Khóa luận Thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về diện và hàng thừa kế - Vũ Minh Hiếu

pdf 71 trang tranphuong11 27/01/2022 5212
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về diện và hàng thừa kế - Vũ Minh Hiếu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_thuc_tien_ap_dung_va_phuong_huong_hoan_thien_phap.pdf

Nội dung text: Khóa luận Thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về diện và hàng thừa kế - Vũ Minh Hiếu

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ-LUẬT KHOA LUẬT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ SVTH: VŨ MINH HIẾU MSSV: K165031950 TP. HCM, NĂM 2020
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ-LUẬT KHOA LUẬT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ SVTH: VŨ MINH HIẾU MSSV: K165031950 TP.HCM, NĂM 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp “ thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về diện và hàng thừa kế “ là công trình nghiên cứu của bản thân. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo trong luận án đã được nêu rõ trong phần tài liệu tham khảo. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận án là hoàn toàn trung thực, nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm, mọi kỉ luật của khoa và nhà trường đề ra. TP.Hồ Chí Minh , ngày tháng năm Vũ Minh Hiếu
  4. LỜI CẢM ƠN “Lời đầu tiên, em xin trân trọng cảm ơn thầy đã hướng dẫn em là TS. Nguyễn Đình Huy, thầy đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình học tập cũng như hoàn thành luận văn. Xin chân thành cảm ơn quý thầy,cô khoa Luật của trường Đại học Kinh Tế -Luật đã tận tình giảng dạy cho em tận tình trong thời gian em theo học tại trường. Do giới hạn kiến thức và khả năng lý luận của bản thân còn nhiều thiếu sót và hạn chế, kính mong sự chỉ dẫn và đóng góp ý kiến của quý thầy, cô để bài luận văn của em hoàn thiện thêm. Em xin chân thành cảm ơn!”
  5. DANH MỰC TỪ VIẾT TẮT Chữ cái viết tắt/ký Cụm từ đầy đủ TT hiệu BLDS 2015 Bộ luật Dân sự năm 2015 BLTTDS 2015 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Luật HN&GĐ 2014 Luật Hôn nhân&gia đình 2014 PLTK Pháp lệnh thừa kế SL Sắc lệnh TANDTC Tòa án nhân dân tối cao TANDCC Tòa án nhân dân cấp cao UBND Ủy ban nhân dân
  6. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 1.Tính cấp thiết của đề tài 1 2.Tình hình nghiên cứu 2 3.Phạm vi nghiên cứu của đề tài 4 4.Phương pháp nghiên cứu 4 5.Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài 4 6.Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn 5 7.Kết cấu của luận văn 5 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ 6 1.1 Khái niệm chung 6 1.1.1 Thừa kế và quyền thừa kế 6 Một trong những yếu tố để đánh giá sự vững mạnh của một quốc gia đó chính là sự bảo hộ của Nhà nước về các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như việc kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Trên tinh thần đó, quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ. 6 1.1.2 Di sản thừa kế 7 1.1.3. Người để lại di sản thừa kế 8 1.1.4. Người thừa kế 8 1.2 Diện và hàng thừa kế 9 1.2.1 Khái quát chung về diện và hàng thừa kế 9 1.2.2 Cơ sở xác định diện và hàng thừa kế 12 1.3 Diện thừa kế theo pháp luật Việt Nam 13 1.3.1 Diện thừa kế theo quan hệ hôn nhân 14 1.3.2 Diện thừa kế theo quan hệ huyết thống 18 1.3.3 Diện thừa kế theo quan hệ nuôi dưỡng 25 1.4 Hàng thừa kế theo pháp luật 30 1.4.1 Hàng thừa kế thứ nhất 33 1.4.2 Hàng thừa kế thứ 2 36
  7. 1.4.3 Hàng thừa kế thứ 3 37 Kết luận chương 1 40 CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ 41 2.1.Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế 41 2.1.1:Thực trạng giải quyết tranh chấp về thừa kế những năm gần đây 41 2.1.2 Nguyên nhân của thực trạng những vướng mắc khi xử lý vụ án về diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam 45 2.1.3 Diện và hàng thừa kế theo pháp luật- Một số điểm hạn chế 48 2.1.4 Kiến nghị hoàn thiện 51 2.2 So sánh diện và hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt nam với quy định của một số nước trên thế giới 53 2.2.1 Diện và hàng thừa kế của Nhật Bản 53 2.2.2 Diện và hàng thừa kế theo pháp luật cộng hòa Pháp 55 2.2.3 Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Nga 56 2.2.4 Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Iran 58 KẾT LUẬN 59 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  8. 1 LỜI MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Quyền thừa kế ra đời là một trong những phương thức pháp lý để bảo toàn và gia tăng tích lũy của cải trong xã hội. Nhà nước đã công nhận quyền thừa kế của cá nhân đối với tài sản, coi thừa kế là một trong những căn cứ xác lập quyền sở hữu. Điều này không chỉ có tác dụng kích thích tính tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng mà còn tạo động lực đẩy mạnh niềm say mê, kích thích sự quản lý năng động của mỗi con người tạo ra khối tài sản của mình. Khi một người chết đi, tài sản của họ để lại sẽ trở thành di sản và được phân chia cho các thế hệ con cháu, sự dịch chuyển di sản theo chế định thừa kế chính là sự nối tiếp về quyền sở hữu. Pháp luật công nhận quyền thừa kế đã đáp ứng phần nào mong ước của con người là tồn tại mãi mãi. Chính vì thế, pháp luật thừa kế trên thế giới nói chung và pháp luật thừa kế ở Việt Nam nói riêng đã không ngừng phát triển và hoàn thiện chế định này. Tại Việt Nam, sớm nhận thức được vai trò đặc biệt quan trọng của thừa kế, nên ngay những ngày đầu mới dựng nước, các triều đại Lý, Trần, Lê cũng đã quan tâm đến ban hành pháp luật về thừa kế. Pháp luật thành văn về thừa kế ở nước ta, lần đầu tiên được quy định trong chương "Điền sản" của Bộ Luật Hồng Đức dưới triều vua Lê Thái Tổ. Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng, xây dựng CNXH ở nước ta, các quy định này đã được ghi nhận, mở rộng, phát triển và được thực hiện trên thực tế tại các Điều 19 Hiến Pháp 1959 "Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo vệ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân". Điều 27 Hiến Pháp 1980 "Nhà nước bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân", Điều 58 Hiến Pháp1992, Hiến Pháp 2013 và đặc biệt là sự ra đời của Bộ luật Dân sự 1995, Bộ Luật Dân Sự 2005 và sau đó là BLDS 2015.Bộ luật đã đánh dấu một bước phát triển của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng. Bộ Luật Dân Sự 2015 được xem là kết quả cao của quá trình pháp điển hoá những quy định của pháp luật về thừa kế. Nó kế thừa và phát triển những quy định phù hợp với thực tiễn, không ngừng hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của người thừa kế một cách có hiệu quả nhất. Hiện nay các tranh chấp về thừa kế có xu hướng ngày càng gia tăng và trở nên phức tạp hơn. Sự nhận thức không đầy đủ về pháp luật của cá nhân, sự áp dụng pháp luật không
  9. 2 thống nhất giữa các cấp Tòa án là những yếu tố làm cho các vụ kiện gặp nhiều khó khăn, thời gian giải quyết kéo dài, ảnh hưởng không tốt đến truyền thống đạo đức tốt đẹp vốn có từ lâu đời của dân tộc Việt Nam ta. Đặc biệt hơn, một trong những khó khăn vướng mắc lớn nhất khi áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp về thừa kế chính là vấn đề xác định làm sao cho đúng về diện và hàng thừa kế. Trong vấn đề thừa kế theo pháp luật, nó là vấn đề vô cùng quan trọng. Nó xác định phạm vi và thứ tự được hưởng thừa kế của những người được hưởng thừa kế. Hiện nay quy định của pháp luật tuy đã khá chặt chẽ nhưng thực tế vẫn còn những điểm cần khắc phục, bởi vậy em đã chọn đề tài “Thực tiễn áp dụng pháp luật và phương hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế” để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, phân tích, kiến nghị để làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về diện và hàng thừa kế trong chế định thừa kế theo pháp luật là một đòi hỏi tất yếu, khách quan cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế. 2.Tình hình nghiên cứu Hiện nay, các đề tài nghiên cứu về thừa kế tương đối nhiều và ở các cấp độ khác nhau như khóa luận cử nhân, luận văn cao học và các luận án tiến sĩ. Ngoài ra, còn một số bài viết trong các tạp chí luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội, tạp chí dân chủ và pháp luật của Bộ Tư pháp, tạp chí Tòa án nhân dân + Các luận án tiến sĩ: - Phùng Trung Tập: “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay”. Luận án nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của thừa kế theo pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Nội dung chủ yếu của luận án làm rõ các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến việc điều chỉnh pháp luật về diện và hàng thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam. - Phạm Văn Tuyết: “Thừa kế theo di chúc bộ luật dân sự Việt Nam”. Đề tài nghiên cứu những vấn đề như: khái niệm về di chúc, quyền của người lập di chúc, các điều kiện có hiệu lực của di chúc. +Luận văn cao học: - Nguyễn Thị Vĩnh: “Thừa kế theo pháp luật trong BLDS Việt Nam”. Nội dung chủ yếu gồm các vấn đề sau: khái niệm thừa kế theo pháp luật, diện và hàng thừa kế, thừa kế thế vị, các trường hợp thừa kế theo pháp luật.
  10. 3 - Nguyễn Thị Hồng Bắc: “Một số vấn đề thừa kế theo pháp luật trong BLDS Việt Nam”. Đề tài nghiên cứu có tính sơ lược về lịch sử của thừa kế theo pháp luật ở Việt Nam, một số nguyên tắc chủ yếu của thừa kế, các trường hợp thừa kế theo pháp luật, căn cứ phân chia hàng thừa kế. + Các công trình nghiên cứu khác: - Viện khoa học pháp lý: “Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của BLDS”. Các tập bình luận phân tích nội dung cơ bản của qui định trong BLDS 1995 nói cung và các quy định về thừa kế nói riêng. - Việc nghiên cứu về nhà nước và pháp luật:” Những vấn đề cơ bản về BLDS Việt Nam”. Đây là số tạp chí chuyên đề về BLDS (số 5/1995). Trong đó có chuyên đề về chế định thừa kế trong BLDS. Chuyên đề này nghiên cứu các nguyên tắc cơ bản của điều chỉnh pháp luật về thừa kế, căn cứ khoa học để phân chia các hàng thừa kế. - Trường Đại học Luật Hà Nội, số tạp chí chuyên đề về BLDS (1996). Trong đó có bài viết về những điểm mới của di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS so với pháp lệnh thừa kế 1990 - Tòa án nhân dân tối cao: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các tranh chấp thừa kế tại tòa án nhân dân”. Đây là công trình nghiên cứu về thừa kế, nội dung chủ yếu của đề tài là các vấn đề thực tiễn xét xử của tòa án trong việc giải quyết tranh chấp về thừa kế. - Nguyễn Ngọc Điện: “Một số suy nghĩ về thừa kế trong BLDS”. Tác giả so sánh pháp luật về thừa kế của Việt Nam qua các thời kỳ phát triển và so với chế định thừa kế trong bộ luật dân sự Pháp. Do tầm quan trọng của vấn đề thừa kế nên nội dung này đã được rất nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm, nghiên cứu. Nguyễn Ngọc Điện là tác giả của cuốn "Bình luận khoa học về thừa kế trong Bộ luật dân sự Việt Nam". Đinh Văn Thanh - Trần Hữu Biền có tác phẩm "Hỏi đáp về pháp luật thừa kế". Tất cả các công trình nghiên cứu trên có phạm vi rộng, mang tính toàn diện, bao quát cả chế định pháp luật về thừa kế, và đưa ra những kiến nghị để ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về thừa kế. Riêng với đề tài " Diện và hàng thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam ", tác giả tập trung đi sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung, bản chất của diện và hàng thừa kế được quy định trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra
  11. 4 một số kiến nghị mang tính giải pháp để ngày càng hoàn thiện hơn những quy định về nội dung này trong luật. Đây thực sự là những công trình có giá trị lớn trong cả khoa học lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này hoặc đề cập đến những vấn đề mang tính khái quát chung về chế định thừa kế qua các thời kỳ hoặc chỉ đi sâu vào phân tích một quan hệ thừa kế nhất định chứ chưa nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về vấn đề thừa kế theo pháp luật hiện hành. Thừa kế theo pháp luật nói chung hay diện và hàng thừa kế theo pháp luật nói riêng không phải là đề tài mới nhưng với sự thay đổi từng ngày từng giờ của các quan hệ xã hội, quan hệ tài sản đòi hỏi phải có những quy phạm pháp luật mới để điều chỉnh. Do đó, việc nghiên cứu kịp thời để có hướng đề xuất các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề này cho phù hợp với thực tiễn là hết sức cần thiết. 3.Phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, nội dung, bản chất quy định của pháp luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế. Khi nghiên cứu đề tài, tác giả sẽ tham khảo toàn bộ các quy định pháp luật của nước ta về diện và hàng thừa kế gắn với từng giai đoạn trong lịch sử theo sự phát triển của đất nước, trong các sách chuyên khảo, đặc biệt là các quy định trong Bộ Luật Dân Sự 2015, so sánh với các quy định của một số nước trên thế giới về diện và hàng thừa kế qua đó có cái nhìn về diện và hàng thừa kế theo pháp luật hiện hành một cách tổng quát hơn, cụ thể hơn. 4.Phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên cơ sở lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Bên cạnh đó còn có sự phối hợp với một số phương pháp khác như: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và phương pháp tổng hợp. 5.Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ nội dung và bản chất của diện và hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam qua từng giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, xác định đúng, chính xác những người thuộc diện thừa kế và thứ tự hưởng ưu tiên theo quy định của BLDS năm 2015. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả rút ra những vướng mắc còn tồn tại khi áp dụng quy định của pháp luật về diện và hàng thừa kế. Từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị mang
  12. 5 tính giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại, góp phần hoàn thiện hơn các quy định về thừa kế 6.Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực thừa kế. Có những công trình khoa học nghiên cứu vấn đề nội dung này một cách toàn diện, bao quát, nhưng cũng có những công trình chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhỏ của chế định thừa kế. Đề tài luận văn này không phải là đề tài nghiên cứu mới. Đã có những tác giả chọn để làm công trình nghiên cứu riêng của mình ở nhiều cấp độ khác nhau. Tuy nhiên khi chọn đề tài nghiên cứu này tôi đã nghiên cứu một cách chi tiết về từng diện và từng hàng thừa kế gắn với từng quy định của mỗi giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, tôi đã so sánh với các quy định của một số nước về diện và hàng thừa kế qua đó làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hiện hành và tìm ra những vướng mắc còn tồn tại trên thực tế để đề xuất kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế. 7.Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: lý luận chung về diện và hàng thừa kế Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật và phương hướng hoàn thiện pháp luật về diện và hàng thừa kế
  13. 6 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ 1.1 Khái niệm chung 1.1.1 Thừa kế và quyền thừa kế Một trong những yếu tố để đánh giá sự vững mạnh của một quốc gia đó chính là sự bảo hộ của Nhà nước về các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như việc kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Trên tinh thần đó, quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ. Để hiểu và nhận thức sâu sắc về khái niệm quyền thừa kế trước hết phải làm sáng tỏ nội dung khái niệm thừa kế. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì "Thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống" hay theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp thì thừa kế được giải thích là "Sự dịch chuyển tài sản của người chết cho người còn sống. Thừa kế luôn gắn với sở hữu. Khi nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ sở hữu và quan hệ thừa kế đã tồn tại như một tất yếu khách quan. Thừa kế xuất hiện phụ thuộc vào quan hệ sở hữu. Nếu sở hữu là yếu tố quyết định thừa kế, thì thừa kế là phương tiện duy trì và củng cố quan hệ sở hữu. Nghiên cứu tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người đã chỉ ra rằng quan hệ thừa kế xuất hiện như một tất yếu khách quan cùng với quan hệ sở hữu. Khi thừa kế tài sản chưa có sự can thiệp của Nhà nước thì thừa kế đơn thuần chỉ là quan hệ xã hội mang tính kinh tế. Khi Nhà nước ra đời, thông qua các quy phạm pháp luật, Nhà nước đã điều chỉnh, tác động đến quá trình dịch chuyển tài sản nói trên bao gồm cả quyền để lại tài sản cũng như quyền hưởng di sản của các chủ thể được gọi chung là quyền thừa kế. Như vậy, khác với thừa kế xuất hiện ngay từ thời kỳ sơ khai, khi xã hội chưa có sự phân chia giai cấp, khái niệm quyền thừa kế chỉ xuất hiện khi có sự xuất hiện của Nhà nước và pháp luật. Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế có thể được hiểu là một chế định pháp luật bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quá trình dịch chuyển tài sản từ người chết cho người còn sống. Theo nghĩa hẹp, quyền thừa kế có thể được hiểu là một quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể có quyền để lại di sản thừa kế hoặc có quyền hưởng di sản thừa kế của người chết để lại theo ý chí của người đó khi còn sống (bằng di chúc) hoặc theo điều kiện, trình tự và thủ tục do pháp luật quy định (thừa kế theo pháp luật). Pháp luật thừa kế ở nước ta trước hết nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động, tôn trọng thành quả lao động do họ làm ra cũng như chuyển thành kết quả đó cho những người thừa kế sau khi họ chết. Mặt khác, quyền thừa kế ở nước ta là một trong những phương tiện
  14. 7 để củng cố và phát triển các quan hệ hôn nhân gia đình, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể trong quan hệ thừa kế, đặc biệt bảo vệ lợi ích của người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động. Qua đó góp phần bảo đảm quyền sở hữu cho mọi cá nhân trong xã hội. Tóm lại, thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của một người đã chết sang cho người còn sống theo những trình tự luật định. Quyền thừa kế của một cá nhân gắn bó chặt chẽ với quyền sở hữu của cá nhân đó. Quyền sở hữu là tiền đề, là cơ sở của quyền thừa kế và ngược lại, quyền thừa kế là căn cứ thiết lập quyền sở hữu mới. Vì vậy, hệ thống pháp luật dân sự của tất cả các nước trên thế giới bao giờ cũng qui định về vấn đề thừa kế như là một phương thức bảo đảm quyền sở hữu của chủ sở hữu. Thừa kế theo pháp luật về bản chất vừa bảo vệ quyền đương nhiên của người có tài sản được để lại tài sản của họ khi họ chết, vừa bảo vệ quyền của những người có quan hệ huyết thống, gia đình hay thân thuộc với người đã chết có tài sản để lại. 1.1.2 Di sản thừa kế Theo Từ điển tiếng Việt: "Di sản là của cải, tài sản của người chết để lại" Điều 612 BLDS năm 2015 quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác". Di sản được Điều 612 BLDS quy định một cách ngắn gọn nhưng khá đầy đủ và có tầm khái quát cao, không dùng phương pháp liệt kê bao gồm những tài sản gì như những quy định trước đây. Như vậy, di sản là toàn bộ những tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đã chết cũng như các quyền về tài sản của người đó bao gồm: Tư liệu sinh hoạt; Tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý được dùng làm đồ trang sức hoặc dùng làm của cải để dành, tiền tiết kiệm ngân hàng, tiền lương, tiền thưởng chưa lĩnh; Nhà ở thuộc sở hữu của người chết; Vốn, cổ phần, vật tư, tư liệu sản xuất của người chết; Tài liệu, dụng cụ máy móc của người làm công tác nghiên cứu; Cây cối mà người được giao sử dụng đất trồng và hưởng lợi trên đất đó; Các quyền về tài sản đó là quyền đòi nợ đồ vật đã cho mượn, cho thuê, chuộc lại tài sản đã cầm cố, quyền đối với tài sản đã thế chấp, đã bồi thường thiệt hại về tài sản, hưởng những quyền lợi của tác giả hoặc chủ sở hữu văn bằng, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, quyền tác giả đối với tác phẩm.
  15. 8 Tóm lại, di sản được Điều 612 BLDS quy định một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ và có tính khái quát cao. Điều này thể hiện trình độ và kỹ thuật lập pháp của nước ta đã đạt được một kết quả nhất định. Tuy nhiên, đây là một vấn đề phức tạp và có liên quan đến nhiều vấn đề khác trong quan hệ thừa kế mà chỉ được quy định trong một điều luật nên khi nghiên cứu cũng như khi xét xử phải đặt nó trong mối liên hệ biện chứng với các quy phạm pháp luật khác liên quan trực tiếp đến việc xác định và phân chia di sản. Bởi vậy, việc xác định quyền sở hữu của một người để từ đó xác định di sản khi người đó chết còn gặp nhiều vướng mắc về mặt lý luận cũng như thực tiễn. 1.1.3. Người để lại di sản thừa kế Quyền để lại thừa kế là một quyền cơ bản của cá nhân được pháp luật Việt Nam ghi nhận và bảo hộ. Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu của mọi cá nhân đối với những thu nhập hợp pháp của họ. do đó bất kỳ cá nhân nào cũng có quyền quyết định đối với các loại tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của mình. Vì thế cá nhân có quyền lập di chúc cho người khác hưởng tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của mình sau khi mình chết, nếu không có di chúc thì tài sản này được chia theo pháp luật. Cần lưu ý rằng, người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân, không thể là các pháp nhân hay tổ chức. Các pháp nhân hay tổ chức được thành lập với những mục đích và nhiệm vụ khác nhau và tài sản của các pháp nhân, tổ chức đó nhằm để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của chính pháp nhân, tổ chức. Khi các pháp nhân, tổ chức đó đình chỉ hoạt động của mình (phá sản, giải thể ) tài sản của các pháp nhân, tổ chức được giải quyết theo các quy định của pháp luật. Các pháp nhân, tổ chức chỉ tham gia quan hệ thừa kế với tư cách là người được hưởng di sản theo di chúc. 1.1.4. Người thừa kế Người thừa kế là người hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân, tổ chức nhưng người thừa kế theo pháp luật thì chỉ có thể là cá nhân và phải có quan hệ hôn nhân, gia đình hoặc nuôi dưỡng đối với người để lại di sản. Giữa người để lại di sản và người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ pháp lý với nhau. Người thừa kế có quyền sở hữu đối với phần di sản thừa kế, đồng thời họ phải có trách nhiệm với những nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản. Điều 613 BLDS năm 2015 quy định:
  16. 9 “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”1. • Trường hợp người không được quyền hưởng di sản: Là những trường hợp người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật bị tước quyền hưởng di sản vì họ không xứng đáng được hưởng quyền đó. Khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015 quy định những trường hợp không được quyền hưởng di sản. Mặc dù những trường hợp nói trên là những trường hợp không được quyền hưởng di sản nhưng khoản 2 Điều 621 BLDS 2015 quy định những người đó vẫn được hưởng di sản "nếu người để lại di sản biết những hành vi của những người đó nhưng vẫn cho họ hưởng thừa kế theo di chúc". Việc không cho hưởng quyền nhận di sản được thực hiện sau khi mở thừa kế. Trong thực tế xảy ra trường hợp làm giả mạo giấy tờ về người thừa kế khác từ chối nhận di sản thừa kế để cho người đó được hưởng nhiều hơn. Giấy tờ này không có giá trị pháp lý nhưng pháp luật không quy định trường hợp này là trường hợp không được hưởng quyền nhận di sản. Đây là một vấn đề mà các nhà lập pháp cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật hơn nữa. 1.2 Diện và hàng thừa kế 1.2.1 Khái quát chung về diện và hàng thừa kế * Diện thừa kế Diện thừa kế là một trong những nội dung quan trọng của chế định thừa kế, tuy nhiên vấn đề này lại chưa thực sự được các nhà làm luật quan tâm quy định cụ thể, chi tiết trong luật. Khái niệm diện thừa kế chỉ được quan tâm nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học pháp lý. Còn luật thực định từ trước đến nay chưa có văn bản nào quy định cụ thể về vấn đề này. BLDS 1995, 2005 cũng như BLDS năm 2015 chưa có nội dung nào quy định về khái niệm diện thừa kế là gì và diện thừa kế bao gồm những ai? Đây là một vấn đề cần được khắc phục trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam. 1 BLDS 2015
  17. 10 Theo giáo trình Luật dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội diện thừa kế được hiểu là "phạm vi những người có quyền hưởng di sản của người chết theo quy định của pháp luật"2. Nhìn chung, khái niệm nêu trên đã phản ánh đầy đủ nội dung cũng như bản chất của diện thừa kế. Diện thừa kế chỉ được đặt ra trong trình tự thừa kế theo pháp luật. Mà pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào quan hệ sản xuất của từng giai đoạn phát triển xã hội. Vì thế ở mỗi một chế độ xã hội nhất định mà phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật lại được quy định ở diện rộng hẹp khác nhau. Tiếp cận và tìm hiểu những quy định của pháp luật của một số nước trên thế giới về diện thừa kế cho thấy mặc dù có sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhưng nhìn chung dù ở chế độ xã hội nào những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật đều có đặc điểm chung là những người thân thích gần gũi với người để lại di sản thừa kế và do quan hệ hôn nhân và gia đình chi phối. Pháp luật của Nhật và các nước Nam Mỹ quy định diện thừa kế bao gồm các con của người chết; cha, mẹ, anh, chị, em ruột của người chết; bà con xa, gần khác. Một số nước như Đức, áo, Thụy Sĩ quy định: Bà con bậc trên, thế hệ trên của người chết như: cha, mẹ, cố, cụ; bà con bậc dưới, thế hệ dưới của người chết như con, cháu. Điều 1629 Bộ luật thương mại Thái Lan quy định diện thừa kế là: Con cái; bố, mẹ; anh, chị, em cùng huyết thống; anh, chị, em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà; chú, bác, cô, dì; người vợ (hoặc người chồng còn sống). Ở nước ta, trước năm 1945 dưới chế độ thực dân phong kiến, tư tưởng trọng nam khinh nữ nặng nề đã ảnh hưởng sâu sắc đến việc xác định diện thừa kế. Địa vị của người vợ trong quan hệ gia đình luôn bị đẩy xuống bậc thứ yếu so với các con và người chồng trong những quan hệ xã hội thông thường và ngay cả trong quan hệ thừa kế. Ngược lại với bản chất pháp luật của chế độ thực dân, phong kiến, pháp luật thừa kế dưới chế độ mới ở nước ta đã được thể hiện rõ bản chất ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Điều 9 Hiến pháp 1946 quy định: "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện", trong đó người vợ có quyền thừa kế như những người con khác khi chồng chết trước. Đặc biệt, khi sắc lệnh số 97-SL ngày 22 tháng 5 năm 2 Giáo trình Luật dân sự- Đại học Luật Hà Nội , tr.266
  18. 11 1950 được ban hành, diện thừa kế theo pháp luật theo tinh thần của Điều 10 và Điều 11 bao gồm: con cháu, vợ hay chồng của người để lại di sản. Như vậy, diện thừa kế theo pháp luật dưới chế độ mới ở nước ta kể từ năm 1945 đến nay luôn được xác định theo quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng giữa người để lại di sản và người thừa kế. Một người có thể trở thành người thừa kế theo pháp luật đối với di sản của người chết thì giữa họ phải có mới quan hệ nhất định khi người để lại di sản còn sống. Mối quan hệ này là sợi dây ràng buộc họ bởi quyền của người này và nghĩa vụ của người kia hoặc là bổn phận và trách nhiệm giữa họ khi người để lại di sản còn sống. Những mối quan hệ được bắt nguồn từ sâu xa của giá trị đạo đức truyền thống cùng sự phù hợp với pháp luật của một chế độ xã hội nhất định. Theo BLDS hiện hành thì những người thuộc diện thừa kế gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, mẹ nuôi, cha nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh, chị, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. Tóm lại, diện thừa kế bao gồm các cá nhân còn sống có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản được tính đến thời điểm mở thừa kế của người đó và những cá nhân sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Phạm vi những cá nhân thuộc diện thừa kế được xác định theo số người được pháp luật chỉ định trong các hàng thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. * Hàng thừa kế Khác với thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật phải xác định được người thuộc diện thừa kế là ai? Nhưng không phải tất cả những người thuộc diện thừa kế đều được hưởng di sản thừa kế như nhau, mà theo mức độ quan hệ với người để lại di sản thừa kế, pháp luật phân những người thuộc diện thừa kế thành các hàng thừa kế. Những nhóm người được pháp luật xếp trong cùng một hàng được hưởng phần di sản bằng nhau được gọi là hàng thừa kế. Không phải tất cả những người thuộc diện được hưởng thừa kế đều được hưởng phần di sản như nhau, mà tùy thuộc vào mức độ quan hệ với người để lại di sản, pháp luật phân những người thuộc diện được hưởng thừa kế thành các hàng
  19. 12 thừa kế khác nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Nghiên cứu và phân tích một số các quy định về hàng thừa kế theo pháp luật của một số nước trên thế giới cho thấy việc xác định hàng thừa kế ở mỗi nước có khác nhau nhưng cũng như diện thừa kế, việc quy định hàng thừa kế cũng đều dựa trên quan hệ huyết thống, hôn nhân và nuôi dưỡng. Khái niệm hàng thừa kế là gì cũng không được quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật của Việt Nam và cũng chưa có tác giả nào đưa ra khái niệm chính xác, đầy đủ thể hiện rõ nội dung của hàng thừa kế Điều 651 BLDS năm 2015 quy định những người thừa kế theo pháp luật được sắp xếp theo ba hàng thừa kế sau đây: Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, hàng thừa kế cũng được sắp xếp dựa trên cơ sở mức độ thân thích với người để lại di sản. Những người thừa kế ở hàng thứ nhất và hàng thứ hai đều có mối quan hệ huyết thống, hôn nhân, nuôi dưỡng với người để lại di sản, giữa họ đều có nghĩa vụ nuôi dưỡng, giám hộ và đại diện đương nhiên của nhau khi thỏa mãn các điều kiện phải giám hộ cho nhau nhất định. Những người thừa kế ở hàng thứ ba được cơ cấu gồm nhiều thế hệ và nhiều bậc trên dưới khác nhau theo quan hệ huyết thống nhưng giữa họ không có sự ràng buộc về nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau. 1.2.2 Cơ sở xác định diện và hàng thừa kế Qua từng giai đoạn phát triển, quy định về diện thừa kế có nhiều điểm chung và có những quy định về phạm vi rộng hẹp khác nhau. Trước hết, cần xem xét khái niệm về diện thừa kế. Diện thừa kế là một trong những nội dung quan trọng của chế định thừa kế. Tuy nhiên, khái niệm về diện thừa kế mới chỉ được quan tâm nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học pháp lý chứ
  20. 13 chưa được ghi nhận dưới góc độ quy định của pháp luật nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Trong Giáo trình Luật dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội có đưa ra khái niệm về diện thừa kế như sau: "Diện những người thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng di sản thừa kế của người chết theo quy định của pháp luật". Khái niệm về diện thừa kế còn có thể được hiểu là "phạm vi những người có thể được hưởng di sản do người chết để lại được xác định theo một trong ba quan hệ (quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng) với người để lại di sản". Nhìn chung các khái niệm nêu trên đã phản ánh khá đầy đủ nội dung cũng như bản chất của diện thừa kế. Tuy nhiên, khái niệm thứ hai về diện thừa kế là hợp lý, cụ thể hơn và tác giả đồng tình với quan điểm này bởi không phải cá nhân nào trong diện thừa kế cũng có quyền hưởng di sản thừa kế. Phạm vi những người có thể được hưởng di sản thừa kế phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của xã hội cũng như quy định pháp luật của mỗi chế độ nhất định. Như đã đề cập ở trên về tiến trình phát triển pháp luật về thừa kế theo pháp luật, ở nước ta, trước năm 1945, dưới chế độ cũ, đặc biệt là dưới chế độ thực dân phong kiến, bản chất của giai cấp thống trị với tư tưởng trọng nam khinh nữ hết sức nặng nề đã có sự ảnh hưởng sâu sắc đến việc xác định diện thừa kế. Theo đó, diện thừa kế chủ yếu dựa trên quan hệ huyết thống nội tộc, địa vị của người vợ trong quan hệ thừa kế bị đẩy xuống bậc thứ yếu so với các con và có sự phân biệt giữa vợ cả và vợ thứ trong việc hưởng di sản của người chồng chết trước. Kể từ khi giành được độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam và trong quá trình đổi mới, phát triển, pháp luật thừa kế ở nước ta đã xóa bỏ những tàn tích của tư tưởng lạc hậu trọng nam, khinh nữ và mở rộng diện thừa kế. Theo đó, người thừa kế theo pháp luật phải có một trong ba mối quan hệ sau đây với người để lại di sản: quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng. 1.3 Diện thừa kế theo pháp luật Việt Nam Pháp luật dân sự hiện hành quy định chế định thừa kế bao gồm hai hình thức là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Diện và hàng thừa kế là một trong những vấn đề chính yếu và chỉ được đặt ra trong hình thức thừa kế theo pháp luật. Quy định này xuất phát từ bản chất của hình thức thừa kế theo di chúc là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc, có thể để lại di sản cho bất kỳ ai nên không cần phải xác định diện và hàng thừa kế. BLDS Việt Nam hiện hành quy định diện và hàng thừa kế dựa trên ba cơ sở: quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng.
  21. 14 1.3.1 Diện thừa kế theo quan hệ hôn nhân Quan hệ hôn nhân là quan hệ khởi nguồn và bắt đầu để tạo ra các gia đình - Các tế bào của xã hội. Vì vậy, quan hệ hôn nhân luôn được pháp luật coi trọng và bảo vệ. Quan hệ hôn nhân được thiết lập trên cơ sở có sự kết hôn giữa nam và nữ. Việc kết hôn không chỉ gắn bó giữa hai người với nhau về tình cảm mà còn làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa hai người trong đó có quyền thừa kế. Pháp luật ghi nhận và bảo vệ cho vợ chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau nhằm mục đích duy trì quan hệ tình cảm đồng thời tạo cơ sở để tiếp tục duy trì cuộc sống gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Mỗi gia đình được xây dựng dựa trên những sợi dây liên kết của hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng trong đó quan hệ hôn nhân có thể xem là quan hệ nền tảng. Quan hệ hôn nhân là một trong những căn cứ quan trọng để xác định diện thừa kế theo pháp luật. Kết hôn là việc nam nữ lấy nhau thành vợ chồng theo những quy định của pháp luật, đặc biệt là Luật HN&GĐ. Theo Luật HN&GĐ năm 2014, nam nữ kết hôn phải tuân theo các quy định về điều kiện kết hôn, không vi phạm những điều cấm, và tiến hành đúng trình tự, thủ tục luật định. Khi kết hôn, quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng phát sinh và được pháp luật bảo vệ. Việc kết hôn không chỉ gắn bó giữa hai người với nhau về tình cảm mà còn làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa hai người, ngoài ra hai bên còn có quan hệ tài sản, Vợ chồng là hàng thừa kế thứ nhất của nhau theo qui định tại khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015 có quy định. Trước năm 1945, dưới chế độ thực dân phong kiến, quan hệ hôn nhân không được coi là cơ sở để xác định diện thừa kế giữa vợ và chồng. Trong quan hệ gia đình thì quan hệ hôn nhân bị xem nhẹ. Tư tưởng trọng nam, khinh nữ đã ảnh hưởng sâu sắc tới chế định thừa kế. Thừa kế di sản trong thời kỳ này được coi như là một trong những phương tiện để duy trì và bảo vệ khối tài sản của nội tộc và ưu tiên cho những người trong nội tộc của người để lại di sản được thừa hưởng. Người phụ nữ nói chung và người vợ trong gia đình không có sự bình đẳng với người đàn ông, người chồng về quan hệ sở hữu tài sản trong gia đình, quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế ruộng đất. Địa vị người vợ trong quan hệ gia đình bị đẩy xuống bậc thứ yếu so với các con và so với người chồng trong mọi quan hệ xã hội. Người vợ không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người chồng. Điều này phản ánh quan hệ hôn nhân không ràng buộc bất cứ bổn phận, trách nhiệm nào của chồng đối với người vợ. Điều 32 của
  22. 15 bộ Hoàng Việt luật lệ phản ánh rõ sự bất bình đẳng trong quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng. Nội dung của điều luật này cho thấy sau khi kết hôn người chồng là chủ toàn bộ khối tài sản của vợ chồng bao gồm cả những tài sản do người vợ đem về nhà chồng. Nếu vợ chết trước người chồng tiếp tục quản lý, sử dụng khối tài sản đó với tư cách là chủ sở hữu. Nếu người chồng chết trước, người vợ không được quyền thừa kế, mà chỉ tiếp tục được hưởng hoa lợi, lợi tức trên tài sản của người chồng để lại và có nghĩa vụ trả nợ cho chồng, kể cả trong trường hợp khoản nợ đó lớn hơn giá trị di sản của người chồng để lại.3 Đến thời kỳ Pháp thuộc, quan hệ hôn nhân có được xem xét đến, tuy nhiên chỉ dừng lại ở một khía cạnh nhỏ. Theo quy định tại Bộ Dân luật Bắc kỳ thì người vợ chính thất của người quá cố được hưởng toàn bộ di sản trong trường hợp bên chồng không còn người thân thuộc, trong khi đó người vợ thứ lại không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của chồng, chỉ được ở lại nhà chồng, hưởng lương thực và tiền chi dùng cho sinh hoạt hàng ngày. Điều này cho thấy quan hệ hôn nhân không có tính ràng buộc. Như vậy, thời kỳ trước năm 1945 diện thừa kế theo pháp luật được quy định chủ yếu dựa vào quan hệ huyết thống nội tộc mà không quan tâm đến quan hệ hôn nhân. Quan hệ hôn nhân chỉ mang lại lợi ích về quyền thừa kế cho người đàn ông nhưng không phải là cơ sở xác lập quyền thừa kế cho người đàn bà. Sau năm 1945, pháp luật thừa kế của nước ta đã có những thay đổi to lớn, trái ngược hoàn toàn với bản chất pháp luật thừa kế của chế độ cũ. Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã ghi nhận "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện". Đây là cơ sở pháp lý quan trọng xóa bỏ những quy định thể hiện sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng của chế độ HN&GĐ phong kiến để từ đó xây dựng chế độ hôn nhân mới dân chủ và tiến bộ. Mặc dù không quy định cụ thể về quyền thừa kế của người vợ hoặc chồng trong trường hợp một bên chết trước nhưng trên cơ sở của Điều 9 có thể hiểu trong quan hệ thừa kế theo pháp luật, người vợ và người chồng thuộc diện thừa kế của nhau. Sắc lệnh số 97/SL đã chính thức ghi nhận quan hệ hôn nhân trở thành một trong các căn cứ để xác định diện thừa kế, trong đó đã khẳng định vợ, chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Nguyên tắc này được tiếp tục kế thừa và cụ thể hóa tại các văn bản pháp luật sau này như Luật HN&GĐ năm 1959, Thông tư số 81, Luật HN&GĐ năm 1986, Pháp lệnh 3 Hoàng Việt luật lệ năm 1812
  23. 16 thừa kế năm 1990, Luật HN&GĐ năm 2014 và BLDS năm 2015. Tại Điều 17 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: " Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật này và các luật khác có liên quan”. Theo quy định của pháp luật hiện hành, tại khoản 1 Điều 3 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 thì "hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn". Vợ và chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau khi quan hệ hôn nhân của họ tính đến thời điểm mở thừa kế của người vợ hoặc người chồng được xác định là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ vào quan hệ hôn nhân hợp pháp, quyền thừa kế của vợ, chồng trong việc hưởng di sản của nhau được bảo đảm bằng các quy định của pháp luật. Để có thể được pháp luật thừa nhận là quan hệ hôn nhân hợp pháp thì việc kết hôn phải tuân thủ các điều kiện và thủ tục do pháp luật quy định. Hôn nhân hợp pháp phải đảm bảo cả về mặt nội dung lẫn hình thức nghĩa là phải đảm bảo các điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn. Tại khoản 5 Điều 3 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 quy định: "Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn". Để được đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải thỏa mãn điều kiện về độ tuổi kết hôn, ý chí tự nguyện, không mất năng lực hành vi dân sự và không thuộc các trường hợp cấm kết hôn quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 2 điều 5 luật HN&GĐ 2014. Giấy chứng nhận kết hôn được coi là bằng chứng của cuộc hôn nhân hợp pháp. Từ thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận các bên có quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Giấy chứng nhận kết hôn được coi là cơ sở pháp lý để các bên yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình trong quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên, trong trường hợp Giấy chứng nhận kết hôn được cấp không đúng thẩm quyền sẽ không làm phát sinh giá trị pháp lý, hai bên nam nữ không được coi là vợ chồng và do đó, không thuộc diện thừa kế của nhau. Trên thực tế, có một số trường hợp do điều kiện, hoàn cảnh khách quan nên vẫn tồn tại những quan hệ hôn nhân đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn nhưng lại vi phạm thủ tục đăng ký kết hôn. Nguyên nhân bắt nguồn từ điều kiện lịch sử, đất nước ta trải qua nhiều năm chiến tranh, nảy sinh nhiều trường hợp nam, nữ mới chỉ được gia đình tổ chức lễ cưới theo tập quán mà chưa tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn; do ảnh hưởng của những tập tục lạc hậu, dẫn tới ý thức của người dân còn rất hạn chế, chỉ tôn trọng nghi thức cưới theo tập
  24. 17 quán mà không đăng ký kết hôn theo luật định, nhất là ở các khu vực nông thôn, miền núi, các vùng dân tộc thiểu số, đồng bào theo đạo. Câu hỏi được đặt ra là liệu những trường hợp này có được thừa nhận là hôn nhân hợp pháp hay không. Trong thực tế vẫn có không ít trường hợp kết hôn không có đăng ký. Việc này tuy có vi phạm về thủ tục kết hôn nhưng không coi là việc kết hôn trái pháp luật, nếu việc kết hôn không trái với điều 8. Trong những trường hợp này, nếu có một hoặc hai bên xin ly hôn, Tòa án không hủy việc kết hôn theo Điều 10 mà xử như việc xin ly hôn theo Điều 56. Quy định về việc thừa nhận hôn nhân thực tế như trên không chỉ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của hai bên nam, nữ, đặc biệt là bảo vệ lợi ích của người phụ nữ và trẻ em mà còn nhằm giải quyết những vướng mắc trong các giao dịch do hai bên vợ chồng thực hiện với bên thứ ba. Những cuộc hôn nhân nào thỏa mãn đầy đủ các điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn, đã sống chung với nhau hàng chục năm, có tài sản chung hoặc con cái chung thì có thể coi là hôn nhân thực tế để bảo đảm quyền lợi chính đáng cho các bên đương sự, nhất là đối với phụ nữ. Theo khoản 2 điều 11 luật HN&GĐ 2014 có quy định:” Trong trường hợp tại thời điểm Tòa án giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này và hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân đó. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này”. Như vậy, trong trường hợp hai bên nam nữ chung sống như vợ chồng mặc dù không tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn nhưng đáp ứng đầy đủ điều kiện kết hôn, được Tòa án thừa nhận là trường hợp hôn nhân thực tế thì vợ chồng vẫn thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau và còn là người được thừa kế tài sản của nhau không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Việc thừa nhận hôn nhân thực tế chỉ mang tính tạm thời để giải quyết thấu tình đạt lý những trường hợp do hoàn cảnh khách quan mang lại. Hiện nay, khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực, hôn nhân thực tế không được thừa nhận nữa. Vì vậy, việc hai bên nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ không làm phát sinh quan hệ vợ chồng nên không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định vợ chồng có quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng, Vậy trong trường hợp vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại, sau đó một bên chết thì
  25. 18 bên kia có được quyền hưởng thừa kế di sản của người đã chết không? Theo khoản 1 Điều 655 BLDS năm 2015 thì "Trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản. Quy định này hoàn toàn phù hợp với bản chất của quan hệ hôn nhân và phù hợp với thực tiễn đời sống bởi việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không dẫn tới hệ quả chấm dứt quan hệ vợ chồng, do đó, vẫn phát sinh quyền thừa kế theo pháp luật giữa vợ, chồng với nhau. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 655 BLDS năm 2015 thì quyền thừa kế của nhau giữa vợ và chồng vẫn phát sinh kể cả trong trường hợp một bên chết trước tại thời điểm mà vợ, chồng đang xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật. Trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết trước, sau đó bên kia kết hôn với người khác thì vẫn được hưởng thừa kế theo pháp luật của người chồng hoặc người vợ đã chết. Đây là quy định rất tiến bộ của pháp luật hiện hành phù hợp với đời sống xã hội cũng như nếp sống văn hóa hiện nay. Hôn nhân là cơ sở của gia đình, còn gia đình là tế bào của xã hội. Đánh giá cao tầm quan trọng của quan hệ hôn nhân, Đảng và Nhà nước ta đã có những đường lối, chủ trương để phát triển và bảo vệ gia đình bền vững, thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật để ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng. Pháp luật đã ghi nhận vợ chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau một mặt xuất phát từ quan hệ gắn bó tình cảm cùng xây dựng gia đình giữa vợ và chồng, mặt khác tạo cơ sở vật chất để người còn sống tiếp tục gánh vác, duy trì cuộc sống gia đình. 1.3.2 Diện thừa kế theo quan hệ huyết thống Cha ông ta từ ngày xưa đã xem trọng tình cảm gia đình, tổ tiên nên mới có câu ca dao"Cây có gốc mới nở ngành xanh ngọn. Nước có nguồn mới bể rộng nông sâu". Quả đúng như vậy, từ trước tới nay, người Việt Nam đều rất coi trọng phong tục thờ cúng tổ tiên, việc hưởng thừa kế không chỉ đơn thuần là việc chuyển dịch tài sản từ người đã chết cho người còn sống mà còn bao hàm ý nghĩa tình cảm, tín ngưỡng. Thờ cúng tổ tiên là tấm lòng thành kính thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, biết ơn tổ tiên ông bà, cha mẹ đã sinh thành và gây dựng nên cuộc sống cho cháu con. Nếu như con cháu chính là sự nối tiếp trong dòng chảy của huyết thống qua các thế hệ thì sự chuyển dịch di sản theo chế định thừa kế chính là sự nối tiếp về quyền sở hữu. Chính vì lẽ đó, một người được coi là đã chết chưa hẳn đã là chấm dứt hoàn toàn các mối liên hệ
  26. 19 mà một phần con người đó vẫn còn hiện hữu trong con cháu, trong những di sản mà người đó để lại. Ở Việt Nam từ xa đến nay đều có tục lệ thờ cúng tổ tiên, việc hưởng thừa kế không chỉ đơn thuần là việc sử dụng tài sản để thỏa mãn nhu cầu cá nhân, mà còn hàm chứa cả ý nghĩa tình cảm và tín ngưỡng. Các tài sản của người chết để lại sẽ trở thành di sản, các di sản ấy nếu là nhà đất thì trong nhiều trường hợp, được đánh giá không chỉ bằng giá trị kinh tế hiện thời ở thời điểm họ chết hoặc thời điểm phân chia thừa kế trên thực tế mà bằng con số các thế hệ của những gia đình đã nối tiếp nhau sinh tồn trong đó tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của dòng họ. Mỗi cá nhân trở thành một mắt xích trong dòng chảy của huyết thống, của lịch sử mỗi dòng họ cho nên những tài sản đó không chỉ biểu hiện của vật chất đơn thuần, mà đối với nhiều người nó còn gắn liền với những kỷ niệm, những tình cảm thiêng liêng giữa người còn sống với người đã khuất. Nếu như con cháu chính là sự hóa thân của bố mẹ, ông bà, là sự kéo dài nhân thân của mỗi người thì sự chuyển dịch di sản theo chế định thừa kế chính là sự nối tiếp về quyền sở hữu. Vì vậy, một người coi là đã chết nhưng chết chưa hẳn là đã chấm dứt mà một phần con người đó còn hiện hữu, tồn tại trong con cháu, trong những di sản mà họ để lại. Chính vì lẽ đó, pháp luật thừa kế của Việt Nam từ xưa đến nay đều lầy quan hệ huyết thống là một trong những căn cứ xác định diện thừa kế theo pháp luật Dưới chế độ phong kiến, với ý thức bảo vệ chế độ tư hữu tài sản nhằm duy trì sự bóc lột của mình, giai cấp thống trị xem quyền tư hữu là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Thừa kế di sản trong thời kỳ này được xem như một phương tiện để duy trì và bảo vệ khối tài sản cho những người có cùng quan hệ huyết thống. Đến thời kỳ thực dân đô hộ, quan hệ huyết thống vẫn được coi là căn cứ đầu tiên và quan trọng nhất để xác định diện thừa kế theo luật. Các con đẻ, con nuôi, các cháu, cha mẹ, ông bà nội, các cụ nội, anh chị em ruột của người để lại di sản là những người thuộc diện thừa kế đầu tiên. Chỉ khi nào không còn thân thuộc bên họ nội khi đó di sản thuộc về bên họ ngoại. Quy định này phản ánh quan hệ huyết thống được các nhà làm luật thời kỳ này đặt lên hàng đầu khi xác định diện thừa kế. Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ hoặc bàng hệ được xác định thông qua sự kiện sinh đẻ. Trong xã hội phong kiến với nền kinh tế nông nghiệp còn nghèo nàn, lạc hậu, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, tự cung tự cấp là chính nên cần nhiều nhân công cùng hợp tác sản xuất. Tập quán
  27. 20 nhiều thế hệ chung sống dưới một mái nhà đã hình thành từ đó để đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Bên cạnh đó, trong xã hội phong kiến, tài sản của cá nhân chủ yếu là đất đai, do đó, thừa kế di sản trong thời kỳ này được xem như một phương tiện để duy trì, bảo vệ và phát triển khối tài sản cho những người có cùng quan hệ huyết thống. Đến thời kỳ thực dân đô hộ, diện thừa kế theo pháp luật dựa trên cơ sở quan hệ huyết thống vẫn giữ nguyên vị trí quan trọng hàng đầu. Theo đó, các con đẻ, con nuôi, các cháu, cha mẹ, ông bà nội, các cụ nội, anh chị em ruột của người để lại di sản là những người thuộc diện thừa kế đầu tiên và di sản chỉ thuộc về bên họ ngoại khi không còn thân thuộc bên họ nội. Ngay sau khi giành được độc lập, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản trong đó có quy định về vấn đề thừa kế. Theo đó, trong những năm đầu dưới chế độ mới, diện thừa kế được xác định trên hai cơ sở là quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên, đối tượng thuộc diện thừa kế theo quan hệ huyết thống ban đầu được quy định khá hẹp. Căn cứ theo quy định tại sắc lệnh số 97/SL thì diện thừa kế xét theo quan hệ huyết thống chỉ có con, cháu. Đến Thông tư 1742, diện thừa kế theo quan hệ huyết thống được mở rộng, bao gồm các con đẻ, cháu chắt, cha mẹ của người để lại di sản. Tiếp đó, tại Thông tư số 594 ngày 27/8/1968 của TANDTC, diện thừa kế xét theo quan hệ huyết thống tiếp tục được mở rộng, bao gồm con đẻ, bố mẹ đẻ, ông bà nội ngoại, anh chị em ruột. Đến Thông tư số 81 đã quy định cụ thể, mở rộng hơn nữa những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật trong đó bao gồm cả những người có quan hệ huyết thống trực hệ và bàng hệ với người để lại di sản. Phạm vi những người thừa kế di sản được xác định từ quan hệ huyết thống trực hệ bao gồm cha mẹ đẻ, ông bà nội ngoại, các con đẻ, các cháu nội ngoại của người chết. Phạm vi những người thừa kế di sản được xác định từ quan hệ huyết thống bàng hệ bao gồm anh chị em ruột. Pháp lệnh thừa kế ngày 30/08/1990 ra đời trên cơ sở kế thừa các quy định trước đó và bổ sung những quy định mới để phù hợp với tình hình xã hội lúc bấy giờ. Theo đó, ngoài những đối tượng được quy định tại Thông tư số 81, diện thừa kế theo quan hệ huyết thống còn bao gồm những người thuộc quan hệ huyết thống trực hệ và bàng hệ khác đó là cụ nội, ngoại, chú, bác, cô, dì, cậu ruột của người để lại di sản và những người mà người để lại di sản là cô, dì, chú, bác, cậu ruột. Việc mở rộng phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo quan hệ huyết thống của BLDS 2005 là hoàn toàn chính xác và hợp lý. Không có lý do gì mà quy định ông bà nội ngoại, cụ nội, cụ ngoại thuộc diện thừa kế của cháu chắt mà cháu chắt lại không thuộc diện thừa kế của ông, bà nội ngoại, cụ nội, cụ ngoại. Vì vậy, việc bổ sung cháu chắt vào diện thừa
  28. 21 kế theo pháp luật là kịp thời và cần thiết. Kế thừa và phát huy những thay đổi quan trọng của pháp luật thừa kế về diện và hàng thừa kế của pháp luật Việt Nam từ những năm 45 đến nay, gần nhất là BLDS 1995 và 2005.BLDS 2015 ra đời có nhiệm vụ hoàn thiện những vướng mắc còn tồn đọng dựa trên thực tế về thừa kế nói riêng và diện thừa kế nói chung. Lễ giáo và truyền thống đạo đức của người Việt Nam vốn rất coi trọng dòng dõi cũng như tổ tiên đã sinh ra mình. Do đó quan hệ huyết thống là cơ sở quan trọng, cơ bản quy định diện thừa kế theo pháp luật. Sự ổn định và bền vững trong quan hệ của các thành viên trong gia đình, dòng tộc và để bảo vệ hiệu quả hơn quyền thừa kế của công dân nên quan hệ huyết thống luôn luôn là căn cứ quan trọng để xác định diện thừa kế theo quy định của pháp luật. Để tạo điều kiện thắt chặt mối quan hệ của những người ruột thịt, tạo sợi dây tình cảm giữa những người thân trong gia đình đồng thời khuyến khích mọi người thực hiện tốt các quy định của pháp luật nên các nhà làm luật đã xây dựng diện thừa kế dựa trên cơ sở huyết thống. Mặt khác, pháp luật nước ta coi gia đình là tế bào của xã hội, việc tạo cho gia đình đầm ấm hạnh phúc sẽ góp phần làm xã hội ổn định và việc bảo vệ các mối quan hệ trong gia đình cũng là củng cố nền móng của xã hội. Theo mức độ quan hệ với người để lại di sản, BLDS năm 2015 phân những người thuộc diện thừa kế theo huyết thống vào các hàng thừa kế khác nhau. Trên cơ sở quan hệ huyết thống, diện thừa kế cho đến nay đã được mở rộng ra rất nhiều so với trước đây. Từ chỗ diện thừa kế chỉ được xác định dựa trên cơ sở huyết thống xuôi, con thuộc diện thừa kế của bố mẹ sau đó mở rộng đến bố mẹ thuộc diện thừa kế theo pháp luật của con, ông bà nội ngoại thuộc diện thừa kế của các cháu và ngược lại, cụ nội, cụ ngoại thuộc diện thừa kế của các chắt và ngược lại, anh chị em ruột thuộc diện thừa kế của nhau, cô, dì, chú bác, cậu ruột thuộc diện thừa kế của cháu ruột và ngược lại. Trong những mối quan hệ huyết thống được quyền hưởng thừa kế theo pháp luật đã nêu ở trên, trước hết phải kể đến mối quan hệ thiêng liêng, cao cả nhất, đó là mối quan hệ giữa con và cha mẹ. Quyền thừa kế theo pháp luật của con không phụ thuộc vào hình thức hôn nhân của cha, mẹ đẻ. Các con đẻ của người để lại di sản, không phân biệt con trai, con gái, con trong giá thú hay con ngoài giá thú, có năng lực hành vi dân sự hay không đều thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Trước hết, nếu xét về mối quan hệ giữa cha mẹ đẻ với con đẻ, từ cổ xưa cho đến ngày nay đều quy định con cái được thừa kế tài sản do cha mẹ để lại.
  29. 22 Pháp luật thời kỳ phong kiến mặc dù có sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa con trai và con gái nhưng lại rất coi trọng yếu tố huyết thống, dòng tộc và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo nguyên tắc, lễ giáo phong kiến. Luật Hồng Đức quy định con gái được xếp vào hàng thừa kế, con trai và con gái đều được chia phần thừa kế như nhau, nhưng phần đất hương hỏa bao giờ cũng giao cho con trai trưởng giữ, không có con trai trưởng được giao cho con gái trưởng, người con gái trưởng chỉ được hưởng đất hương hỏa một đời mình, sau đó phải trả lại cho nội tộc để đảm bảo dòng chảy liên tục về huyết thống, đất hương hỏa bao giờ cũng thuộc về dòng họ nội. Điều 388 Luật Hồng Đức quy định: "Cha mẹ mất cả, có ruộng đất, chưa kịp để lại chúc thư, mà anh chị em tự chia nhau thì lấy một phần hai mươi số ruộng đất làm hương hỏa giao cho con trai trưởng giữ, không có con trai trưởng thì giao cho con gái trưởng" Đến thời kỳ thực dân đô hộ, quyền thừa kế của con cái đối với tài sản của bố mẹ để lại vẫn được pháp thừa nhận. Điều 332 Dân luật Trung kỳ quy định: “Người nào khi còn sống mà không chia tài sản của mình và cũng không lập chúc thư, đến khi mệnh một thời di sản của người ấy, nếu có con thời để lại cho con. Khi người mệnh một trước kia không chia tài sản của mình và cũng không lập chúc thư mà nói rõ ràng cho đứa con nào, thời con trai, con gái đều được chia tài sản ấy mỗi người một phần bằng nhau” Nội dung của quy định này phản ánh con cái được hưởng tài sản của bố mẹ không phân biệt con trai, con gái. Trường hợp bố mẹ không để lại di chúc phân chia thì con trai hay gái đều được hưởng bằng nhau. Quy định về việc con được hưởng di sản của cha mẹ tiếp tục được kế thừa và phát triển trong các văn bản pháp luật sau này của chế độ mới. Pháp luật về hôn nhân và gia đình của chế độ mới luôn bảo vệ lợi ích chính đáng của những người con xét về quan hệ huyết thống với cha, mẹ và nghĩa vụ của người làm cha, làm mẹ đối với con. Sắc lệnh số 97 chính thức quy định diện thừa kế theo pháp luật bao gồm con cháu, vợ hay chồng của người để lại di sản. Và các văn bản được ban hành tiếp theo để điều chỉnh quan hệ thừa kế như Thông tư số 81; PLTK ngày 30/8/1990; BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 và hiện nay là BLDS 2015 đều quy định con thuộc diện thừa kế theo pháp luật của bố mẹ. Quyền thừa kế theo pháp luật của con không phụ thuộc vào hình thức hôn nhân của cha đẻ, mẹ đẻ. Các con đẻ của người để lại di sản, không phân biệt con trai hay con gái, con trong giá thú hay con ngoài giá thú, có năng lực hành vi dân sự hay không đều thuộc diện diện thừa kế của cha mẹ. Tuy nhiên, việc xác định cha mẹ cho con hiện nay vẫn là một vấn đề
  30. 23 phức tạp và khó khăn. Nhưng điều này lại hết sức cần thiết vì đó là việc xác định huyết thống giữa cha mẹ và con, là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ các quyền nhân thân và quyền tài sản của công dân, trong đó có quyền thừa kế tài sản nếu có tranh chấp xảy ra. Theo quy định của Luật HN&GĐ con trai, con gái đều có quyền thừa kế như nhau trong việc nhận di sản của bố mẹ để lại. Con đẻ gồm có con chung và con riêng. Con riêng lại gồm có con trong giá thú và con ngoài giá thú. "Con chung" trước đây pháp luật nước ta gọi bằng thuật ngữ "con chính thức" là người con được sinh ra từ hôn nhân hợp pháp. Về mặt nguyên tắc, các trường hợp sau đây được coi là con chung của vợ chồng: - Con sinh ra sau khi đã tổ chức đăng ký kết hôn cho đến khi chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận và quyết định theo yêu cầu của vợ chồng hoặc cả hai bên vợ chồng. - Con sinh ra sau khi chấm dứt quan hệ hôn nhân do tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai bên vợ chồng nhưng người vợ đã có thai trong thời kỳ hôn nhân - Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn nhưng được cả vợ và chồng thừa nhận4.Về nguyên tắc con chung đương nhiên là người thừa kế theo pháp luật của bố mẹ khi bố mẹ qua đời. - "Con ngoài giá thú" là thuật ngữ để chỉ những người con được sinh ra không phải từ hôn nhân hợp pháp và là đứa trẻ không được người cha thừa nhận. Nói cách khác, con ngoài giá thú là con mà cha mẹ không phải là vợ chồng hoặc cha mẹ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng việc đăng ký kết hôn chưa được UBND xã, phường, thị trấn công nhận và ghi vào sổ đăng ký kết hôn. BLDS năm 1995 chỉ quy định trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản bố mẹ cháu khi còn sống được hưởng. Vì vậy, trong thực tiễn áp dụng đã đặt ra vấn đề trường hợp con của người để lại di sản chết cùng một thời điểm với người để lại di sản giải quyết ra sao? Có áp dụng thừa kế thế vị được không? Xung quanh vấn đề này còn có nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau, thậm chí trái 4 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Hà Nội.
  31. 24 ngược nhau. Vì thế, để có sự thống nhất khi áp dụng pháp luật cũng như việc hoàn thiện hệ thống pháp luật BLDS năm 2015 đã có sự điều chỉnh, bổ sung kịp thời này. Theo quy định tại Điều 651 BLDS năm 2015 anh chị em ruột thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau còn anh chị em nuôi không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Các nhà làm luật căn cứ vào quan hệ huyết thống để quy định trường hợp anh chị em ruột được thừa kế di sản của nhau. Giữa anh chị em nuôi không có quan hệ huyết thống gì nên không thuộc trường hợp điều chỉnh của quy định này. Việc mở rộng phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo quan hệ huyết thống của BLDS năm 2015 so với các văn bản trước đó là hoàn toàn cần thiết và hợp lý bởi nó tuân theo quy tắc quyền thừa kế lẫn nhau giữa các chủ thể trong mối quan hệ huyết thống. Như vậy, xuôi theo dòng phát triển của pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ cho đến nay, phạm vi các đối tượng thuộc diện thừa kế theo pháp luật xác định trên cơ sở quan hệ huyết thống theo quy định tại BLDS năm 2015 là đầy đủ và mở rộng nhất. Quy định này không chỉ thắt chặt hơn tình cảm gia đình giữa các thế hệ mà còn phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của mỗi cá nhân luôn muốn dành tài sản của mình sau khi chết cho những người gắn bó yêu thương, gần gũi với họ nhất. Hiện nay, quy định về việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra theo phương pháp khoa học, chẳng hạn như bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm là rất phù hợp với thực tiễn đời sống, vừa mang tính nhân văn cao cả, vừa đảm bảo được quyền lợi của những người liên quan. Việc xác định cha, mẹ, con không những là cơ sở để xác định quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ và con đối với nhau trong quan hệ nhân thân mà còn là cơ sở để xác định diện thừa kế giữa cha, mẹ và con khi một trong các bên chết. Tóm lại, nhằm củng cố hơn nữa sự ổn định và bền vững trong quan hệ của các thành viên trong gia đình, dòng tộc và để bảo vệ hiệu quả hơn quyền thừa kế của công dân nên quan hệ huyết thống luôn luôn là căn cứ quan trọng để xác định diện thừa kế theo quy định của pháp luật. Để tạo điều kiện thắt chặt mối quan hệ của những người ruột thịt, tạo sợi dây tình cảm giữa những người thân trong gia đình đồng thời khuyến khích mọi người thực hiện tốt các quy định của pháp luật nên các nhà làm luật đã xây dựng diện thừa kế dựa trên cơ sở huyết thống. Mặt khác, pháp luật nước ta coi gia đình là tế bào của xã hội, việc tạo cho gia đình đầm ấm hạnh phúc sẽ góp phần làm xã hội ổn định và việc bảo vệ các mối quan hệ trong gia đình cũng là củng cố nền móng của xã hội. Theo mức độ quan hệ với người để lại
  32. 25 di sản, BLDS năm 2015 phân những người thuộc diện thừa kế theo huyết thống vào các hàng thừa kế khác nhau. 1.3.3 Diện thừa kế theo quan hệ nuôi dưỡng Theo quy định của pháp luật hiện hành, diện thừa kế được xác định trên cơ sở quan hệ nuôi dưỡng bao gồm quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi và ngược lại. Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định một trường hợp ngoại lệ đặc biệt, đó là trường hợp con riêng với bố dượng, mẹ kế nếu đáp ứng điều kiện nhất định. Như vậy, có thể khái quát quan hệ nuôi dưỡng là sự thể hiện nghĩa vụ chăm sóc nhau, nuôi dưỡng nhau giữa những người thân thuộc theo quy định của pháp luật. Theo quy định của pháp luật con nuôi thuộc diện thừa thừa kế theo pháp luật của bố mẹ nuôi và ngược lại. Bên cạnh đó, con riêng của vợ, của chồng với cha kế, mẹ kế trong một số trường hợp cũng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Những trường hợp nêu trên không bị ràng buộc với nhau bởi quan hệ hôn nhân hay quan hệ huyết thống. Vậy các nhà làm luật căn cứ vào đâu để đưa ra những quy định như vậy? Cơ sở để xác lập quan hệ thừa kế theo pháp luật giữa họ với nhau là quan hệ nuôi dưỡng. Quan hệ nuôi dưỡng là sự thể hiện nghĩa vụ chăm sóc nhau, nuôi dưỡng nhau giữa những người thân thuộc theo quy định của pháp luật. Khác với quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con đẻ, quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi không phải xác định trên cơ sở huyết thống mà được xác định trên cơ sở pháp lý. Những quyền lợi và nghĩa vụ trong quan hệ thừa kế giữa con nuôi với cha mẹ nuôi lại được xác định như giữa cha mẹ đẻ với con đẻ. Con nuôi thuộc diện thừa kế theo pháp luật của cha mẹ nuôi. Trước 1959, theo quy định của Dân luật Trung kỳ và Dân luật Bắc Kỳ người con nuôi có quyền lợi và nghĩa vụ như con đẻ. Người con nuôi không chỉ có quyền thừa kế theo luật của cha mẹ nuôi mà còn có quyền thừa kế theo pháp luật của cha mẹ đẻ và của những người khác cùng huyết thống. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp luật đều quy định con nuôi và cha mẹ nuôi được thừa kế theo pháp luật của nhau, con nuôi được coi như con đẻ và xếp cùng hàng thừa kế với con đẻ. Quy định quyền thừa kế đối với con nuôi là cơ sở để đảm bảo cho trẻ em là con nuôi được hưởng quyền chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ và thể hiện sự quan tâm của xã hội đối với các thế hệ tương lai. Quan hệ nuôi dưỡng đi từ trách nhiệm, bổn phận đến lòng nhân ái của người làm cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi, góp phần xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp hơn, là cơ sở không thể thiếu để xác định diện thừa kế theo quy định của pháp luật
  33. 26 Trước hết xét đến quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Theo quy định tại Điều 653 BLDS năm 2015 thì "Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và 653 của Bộ luật này". Trước đó, ngay từ Luật Hồng Đức đã ghi nhận con nuôi có quyền thừa kế của cha mẹ nuôi "Con nuôi mà có văn tự là con nuôi và ghi trong giấy rằng sau sẽ chia điền sản cho, khi cha mẹ nuôi chết không có chúc thư, điền sản đem chia cho con đẻ và con nuôi 5. Câu hỏi được đặt ra là sự kiện nào xác lập mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi? Đó chính là sự kiện nuôi con nuôi. Pháp luật Việt Nam quy định khá chặt chẽ việc nhận con nuôi nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi. Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 và gần đây nhất là Luật HN&GĐ 2014 đều có những quy định về điều kiện nhận nuôi con nuôi, thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết việc nhận nuôi con nuôi. Đặc biệt, những quy định này đã được kế thừa và phát triển, ghi nhận đầy đủ, cụ thể hơn trong văn bản pháp lý chuyên sâu, đó là sự ra đời của Luật Nuôi con nuôi năm 2010. Khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi đã giải thích: "Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi". Việc nhận nuôi con nuôi dựa trên ý chí chủ quan của các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi. Theo nguyên tắc chung thì "Người được nhận làm con nuôi phải dưới 16 tuổi. Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng"6. Quy định này không có sự khác biệt đáng kể so với Luật HN&GĐ năm 2014. Vấn đề được đặt ra là liệu quy định trên chỉ giới hạn trường hợp hai người là vợ chồng thì cả hai phải đồng ý nhận nuôi con nuôi hay một bên vợ, chồng vẫn có thể nhận nuôi con nuôi? Khi đó, hậu quả pháp lý sẽ như thế nào, người được nhận làm con nuôi và một bên vợ (chồng) nhận con nuôi có thuộc diện thừa kế của nhau hay người con nuôi đó thuộc diện thừa kế của cả hai vợ chồng và ngược lại? Theo quy định của pháp luật thì chỉ hai trường hợp "một người độc thân" hoặc "cả hai người là vợ chồng” mới có quyền nhận con nuôi nên trong trường hợp một bên vợ (chồng) muốn nhận nuôi con nuôi nhưng bên kia không đồng ý thì quan hệ nuôi con nuôi sẽ không được xác lập. Quy định như vậy là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với mục đích của việc nuôi con nuôi vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, 5 Viện sử học (1991), Quốc triều hình luật, Nxb Pháp lý,Hà Nội,Điều 380. 6 Khoản 3,điều 8, Luật Nuôi con nuôi 2010.
  34. 27 giáo dục trong môi trường gia đình đầm ấm. Người nhận nuôi con nuôi phải đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi năm 2010, cụ thể là: - Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. - Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên. - Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. - Có tư cách đạo đức tốt. - Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc đang chấp hành hình phạt tù, quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh Ý chí tự nguyện của người nhận nuôi con nuôi phải phù hợp với mục đích của việc nhận nuôi con nuôi. Việc nhận nuôi con nuôi phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và ghi vào sổ hộ tịch. Theo quy định tại Điều 9 Luật Nuôi con nuôi năm 2010, thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi ở cấp cơ sở hay trung ương phụ thuộc vào tính chất lãnh thổ, cụ thể là: - Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi hoặc của người nhận con nuôi đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước; - Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi quyết định việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài đăng ký việc nuôi con nuôi của công dân Việt Nam tạm trú ở nước ngoài. Việc nuôi con nuôi hợp pháp sẽ dẫn tới hệ quả: Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan7. Như vậy, pháp luật chỉ thừa nhận và xác định quan hệ nuôi dưỡng giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi trong trường hợp nhận con nuôi không trái với luân thường đạo lý, đạo đức xã 7 Khoản 1,điều 24, Luật Nuôi con nuôi 2010
  35. 28 hội. Nếu việc nhận nuôi con nuôi nhằm mục đích bóc lột sức lao động dùng con nuôi vào mục đích xấu xa phạm pháp sẽ không được chấp nhận. Điều kiện quan trọng để việc nhận con nuôi là hợp pháp là phải tuân thủ các quy định của pháp luật. Nhưng trên thực tế, xảy ra nhiều trường hợp do trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân còn hạn chế nên mặc dù đã xác lập quan hệ cha mẹ nuôi với con nuôi rất gắn bó nhưng lại không đi đăng ký tại UBND có thẩm quyền. Vậy những trường hợp này giải quyết thế nào? Giải quyết vấn đề hôn nhân thực tế được Nhà nước ban hành những văn bản pháp luật điều chỉnh theo sát với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nhưng vấn đề con nuôi thực tế chưa được các nhà làm luật quan tâm điều chỉnh cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp Luật HN&GĐ của Việt Nam. Trong thực tế có những trường hợp nhân dân chưa hiểu pháp luật cho nên chưa xin chính quyền công nhận và đăng ký vào sổ hộ tịch việc nuôi con nuôi. Trong trường hợp này, việc nuôi con nuôi là ngay thẳng, cha mẹ đẻ của đứa trẻ hoàn toàn tự nguyện, việc nuôi dưỡng đứa trẻ được đảm bảo, thì coi là con nuôi thực tế “ Về nguyên tắc một người có thể nhận một hoặc nhiều người làm con nuôi nhưng một người chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc của hai người là vợ chồng. Trong trường hợp người nhận con nuôi là người chưa có vợ, có chồng hoặc góa vợ, góa chồng việc xác lập quan hệ cha mẹ nuôi không có gì vướng mắc và người con nuôi đó sẽ là người thừa kế theo pháp luật đối với di sản của cha nuôi, hoặc mẹ nuôi. Trong trường hợp người chưa có vợ, có chồng hoặc đã góa vợ, góa chồng đã nhận con nuôi và sau đó lại thiết lập quan hệ hôn nhân hợp pháp với người khác thì người con nuôi có phải là con nuôi chung của cả hai vợ chồng hay không hay chỉ là con nuôi riêng của vợ hoặc chồng? Và họ có trở thành người thuộc diện thừa kế theo pháp luật của cả hai vợ chồng đó không? Vấn đề này chưa có quy phạm pháp luật nào điều chỉnh. Đây cũng là vấn đề các nhà làm luật cần quan tâm nghiên cứu. Nhưng theo nguyên tắc suy đoán, việc thừa kế của người con nuôi của vợ, hoặc chồng cũng sẽ như những người con riêng của vợ, hoặc chồng nên họ sẽ không thuộc diện thừa kế của cả hai vợ chồng đó mà chỉ là người thừa kế của người đã nhận họ là con nuôi trước khi kết hôn mà thôi. Từ cơ sở pháp lý nêu trên, con nuôi thực tế được hưởng các quyền và có nghĩa vụ như con nuôi có thực hiện thủ tục đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền. Điều này đồng nghĩa với việc con nuôi thực tế và người nuôi thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau.
  36. 29 Quan hệ thừa kế được xác định dựa trên cơ sở quan hệ nuôi dưỡng còn bao gồm quan hệ giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế. Theo quy định tại Điều 79 Luật HN&GĐ năm 2014 thì bố dượng, mẹ kế có nghĩa vụ và quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng cùng sống chung với mình và ngược lại, con riêng có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng bố dượng, mẹ kế cùng sống chung với mình. Mặc dù giữa con riêng và bố dượng mẹ kế không có mối quan hệ sinh thành nhưng giữa họ đã thể hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì họ được thừa kế theo pháp luật của nhau. Vấn đề này đã được ghi nhận cụ thể tại Điều 654 BLDS năm 2015: "Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này". Trước đó, Thông tư số 81 cho đến Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và BLDS năm 1995 đều quy định con riêng và bố dượng, mẹ kế thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau khi một bên chết trước nếu giữa họ đã thể hiện được nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con. Như vậy, trải qua các thời kỳ, pháp luật về thừa kế chỉ thừa nhận con riêng và bố dượng, mẹ kế thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau khi và chỉ khi đáp ứng điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con. Quy định này còn mang tính chủ quan, chung chung. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như thế nào sẽ được coi là như cha con, mẹ con? Pháp luật không đặt ra tiêu chí cụ thể nào dẫn đến việc áp dụng tùy nghi, không thống nhất trên thực tế giữa các Tòa khác nhau đối với cùng một sự việc. Do đó cần phải có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng để trước hết bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của con riêng, bố dượng, mẹ kế đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng thống nhất, tránh tranh chấp có thể xảy ra hoặc bị kéo dài. Việc quy định về quyền thừa kế theo pháp luật giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế phù hợp với đạo đức xã hội và truyền thống chan chứa lòng nhân ái của người Việt Nam. Tóm lại, ngoài ba quan hệ: hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng với người để lại di sản thì không có bất cứ quan hệ nào khác để xác định diện thừa kế theo pháp luật. Theo pháp luật về thừa kế của một số quốc gia trên thế giới như pháp luật dân sự Pháp, Thái Lan, Nhật Bản, Liên bang Nga, quan hệ huyết thống trực hệ theo ngành dọc luôn được bảo vệ và ưu tiên hàng đầu, xuất phát từ nguyên tắc "chảy xuôi" từ thế hệ trước xuống thế hệ sau. Quyền hưởng thừa kế của những người có quan hệ hôn nhân hay quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản được xếp ở vị trí thứ yếu. Pháp luật dân sự Pháp còn phân biệt cả giữa anh em đồng huyết (cùng cha, cùng mẹ) với anh em cùng cha khác mẹ (hoặc cùng mẹ khác cha)
  37. 30 trong việc hưởng thừa kế. Trong khi đó, pháp luật thừa kế của Việt Nam, xuất phát từ quan niệm trọng tình nghĩa vợ chồng, coi con nuôi cũng như con đẻ, con trong giá thú cũng như con ngoài giá thú nên dù là người có quan hệ hôn nhân hay quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản vẫn được xem xét ngang bằng với những người có quan hệ huyết thống. Thiết nghĩ không phải ngẫu nhiên mà quan hệ huyết thống trực hệ được pháp luật thừa kế của các quốc gia coi trọng hơn bởi mục đích của thừa kế là duy trì và phát triển khối tài sản, bảo vệ sự trường tồn của gia đình. Do đó, để thực hiện tối ưu mục đích này, không ai khác ngoài các con đẻ của người để lại di sản là những người có điều kiện nhất trong việc tiếp nối và duy trì di sản và cứ thế truyền lại cho đời sau. Pháp luật thừa kế Việt Nam nên chăng cần điều chỉnh lại những người được thừa kế dựa trên quan hệ hôn nhân và nuôi dưỡng ở một hàng thừa kế khác không phải là hàng thừa kế thứ nhất. Thực tế ngày nay, không chỉ có việc nhận nuôi con nuôi trong nước mà hàng năm vẫn có khá nhiều trẻ em Việt Nam đi làm con nuôi ở các quốc gia khác. Vấn đề thừa kế càng trở nên phức tạp hơn khi quan hệ thừa kế đã vượt qua phạm lãnh thổ và sự khác biệt về quan niệm, phong tục truyền thống của các nước đặc biệt là các nước phương Tây. Để giải quyết triệt để vấn đề này pháp luật cần bổ sung thêm những quy định cụ thể về vấn đề con nuôi trong nước cũng như việc ký kết, tham gia các công ước, hiệp định quốc tế về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, để bảo vệ quyền lợi cho trẻ em Việt Nam. Tóm lại, các quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng là những quan hệ tình cảm có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Pháp luật nước ta dựa vào ba quan hệ này để xác định diện thừa kế theo pháp luật. Và hiện nay những quy định của BLDS năm 2015 về diện thừa kế ngày càng hoàn chỉnh theo hướng ngày càng mở rộng phạm vi người có quyền hưởng di sản. Đây là sự mở rộng cần thiết nhằm đảm bảo sự bền vững của quan hệ hôn nhân, sự phát triển mạnh mẽ của dòng họ, và duy trì được những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. 1.4 Hàng thừa kế theo pháp luật Khác với thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật phải xác định được người thuộc diện thừa kế là ai? Nhưng không phải tất cả những người thuộc diện thừa kế đều được hưởng di sản thừa kế như nhau, mà theo mức độ quan hệ với người để lại di sản thừa kế, pháp luật phân những người thuộc diện thừa kế thành các hàng thừa kế.
  38. 31 Những nhóm người được pháp luật xếp trong cùng một hàng được hưởng phần di sản bằng nhau được gọi là hàng thừa kế. Không phải tất cả những người thuộc diện được hưởng thừa kế đều được hưởng phần di sản như nhau, mà tùy thuộc vào mức độ quan hệ với người để lại di sản, pháp luật phân những người thuộc diện được hưởng thừa kế thành các hàng thừa kế khác nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Như đã phân tích, pháp luật thừa kế của một số quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới có những quy định khác nhau về hàng thừa kế theo pháp luật. Pháp luật thừa kế của Pháp, Nhật Bản, Thái Lan, Cộng hòa Liên bang Nga đều quy định các con của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất mà không bao gồm cha, mẹ của người để lại di sản. Một đặc điểm chung nữa trong quy định về thừa kế theo pháp luật của các quốc gia này là đều quy định hàng thừa kế xen kẽ với bậc thừa kế, thừa kế theo bậc được thực hiện khi người thuộc hàng thừa kế được hưởng di sản đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì các con (các cháu) của người đó được hưởng di sản. Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan phân chia làm 6 hàng thừa kế theo thứ tự: Con cái; Bố mẹ; Anh, chị, em đồng huyết thống; Anh, chị, em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha; Ông, bà; Chú, bác, cô, dì. Pháp luật thừa kế Thái Lan có quy định quyền thừa kế di sản của nhau giữa vợ và chồng nhưng lại không ghi nhận cụ thể trong một hàng thừa kế nhất định nào mà phụ thuộc vào các hàng và bậc thừa kế theo quan hệ huyết thống nội tộc của người để lại di sản. Trong khi đó, BLDS của Nhật Bản lại chia làm 3 hàng thừa kế theo thứ tự: Con (cháu) trực hệ (hàng 1); những người có quan hệ huyết thống trực hệ bề trên (hàng 2); anh, chị, em ruột của người để lại di sản (hàng 3). Pháp luật thừa kế Nhật Bản quy định về hàng và bậc thừa kế có cơ cấu về số người được ưu tiên hưởng di sản theo quan hệ huyết thống trực hệ bề trên và trực hệ bề dưới của người để lại di sản. Khác với pháp luật thừa kế ở nước ta, pháp luật dân sự Nhật Bản có sự phân biệt trong việc phân chia di sản giữa những người cùng hàng thừa kế: trường hợp vợ (chồng) và các con là người thừa kế thì các con được hưởng 2/3 và vợ (chồng) chỉ được hưởng 1/3; trường hợp vợ (chồng) và người thân trực hệ bề dưới là những người thừa kế thì mỗi bên được hưởng ½; trường hợp vợ (chồng) và anh, chị, em ruột là những người thừa kế thì vợ (chồng) được hưởng 2/3.
  39. 32 Bộ luật Dân sự Pháp chia thành 4 hàng và 6 bậc thừa kế. Hàng thừa kế thứ nhất cũng chỉ giới hạn trong phạm vi "con và ti thuộc của con", vợ, chồng hay cha, mẹ không thuộc hàng thừa kế này. Pháp luật dân sự Pháp quy định về các hàng thừa kế chủ yếu dựa trên quan hệ huyết thống. Người vợ (chồng) cũng có quyền hưởng di sản với những mức khác nhau tùy thuộc vào việc họ thừa kế cùng với người thân thích nào của người để lại di sản. Pháp luật của các quốc gia nêu trên có những quy định khác nhau về số lượng hàng thừa kế cũng như những người thuộc cùng một hàng thừa xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội, điều kiện lịch sử, quan niệm khác nhau về gia đình, nghĩa vụ của các cá nhân trong quan hệ gia đình. Bên cạnh đó còn bị chi phối bởi truyền thống văn hóa, phong tục tập quán. Nhưng nhìn chung, pháp luật về thừa kế của các quốc gia nói trên đều coi trọng quan hệ huyết thống hơn cả và việc dịch chuyển di sản đều được thực hiện theo nguyên tắc "dòng chảy xuôi" nên cha mẹ không bao giờ được xếp vào hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của con khi con chết, cũng như vợ, chồng không thuộc hàng thừa kế thứ nhất khi một bên chết. Tất cả di sản của người chết dồn hết cho con của họ được hưởng, chỉ khi nào họ không có con hưởng thừa kế, di sản mới được chuyển dịch cho cha, mẹ theo "dòng chảy ngược". Pháp luật về thừa kế của Việt Nam quy định 3 hàng thừa kế và những người thuộc cùng một hàng thừa kế bao gồm cả những người có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản. Với số lượng hàng thừa kế được giới hạn rất ít và những người thuộc cùng hàng thừa kế thuộc nhiều mối quan hệ khác nhau với người để lại di sản, dường như chưa tạo ra được sự công bằng cũng như chưa phù hợp với nguyên tắc di sản được chuyển cho người có quan hệ gần gũi nhất với người để lại di sản theo "dòng chảy xuôi, cha truyền con nối". Nguyên tắc chia di sản thừa kế, trước hết sẽ chia di sản cho những người thừa kế ở hàng trước, theo thứ tự ưu tiên chia trước, chia hết và chia đều bằng nhau cho những người ở hàng thừa kế thứ nhất. Nếu không có ai ở hàng thừa kế thứ nhất do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền hưởng di sản, thì di sản mới được chuyển xuống và chia đều cho những người ở hàng thừa kế thứ hai. Tương tự như vậy đối với hàng thừa kế thứ ba. Theo quy định hiện hành của pháp luật thừa kế Việt Nam, việc phân nhóm những người thừa kế về từng hàng thừa kế sẽ phụ thuộc vào mức độ thân thích, gần gũi với người để lại di sản xét trên cả quan hệ huyết thống (trước hết là quan hệ huyết thống
  40. 33 trực hệ), quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng. Để có cái nhìn toàn diện hơn về hàng thừa kế ở Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành, tác giả xin phân tích cụ thể từng hàng thừa kế đồng thời xen kẽ những nhận xét nhằm hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật. 1.4.1 Hàng thừa kế thứ nhất Trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau, pháp luật quy định rất khác nhau về hàng thừa kế. Giai đoạn trước năm 1945, tư tưởng phong kiến, lễ giáo hủ tục hà khắc đã ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng lập pháp thời kỳ này. Hàng thừa kế theo pháp luật và người thừa kế theo trật tự hàng cũng bị những tư tưởng phong kiến chi phối mạnh mẽ. Quy định về hàng thừa kế cũng như phạm vi những người trong cùng một hàng thừa kế có sự khác nhau ở mỗi thời kỳ. Trước năm 1945, dưới chế độ thực dân, phong kiến, pháp luật về thừa kế quy định về hàng thừa kế trước hết là bảo vệ quyền hưởng di sản của những người trong quan hệ huyết thống nội tộc với người để lại di sản và nhằm củng cố gia đình theo ý thức hệ phong kiến. Bộ luật Hồng Đức quy định hai hàng thừa kế trong đó các con là hàng thừa kế thứ nhất. Đến Bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931, diện những người thừa kế không được chia thành hàng cụ thể mà quy định thành năm thứ tự ưu tiên hưởng di sản trong đó thứ tự đầu tiên là con cái của người để lại di sản (bao gồm con đẻ, con nuôi). Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, đất nước ta đã có nhiều đổi mới, trong đó bao gồm cả hệ thống pháp luật. Những ngày đầu xây dựng đất nước, Sắc lệnh số 97 ra đời quy định chỉ có một hàng thừa kế là vợ góa, chồng góa, các con của người để lại di sản. Những quy định về hàng thừa kế trong các văn bản ở những giai đoạn sau này như Pháp lệnh thừa kế năm 1990, BLDS năm 1995 đều có xu hướng mở rộng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho những người thân thích, gần gũi nhất với người để lại di sản. Bộ luật Dân sự hiện hành quy định ba hàng thừa kế theo pháp luật tại Điều 651. Theo đó, hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất dựa trên cả ba mối quan hệ bao gồm quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Trong đó, những người ở bề trên gồm có: ông, bà; ngang bậc gồm có: vợ, chồng và bề dưới bao gồm: các con. Theo quy định của pháp luật hiện hành, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất đều có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau, là giám hộ và đại diện đương nhiên của nhau khi thỏa mãn các điều kiện luật định.
  41. 34 Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là mối quan hệ mang tính đối nhau, nghĩa là bên này chết thì bên kia thuộc hàng thừa kế thứ nhất và ngược lại. Căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân như với các điều kiện như được phân tích tại mục quan hệ hôn nhân ở trên. Theo quy định tại Điều 651 BLDS năm 2015 thì con nuôi, cha nuôi, mẹ nuôi của người chết để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Tuy nhiên, trên thực tế việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi có thể được thực hiện theo nhiều cách thức với nhiều mục đích khác nhau và chỉ những trường hợp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và ghi vào sổ hộ tịch (theo Luật HN&GĐ năm 1959 và Luật HN&GĐ năm 1986) hoặc có đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (theo Luật HN&GĐ năm 2014, Luật Nuôi con nuôi 2010) mới phát sinh quan hệ cha mẹ và con trước pháp luật. Hệ thống pháp luật hiện hành của nước ta không công nhận quan hệ nuôi dưỡng thực tế (quan hệ nuôi con nuôi về mặt xã hội). Đó là trường hợp nhận con nuôi nhưng không đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc nuôi con nuôi trong thực tiễn đời sống xã hội có thể bắt nguồn từ phong tục tập quán, chẳng hạn như tục nối nòi ở một số vùng miền núi dân tộc thiểu số như dân tộc Ê Đê. Người Ê Đê theo chế độ mẫu hệ nên việc nói nòi theo dòng họ mẹ, để dòng họ mẹ không bị tuyệt tự là một điều quan trọng. Vì vậy, quyền thừa kế cũng được xác định theo dòng họ mẹ nên trong trường hợp một người phụ nữ không có con thì "phải tìm nuôi lấy một đứa con của người chị hay của người em gái mình, không có đứa này thì phải tìm một đứa khác trong cùng một họ với mình" và khi đó, người con được thừa kế mọi của cải của người phụ nữ để lại8. Người Mường, Thái, Dao, Mông đều có phong tục nhận nuôi con nuôi. Các gia đình dân tộc Mường, Thái mà không có con, họ thường nhận một người con của người anh hay người em làm con nuôi và coi như con đẻ của mình. Những quan hệ nuôi con nuôi theo phong tục tập quán như vậy có thể vì lợi ích của người nuôi, của gia đình dòng họ người nhận nuôi nhiều hơn vì lợi ích của con nuôi. Phong tục tập quán này đã tồn tại từ lâu trong cộng đồng các dân tộc thiểu số và đến nay vẫn còn tồn tại. Việc nuôi con nuôi cũng có thể tồn tại dưới dạng danh nghĩa hoặc với mục đích để lấy phúc. Nuôi con nuôi trên danh nghĩa là việc các bên nhận nhau là cha mẹ nuôi và con nuôi xuất phát từ tình cảm và không gắn với quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con, không nhằm mục đích 8 Điều 106 Luật tục Ê- Đê.
  42. 35 hình thành quan hệ cha mẹ và con trong thực tế. Các bên có thể đối xử, xưng hô là cha mẹ và con nhưng không ràng buộc thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau trên thực tế. Nuôi con nuôi để lấy phúc cũng là trường hợp khá phổ biến xuất phát từ quan niệm nhận một đứa trẻ về nuôi, coi như con của mình để làm phúc, như thế sẽ có thể giảm bớt tai họa, những điều không may mắn cho gia đình. Những trường hợp nuôi con nuôi trên có đặc điểm chung là đều không có sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, không phải các hình thức nuôi con nuôi đó đều là nuôi con nuôi thực tế. Nuôi con nuôi thực tế phải thỏa mãn các dấu hiệu sau: giữa người nhận nuôi và con nuôi có mong muốn thiết lập quan hệ cha mẹ và con, đã thật sự coi nhau và đối xử với nhau như cha mẹ và con; người nhận nuôi và người được nhận nuôi phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo qui định của pháp luật về độ tuổi, tư cách đạo đức, điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng; các bên đã cùng chung sống, gắn bó với nhau trong tình cảm cha mẹ và con, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con đối với nhau. Quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên đã được xác lập trên thực tế được họ hàng và những người xung quanh công nhận, việc nhận nuôi không trái với mục đích của việc nuôi con nuôi và đạo đức xã hội. Những cơ sở để xác định hàng thừa kế thứ nhất tại các văn bản pháp luật trước đây tiếp tục được kế thừa và phát triển tại các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế sau này. Theo quan hệ huyết thống ở hàng thừa kế thứ nhất có cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ được hưởng di sản của nhau. Theo quan hệ hôn nhân thì vợ chồng được hưởng di sản của nhau. Theo quan hệ nuôi dưỡng thì con nuôi, cha mẹ nuôi được hưởng di sản của nhau. Hàng thừa kế thứ nhất thể hiện quyền ưu tiên hưởng di sản thừa kế theo pháp luật trong số những người thuộc diện được hưởng. Những người được chỉ định trong hàng thừa kế thứ nhất có mối quan hệ gần gũi hơn cả với người để lại di sản Trình tự hưởng di sản thừa kế theo hàng luôn được thực hiện theo nguyên tắc chia di sản thừa kế theo luật. Ngược lại, nếu quy định những người có quyền thừa kế theo pháp luật hưởng những phần di sản không đều nhau sẽ phá vỡ nguyên tắc hưởng di sản theo trình tự hàng thừa kế. Khi đó những phức tạp vốn có của quan hệ thừa kế càng thêm phức tạp, khó giải quyết và việc hưởng di sản theo trình tự hàng thừa kế sẽ không còn ý nghĩa. Tuy nhiên, trong đời sống thực tế còn tồn tại những vấn đề phức tạp đó là trường hợp người chồng chết, người vợ gặp phải hoàn cảnh khó khăn trong đời sống và nuôi dạy con cái thì người vợ có quyền hưởng toàn bộ di sản hay không trong khi vẫn còn người cùng hàng thừa kế là bố mẹ
  43. 36 chồng? Luật không quy định người vợ hưởng toàn bộ di sản trong trường hợp này. Theo nguyên tắc, vợ hoặc chồng chỉ được hưởng toàn bộ di sản của nhau khi không còn cha mẹ và các con của người chết. Quy định của pháp luật thừa kế ở nước ta hiện nay là hợp lý, phù hợp với nguyên tắc chia thừa kế theo hàng. Những người thừa kế trong một hàng không thể được hưởng thừa kế nhiều hơn hoặc ít hơn. Tóm lại, có thể nhận thấy rằng, việc quy định những người ở hàng thừa kế thứ nhất bao gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết là phù hợp với đạo đức truyền thống của gia đình Việt Nam. Hơn nữa, quy định này còn được xây dựng trên nền tảng gia đình hiện đại, đó là sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình để cùng xây dựng một cuộc sống đảm bảo cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, vợ chồng có bổn phận và trách nhiệm cùng nhau duy trì cuộc sống gia đình và nuôi dạy con cái. Con cái có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc bố mẹ lúc đau yếu là những nét văn hóa mang tính nhân văn tốt đẹp trong gia đình Việt Nam ngày nay. 1.4.2 Hàng thừa kế thứ 2 Hàng thừa kế thứ hai được xác định căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015 bao gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Như vậy, những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ hai dựa trên mối quan hệ huyết thống. Ông nội, bà nội là người sinh ra cha của cháu. Ông ngoại, bà ngoại là người sinh ra mẹ của cháu. Ông bà nội ngoại là những người thân thích thuộc bề trên của người để lại di sản, có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống mẫu mực và nêu gương tốt cho con cháu. Do đó, nếu ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại còn sống vào thời điểm người cháu chết sẽ là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ hai của người cháu đó. Ngược lại, trong trường hợp ông bà nội, ông bà ngoại chết thì cháu ruột là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ hai. Quy định này hoàn toàn phù hợp với nét đẹp đặc thù trong văn hóa Việt Nam: "kính trên, nhường dưới, ông bà cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền". Hàng thừa kế thứ hai còn bao gồm anh, chị, em ruột của người chết. Quan hệ thừa kế này được hình thành theo một căn cứ duy nhất là quan hệ huyết thống, bao gồm những người có quan hệ huyết thống trực hệ cùng một đời. Từ Pháp lệnh Thừa kế năm 1990, BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 đến BLDS 2015, đều quy định như nhau về anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết thuộc hàng thừa kế thứ hai theo pháp luật, được hưởng di sản của người chết khi
  44. 37 không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất. Nếu anh hoặc chị hoặc cả anh chị chết thì em ruột sẽ là người thuộc hàng thừa kế thứ hai đối với di sản của anh, chị đã chết và ngược lại. Như đã chỉ ra ở trên, con nuôi không đương nhiên trở thành anh, chị, em của con đẻ của người nuôi nên giữa con nuôi và con đẻ không phải là người thừa kế theo pháp luật của nhau. Những người thừa kế ở hàng thứ hai cũng là hàng ưu tiên hưởng di sản thừa kế so với người thuộc hàng thừa kế thứ ba. Tuy nhiên, những người này được ưu tiên hưởng di sản trong trường hợp ở hàng thứ nhất không có ai hưởng di sản theo luật định hoặc có những người thừa kế từ chối hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản, hoặc trường hợp không được hưởng thừa kế thì những người thuộc hàng thừa kế thứ hai mới được hưởng di sản. Sở dĩ như vậy vì ông, bà, anh chị em, cháu không thể là người thừa kế ưu tiên hoặc cùng hàng so với con, cha, mẹ, vợ, chồng của người chết vì mức độ gần gũi, thân thuộc không thể bằng những người này nếu xét trên phương diện hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng. Những người thừa kế thuộc hàng thứ hai được hưởng di sản như nhau theo pháp luật. Quy định này có sự dung hòa khá cao giữa quan niệm kinh tế và quan niệm đạo đức về cơ sở của quyền thừa kế. Di sản của người chết để lại cho người thân thuộc trực hệ thuộc bề trên, một phần để lại cho người thuộc bề dưới và cùng bậc với mình. Nếu chỉ để lại cho người cao tuổi hơn thì người này sẽ sống được bao lâu để duy trì khối tài sản. Vì vậy, luật quy định để lại di sản cho lớp người trẻ hơn nhằm phát huy giá trị kinh tế của di sản trên thực tế. Như vậy, giữa những người thừa kế ở hàng thứ hai là những người có mối quan hệ thân thuộc đối với người chết, trong đó có những người thuộc bề trên, có những người cùng bậc, có những người là bề dưới của người để lại di sản. Việc quy định ông, bà, anh, chị, em ruột, cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại thuộc hàng thừa kế thứ hai của người để lại di sản sự phù hợp với nguyên tắc của pháp luật thừa kế dựa trên quan hệ huyết thống nuôi dưỡng, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của họ đối với nhau cả khi còn sống cũng như khi họ chết đi 1.4.3 Hàng thừa kế thứ 3 Hàng thừa kế thứ ba được quy định để dự liệu trường hợp cả hai hàng trên không còn người thừa kế. Quy định như vậy nhằm đảm bảo sự nối tiếp về quyền sở hữu tài sản trong dòng họ, đảm bảo quyền lợi của những người thân thích, gần gũi với người để lại di sản. Những
  45. 38 người thừa kế ở hàng thứ ba được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015, bao gồm "cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại". Có thể nhận thấy, những người ở hàng thừa kế thứ ba gồm nhiều thế hệ và nhiều bậc trên - dưới khác nhau theo quan hệ huyết thống. Cụ nội là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại của cha đẻ. Cụ ngoại là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại của mẹ đẻ. Khi người để lại di sản (chắt) chết thì cụ là người thuộc hàng thừa kế thứ ba của chắt và ngược lại. So sánh với quy định tương ứng trong BLDS năm 1995, cũng giống như trường hợp giữa ông bà và cháu, BLDS năm 1995 không xếp chắt là hàng thừa kế thứ ba của cụ nội, cụ ngoại. Đến BLDS năm 2005 và BLDS 2015 đã có sự bổ sung, khắc phục những hạn chế của những qui định trước đó, ghi nhận chắt thuộc hàng thừa kế thứ ba của cụ nội, cụ ngoại. Bác ruột là anh ruột hoặc chị ruột của cha đẻ hoặc mẹ đẻ của người chết để lại di sản. Chú ruột là em trai ruột của cha đẻ của người chết để lại di sản. Cậu ruột là em trai ruột của mẹ đẻ của người chết để lại di sản. Cô ruột là em gái ruột của cha đẻ của người chết để lại di sản. Dì ruột là em gái ruột của mẹ đẻ của người chết để lại di sản. Như chúng ta đã biết, trong thực tiễn cuộc sống, cách xưng hô trong gia đình người Việt Nam rất phong phú và tinh tế, có tôn ti trật tự, thể hiện nét đặc trưng của mỗi vùng miền. Bậc bề trên của cha mẹ nói chung gọi là là ông bà tổ tiên. Nếu như ở miền Bắc gọi là "cụ" thì ở miền Trung lại có cách xưng hô là "ông bà cố". Trong mối quan hệ cha mẹ con cái, anh chị em: cả ba miền Bắc Trung, Nam đều gọi là "cha, ba", ở miền Bắc còn gọi là "bố", miền Nam còn gọi là "tía", ở miền Trung một vài nơi còn gọi cha bằng chú; cả ba miền đều gọi là "mẹ", ở miền Bắc thời xưa thường xưng hô là "u, bu", ở miền Nam gọi là "má", miền Trung là "mạ". Trong mối quan hệ anh chị em của cha mẹ: anh ruột của cha gọi là bác, em trai ruột của cha gọi là chú, chị ruột của cha gọi là "bác" ở miền Bắc và "cô, o" ở miền Trung, Nam; em gái ruột của cha gọi là "cô" ở miền Bắc và xưng là "o" ở miền Trung; anh trai ruột của mẹ, ở miền Bắc gọi là "bác" còn ở miền Trung, Nam lại gọi là "cậu"; chị gái ruột của mẹ, người miền Bắc gọi là "bác" trong khi người miền Trung, Nam gọi là "dì"; em gái ruột của mẹ đều được gọi là "dì" ở cả ba miền. Mặc dù cách xưng hô ở các vùng miền có sự khác nhau nhưng đều chỉ chung một chủ thể và do đó phải tuân thủ theo quy định chung của pháp luật. Quan hệ thừa kế giữa những người này và người để lại di sản hình thành trên cơ sở mối
  46. 39 quan hệ huyết thống bàng hệ giữa hai đời liền kề nhau. Như vậy, khi chia thừa kế theo pháp luật, những người thừa kế trong cùng một hàng sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau và theo thứ tự ưu tiên tuyệt đối giữa các hàng. Tuy nhiên, trên thực tế xét theo trình tự hàng thừa kế và thứ tự ưu tiên, rất hiếm trường hợp những người ở hàng thứ ba được hưởng thừa kế và việc lập hồ sơ đối với hàng thừa kế thứ ba gặp nhiều khó khăn so với việc lập hồ sơ đối với hàng thừa kế thứ nhất và thứ hai. Lý do là bởi hàng thừa kế thứ ba được cơ cấu gồm nhiều thế hệ và nhiều bậc trên dưới khác nhau, cả bên nội và bên ngoại của người để lại di sản. Do đó, để xác minh liệt kê, tập hợp được đầy đủ những người thuộc hàng thừa kế thứ ba không phải là đơn giản và rất dễ xảy ra tình trạng bỏ sót. Hàng thừa kế thứ ba được quy định để đảm bảo sự nối tiếp về quyền sở hữu tài sản trong dòng họ, đảm bảo quyền lợi của một số người thân gần gũi của người chết có di sản để lại. Nhưng không phải tất cả các văn bản pháp luật về thừa kế ở Việt Nam từ trước đến nay đều quy định về hàng thừa kế này. Tùy từng giai đoạn phát triển của đất nước mà có sự thừa nhận khác nhau về hàng thừa kế này. Việc quy định mở rộng hàng thừa kế đã đảm bảo quyền lợi cho những người có quan hệ họ hàng với người có di sản để lại khi chết và phù hợp với ý chí của người để lại di sản, là hoàn toàn phù hợp với quyền lợi của các thành viên trong gia đình, củng cố, phát huy tình đoàn kết yêu thương, gắn bó giúp đỡ lẫn nhau trong gia đình và trong họ hàng. Với việc ra đời kế thừa ý chí của các văn bản pháp luật trước đó, BLDS 2015 đã hoàn thiện được hàng thừa kế 1 cách hoàn chỉnh và phù hợp nhất. Phát huy truyền thống gia đình, uống nước nhớ nguồn, lá rụng về cội của dân tộc Việt Nam ta.
  47. 40 Kết luận chương 1 Trong suốt quá trình hình thành và phát triển qua các thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác nhau, thừa kế (bao gồm hai hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật) luôn được coi là một chế định quan trọng trong pháp luật dân sự Việt Nam. Thừa kế theo pháp luật là sự dịch chuyển di sản của người đã chết cho người còn sống theo điều kiện, trình tự hàng thừa kế. Nội dung chính để xác định những người thừa kế theo pháp luật chính là việc xác định diện và hàng thừa kế. Theo đó, pháp luật hiện hành quy định diện thừa kế dựa trên quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng giữa người thừa kế với người để lại di sản. Điểm đặc biệt và tiến bộ là không có sự phân biệt giữa con trai, con gái, con trong giá thú hay con ngoài giá thú, tất cả đều được bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp. Trên cơ sở diện thừa kế, pháp luật còn quy định cụ thể về hàng thừa kế theo thứ tự ưu tiên dựa trên tính chất gần gũi với người để lại di sản. Những qui định này không những bảo vệ được quyền thừa kế của công dân mà còn thể hiện chủ trương đường lối phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội.