Khóa luận Vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_vai_tro_trach_nhiem_cua_xa_hoi_trong_phong_chong_t.pdf
Nội dung text: Khóa luận Vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM MINH HẢI VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA XÃ HỘI TRONG PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-L HÀ NỘI – 2019
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM MINH HẢI VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA XÃ HỘI TRONG PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-L NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS, TS VŨ CÔNG GIAO HÀ NỘI – 2019
- LỜI CAM ĐOAN “Tôi xin cam đoan đây này là nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong báo cáo có nguồn dẫn rõ ràng, các kết quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi”. Tác giả Phạm Minh Hải
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới PGS,TS Vũ Công Giao, người hướng dẫn khoán luận tốt nghiệp của tôi. Sự hướng dẫn, góp ý tận tình và những câu hỏi hóc búa của thầy đã giúp tôi định hướng, quyết tâm và hoàn thành bản khoá luận tốt nghiệp. Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo bộ môn hành chính – hiến pháp đã giúp tôi lĩnh hội những kiến thức cơ bản về lĩnh vực quan trọng này. Xin trân trọng cảm ơn Khoa Luật - Đại học Quốc gia, ngôi trường đã đào tạo cử nhân luật học giúp tôi có những kiến thức, ấp ủ hoài bão với nghề nghiệp tương lai. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 5/2019 Phạm Minh Hải
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ VAI TRÒ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI TRONG PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 6 1.1 Nhận thức chung về phòng, chống tham nhũng 6 1.1.1. Khái niệm tham nhũng 6 1.1.1 Khái niệm phòng chống tham nhũng 7 1.2 Sự tham gia của các chủ thể trong việc phòng chống tham nhũng ở Việt Nam 9 1.2.1 Cơ sở xã hội 9 1.2.2 Cở pháp lý 12 Tiểu kết chương 1 28 CHƯƠNG 2. ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM 29 2.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước 29 2.1.1 Tổng quan 29 2.1.2 Thực tiễn 30 2.2 Khung pháp luật cơ bản 35 2.2.1 Tổng quan 35 2.2.2 Cơ sở pháp lý 37 Tiểu kết chương 2 61 CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM 62 3.1 Hoạt động Ban chỉ đạo tw về phòng chống tham nhũng từ 2013 – 2018 62 3.1.1. Thuận lợi 63
- 3.1.2. Thách thức 67 3.2 Thúc đẩy “Xã hội” nhân tố quan trọng trong phòng, chống tham nhũng tại Việt Nam 69 3.2.1 Thành công 69 3.2.2 Hạn chế, bất cập 77 3.2.3 Đề xuất 79 Tiểu kết chương 3 82 KẾT LUẬN 84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TỪ VIẾT TẮT TỪ ĐẦY ĐỦ PCTN Phòng, chống tham nhũng MTTQVN Mặt trận Tổ quốc Việt nam MTTQ Mặt trận Tổ quốc TTND Thanh tra nhân dân GSĐTCCĐ Giám sát đầu tư của cộng đồng UBND Uỷ Ban nhân dân TW Trung ương
- MỞ ĐẦU I. Tính cấp thiết của đề tài Tham nhũng đã bóp méo đi sự thật phá hoại liêm chính hoặc thông qua công cụ là vật chất, lợi ích ban tặng để tác động tinh thần, tới các mối quan hệ để làm lợi, làm giàu bất chính hoặc bất hợp pháp cho bản thân, cho những người thân cận hoặc để tạo cơ hội cho những kẻ khác làm những hành vi sai phạm. Tham nhũng có thể diễn ra ở khu vực công và khu vực tư do các quan hệ lợi ích của các chủ thể có quyền lực tạo ra. Do tính chất phổ biến và có xu hướng phát triển của nó, đấu tranh phòng chống tham nhũng từ lâu đã là mỗi quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia trên thế giới và trong đó có Việt Nam. Việt Nam với tâm thế quan điểm rõ ràng “Phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, nhấn mạnh trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đề cao vai trò của xã hội, các tổ chức đoàn thể và quần chúng nhân dân”. Thực tiễn đã cho thấy Việt Nam đã có một cơ sở pháp lý tốt để tạo nên các chủ thể đại diện cho xã hội tham gia PCTN. Theo Chương V, Luật phòng, chống tham nhũng 2005, các chủ thể xã hội trong phòng, chống tham nhũng bao gồm: Mặt trận tổ quốc Việt Nam; Báo chí và truyền thông; Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng; Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề; Người dân. Đây là những chủ thể xã hội quan trọng được pháp luật trao quyền để thực hiện PCTN, nhờ sự trao quyền đó các chủ thể này đã tạo nên một thế “ Vững mạnh” trên mặt trận phòng chống tham nhũng góp phần quan trọng thực hiện “Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng”. Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, tôi quyết định chọn đề tài “Vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” 1
- để làm đề tài Khoá luận tốt nghiệp cử nhân ngành Luật học với mong muốn nghiên cứu, tìm hiểu rõ hơn nữa về pháp luật phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam; cũng như làm rõ vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay; để có những đánh giá, kết quả khách quan về công tác phòng chống tham nhũng của các chủ thể xã hội, từ đó chỉ ra những hạn chế và có đề xuất phù hợp trong bối cảnh pháp luật của nước ta hiện nay. II. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, tài liệu khoa học, các bài viết có đề cập các vấn đề liên quan đến nội dung này một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như: -Về sách và giáo trình: Chu Hồng Thanh, Vũ Công Giao, Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, đồng chủ biên (2013), Giáo trình lý luận và pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội; Vũ Công Giao, Nguyễn Quốc Văn (2017), Phát huy vai trò của xã hội trong phòng chống tham nhũng (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Hồng Đức; TS Trần Hậu Thành, TS Nguyễn Thế Huấn (2006), Tìm hiểu Luật phòng, chống tham nhũng và một số quy định của Bộ Luật Hình Sự hiện hành về xử lý tội tham nhũng (dưới dạng hỏi và đáp), Nhà xuất bản lý luận chính trị; -Về các đề tài, công trình nghiên cứu khoá học: Phan Thị Hiền (2008), Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Nguyễn Thị Kim Ngân (2013), Phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Bùi Quang Huy (2008), Tham nhũng và vấn đề phòng, chống tham nhũng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 2
- -Về các bài viết đăng trên: Tạp chí Nội Chính, Nghiên cứu lập pháp, Báo nhân dân, Báo lao động Những nghiên cứu trên đã củng cố kiến thức, cung cấp một lượng thông tin lớn về cả lý luận và thực tiễn về “Vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”. Đó là cơ sở quan trọng để giúp chúng ta nhìn nhận kết quả phòng chống tham nhũng trong thời gian gần đây, để từ đó đưa ra một số giải pháp về nâng cao vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng tại Việt Nam. III. Mục đích nghiên cứu đề tài Khoá luận này sẽ đề cập đến khía cạnh pháp lý cho việc thúc đẩy vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam. Với mục đích đem lại nét tổng quan của pháp luật Viêt Nam về phòng, chống tham nhũng. Đồng thời đưa ra tổng kết và một vài giải pháp cụ thể, trong việc bảo đảm và nâng cao chất lượng thực hiện quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể xã hội. Giúp thúc đẩy tinh thần phòng, chống tham nhũng ở mỗi cá nhân và nhấn mạnh nêu cao trách nhiệm của các chủ thể xã hội trong công cuộc phòng, chống tham nhũng đầy gian nan hiện nay. IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Khoá luận: Những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò, trách nhiệm xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, những chỉ đạo đường lối, chính sách của Đảng về công tác phòng, chống tham nhũng, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể xã hội trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam được thể hiện trong pháp luật của nhà nước. Phân tích thực trạng, đánh giá tình hình tham gia của xã hội trong việc phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam, những ưu điểm, bất cập còn tồn tại, đề xuất giải pháp. Phạm vi nghiên cứu: Khoá luận tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản: 3
- 1.Đưa ra tầm quan trọng, sự cần thiết của các chủ thể xã hội trong phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay. 2.Phân tích cơ sở, điều kiện pháp lý bảo đảm quyền, nghĩa vụ cho các chủ thể xã hội trong việc phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. 3.Đánh giá thực tiễn công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam, trong thời gian gần đây. Từ đó đưa ra ưu điểm, hạn chế, đề xuất một số giải pháp nhằm đảm bảo và nâng cao vai trò xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay. V. Phương pháp nghiên cứu Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, tác giả sử dụng chủ yếu các biện pháp nghiên cứu bao gồm: - Tổng hợp – đánh giá. - So sánh – đánh giá. - Phân tích – đánh giá. VI. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Khoá luận là công trình khoa học tốt nghiệp ở cấp độ Cử nhân đề cập đến vấn đề “Vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”. Cung cấp những kiến thức, thông tin, luận điểm, kết quả và đề xuất có giá trị tham khảo với các cơ quan nhà nước trong việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật phòng, chống tham nhũng nói riêng để tiếp tục phòng, chống tham nhũng có hiệu quả hơn nữa trong những thời gian tiếp theo. VII. Cơ cấu của Khoá luận tốt nghiệp Khoá luận này ngoài phần mở đầu, được chia thành 3 chương với nội dung cơ bản như sau: - Chương 1. Khái quát về vai trò trách nhiệm xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay. 4
- 1.1 Nhận thức chung về phòng, chống tham nhũng 1.2 Sự tham gia của các chủ thể trong việc phòng chống tham nhũng ở Việt Nam - Chương 2. Đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước trong việc phòng chống tham nhũng ở Viêt Nam. 2.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước 2.2 Khung pháp luật cơ bản - Chương 3. Đánh giá thực tiễn công tác phòng chống tham nhũng ở Việt Nam. 3.1 Hoạt động Ban chỉ đạo tw về phòng chống tham nhũng từ 2013 - 2018 3.2 Thúc đẩy “Xã hội” nhân tố quan trọng trong phòng, chống tham nhũng tại Việt Nam 5
- CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ VAI TRÒ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI TRONG PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1 Nhận thức chung về phòng, chống tham nhũng 1.1.1. Khái niệm tham nhũng Tham nhũng vấn nạn hiện hữu của nhiều quốc gia trên thế giới, ở mỗi quốc gia đều có biểu hiện riêng biệt theo nghĩa hẹp: Nước Đức tham nhũng là hiện tượng mất phẩm chất, hối lộ, đút lót, thường xảy ra đối với công chức có quyền hành; Nước áo tham nhũng là hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột; Thụy Sỹ tham nhũng là hậu quả nghiêm trọng của sự vô tổ chức của tầng lớp có trách nhiệm trong bộ máy Nhà nước, đó là hành vi phạm pháp để phục vụ lợi ích cá nhân (Từ điển Bách Khoa của Thụy Sỹ). Nước Pháp tham nhũng bao gồm những hành vi lạm dụng quyền hạn để thu vén lợi ích vật chất (Từ điển bách khoa) 1 . Còn ở Việt Nam nhìn nhận ở nghĩa hẹp và khái niệm được pháp luật quy định (tại Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi và bổ sung một số điều vào các năm 2007 và 2012): “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” (Khoản 2, Điều 1). Theo Luật người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị; nói cách khác là ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước. Được thể hiện bao gồm các quy định ở ( Khoản 2, Khoản 3, Điều 1): a) Cán bộ, công chức, viên chức; b) Sĩ quan quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn – kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị 1 , truy cập 11/3/2019 6
- thuộc Công an nhân dân; c) Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước tại doanh nghiệp; d) Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó. Việc giới hạn như vậy nhằm tập trung đấu tranh chống những hành vi tham nhũng ở khu vực xảy ra phổ biến nhất, chống có trọng tâm, trọng điểm, thích hợp với việc áp dụng các biện pháp phòng, chống tham nhũng như: kê khai tài sản, công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu. Từ đó bao quát theo nghĩa rộng, tham nhũng không phải là một khái niệm trừu tượng mà biểu hiện thông qua hành vi cụ thể mà theo pháp luật các quốc gia, theo xác định Công ước phòng, chống tham nhũng sẽ bị coi là biểu hiện tham nhũng. Tham nhũng là: bóp méo đi sự thật phá hoại liêm chính hoặc thông qua công cụ là vật chất, lợi ích ban tặng để tác động tinh thần, tới các mối quan hệ để làm lợi, làm giàu bất chính hoặc bất hợp pháp cho bản thân, cho những người thân cận hoặc để tạo cơ hội cho những kẻ khác làm những hành vi sai phạm. Tham nhũng có thể diễn ra ở khu vực công và khu vực tư do các quan hệ lợi ích của các chủ thể có quyền lực tạo ra. Khái niệm rộng này cho chúng ta thấy bản chất, biểu hiện dù tham nhũng có phân loại “Tham nhũng lớn hay tham nhũng nhỏ” thì nó luôn mang đậm bản chất phi nghĩa, phi pháp. Đó là những hành vi bị lên án được thể hiện ngay tại Luật ở các quốc gia và Công ước quốc tế. 1.1.1 Khái niệm phòng chống tham nhũng Tham nhũng là hiện tượng xã hội gắn liền với sự ra đời và tồn tại của nhà nước. Nó xảy ra ở các quốc gia không phân biệt kinh tế giữa các vùng lãnh thổ, không phân biệt chế độ chính trị, tôn giáo. Hành vi tham nhũng đang len lỏi hàng ngày, hàng giờ thể hiện ở tất cả các lĩnh vực công việc và cuộc sống của con người trên khắp hành tinh để pháp vỡ trật tự công bằng trong xã 7
- hội. Sự mất kiểm soát, buông lỏng để cho hành vi tham nhũng “ hoá phép” là vô cùng nghiêm trọng, vì vậy phòng chống tham nhũng là quốc sách hàng đầu của tất cả các quốc gia. Để xây dựng, bảo vệ pháp quyền và phát triển sự công bằng lợi ích trong xã hội giữa các chủ thể. “Tham nhũng là hậu quả của sự thiếu hụt ba yếu tốt gồm trách nhiệm giải trình, sự liêm chính và tính minh bạch trong bối cảnh tồn tại sự chuyên quyền độc đoán và tuỳ ý hành động do thiếu sự kiểm soát của các cơ quan và công chức nhà nước”2. Do tính chất phổ biến và có xu hướng phát triển của nó, đấu tranh phòng chống tham nhũng từ lâu đã là mỗi quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia trên thế giới và trong đó có Việt Nam. Việt Nam với tâm thế quan điểm rõ ràng “Phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, nhấn mạnh trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đề cao vai trò của xã hội, các tổ chức đoàn thể và quần chúng nhân dân”3. Chính vì vậy, “PCTN được hiểu là tổng thể các biện pháp của các cơ quan có thẩm quyền tham gia vào quá trình phòng ngừa ngăn chặn, đấu tranh đẩy lùi và xoá bỏ các chủ thể được cho là có các hành vi tham nhũng”. Vấn đề phòng chống tham nhũng của Việt Nam được thể hiện thông qua hợp tác quốc tế và thực thi cụ thể hoá pháp luật ở trong quốc gia. Ở trong nước không thể không nhắc đến những chỉ đạo trực tiếp trong chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các giai đoạn và trong Hiến pháp. Từ đó được luật hoá đi sâu vào thực tiễn của đời sống với nhiều văn bản pháp luật như: Luật phòng, chống tham nhũng 2005 (sửa đổi bổ sung các năm 2007 và 2012), Luật phòng chống tham nhũng 2018 sắp có hiệu lực T7/2018), 2 UNDP ( 2004), Anti-corruption- Practice Note, tlđd, tr.2. 3 Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12 tháng 05 năm 2009 của Chính Phủ, Ban hành chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 8
- Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí 2013, Bộ luật hình sự 2015 ( sửa đổi bổ dung năm 2017) vv. Các chủ thể đại diện tham gia phòng, chống tham nhũng được pháp luật trao quyền và được pháp luật bảo vệ. Từ đó thông qua hoạt động tiến hành các biện pháp để ngăn chặn và đấu tranh mầm mống phát sinh tham nhũng, các hành vi của người có chức vụ, quyền hạn nhằm chiếm đoạt bất hợp pháp lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác cho mình hoặc người thân cận. 1.2 Sự tham gia của các chủ thể trong việc phòng chống tham nhũng ở Việt Nam 1.2.1 Cơ sở xã hội Là một căn bệnh xuất phát từ lợi ích và gắn liền với quyền lực công, tham nhũng xuất hiện từ rất sớm trong xã hội loài người. Nó đặc biệt trở thành vấn nạn khi các nhà nước ra đời; Lịch sử Việt Nam cho thấy không phải đợi đến thời kỳ hiện đại, tham nhũng xuất hiện ngay trong các nhà nước chủ nô và phong kiến4. Cho dù còn bị hạn chế nhiều tư tưởng phong kiến song nhìn chung các triều đại đã có cách thức để phòng ngừa tham nhũng. Từ lịch sử nhìn ra chúng ta càng khẳng định thêm vai trò của xã hội trong phòng chống tham nhũng qua các giai đoạn lịch sử. Lịch sử còn cho thấy các triều đại phong kiến Việt Nam cũng đã có những biện pháp quan trọng để phòng ngừa tham nhũng. Pháp luật phong kiến Việt Nam xưa cũng quy định khá đầy đủ về xây dựng bộ máy phong kiến tập quyền, không thể bỏ qua bộ luật tiêu biểu là luật Hồng Đức đã có nhiều cải cách mạnh mẽ như giám sát lẫn nhau giữa các quan lại. Bộ luật Hồng Đức còn phân công mỗi bộ phận phụ trách một việc, các bộ phải chịu giám sát của các khoa, công việc của các Đạo do các hiến ty giám 4 Chu Hồng Thanh, Vũ Công Giao, Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, đồng chủ biên (2013), Giáo trình lý luận và pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, trang 108. 9
- sát, các quan lại chịu sự giám sát lẫn nhau, quan trên giám sát quan dưới5. Dưới thời đó họ còn phát huy vai trò xã hội, trong đó có nhân dân, đặc biệt coi trọng vai trò của nhân dân trong việc tố cáo hành vi tham nhũng. Các triều đại còn tạo ra cơ chế khuyến khích và bảo vệ người tố giác hành vi tham nhũng, như tố giác việc biển thủ tiền thuế sẽ được miễn lao dịch 3 năm, rồi trọng thưởng biểu dương. Còn ở Việt Nam hiện nay, khái niệm “xã hội” được hiểu theo rất nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa đơn giản nhất đó là một tập thể hay một nhóm người được phân biệt với các nhóm người khác bằng các lợi ích, mối quan hệ đặc trưng, chia sẻ cùng một thể chế và có cùng văn hoá. Chủ nghĩa Mác – Lênin nhìn nhận xã hội không phải là tập hợp giản đơn các cá nhân, mà là biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân đối với nhau6. Theo nghĩa rộng, “xã hội” là toàn bộ các hình thức hoạt động chung của con người đã hình thành trong lịch sử. “xã hội” thường được dùng để chỉ một tập đoàn người được hiểu như một hiện thực của các thành viên của nó, hoặc là chỉ một môi trường của con người mà cá nhân được hoà nhập vào, môi trường đó được xem như là toàn bộ các lực lượng có tổ chức và có hệ thống tôn ti trật tự tác động lên cá nhân7. Các lý thuyết về sự kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía xã hội đã và đang ảnh hưởng tích cực đến nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Theo đó, trong PCTN, sự giám sát từ phía xã hội có vai trò hạn chế tối đa sự lạm dụng quyền lực nhà nước vì mục đích cá nhân. Theo triết lý Phật giáo về bản ngã nhân sinh thì con người có bản tính tham, sân, si. Một trong những biểu hiện 5 Chương v, Giáo trình lý luận và pháp luật phòng, chống tham nhũng, trang 109. 6 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hn, 1998, Tr.46, ph.I,tr.355. 7 Từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb. Từ điển bách khoa, Hn, 2005, Tập 4, Tr.965. 10
- của nó là tham lam, đam mê quyền lực. Điều này dẫn đến khó kiểm soát, gây nên tổn thất cho người khác và cho xã hội8. Từ những nhận định trên ta thấy việc tổ chức vận hành bộ máy quyền lực quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phượng nếu không có “Kiếm soát quyền lực” thì sẽ bị thao túng. Vì vậy kiểm soát quyền lực nhà nước là một việc làm luôn được đặt song song, gắn với nó là xây dựng xã hội dân chủ. Khi nhà nước vận hành mọi hoạt động của nhà nước đều phải công khai và nằm trong tầm kiểm soát của xã hội, mọi lạm quyền, tuỳ tiện của những người thực thi công vụ sẽ ít có cơ hội diễn ra và do đó, tham nhũng khó nảy sinh. Từ góc độ này cho thấy rằng tất cả các quốc gia trong đó có việt nam, sự giám sát nhà nước từ phái xã hội là đương nhiên, tất yếu, xuất phát từ chính nguồn gốc tạo lập cho sự ra đời và hoàn thiện của nhà nước. Từ lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Người đã nhấn mạnh “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Từ những tư tưởng về một xã hội bình đẳng đã tạo ra sự nghiệp“Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” kế thừa của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh để phát triển qua từng năm tháng. Tới nay tư tưởng nhà nước pháp quyền trong hiện đại ngày nay được ghi nhận ở Điều 2 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Qua đó, chúng ta càng khẳng định vai trò xã hội trong đấu tranh và PCTN theo dòng lịch sử. PCTN không chỉ xuất phát từ lý 8 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực Nhà nước, Nxb. Đại học Quốc Gia HN, Hà Nội 11
- thuyết kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía xã hội mà còn xuất phát từ bản chất của Nhà nước Việt Nam theo ghi nhận của Hiến pháp “Là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”9. PTCN là nhiệm vụ của toàn xã hội, khoản 2, Điều 8 Hiến pháp 2013 quy định “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tuỵ phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch cửa quyền”. Có một cơ sở xã hội khá toàn diện với các chủ thể từ Trung ương tới địa phương. Các chủ thể này đại diện cho quyền, lợi ích chính đáng của nhân dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong PTCN. 1.2.2 Cở pháp lý Thực tiễn đã cho thấy Việt Nam đã có một cơ sở pháp lý tốt để tạo nên các chủ thể đại diện cho xã hội tham gia PCTN. Theo Chương V, Luật phòng, chống tham nhũng 2005, các chủ thể xã hội trong phòng, chống tham nhũng bao gồm: Mặt trận tổ quốc Việt Nam; Báo chí và truyền thông; Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng; Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề; Người dân. Đây là những chủ thể xã hội quan trọng được pháp luật trao quyền để thực hiện PCTN, nhờ sự trao quyền đó các chủ thể này đã tạo nên một thế “Vững mạnh” trên mặt trận phòng chống tham nhũng góp phần quan trọng thực hiện “Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng”. * Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm vận động nhân dân tích cực tham gia thực hiện Luật PCTN là tham gia vào cuộc đấu tranh đầy cam 9 Vũ Công Giao, Nguyễn Quốc Văn (2017), Phát huy vai trò của xã hội trong phòng chống tham nhũng (sách chuyên khảo), Nxb Hồng Đức, Hà Nội, trang 16 12
- go, phức tạp và gian khổ; đòi hỏi phải có quyết tâm cao, bản lĩnh vững vàng, có giải pháp phù hợp, thực hiện kiên trì bền bỉ và lâu dài” (theo Hội nghị lần thứ 3, Uỷ ban TW MTTQVN tham gia thực hiện Luật PTCN và Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí). Với việc ban hành Luật MTTQVN 2015 với căn cứ theo Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với 8 chương và 41 điều đã củng cố và thể hiện rõ chức năng nhiệm vụ của MTTQVN. Điều 23, Luật MTTQVN 2015 nêu rõ sự tham gia phòng, chống tham nhũng, lãng phí 1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia phòng, chống tham nhũng, lãng phí với các nội dung sau đây: a) Tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; b) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp phòng ngừa tham nhũng, lãng phí; xác minh vụ việc tham nhũng, lãng phí; xử lý người có hành vi tham nhũng, lãng phí; c) Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ, khen thưởng đối với người có công phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng, lãng phí. 2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải xem xét, trả lời yêu cầu, kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo quy định của pháp luật. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, với 44 tổ chức thành viên của Mặt trận và 7 Hội đồng tư vấn đã phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan chính quyền nhà nước để tăng cường đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao đạo đức trong xã hội, trách nhiệm công vụ với những người làm công tác nhà nước, nhất là giáo dục đông đảo thanh thiếu niên, đoàn viên, đảng viên để học tập tư tưởng Hồ Chí Minh và tuyên truyền phát huy các tầng lớp nhân dân về Luật PCTN, tạo nên một thế trân mạnh mẽ trong xã hội, để kiên quyết đấu 13
- tranh đẩy lùi tư tưởng xấu và lên án phòng, chống hành vi tham nhũng trong xã hội. Nhân dân tham gia MTTQVN thông qua các tổ chức thành viên; thông qua tổ chức thành viên có thể tham gia ý kiến, phản ánh, kiến nghị MTTQVN để phản ánh và kiến nghị với Đảng, Nhà nước. Với mạng lưới tổ chức MTTQVN ở TW, ở địa phương (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã), đã góp phần thực hiện giám sát và phản biện xã hội, thực hiện tốt công tác giám sát PCTN ở các cấp trên địa bàn. Từ đó động viên “phong trào” thúc đẩy các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ; phát hiện tố cáo những hành vi tham nhũng, có biện pháp bảo vệ và hình thức khen thưởng xứng đáng đối với những người đã có hành động dũng cảm phát hiện và tố giác tham nhũng. Uỷ ban MTTQ các cấp, các thành viên tuân thủ khuân khổ Hiến pháp, pháp luật, phối hợp, hành động hiệu quả và phải nghiêm chỉnh thực hiện kiểm điểm, kiểm tra công việc nội bộ, trong đó có hoạt động các ban, đơn vị kinh tế, các quỹ, các chương trình dự án do Uỷ ban MTTQ các cấp, các tổ chức thành viên quản lý và công tác tài sản, tài chính các cơ quan. Không được để xảy ra tham nhũng trong nội bộ, tổ chức MTTQ và các thành viên của Mặt trận. Người đứng đầu MTTQ hoặc tổ chức Mặt trận phải có trách nhiệm nếu để xảy ra vi phạm tham nhũng nơi mình quản lý điều hành. Độc lập hoặc phối hợp có hiệu quả với các cơ quan Đảng, Nhà nước; thúc đẩy minh bạch “Phát huy dân chủ, sáng tạo”. Trong thời gian vừa qua Trung ương MTTQ đã phối hợp hiệu quả với Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN đã ban hành văn bản và tuyên truyền, giáo dục nhân dân và các tổ chức thành viên MTTQ khắp mọi nơi. Hành động hiệu quả với Chính phủ, điển hình như: (Thông qua Chương trình hành động Quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010. Chương trình đã cụ thể 4 đề án 14
- (i) Đưa thông tin pháp luật đến cán bộ, nhân dân thông qua phương tiện thông tin đại chúng và các thiết chế văn hoá thông tin ở xã, phường, thị trấn; (ii) Xây dựng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động chấp hành pháp luật trong cộng đồng dân cư; (iii) Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại tố cáo ở xã, phường, thị trấn; (iv) Phát huy vai trò của cơ quan và cán bộ tư pháp trong phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn). MTTQ đã thực hiện giám sát, phát hiện, tố cáo tham nhũng và phản biện xã hội. MTTQ thực hiện qua 03 hình thức nền tảng: - Thực hiện giám sát thông qua việc giải quyết đơn thư kiếu nại, tố cáo của công dân, công khai độc lập không lệ thuộc về nhân sự và thủ tục vào các cơ quan Nhà nước. - Động viên, hướng dẫn nhân dân thực hiện quyền giám sát, qua đó, tổng hợp phản ánh, kiến nghị của nhân dân và có ý kiến chính thức với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. - Tham gia một số hoạt động của cơ quan nhà nước để qua đó giám sát hoạt động của cơ quan này. * Báo chí và truyền thông Việt Nam Báo chí là sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng thông qua các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử (khoản 1, Điều 3 Luật Báo chí 2016). Báo chí là người bạn đồng hành cùng xã hội mọi lúc mọi nơi trong mọi vấn đề, báo chí cơ quan ngôn luận và phản biện cho toàn xã hội thúc đẩy nỗ lực vào công cuộc thay đổi cuộc sống. Cùng với đó truyền thông sẽ làm lan toả hoạt động chia sẻ, truyền đạt thông tin thông qua trao đổi ý tưởng, cảm xúc, ý định thái độ thông qua các phương tiện khác như thông qua điện tử, cử chỉ 15
- ngôn ngữ và hành vi; truyền thông giúp lan tỏa thông tin một cách nhanh tróng, thuận lợi mà không bị trở ngại về địa lý. Báo chí và truyền thông Việt Nam trong thời gian vừa qua đã phát triển mạnh mẽ và song hành cùng toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị trong công tác phòng chống tham nhũng. Thông qua báo cáo đánh giá công tác báo chí năm 2018; tính đến tháng 11/2018, cả nước có khoảng 19.000 nhà báo được cấp Thẻ Nhà báo; số lượng Hội viên Hội Nhà báo là 23.893. Cả nước hiện có 844 cơ quan báo chí in với 184 báo in, 660 tạp chí và 24 cơ quan báo chí điện tử độc lập10. Nhờ sự chuyển biến đó mà nhiều vụ án tham nhũng đã bị phát hiện và đưa ra xét xử công khai, thu hút sự chú ý của đông đảo dư luận xã hội. Theo chiến lược Quốc gia về PCTN đến năm 2020 đã chỉ rõ một trong những phương pháp nhầm nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của toàn xã hội trong PCTN là: Đẩy mạnh và đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cho nhân dân về biểu hiện, tác hại của tham nhũng; phát huy vai trò của báo chí trong công tác PCTN; bảo đảm việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác về các vụ việc tham nhũng cho các cơ quan báo chí11. Luật PCTN đã cụ thể hoá quy định về vai trò trách nhiệm của báo chí trong công tác PCTN tại Điều 75 Luật PCTN 2018: (i) Cơ quan báo chí, nhà báo có trách nhiệm đấu tranh chống tham nhũng, đưa tin về hoạt động phòng, chống tham nhũng và vụ việc tham nhũng; (ii) Cơ quan báo chí, nhà báo có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền cung cấp thông tin liên quan đến hành vi tham nhũng; (iii) Cơ quan, tổ chức, đơn 10 (2018) Hội nghị Báo chí toàn quốc tổng kết công tác năm 2018, triển khai nhiệm vụ năm 2019 nhiem-vu-nam-2019-281918.html, truy cập 18/3/2019 11 Vũ Công Giao, Nguyễn Quốc Văn (2017), Phát huy vai trò của xã hội trong phòng chống tham nhũng (sách chuyên khảo), Nxb Hồng Đức, Hà Nội, trang 101 16
- vị, cá nhân được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật về báo chí và quy định khác của pháp luật có liên quan; (iv) Cơ quan báo chí, nhà báo có trách nhiệm phản ánh khách quan, trung thực và chấp hành các quy định khác của pháp luật về báo chí, quy tắc đạo đức nghề nghiệp khi đưa tin về hoạt động phòng, chống tham nhũng và vụ việc tham nhũng. Nghị định số 47/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật PCTN về vai trò, trách nhiệm của Xã hội trong PCTN đã quy định cụ thể tại chương 3, trách nhiệm của báo chí: Một là, Tuyên truyền, động viên nhân dân tham gia phòng, chống tham nhũng; Cơ quan báo chí, nhà báo thông qua hoạt động nghề nghiệp của mình có trách nhiệm: (i) Tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng; tuyên truyền về công tác phòng, chống tham nhũng của các cơ quan, tổ chức. (ii) Phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội, động viên nhân dân tích cực tham gia đấu tranh chống tham những. (iii) Biểu dương tinh thần và những việc làm tích cực của tập thể, cá nhân trong công tác phòng, chống tham nhũng; bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng. (iv) Lên án, đấu tranh với người có hành vi tham nhũng. Hai là, Việc thu thập, cung cấp thông tin về vụ việc có dấu hiệu tham nhũng: (i) Khi nhận được kiến nghị, phản ánh, tin, bài của công dân về vụ việc có dấu hiệu tham nhũng hoặc thông qua hoạt động nghề nghiệp của mình phát hiện vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, cơ quan báo chí, nhà báo có quyền: Thu thập thông tin, tài liệu theo quy định của pháp luật để làm rõ về vụ việc có 17
- dấu hiệu tham nhũng; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến vụ việc có dấu hiệu tham nhũng theo quy định của pháp luật. (ii) Khi nhận được yêu cầu của cơ quan báo chí, nhà báo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu cho cơ quan báo chí, nhà báo, giúp cho báo chí thông tin chính xác, kịp thời. Việc yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan báo chí, nhà báo về vụ việc tham nhũng và trách nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền được thực hiện theo quy định tại Điều31 Luật Phòng, chống tham nhũng và Nghị định số 120/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 20 tháng 10 năm 2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng và các quy định khác của pháp luật. Ba là, Việc đưa tin của cơ quan báo chí, nhà báo về phòng, chống tham nhũng: (i) Cơ quan báo chí, nhà báo có quyền đưa tin phản ánh về vụ việc tham nhũng và hoạt động phòng, chống tham nhũng. Khi đưa tin về vụ việc tham nhũng, người có hành vi tham nhũng, cơ quan báo chí, nhà báo phải đưa tin trung thực, khách quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc đưa tin đó. Cơ quan báo chí phát hiện hoặc nhận dược tố cáo của công dân về vụ việc có dấu hiệu tham nhũng thì phải báo ngay cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát nhân dân bằng văn bản. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm thụ lý và trả lời cho báo chí cách giải quyết. Cơ quan báo chí có quyền đưa tin về vụ việc có dấu hiệu tham những từ các thông tin, tài liệu mà mình có được và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực của thông tin được đăng tải trên báo chí. Trường hợp có căn cứ cho rằng kiến nghị, phản ánh, tin, bài, tố cáo của công dân về vụ việc tham nhũng không có 18
- cơ sở thì cơ quan báo chí thông báo cho công dân về việc không đưa tin và nêu rõ lý do. (ii). Tổng biên tập, nhà báo chịu trách nhiệm về việc đưa tin và chấp hành pháp luật về báo chí, đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động báo chí. (iii). Cơ quan báo chí, nhà báo không được đưa tin về những vụ việc không có căn cứ rõ ràng; đưa tin sai sự thật; phương hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích của tổ chức, cá nhân, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của công dân; không được tiết lộ bí mật nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại và các thông tin khác theo quy định của pháp luật. (iv). Cơ quan báo chí, nhà báo có quyền và nghĩa vụ từ chối tiết lộ họ tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo, người cung cấp thông tin về vụ việc tham những, về người có hành vi tham nhũng nếu có hại cho người đó, trừ trường hợp có yêu cầu của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân hoặc Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc tương đương trở lên để phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử. (v). Khi đưa tin trên báo chí về vụ việc có dấu hiệu tham những, cơ quan báo chí, nhà báo đưa tin sai sự thật phải cải chính, xin lỗi theo quy định của pháp luật về báo chí. Nếu lợi dụng quyền thông tin báo chí để xuyên tạc, vu khống thì tuỳ theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật. Trong đó trách nhiệm của Hội Nhà báo Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hội Nhà báo các cấp có trách nhiệm: (i) Tuyên truyền, động viên cơ quan báo chí, nhà báo là hội viên của mình tham gia phòng, chống tham nhũng. 19
- (ii) Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định của pháp luật để hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý nhằm phòng, chống tham nhũng. (iii) Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan báo chí, nhà báo là hội viên của mình bị đe doạ trả thù, trù dập khi đưa tin về phòng, chống tham nhũng; (iv) Phối hợp với Bộ Văn hoá - Thông tin xây đựng quy định về đạo đức, quy tắc nghề nghiệp của nhà báo. (v) Trong quá trình tác nghiệp, khi có căn cứ cho rằng việc thông tin về vụ việc tham nhũng có thể dẫn đến nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của mình, nhà báo có quyền đề nghị cơ quan báo chí và cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ mình. (vi) Khi nhận được đề nghị được bảo vệ của nhà báo, cơ quan báo chí có trách nhiệm áp dụng ngay các biện pháp cần thiết theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết bảo vệ nhà báo đó. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm áp dụng ngay các biện pháp cần thiết để bảo vệ cơ quan báo chí, nhà báo. * Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng là những cánh tay nối dài giám sát tại xã, phường, thị trấn, trong cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp của nhà nước trong pham vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát thiệc thực hiện các quy định pháp luật về PCTN. Theo Thông tư hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng tại xã, phường, thị trấn, năm 2017: Ban thanh tra nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau: (i) Giám sát cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn trong việc thực hiện chính sách, pháp luật; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp 20
- luật, thì kiến nghị người có thẩm quyền xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật và giám sát việc thực hiện kiến nghị đó; (ii) xác minh những vụ việc do Chủ tịch UBND cấp xã giao; (iii) tham gia việc thanh tra, kiểm tra tại xã, phường, thị trấn theo đề nghị của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; cung cấp thông tin, tài liệu, cử người tham gia khi được yêu cầu; (iv) kiến nghị Chủ tịch UBND cấp xã xử lý vi phạm theo thẩm quyền và khắc phục sơ hở, thiếu sót được phát hiện qua hoạt động giám sát, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, đơn vị; (v) kiến nghị Chủ tịch UBND và Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã các hình thức động viên, biểu dương, khen thưởng tập thể, cá nhân phát hiện sai phạm và có thành tích trong công tác; (vi) tiếp nhận kiến nghị, phản ánh của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan đến phạm vi giám sát của Ban TTND;(vii) thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác do pháp luật quy định. Ban giám sát đầu tư của cộng đồng tại xã, phường, thị trấn có nhiệm vụ: (i) Trong quá trình giám sát, nếu Ban GSĐTCCĐ phát hiện thấy dấu hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện dự án gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, an ninh, văn hóa-xã hội, môi trường sinh sống của cộng đồng; không công khai thông tin về chương trình, dự án đầu tư theo quy định của pháp luật thì kiến nghị các cấp có thẩm quyền đình chỉ thực hiện đầu tư, vận hành dự án; (ii) phản ánh với các cơ quan quản lý nhà nước về kết quả giám sát và kiến nghị biện pháp xử lý. (Theo Nghị định số 47 – 2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng về vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng được nêu rõ): (i) Việc giám sát của Ban thanh tra nhân dân thông qua tiếp nhận các ý kiến phản ánh của nhân dân, cán bộ, người lao động về vụ việc có dấu hiệu tham nhũng; trực tiếp thu thập các thông tin, tài liệu trong việc thực hiện các quy định pháp luật về phòng, chống 21
- tham nhũng của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước; (ii) phát hiện hành vi tham nhũng, vụ việc tham nhũng của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước; (iii) trực tiếp hoặc thông qua Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn, Ban chấp hành công đoàn cơ sở kiến nghị với Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, Người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét, giải quyết vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, hành vi tham nhũng và giám sát việc giải quyết đó. Quyền hạn của Ban thanh tra nhân dân trong quá trình giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng: (i) Trong quá trình giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Ban Thanh tra nhân dân có quyền đề nghị Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, Người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước cung cấp các thông tin, tài liệu liên quan đến việc giám sát. (ii) Trường hợp phát hiện vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, người có hành vi tham nhũng thì Ban Thanh tra nhân dân kiến nghị Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, Người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, giải quyết. (iii) Trong thời hạn mười lăm (15) ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm xem xét, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết cho Ban Thanh tra nhân dân. Trường hợp kiến nghị không được xem xét, giải quyết hoặc thực hiện không đầy đủ thì Ban Thanh tra nhân dân có quyền kiến nghị Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh hoặc kiến nghị cấp trên trực tiếp của Người đứng đầu cơ quan nhà nước, 22
- đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khác xem xét, giải quyết. Các Ban công tác Mặt trận, Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng các tổ chức đoàn thể đã phối hợp hiệu quả. Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, pháp luật về khiếu nại, tố cáo, các ban thanh tra nhân dân qua giám sat đã phát hiện nhiều vụ việc tham nhũng, tiêu cực; đã đề xuất Đảng, chính quyền giải quyết kịp thời những bức xúc nảy sinh, xử lý sai phạm của cán bộ, đảng viên khi thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương12. * Người dân Người dân có vai trò quan trọng trong việc phát triển đất nước nói chung và PCTN nói riêng. Suy cho cùng theo Hiến pháp Việt Nam 2013 “Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân – Nhà nước bảo đảm và pháy huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Pháp luật tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích của người dân. Nhắc lại phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về công tác phòng chống tham nhũng (PCTN), là muốn thành công, hiệu quả cao, phải có sự tham gia tích cực của nhân dân; trong những năm vừa qua pháp luật nước ta đã có hướng thay đổi và hoàn thiện hơn nữa để thúc đẩy phát huy vai trò của người dân trong PCTN. Như cụ thể hoá lợi ích của nhân dân trong các Bộ luật, luật ; đặc biệt đó là Pháp lệnh khiếu nại tố cáo của công dân năm 1991; 12 Vũ Công Giao, Nguyễn Quốc Văn (2017), Phát huy vai trò của xã hội trong phòng chống tham nhũng (sách chuyên khảo), Nxb Hồng Đức, Hà Nội, trang 133 23
- Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 ( sửa đổi, bổ sung các năm 2004 và 2005) kế thừa là Luật tố cáo năm 2018 Trong những năm gần đây đặc biệt khi Quốc hội đã thông qua và thay đổi Luật tố cáo năm 2018, Luật tiếp công dân năm 2013, Luật phòng chống tham nhũng năm 2018 mới thay đổi và sắp có hiệu lực vào 1/7/2019. Có thể thấy rằng trong những thời gian qua pháp luật Việt Nam đã nâng cao vị thế vai trò của người dân, chủ thể quan trọng trong tố cáo và phát hiện hành vi tham nhũng, người dân sống và làm việc theo pháp luật trong cuộc sống hoạt động hàng ngày, vì vậy họ sẽ rất dễ để phát hiện và bắt gặp những hành vi lệch chuẩn của cán bộ, công chức viên chức nhà nước trong việc thực nhiệm nhiệm vụ. Chính vì vậy người dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân; người dân được bảo vệ và pháp luật nghiêm cấm trả thù người khiếu nại tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác. Ngoài những luật cơ sở trên các bộ ban ngành, cơ quan ngang bộ còn ban hành nhiều văn bản pháp luật khác để hướng dẫn thực hiện luật giúp người dân có thể tiếp cận một cách dễ dàng và những người thực thi công quyền nhà nước hiểu rõ hơn để làm đúng trách nhiệm của mình trước công dân và xử lý khiếu nại, tố cáo của công dân một cách thuận lợi và đúng nhất. Như ngày 31/10/2014, Thanh tra Chính phủ đã ban hành Thông tư 07/2014/TT-TTCP quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh; người gửi khiếu nại, tố cáo, khiến nghị tới các quan: hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang. Luật tiếp công dân năm 2013, nêu rõ quy định trách nhiệm tiếp công dân và nghĩa vũ của người đến khiếu nại, tố cáo, khiến nghị, phản ánh, quy định tổ chức hoạt động tiếp công dân tại Trự sở tiếp công dân, địa điểm tiếp 24
- công dân, tổ chức hoạt động tiếp công dân. Luật cũng nên rõ trách nhiệm tiếp công dân từ các cơ quan TW tới các cơ quan địa phương, cơ quan hành chính các cấp và cơ quan dân cử đại diện các cấp. Việc tiếp công dân tuân thủ Điều 3, nguyên tắc tiếp công dân: (i) việc tiếp công dân phải được tiến hành tại nơi tiếp công dân của cơ quan, tổ chức, đơn vị; (ii) việc tiếp công dân phải bảo đảm công khai, dân chủ, kịp thời; thủ tục đơn giản, thuận tiện; giữ bí mật và bảo đảm an toàn cho người tố cáo theo quy định của pháp luật; bảo đảm khách quan, bình đẳng, không phân biệt đối xử trong khi tiếp công dân; (iii) tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo quy định của pháp luật. Công dân có thể đề đạt, uỷ quyền thông qua các cơ quan đại diện dân cử như: MTTQ xã, phường, Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng. Điều 77, Luật phòng chống tham nhũng: Công dân tự mình hoặc thông qua Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng hoặc thông qua tổ chức mà mình là thành viên tham gia phòng, chống tham nhũng; Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Còn về bảo vệ người tố cáo, Luật tố cáo năm 2018 đã dành chương VI bảo vệ người tố cáo. Trong đó nghi nhận trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo vệ người tố cáo, nhằm đảm bảo và kêu gọi tinh thần tố cáo phát huy trong nhân dân và toàn xã hội. ( Điều 47. Người được bảo vệ, phạm vi bảo vệ); (i) bảo vệ người tố cáo là việc bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo; bảo vệ vị trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo, vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo (gọi chung là người được bảo vệ); (ii) người tố cáo được bảo vệ bí mật thông tin cá nhân, trừ trường hợp người tố cáo tự tiết lộ. Bên cạnh việc thúc đẩy tham gia PCTN thì người dân cũng cần phải nâng cao tinh thần để nhận biết đúng sai trước những biểu hiện hành vi tham 25
- nhũng, tránh tình trạng người dân bị kẻ xấu lợi dụng, dẫn tới “hoả mù đơn thư” bằng những thủ đoạn đơn, thư, tố cáo nặc danh không đủ bằng chứng dẫn tới thực hiện sai quyền và nghĩa vụ tố cáo của công dân và có thể dẫn tới hành vi, vi phạm pháp luật cho cá nhân mình. *Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp là nạn nhân của tệ tham nhũng, sách nhiễu từ những người có chức vụ, quyền hạn, nhưng không ít doanh nghiệp đã tìm cách móc nối với những kẻ thoái hoá, biến chất trong bộ máy nhà nước, tiếp tay cho hành vi tham nhũng để mưu lợi; điều đó ảnh hưởng đến những doanh nghiệp làm ăn đứng đắn, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, làm xấu đi môi trường kinh doanh và tạo xa sự bất bình đẳng trong xã hội; Chính vì vậy, tham gia PCTN là trách nhiệm tất yếu của doanh nghiệp và những người tham gia hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh13. Pháp luật nói chung và Pháp luật PCTN nói riêng đã quy định: Điều 87, doanh nghiệp có trách nhiệm thông báo về hành vi tham nhũng và phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc xác minh, kết luận về hành vi tham nhũng; trong bản thân mỗi doanh nghiệp cần có cơ chế kiểm soát nội bộ nhằm ngăn ngừa tham ô, đưa hối lộ; các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm tổ chức, động viên, khuyến khích hội viên cuả mình xây dựng văn hoá kinh doanh lành mạnh, phi tham nhũng và kiến nghị với nhà nước hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý nhằm PCTN. Từ Pháp luật PCTN đã cụ thể hoá các quy định của Luật PCTN, tại Nghị định 47/2007: 13 Chu Hồng Thanh, Vũ Công Giao, Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, đồng chủ biên (2013), Giáo trình lý luận và pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, trang 290 26
- (i) Doanh nghiệp có trách nhiệm tuyên truyền pháp luật về phòng, chống tham nhũng cho cán bộ, người lao động trong doanh nghiệp; vận động cán bộ, người lao động thực hiện các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng; tổ chức các hình thức động viên, giáo dục cán bộ, người lao động trong doanh nghiệp thực hiện quy tắc ứng xử trong hoạt động của doanh nghiệp để phòng ngừa tham nhũng; (ii) Hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền pháp luật về phòng, chống tham nhũng cho các hội viên của hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề; vận động hội viên thực hiện các quy định của Luật Phòng, chống tham những; động viên, khuyến khích các hội viên xây dựng văn hoá kinh doanh lành mạnh, phi tham nhũng; xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, người lao động trong doanh nghiệp để phòng ngừa tham nhũng; (iii) Các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, ngành nghề thực hiện áp dụng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng thông qua việc thực hiện cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước và người lao động trong doanh nghiệp; thực hiện chế độ thống kê theo quy định của pháp luật; thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp; xây dựng và thực hiện các quy định về kiểm soát nội bộ nhằm phòng, chống tham nhũng; khuyến khích việc phát hiện, tố cáo các hành vi tham nhũng. Nghiêm cấm đưa hối lộ cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền dưới mọi hình thức; (iv) Các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, ngành nghề có trách nhiệm ban hành và tổ chức thực hiện các quy định về kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp nhằm phòng ngừa tham nhũng, kịp thời phát hiện và xử lý theo 27
- thẩm quyền các hành vi tham nhũng phát sinh trong nội bộ hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý; (v) Khi phát hiện có hành vi tham những thì doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi tham nhũng đó; khi nhận được yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm cung cấp thông tin mà mình có được về vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, đồng thời áp dựng các biện pháp cần thiết trong phạm vi quyền và trách nhiệm của mình để phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xác minh, làm rõ vụ việc tham nhũng, người có hành vi tham nhũng; (vi) Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ các văn bản pháp luật không phù hợp, làm phát sinh tham nhũng, góp phần hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, hiệu quả công tác đấu tranh chống tham nhũng. Tiểu kết chương 1 Qua chương 1, khái quát về vai trò trách nhiệm xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, đã giúp chúng ta có thêm nhận thức, hiểu rõ được hiện tượng “tham nhũng” dưới một vài góc nhìn ở Việt Nam. Từ nhiều cách nhìn nhận để thấy được sự phi nghĩa của “tham nhũng” và tính cấp bách phải phòng ngừa. Xác định giải pháp phòng chống tham nhũng toàn diện nhất ở Việt Nam hiện nay là có sự tham gia đồng thuận của các chủ thể trong xã hội. Từ cơ sở xã hội, cơ sở pháp lý đã chỉ ra những điều kiện tiên quyết cho các chủ thể xã hội tham gia phòng chống tham nhũng tại Việt Nam. 28
- CHƯƠNG 2. ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM 2.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước 2.1.1 Tổng quan Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Nhà nước là công cụ, phương tiện thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, đưa đường lối, chính sách của Đảng vào cuộc sống, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Trong quá trình lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chăm lo lãnh đạo xây dựng bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước, cùng với đó kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham ô, tham nhũng và đạt kết quả quan trọng, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Từ trước đến nay, Đảng ta đã ban hành rất nhiều chỉ thị, nghị quyết để lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Nghị quyết số 14/NQ/TW ngày 15-5-1996 về quan điểm chỉ đạo và một số giải pháp để đấu tranh chống tham nhũng của Bộ Chính trị khóa VII đã chỉ rõ: Đấu tranh chống tham nhũng là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta hiện nay. Nó góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng Đảng và kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền dân chủ của nhân dân Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền và phục vụ cho đổi mới kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chống tham nhũng là cuộc đấu tranh hết sức phức tạp, đòi hỏi có sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng, quan điểm, nguyên tắc xây dựng Luật phòng, chống tham nhũng chủ 29
- yếu dựa trên các quan điểm lớn đã được chỉ ra tại Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 15-5-1996 và trong một số văn kiện khác của Đảng như sau: - Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn chặt với đổi mới kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường đại đoàn kết toàn dân; - Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền và phục vụ cho đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Đảng và kiện toàn, tăng cường đoàn kết nội bộ; - Chống tham nhũng phải gắn liền với chống quan liêu, lãng phí; - Đấu tranh chống tham nhũng phải kết hợp giữa xây, phòng và chống. Vừa tích cực phòng ngừa, vừa xử lý nghiêm mọi hành vi tham nhũng; - Đẩy mạnh phòng và chống tham nhũng một cách chủ động, huy động và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh chống tham nhũng, thực hiện chống tham nhũng ở mọi cấp, mọi ngành; - Đấu tranh chống tham nhũng là nhiệm vụ lâu dài, phải tiến hành kiên quyết, kiên trì và thận trọng, không nóng vội, không chủ quan; phải có kế hoạch cụ thể, có bước đi vững chắc; sử dụng nhiều biện pháp, trong đó lấy giáo dục làm cơ sở, lấy pháp chế làm đảm bảo14. 2.1.2 Thực tiễn Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn nhận tệ nạn tham nhũng là loại kẻ thù cực nguy hiểm, kẻ thù ở bên trong “nội xâm” , “kín đáo”. Chúng là kẻ thù của nhân dân, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào tổ chức Đảng. Chính vì vậy ngay thừ khi thành lập Đảng, Chủ tịch luôn đề cao tư cách và đạo đức, “phải cần, kiệm, nói thì phải làm, phải biết hy sinh, ít lòng tham muốn về vật chất”. Bất cứ hành vi lấy “của công” làm “của tư” nào cũng đều 14 Tài liệu bồi dưỡng về phòng chống tham nhũng, dành cho giảng viên các trường đại học, cao đẳng 30
- bị Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là hành vi tham ô, cần phải nghiêm trị; ngày 17- 3-1952, Người viết bài về chống quan liêu, tham ô, lãng phí: “Quan liêu, tham ô, lãng phí là tội ác. Phải tẩy sạch nó để thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, để đẩy mạnh thi đua sản xuất và tiết kiệm, để đưa kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công, để xây dựng thuần phong mỹ tục trong toàn dân, toàn quốc”; Chúng ta từng biết, năm 1950 khi Trần Dụ Châu, nguyên Giám đốc Nha Quân nhu can tội ăn cắp công quỹ và làm nhiều điều bỉ ổi bị tuyên phạt với mức án cao nhất - tử hình, thì Hồ Chủ tịch sau khi cân nhắc kỹ đã quyết định bác đơn xin giảm tội của Trần Dụ Châu. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “Tham ô, lãng phí, quan liêu là một thứ giặc ở trong lòng”. Tác hại do tham nhũng gây ra cực kỳ to lớn về mọi mặt. Nó không những làm thiệt hại về kinh tế mà còn làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, với chế độ; làm rối loạn kỷ cương phép nước, làm hư hỏng cán bộ Người nhắc nhở, chống loại kẻ địch này (tức nạn tham nhũng) khó khăn, phức tạp hơn so với đánh giặc ngoại xâm. Nhân kỷ niệm 39 năm Ngày thành lập Đảng (03-02-1930 - 03-02-1969), Bác viết bài báo “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, nêu: “Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. “Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm mà mỗi người chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo đề phòng và kiên quyết tiêu diệt”. Trước lúc đi vào cõi vĩnh hằng, trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư ”15. 15 PGS, TS Nguyễn Thế Kỷ (2018), Phòng chống tham nhũng - Bài học hôm qua, hành động hôm nay. 31
- Sau sự chuyển đổi mô hình Nhà nước quan liêu bao cấp, sang thể chế chính trị theo mô hình nhà nước “pháp quyền”, bên cạnh thành tự to lớn chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều thách thức thậm chí mắc phải một số yếu kém, khuyết điểm, trong đó, nạn tham nhũng có chiều hướng càng phức tạp, nặng nề. Để khắc phục Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn bản quy phạm pháp luật để phát huy vai trò xã hội trong công tác đấu tranh và phòng chống tham nhũng như: - Nghị quyết chuyên đề số 14-NQ/TW ngày 15/5/1996 được coi là biện pháp quan trọng; Trong đó Bộ Chính Trị có nêu tuyên bố về lãnh đạo cuộc đấu tranh PCTN: “Đấu tranh chống tham nhũng là bộ phận cấu thành quan trọng của toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta hiện nay, nó góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, xây dựng Đảng và kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân”; Đồng thời nghị quyết đã chỉ ra rõ vai trò của các tổ chức chính trị xã hội, quần chúng nhân dân và báo chí trong đấu tranh PCTN: “Huy động và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh chống tham nhũng. Xác định rõ trách nhiệm của tổ chức đảng và thủ trưởng chính quyền, xây dựng, kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp luật làm nòng cốt; nêu cao trách nhiệm của tổ chức chính trị - xã hội, động viên tích cực của nhân dân, phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng phải có kế hoạch giáo dục, động viên và tổ chức cho nhân dân tham gia tích cực đấu tranh chống tham nhũng”. - Nghị quyết TW 6 ( lần 2 ) khoá VIII tiếp tục khẳng định vai trò của nhân dân, của báo chí trong PCTN: “Sử dụng đồng bộ hệ thống giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là sự giám sát của tổ chức đảng, trước hết là từ chi bộ, sự giám sát của nhân dân, sự giám sát của công luận Chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng nêu gương “người tốt, việc tốt” giới thiệu kinh nghiệm 32
- của các điển hình tiên tiến; lên án cái xấu, cái ác, tích cực đấu tranh chống tham nhũng lãng phí ”. - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành TW khoá IX chỉ rõ “xây dựng cơ chế để phát huy quyền làm chủ, quyền giám sát của nhân dân đối với tổ chức đảng, đảng viên”; “thực hiện khẩn trương cải cách hành chính, đẩy lùi quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu nhân dân. Quan tâm đặc biệt đến đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, ”. - Tại Đại hội X của Đảng đã đặt ra nhiệm vụ đấu tranh PCTN là một nhiệm vụ trọng tâm của các hệ thống chính trị, trong đó đặc biệt nêu cao vai trò của các tổ chức đoàn thể, của quần chúng nhân dân, các tổ chức mặt trận, các hiệp hội ngành nghề và báo chí, truyền thông. Qua đó khẳng định PCTN không phải là nhiệm vụ riêng của các cơ quan thanh tra, kiểm sát, điều tra, kiểm toán mà là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành TW đảng khoá X về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí” đã đề ra 5 quan điểm chỉ đạo đối với công tác PCTN, lãng phí, trong đó, vai trò của xã hội được coi là định hướng quan trọng: “PCTN, lãng phí đạt được mục tiêu đề ra cần phải có sự tham gia của cả hệ thống chính trị và của toàn dân. Được sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, với sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên và của các tầng lớp nhân dân, công tác PCTN được triển khai từ TW đến cơ sở, từ trong Đảng, trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị cho đến toàn xã hội”. - Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành TW Đảng khoá X đã kiểm điểm, đánh giá hai năm thực hiện Nghị quyết TW 3, khoá X. Nghị quyết Hội nghị này đã đưa ra phương hướng, nhiệm vụ công tác PCTN trong thời gian tới là: “Các cấp uỷ cần xác định công tác PCTN, lãng phí là một trong những trọng 33
- tâm công tác lớn, thường xuyên để tập trung chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc và đánh giá việc thực hiện; tang cường trách nhiệm của người đứng đầu; phát huy vai trò, trách nhiệm các cơ quan giám sát của Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên”. - Nghị quyết Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định lại quan điểm “Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các cơ quan thông tin đại chúng trong việc phát hiện, đấu tranh, phòng, chông tham nhũng”16. - Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị về việc ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội” đã nêu rõ mục đích của giám sát là nhằm, “Góp phần xây dựng và thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; kịp thời phát hiện những sai sót, khuyết điểm, yếu kém và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh”. Quy chế xác định chủ thể giám sát là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội từ TW đến cơ sở, bao gồm Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam và Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; đối tượng giám sát là các cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến cơ sở; cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước. Như vậy có thể thấy: (i) Theo chiều dài lịch sử, với các văn kiện và Nghị quyết nêu trên, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định nhất quán vai trò quan 16 Vũ Công Giao, Nguyễn Quốc Văn (2017), Phát huy vai trò của xã hội trong phòng chống tham nhũng (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội, trang 23,24 34
- trọng của phía xã hội trong PCTN, coi phát huy vai trò của xã hội là giải pháp quan trọng hàng đầu trong PCTN. (ii) Phát huy vai trò của phía xã hội trong PCTN là quan điểm tích cực của Đảng Cộng sản Việt Nam, kế thừa và vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong thực tiễn PCTN.(1) (iii) Tuy nhiên, đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam chưa ban hành Nghị quyết chuyên đề về phát huy vai trò của xã hội trong PCTN; các văn kiện và Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam đều chưa đề cập đến vai trò của xã hội dân sự trong PCTN17. 2.2 Khung pháp luật cơ bản 2.2.1 Tổng quan Tinh thần thượng tôn pháp luật là nển tảng vững chắc xây dựng Nhà nước pháp quyền do dân và vì dân; Hợp tác quốc tế và thực thi trách nhiệm quốc tế trong PCTN được thể hiện năm 2009 Việt Nam phê chuẩn chính thức Công ước Liên hợp quốc về phòng chống tham nhũng (UNCAC); Từ đó cụ thể hoá cao trong hệ thống văn bản pháp luật về PCTN, công tác xây dựng đã gắn với nhưng vấn đề thực tiễn của thế giới cũng như của Việt Nam song hành quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân và tập thể. Vai trò xã hội trong PCTN đã thể hiện rõ nét trong các văn bản pháp luật, quy định pháp luật ngày càng được minh bạch, công khai, sát thực tiễn đối với yêu cầu xã hội, ý thức trách nhiệm công vụ được nâng lên. 17 Vũ Công Giao, Nguyễn Quốc Văn (2017), Phát huy vai trò của xã hội trong phòng chống tham nhũng (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội, trang 27 35
- Trong những năm gần đây không thể không nhắc tới sự vào cuộc của cả Hệ thống chính trị với “Không có vùng cấm, không có ngoại lệ” và “Chiến lược Quốc gia về PCTN” được ban hành theo Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12/5/2009 của Chính phủ. Với một quan điểm và tinh thần nhất quán: “PTCN là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, nhấn mạnh trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đề cao vai trò xã hội, các tổ chức đoàn thể và quần chúng nhân dân”. Cụ thể hoá đi vào nề nấp với nhiều văn bản pháp luật được Quốc hội thông qua, với nội dung và hình thức đã đề cập tương đối toàn diện những vấn đề liên quan vai trò của xã hội trong PCTN, mang lại niềm tin cho nhân dân và cử tri trên cả nước. Vấn đề PCTN được chuyên môn cao thông qua Luật PCTN 2005, sửa đổi các năm 2007 và 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật PCTN. Sắp tới tháng 7/2019 Luật PCTN 2018 có hiệu lực với nhiều điểm mới quan trọng như: Tăng lên 10 chương, trong đó mở rộng đối tượng kê khai tài sản, thu nhập, thêm một số tài sản, thu nhập cần phải kê khai và nêu cao hơn nữa tinh thần dân chủ xã hội. Vai trò PCTN của xã hội được nêu cao trong Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam năm 1999 và năm 2015, khẳng định MTTQ là cơ quan tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trưởng của Đảng, Nhà nước; thực hiện giám sát và phản biện xã hội; MTTQ đã và đang là cơ quan đại diện cho nhiều tổ chức xã hội, các tầng lớp xã hội thúc đẩy phong trào phòng, chống tham nhũng trong xã hội. Bằng nhiều cách thể hiện, PCTN còn được thể hiện trực tiếp qua Luật thanh tra năm 2004, 2010, Luật tiếp công dân năm 2013, Luật khiếu nại năm 2011, Luật tố cáo năm 2018 và nhiều nghị định cụ thể hướng dẫn thi hành luật; thể hiện chuyên môn hoá đa dạng trong từng vấn đề, vụ việc PCTN hiện nay nắm bắt được nhu cầu và chiều hướng thay đổi của các ngành nghê và xã hội. PCTN thể hiện gián tiếp qua nhiều văn 36
- bản quy pháp luật như: Luật Công đoàn năm 2013, Luật An ninh mạng, Luật Báo chí năm 2016, Luật tiếp cận thông tin năm 2016 và nhiều nghị định hướng dẫn thi hành luật Việc lồng ghép thể hiện tính cập nhật và vô cùng cấp bách trong nhiều lĩnh vực đời sống, xã hội đã thúc đẩy mạnh mẽ, tăng cường vai trò xã hội, hệ thống chính trị trong công cuộc đẩy lùi suy thoái tham nhũng. Kết quả thi hành pháp luật đã có nhiều vụ việc suy thoái được xử lý nghiêm minh với hình sự hoá các tội danh được quy định Bộ luật hình sự 2015 ( sửa đổi, bổ sung năm 2017), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 2015 ( Luật số 12/2017/QH14), Bộ luật đã có thay đổi cập nhật tạo thành sợi dây kết nối với các Luật khác để kịp thời xử lý tội phạm về tham nhũng. Qua đó phát huy được vai trò xã hội trong PCTN rất phong phú, đa dạng, với nhiều hình thức pháp lý và hiệu lực khác nhau, tạo nên sự nghiêm minh và thượng tôn pháp luật ! 2.2.2 Cơ sở pháp lý Bảng: Khung pháp luật về phòng, chống tham nhũng của Việt Nam hiện nay Tên văn bản Nội dung Tóm tắt 1. Công ước quốc tế Công ước Liên hợp Công ước Liên hợp quốc Các quy định của Công ước đề quốc về phòng, về phòng chống tham cập đến 05 vấn đề về tham chống tham nhũng nhũng nhũng, bao gồm: (i) các biện (UNCAC) pháp phòng ngừa; (ii) hình sự hóa và thực thi pháp luật; (iii) hợp tác quốc tế; (iv) thu hồi tài 37
- sản; (v) hỗ trợ kỹ thuật và trao đổi thông tin. Việt Nam chính thức phê chuẩn Công ước này năm 2009. 2. Luật Phòng, chống tham nhũng Luật Phòng, chống Luật này quy định về Gồm 10 chương, 96 điều tham nhũng năm phòng ngừa, phát hiện Chương 1: Những quy định 2018 tham nhũng; xử lý tham chung Luật số nhũng và hành vi khác vi Chương 2: Phòng ngừa tham 36/2018/QH14 phạm pháp luật về phòng, nhũng trong cơ quan, tổ chức, chống tham nhũng. đơn vị Chương 3: Phát hiện tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị Chương 4: Chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan tổ chức, đơn vị trong phòng chống tham nhũng Chương 5: trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng Chương 6: Phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước Chương 7: Trách nhiệm của cơ 38
- quan nhà nước trpng phòng, chống tham nhũng Chương 8: Hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng Chương 9: Xử lý tham nhũng và hành vi khác vi phạm pháp luật về phòng chống tham nhũng Chương 10: Điều khoản thi hành Luật Phòng, chống Ban hành các quy định cụ Gồm 8 chương, 92 điều tham nhũng năm thể về phòng, chống tham Chương 1: Những quy định 2005 nhũng trong khu vực Nhà chung Luật số nước. Ngoài ra, luật này Chương 2: Phòng ngừa tham 55/2005/QH11 đề cập đến vai trò của xã nhũng hội (Mặt trận Tổ quốc Chương 3: Phát hiện tham Việt Nam và các tổ chức nhũng thành viên, báo chí, doanh Chương 4: Xử lý hành vi tham nghiệp, công dân và Ban nhũng và các hành vi vi phạm thanh tra nhân dân) trong pháp luật khác phòng, chống tham nhũng. Chương 5: Tổ chức, trách nhiệm và hoạt động phối hợp của các cơ quan Thanh tra, Kiểm toán nhà nước, Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và của cơ quan, đơn vị hữu quan trong phòng chống tham nhũng 39
- Chương 6: Vai trò và trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng Chương 7: Hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng Chương 8: Điều khoản thi hành Luật Phòng, chống Bổ sung vào Luật năm Sửa đổi, bổ sung một số điều tham nhũng sửa 2005 quy định thành lập của luật phòng, chống tham đổi năm 2007 Ban chỉ đạo tỉnh, thành nhũng : Điều 73 và Điều 74 Luật số phố trực thuộc TW về được sửa đổi, bổ sung. 01/2007/QH12 phòng, chống tham nhũng. Luật Phòng, chống Làm rõ Luật năm 2005, Sửa đổi, bổ sung của luật tham nhũng sửa đổi 2007 về các quy định liên phòng, chống tham nhũng; năm 2012 quan đến (i) công khai khoản a, điểm b của Điều 12, Luật số minh bạch trong một số Điều 14, Điều 18, Điều 21, 27/2012/QH13 lĩnh vực cụ thể, (ii) trách Điều 26a, Điều 26b, Điều 26c, nhiệm giải trình, (iii) bãi Điều 26d, Điều 30, Điều 32a, bỏ quy định về Ban chỉ Điều 46a, Điều 46b, Điều 47, đạo phòng chống tham Điều 47a, Điều 53a, Điều 77. nhũng. Nghị định Chính Hướng dẫn Luật Phòng, Gồm 7 chương và 28 điều: phủ ban hành số chống tham nhũng về vai Chương 1: Những quy định 47/2007/NĐ-CP trò, trách nhiệm của xã hội chung trong phòng, chống tham Chương 2: Trách nhiệm của 40
- nhũng cơ quan Nhà nước trong việc phối hợp với Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong phòng, chống tham nhũng Chương 3: Vai trò và trách nhiệm của báo chí trong phòng, chống tham nhũng Chương 4: Vai trò trách nhiệm của Doanh nghiệp, Hiệp hội doanh nghiệp, Hiệp hội ngành nghề trong phòng chống tham nhũng. Chương 5: Trách nhiệm của Ban thanh tra nhân dân trong phòng, chống tham nhũng Chương 6: Trách nhiệm của công dân trong phòng, chống tham những Chương 7: Điều khoản thi hành Nghị định Chính Quy định chi tiết một số Gồm 9 chương và 64 điều phủ ban hành số điều của Luật phòng, Chương 1: Những quy định 59/2013/NĐ-CP chống tham nhũng chung Chương 2: Công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị 41
- Chương 3: Tạm đình chỉ, tạm thời chuyển vị trí công tác khác đối với cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến tham nhũng Chương 4: Chế độ thông tin, báo cáo về phòng, chống tham nhũng Chương 5: Chế độ kiểm tra, thanh tra việc thực hiên pháp luật về phòng, chống tham nhũng Chương 6: Tố cáo hành vi tham nhũng Chương 7: Xậy dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn Chương 8: Những quy định khác Chương 9: Điều khoản thi hành Nghị định Chính Quy định về về minh bạch Gồm 6 chương và 35 điều phủ ban hành số tài sản, thu nhập Chương 1: Những quy định 78/2013/NĐ-CP chung Chương 2: Kê khai tài sản, thu nhập 42
- Chương 3: Công khai bản kê khai và giải trình việc kê khai tài sản, thu nhập Chương 4: Xác minh tài sản, thu nhập Chương 5: Xử lý vi phạm các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập Chương 6: Tố chức thực hiện Nghị định Chính Quy định xử lý trách Gồm 4 chương và 18 điều phủ ban hành số nhiệm của người đứng đầu Chương 1: Những quy định 107/2006/NĐ-CP cơ quan, tổ chức, đơn vị chung khi để xảy ra tham nhũng Chương 2: Xử lý kỷ luật đối trong cơ quan, tổ chức, với người đứng đầu cơ quan tổ đơn vị do mình quản lý, chức, đơn vị phụ trách Chương 3: Thẩm quyền, quy trình, thủ tục xử lý kỷ luật Chương 4: Điều khoản thi hành Nghị định Chính Sửa đổi, bổ sung một số Sửa đổi bổ sung một số điều: phủ ban hành số điều của Nghị định số Điều 6, Điều 7, Điều 11, Điều 211/2013/NĐ-CP 107/2006/NĐ-CP về xử lý 12, Điều 13, Điều 14, Điều 15, trách nhiệm của người Điều 17, đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình 43
- quản lý, phụ trách Quyết định của Ban hành Quy chế về việc Quyết định căn cứ Luật Tổ Thủ Tướng Chính tặng quà, nhận quà và nộp chức Chính phủ, Luật Phòng, Phủ ban hành số lại quà tặng của cơ quan, chống tham nhũng, Luật ngân 64/2007/QĐ-TTg tổ chức, đơn vị có sử dụng sách nhà nước, Luật thực hành ngân sách nhà nước và của tiết kiệm, chống lãng phí. cán bộ, công chức, viên Quyết định gồm 3 Điều. chức 3. Bộ luật Hình sự Bộ luật số Bộ luật Hình sự 2015 (sửa Chương XXIII Bộ luật này quy 100/2015/QH13 đổi, bổ sung năm 2017 định một số tội phạm về tham nhũng. Trong đó, có một số quy định điều chỉnh tham nhũng trong khu vực tư, bao gồm: tội tham ô, đưa hối lộ, nhận hối lộ và môi giới hối lộ. Luật số Luật sửa đổi, bổ sung một Luật này sửa đổi, bổ sung, bãi 12/2017/QH14 số điều của Bộ luật Hình bỏ một số điều của Bộ luật sự 2015 Hình sự 2015. Các quy định liên quan đến tội phạm về tham nhũng vẫn giữ nguyên. 4. Luật tiếp cận 44
- thông tin Luật số Quy định về quy định về Gồm 5 chương và 36 điều 104/2016/QH13 việc thực hiện quyền tiếp Chương 1: Những quy định Luật tiếp cận thông cận thông tin của công chung tin năm 2016 dân, nguyên tắc, trình tự, Chương 2: Công khai tông tin thủ tục thực hiện quyền Chương 3: Cung cấp thông tin tiếp cận thông tin, trách theo yêu cầu nhiệm, nghĩa vụ của cơ Chương 4: Trách nhiệm bảo quan nhà nước trong việc đảm thực hiện quyền tiếp cận bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân thông tin của công dân. Chương 5: Điều khoản thi hảnh Nghị định số Quy định chi tiết và biện Gồm 15 điều và Phụ lục hướng 13/2018/NĐ-CP pháp thi hành dẫn Luật tiếp cận thông tin năm 2006 Quyết định số Ban hành Quy chế cung Căn cứ Luật Tiếp cận thông tin 1301/QĐ-BTP cấp thông tin cho công ngày 06 tháng 4 năm 2016; dân của Bộ Tư pháp Căn cứ Nghị định số 13/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Tiếp cận thông tin; Căn cứ Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16 45
- tháng 8 năm 2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp; Quy chế gồm 5 chương và 24 Điều, 4 phụ lục 5. Luật tố cáo Luật số Quy định về tố cáo và giải Gồm chương và 67 Điều 25/2018/QH2014 quyết tố cáo đối với hành Chương 1: Những quy định Luật tố cáo năm vi vi phạm pháp luật trong chung 2018 việc thực hiện nhiệm vụ, Chương 2: Quyền và nghĩa vụ công vụ và hành vi vi cuả người tố cáo, người bị tố phạm pháp luật khác về cáo, người giải quyết tố cáo quản lý nhà nước trong Chương 3: Giải quyết tố cáo các lĩnh vực; bảo vệ người đối với hành vi vi phạm pháp tố cáo; trách nhiệm của cơ luật trong việc thực hiện nhiệm quan, tổ chức trong việc vụ, công vụ quản lý công tác giải Chương 4: Giải quyết tố cáo quyết tố cáo. đối với hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực Chương 5: Trách nhiệm tổ chức thực hiện kết luận nội dung tố cáo Chương 6: Bảo vệ người tố cáo Chương 7: Trách nhiệm của cơ 46
- quan, tổ chức trong việc quản lý công tác giải quyết tố cáo Chương 8: Khen thưởng và xử lý vi phạm Chương 9: Điều khoản thi hành 6 Luật khiếu nại Luật khiếu nại năm Quy định về khiếu nại và Gồm 8 chương và 70 Điều 2011 giải quyết khiếu nại đối Chương 1: Những quy định Luật số với quyết định hành chính, chung 02/2011/QH13 hành vi hành chính của cơ Chương 2: Khiếu nại quyết quan hành chính nhà định hành chính, hành vi hành nước, của người có thẩm chính quyền trong cơ quan hành Chương 3: Giải quyết khiếu chính nhà nước; khiếu nại nại và giải quyết khiếu nại Chương 4: Khiếu nại, giải quyết định kỷ luật cán bộ, quyết khiếu nại quyết định kỷ công chức; tiếp công dân; luật cán bộ, công chức quản lý và giám sát công Chương 5: Tiếp công dân tác giải quyết khiếu nại. Chương 6: Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc quản lý công tác giải quyết khiếu nại Chương 7: Xử lý vi phạm Chương 8: Điều khoản thi hành 47
- Nghị định Chính Quy định chi tiết một số Gồm 6 chương và 35 Điều phủ ban hành điều của Luật Khiếu nại Chương 1: Quy định chung số 75/2012/NĐ-CP năm 2011 Chương 2: Khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong đơn vị sự nghiệp công lập, Doanh nghiệp Nhà nước Chương 3: Nhiều người cùng khiếu nại về một nội dung Chương 4: Công khai quyết định giải quyết khiếu nại; Thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật Chương 5: Tiếp công dân Chương 6: Điều khoản thi hành 7. Luật báo chí Luật báo chí năm Quy định về quyền tự do Gồm 9 chương và 61 Điều 2016 báo chí, quyền tự do ngôn Chương 1: Những quy định Luật số luận trên báo chí của công chung 103/2016/QH13 dân; tổ chức và hoạt động Chương 2: Quyền tự do báo báo chí; quyền và nghĩa chí, quyền tự do ngôn luận trên vụ của cơ quan, tổ chức, báo chí của công dân cá nhân tham gia và có Chương 3: Tổ chức báo chí liên quan đến hoạt động Chương 4: Hoạt động báo chí báo chí; quản lý nhà nước Chương 5: Khen thưởng, thanh về báo chí tra và xử lý vi phạm trong hoạt động báo chí 48
- Chương 6: Điều khoản thi hành Nghị định số Quy định về người phát Gồm 3 chương và 12 Điều 09/2017/NĐ-CP ngôn, chế độ phát ngôn và Chương 1: Quy định chung cung cấp thông tin cho Chương 2: Phát ngôn và cung báo chí của các cơ quan cấp thông tin cho báo chí hành chính nhà nước. Chương 3: Điều khoản thi hành 8. Luật tiếp công dân Luật tiếp công dân Quy định về trách nhiệm Gồm 9 chương và 36 Điều năm 2013 tiếp công dân; quyền và Chương 1: Những quy định Luật số nghĩa vụ của người đến chung 42/2013/QH13 khiếu nại, tố cáo, kiến Chương 2: Quyền và nghĩa vụ nghị, phản ánh; việc tổ của người đến khiếu nại, tố chức hoạt động tiếp công cáo, kiến nghị, phản ánh; dân tại Trụ sở tiếp công Trách nhiệm của người tiếp dân, địa điểm tiếp công công dân dân của cơ quan, tổ chức, Chương 3: Tiếp công dân tại đơn vị và điều kiện bảo trụ sở tiếp công dân ở TW, trụ đảm cho hoạt động tiếp sở tiếp công dân cấp tỉnh, trụ ở công dân tiếp công dân cấp huyện; việc tiếp công dân ở cấp xã Chương 4: Tiếp công dân tại cơ quan Hành chính nhà nước; tại Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán 49
- nhà nước. Chương 5: Tiếp công dân của các cơ quan của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội, của Hội đồng nhân dân và Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp Chương 6: Hoạt động tiếp công dân của cơ quan, tổ chức, đơn vị cá nhân Chương 7: Trách nhiệm tiếp và xử lý trường hợp nhiều người cùng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về một nội dung Chương 8: Điều kiện bảo đảm cho hoạt động tiếp công dân Chương 9 : Điều khoản thi hành Nghị định Chính Quy định chi tiết thi hành Gồm 6 chương và 23 Điều phủ ban hành số một số điều của Luật Tiếp Chương 1: Những quy định 64/2014/NĐ-CP công dân 2013. chung Chương 2: Tiếp công dân tại các cơ quan thuộc chính phủ, đơn vị sự nghiệp công lập Chương 3: Nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu, tổ chức của các ban tiếp công dân; Việc bố trí 50
- cơ sở vật chất của trụ sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân. Chương 4: Quy chế phối hợp hoạt động tiếp công dân tại trụ sở tiếp công dân. Chương 5: Điều kiện bảo đảm hoạt động tiếp công dân Chương 6: Điều khoản thi hành 9. Luật thanh tra Luật thanh tra năm Luật này quy định về tổ Gồm 5 chương và 70 Điều 2004 - Luật số chức, hoạt động thanh tra Chương 1: Những quy định 22/2004/QH11 nhà nước và thanh tra chung nhân dân Chương 2: Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra nhà nước Chương 3: Hoạt động thanh tra Chương 4: Thanh tra nhân dân Chương 5: Điều khoản thi hành Nghị định Chính Quy định chi tiết và hướng Gồm 5 chương và 41 Điều phủ ban hành số dẫn thi hành một số điều Chương 1: Những quy định 99/2005/NĐ-CP của Luật thanh tra năm chung 2004 Chương 2: Tổ chức và hoạt động của ban TTND ở xã, 51
- phường, thị trấn Chương 3: Tổ chức và hoạt động của ban TTND ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước Chương 4: Khen thưởng và xử lý vi phạm Chương 5: Điều khoản cuối cùng Luật thanh tra năm Quy định rõ ràng tổ chức, Gồm 7 chương và 78 điều 2010 - Luật số hoạt động của Ban thanh Chương 1: Những quy định 56/2010/QH12 tra nhân dân và hoạt động chung thanh tra Chương 2: Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra nhà nước; cơ quan được giao thục hiện chức năng thanh tra chuyên ngành Chương 3: Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, công tác viên thanh tra Chương 4: Hoạt động thanh tra Chương 5: Điều kiện bảo đảm hoạt động của cơ quan thanh tra nhà nước Chương 6: Thanh tra nhân dân Chương 7: Điều khoản thi 52
- hành Nghị định số Quy định chi tiết và hướng Gồm 9 chương và 80 điều 86/2011/NĐ-CP dẫn thi hành một số điều Chương 1: Quy định chung của luật thanh tra 2010 Chương 2: Nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan Thanh tra Nhà nước Chương 3: Hoạt động thanh tra Chương 4: Thanh tra lại Chương 5: Trách nhiệm thực hiện, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kêt luận quyết định xử lý về thanh tra Chương 6: Quản lý nhà nước về công tác thanh tra Chương 7: Trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo đảm công tác thanh tra Chương 8: Xử lý vi phạm Chương 9: Điều khoản thi hành 10 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Luật Mặt trận Tổ Để nâng cao vai trò của Gồm 4 chương và 18 điều quốc Việt Nam Mặt trận Tổ quốc Việt Chương 1: Những quy định 1999 Nam trong sự nghiệp đổi chung Luật số mới đất nước, góp phần Chương 2: Trách nhiệm và 53
- 14/1999/QH10 thực hiện dân chủ xã hội quyền của Mặt trận Tổ quốc chủ nghĩa, tăng cường mối Việt Nam. liên hệ mật thiết giữa nhân Chương 3: Những bảo đảm dân với Đảng và Nhà hoạt động của Mặt trận Tổ nước, phát huy tinh thần quốc Việt Nam. yêu nước, truyền thống đại Chương 4: Điều khoản thi đoàn kết toàn dân - một hành. nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; Luật Mặt trận Tổ Luật đã cụ thể hoá cao và Gồm 8 chương và 41 Điều quốc Việt Nam mở rộng vai trò, các quyền Chương 1: Những quy định 2015- Luật số: và trách nhiệm của Mặt chung 75/2015/QH13 trận Tổ quốc Việt Nam Chương 2: Tập hợp, xây dựng trong hoạt động giám sát khối đại đoàn kết toàn dân tộc và phối hợp các cơ cơ Chương 3: Đại diện, bảo vệ quan khác để phát huy dân quyền và lợi ích hợp pháp, chủ trong PCTN chính đang của nhân dân Chương 4: Tham gia xây dựng nhà nước Chương 5: Hoạt động giám sát Chương 6: Hoạt động phản biện xã hội Chương 7: Điều kiện bảo đảm hoạt động của Mặt trận Tổ quốc 54
- Chương 8: Điều khoản thi hành 11 Luật công đoàn Luật Công đoàn Luật cụ thể vai trò của Gồm 4 chương và 19 điều năm 1990 -Luật số: công đoàn trong cách Chương 1: Những quy định 40-LCT/HĐNN8 mạng xã hội chủ nghĩa, chung bảo đảm quyền dân chủ và Chương 2: Quyền và trách lợi ích của người lao động nhiệm của công đoàn Chương 3: Những bảo đảm hoạt công của công đoàn Chương 4: Điều khoản cuối cùng Luật Công đoàn Bổ sung “ Công đoàn Gồm 4 chương và 33 điều năm 2012- Luật số: tham gia thanh tra hoạt Chương 1: Những quy định 12/2012/QH13 động của cơ quan nhà chung. nước “ Chương 2: Quyền và trách nhiệm của Công đoàn và Đoàn viên công đoàn. Chương 3: Trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đối với công đoàn. Chương 4: Những bảo đảm hoạt động của công đoàn. Chương 5: Giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật về công đoàn. 55
- Chương 6: Điều khoản thi hành. 12. Chiến lược Quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 Chính phủ ban Chiến lược Quốc gia Căn cứ Luật Tổ chức Chính hành - Số: 21/NQ- phòng, chống tham nhũng phủ ngày 25 tháng 12 năm CP ( 21/5/2019) đến năm 2020 2001; “ PCTN là trách nhiệm Căn cứ Luật Phòng, chống của cả hệ thống chính trị tham nhũng ngày 29 tháng 11 dưới sự lãnh đạo của năm 2005; Đảng, phát huy sức mạnh Căn cứ Nghị quyết số 04- tổng hợp của các ngành, tổ NQ/TW ngày 21 tháng 08 năm chức, đơn vị, đề cao vai 2006 của Hội nghị lần thứ ba trò của xã hội, các tổ chức Ban Chấp hành Trung ương đoàn thể và quần chúng Đảng khóa X về tăng cường sự nhân dân”. lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Căn cứ Nghị quyết số 27/2008/NQ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2008 của Chính phủ; Xét đề nghị của Tổng Thanh tra, Nghị quyết gồm 3 điều thi 56
- hành * Thuận lợi của khung pháp luật PCTN của Việt Nam: - Trong những năm vừa qua Việt Nam đã xây dựng được số lượng văn bản pháp lớn và đồng thời không ngừng hoàn thiện các văn bản, các quy định liên quan đến phát huy vai trò xã hội trong PCTN. Điều này được thể hiện sâu, rộng và sự tích cực hưởng hứng của toàn thể nhân dân trong xã hội. - Về nội dung, các văn bản pháp luật đã đề cập tương đối toàn diện những vấn đề liên quan đến phát huy vai trò của xã hội trong PCTN; Trong đó, có những quy định mới như: công khai minh bạch, trách nhiệm giải trình của công chức và cơ quan nhà nước, quyền của người tố cáo, tố giác (bảo vệ người tố cáo, tố giác tham nhũng) và hành vi vi phạm pháp luật, khen thưởng người tố cáo tham nhũng, tiếp công dân - Trong các Luật có liên quan PCTN đa số cách thể hiện câu từ và nội dung đã khoa học, dễ hiểu; Các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành luật đã cập nhật nhanh chóng giúp cho việc áp dụng luật được thuận lợi hơn, tốt hơn. Các Bộ, ban ngành, cơ quan, hệ thống thông tin truyền thông đã tuyền tải tốt về chính sách pháp luật, vận dụng có hiệu quả và đưa vào thực công việc nhanh chóng, giúp các cá nhân và tổ chức hiểu rõ quyền và trách nhiệm của mình với các luật mới ban hành. * Hạn chế, bất cập của khung khổ pháp luật PCTN của Viêt Nam: - Hình thức văn bản: Việt Nam chưa có văn bản chính trị hoặc pháp lý chuyên biệt, tập trung về phát huy vai trò của xã hội trong PCTN; Các quy 57
- định về vấn đề này hiện tồn tại tản mát, khu biệt trong nhiều Nghị quyết của Đảng và văn bản quy phạm pháp luật18. - Về nội dung văn bản: + Các quy định về công khai, minh bạch còn chưa mang tính bao quát và chưa thực chất, đặc biệt là chưa làm rõ về nguyên tắc, hình thức, nội dung, thời gian thực hiện công khai, minh bạch trên cơ sở trả lời các câu hỏi: Ai công khai, minh bạch với ai? Công khai, minh bạch cái gì? Công khai, minh bạch như thế nào? Khi nào công khai, minh bạch? Xử lý vi phạm quy định về công khai, minh bạch như thế nào?19. + Việc phát huy vai trò xã hội trong PCTN còn mang tính nguyên tắc, thiếu nhiều liên kết và mới chỉ ghi nhận ở quan điểm chính trị, các văn bản pháp luật còn chưa nhiều quyết tâm cao trong việc khẳng định vai trò thứ yếu của phĩa xã hội trong PCTN; cũng như còn khoảng cách xã hội thứ bậc quan hệ nhà nước với công dân. + Xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức đơn vị mình còn thiếu rõ ràng, chưa thực chất và không khuyến khích được tính chủ động của người đứng đầu trong phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng. Các quy định hiện hành còn thụ động và bỏ ngỏ trong việc trao quyền cho tổ chức xã hội trong cuộc chiến chống tham nhũng. + Luật PCTN các tiến bộ mới chỉ nhất định dừng lại ở việc dành một chương riêng để quy định vai trò xã hội trong PCTN; Còn cụ thể hơn các quy 18 Vũ Công Giao, Nguyễn Quốc Văn (2017), Phát huy vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng (sách chuyên khảo), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, trang 77 19 Thanh tra Việt Nam (2016) Một số bất cập chính khi thực thi Luật PCTN trong 10 năm qua 58
- định ở chương đó còn rất khái quát. Các chủ thể xã hội tham gia phòng chống tham nhũng đã mở rộng tuy nhiên vẫn còn thiếu chủ thể tổ chức phi chính phủ, tổ chức quốc tế; Nhiều lần sửa đổi, bổ sung Luật PCTN vẫn chưa được hoàn thiện dù đã được quốc tế và nhiều tổ chức khuyến nghị bổ sung. + Các biện pháp bảo vệ người trong tố cáo tham nhũng, còn thiếu linh hoạt và chủ động. Chưa thể hiện được biện pháp bảo vệ hiệu quả, chưa đề cao được sự đãi ngộ và tri ân tốt đối với người đã tình nguyện hy sinh để bảo vệ công lý. Pháp luật PCTN còn thiếu nhiều công cụ bảo vệ hữu hiệu cho người tố cáo, khen thưởng còn chưa kịp thời. + Việc quy định hành vi tham nhũng trong Luật PCTN và tội phạm về tham nhũng trong Bộ luật hình sự chưa hợp lý cũng dẫn đến hiệu quả xử lý hành vi tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng còn thấp; Các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập chưa giúp kiểm soát biến động về thu nhập, còn phức tạp về trình tự, thủ tục công khai bản kê khai, giải trình, xác minh tài sản, thu nhập khi có yêu cầu; thiếu quy định về việc xử lý các tài sản, thu nhập không được giải trình một cách hợp lý và thời hạn người kê khai tài sản, thu nhập có nghĩa vụ giải trình về tài sản, thu nhập. - Về kỹ thuật xây dựng văn bản: + Việc thiếu một khái niệm tổng thể làm cho các quy định cụ thể thiếu tính hệ thống, dễ bị sót. Hơn thế, quy định của Luật PCTN và trong các văn bản pháp luật chưa có đồng bộ, thiếu cụ thể, thiếu biện pháp đảm bảo để thực thi có hiệu quả. Trên thực tế và theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới, kiểm soát xung đột lợi ích không chỉ liên quan đến mỗi cá nhân cán bộ, công chức mà cần phải đặt họ trong các mối quan hệ khác nhau, đặc biệt là trong quan hệ công vụ, quan hệ gia đình, quan hệ thân thích và các quan hện xã hội nói chung. Lợi ích cá nhân mà cán bộ, công chức hướng tới có thể là hữu hình (tài sản và các lợi ích vật chất khác) hoặc vô hình (giá trị tinh thần 59
- hoặc các lợi ích phi vật chất khác); lợi ích cá nhân đó có thể trực tiếp mang lại cho cán bộ, công chức, vợ/ chồng, con, gia đình của cán bộ, công chức hoặc những người thân khác; lợi ích cá nhân có thể xuất hiện trước, trong hoặc sau khi có quyết định hoặc hành vi quản lý20. + Luật PCTN và các văn bản pháp luật hiện hành chưa đưa ra một khái niệm chính thức về xung đột lợi ích, kiểm soát xung đột lợi ích mà bước đầu chỉ ghi nhận và đưa ra các biện pháp giải quyết các tình huống xung đột lợi ích cụ thể, liên quan đến việc tặng quà và nhận quà tặng (lợi ích vật chất); có hành vi hoặc ra quyết định (hoặc gây ảnh hưởng) có lợi cho cá nhân hoặc người thân của người thực hiện hành vi, ra quyết định; đầu tư và chia sẻ lợi ích với doanh nghiệp và sử dụng lợi thế thông tin có được từ vị trí công tác. Việc thiếu một khái niệm tổng thể làm cho các quy định cụ thể thiếu tính hệ thống, dễ bị sót. Hơn thế, quy định của Luật PCTN và trong các văn bản pháp luật chưa có đồng bộ, thiếu cụ thể, thiếu biện pháp đảm bảo để thực thi có hiệu quả. Trên thực tế và theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới, kiểm soát xung đột lợi ích không chỉ liên quan đến mỗi cá nhân cán bộ, công chức mà cần phải đặt họ trong các mối quan hệ khác nhau, đặc biệt là trong quan hệ công vụ, quan hệ gia đình, quan hệ thân thích và các quan hệ xã hội nói chung. Lợi ích cá nhân mà cán bộ, công chức hướng tới có thể là hữu hình (tài sản và các lợi ích vật chất khác) hoặc vô hình (giá trị tinh thần hoặc các lợi ích phi vật chất khác); lợi ích cá nhân đó có thể trực tiếp mang lại cho cán bộ, công chức, vợ/ chồng, con, gia đình của cán bộ, công chức hoặc những người thân khác; lợi ích cá nhân có thể xuất hiện trước, trong hoặc sau khi có quyết định hoặc hành vi quản lý. 20 Thanh tra Việt Nam (2016) Một số bất cập chính khi thực thi Luật PCTN trong 10 năm qua nam-qua.aspx , truy cập 30/3/2019 60
- + Còn nhiều quy định về trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giải quyết tố cáo nhằm nâng cao hiệu quả phát hiện tham nhũng chưa có sự phân định rõ ràng nhằm tăng cường tính chủ động và điều phối trong hoạt động phối hợp giữa các cơ quan. Cụ thể Thanh tra nhân dân thực chất không phải là hoạt động thanh tra Nhà nước mà chỉ là phương thức giám sát dân cử của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan; Tuy nhiên Ban thanh tra nhân dân vẫn được chế định trong Luật Thanh tra năm 2004, năm 2010 chưa quy định rõ giữa hoạt động thanh tra của Nhà nước và hoạt động giám sát của nhân dân gây nhiều hiểu lầm giữa hai hoạt động này. + Quy định của Luật PCTN còn những “khoảng trống”/ sự “ngắt quãng” quá trình phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng bởi các cơ quan có thẩm quyền. Qua đánh giá về cơ chế phối hợp trong phát hiện, xử lý tham nhũng thì việc tồn tại các “khoảng trống”, thiếu tính kế thừa giữa các cơ quan có thẩm quyền chính là nguyên nhân dẫn đến hiệu quả phối hợp còn nhiều hạn chế21. Tiểu kết chương 2 Tiếp nối chương 1, tại chương 2 đã đi sâu tới “Đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước trong việc phòng chống tham nhũng ở Việt Nam”. Đề cập tới tổng quan lịch sử song song với thực tiễn hiện tại, để thấy được sự nhất quán của Đảng đối với PCTN. Nêu rõ khung chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc PCTN, từ đó đưa ra được thuận lợi và hạn chế bất cập của khung pháp Luật PCTN Việt Nam. 21 Thanh tra Việt Nam (2016) Một số bất cập chính khi thực thi Luật PCTN trong 10 năm qua 10-nam-qua.aspx , truy cập 30/3/2019 61
- CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM 3.1 Hoạt động Ban chỉ đạo tw về phòng chống tham nhũng từ 2013 – 2018 Trước tình hình tham nhũng ngày càng ra tăng từ trung ương tới địa phương, gây nhũng nhiễu và bức xúc trong nhân dân cả nước. Bối cảnh đó ngày 1/2/2013, Bộ Chính trị ban hành Quyết định 162-QĐ/TW thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong việc chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc công tác phòng, chống tham nhũng phạm vi cả nước. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng có quyền hạn (theo Điều 3 Chương 1 tại Quy định số 163-QĐ/TW): (i) Yêu cầu các đảng đoàn, ban cán sự đảng, tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có thẩm quyền báo cáo về công tác lãnh đạo, chỉ đạo và kết quả thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng; việc xử lý một số vụ, việc tham nhũng; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý thông tin về hành vi tham nhũng; thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng tại cơ quan, tổ chức, đơn vị; (ii) Yêu cầu các đảng đoàn, ban cán sự đảng, tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, tổ chức và người có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra làm rõ các vụ, việc có dấu hiệu tiêu cực, tham nhũng; chỉ đạo việc phúc tra khi cần thiết; (iii) Chỉ đạo, phối hợp các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử đối với các vụ, việc tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp hoặc dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Trong trường hợp cần thiết, trực tiếp chỉ đạo về chủ trương xử lý đối với một số vụ, việc cụ thể hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức và người có thẩm quyền giải quyết lại nhằm bảo đảm việc xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật; (iv) Kiến nghị với Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét, quyết 62
- định hoặc trực tiếp chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền tạm đình chỉ công tác, sinh hoạt đảng, sinh hoạt cấp ủy theo phân cấp quản lý khi cán bộ, đảng viên có dấu hiệu tham nhũng hoặc có hành vi cản trở, gây khó khăn đối với hoạt động phòng, chống tham nhũng; (v) Chỉ đạo Ủy ban Kiểm tra Trung ương, cấp ủy các cấp xem xét, xử lý kỷ luật đối với đảng viên thuộc phạm vi quản lý; yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị và người có thẩm quyền xử lý kỷ luật về chính quyền đối với cán bộ, công chức có hành vi tham nhũng nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự; (vi) Được sử dụng bộ máy tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức của các cơ quan, tổ chức có liên quan để phục vụ nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng khi cần thiết. Nhìn lại sau 5 năm Ban Chỉ đạo được thành lập (ngày 1-2-2013), nhất là từ Đại hội XII của Đảng đến nay, cuộc đấu tranh PCTN đã có một bước tiến mạnh, đạt được nhiều kết quả toàn diện, tích cực, rõ rệt, để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định “Công tác PCTN, lãng phí, tiêu cực đã trở thành phong trào, xu thế” được nhân dân đồng tình, đánh giá cao, được các tổ chức quốc tế ghi nhận. Tham nhũng đang từng bước được kiềm chế, ngăn chặn, đẩy lùi và có chiều hướng thuyên giảm, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. 3.1.1. Thuận lợi Một là, quyết liệt chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, kịp thời nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm, với mức án nghiêm khắc và nhân văn; thực hiện đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng và đồng chí Tổng Bí thư “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, bất kể 63
- người đó là ai”, tạo bước đột phá trong công tác PCTN. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo đã lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết; xử lý nghiêm minh, có lý, có tình một số cán bộ cao cấp cả đương chức và đã nghỉ hưu, có vi phạm liên quan các vụ án tham nhũng, kinh tế đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm. Từ khi thành lập đến nay, Ban Chỉ đạo đã đưa 68 vụ án, 57 vụ việc tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp vào diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo, đến nay đã kết thúc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm 40 vụ án với 500 bị cáo với các mức án (10 bị cáo với 11 án tử hình, 19 bị cáo với 20 án tù chung thân, 459 bị cáo tù có thời hạn từ 12 tháng đến 30 năm, ). Tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng đạt trên 31%; việc kê biên, thu giữ tài sản trong các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo đạt hơn 35 nghìn tỷ đồng, điển hình như: vụ án xảy ra tại Ngân hàng TMCP Đại Tín hơn 10.000 tỷ đồng, vụ án xảy ra tại Ngân hàng TMCP Xây dựng (giai đoạn I) hơn 6.000 tỷ đồng, vụ AVG hơn 8.500 tỷ đồng, vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc xảy ra tại Phú Thọ hơn 1.400 tỷ đồng Một số vụ án, vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, mà lâu nay được cho là “vùng cấm, nhạy cảm”, và nhiều vụ, việc kéo dài từ những năm trước đã được chỉ đạo xử lý dứt điểm, nghiêm minh, có tác dụng cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa tham nhũng có hiệu quả. Đây là điểm sáng trong cuộc đấu tranh PCTN, thể hiện quyết tâm của Đảng, Nhà nước cũng như hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo trong cuộc đấu tranh PCTN vừa qua, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao22. 22 Phan Đình Trạc – Bí thư T.Ư Đảng, Trưởng Ban Nội chính T.Ư (2018), Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng 5 năm nhìn lại nhung-5-nam-nhin-lai-114311 , truy cập 31/3/2019 64