm cơ chế này là đảm bảo cung ứng đủ vốn đầu tư cho nền kinh tế và đảm bảo tính dân chủ, tập trung, công khai và minh bạch trong phân bổ vốn. 1.1.2.2. Nhóm cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc phạm vi một dự án Để giúp cho việc điều hành thống nhất, hệ thống cơ chế quản lý vốn đầu tư thuộc phạm vi một dự án được quy định cụ thể trong Nghị định của Chính phủ ban hành kèm theo Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng và các Nghị định hướng dẫn Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng. 1.2.3. Nguyên tắc quản lý chi vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước Việc quản lý chi vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước phải đảm bảo những nguyên tắc sau: a. Quản lý, sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước phải tiết kiệm, hiệu quả. b. Phân định r chức năng quản lý của Nhà nước và phân cấp quản lý về đầu tư và xây dựng phù hợp với từng loại nguồn vốn đầu tư và chủ đầu tư. Phân định r trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước, của chủ đầu tư, của tổ chức tư vấn và nhà thầu trong quá trình thực hiện dự án đầu tư xây dựng. c. Các dự án đầu tư thuộc vốn ngân sách Nhà nước phải được quản lý chặt chẽ theo trình tự thủ tục đầu tư và xây dựng do Nhà nước ban hành. Các Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  8. Luận văn thạc sĩ 8 Kinh tế TNTN và Môi trường thủ tục này được ban hành theo hướng tăng cường cải cách thủ tục hành chính, triệt tiêu cơ chế “xin - cho”. d. Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong xã hội cùng tham gia đầu tư phát triển nền kinh tế trên cơ sở quy định của pháp luật. Đây chính là chủ trương xã hội hoá đầu tư của Đảng và Nhà nước ta. Thực hiện nguyên tắc này trên các mặt: vốn ngân sách Nhà nước đóng vai trò là “vốn mồi” để thu hút vốn của xã hội; Nhà nước mở rộng, đa dạng hoá các hình thức đầu tư, từng bước giao cho thị trường điều tiết một số khâu của quá trình đầu tư nhằm chống tình trạng “khép kín” trong đầu tư. e. Việc phân cấp quản lý về đầu tư và xây dựng cũng như sử dụng nguồn vốn đầu tư cho các cấp, các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư luôn đi đôi với công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. 1.2.4. Đặc điểm và yêu cầu của cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc ngân sách Nhà nước Là một bộ phận hợp thành của cơ chế quản lý tài chính Nhà nước, trước hết, quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước chịu sự ràng buộc bởi cơ chế quản lý tài chính Nhà nước, song mặt khác, nó lại chịu sự chi phối bởi các yếu tố kinh tế - xã hội, tự nhiên và kỹ thuật, những đặc điểm riêng có trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng. Do bị tác động bởi nhiều yếu tố nêu trên, nên quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước có những đặc điểm chính sau đây: Một là, đối tượng quản lý là nguồn ngân sách rất lớn, chúng được huy động từ nhiều kênh khác nhau (từ khoản tích luỹ ngân sách Nhà nước, vay trong nước và vay nước ngoài qua nguồn viện trợ và ODA). Với đối tượng quản lý rộng lớn nên quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp và rất nhạy cảm đối với tốc độ tăng trưởng nền kinh tế nói chung, sự phát triển của các ngành, lĩnh vực, vùng và lãnh thổ nói riêng. Từ đặc điểm trên, yêu cầu đặt ra cho quản lý chi loại nguồn vốn này là phải hết sức chặt chẽ, tuân thủ Luật Ngân sách Nhà nước, nhưng mặt khác lại phải đảm bảo độ thông thoáng, giải ngân nhanh, cung cấp đủ nguồn và thực hiện, đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  9. Luận văn thạc sĩ 9 Kinh tế TNTN và Môi trường Hai là, quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước có liên quan và được vận hành trên một phạm vi rất rộng, do đó có tính chất phân tán: hiệu lực của cơ chế phủ khắp từ 18 Bộ và 4 cơ quan ngang Bộ, ngành trung ương đến 63 tỉnh, thành phố, việc quản lý này lại có liên quan và xuyên suốt tất cả các khâu, bước đi của một dự án, từ chủ trương quy hoạch, chủ trương đầu tư, lập báo cáo đầu tư, quyết định phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình, quyết định phê duyệt thiết kế - kỹ thuật, dự toán, tổng dự toán, giải phóng mặt bằng, đấu thầu, tạm ứng, thanh toán đến khâu lập, thẩm tra, phê duyệt quyết toán dự án đầu tư hoàn thành đưa vào khai thác, sử dụng. Gắn liền với những khâu trên là các khoản chi đầu tư. Quá trình thực hiện dự án đến bước nào thì vốn đầu tư chi ra đến bước đó (thậm chí vốn phải đi trước một bước trong trường hợp tạm ứng vốn). Tính phức tạp và phân tán trong vận hành của cơ chế này thường sẽ dẫn tới sự lỏng lẻo trong quản lý, tạo điều kiện cho cơ chế “xin - cho”, lãng phí, tham nhũng tiền của Nhà nước, mặt khác cũng có thể dẫn tới khuynh hướng quản lý cứng nhắc, máy móc, gây ách tắc, thiếu đồng bộ dẫn tới tình trạng “vốn chờ công trình” hoặc “công trình chờ vốn”, làm vốn bị ứ đọng, thời gian thi công kéo dài, chậm tiến độ, gây lãng phí và kém hiệu quả trong sử dụng vốn và công trình đầu tư. Từ tính phức tạp và phân tán trong quản lý nêu trên, đòi hỏi việc thiết kế mô hình quản lý chi đầu tư phát triển phải rất khoa học, theo hướng mở rộng phân cấp nhưng phải gắn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi cấp, tăng cường thẩm định, kiểm tra, giám sát ở từng khâu, đồng thời phải thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm, cải cách thủ tục hành chính, tinh giản bộ máy, giảm bớt các đầu mối quản lý, nhưng vẫn nâng cao được chất lượng và hiệu quả quản lý chi đầu tư phát triển. Trong thời gian qua, việc huy động và sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước đã đóng góp quan trọng vào việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tạo môi trường thuận lợi góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, xóa đói giảm nghèo và cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, do phân cấp quá rộng lại thiếu các biện pháp quản lý đồng bộ dẫn tới tình trạng phê duyệt quá nhiều dự án vượt quá khả năng cân đối vốn, kế hoạch đầu tư bị cắt khúc ra từng năm, thời gian thi công Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  10. Luận văn thạc sĩ 10 Kinh tế TNTN và Môi trường kéo dài, đầu tư dàn trải, hiệu quả đầu tư kém, gây phân tán và lãng phí nguồn lực của Nhà nước. 1.2. TỔNG QUAN VỀ VỐN ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 1.2.1. Cơ sở lý luận về vốn đầu tư và đầu tư phát triển 1.2.1.1. Cơ sở lý luận về vốn đầu tư Theo quy định của Luật ngân sách Nhà nước năm 2002 thì ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản tiền của Nhà nước, kể cả tiền vay có trên tài khoản của ngân sách Nhà nước các cấp. Do khả năng huy động vốn ngân sách có hạn, trong khi nhu cầu vốn đầu từ hàng năm lại rất lớn, nên vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước ở nước ta trong những năm qua ở nước ta được cân đối từ nguồn tích luỹ của ngân sách và các khoản vay trong nước và nước ngoài. Vốn ngân sách Nhà nước bao gồm vốn trong nước (vốn tích luỹ của Ngân sách Nhà nước) và vốn nước ngoài (vay nợ, viện trợ). Số tiền này được thanh toán trực tiếp cho việc thực hiện các dự án, các chương trình mục tiêu quốc gia theo kế hoạch chi đầu tư phát triển được duyệt hàng năm. - Vốn trong nước: là phần chênh lệch giữa tổng các khoản thu (không kể vay nợ) với chi tiêu dùng thường xuyên của ngân sách Nhà nước. Đối với vốn tích luỹ của ngân sách Nhà nước, áp dụng cơ chế huy động, tiết kiệm triệt để và có hiệu quả (vừa tăng thu cho ngân sách Nhà nước, vừa ra sức tiết kiệm trong chi tiêu dùng của ngân sách), ngân sách Nhà nước phải có tích luỹ và tích luỹ ngày càng tăng thì mới góp phần nâng cao tỷ trọng tích luỹ trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế. - Vốn nước ngoài: gồm các nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) từ nước ngoài thông qua vay nợ và viện trợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế được đưa vào ngân sách Nhà nước. Đây là nguồn quan trọng để bù đắp thiếu hụt ngân sách và được ưu tiên sử dụng cho những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Đa số các dự án sử dụng vốn ODA được quản lý theo cơ chế riêng và các điều khoản cam kết trong hiệp định ký kết. Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  11. Luận văn thạc sĩ 11 Kinh tế TNTN và Môi trường Tuy nhiên, trong từng thời kỳ, do nhu cầu đầu tư rất lớn, Chính phủ phải huy động vốn chi cho đầu tư phát triển bằng cách phát hành Công trái xây dựng tổ quốc, các loại trái phiếu (trái phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ) là các công cụ huy động vốn để đáp ứng kịp thời yêu cầu đầu tư cho các công trình trọng điểm, cấp bách; ngoài ra, Chính phủ còn huy động vốn bằng phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế. Đây là những xu hướng tích cực trong phương thức huy động vốn qua kênh ngân sách Nhà nước. Như vậy, nguồn vốn chi đầu tư của ngân sách Nhà nước bao gồm nguồn tích luỹ của ngân sách và bội chi ngân sách Nhà nước được bù đắp bằng nguồn vốn vay trong nước và ngoài nước được cân đối trong kế hoạch hàng năm của ngân sách Nhà nước. 1.2.1.2. Vai trò của đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước Đầu tư phát triển là một hoạt động kinh tế có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, là nhân tố quan trọng tác động đến sự tăng trưởng của nền kinh tế, tạo ra các tác động có lợi cho chính trị xã hội. Một nền kinh tế sẽ không thể tồn tại và phát triển nếu thiếu hoạt động đầu tư. Đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế, trên góc độ vĩ mô thông qua chỉ tiêu GDP đánh giá sự phát triển của nền kinh tế, Khi vốn và tỷ trọng vốn được phân bổ vào các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế khác nhau dẫn đến kết quả và hiệu quả khác nhau đối với từng ngành, từng vùng, từng thành phần kinh tế đó, dẫn đến thay đổi mối quan hệ tương quan giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế. Từ đó dẫn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác phát triển. Đầu tư phát triển gắn liền với phát triển khoa học công nghệ của đất nước, công nghệ là trung tâm của hiện đại hóa. Đầu tư là điều kiện tiên quyết tới sự phát Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  12. Luận văn thạc sĩ 12 Kinh tế TNTN và Môi trường triển nền công nghệ nước ta hiện nay. Đầu tư phát triển đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và bền vững trên cơ sở tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và chủ động hội nhập quốc tế. Từ nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước đã góp phần hoàn thiện cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng trong lĩnh vực kinh tế như giao thông, thủy lợi, công nhiệp. Trong lĩnh vực xã hội đầu tư phát triển đã góp phần phát triển khoa học công nghệ và tăng nhanh hàm lượng khoa học và công nghệ cao trong sản phẩm, cải thiện và nâng cao r rệt chất lượng giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, dân tộc thiểu số, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, tăng cường công tác bảo vệ tài nguyên môi trường và chủ động ứng phó với các tác động của biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. 1.2.1.3. Vốn ngân sách Nhà nước chi cho đầu tư phát triển Vốn ngân sách Nhà nước chi cho đầu tư phát triển bao gồm: Vốn Ngân sách nhà nước, vốn Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn Trái phiếu (Chính phủ, Chính quyền địa phương), vốn Tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn Đầu tư phát triển của các Tổng Công ty nhà nước, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Nội dung chi cho đầu tư phát triển bao gồm: - Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn do Nhà nước quản lý, các công trình đầu tư để phát triển và phục vụ cho hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước, cụ thể là các Bộ, ngành trung ương, các địa phương và các tổ chức chính trị - xã hội. - Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước. - Chi bổ sung dự trữ nhà nước. Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  13. Luận văn thạc sĩ 13 Kinh tế TNTN và Môi trường - Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. Vốn ngân sách Nhà nước đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật là các dự án trong các lĩnh vực giao thông (các đường giao thông), các dự án trong lĩnh vực thuỷ lợi (như các công trình hồ, đập chứa nước); ngoài ra vốn ngân sách Nhà nước còn đầu tư cho các công trình cho hạ tầng xã hội như các dự án trường học trong lĩnh vực Giáo dục và đào tạo, các dự án bệnh viện trong lĩnh vực Y tế, các dự án nhà ở xã hội nhằm hướng tới mục tiêu an sinh xã hội, các công trình văn hoá mang tính cộng đồng, các công trình công cộng. Đây thường là các dự án đầu tư có vốn lớn (đường giao thông, hồ, đập thuỷ lợi ) mà tư nhân không thể có đủ vốn để đầu tư, hoặc là các dự án có tỷ suất lợi nhuận không cao (các dự án nhà ở xã hội), nên tư nhân không muốn đầu tư. Như vậy, vốn ngân sách Nhà nước sử dụng để đầu tư phát triển theo kế hoạch của Nhà nước cho các dự án đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh thiết yếu, có vốn đầu tư lớn, không có khả năng thu hồi vốn hoặc thu hồi vốn chậm là một nội dung quan trọng trong chi đầu tư phát triển của ngân sách Nhà nước. 1.2.2. Những đặc trưng của đầu tư và đầu tư phát triển 1.2.2.1. Những đặc trưng của đầu tư Hoạt động đầu tư được hiểu là việc bỏ vốn ra hôm nay để mong nhận được một kết quả lớn hơn trong tương lai. Hoạt động đầu tư có đặc trưng cơ bản là: - Khi thực hiện công việc đầu tư phải bỏ vốn ban đầu. - Mục tiêu của đầu tư là hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội hoặc hiệu quả kinh tế - xã hội. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất là loại đầu tư điển hình thể hiện sự gắn kết giữa hiệu quả kinh tế và xã hội khi xác định mục tiêu đầu tư. Ở mọi quốc gia, nguồn vốn đầu tư trước hết và chủ yếu là từ tích luỹ của nền kinh tế, tức phần tiết kiệm sau khi tiêu dùng (gồm tiêu dùng của cá nhân và tiêu dùng của Chính phủ) từ GDP. Nguồn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, xét về lâu dài là nguồn bảo đảm cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách ổn định, là điều kiện đảm bảo tính độc lập và tự chủ của đất nước trong lĩnh vực kinh tế cũng như Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  14. Luận văn thạc sĩ 14 Kinh tế TNTN và Môi trường các lĩnh vực khác. Ngoài nguồn vốn tích luỹ từ trong nước, các quốc gia còn có thể và cần huy động vốn đầu tư từ nước ngoài để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ đây, có thể thấy các nguồn vốn chính cho đầu tư phát triển, bao gồm: - Nguồn trong nước: bao gồm tích luỹ từ Ngân sách Nhà nước, vốn tích luỹ của các doanh nghiệp, tiết kiệm của dân cư, vốn tự có, vốn liên doanh, liên kết. - Nguồn vốn từ nước ngoài: bao gồm đầu tư trực tiếp (FDI), đầu tư gián tiếp (ODA) Trong các nguồn vốn trên thì vốn huy động từ nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong những bước đi đầu tiên, là những cú “huých” cho sự phát triển, tạo tích luỹ cho nền kinh tế để phát triển đất nước. Nhưng xét về lâu dài, nguồn vốn đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế một cách bền vững, đưa đất nước đến sự phồn thịnh một cách chắc chắn và không phụ thuộc lại là nguồn vốn trong nước. Đây chính là nền tảng để tiếp thu và phát huy tác dụng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài. 1.2.2.2. Những đặc trưng của đầu tư phát triển Một là, đầu tư phát triển là hoạt động bỏ vốn. Do vậy quyết định đầu tư thường là và trước hết là quyết định tài chính. Các khía cạnh về tài chính như: Tổng mức đầu tư là bao nhiêu, nguồn hình thành từ đâu, cơ cấu tài chính ra sao, khả năng, thời gian hoàn vốn như thế nào, cần phải được phân tích xem xét rất kỹ lưỡng. Vì vậy, nhiều dự án đầu tư có thể khả thi ở các phương diện khác (kinh tế, xã hội), nhưng không khả thi trên phương diện tài chính thì cũng cần được xem xét lại. Hai là, đầu tư phát triển là hoạt động có tính lâu dài, có những dự án đầu tư kéo dài hàng chục năm. Đây là một đặc điểm khác biệt của đầu tư phát triển so với các hình thức đầu tư khác. Do tính chất lâu dài, nên mọi sự trù liệu đều phải tính toán, dự phòng sự thay đổi trong quá trình thực hiện dự án. Ba là, sản phẩm của các dự án đầu tư phát triển thường có tính đơn chiếc. Do vậy ngay cả 2 công trình ở liền kề nhau, nhưng chi phí xây dựng thực tế của mỗi công trình cũng khác nhau. Đây là một đặc điểm cần được lưu ý trong quá trình quản lý vốn đầu tư. Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  15. Luận văn thạc sĩ 15 Kinh tế TNTN và Môi trường Bốn là, hoạt động đầu tư phát triển luôn cần sự cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi ích trong tương lai. R ràng rằng, nhà đầu tư mong muốn và chấp nhận đầu tư chỉ trong điều kiện lợi ích thu được trong tương lai lớn hơn lợi ích hiện tại mà họ tạm thời phải hy sinh. Hay nói cách khác, mục đích tối cao của đầu tư là hiệu quả. Hiệu quả vừa là mục tiêu, động lực và phương tiện của hoạt động đầu tư. Năm là, đầu tư phát triển là hoạt động mang nặng tính rủi ro. Các đặc trưng nêu trên cho thấy hoạt động đầu tư nói chung, đầu tư phát triển nói riêng chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Bản chất của sự đánh đổi lợi ích giữa trước mắt và lâu dài, hơn nữa hoạt động đầu tư thường kéo dài đã làm thay đổi những dự định của nhà đầu tư so với tính toán ban đầu. Vì vậy, chấp nhận rủi ro như là bản năng của nhà đầu tư. Việc nghiên cứu đặc điểm này để tìm biện pháp ngăn ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất khả năng rủi ro khi thực hiện dự án. Ngoài 5 đặc điểm chung nêu trên, các dự án đầu phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từ nguồn ngân sách Nhà nước còn có 2 đặc điểm có tính đặc thù sau: Một là, vốn đầu tư lớn: đây là một đặc trưng rất quan trọng của vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước. Bởi vì các công trình được đầu tư xây dựng từ nguồn vốn này đa số là các công trình lớn, có tầm quan trọng đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, nên cần một lượng vốn đầu tư tương đối lớn, thậm chí là rất lớn như xây dựng hệ thống giao thông, hồ đập, thuỷ điện, cải tạo phòng chống thiên tai, bệnh viện, trường đại học. Hai là, khả năng thu hồi vốn: có thể nói rằng, mặc dù tất cả các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước đều là những công trình rất quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, song khả năng thu hồi vốn của chúng lại rất thấp hoặc không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Do vậy, các thành phần kinh tế khác hầu như không muốn tham gia xây dựng các công trình này. Nói cách khác, đây là các công trình được đầu tư xây dựng trong các lĩnh vực mà các thành phần khác không được phép đầu tư (an ninh, quốc phòng), không muốn đầu tư như xây dựng đê biển, đầu tư thuỷ lợi lớn, hoặc không thể đầu tư như dự án Thuỷ điện Hoà Bình, Thuỷ điện Trị An, Thuỷ điện IALY, Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  16. Luận văn thạc sĩ 16 Kinh tế TNTN và Môi trường Thuỷ điện Sơn La, dự án Đường Hồ Chí Minh, khu công nghiệp khí điện đạm Cà Mau, nhà máy lọc dầu Dung Quất, là những dự án đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư rất lớn, song khả năng hoàn vốn lại rất khó xác định. 1.2.3. Dự án đầu tư xây dựng và hiệu quả đầu tư 1.2.3.1. Dự án đầu tư xây dựng Khác với các hoạt động đầu tư kinh tế, thương mại thông thường, đầu tư phát triển là một loại hình hoạt động phức tạp có nhiều nét đặc thù, như: thời gian thi công kéo dài, độ rủi ro lớn, vốn đầu tư lớn, chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố (tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội). Do vậy, hoạt động đầu tư phát triển thường được thực hiện thông qua các dự án đầu tư xây dựng công trình. Theo quy định tại Luật Xây dựng Việt Nam 2003 thì: dự án đầu tư xây dựng công trình là tập hợp các đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo những công trình xây dựng nhằm mục đích phát triển, duy trì, nâng cao chất lượng công trình hoặc sản phẩm, dịch vụ trong một thời hạn nhất định. Dự án đầu tư xây dựng công trình bao gồm phần thuyết minh và phần thiết kế cơ sở. Từ định nghĩa trên cho thấy, yêu cầu của một dự án đầu tư xây dựng là phải phản ảnh toàn diện các mặt của hoạt động đầu tư. Một dự án đầu tư xây dựng thường có những nội dung chủ yếu sau đây: Một là, cơ sở pháp lý của dự án đầu tư: nội dung này nhằm phản ảnh những căn cứ cho phép để thực hiện dự án đầu tư, như sự phù hợp về pháp luật, về chủ trương, quy hoạch ngành và lãnh thổ; tư cách pháp nhân, năng lực và khả năng tài chính của chủ đầu tư, các quy định, chế độ khuyến khích, ưu đãi đầu tư. Hai là, về mặt công nghệ kỹ thuật: nội dung này quy định các đề xuất về mặt kỹ thuật, công nghệ để thực hiện dự án đầu tư, bao gồm việc sử dụng công nghệ, thiết bị, các tiêu chuẩn quy phạm kỹ thuật, vấn đề sử dụng đất đai, tài nguyên. Ba là, về kinh tế tài chính: nội dung này quy định các vấn đề về thị trường, quy mô đầu tư, thời gian đầu tư, thời gian hoạt động, khả năng đảm bảo các nguồn vốn, cơ cấu chi phí và đặc biệt phản ảnh hiệu quả kinh tế, tài chính của dự án. Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  17. Luận văn thạc sĩ 17 Kinh tế TNTN và Môi trường Bốn là, về tổ chức thực hiện, vận hành: nội dung này quy định các giải pháp rất cụ thể để thực hiện dự án như khả năng đáp ứng các yếu tố đầu vào, đầu ra của dự án, vấn đề tổ chức bộ máy điều hành, chuyển giao công nghệ. - Phân loại dự án đầu tư: Có nhiều cách phân loại dự án đầu tư. Tuy nhiên, để phù hợp với đối tượng nghiên cứu và những quy định hiện hành (theo Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 10/2/2009 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình) có thể phân loại các dự án đầu tư thành các nhóm sau đây: Thứ nhất, căn cứ vào quy mô (quy mô về vốn) và tính chất (tính chất quan trọng), dự án đầu tư được phân thành: dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội thông qua chủ trương và cho phép đầu tư; các dự án còn lại được phân thành 3 nhóm A, B, C. Thứ hai, theo nguồn vốn đầu tư dự án đầu tư xây dựng công trình được phân thành: + Dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước; + Dự án sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; + Dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước; + Dự án sử dụng vốn khác bao gồm cả vốn tư nhân hoặc sử dụng hỗn hợp nhiều nguồn vốn. Thứ ba, theo hình thức đầu tư: theo tiêu chí này, các dự án đầu tư có thể được chia thành 2 nhóm: + Dự án đầu tư thuộc nguồn vốn trong nước: thuộc nhóm này là các dự án được đầu tư bằng các nguồn vốn ngân sách Nhà nước, tín dụng nhà nước, tín dụng thương mại, vốn đầu tư thuộc doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu tư thuộc khu vực dân doanh. + Dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngoài nước: thuộc nhóm này là các dự án được đầu tư bằng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) hoặc ODA. Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  18. Luận văn thạc sĩ 18 Kinh tế TNTN và Môi trường Do các dự án đầu tư thường có quy mô vốn lớn, nên theo xu thế hiện nay, các dự án này được đầu tư bằng các nguồn vốn hỗn hợp: giữa vốn ngân sách Nhà nước với vốn vay; giữa vốn trong nước với vốn ngoài nước Thứ tư, theo phương thức thực hiện đầu tư: các dự án đầu tư được thực hiện bằng các hình thức như tự đầu tư, liên doanh; 100% vốn nước ngoài; BOT; BTO; BT Thứ năm, theo lĩnh vực đầu tư: các dự án đầu tư có thể được chia thành dự án đầu tư thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, kết cấu hạ tầng, văn hoá, y tế, xã hội. 2.2.3.2. Hiệu quả đầu tư 1. Khái niệm về hiệu quả đầu tư Không thể nói đến đầu tư mà không nói tới hiệu quả đầu tư vì hiệu quả đầu tư là mục đích cuối cùng của đầu tư. Hiệu quả đầu tư được thể hiện trong mối quan hệ giữa lợi ích thu được do đầu tư mang lại và chi phí bỏ ra để thực hiện đầu tư. Do mục đích đầu tư khác nhau nên tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả đầu tư ở mỗi thời kỳ phát triển và mỗi giai đoạn của quá trình đầu tư cũng khác nhau. Có hoạt động đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế (trồng cây thuốc phiện, phá rừng, nhà máy hoá chất xây dựng ở khu vực đông dân cư) nhưng lại không mang lại hiệu quả xã hội. Có hoạt động đầu tư tuy hiệu quả kinh tế thấp, hoặc không có hiệu quả kinh tế trước mắt những lại có hiệu quả về mặt xã hội lâu dài (trồng rừng, xử lý rác thải công nghiệp, xây dựng trường học, bệnh viện). Các doanh nghiệp thường đầu tư vào các dự án có hiệu quả kinh tế, còn các dự án có hiệu quả xã hội thì Nhà nước phải đầu tư. Đối với vốn ngân sách Nhà nước, mục đích đầu tư không chỉ vì lợi ích kinh tế trước mắt mà là vì lợi ích kinh tế - xã hội lâu dài. Do đó đối tượng sử dụng vốn ngân sách Nhà nước để đầu tư là những dự án mang lại lợi ích trực tiếp hoặc mang lại lợi ích cho toàn xã hội, nhưng thông thường có sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội. Điều đó cho ta một kết luận rằng, trong khi nguồn vốn ngân sách Nhà nước hạn hẹp thì Nhà nước chỉ nên đầu tư vào những dự án nào mà Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  19. Luận văn thạc sĩ 19 Kinh tế TNTN và Môi trường các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế khác không đầu tư (vì nó nghiêng về hiệu quả xã hội), hoặc không đủ khả năng để đầu tư (vì vốn đầu tư lớn). Mục tiêu của hoạt động đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cho nhà đầu tư và cho nền kinh tế quốc dân cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Để nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội, trong hoạt động đầu tư, cần coi trọng việc hoàn thiện các cơ chế quản lý và sử dụng nói chung và cơ chế quản lý tài chính nói riêng ở các khâu của quá trình đầu tư ở cả tầm vĩ mô và vi mô. - Trên góc độ quản lý vĩ mô: để hoạt động đầu tư có hiệu quả cần có chiến lược đầu tư dài hạn đúng và ổn định. Trên cơ sở đó có quy hoạch hợp lý (quy hoạch tổng thể, quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, quy hoạch đô thị và nông thôn, quy hoạch xây dựng) phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của đất nước. Căn cứ vào quy hoạch được phê duyệt để xác định bước đi phù hợp với mục tiêu chiến lược để sắp xếp, bố trí kế hoạch đầu tư cho các dự án theo ngành và theo vùng đảm bảo cân đối, hợp lý với khả năng vốn cho phép. Chất lượng và hiệu quả các nội dung trên phụ thuộc nhiều vào việc xác định quyền hạn, trách nhiệm các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân từ Trung ương đến địa phương trong việc tạo ra các quyết định liên quan đến chủ trương đầu tư, cơ chế quản lý và điều hành hoạt động đầu tư như: huy động vốn đầu tư; thẩm định và ra quyết định đầu tư; phê duyệt thiết kế và tổng dự toán, dự toán; phân cấp và kế hoạch; cơ chế giao thầu, giải ngân và quyết toán đảm bảo thống nhất. - Trên góc độ quản lý vi mô: hiệu quả hoạt động đầu tư được quyết định bởi công tác quản lý cụ thể trong từng khâu quản lý và nghiệp vụ quản lý. Để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư ở cấp vi mô cần phân định r trách nhiệm (nhiệm vụ và nội dung công việc, giới hạn công việc, trách nhiệm và quyền hạn) từng khâu công tác. Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp quản lý cụ thể cho từng khâu để thực hiện các mục tiêu cụ thể, mối quan hệ phối kết hợp giữa các cá nhân, tập thể, tổ chức trong quá trình điều hành và quản lý vốn đầu tư cũng như hoạt động đầu tư. 2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của đầu tư Hiện nay, hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh đang được các cấp, các ngành đặc biệt chú ý, trên bình diện quốc gia nó còn là Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  20. Luận văn thạc sĩ 20 Kinh tế TNTN và Môi trường những chỉ tiêu phản ánh lợi thế của mỗi quốc gia nhằm phản ánh khả năng cạnh tranh về kinh tế cũng như thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong các nhân tố tác động tới tăng trưởng kinh tế (lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, công nghệ, ) ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay thì yếu tố vốn được coi là nhân tố quan trọng nhất. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của đầu tư thường được biểu hiện dưới dạng tỷ số so sánh giữa kết quả đầu tư (đầu ra) với chi phí đầu tư (đầu vào). Vì đầu vào, đầu ra được đo lường bằng nhiều cách khác nhau nên cũng có nhiều chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nền kinh tế người ta thường sử dụng hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio - Tỷ số vốn/sản lượng tăng thêm). + Hệ số ICOR (k) là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của vốn đầu tư, nó được xác định theo công thức: ΔK k (1.1) ΔY Trong đó: - K mức thay đổi vốn sản xuất, K = Kt – Kt-1 - Y là mức thay đổi về kết quả sản xuất và Y = Yt – Yt-1, ở đây t chỉ năm nghiên cứu và t - 1 chỉ năm trước năm nghiên cứu. Hệ số ICOR có ý nghĩa là để tạo thêm được một đơn vị kết quả sản xuất thì cần tăng thêm bao nhiêu đơn vị vốn sản xuất. Hay nói cách khác, k là “giá” phải trả thêm cho việc tạo thêm một đơn vị kết quả sản xuất. Hệ số ICOR càng lớn chứng tỏ chi phí cho kết quả tăng trưởng càng cao nó phụ thuộc vào mức độ khan hiếm nguồn dự trữ và tính chất của công nghệ sản xuất; ở các nước phát triển hệ số ICOR thường cao hơn ở các nước đang phát triển và ở mỗi nước thì hệ số ICOR luôn có xu hướng tăng lên tức là khi kinh tế càng phát triển thì để tăng thêm một đơn vị kết quả sản xuất cần nhiều hơn về nguồn lực sản xuất nói chung và nhân tố vốn nói riêng và khi đó đường sản lượng thực tế gần tiệm cận với đường sản lượng tiềm năng. Từ quan hệ trên ta, chúng ta có thể rút ra được hai điểm cơ bản sau: Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  21. Luận văn thạc sĩ 21 Kinh tế TNTN và Môi trường Một là: xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho thời kỳ mới khi xác định được khả năng tiết kiệm của nền kinh tế thời kỳ gốc và dự báo hệ số ICOR thời kỳ kế hoạch là một trong những căn cứ quan trọng đối với các nhà hoạch định trong xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, xã hội. Hai là: khi đứng trước một mục tiêu tăng trưởng do yêu cầu của các cấp lãnh đạo đặt ra, mô hình cho phép chúng ta xác định được nhu cầu tích luỹ cần có để đạt được mục tiêu đó. Là căn cứ để đánh giá khả năng đạt mục tiêu đã đề ra. Để đánh giá hiệu quả kinh tế, tài chính của một dự án đầu tư người ta thường sử dụng một số hệ thống các chỉ tiêu sau đây: + Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư: là quãng thời gian cần thiết để các khoản thu từ dự án đầu tư (khấu hao và lợi nhuận sau thuế) đủ để bù đắp vốn đầu tư đã bỏ ra. Có thể gọi chỉ tiêu này là thời gian cần thiết để ngân sách tự chi trả cho chính bản thân nó. + Chỉ tiêu thời gian hoàn trả vốn vay: là quãng thời gian cần thiết để các khoản thu nhập từ dự án (lợi nhuận trước thuế và lãi vay, khấu hao tài sản cố định đủ để trả nợ vay gồm gốc và lãi). + Giá trị hiện tại ròng (NPV – Net Present Value): một trong những đặc trưng của vốn đầu tư là có giá trị về mặt thời gian. Vốn đầu tư phải bỏ ra hôm nay nhưng các khoản thu lại xảy ra trong tương lai. Do vậy, để đánh giá chính xác hiệu quả kinh tế đầu tư, người ta thường đưa tất cả các khoản thu, chi gắn với một dự án về cùng một thời điểm để so sánh. Thời điểm thường được chọn là thời điểm hiện tại. Chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các khoản thu với giá trị hiện tại của các khoản chi gọi là giá trị hiện tại ròng. Chỉ tiêu này đo lường trực tiếp giá trị tăng thêm do vốn đầu tư tạo ra có tính tới sự tác động về mặt thời gian của tiền vốn, do vậy cho phép người ra quyết định đầu tư nhìn nhận hiệu quả đầu tư chính xác hơn. Chỉ tiêu NPV được xác định theo công thức: (1.2) Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  22. Luận văn thạc sĩ 22 Kinh tế TNTN và Môi trường Trong đó: Bt – Thu nhập tăng thêm tại thời gian t (bao gồm doanh thu, vốn lưu động ở cuối dự án). Ct - Chi phí ở năm thứ t (bao gồm vốn đầu tư, chi phí vận hành không có khấu hao cơ bản). H – Giá trị thu hồi khi kết thúc dự án. t - Thời gian tính dòng tiền n - tổng thời gian thực hiện dự án r - tỉ lệ chiết khấu (hay còn gọi là lãi suất chiết khấu) Điều kiện phương án tốt nhất trong số các phương án là NPV = max * Ưu nhược điểm của phương pháp tính NPV: - Ưu điểm: có tính đến sự biến động của chỉ tiêu thời gian, tính toán cho cả vòng đời của dự án, có tính đến giá trị tiền tệ theo thời gian, có thể tính đến nhân tố trượt giá và lạm phát thông qua việc điều chỉnh các chỉ tiêu Bt, Ct và r, là xuất phát điểm để tính nhiều chỉ tiêu khác. - Nhược điểm: phương pháp dùng chỉ tiêu NPV chỉ chính xác trong thị trường vốn hoàn hảo. Chỉ tiêu NPV phụ thuộc nhiều vào hệ số chiết khấu. Hệ quả: Từ chỉ tiêu NPV có thể xác định thời hạn thu hồi vốn đầu tư theo kiểu động. + Tỷ suất doanh lợi nội bộ (IRR – Internal Rate of Return): tỷ suất doanh lợi nội bộ hay còn gọi là tỷ suất hoàn vốn nội bộ, là một lãi suất đóng vai trò như một tỷ lệ chiết khấu làm cân bằng giá trị hiện tại của các khoản thu với giá trị hiện tại của các khoản chi. Chỉ tiêu cho phép ta so sánh giữa tỷ lệ sinh lời (đầu vào) với chi phí sử dụng vốn bình quân dự án (đầu ra), thấy được mối liên hệ giữa việc huy động vốn và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Chỉ tiêu IRR được xác định theo công thức: NPV IRR r (r r ) 1 1 2 1 (1.3) NPV1 NPV2 Trong đó: Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  23. Luận văn thạc sĩ 23 Kinh tế TNTN và Môi trường IRR: Hệ số hoàn vốn nội bộ cận nội suy (%) r1 NPV2 r1: Tỷ suất chiết khấu thấp hơn tại đó NPV1 > 0 gần sát 0 nhất r2: Tỷ suất chiết khấu cao hơn tại đó NPV2 < 0 gần sát 0 nhất. NPV: Giá trị hiện tại ròng IRR cần tìm (ứng với NPV = 0) sẽ nằm giữa r1 và r2 + Chỉ số sinh lời của vốn đầu tư: đây là một chỉ tiêu dựa vào giá trị thời gian của tiền tệ để tính toán. Nó phản ánh một đồng giá trị hiện tại của vốn đầu tư tạo ra mấy đồng giá trị hiện tại thu nhập thuần của dự án. + Phân tích độ nhạy của dự án: độ nhạy của dự án phản ánh sự biến động của các yếu tố (vốn đầu tư, sản lượng tiêu thụ, giá cả một sản phẩm, giá thành một sản phẩm, ) tới kết quả cuối cùng. Để xác định mức độ giao động của yếu tố nào đó, ta cho yếu tố đó biến động còn các yếu tố khác cố định. Phân tích độ nhạy của dự án cho biết giới hạn an toàn của dự án khi có sự biến động của các yếu tố đầu vào và đầu ra, giúp nhà quản lý có những điều chỉnh cần thiết trong quá trình thực hiện dự án. + Phân tích điểm hòa vốn: điểm hoà vốn là điểm tại đó doanh thu bằng chi phí. Xác định điểm hoà vốn cho biết cần sản xuất và tiêu thụ một sản lượng sản phẩm là bao nhiêu để không bị lỗ vốn. Phân tích điểm hoà vốn còn cho biết thời gian hoà vốn, công suất hoà vốn, doanh thu hoà vốn của dự án. Dựa vào điểm hoà vốn mà xác định được thời điểm hợp lý chấm dứt hoạt động của dự án, khối lượng lợi nhuận đạt được cả đời dự án và còn là cơ sở để phân tích độ nhạy của dự án. Các phương pháp đánh giá hiệu quả trên đây thường được áp dụng đối vối dự án đầu tư có tính chất sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp; còn đối với các dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách Nhà nước thường được đánh giá bằng hiệu quả xã hội, hoặc hiệu quả kinh tế - xã hội (như dự án đó tạo bao nhiêu việc làm, nhờ có dự án đó có bao nhiêu người dân được hưởng lợi ) thì khó đánh giá khi áp dụng các phương pháp trên. Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  24. Luận văn thạc sĩ 24 Kinh tế TNTN và Môi trường 1.2.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn ngân sách Nhà nước để chi cho đầu tư phát triển Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố như: nhóm nhân tố về chính trị, kinh tế, xã hội; về thu nhập và tiết kiệm; về định hướng chiến lược và quy hoạch phát triển; về thị trường vốn; về con người; về cơ chế đầu tư. Việc nghiên cứu đầy đủ các nhân tố tác động đến quá trình này cho phép các nhà hoạch định chính sách, các chủ đầu tư lựa chọn phương thức huy động và sử dụng vốn tối ưu để đầu tư đạt mục tiêu và mang lại hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, cũng như đối với dự án đầu tư, dự án đầu tư xây dựng cơ bản thuộc ngân sách Nhà nước luôn là sự lựa chọn khó khăn, phức tạp cho các chủ đầu tư và các nhà quản lý, vì nó không chỉ đáp ứng những mục tiêu kinh tế đơn thuần mà phải đảm bảo lợi ích của toàn xã hội. Nghĩa là ngoài hiệu quả kinh tế thì đầu tư công cộng phải đạt được mục tiêu làm sao dự án tạo lợi ích cho người này và cũng tạo ra điều kiện tốt cho người kia hoặc không làm phương hại đến lợi ích của người kia. Một là, các nhân tố về kinh tế: - Mức độ phát triển của nền kinh tế thị trường: đây là nhân tố tác động có tính chất bao trùm đến cả công tác huy động và quản lý sử dụng vốn ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển; cụ thể: + Kinh tế phát triển mạnh làm cho quy mô GDP ngày càng lớn. Từ đó, tạo khả năng nâng cao mức tích luỹ nội bộ của cả khu vực Nhà nước và khu vực phi Nhà nước dành cho đầu tư. Sự phát triển các hoạt động của nền kinh tế đặt ra nhu cầu tăng cường đầu tư vốn phát triển cho tương ứng để phục vụ tốt nhu cầu vận chuyển, đi lại đặt ra. Như vậy, từ nhu cầu đầu tư kích thích mạnh mẽ việc tìm kiếm và khai thác tích cực các nguồn vốn. + Kinh tế thị trường phát triển cũng có nghĩa là trong nền kinh tế sẽ có nhiều thành phần kinh tế có thể cùng trực tiếp tham gia đầu tư và quản lý tốt hơn vốn đầu tư phát triển. - Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường vốn với nhiều công cụ được sử dụng linh hoạt thúc đẩy sự lưu chuyển nhanh của các luồng vốn, tạo điều kiện thuận lợi Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  25. Luận văn thạc sĩ 25 Kinh tế TNTN và Môi trường cho việc khai thác triệt để vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư vào nhiều lĩnh vực nói chung và đầu tư phát triển nói riêng. - Lợi ích kinh tế các nhà đầu tư được hưởng trong việc đầu tư vốn vào lĩnh vực đầu tư phát triển như lãi suất cho vay để đầu tư, thu nhập từ việc đầu tư vốn trực tiếp vào các dự án đầu tư xây dựng cơ bản càng lớn sẽ thúc đẩy các tổ chức, cá nhân tích cực tiết kiệm, dành vốn đầu tư cho đầu tư xây dựng cơ bản. - Các biện pháp quản lý sử dụng vốn đầu tư được xây dựng dựa trên cơ sở lợi ích kinh tế sẽ có tác động mạnh đến việc thúc đẩy sử dụng vốn tiết kiệm, nâng cao hiệu quả của đồng vốn đầu tư. Hai là, các nhân tố về chính trị, luật pháp: - Mức độ ổn định về chính trị và sự hoàn thiện của luật pháp. Tác động của nhân tố này thể hiện: + Sự ổn định về chính trị, luật pháp tạo điều kiện cho các nhà đầu tư yên tâm bỏ vốn đầu tư vào các lĩnh vực trong đó có đầu tư phát triển. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài là những đối tác có khả năng cung cấp số lượng vốn đầu tư lớn thì sự ổn định về chính trị, luật pháp cùng với sự ưu đãi nhất định sẽ có tác động tích cực đến việc huy động và sử dụng vốn thông qua các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT. + Nhờ có hệ thống luật pháp đồng bộ, hoàn chỉnh, tính pháp lý của các công cụ huy động vốn trong nước cũng như quy chế đấu thầu, quy chế quản lý sử dụng vốn đầu tư được nâng cao, tạo điều kiện tốt cho việc tổ chức thực hiện. - Tính chất phân quyền, phân cấp quản lý của Nhà nước cũng có tác động mạnh đến việc huy động, quản lý sử dụng vốn đầu tư phát triển. Hiện nay, với cơ chế tăng tính tự chủ và phân cấp quản lý ngân sách cho các địa phương đã tạo điều kiện cho ngân sách Trung ương tập trung đầu tư cho các dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trọng điểm. Đồng thời các địa phương cũng tích cực, chủ động hơn trong việc khai thác nguồn thu, bố trí vốn đầu tư phát triển ở địa phương. Nhờ có sự phân quyền, phân cấp r ràng đã tăng cường được tính trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong việc quản lý giám sát quá trình sử dụng vốn đầu tư. Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  26. Luận văn thạc sĩ 26 Kinh tế TNTN và Môi trường Cơ chế đầu tư là một trong những nhân tố tác động trực tiếp đến quá trình khai thác, phân bổ và sử dụng các nguồn lực để tạo nên sự tăng trưởng và phát triển của một quốc gia, vùng, địa phương. Cơ chế đầu tư của một quốc gia là một hệ thống đồng bộ các các công cụ khuyến khích đầu tư như: công cụ về tài chính - tiền tệ, lao động, đất đai, cơ chế thu hút nguồn nhân lực. Với phạm vi của Luận văn chỉ đề cập đến một số cơ chế chủ yếu sau: - Cơ chế tài chính - tiền tệ: trên phương diện tổng thể của nền kinh tế, huy động và sử dụng vốn đầu tư là quá trình tổ chức khai thác và phân bổ các nguồn lực tài chính cho đầu tư tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Điều khiển quá trình đó có vai trò rất to lớn của các cơ chế tài chính - tiền tệ. Trong đó: + Các sắc luật thuế, quy định tín dụng nhà nước và các quỹ hỗ trợ tài chính là những công cụ tài chính mà nhà nước có thể sử dụng trực tiếp để khai thác và tập trung các nguồn lực tài chính của xã hội. Qua đó duy trì tỷ lệ vốn đầu tư của khu vực nhà nước ở mức cần và đủ sao cho thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế vĩ mô và thúc đẩy quá trình tiết kiệm - đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. + Đồng thời, để đạt hiệu quả tổng thể cao về huy động và sử dụng vốn, đòi hỏi nhà nước phải kết hợp sử dụng đồng bộ các công cụ tài chính vĩ mô (công cụ lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc và tỷ giá) nhằm hỗ trợ cho quá trình huy động vốn, sử dụng vốn. Trong quá trình vận hành, chúng không chỉ góp phần nâng cao khả năng huy động vốn của các tổ chức tín dụng mà còn góp phần thực hiện tiết kiệm cho đầu tư, kiểm soát lạm phát, tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định cho các khu vực kinh tế khai thác tối đa mọi nguồn lực tài chính đưa vào đầu tư phát triển. - Quy chế, quy trình quản lý sử dụng vốn đầu tư: đây là những quy định của Nhà nước nhằm hướng dẫn, quản lý các dự án đầu tư của các chủ thể kinh tế trong xã hội. Việc xây dựng và ban hành quy chế quản lý cả quá trình đầu tư, từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư đến kết thúc đầu tư cho tất cả các đối tượng đầu tư, quy mô đầu tư đều phải thực hiện theo phương thức đầu tư nhất định. Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  27. Luận văn thạc sĩ 27 Kinh tế TNTN và Môi trường Ba là, trình độ quản lý: Trình độ của chủ thể quản lý cả ở tầm vĩ mô và vi mô đều có ảnh hưởng đến công tác huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển, thể hiện: - Ở tầm vĩ mô, sự phối kết hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan Trung ương như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các Bộ, ngành khác sẽ tạo ra sự thống nhất trong khâu hoạch định cơ chế và đưa ra các biện pháp thực hiện kế hoạch huy động vốn đầu tư cho đầu tư phát triển. Đồng thời phân định r trách nhiệm kiểm tra giữa các khâu trong quá trình sử dụng vốn, giảm thiểu được tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư. - Ở tầm vi mô, trình độ quản lý của chủ đầu tư và Ban quản lý dự án sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng vốn tiết kiệm, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư cho từng dự án cụ thể. Đối với các dự án sử dụng vốn ODA, trình độ quản lý thực thi dự án có ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ giải ngân, mức độ khai thác số vốn ODA đã cam kết đưa vào đầu tư thực tế. Con người với thể chất tốt và hàm lượng tri thức cao luôn đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. Trong đó lực lượng cán bộ quản lý hành chính nhà nước và cán bộ quản lý doanh nghiệp liên quan đến hoạt động đầu tư nói chung và đầu tư phát triển nói riêng trong nền kinh tế tác động trực tiếp đến tình trạng (tốt lên hoặc xấu đi) huy động, phân bổ và sử dụng vốn đầu tư cho quá trình phát triển kinh tế. Bởi chính đội ngũ này là những người trực tiếp quyết định đến chất lượng và hiệu quả của việc hoạch định chiến lược, lập quy hoạch, xây dựng kế hoạch, đề ra cơ chế quản lý đầu tư, điều tiết quá trình vận hành của thị trường vốn. Các nhân tố này phát huy được hiệu quả trong nền kinh tế tạo nên sự tăng trưởng và phát triển cao sẽ trực tiếp tác động đến việc gia tăng thu nhập để nâng cao năng lực đầu tư của nền kinh tế. Do vậy, đội ngũ này phải được đào tạo chuyên nghiệp, có chất lượng tri thức, làm chủ kiến thức và đủ năng lực nghiêp cứu, tiếp thu, triển khai, ứng dụng khoa học công nghệ mới vào lĩnh vực công tác của mình; nâng cao năng suất và chất lượng công việc; có đạo đức nghề nghiệp. Đồng thời phải có cơ chế đãi ngộ thoả đáng để họ toàn tâm, toàn ý với công việc. Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  28. Luận văn thạc sĩ 28 Kinh tế TNTN và Môi trường Bốn là, các nhân tố khác: nhận thức của các cấp, các ngành cũng như người dân về vai trò quan trọng của các dự án đầu tư xây dựng cơ bản trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, ý thức trách nhiệm của cán bộ quản lý làm công tác huy động và sử dụng vốn đầu tư, uy tín và quan hệ ngoại giao của Nhà nước, yêu cầu hội nhập quốc tế là những nhân tố có tác động nhất định đến kết quả huy động và quản lý sử dụng vốn đầu tư phát triển. Kết luận chương 1 Quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng từ ngân sách Nhà nước là một bộ phận của cơ chế quản lý tài chính do Nhà nước ban hành, thông qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và bộ máy quản lý, qua đó quy định các biện pháp cụ thể, cách thức tổ chức và vận hành có hiệu quả các biện pháp nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách đầu tư trong một thời kỳ nhất định. Nước ta đang trong quá trình phát triển, quy chế quản lý đầu tư đầu tư nói chung và cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước nói riêng có vai trò rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả quá trình huy động và sử dụng vốn đầu tư, đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế. Do vậy, việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  29. Luận văn thạc sĩ 29 Kinh tế TNTN và Môi trường CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 2.1. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN 1999 ĐẾN NAY Trong thời gian kể từ năm 1999 đến nay, cơ chế quản lý và sử dụng vốn đầu tư ở nước ta đã có nhiều thay đổi. Các văn bản pháp quy trong lĩnh vực đầu tư phát triển luôn luôn được cập nhật và đổi mới phù hợp theo hướng phân cấp mạnh hơn trong quản lý, phân định r chức năng, nhiệm vụ và nâng cao vai trò trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương trong việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư. 2.1.1. Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước giai đoạn 1999 - 2005 Từ khi có Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng (Nghị định này được sửa đổi bổ sung tại các Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000 và số 07/2003/NĐ-CP ngày 30/01/2003 của Chính phủ), thì công tác quản lý đầu tư và xây dựng như được bước sang một trang mới, đây là văn bản quy phạm pháp luật có tính đột phá trong công tác quản lý đầu tư và xây dựng. Các Nghị định này ra đời đã bãi bỏ và đơn giản hoá nhiều thủ tục không cần thiết, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý hoạt động có hiệu quả hơn như cho phép các dự án nhóm A đã có trong quy hoạch được duyệt hoặc đã có văn bản quyết định chủ chương đầu tư của cấp có thẩm quyền thì không phải lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và lập ngay báo cáo nghiên cứu khả thi, đối với các dự án nhỏ, đơn giản chỉ cần lập Báo cáo đầu tư thay cho Báo cáo nghiên cứu khả thi trước đây; nâng mức vốn phân loại nhóm dự án theo hướng giảm các dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ, tăng các dự án thuộc thẩm quyền quyết định của cấp Bộ và địa phương. Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  30. Luận văn thạc sĩ 30 Kinh tế TNTN và Môi trường Trong giai đoạn này, cơ chế đấu thầu cũng được sửa đổi và thay thế cho phù hợp hơn với công tác quản lý đấu thầu ngày càng nhiều phức tạp. Ngày 01/9/1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 88/1999/NĐ-CP về việc ban hành Quy chế Đấu thầu, Nghị định này được sửa đổi bổ sung tại các Nghị định số 14/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000 và số 66/2003/NĐ-CP ngày 12/6/2003 của Chính phủ. Các Nghị định này thay thế Quy chế Đấu thầu đã ban hành kèm theo Nghị định số 43/CP ngày 16/7/1996 và Nghị định số 93/CP ngày 23/8/1997 của Chính phủ. Các Nghị định này ra đời đã tháo gỡ được nhiều vướng mắc trong quản lý đầu thầu trước kia, góp phần đảm bảo được tính cạnh tranh, công bằng và minh bạch trong quá trình đấu thầu để lựa chọn được nhà thầu phù hợp, đảm bảo hiệu quả kinh tế của dự án. Để tiếp tục tăng cường và đổi mới công tác quản lý đầu tư và xây dựng, góp phần cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển, hạn chế thất thoát, tham nhũng, gây phiền hà và để phù hợp với lộ trình thực hiện hội nhập theo cam kết của Việt Nam sau khi gia nhập WTO, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X. Tại Quốc hội khoá XI nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua các Luật như Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 ngày 26/11/2003 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2004), Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2006), Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày 29/11/2005 (có hiệu lực từ ngày 01/4/2006) để điều chỉnh các hoạt động trong quản lý đầu tư và xây dựng. Kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 52/1999/NĐ-CP, Nghị định số 12/2000/NĐ-CP và Nghị định số 07/2003/NĐ-CP; Nghị định số 16/2005/NĐ-CP, Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 của Chính phủ vể sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2005/NĐ-CP và hiện nay là Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 về Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009, chúng ta thấy Chính phủ nhất quán chủ trương đẩy mạnh phân cấp cho các Bộ chủ quản, địa phương và các Chủ đầu tư từ việc thẩm định đến phê duyệt dự án đầu tư. Đây là Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  31. Luận văn thạc sĩ 31 Kinh tế TNTN và Môi trường một chủ trương đúng, tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án đồng thời tăng cường trách nhiệm của cấp dưới đối với dự án đầu tư. Kết quả là các cấp đã chủ động hơn, có tinh thần trách nhiệm hơn. Tuy nhiên, không phải Bộ nào, ngành nào, địa phương nào cũng phát huy được tính năng động tự chủ, tinh thần trách nhiệm trong thẩm định và phê duyệt dự án, nhiều dự án vẫn được ra đời một cách gượng ép khi chưa có đủ điều kiện chín muồi để rồi thực hiện nửa chừng phải điều chỉnh dự án, hoặc lựa chọn công nghệ không phù hợp, không tiên tiến tạo nên sản phẩm thiếu tính cạnh tranh, chất lượng công trình xây dựng kém, gây lãng phí. 2.1.2. Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước giai đoạn 2006 - 2011 Nhằm nhanh chóng đưa Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu vào đời sống kinh tế xã hội của đất nước, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư; Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 03/2008/NĐ-CP ngày 07/01/2008 của Chính phủ (Nghị định này thay thế các quy định về quản lý chi phí dự án đầu tư xây dựng công trình, về hợp đồng trong hoạt động xây dựng tại Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ về Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006); Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 10/2/2009 và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình (thay thế cho các Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ về Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006); Tiếp theo Chính phủ đã ban hành Nghị định số 112/2009/NĐ-CP ngày 14/12/2009 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình (thay thế Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 03/2008/NĐ-CP ngày 07/01/2008 của Chính phủ). Nghị định số 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 hướng dẫn thi hành Luật Đấu Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  32. Luận văn thạc sĩ 32 Kinh tế TNTN và Môi trường thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng (thay thế Nghị định số 58/2008/NĐ-CP ngày 05/5/2008). - Theo quy định tại Luật Xây dựng, Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 10/2/2009 của Chính phủ và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 83/2009/NĐ- CP ngày 15/10/2009 thì việc Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình được cụ thể như sau: Các dự án quan trọng quốc gia phải lập Báo cáo đầu tư xây dựng công trình (hay còn gọi là Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi) để trình Quốc hội thông qua chủ trương và cho phép đầu tư; Trường hợp dự án chưa có trong quy hoạch xây dựng thì vị trí, quy mô xây dựng phải được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chấp thuận bằng văn bản đối với các dự án nhóm A hoặc có ý kiến chấp thuận bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền phê duyệt về quy hoạch đối với các dự án nhóm B, C. Các công trình xây dựng cho mục đích tôn giáo và các công trình xây dựng mới, cải tạo, sửa chữa, nâng cấp có tổng mức đầu tư dưới 15 tỷ đồng (không bao gồm tiền sử dụng đất), phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành, quy hoạch xây dựng; trừ trường hợp người quyết định đầu tư thấy cần thiết và yêu cầu phải lập dự án đầu tư xây dựng công trình chỉ cần lập Báo cáo kinh tế - kỹ thuật xây dựng công trình để trình người quyết định đầu tư phê duyệt. Đối với các dự án còn lại thì phải lập Dự án đầu tư xây dựng công trình (hay còn gọi là Báo cáo nghiên cứu khả thi). Những quy định mới trong Nghị định này là ở chỗ việc thẩm định dự án và thẩm định thiết kế cơ sở được tiến hành đồng thời. Những phần việc tiếp theo của dự án như phê duyệt thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, dự toán, tổng dự toán được phân cấp cho chủ đầu tư. Với những quy định mới này vai trò và năng lực của chủ đầu tư và tư vấn lập dự án đầu tư xây dựng công trình hết sức quan trọng. Tư vấn có cách nhìn tổng quát trong lựa chọn sản phẩm, địa điểm xây dựng, dây chuyền công nghệ thì sẽ có phương án chọn hợp lý cho giai đoạn trước mắt và phù hợp với quy hoạch lâu dài. Mặt khác tư vấn có cách nhìn cụ thể sâu sắc trong thiết kế tổng mặt bằng, giải pháp kết cấu, lựa chọn vật liệu thì sẽ đưa ra được phương án khả thi phù hợp, mang lại hiệu quả kinh tế và lợi ích cho dự án. Chất Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  33. Luận văn thạc sĩ 33 Kinh tế TNTN và Môi trường lượng dự án xây dựng sẽ phụ thuộc nhiều vào phương án lựa chọn ban đầu trong quá trình lập dự án đầu tư xây dựng công trình. Hiện nay, trên cơ sở pháp lý là Luật Xây dựng, các Nghị định đã cụ thể hoá khá r nhiệm vụ của bước lập dự án đầu tư xây dựng công trình. Thiết kế cơ sở là khái niệm mới, là một phần việc quan trọng trong bước lập dự án đầu tư xây dựng công trình. Dự án đầu tư xây dựng công trình chỉ được phê duyệt khi đã có thiết kế cơ sở được cấp có thẩm quyền thẩm định. Để quản lý và tạo điều kiện thực hiện tốt chất lượng công trình xây dựng trong quá trình thực hiện dự án thì trước hết trong bước lập dự án đầu tư xây dựng công trình phải làm r những quy định về nội dung thẩm định dự án đầu tư xây dựng công trình, trách nhiệm này thuộc về chủ đầu tư và tư vấn lập dự án đầu tư xây dựng công trình. Như vậy, để có được hồ sơ dự án đầu tư xây dựng công trình có chất lượng trước hết chúng ta cần có đội ngũ tư vấn có chất lượng. Vấn đề thẩm định dự án đầu tư xây dựng công trình cần phải được quan tâm và đánh giá đúng mức. Các cơ quan, đơn vị thẩm định phải xác định được vai trò trách nhiệm của mình và phải có đủ năng lực thẩm định. Sản phẩm thẩm định phải đạt được tối ưu về kinh tế - kỹ thuật. Lâu nay các đơn vị thẩm định có tình trạng chỉ thiên về kỹ thuật với xu hướng bảo toàn mà coi nhẹ tính kinh tế, nhất là các công trình xây dựng. Việc thẩm định dự án đôi khi chưa đạt yêu cầu, còn hình thức, năng lực thẩm định của một số hội đồng còn chưa đạt yêu cầu. Bên cạnh đó cũng chưa có chế tài trong quy định trách nhiệm thẩm định dự án. Lập dự án đầu tư xây dựng công trình là bước khởi đầu của một dự án, nó mang nhiều ý nghĩa quan trọng đặc biệt trong đó có chất lượng các công trình xây dựng. - Thực hiện cải cách hành chính theo hướng đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tăng cường phân cấp, giao trách nhiệm r ràng cho các Bộ, ngành, các địa phương, chủ đầu tư. Ngày 13/6/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 99/2007/NĐ-CP về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình; Nghị định số 03/2008/NĐ-CP ngày 07/01/2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 99/2007/NĐ-CP và mới đây tiếp tục ban hành Nghị định số 112/2009/NĐ-CP ngày 14/12/2009 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình (thay thế Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  34. Luận văn thạc sĩ 34 Kinh tế TNTN và Môi trường 13/6/2007 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 03/2008/NĐ-CP ngày 07/01/2008 của Chính phủ), các Nghị định này đã quy định cụ thể nguyên tắc quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình: + Quản lý chi phí dự án đầu tư xây dựng công trình phải bảo đảm mục tiêu, hiệu quả dự án đầu tư xây dựng công trình và các yêu cầu khách quan của kinh tế thị trường. + Quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình theo từng công trình, phù hợp với các giai đoạn đầu tư xây dựng công trình, các bước thiết kế, loại nguồn vốn và các quy định của Nhà nước. + Tổng mức đầu tư, dự toán xây dựng công trình phải được tính đúng, tính đủ và phù hợp độ dài thời gian xây dựng công trình. Tổng mức đầu tư là chi phí tối đa mà chủ đầu tư được phép sử dụng để đầu tư xây dựng công trình. + Nhà nước thực hiện chức năng quản lý về chi phí đầu tư xây dựng công trình thông qua việc ban hành, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện các quy định về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình. + Chủ đầu tư xây dựng công trình chịu trách nhiệm toàn diện về việc quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến khi kết thúc xây dựng đưa công trình vào khai thác, sử dụng. Gần đây để hoàn thiện thêm về công tác quản lý hợp đồng trong hoạt động xây dựng, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 48/2010/NĐ-CP ngày 7/5/2010 về hợp đồng trong hoạt động xây dựng (thay thế quy định về hợp đồng trong hoạt động xây dựng nêu ở Chương 5 Nghị định 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007), Nghị định này cũng đã quy định r các nội dung liên quan đến việc tạm ứng, thanh toán vốn theo từng loại hợp đồng xây dựng, quy định r thêm điều kiện để được tạm ứng vốn và trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc quản lý vốn tạm ứng và thu hồi vốn tạm ứng như sau: + Việc tạm ứng hợp đồng được thực hiện ngay sau khi hợp đồng có hiệu lực và bên giao thầu đã nhận được bảo lãnh khoản tiền tạm ứng (nếu có). + Mức tạm ứng tối thiểu được quy định như sau: đối với hợp đồng tư vấn là 25% giá hợp đồng; đối với hợp đồng thi công xây dựng: Hợp đồng có giá trị dưới Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  35. Luận văn thạc sĩ 35 Kinh tế TNTN và Môi trường 10 tỷ đồng, mức tạm ứng tối thiểu bằng 20% giá trị hợp đồng; hợp đồng có giá trị từ 10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng, mức tạm ứng tối thiểu bằng 15% giá trị hợp đồng; hợp đồng có giá trị trên 50 tỷ đồng, mức tạm ứng tối thiểu bằng 10% giá trị hợp đồng. Đối với hợp đồng cung cấp thiết bị công nghệ, hợp đồng EPC, hợp đồng chìa khóa trao tay và các loại hợp đồng xây dựng khác: mức tạm ứng tối thiểu bằng 10% giá trị hợp đồng. + Mức vốn tạm ứng tối đa là 50% giá hợp đồng, trường hợp đặc biệt thì phải được người quyết định đầu tư cho phép. Tiền tạm ứng được bắt đầu thu hồi từ lần thanh toán đầu tiên, mức thu hồi từng lần do hai bên thống nhất ghi trong hợp đồng, kết thúc thu hồi khi giá trị thanh toán đạt đến 80% giá hợp đồng. + Vốn tạm ứng không sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích phải được thu hồi. Nghiêm cấm tạm ứng nhưng không sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích. + Đối với công việc giải phóng mặt bằng: Mức vốn tạm ứng theo tiến độ thực hiện trong kế hoạch giải phóng mặt bằng. Các Bộ và Uỷ ban nhân dân các cấp phải bố trí đủ vốn cho công tác giải phóng mặt bằng. - Về thanh toán và hồ sơ thanh toán: đối tượng thanh toán là theo từng loại hình hợp đồng xây dựng ký kết giữa chủ đầu tư và nhà thầu theo hướng đơn giản hoá thủ tục hành chính. Quy định r thời hạn thanh toán vốn đầu tư là kế hoạch vốn năm chỉ thanh toán cho khối lượng được nghiệm thu đến ngày 31 tháng 12, thời hạn thanh toán đến hết ngày 31 tháng 01 năm sau. 2.1.3. Cơ chế quy định hiện nay về bộ máy, tổ chức quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà nước 2.1.3.1. Bộ máy lập và giao kế hoạch vốn đầu tư phát triển hàng năm: Hiện nay tổ chức bộ máy thực hiện công tác xây dựng kế hoạch và ghi vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà nước do 2 cơ quan là Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính, trong đó cơ quan Kế hoạch và Đầu tư là đơn vị chủ trì. Hàng năm, căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế theo Nghị quyết Quốc hội và chỉ Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  36. Luận văn thạc sĩ 36 Kinh tế TNTN và Môi trường đạo của Chính phủ về điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm. Sau khi cân đối thu - chi ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính thống nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tổng nguồn vốn chi cho đầu tư phát triển của năm xây dựng kế hoạch. Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ chủ trì báo cáo Thủ tướng Chính phủ về đánh giá tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển của kế hoạch năm trước, tổng hợp nhu cầu sử dụng vốn đầu tư phát triển của các bộ, ngành, địa phương năm xây dựng kế hoạch, căn cứ vào khả năng cân đối tổng mức vốn đầu tư phát triển; cơ cấu vốn trong nước, vốn ngoài nước, cơ cấu ngành kinh tế. Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự kiến kế hoạch vốn đầu tư phát triển trình Thủ tướng Chính phủ, trình Quốc hội thông qua và tiến hành giao kế hoạch vốn cho các bộ, ngành, địa phương. - Đối với vốn đầu tư thuộc Trung ương quản lý: sau khi Thủ tướng Chính phủ giao kế hoạch, các Bộ phân bổ kế hoạch vốn đầu tư cho từng dự án thuộc phạm vi quản lý đã đủ các điều kiện quy định, đảm bảo khớp đúng với chỉ tiêu được giao về tổng mức đầu tư; cơ cấu vốn trong nước, vốn ngoài nước, cơ cấu ngành kinh tế; mức vốn các dự án quan trọng của Nhà nước giao. - Đối với vốn đầu tư thuộc địa phương quản lý: Ủy ban nhân dân các cấp lập phương án phân bổ vốn đầu tư trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định. Theo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân phân bổ và quyết định giao kế hoạch vốn đầu tư cho từng dự án thuộc phạm vi quản lý đã đủ các điều kiện quy định, đảm bảo khớp đúng với chỉ tiêu được giao về tổng mức đầu tư; cơ cấu vốn trong nước, vốn ngoài nước, cơ cấu ngành kinh tế; mức vốn các dự án quan trọng của Nhà nước và đúng với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ về điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm. 2.1.3.1. Bộ máy, tổ chức lập, phê duyệt và thực hiện các dự án đầu tư xây dựng: - Sau khi được giao kế hoạch vốn các bộ, ngành, địa phương sẽ phân bổ vốn cho từng dự án và giao nhiệm vụ cho từng chủ đầu tư. Chủ đầu tư xây dựng công trình là người sở hữu vốn hoặc là người được giao nhiệm vụ quản lý và sử dụng vốn để đầu tư xây dựng công trình, đối với dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước thì Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  37. Luận văn thạc sĩ 37 Kinh tế TNTN và Môi trường chủ đầu tư do người quyết định đầu tư quyết định trước khi lập dự án đầu tư, thông thường chủ đầu tư cũng sẽ là đơn vị quản lý và sử dụng công trình. - Người quyết định đầu tư sẽ quyết định hình thức quản lý dự án. Hiện nay có các hình thức quản lý dự án sau: + Chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án: trường hợp này thì chủ đầu tư thành lập Ban Quản lý dự án để giúp chủ đầu tư làm đầu mối quản lý dự án. Ban Quản lý dự án phải có năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý dự án theo yêu cầu của chủ đầu tư. Ban Quản lý dự án có thể thuê tư vấn quản lý, giám sát một số phần việc mà Ban Quản lý dự án không đủ điều kiện, năng lực để thực hiện. + Chủ đầu tư thuê tư tổ chức tư vấn quản lý điều hành dự án: trường hợp này thì tổ chức tư vấn đó phải có đủ điều kiện năng lực tổ chức quản lý phù hợp với quy mô, tính chất của dự án. Trách nhiệm, quyền hạn của tư vấn quản lý dự án được thực hiện hợp đồng thỏa thuận giữa hai bên. - Nhiệm vụ và quyền hạn của chủ đầu tư và Ban Quản lý dự án trong trường hợp chủ đầu tư thành lập Ban Quản lý dự án: Chủ đầu tư thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn từ giai đoạn chuẩn bị dự án, thực hiện dự án đến khi nghiệm thu bàn giao đưa công trình vào khai thác sử dụng đảm bảo tính hiệu quả, tính khả thi của dự án và tuân thủ các quy định của pháp luật. Chủ đầu tư có trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Quản lý dự án. - Nhiệm vụ và quyền hạn của chủ đầu tư và tư vấn quản lý dự án trong trường hợp chủ đầu tư thuê tư vấn quản lý dự án: Chủ đầu tư thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn từ giai đoạn chuẩn bị dự án, thực hiện dự án đến khi nghiệm thu bàn giao đưa công trình vào khai thác sử dụng đảm bảo tính hiệu quả, tính khả thi của dự án và tuân thủ các quy định của pháp luật. Chủ đầu tư có trách nhiệm lựa chọn và ký hợp đồng với tổ chức tư vấn quản lý dự án có đủ điều kiện năng lực tổ chức quản lý để giúp chủ đầu tư quản lý dự án. Chủ đầu tư có trách nhiệm kiểm tra, theo d i việc thực hiện hợp đồng của tư vấn quản lý dự án. Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  38. Luận văn thạc sĩ 38 Kinh tế TNTN và Môi trường 2.2. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ CHI VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 2.2.1. Cơ chế phân cấp, phân bổ vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà nước Cơ chế phân cấp phân bổ vốn đầu tư phụ thuộc và chịu sự điều chỉnh của Nhà nước về phân cấp quản lý kinh tế - xã hội theo ngành và lãnh thổ sau khi thực thi Luật Ngân sách Nhà nước (2002), cơ chế này phụ thuộc nhiều vào cơ chế phân cấp quản lý Ngân sách Nhà nước. Cơ chế phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương gắn với chức năng về thẩm quyền quản lý của cấp có thẩm quyền theo ngành và lãnh thổ. Tuy vậy, chi đầu tư phát triển mà đối tượng của nó là các dự án đầu tư xây dựng rất đa dạng, phong phú cả về quy mô về hình thực, các cơ chế về phân cấp quản lý vốn đầu tư cũng không hoàn toàn giống như cơ chế phân cấp quản lý vốn ngân sách Nhà nước. Cơ chế phân cấp phân bổ vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước hiện nay bao gồm các nội dung sau: 2.2.1.1. Về nguyên tắc phân bổ vốn đầu tư Trên cơ sở tổng mức vốn được Quốc hội phê duyệt hàng năm (thường vào trung tuần tháng 11 năm trước năm kế hoạch), Thủ tướng Chính phủ giao các bộ, ngành phân bổ vốn cho các công trình dự án cụ thể. Việc phân bổ vốn cho các công trình, dự án phải được thực hiện trên các nguyên tắc sau: - Thực hiện đúng theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước. Vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước chỉ bố trí cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng hoàn vốn trực tiếp. - Các công trình dự án phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của ngành đề ra. - Các công trình, dự án được bố trí vốn phải nằm trong quy hoạch đã được phê duyệt; có đủ các thủ tục đầu tư theo các quy định về quản lý đầu tư và xây dựng. - Bố trí vốn tập trung, bảo đảm hiệu quả đầu tư. Ưu tiên bố trí cho các dự án quan trọng quốc gia và các dự án lớn khác, các công trình, dự án hoàn thành trong Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  39. Luận văn thạc sĩ 39 Kinh tế TNTN và Môi trường kỳ kế hoạch, vốn đối ứng cho các dự án ODA; không bố trí vốn cho các dự án khi chưa xác định được r nguồn vốn. - Phải dành đủ vốn để thanh toán các khoản nợ và ứng trước năm kế hoạch. - Bảo đảm tính công khai, minh bạch, công bằng trong phân bổ vốn đầu tư phát triển. 2.2.1.2. Về điều kiện phân bổ vốn cho dự án đầu tư Hiện tại, các cơ quan có thẩm quyền phân bổ vốn đầu tư phải căn cứ theo từng dự án. Các dự án chỉ được bố trí kế hoạch vốn đầu tư hàng năm của Nhà nước khi có đủ các điều kiện sau: - Đối với các dự án chuẩn bị đầu tư: phải phù hợp với quy hoạch phát triển ngành và lãnh thổ được duyệt theo thẩm quyền. - Đối với các dự án thực hiện đầu tư: phải có quyết định đầu tư từ thời điểm trước 31 tháng 10 năm trước năm kế hoạch. - Đảm bảo thời gian từ khi khởi công đến khi hoàn thành các dự án nhóm B không quá 5 năm, dự án nhóm C không quá 3 năm. 2.2.1.3. Thẩm quyền phân bổ vốn đầu tư - Đối với vốn đầu tư thuộc Trung ương quản lý: các Bộ phân bổ kế hoạch vốn đầu tư cho từng dự án thuộc phạm vi quản lý đã đủ các điều kiện quy định, đảm bảo khớp đúng với chỉ tiêu được giao về tổng mức đầu tư; cơ cấu vốn trong nước, vốn ngoài nước, cơ cấu ngành kinh tế; mức vốn các dự án quan trọng của Nhà nước và đúng với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ về điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm. - Đối với vốn đầu tư thuộc địa phương quản lý: Ủy ban nhân dân các cấp lập phương án phân bổ vốn đầu tư trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định. Theo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân phân bổ và quyết định giao kế hoạch vốn đầu tư cho từng dự án thuộc phạm vi quản lý đã đủ các điều kiện quy định, đảm bảo khớp đúng với chỉ tiêu được giao về tổng mức đầu tư; cơ cấu vốn trong nước, vốn ngoài nước, cơ cấu ngành kinh tế; mức vốn các dự án quan trọng Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  40. Luận văn thạc sĩ 40 Kinh tế TNTN và Môi trường của Nhà nước và đúng với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ về điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm. Sở Tài chính có trách nhiệm cùng với Sở Kế hoạch và Đầu tư dự kiến phân bổ vốn đầu tư cho từng dự án do tỉnh quản lý trước khi báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định. Phòng Tài chính kế hoạch huyện có trách nhiệm cùng với các cơ quan chức năng của huyện tham mưu cho Ủy ban nhân dân huyện phân bổ vốn đầu tư cho từng dự án do huyện quản lý. Riêng đối với các dự án được đầu tư bằng các nguồn vốn được để lại theo Nghị quyết của Quốc hội và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và vốn bổ sung có mục tiêu từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương còn phải tuân thủ các quy định về đối tượng đầu tư và mục tiêu sử dụng của từng nguồn vốn đầu tư. 2.2.2. Cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước liên quan đến dự án đầu tư 2.2.2.1. Quyết định chủ trương đầu tư Việc đầu tư xây dựng công trình phải phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành, quy hoạch xây dựng, bảo đảm an ninh, an toàn xã hội và an toàn môi trường, phù hợp với các quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật khác có liên quan. Đối với dự án do Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư và dự án nhóm A gồm nhiều dự án thành phần, nếu từng dự án thành phần có thể độc lập vận hành, khai thác hoặc thực hiện theo phân kỳ đầu tư được ghi trong văn bản phê duyệt báo cáo đầu tư thì mỗi dự án thành phần được quản lý, thực hiện như một dự án độc lập. Để quyết định chủ trương đầu tư cho một dự án đầu tư quan trọng của Nhà nước (công trình do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư), các chương trình hoặc các dự án đầu tư, các dự án phát triển của mỗi thành phần kinh tế đều phải căn cứ vào các quy hoạch phát triển. Các quy hoạch (dù là quy hoạch chung hay các quy hoạch cụ thể) phải xuất phát từ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc ngành. Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  41. Luận văn thạc sĩ 41 Kinh tế TNTN và Môi trường Các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thường được xây dựng cho khoảng thời gian từ 10 - 20 năm, được Đại hội Đảng toàn quốc hoặc do Đại hội Đảng bộ các địa phương thông qua. Các quy hoạch được sử dụng làm căn cứ quyết định chủ trương đầu tư bao gồm: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn, sau đó là các quy hoạch chi tiết về xây dựng, quản lý đất đai, quy hoạch trong khu công nghiệp, khu đô thị . Tuy nhiên có một điều là, công tác quy hoạch của ta, tuy đã có chú ý hơn trước, nhưng vẫn chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Vẫn còn nhiều ngành, địa phương chưa có quy hoạch tổng thể, do đó, các dự án đầu tư không có căn cứ vững chắc, thậm chí mới đầu tư được một thời gian ngắn đã phải thay đổi. 2.2.2.2. Hình thành và thực hiện dự án đầu tư Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước kể cả các dự án thành phần, Nhà nước quản lý toàn bộ quá trình đầu tư xây dựng từ việc xác định chủ trương đầu tư, lập dự án, quyết định đầu tư, lập thiết kế - kỹ thuật, dự toán, tổng dự toán, lựa chọn nhà thầu, thi công xây dựng đến khi nghiệm thu, bàn giao và đưa công trình vào khai thác sử dụng. Một là, đối với cơ chế lập dự án đầu tư: chủ đầu tư có nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật về xây dựng kể từ giai đoạn chuẩn bị dự án, thực hiện dự án và nghiệm thu bàn giao đưa công trình vào khai thác sử dụng. Chủ đầu tư có quyền thành lập ban quản lý dự án hoặc thuê tư vấn quản lý dự án. Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm toàn diện về những công việc thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật, kể cả những công việc đã giao cho Ban quản lý dự án hoặc nhà thầu tư vấn quản lý dự án. Chủ đầu tư là người có trách nhiệm lập hoặc thuê tư vấn lập dự án đầu tư xây dựng công trình (trong trường hợp thuê tư vấn lập dự án đầu tư, chủ đầu tư vẫn là người chịu trách nhiệm báo cáo giải trình dự án đầu tư trong bước thẩm định đánh giá dự án đầu tư). Theo quy định hiện hành, việc lập dự án đầu tư được quy định như sau: Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  42. Luận văn thạc sĩ 42 Kinh tế TNTN và Môi trường - Các dự án phải lập báo cáo đầu tư xây dựng công trình (Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi) là các dự án quan trọng quốc gia chủ đầu tư phải lập Báo cáo đầu tư xây dựng công trình Quốc hội xem xét, quyết định về chủ trương đầu tư. Đối với các dự án khác, chủ đầu tư không phải lập Báo cáo đầu tư. - Các dự án chỉ phải lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật xây dựng công trình là: các Công trình xây dựng cho mục đích tôn giáo; các công trình xây dựng mới, cải tạo, sửa chữa, nâng cấp có tổng mức đầu tư dưới 15 tỷ đồng (không bao gồm tiền sử dụng đất), phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành, quy hoạch xây dựng; trừ trường hợp người quyết định đầu tư thấy cần thiết và yêu cầu phải lập dự án đầu tư xây dựng công trình. - Các dự án phải lập Dự án đầu tư xây dựng công trình (hay còn gọi là Báo cáo nghiên cứu khả thi) là các dự án đầu tư xây dựng công trình còn lại. Khi đầu tư xây dựng công trình, chủ đầu tư phải tổ chức lập dự án đầu tư và trình người quyết định đầu tư thẩm định, phê duyệt. Hai là, đối với cơ chế thẩm định dự án đầu tư: song song với cơ chế lập dự án đầu tư là cơ chế thẩm định dự án đầu tư. Đó là cơ chế quy định về trách nhiệm và thẩm quyền mà chủ đầu tư, các tổ chức tư vấn cơ quan có thẩm quyền về tổ chức lập dự án đầu tư, thẩm định đánh giá dự án đầu tư và quyết định đầu tư. Thẩm quyền thẩm định dự án đầu tư xây dựng công trình - Người quyết định đầu tư có trách nhiệm tổ chức thẩm định dự án trước khi phê duyệt. Đầu mối thẩm định dự án là đơn vị chuyên môn trực thuộc cấp quyết định đầu tư. Đối với các dự án đã được phân cấp hoặc uỷ quyền quyết định đầu tư thì người được phân cấp hoặc uỷ quyền quyết định đầu tư có trách nhiệm tổ chức thẩm định dự án. - Thủ tướng Chính phủ thành lập Hội đồng Thẩm định nhà nước về các dự án đầu tư để tổ chức thẩm định dự án do Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư và dự án khác nếu thấy cần thiết. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư là Chủ tịch Hội đồng Thẩm định nhà nước về các dự án đầu tư. - Đối với dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước: Cơ quan cấp Bộ tổ chức thẩm định dự án do mình quyết định đầu tư. Đầu mối tổ chức thẩm định dự án là Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  43. Luận văn thạc sĩ 43 Kinh tế TNTN và Môi trường đơn vị chuyên môn trực thuộc người quyết định đầu tư; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thẩm định dự án do mình quyết định đầu tư. Sở Kế hoạch và Đầu tư là đầu mối tổ chức thẩm định dự án. Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã tổ chức thẩm định dự án do mình quyết định đầu tư. Đầu mối thẩm định dự án là đơn vị có chức năng quản lý kế hoạch ngân sách trực thuộc người quyết định đầu tư. Ba là, thẩm quyền quyết định đầu tư: Không hoàn toàn giống như thẩm quyền quyết định dự toán Ngân sách Nhà nước, thẩm quyền quyết định đầu tư hiện nay vẫn còn khác nhau. Ngày 10/02/2009, sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 12/2009/NĐ-CP và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 thì thẩm quyền phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình được quy định cụ thể và được mở rộng hơn. - Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước: Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư các dự án quan trọng quốc gia theo Nghị quyết của Quốc hội và các dự án quan trọng khác; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan cấp Bộ quyết định đầu tư các dự án nhóm A, B, C. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan cấp Bộ được uỷ quyền hoặc phân cấp quyết định đầu tư đối với các dự án nhóm B, C cho cơ quan cấp dưới trực tiếp; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp quyết định đầu tư các dự án nhóm A, B, C trong phạm vi và khả năng cân đối ngân sách của địa phương sau khi thông qua Hội đồng nhân dân cùng cấp. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện được uỷ quyền hoặc phân cấp quyết định đầu tư đối với các dự án nhóm B, C cho cơ quan cấp dưới trực tiếp. 2.3. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ LIÊN QUAN ĐẾN HUY ĐỘNG VỐN VÀ PHÂN BỔ VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỘC NGUỒN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 2.3.1. Cơ chế huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2006 - 2010, với việc triển khai thực hiện khai thác và huy động đa dạng các nguồn vốn cho đầu tư phát triển (trong Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  44. Luận văn thạc sĩ 44 Kinh tế TNTN và Môi trường đó có đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước) như trên, Đảng và Nhà nước ta đã cụ thể hoá vào các Nghị quyết, hệ thống luật pháp như: ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế được mở rộng, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, cải cách hành chính trong mọi lĩnh vực, nhất là trong lĩnh vực đầu tư, tạo môi trường tốt để thu hút vốn đầu tư nước ngoài; bước đầu đã hình thành và phát triển thị trường vốn, đó là hệ thống các ngân hàng đầu tư và thương mại, các công ty tài chính, công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư đã giúp cho nền kinh tế nước ta duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao trong bối cảnh kinh tế thế giới thời gian qua gặp nhiều khó khăn, GDP của nước ta giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 7,5%/năm và giai đoạn 2006-2010 tăng bình quân 7%/năm. Cụ thể: - Trong cơ cấu tổng nguồn vốn đầu tư xã hội, thời gian vừa qua, có sự tham gia của rất nhiều các nguồn vốn khác nhau mà trong đó nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước chỉ là một phần trong số đó. Nói cách khác, việc đa dạng hoá trong khai thác và huy động vốn đầu tư, đầu tư xây dựng cơ bản đã được vận dụng trong thực tiễn hoạt động khai thác và huy động đa dạng các nguồn vốn trong nền kinh tế cùng tham gia đầu tư xây dựng cơ bản. - Nhờ huy động tốt các nguồn lực, khối lượng vốn đầu tư đã tăng nhanh, cho phép dành được một lượng vốn lớn để tập trung đầu tư vào một số công trình chủ yếu, quan trọng trong các ngành, lĩnh vực và địa phương; chi đầu tư chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất theo hướng hiệu quả và phát huy được lợi thế từng vùng, từng ngành, từng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế; chi chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn; chi đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ tiên tiến trong các ngành công nghiệp; đã và đang đầu tư nhiều cơ cở sản xuất công nghiệp, kết cấu hạ tầng kỹ thuật (giao thông - vận tải, viễn thông, thuỷ lợi, công nghiệp điện), hạ tầng cơ sở nông thôn, du lịch, bảo vệ môi trường, giảm nhẹ thiên tai Bên cạnh đó, nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước đã được tập trung chi đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ và môi trường, y tế, các chương trình quốc gia, xoá đói giảm nghèo và ưu tiên đầu tư thực hiện phát triển Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  45. Luận văn thạc sĩ 45 Kinh tế TNTN và Môi trường kinh tế, xã hội các tỉnh Tây Nguyên, miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Cửu Long, các tỉnh còn khó khăn, các vùng thường xuyên bị thiên tai, bão lụt. - Tính chung trong 11 năm (2001 - 2011), tổng chi vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đã thực hiện được khoảng 4.336,5 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 41,6% GDP của cả thời kỳ. Mặc dù chịu tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng giai đoạn 2006 - 2010 vẫn huy động được một khối lượng khá lớn vốn đầu tư phát triển. Tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội ước 5 năm 2006 - 2010 huy động đạt khoảng 3.092,6 nghìn tỷ đồng, gấp khoảng 2,5 lần so với giai đoạn 2001 – 2005 và tăng 15,5% so với kế hoạch đề ra, đạt 42,7% GDP, trong đó: vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước giai đoạn 2006 - 2020 ước thực hiện 657,1 nghìn tỷ đồng, vốn trái phiếu Chính phủ ước đạt khoảng 169,2 nghìn tỷ đồng. Trong thời gian vừa qua, chúng ta đã phát huy tốt nguồn lực cho đầu tư phát triển; tổng vốn chi cho đầu tư phát triển toàn xã hội tăng khá nhanh, bình quân giai đoạn 2001-2005 so với GDP đạt 39,1%, giai đoạn 2006-2010 đạt 42,7% GDP và năm 2011 đạt 42% GDP. Riêng đối với vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước về số tuyệt đối lại tăng lên đáng kể (tổng giai đoạn 2001-2005 là 285,3 nghìn tỷ đồng, giai đoạn 2006-2010 là 657,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3 lần so với giai đoạn 2001-2005 và năm 2011 thì số vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước là 180 nghìn tỷ đồng); tuy nhiên, nguồn vốn này cũng có sự giảm đi về số tương đối (từ 22,9% tổng vốn đầu tư xã hội giai đoạn 2001-2005 xuống còn khoảng 21,2% giai đoạn 2006-2010 và đến năm 2011 thì giảm xuống còn 20,5%); điều này chứng tỏ do môi trường đầu tư thuận lợi nên các thành phần kinh tế trong xã hội đã tham gia đầu tư mạnh mẽ, vốn ngân sách Nhà nước đã làm được vai trò là “vốn mồi” cho nền kinh tế. Kết quả của việc sử dụng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội nói chung và chi vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước nói riêng trong giai đoạn 2001-2011 là rất tích cực, nhờ thu hút được một khối lượng lớn các nguồn vốn đầu tư phát triển, hệ thống kết cấu hạ tầng đã được cải thiện đáng kể, tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng, đảm bảo an sinh xã hội, góp phần xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân (Chi tiết xem bảng 2.1). Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  46. Luận văn thạc sĩ 46 Kinh tế TNTN và Môi trường Bảng 2.1. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân theo nguồn vốn đầu tư giai đoạn 2001-2005 và 2006-2011 Thực hiện giai đoạn 2006 – 2010 Số Thực hiện Năm Chỉ tiêu Đơn vị tính Chia ra TT 2001-2005 Tổng số 2011 2006 2007 2008 2009 2010 I Tổng sản phẩm nội địa (GDP) Nghìn tỷ đồng 3.183,7 7.242,3 974,3 1.143,7 1.485,0 1.658,4 1.980,9 2.097,6 II Vốn ĐTPT toàn xã hội Nghìn tỷ đồng 1.243,9 3.092,6 404,6 532,2 616,7 708,8 830,3 880,0 % so với GDP % 39,1 42,7 41,5 46,5 41,5 42,7 41,9 42,0 1 Vốn đầu tư thuộc NSNN Nghìn tỷ đồng 285,3 657,1 88,3 104,3 119,5 172,0 173,0 180,0 So với tổng số % 22,9 21,2 21,8 19,6 19,4 24,3 20,8 20,5 2 Vốn trái phiếu Chính phủ Nghìn tỷ đồng 19,5 169,2 10,3 16,7 26,9 52,9 62,4 45,0 So với tổng số % 1,6 5,5 2,5 3,1 4,4 7,5 7,5 5,1 3 Vốn tín dụng đầu tư Nghìn tỷ đồng 174,2 199,0 34,9 35,1 35,0 42,0 52,0 50,0 So với tổng số % 14,0 6,4 8,6 6,6 5,7 5,9 6,3 5,7 4 Vốn đầu tư của DNNN Nghìn tỷ đồng 185,2 313,8 58,1 61,2 53,8 62,3 78,4 82,0 So với tổng số % 14,9 10,1 14,4 11,5 8,7 8,8 9,4 9,3 5 Vốn ĐT của dân cư và tư nhân Nghìn tỷ đồng 403,7 1.115,3 154,0 204,7 217,0 240,1 299,5 349,0 So với tổng số % 32,5 36,1 38,1 38,5 35,2 33,9 36,1 39,7 6 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Nghìn tỷ đồng 176,0 608,7 59,0 103,7 157,5 132,5 156,0 165,0 So với tổng số % 14,1 19,7 14,6 19,5 25,5 18,7 18,8 18,8 7 Vốn đầu tư khác Nghìn tỷ đồng 0,0 29,5 0,0 6,5 7,0 7,0 9,0 9,0 So với tổng số % 0,0 1,0 0,0 1,2 1,1 1,0 1,1 1,0 Nguồn: Báo cáo thực hiện kế hoạch vốn đầu tư phát triển 5 năm 2006-2010 và kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2011-2015 của Bộ KH và ĐT. Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  47. Luận văn thạc sĩ 47 Kinh tế TNTN và Môi trường 2.3.2. Tình hình phân bổ vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước Các cơ chế về phân bổ và sử dụng nguồn vốn đầu tư nói chung, vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước nói riêng đều phải xuất phát từ yêu cầu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 2001-2010 và giai đoạn 2011-2020. Để thực hiện có hiệu quả các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội theo xu hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế r rệt để đến năm 2015 tỷ trọng của ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 41% - 42% GDP; ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 17% - 18% GDP; ngành dịch vụ chiếm 40% - 42% GDP. Cơ cấu chi đầu tư vào các ngành và lĩnh vực như sau: Tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước và trái phiếu Chính phủ dành cho chi đầu tư phát triển của nền kinh tế trong 5 năm 2006 - 2010, đạt khoảng 826 nghìn tỷ đồng, năm 2011 là 225 nghìn tỷ đồng. Cơ cấu chi đầu tư đã có sự dịch chuyển theo hướng tích cực, tập trung cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế, xã hội; đồng thời quan tâm đầu tư nhiều hơn cho vùng nghèo, xã nghèo. Chi đầu tư cho lĩnh vực kinh tế chiếm 57,5% tổng mức vốn đầu tư 5 năm 2006 - 2010, trong đó: ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản 20,9%, giao thông vận tải 28,1%, thông tin và truyền thông 1,1%; Lĩnh vực xã hội chiếm 39,4%, trong đó: cấp nước và xử lý rác thải, nước thải 3,1%, khoa học công nghệ và công nghệ thông tin 2,5%, tài nguyên và môi trường 1,5%, giáo dục - đào tạo 14,7%, y tế 6%, xã hội 2,6%, văn hoá 2%, thể thao 0,8%, quản lý nhà nước 6,1%; Lĩnh vực quốc phòng 2,4% và lĩnh vực an ninh 0,7%. Qua đó, chúng ta thấy vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước và trái phiếu Chính phủ trong thời gian qua đã tập trung chi cho các ngành trọng điểm phục vụ cho các mục tiêu công như: nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, giao thông vận tải, giáo dục và đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá, thể thao, khoa học và công nghệ. Giao thông vận tải: tiếp tục duy trì tổng chi đầu tư cho ngành giao thông vận tải ở mức 28,1% vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách Nhà nước và trái phiểu Chính phủ. Đã tập trung đầu tư cho hệ thống đường quốc lộ, đường trục quan trọng, hạ tầng giao thông nông thôn, đặc biệt ở vùng núi, biên giới, Tây Nguyên. Đã hoàn Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11
  48. Luận văn thạc sĩ 48 Kinh tế TNTN và Môi trường thành một số đoạn đường quan trọng trên các trục quốc lộ như dự án đường Hồ Chí Minh giai đoạn I, đường cao tốc Long Thành - Dầu Giây, cầu Thanh Trì, cầu Vĩnh Tuy, cầu Cần Thơ, các dự án đường tuần tra biên giới , đồng thời đang triển khai đầu tư một số dự án lớn như: đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, Hà Nội – Lào Cai, Cầu Giẽ - Ninh Bình, cảng Cái Mép – Thị Vải, nhà ga T2 Nội Bài Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản: chi đầu tư giai đoạn 2006-2010 được duy trì ở mức từ 20,2%-21,5% vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách Nhà nước và trái phiếu Chính phủ. Tính chung trong giai đoạn 2006-2010, tổng vốn đầu tư vào lĩnh vực này ước đạt 172,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 20,9%; riêng năm 2011 vốn đầu tư vào lĩnh vực này đạt 48,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 21,5% tổng vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách Nhà nước và trái phiểu Chính phủ. Trong giai đoạn này đã thực hiện đầu tư xây dựng một số dự án lớn thuộc lĩnh vực thủy lợi như Hồ chứa nước Cửa Đạt, Krông Buk Hạ, Nước Trong, Định Bình, Sông Ray. Kết quả về kinh tế là mặc dù chịu nhiều thiên tai trong những năm vừa qua, giá trị sản xuất ngành, nông, lâm nghiệp và thủy sản luôn đạt ở mức cao, bình quân năm năm tăng 4,7%, vượt mục tiêu đề ra là 4,5%. Đầu tư vào lĩnh vực xã hội: tỷ lệ chi đầu tư trong giai đoạn 2006-2010 đạt khoảng 325,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 39,4% tổng vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách Nhà nước và trái phiểu Chính phủ, trong đó tập trung chủ yểu vào một số lĩnh vực sau: Giáo dục - đào tạo: tổng chi đầu tư cho ngành giáo dục và đào tạo giai đoạn 2006-2010 đạt khoảng 121,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 14,7% tổng vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách Nhà nước và trái phiểu Chính phủ. Huy động nhiều nguồn lực thuộc các thành phần kinh tế tham gia, tăng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách cho lĩnh vực giáo dục. Tập trung đầu tư các dự án lớn trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cho các trường đại học trọng điểm. Tăng đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc, đồng bằng sông Cửu Long. Khoa học và công nghệ: đã tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho các cơ sở khoa học và công nghệ, hạ tầng kỹ thuật về công nghệ thông tin và khu công nghệ cao. Học viên: Trương Thị Hương Giang Lớp CH18 K11