Khóa luận Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội

pdf 92 trang thiennha21 16/04/2022 5481
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_phap_luat_viet_nam_ve_cuu_tro_xa_hoi.pdf

Nội dung text: Khóa luận Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ MỸ LINH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI Chuyên ngành: Luật Kinh Doanh Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2013-L Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Đăng Duy Hà Nội – 2017 1
  2. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG LỜI MỞ ĐẦU 5 2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài. 5 3.Phương pháp nghiên cứu 6 4.Giới hạn phạm vi nghiên cứu 6 5.Cơ cấu của luận văn. 6 CHƯƠNG 1 7 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI. 7 1.NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI. 7 1.1. Khái niệm cứu trợ xã hội 7 1.2. Đặc điểm của hoạt động cứu trợ xã hội. 8 1.2.1. Đối tượng của hoạt động cứu trợ xã hội. 8 1.2.2. Đối tượng được trợ cấp không phải đóng góp vào quỹ tài chính 9 1.3. Vai trò và mục tiêu của cứu trợ xã hội 10 1.3.1. Vai trò của cứu trợ xã hội 10 1.3.2. Mục tiêu của cứu trợ xã hội 11 1.4. Những quan điểm cơ bản trong cứu trợ xã hội 11 2.KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI. 13 2.1. Khái niệm pháp luật cứu trợ xã hội 13 2.2. Những đặc trưng cơ bản của pháp luật cứu trợ xã hội 15 3.CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA CHẾ ĐỘ CỨU TRỢ XÃ HỘI. 16 3.1. Nguyên tắc mức trợ cấp cứu trợ xã hội không phụ thuộc vào sự đóng góp, thu nhập hoặc mức sống trước khi phát sinh nhu cầu cứu trợ mà phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu, tình trạng tài sản thực tế của đối tượng.(17) 17 3.2. Nguyên tắc cân đối giữa nhu cầu thực tế của đối tượng với khả năng đáp ứng nhu cầu và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội (18) 18 2
  3. 3.3. Nguyên tắc đa dạng hóa, xã hội hóa các hoạt động CTXH.(19) 19 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM 20 1.CÁC CHỦ TRƯƠNG,CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI. 20 2.PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI. 36 2.1.Về đối tượng và điều kiện hưởng cứu trợ xã hội 36 2.1.1. Đối tượng và điều kiện được cứu trợ xã hội thường xuyên 36 Bảng 1.(21) 40 Bảng 2(22) 42 Bảng 3(23) 42 2.1.2.Đối tượng và điều kiện được cứu trợ xã hội đột xuất: 44 2.2. Các hình thức cứu trợ xã hội 47 2.2.1. Cứu trợ bằng tiền 47 2.2.2. Cứu trợ bằng hiện vật 48 2.3.Các chế độ cứu trợ xã hội 49 2.3.1.Cứu trợ xã hội thường xuyên. 49 2.3.2. Cứu trợ xã hội đột xuất: 52 2.3.Nguồn kinh phí, tài chính thực hiện cứu trợ xã hội 61 2.4.1.Nguyên tắc sử dụng nguồn tài chính: 64 2.4.2. Các biện pháp để huy động nguồn lực cứu trợ xã hội 64 3.CƠ CẤU TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỨU TRỢ XÃ HỘI VIỆT NAM. 66 CHƯƠNG 3: NHỮNG BẤT CẬP VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 69 1.NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN,HẠN CHẾ TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG CỨU TRỢ Ở VIỆT NAM 69 2.KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC VỀ THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG CỨU TRỢ XÃ HỘI. 76 2.1.Hệ thống an sinh xã hội Đức (24) 77 2.2.Công tác bảo trợ xã hội ở Liên Bang Nga (25) 77 2.4.Hệ thống an sinh xã hội Nhật Bản (26) 78 3
  4. 2.6.Công tác cứu trợ xã hội của Trung Quốc (27) 79 3.GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 79 3.1. Yêu cầu đối với hoàn thiện pháp luật cứu trợ xã hội 79 3.1.1. Nhận thức đúng vai trò của cứu trợ xã hội ở nước ta hiện nay: 79 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật CTXH phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước 80 3.1.3.Hoàn thiện pháp luật CTXH nhằm mở rộng hơn nữa đối tượng CTXH hướng tới mục tiêu bao quát toàn bộ dân số. 81 3.1.4.Hoàn thiện pháp luật CTXH phải hướng tới thiết lập được pháp luật CTXH tiến bộ, kế thừa thành tựu lập pháp, khắc phục những hạn chế của pháp luật CTXH hiện hành. 82 3.2. Một số giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật cứu trợ xã hội 82 3.2.1. Về đối tượng và điều kiện hưởng CTXH. 83 3.2.2. Về chế độ áp dụng đối với các đối tượng hưởng CTXH 86 3.2.3. Nguồn kinh phí thực hiện CTXH 87 3.2.4.Trong công tác tổ chức thực hiện. 87 3.3.5.Ban hành Luật cứu trợ xã hội 89 KẾT LUẬN 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91 4
  5. LỜI MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài. Cứu trợ xã hội (CTXH) là một trong những thiết chế quan trọng của hầu hết các quốc gia nhằm giúp đỡ những người “yếu thế” trong xã hội khắc phục cuộc sống khó khăn và sớm ổn định,hòa nhập vào cộng đồng. Dựa theo tình hình hiện nay,khi kinh tế thị trường ngày một phát triển mạnh,thúc đẩy sản xuất,tăng sức cạnh tranh,nâng cao năng suất thì bên cạnh đó xã hội nước ta còn tồn tại rất nhiều hạn chế,rủi ro đối với môi trường sống như:thiên tai-bão lũ,ô nhiễm môi trường ngày càng nhiều;đặc biệt sự phân hóa giàu nghèo,bất bình đẳng trong xã hội ngày càng thể hiện rõ rệt.Chính vì vậy,CTXH là nội dung cần được quan tâm và nghiên cứu cấp thiết hơn bao giờ hết. Ngoài ra,trong công tác CTXH Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều thành tựu đáng kể,tuy nhiên trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật CTXH hiện hành vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định,chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển xã hội cũng như độ bao phủ tới các đối tượng.Vì vậy,việc nghiên cứu nội dung của CTXH nhằm mục đích tìm ra những hạn chế,khe hở và đề ra những biện pháp khắc phục ,xây dựng và hoàn thiện pháp luật CTXH ở nước ta. 2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài. Thứ nhất,nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động CTXH và pháp luật cứu trợ xã hội (PLCTXH) như:khái niệm,bản chất,mục tiêu,nội dung Thứ hai,phân tích và đánh giá thực trạng các quy định về CTXH với các nội dung cơ bản như đối tượng CTXH,điều kiện hưởng CTXH,tổ chức thực hiện Thứ ba,chỉ ra những kết quả đạt được cũng như các nội dung còn hạn chế của pháp luật hiện hành về CTXH cần được hoàn thiện.Từ đó,đưa ra những 5
  6. giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật CTXH ở nước ta. 3.Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích,tổng hợp:nghiên cứu,phân tích,tiếp thu có chọn lọc các nghiên cứu khoa học có giá trị của các nhà nghiên cứu đi trước,cũng như các quy định pháp luật của các nước trên thế giới trong một số nội dung nhất định. Phương pháp so sánh:sử dụng trong các trường hợp phân biệt một số khái niệm và trong trường hợp cần thiết so sánh nội dung cụ thể của pháp luật CTXH Việt Nam với quy định pháp luật các nước trên thế giới. Phương pháp khảo sát thực tiễn:Tìm hiểu,thu thập các số liệu về công tác CTXH qua các năm gần đây.Qua đó cung cấp cho luận văn những số liệu minh chứng thuyết phục và có tính khoa học cao. 4.Giới hạn phạm vi nghiên cứu Luận văn đi sâu vào nghiên cứu những nội dung cơ bản của hoạt động CTXH và PLCTXH. 5.Cơ cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu,kết luận,danh mục tài liệu tham khảo,luận văn gồm 3 chương: Chương 1:Những vấn đề lý luận về cứu trợ xã hội và pháp luật về cứu trợ xã hội Chương 2:Thực trạng chính sách và pháp luật cứu trợ xã hộ Chương 3:Những bất cập và phương hướng hoàn thiện pháp luật CTXH ở Việt Nam. 6
  7. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI. 1.NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI. 1.1. Khái niệm cứu trợ xã hội Hoạt động cứu trợ xã hội là hoạt động của cộng đồng xuất phát từ bản chất nhân văn cao đẹp giữa người với người, khi bất kỳ ai đó không may lâm vào cảnh hoạn nạn khó khăn. Không giống như bảo hiểm xã hội hay ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội là hoạt động mang tính rộng khắp về phạm vi và về chủ thể. Trong cứu trợ xã hội, mỗi thành viên thực hiện vai trò riêng của mình. Tuy nhiên hoạt động cứu trợ xã hội không chỉ là của cá nhân, tổ chức đơn thuần trong xã hội mà là trách nhiệm chính của Nhà nước. Với tư cách là đại diện của xã hội, Nhà nước có trách nhiệm cao nhất trong viêc tổ chức các hoạt động cứu trợ xã hội bởi Nhà nước có chức năng xã hội là bảo vệ cuộc sống của các công dân trong cộng đồng luôn được ổn định. Quan tâm đến các đối tượng cần cứu trợ là một vấn đề tất yếu trong quá trình phát triển lịch sử của Nhà nước. Tại Việt Nam, cứu trợ xã hội đang là một trong những vấn đề được Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nhất là trong thời gian vừa qua, có không ít những vùng miền tại đất nước ta chịu ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai hay những thảm họa môi trường. Thông qua việc ban hành hang loạt các văn bản, Nhà nước đã và đang tạo một hành lang pháp lý cho hoạt động cứu trợ xã hội được thực hiện trên thực tế. Các chính sách, pháp luật về cứu trợ xã hội do nhà nước ban hành, xây dựng là cơ sở quan trọng để các tổ chức, cơ quan, cá nhân tiến hành các hoạt động cứu trợ xã hội. Đó là những quy phạm đảm bảo sự công bằng, minh bạch, đúng đắn và khẳng định tính hợp pháp của hoạt động này. 7
  8. Cứu trợ xã hội do đó là một thuật ngữ thường xuyên được các sách báo, tạp chí nhắc đến và đưa ra bàn luận nhưng cho đến hiện nay thuật ngữ này vẫn chưa được ghi nhận một cách chính thức trong hệ thống các văn bản pháp luật của nước ta. Vậy cứu trợ xã hội là gì? Có thể hiểu theo nghĩa thông thường, cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của xã hội bằng nguồn tài chính của Nhà nước và cộng đồng đối với các thành viên găp khó khăn, bất hạnh, rủi ro trong cuộc sống như thiên tai, hỏa hoạn, bị tàn tật, già yếu dẫn đến mức sống quá thấp, lâm vào cảnh neo đơn-túng quẫn, nhằm giúp họ đảm bảo được điều kiện sống tối thiểu, vượt qua cơn khốn khó và vươn lên trong cuộc sống bình thường. Xem xét dưới góc độ an sinh xã hội, cứu trợ xã hội được xem là một hình thức quan trọng, là chế độ đảm bảo xã hội đối với các thành viên trong cộng đồng, nhằm giúp họ khắc phục những khó khăn trước mắt cũng như lâu dài trong cuộc sống. Việc đảm bảo này thông qua các hoạt động cung cấp tài chính, tiền bạc, vật phẩm, các điều kiện vật chất khác trong một thời hạn hoặc trong suốt quá trình sống (suốt cuộc đời) của đối tượng. Cứu trợ xã hội được coi như là “lưới đỡ cuối cùng” trong hệ thống các lưới đỡ an sinh xã hội. Nó được coi là chế độ đảm bảo cộng đồng mang tính nhân đạo, nhân văn rất cao, thể hiện tình người rõ rệt. 1.2. Đặc điểm của hoạt động cứu trợ xã hội. 1.2.1. Đối tượng của hoạt động cứu trợ xã hội. Đối tượng của cứu trợ xã hội có thể là gia đình, có thể là cá nhân. Họ là những người hoặc nhóm người vì một lý do nào đó rơi vào hoàn cảnh yếu thế, thiệt thòi hơn những người khác trong xã hội, cần có sự giúp đỡ, cứu tế từ Nhà nước và cộng đồng để đảm bảo cuộc sống bình thường. Khi xem xét đối tượng được cứu trợ xã hội, cần phải nhìn nhận từ cả phương diện kinh tế và xã hội. Về phương diện kinh tế, đối tượng được cứu trợ là những người không may gặp rủi ro, khó khăn, bất hạnh trong cuộc sống khiến cho mức thu nhập 8
  9. của họ thấp hơn nhiều so với mức sống tối thiểu chung của cộng đồng, thậm chí khiến cho cuộc sống của họ rơi vào tình cảnh bị đe dọa. Về phương diện xã hội, đối tượng được cứu trợ là những người gặp bất hạnh trong cuộc sống cần có sự nâng đỡ, trợ giúp cả về vật chất và tinh thần, không phân biệt vị thế và thành phần xã hội, để đảm bảo cuộc sống bình thường, không bị gạt ra ngoài lề xã hội. Có thể nói, đối tượng của cứu trợ xã hội rất đa dạng, bao gồm: - Những người tàn tật trong cộng đồng: là những người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận hoặc chức năng biểu hiện dưới các dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng lao động. - Những người già yếu từ cộng đồng: chủ yếu là những người già cô đơn không nơi nương tựa ,thiếu thốn về thu nhập và sinh hoạt. - Đối tượng tiếp theo là trẻ em: trẻ em là mầm non của đất nước, luôn được toàn xã hội quan tâm, nhất là một số bộ phận trẻ em rơi vào tình cảnh bất hạnh và dễ tổn thương. - Ngoài các nhóm đối tượng nêu trên, còn có các nhóm đối tượng khác như người bị nhiễm HIV/AIDS, người lang thang xin ăn, những người nghiện hút ma túy, những người hoạt động mại dâm Trong thời gian gần đây, các tệ nạn xã hội đang có điều kiện thuận lợi để phát triển khiến cho số lượng nhóm người này tăng lên nhanh chóng. Ngoài các cá nhân yếu thế, dễ bị tổn thương trong cộng đồng thì đối tượng được hưởng cứu trợ xã hội còn được xác định theo hộ gia đình, chẳng hạn như hộ gia đình rất nghèo, các hộ gia đình rất khó khăn 1.2.2. Đối tượng được trợ cấp không phải đóng góp vào quỹ tài chính Nguồn quỹ dùng cho hoạt động cứu trợ xã hội được lấy từ thuế hoặc từ đóng góp của cộng đồng. Điều này là ngược lại với bảo hiểm xã hội. Trong bảo hiểm xã hội, nguồn quỹ được bên tham gia bảo hiểm đóng góp là chủ yếu. Những tổ chức cá nhân muốn được nhận bảo hiểm bắt buộc phải tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm chỉ có một phần là từ sự hỗ trợ 9
  10. của Nhà nước. Nguồn quỹ bảo hiểm sẽ được dùng để bù đắp hoặc thay thế phần thu nhập bị giảm hay mất đi của người tham gia bảo hiểm khi gặp phải những biến cố theo quy luật “số đông bù số ít”. Đối với trợ cấp xã hội, người được trợ cấp hoàn toàn không phải đóng góp vào quỹ tài chính nào. Mức trợ cấp tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể và được xác định dựa vào việc thẩm tra đánh giá thu nhập, tài sản và hoàn cảnh của người được xét trợ cấp. Trợ cấp cũng có thể là bằng tiền hoặc hiện vật, khác với bảo hiểm xã hội hầu như chỉ toàn bằng tiền. 1.3. Vai trò và mục tiêu của cứu trợ xã hội 1.3.1. Vai trò của cứu trợ xã hội Vai trò của cứu trợ xã hội tùy thuộc vào tình hình kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia cũng như nguyên nhân cụ thể gây tổn thương cho người dân nước đó. Nhìn chung, cứu trợ xã hội bao gồm những vai trò cơ bản sau: Một là, đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của những cá nhân và nhóm dân cư yếu thế, dễ bị tổn thương trong cộng đồng, từ đó giúp họ đối phó với những khủng hoảng bất ngờ, vượt qua được những khó khăn để tồn tại. Hai là, góp phần phòng ngừa và giảm thiểu các khả năng dễ bị tổn thương của những cá nhân và nhóm dân cư yếu thế. Điều này được thể hiện rõ qua hoạt động trợ giúp xã hội, hoạt động này thường tập trung vào nhóm dân cư bị thua thiệt nhất hoặc dễ bị tổn thương nhất trong cộng đồng, từ đó giúp họ thoát ra khỏi cảnh nghèo đói, khó khăn dai dẳng trong cuộc sống ví dụ như phụ cấp gia đình có thể giúp trẻ em trong các gia đình hộ nghèo không bị mất cơ hội đến trường Ba là, góp phần làm cho hệ thống an sinh xã hội được toàn diện hơn. Cứu trợ xã hội đã khắc phục được hạn chế của bảo hiểm xã hội (chưa có tính phổ cập; không thể bao trùm hết cả bộ phận dân cư cũng như chỉ mới đưa ra mức hỗ trợ hạn chế), nó cung cấp bảo vệ bổ sung, đảm bảo tất cả mọi người trong xã hội đều được giúp đỡ khi gặp rủi ro. 10
  11. Bốn là, góp phần phát triển một xã hội hài hòa và bền vững, đưa những người được cứu trợ ra khỏi hoàn cảnh khó khăn, thoát khỏi tâm lý mặc cảm, vươn lên hòa nhập vào cộng đồng .Từ đó giúp phát triển tăng trưởng và phát triển nền kinh tế. 1.3.2. Mục tiêu của cứu trợ xã hội Hoạt động cứu trợ xã hội nhắm đến các mục tiêu sau: Chuyển nhượng các nguồn lực cho các cá nhân, hộ gia đình rơi vào tình trạng túng quẫn và dễ bị tổn thương nhất. Từ đó giúp họ đảm bảo được mức sống tối thiểu và cải thiện điều kiện sống. Làm giảm sự chênh lệch mức sống cả về vật chất lẫn tinh thần giữa các thành viên trong xã hội, không để ai rơi vào hoàn cảnh cùng cực tuyệt vọng hoặc bị bỏ rơi; xây dựng lối sống tốt đẹp giàu lòng nhân ái-nhân văn giữa con người với nhau; xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp văn minh. 1.4. Những quan điểm cơ bản trong cứu trợ xã hội Cứu trợ xã hội thường được nhắc đến thông qua hai hoạt động: cứu tế xã hội và trợ giúp xã hội. Cứu tế xã hội là sự trợ giúp của cộng đồng bằng hiện vật, có tính tức thời, khẩn cấp và ở mức độ cần thiết cho người được trợ cấp khi họ rơi vào hoàn cảnh bần cùng, khó khăn, không còn khả năng tự lo liệu cuộc sống như: người già không nơi nương tựa; người không còn khả năng lao động, không có bất kỳ một nguồn thu nhập nào đảm bảo cuộc sống hàng ngày Còn trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ thêm của cộng đồng xã hội, bằng các phương tiện thích hợp để người được trợ giúp có thể phát huy được khả năng tự lo liệu cho cuộc sống, cho bản thân hòa nhập trở lại với cuộc sống cộng đồng. Cứu trợ xã hội được dành cho tất cả mọi người. Hay nói cách khác, mỗi người trong xã hội đều có quyền hưởng cứu trợ xã hội khi cần thiết. Mỗi cá nhân đều có quyền sống, làm việc và hưởng thụ các thành quả của xã hội như tất cả các thành viên khác. Tuy nhiên, có nhiều biến cố bất ngờ khiến cho các cá nhân, hộ gia đình có thể rơi vào tình trạng cực kì vất vả, khó khăn không 11
  12. tìm được phương cách để sinh sống. Nhà nước và toàn thể cộng đồng thực hiện hoạt động cứu trợ để quyền con người của các cá nhân và các nhóm dân cư yếu thế luôn được đảm bảo. Hoạt động này không chỉ đơn thuần là một sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau mà còn thể hiện sự tôn trọng quyền con người của toàn xã hội đối với mọi cá nhân, thể hiện được một thuộc tính của xã hội văn minh.(1) Nhà nước là chủ thể chính của cứu trợ xã hội. Với bản chất nhân đạo và vai trò to lớn của cứu trợ xã hội, hầu hết các nước đều thừa nhận cần thiết phải tổ chức cứu trợ xã hôi cho người dân. Nhà nước với pháp luật và nguồn ngân sách của mình định hướng và tổ chức việc thực hiện cứu trợ xã hội. Cụ thể là Nhà nước có trách nhiệm chính trong việc phân bổ các nguồn lực và thu nhập, chi tiêu ngân sách cho các chương trình cứu trợ thường xuyên và đầu tư tập trung vào các cơ sở hạ tầng cũng như các hoạt động dịch vụ.(2) Xã hội hóa hoạt động cứu trợ xã hội là xu hướng tất yếu hiện nay. Có thể thấy rằng chỉ Nhà nước là không thể đảm bảo đủ các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tài chính để thực hiện cứu trợ xã hội. Do đó, chính phủ phải làm cho công chúng nhận thức được lợi ích của việc hướng các nguồn lực vào người nghèo, đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng. Chẳng hạn bằng cách thực hiện tốt các chương trình việc làm ở khu vực nông thôn hoặc tổ chức việc di dân từ trung tâm thành phố ra các thành phố vệ tinh xung quanh. Nhờ đó, các vấn đề thất nghiệp và tệ nạn xã hội sẽ được hạn chế. Bản thân các đối tượng được cứu trợ cũng phải có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng. Theo quan điểm này, cứu trợ xã hội được thực hiện theo hướng là đưa “cần câu” chứ không phải đưa “xâu cá”. Những đối tượng được hưởng cứu trợ xã hội phải tự khẳng định mình, tránh tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự giúp đỡ của xã hội, của cộng đồng. Trước khi được cứu trợ, các đối tượng được cứu trợ cần phải cố gắng bằng tiềm lực còn lại để lo liệu cải thiện khó khăn trong cuộc sống. 12
  13. Cứu trợ xã hội là cơ sở để phát triển xã hội bền vững. Tăng trưởng kinh tế đôi khi có những yếu tố làm hạn chế sự công bằng và bình đẳng trong xã hội. Chính vì vậy, cứu trợ xã hội là chính sách xã hội quan trọng làm cơ sở để đảm bảo vừa phát triển kinh tế vừa thực hiện công bằng và ổn định xã hội. 2.KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI. 2.1. Khái niệm pháp luật cứu trợ xã hội Do đất nước Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, mặc dù thuận tiện cho việc sản xuất nông nghiệp nhưng điều kiện khí hậu lại khắc nghiệt, nhiều thiên tai, bão lũ khiến cuộc sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, lịch sử đất nước ta lại trải qua các cuộc chiến tranh khốc liệt để lại hậu quả nặng nề cho nhiều người, nhiều gia đình. Khi chiến tranh kết thúc, đất nước bước vào quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thì lại phát sinh những vấn đề phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội hay một bộ phận không nhỏ những người lao động trình độ hạn chế, không thích ứng kịp với sự thay đổi của nền kinh tế thị trường Từ thực tế đó, nhằm mục tiêu duy trì sự ổn định và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước đã đặt hoạt động cứu trợ xã hội lên hàng đầu, là phương sách quan trọng trong chiến lược phát triển ổn định lâu dài. Đó cũng là kết quả tất yếu của sự kế thừa và phát huy truyền thống nhân ái cao đẹp của dân tộc, thể hiện sự liên kết gắn bó chặt chẽ giữa các thành viên trong cộng đồng với nhau, mỗi người đều hướng tới những người khác. Để hoạt động cứu trợ xã hội của nước ta ngày càng phát triển, thu hút sự tham gia đông đảo của tầng lớp nhân dân và các tổ chức chính trị -xã hội khác như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội chữ Thập đỏ Việt Nam Nhà nước đã giao cho Bộ lao động-Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm chính về quản lý nhà nước đối với các hoạt động cứu trợ xã hội, đồng thời ban hành những chính sách, pháp luật tạo tiền đề cho cứu trợ xã hội trở thành một trong những cơ chế bảo vệ quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội nước ta. Chính sách, pháp luật về cứu trợ xã hội đã trở thành một bộ phận của chính sách, pháp luật 13
  14. an sinh xã hội nói chung. Ở nước ta, chính sách cứu trợ xã hội được thể chế hóa bằng những quy định pháp luật để điều chỉnh hoạt động cứu trợ xã hội, trong đó xác định rõ đối tượng và điều kiện hưởng cứu trợ, các chế độ cứu trợ, nguồn kinh phí thực hiện cứu trợ Vì vậy, pháp luật cứu trợ xã hội là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, quy định các đối tượng, điều kiện, chế độ trợ cấp cụ thể và trách nhiệm của nhà nước, cộng đồng trong việc góp phần đảm bảo vào ổn định cuộc sống cho các thành viên trong xã hội gặp rủi ro, khó khăn, bất hạnh. Qua mỗi giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội, pháp luật về cứu trợ xã hội ngày càng được hoàn thiện hơn. Hiện nay, điều chỉnh các hoạt động cứu trợ xã hội có các văn bản pháp luật chủ yếu sau: - Nghị định của Chính phủ số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội;(3) - Nghị định của Chính phủ số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/02/2010 sửa đổi,bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP;(4) - Thông tư của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội số 09/2007/TT- BLĐTBXH ngày 13/7/2007 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP;(5) - Thông tư của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội số 26/2008/TT- BLĐTBXH ngày 10/11/2008 sửa đổi,bổ sung một số điều của Thông tư số 09/2007/TT-BLĐTBXH;(6) - Thông tư liên tịch của Bộ lao động-Thương binh và Xã hội và Bộ Nội vụ số 32/2009/TTLT-BLĐTBXH-BNV ngày 21/9/2009 hướng dẫn nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và định mức cán bộ, nhân viên của cơ sở bảo trợ xã hội công lập.(7) - Nghị định của Chính phủ số 68/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 quy định điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động và giải thể cơ sở bảo trợ xã hội;(8) 14
  15. - Thông tư của Bộ lao động-Thương binh và xã hội số 07/2009/TT- BLĐTBXH ngày 30/3/2009 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 68/2008/Đ-CP(9) - Nghị định của Chính phủ số 148/2007/NĐ-CP ngày 25/9/2007 về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện;(10) - Thông tư của Bộ Nội vụ số 09/2008/TT-BNV ngày 31/12/2008 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 148/2007/NĐ-CP(11) - Nghị định của Chính phủ số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 quy định chính sách trợ giúp xã hội với đối tượng bảo trợ xã hội.(12) - Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 09/3/2000 của Chính phủ về chính sách cứu trợ xã hội.(13) - Nghị định số 168/NĐ-CP ngày 20/9/2004 sửa đổi, bổ sung một số điều cho Nghị định số 07/2000/NĐ-CP(14) - Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội.(15) - Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/02/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP.(16) Ngoài ra, còn nhiều văn bản pháp luật khác nhau của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ủy bán nhân dân các cấp về công tác cứu trợ xã hội. Pháp luật về cứu trợ xã hội hiện nay so với các giai đoạn trước tỏ ra tiến bộ hơn, phản ánh trình độ phát triển kinh tế-xã hội của nước ta. Với việc ban hành các quy định về cứu trợ xã hội, Đảng và Nhà nước đang thể hiện sự quan tâm đến công tác cứu trợ xã hội nói nhằm thực hiện mục tiêu: đưa chính sách cứu trợ đến với mọi cá nhân, hộ gia đình gặp khó khăn, bất hạnh, tạo điều kiện tối đa để người dân tiếp cận với các chính sách xã hội một cách thuận tiện nhất. 2.2. Những đặc trưng cơ bản của pháp luật cứu trợ xã hội Thứ nhất, đối tượng tham gia quan hệ cứu trợ xã hội bao gồm nhà nước, tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Không giống như chế độ bảo hiểm xã 15
  16. hội, kinh phí dùng vào việc đảm bảo cho quan hệ cứu trợ được thự hiện, chủ yếu là từ sự đóng góp của nhà nước cùng sự ủng hộ, quyên góp của cộng đồng. Thứ hai, đối tượng hưởng cứu trợ xã hội là mọi thành viên trong xã hội khi có các sự kiện pháp lý xảy ra do nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau. Nếu như đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội chỉ là những người tham gia bảo hiểm thì đối tượng được hưởng cứu trợ rộng hơn nhiều bao gồm cả người già cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi, người tàn tật, người tâm thần, người gặp khó khăn do hậu quả thiên tai hoặc những lý do bất khả kháng khác Thứ ba, mức hưởng trợ cấp phụ thuộc vào hoàn cảnh thực tế của từng đối tượng, mức độ rủi ro mà không tính đến sự đóng góp của đối tượng được thụ hưởng. Có thể nói, cứu trợ xã hội là hoạt động mang tính chất từ thiện giúp cho các đối tượng yếu thế trong xã hội lâm vào hoàn cảnh khó khăn hay gặp rủi ro, bất hạnh. Do đó, người được hưởng cứu trợ xã hội trên cơ sở trách nhiệm của cộng đồng mà không có bất cứ sự đóng góp nào miễm là thoả mãn các điều kiện để thụ hưởng. Thứ tư, tính chất của trợ cấp cứu trợ xã hội mang tính linh hoạt, đa dạng phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, phụ thuộc vào sự ủng hộ, quyên góp của cá nhân, tổ chức và cộng đồng tại thời điểm trợ cấp. Do đó, tuỳ từng đối tượng khác nhau mà có các chế độ trợ cấp khác nhau. 3.CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA CHẾ ĐỘ CỨU TRỢ XÃ HỘI. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật CTXH là những tư tưởng chủ đạo xuyên suốt và chi phối toàn bộ hệ thống các quy phạm CTXH trong việc điều chỉnh các quan hệ CTXH. Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật CTXH Việt Nam thể hiện quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề đảm bảo quyền con người, từng bước cải thiện đời sống của mỗi thành viên xã hội, phát triển kinh tế-xã hội thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. 16
  17. Là bộ phận cấu thành của pháp luật an sinh xã hội, chế độ CTXH cũng đảm bảo thực hiện các nguyên tắc chung của hệ thống an sinh như nguyên tắc đảm bảo thực hiện đối với mọi thành viên trong xã hội, nguyên tắc nhà nước thống nhất quản lý Tuy nhiên với đặc thù riêng của mình về đối tượng, hình thức thực hiện, mục đích trợ cấp nên chế độ CTXH xác định những nguyên tắc riêng của mình, cụ thể là một số nguyên tắc sau: 3.1. Nguyên tắc mức trợ cấp cứu trợ xã hội không phụ thuộc vào sự đóng góp, thu nhập hoặc mức sống trước khi phát sinh nhu cầu cứu trợ mà phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu, tình trạng tài sản thực tế của đối tượng.(17) Quyền được hưởng an sinh xã hội nói chung và hưởng CTXH nói riêng là quyền của công dân trong xã hội. Mọi thành viên trong xã hội không phân biệt địa vị xã hội, trình độ văn hóa, giới tính khi gặp khó khăn, bất hạnh bản thân và gia đình không tự khắc phục được thì được hưởng trợ giúp xã hội. Mức trợ cấp xã hội không phụ thuộc vào thu nhập, tài sản của đối tượng trước khi có biến cố rủi ro xảy ra, mà phụ thuộc vào nhu cầu của đối tượng cần CTXH cũng như khả năng đáp ứng của Nhà nước và cộng đồng. Nguyên tắc này xuất phát từ mục đích của CTXH, theo đó các khoản trợ cấp không nhằm bù đắp hay thế thu nhập của đối tượng, cũng không nhằm đảo bảo cuộc sống với những yêu cầu định trước mà chỉ nhằm giúp cho đối tượng thoát ra khỏi tình trạng cuộc sống bị đe dọa, vươn lên hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, trên thực tế nguyên tắc này trong CTXH không có nghĩa là cào bằng, ai cũng như ai mà phải dựa trên mức độ rủi ro, hoàn cảnh khác nhau mà quyết định mức cứu trợ khác nhau. Vì vậy, pháp luật CTXH đã phân loại đối tượng CTXH để đưa ra chế độ CTXH thường xuyên và chế độ CTXH đột xuất. Có thể nói, đây là nguyên tắc xuyên suốt bao trùm toàn bộ nội dung của hoạt động CTXH trong hệ thống ASXH. Khác với nội dung bảo hiểm xã hội 17
  18. hay ưu đãi xã hội thì vấn đề đóng góp vật chất hay sức người không được đặt ra đối với các đối tượng hưởng CTXH. 3.2. Nguyên tắc cân đối giữa nhu cầu thực tế của đối tượng với khả năng đáp ứng nhu cầu và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội (18) Các nghiên cứu về an sinh xã hội cho thấy các quốc gia càng phát triển thì mức độ và đối tượng CTXH càng phổ biến rộng rãi. Tuy nhiên ở Việt Nam, với tình trạng đất nước còn nghèo, GDP bình quân đầu người năm 2006 đạt 740USD, năm 2009 đạt 1060 USD; trong khi đó, GDP bình quân đầu người năm 2004 của Thái Lan 2.262 USD, Philipin là 1.030 USD, Indonesia là 1.146 USD. Việt Nam chỉ cao hơn Lào 286 USD và Campuchia 368 USD nên an sinh xã hội nói chung và CTXH nói riêng vẫn còn nhiều mới mẻ và chưa được sự quan tâm thích đáng của Nhà nước trong một thời gian dài. Hơn nữa, do những đặc thù của Việt Nam về điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị xã hội mà nhu cầu CTXH ở Việt Nam là rất lớn.Với tỷ lệ số hộ đói nghèo, số người tàn tật không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi, tình trạng ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu hiện nay thì số lượng đối tượng cần trợ giúp đang là bài toán nan giải trên con đường phát triển đất nước.Vì vậy, thưc hiện CTXH phải cân đối giữa nhu cầu thực tế của đối tượng với khả năng đáp ứng và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội. Theo quy định của Luật ngân sách Nhà nước, ngoài các khoản trợ giúp do ngân sách Trung ương chi trả thì các địa phương trích từ 2-5% các nguồn thu của địa phương làm quỹ dự phòng cho các hoạt động phòng chống thiên tai, hỏa hoạn Nguồn chi các địa phương khác nhau thì mức độ CTXH cho các đối tượng là khác nhau.Tuy nhiên, mức trợ cấp CTXH cũng phải đảm bảo được nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì được cuộc sống cho mọi đối tượng hoặc thoát khỏi hoàn cảnh nguy nan trước mắt. Với tầm quan trọng như vậy nên trong quá trình thực hiện công tác CTXH nhà nước luôn luôn phải quan tâm và quán triệt thực hiện nguyên tắc trên. Nếu mức CTXH cao hơn so với khả năng đáp ứng thì sẽ không đảm bảo 18
  19. thực hiện, thậm chí còn tạo tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nguồn cứu trợ. Nếu mức trợ cấp quá thấp thì không đảm bảo được mục đích cứu trợ là “lưới đỡ kinh tế cuối cùng” giúp đỡ người dân. 3.3. Nguyên tắc đa dạng hóa, xã hội hóa các hoạt động CTXH.(19) Xuất phát từ các đối tượng CTXH khác nhau mà hình thức, mức độ cứu trợ cũng khác nhau. Có những đối tượng là nguyên nhân từ thiên nhiên như hạn hán, lũ lụt ; có những đối tượng do hoàn cảnh như trẻ em mồ côi, người mắc các tệ nạn; có những đối tượng do điều kiện sức khỏe như người tàn tật nên các mức và hình thức cứu trợ từ đó cũng rất đa dạng và phong phú. Có đối tượng cần cứu khỏi chết đói, chết rét, bệnh tật nhưng có đối tượng cần trợ giúp thường xuyên để duy trì cuộc sống trong thời gian dài Hay trong cùng một nhóm hưởng cứu trợ nhu cầu cũng khác nhau, chẳng hạn như có thiên tai, bão lụt thì người cần tiền để dựng lại nhà ở, người cần lương thực để chống đói. Bên cạnh tính đa dạng của hoạt động cứu trợ thì yếu tố xã hội hóa cũng rất được quan tâm khi thực hiện hoạt động CTXH trên thực tế. Xã hội hóa hoạt động cứu trợ được hiểu đó là sự tham gia của toàn xã hội vào công tác CTXH. Mỗi cá nhân sống trong cộng đồng đều phải có trách nhiệm với các thành viên khác và với chính mình trên cơ sở sự yêu thương, che chở, đùm bọc lẫn nhau. Nhà nước giữ vai trò trung tâm, khuyến khích và tạo điều kiện để bất cứ cá nhân, tổ chức nào có lòng từ thiện đều có thể tham gia vào các hoạt động CTXH. Thời gian gần đây, việc xã hội hóa hoạt động CTXH đã được phát huy hiêu quả, hàng loạt các hoạt động được tổ chức như: “ủng hộ đồng bào lũ lụt”, chương trình “vì người nghèo”, “ủng hộ nạn nhân chất độc màu da cam ”. Có thể nói CTXH thể hiện rõ nét nhất nguyên tắc xã hội hóa so với các bộ phận khác trong hệ thống an sinh xã hội. 19
  20. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM 1.CÁC CHỦ TRƯƠNG,CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI. Từ xưa đến nay, dù ở thời nào, hoạt động cứu trợ ở nước ta luôn được đặt lên hàng đầu và được xác định là một phương sách quan trọng để duy trì sự ổn định và phát triển. Đảng và Nhà nước ta thường xuyên đề ra những chính sách cứu trợ tuy có khác nhau ở từng thời kỳ. Trước cách mạng tháng 8 cứu trợ xã hội được thể hiện dưới các hình thức: Lập ra quỹ ruộng quỹ thóc công dành cho các phụ nữ góa và trẻ em mồ côi, dành cho những người nghèo khốn khó (chẳng hạn như những quả phụ điền, cô nhi điền, trợ sưu điền, nghĩa điền) Lập ra các phường hôi theo quan hệ than tộc, quan hệ láng giềng hay quan hệ lập nghiệp khi các thành viên trong xã hội không may rơi vào hoàn cảnh khó khăn (chả hạn như hội vạn chài, hội gặt lúa, hội dệt vải, hội hiếu ) Tổ chức các hội cứu, các hội tương tế để bênh vực cho công nhân các hội tế bần từ thiện. Kế thừa và phát huy truyền thống nhân ái cao đẹp của dân tộc, Đảng và Nhà nước đã xác định cứu trợ xã hội là một trong những cơ chế bảo vệ quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội ở nước ta, được đặt song song với cơ chế bảo hiểm xã hội. Ngay từ những ngày đầu đất nước giành độc lập, mặc dù đất nước vẫn còn nhiều khó khăn thiếu thốn, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến nỗi thống khổ của tầng lớp dân nghèo thông qua một loạt những hoạt động như: - Đảng và Nhà nước kêu gọi phá kho thóc Nhật chia cho người nghèo - Phát động phong trào nhường cơm, sẻ áo, “hũ gạo cứu đói” 20
  21. - Giảm tô, giảm tức và chia ruộng cho người nghèo, người neo đơn, tàn tật - Thành lập nhà cứu tế để đáp ứng cho nhu cầu thực hiện cứu tế cho xã hội. Giai đoạn 1945 -1975: đây là giai đoạn đất nước tập trung hết sức người, sức của cho công cuộc giải phóng đất nước để chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Ở đầu giai đoạn này, cứu trợ xã hội tập trung chủ yếu vào việc “diệt giặc đói” với mục tiêu không để người dân chết đói. Bộ cứu tế đã ra đời và ban hành Nghị định ngày 10/9/1945 về việc đặt nguyên tắc đặt cứu trợ kinh tế và thành lập ra một cơ quan cứu tế tại các cơ sở y tế địa phương. Sau đó, ủy ban tối cao về tiếp tế và cứu trợ được thành lập theo Sắc lệnh số 67/SL ngày 29/11/1945 của Chính phủ lâm thời. Đặc biệt ngày 9/11/1946 bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta được Quốc hội thông qua, trong đó tại Điều 14 có ghi nhận về quyền cứu trợ xã hội. Từ đây quyền được giúp đỡ về vật chất và tinh thần của những đối tượng bị thiệt thòi trong xã hội đã trở thành quyền hiến định. Từ những năm 1945 trở đi, do yêu cầu của công cuộc kháng chiến nên các chế độ cứu trợ xã hội tập trung chủ yếu vào người già cô đơn, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa và đối tượng là nạn nhân của chiến tranh. Một số văn bản pháp luật tiêu biểu cho thời kỳ này là: Thông tư 123/TTG ngày 30/3/1959 của Thủ tướng vê việc thành lập quỹ nghĩa thương, thôn g tư 202/CP ngày 26/11/1966 của Hội đồng chính phủ về chính sách đối với người già cả, trẻ mồ côi không nơi nương tựa và người tàn tật Trợ cấp cứu trợ xã hội đã có tác dụng ổn định đời sống của toàn dân , tạo tâm lý yên tâm để sản xuất, xây dựng miền Bắc, làm hậu phương vững chắc để chi viện cho miền Nam. Giai đoạn 1975 đến nay: Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ (tháng 4/1975), cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới-giai đoạn cả nước độc lập thống nhất, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội.Tuy nhiên do ảnh hưởng hậu quả nặng nề của chiến tranh cùng với những tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 80 đã làm cho đối tượng cứu trợ xã 21
  22. hội tăng lên, gánh nặng cho chính sách cứu trợ xã hội. Nhìn chung, các quy định cứu trợ xã hội đầu giai đoạn này phải giảm giá trị thực tế, các đối tượng cứu trợ phải trông chờ vào các biện pháp tương trợ cộng đồng khác. Từ năm 1986 đến nay: pháp luật về cứu trợ xã hội của nước ta có nhiều tiến bộ hơn. Đặc biệt là sau đại hội lần thứ VI của Đảng – đại hội mở ra thời kỳ đổi mới sâu sắc, toàn diện trên đất nước ta. Nhà nước đã thực hiện rất nhiều chính sách nhằm hoàn thiện pháp luật cứu trợ xã hội để phù hợp với tình hình mới. Trong giai đoạn này, có khá nhiều văn bản pháp luật về cứu trợ xã hội được ban hành, trong đó có một số văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao, đặc biệt có ý nghĩa đối với các đối tượng cứu trợ xã hội như: Pháp lệnh người tàn tật số 06/1998/PL-UBTVQH ngày 30/7/1998, Pháp lệnh người cao tuổi UBTVQH thông qua ngà 28 tháng 4 năm 2000. Bên cạnh đó, với mục tiêu “tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội”chúng ta đã ưu tiên nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển dịch vụ phúc lợi xã hội cơ bản: Y tế, giáo dục, nước sạch do vậy đời sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận nhân dân, trong đó có nhóm người yếu thế đã từng bước được nâng lên. Đi cùng với đầu tư phát triển phúc lợi xã hội một loạt chính sách hỗ trợ trực tiếp cũng được triển khai thực hiện như: chính sách cứu trợ đột xuất, thường xuyên, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, các hoạt động cứu trợ xã hội cũng dần dần được luật hóa với nhiều văn bản pháp luật, thông tư, nghị định và bộ luật lao động quy định về cứu trợ xã hội thường xuyên, đột xuất, quy định về việc trợ giúp dành cho người già, trẻ em đặc biệt khó khăn. Cụ thể là một hệ thống văn bản pháp quy đã được xây dựng như: Pháp lệnh người tàn tật được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 28/4/2000, Nghị định số 07/2000/NĐ-CP 09/03/2000 của Chính phủ về chính sách cứu trợ xã hội; Điều 6 Nghị định số 55/1999/NĐ-CP ngày 10 tháng 07 năm 1999 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh về người tàn tật; Điều 6, điều 9 Nghị định số 30/2002/NĐ-CP ngày 26 tháng 3 năm 2002 22
  23. của Chính phủ quy định và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Người cao tuổi; Nghị định số 120/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về việc sửa đổi Điều 9 của Nghị định số 30/2002/NĐ-CP ngày 26 tháng 03 năm 2002 của Chính phủ quy định và hướng dẫn thi hành môt số quy định của Pháp lệnh Người cao tuổi; Điều 5 quyết định số 38/2004/QĐ- TTG ngày 17 tháng 3 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách trợ giúp kinh phí cho gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi và trẻ em bị bỏ rơi; Quyết định số 16/2004 /QĐ-TTG ngày 5 tháng 2 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc trợ giúp đối với hộ gia đình có từ 02 người trở lên không tự phục vụ được do chịu hậu quả chất độc hóa học của Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam; các khoản 1, 2, 3 Điều 1 và khoản 1, 2, 3 Điều 2 Quyết định số 313/2005/QĐ-TTG ngày 02 tháng 12 năm 2005 của Thủ tướng chính phủ về một số chế độ đối với những người nhiễm HIV/AIDS và những người trực tiếp quản lý, điều trị chăm sóc những người nhiễm HIV/AIDS trong các cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước và gần đây nhất là Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 15/04/2007 về chính sách cứu trợ xã hội đã thay thế các nghị định trên Trải qua nhiều khó khăn thiếu thốn của đất nước nhưng hoạt động cứu trợ ở nước ta vẫn ngày càng phát triển và đi vào ổn định. Theo đánh giá chung, Việt Nam được coi là nước có những cam kết mạnh mẽ về sự phát triển xã hội. So với nhiều nước trong khu vực Việt Nam là nước có chương trình cứu trợ khá toàn diện.Với sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, của xã hội, cơ chế cứu trợ xã hội ở nước ta luôn được củng cố và tăng cường, góp phần tạo điều kiện giúp đỡ những người nghèo, yếu thế có thể vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, hạn chế những mặc cảm và tự vươn lên hòa nhập với trong cộng đồng. Với sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, của xã hội, cơ chế cứu trợ xã hội của nước ta luôn được củng cố và tăng cường, góp phần tạo điều kiện giúp những người nghèo yếu thế có thể vượt qua khó khăn trong cuộc sống, hạn chế những mặc cảm và tự vươn lên trong 23
  24. cuộc sống hòa nhập với cộng đồng. Theo số liệu của Bộ lao động Thương binh và Xã hội, số tiền ngân sách chi ra cho những hoat động này (chỉ tính riêng năm 2000) là 648,8 tỷ và những năm sau đó vẫn tiếp tục tăng. Riêng trong hai năm 2000-2001 đã đào tạo và đào tạo lại tay nghề cho gần 800 nghìn người lao động, khoảng 16% số người mắc phải tệ nạn xã hội được tập trung cải tạo và dạy nghề giúp họ trở lại con đường làm ăn lương thiện. Người chết do thiên tai được hỗ trợ tiền thuốc chữa bệnh, hộ gia đình mất nhà mất tài sản, phương tiện sản xuất, thiếu đói đều có chính sách trợ giúp của Nhà nước. Đối với người già cô đơn không nơi nương tựa , trẻ em mồ côi, người tàn tật nặng không có người nuôi dưỡng được hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên của xã, phường hoặc được đưa vào nuôi dưỡng tập trung trong các cơ sở Bảo trợ xã hội. Ngoài ra, họ còn được hỗ trợ khám chữa bệnh miễn phí, giáo dục, chỉnh hình phục hồi chức năng, dạy nghề, tạo việc làm và đặc biệt nhận được sự chăm sóc của cộng đồng xã hội. Hệ thống chính sách ngày càng hoàn thiện đã thể hiện sự công bằng-bình đẳng trong xã hội. Là một đất nước trải qua nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, lại bị ảnh hưởng của thiên tai và biến đổi khí hậu, đang trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa nhanh nên hiện nay số người cần trợ giúp xã hội của Việt Nam rất lớn, chiếm hơn 20% dân số cả nước. Trong đó có khoảng 9,2 triệu người cao tuổi, 7,2 triệu người khuyết tật, 1,5 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, gần 5% hộ nghèo, 1,8 triệu hộ gia đình cần được trợ giúp đột xuất hàng năm do thiên tai, hỏa hoạn, mất mùa, 234 nghìn người nhiễm HIV được phát hiện, 204 nghìn người nghiện ma tuý, khoảng 30 nghìn nạn nhân bị bạo lực, bạo hành trong gia đình; ngoài ra, còn nhiều phụ nữ, trẻ em bị ngược đãi, bị buôn bán, bị xâm hại hoặc lang thang kiếm sống trên đường phố.(20) Giai đoạn 2011-2015: kinh tế đất nước có khó khăn, thách thức, song Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều giải pháp để bảo đảm an sinh xã hội, trong đó có lĩnh vực trợ giúp xã hội tiếp tục là điểm sáng. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định: “Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và 24
  25. công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo, cải thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân”. Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 cũng nhấn mạnh: “Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở rộng đối tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp; nâng dần mức trợ cấp xã hội thường xuyên phù hợp với khả năng ngân sách Nhà nước. Xây dựng mức sống tối thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội làm căn cứ xác định người thuộc diện được hưởng trợ giúp xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội. Củng cố, nâng cấp hệ thống cơ sở trợ giúp xã hội, phát triển mô hình chăm sóc người có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai các mô hình chăm sóc người cao tuổi, trẻ em mồ côi, người khuyết tật, nhất là mô hình nhà dưỡng lão”. Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước và các Nghị quyết của Quốc hội, công tác trợ giúp xã hộ thời gian qua đã đạt được những kết quả chính như sau: Thứ nhất, đã xây dựng được hệ thống văn bản pháp luật, chính sách tạo cơ sở pháp lý cho thực hiện tốt chính sách trợ giúp xã hội. Đến nay, đã có trên 10 Bộ luật, luật; 7 Pháp lệnh và hơn 30 Nghị định, Quyết định của Chính phủ; hơn 40 Thông tư, thông tư liên tịch và nhiều văn bản có nội dung liên quan quy định khuôn khổ pháp luật, chính sách trợ giúp xã hội. Trong đó có những văn bản quan trọng như Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật, Luật Chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em, Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Nghị định số 67/2007/NĐ-CP, Nghị định số 13/2010/NĐ-CP, Nghị định số 136/2013/NĐ-CP quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội Thứ hai, thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên.Tính đến cuối năm 2015, cả nước đã giải quyết trợ cấp xã hội hàng tháng cho trên 2,643 triệu đối tượng. Trong đó: người cao tuổi trên 80 tuổi 25
  26. không có lương hưu 1.454 ngàn người; người cao tuổi cô đơn thuộc hộ nghèo 85 ngàn người; người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng 896 ngàn người; trẻ em mồ côi không có nguồn nuôi dưỡng 45 ngàn trẻ; người đơn thân nuôi con thuộc hộ nghèo 113 ngàn người; ngoài ra, còn khoảng 50 ngàn đối tượng khác. Kinh phí chi trợ cấp xã hội hàng tháng, cấp thẻ bảo hiểm y tế và hỗ trợ chi phí mai táng cho các đối tượng khoảng 13 nghìn tỷ đồng/năm. Thứ ba, bảo đảm ổn định đời sống dân sinh khi gặp thiên tai, hỏa hoạn và các nguyên nhân bất khả kháng. Từ năm 2011 đến nay, các địa phương đã chủ động bố trí ngân sách địa phương, huy động cộng đồng và các nhà hảo tâm hỗ trợ hàng hóa, lương thực với trị giá hàng ngàn tỷ đồng cho các cá nhân và gia đình bị ảnh hưởng bởi thiên tai, tai nạn giao thông hoặc các lý do bất khả kháng khác. Tính đến ngày 31/12/2014, Chính phủ đã hỗ trợ 180.224 tấn gạo cho 26 lượt tỉnh để thực hiện cứu đói cho 2.469.443 lượt hộ/8.618.121 nhân khẩu thiếu lương thực. Thứ tư, đã từng bước quy hoạch, phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội và dịch vụ trợ giúp xã hội. Hiện nay, cả nước có 408 cơ sở trợ giúp xã hội, gồm 194 cơ sở công lập và 214 cơ sở ngoài công lập, được thành lập, hoạt động, kiện toàn theo quy định tại Nghị định số 68/2008/NĐ-CP, Nghị định số 81/2012/NĐ-CP của Chính phủ. Trong đó, có 31 cơ sở chăm sóc người cao tuổi, 71 cơ sở chăm sóc người khuyết tật, 139 cơ sở chăm sóc trẻ em, 102 cơ sở tổng hợp, 31 cơ sở chăm sóc người tâm thần, 34 Trung tâm công tác xã hội với khoảng 10.000 cán bộ, nhân viên. Thực hiện Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25/03/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010-2020; đến nay, cả nước có 34 tỉnh, thành phố thành lập, xây dựng mô hình trung tâm công tác xã hội, trong đó có trên 20 tỉnh, thành phố xây dựng mô hình trung tâm công tác xã hội trên cơ sở nâng cấp, chuyển đổi cơ sở bảo trợ xã hội. 100% tỉnh, thành phố đã thành lập mạng lưới cộng tác viên công tác xã hội từ nhiều chương trình, đề án khác nhau với tổng số gần 100 nghìn 26
  27. cộng tác viên. Các chương trình, giáo trình đào tạo công tác xã hội trình độ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp đã được hoàn thiện, ban hành và triển khai đào tạo tại 55 trường cao đẳng, đại học có đào tạo công tác xã hội trên cả nước; có 3 trường đào tạo tiến sỹ, thạc sỹ công tác xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phê duyệt Đề án đào tạo thạc sỹ công tác xã hội do Tổ chức CFSI và Học viện châu Á tài trợ; 11 trường cao đẳng, đại học đã đào tạo hệ vừa học, vừa làm cho 13.000 cán bộ trình độ đại học, 1.092 cán bộ trình độ cao đẳng và 7.024 cán bộ trình độ trung cấp công tác xã hội; các tỉnh/thành phố đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho 40.000 lượt cán bộ, nhân viên công tác xã hội. Tổng kết lại, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách pháp luật trên nhiều phương diện khác nhau để hoàn thiện và thúc đẩy “cứu trợ xã hội” được toàn diện hơn. Cụ thể như sau: Thực hiện chính sách xoá đói, giảm nghèo Đói nghèo là vấn đề kinh tế, xã hội sâu sắc. Xoá đói, giảm nghèo là một trong những vấn đề vừa cấp bách, vừa cơ bản lâu dài, là một chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác xoá đói, giảm nghèo. Đặc biệt từ năm 1986, khởi đầu công cuộc đổi mới, một mặt Đảng khuyến khích mọi người trong các thành phần kinh tế làm giàu hợp pháp, mặt khác tích cực chỉ đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo trong cả nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (6- 1993) đã chỉ rõ: “Trợ giúp người nghèo chủ yếu bằng cách cho vay vốn, hướng dẫn cách làm ăn. Hình thành quỹ xoá đói giảm nghèo ở từng địa phương trên cơ sở dân giúp dân, Nhà nước giúp dân và tranh thủ các nguồn tài trợ nhân đạo trong nước và quốc tế. Phấn đấu tăng số hộ giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo”. Chủ trương xoá đói, giảm nghèo của Đảng đã trở thành cuộc vận động lớn, khởi đầu ở thành phố Hồ Chí Minh (1992), tiếp đến là các tỉnh đồng bằng 27
  28. sông Cửu Long, các tỉnh Khu IV, Khu V cũ, các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ Đến tháng 12-1995 cả 53 tỉnh, thành phố trong cả nước đều có chương trình xoá đói, giảm nghèo, trong đó 49 tỉnh, thành phố đã thành lập ban chỉ đạo xoá đói, giảm nghèo ở cấp tỉnh, huyện, xã. Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã chú trọng xây dựng các nguồn lực cho xoá đói, giảm nghèo: nguồn lực về lao động và đất đai; nguồn lực về vốn; thực hiện chuyển giao công nghệ giúp đỡ hộ đói, nghèo tổ chức cuộc sống; thực hiện các chính sách xã hội khác đối với người đói, nghèo như hỗ trợ người nghèo về y tế, về giáo dục, khai trương Ngân hàng phục vụ người nghèo (nay là Ngân hàng chính sách xã hội). Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng chủ trương: “Thực hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ”. Xoá đói, giảm nghèo được xác định là một trong 11 chương trình quốc gia. Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 23-7-1998, Chính phủ ra Quyết định số 133/1998/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo giai đoạn 1998-2000 với mục tiêu và nhiều giải pháp cụ thể. Tiếp đó, ngày 31-7-1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa (gọi tắt là Chương trình 135). Phong trào xoá đói, giảm nghèo được đẩy mạnh với nhiều mô hình gia đình, thôn, bản, xã, huyện xoá đói, giảm nghèo có hiệu quả đã được nhân rộng như: mô hình tín dụng - tiết kiệm, mô hình xã hội hoá hỗ trợ nhà ở cho người nghèo, mô hình “một mái nhà, một bể nước, một con bò”, mô hình dạy nghề ngắn hạn miễn phí, mô hình liên thông xuất khẩu lao động , các dự án thuộc Chương trình quốc gia xoá đói, giảm nghèo theo Quyết định số 133 của Thủ tướng Chính phủ đã đi vào hoạt động và đạt hiệu quả rõ rệt. Nhận thức về xoá đói, giảm nghèo cũng có những tiến bộ, từ chỗ không chấp nhận có sự phân hoá giàu - nghèo đã đi đến chủ trương khuyến khích 28
  29. mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói, giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư, coi việc một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển xã hội. Tổng kết 20 năm đổi mới (1986-2006), Đảng ta đã khẳng định: “Công tác xoá đói giảm nghèo được đẩy mạnh và đạt kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống dưới 7% năm 2005. Còn theo chuẩn quốc tế (tính theo chuẩn 1 đôla/ngày/người), thì tỷ lệ nghèo chung đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 28,9% năm 2002; nếu tính theo chuẩn mới (2 đôla/ngày/người) thì hộ nghèo ở Việt Nam năm 2004 là 27,5%”. Ngay từ năm 2002, Việt Nam đã được Liên hợp quốc đánh giá là “Hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ hộ nghèo vào năm 2015”. Cũng theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam đã về đích trước 10 năm so với mục tiêu xoá đói, giảm nghèo trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. Cũng chính nhờ năng lực lãnh đạo phát triển xã hội của Đảng mà xét về năng lực giảm nghèo của các quốc gia (gọi tắt là CPM) thì Việt Nam được xếp thứ 27 trong số 101 nước đang phát triển, có năng lực tốt hơn trong xoá đói, giảm nghèo, trên cả một số nước trong khu vực như Inđônêxia, Malaixia, Philíppin, Thái Lan . Tuy nhiên, những vấn đề bức xúc và thách thức hiện nay đối với xoá đói, giảm nghèo là: chưa gắn chặt giữa tăng trưởng với giảm nghèo. Vấn đề nâng cao năng lực thị trường cho người nghèo, biến họ thành chủ thể, chủ động và tích cực trong phát triển kinh tế chưa được quan tâm đúng mức. Người nghèo chưa chủ động tham gia vào thị trường; kết quả xoá đói, giảm nghèo chưa vững chắc, tỷ lệ hộ nghèo đã thoát nghèo nhưng nằm sát chuẩn nghèo rất lớn (70-80%), chỉ cần gặp rủi ro là họ lại rơi vào nghèo đói; tỷ lệ tái nghèo còn cao (7-10%), bất bình đẳng về thu nhập và mức sống giữa các vùng, các tầng lớp dân cư còn lớn và có xu hướng gia tăng. “Chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành thị gấp trên 2 lần (năm 2002 gấp 2,26 lần; năm 2004 gấp 2,15 29
  30. lần; năm 2006 gấp 2,09 lần). 90% hộ nghèo sống ở nông thôn và tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn còn cao (18% so với 14,75% hộ nghèo của cả nước), đặc biệt hộ nghèo là người dân tộc thiểu số chiếm tới 36% tổng số hộ nghèo cả nước, chủ yếu là vùng miền núi phía bắc và Tây Nguyên, là địa bàn rất khó khăn cho công tác xoá đói giảm nghèo”. Thực hiện chính sách ưu đãi người có công: Chăm sóc, ưu đãi người có công với cách mạng không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, mà còn thể hiện truyền thống và đạo lý của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Vì vậy, từ trước tới nay, trong bất luận hoàn cảnh nào, Đảng và Nhà nước cũng luôn luôn xác định chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với Tổ quốc là một trong những chính sách lớn có vị trí rất quan trọng trong chiến lược con người. Đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước đã từng bước sửa đổi, bổ sung hệ thống chính sách, chế độ ưu đãi đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991) nhấn mạnh: “Quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng, coi đó vừa là trách nhiệm của Nhà nước, vừa là trách nhiệm của toàn dân; sớm ban hành chế độ toàn dân đóng góp vào quỹ đền ơn, trả nghĩa để chăm lo đời sống thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII của Đảng cũng chỉ rõ: “có chính sách thích đáng đối với các gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh”. Ngày 10-9-1994, Chủ tịch nước ban hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước: Bà mẹ Việt Nam anh hùng và Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng gọi chung là Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, Đảng từng bước sửa đổi, 30
  31. bổ sung nhằm hoàn thiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, tổ chức thực hiện đầy đủ các chính sách, chế độ theo pháp lệnh về người có công. Công tác chăm sóc người có công đã được xã hội hoá, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn”, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng đã trở thành nét đẹp trong các tầng lớp nhân dân, các tổ chức chính trị, xã hội. Việc chăm sóc người có công với cách mạng và trợ giúp người có đời sống khó khăn được duy trì và mở rộng. Đến năm 1998, khi ngân sách Nhà nước có khả năng đáp ứng, Chính phủ đã trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá X ban hành Pháp lệnh số 08/1998/PL-UBTVQH10 sửa đổi điều 21 của pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Ngày 11-12-1998, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra Lệnh số 08/L-CTN công bố Pháp lệnh sửa đổi điều 21 của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Trên cơ sở đó, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 19/2000/PL-UBTVQH10 (sửa đổi lần 2) điều 21 của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Từ năm 2005, trước tình hình kinh tế - xã hội đất nước phát triển, đòi hỏi chính sách ưu đãi người có công phải bám sát thực tiễn cuộc sống, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tham mưu trình Chính phủ, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội bổ sung, sửa đổi Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Ngày 29-6-2005, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, sửa đổi, bổ sung (số 26/2005/PL- UBTVQH11). Theo đó, đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi đã mở rộng từ 7 đối tượng ở Pháp lệnh cũ lên 13 đối tượng. Pháp lệnh sửa đổi năm 2005 còn bổ sung chế độ mai táng phí đối với một số đối tượng có công hưởng trợ cấp, phụ cấp hằng tháng; bổ sung chế độ đối với người có công sau khi chết, thân nhân của họ tiếp tục được hưởng một khoản trợ cấp; bổ sung chế độ đối với bố mẹ, vợ hoặc chồng, người có công nuôi dưỡng liệt sĩ được hưởng trợ cấp tiền tuất hằng tháng không phụ thuộc tuổi đời; thân nhân hai liệt sĩ được 31
  32. hưởng trợ cấp nuôi dưỡng; bổ sung chế độ bảo hiểm y tế và mai táng phí đối với người hoạt động kháng chiến và người có công giúp đỡ cách mạng hưởng trợ cấp một lần; quy định người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học là người có công với cách mạng. Ngày 26-6-2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 54/2006/NĐ-CP, theo đó, ngoài chế độ trợ cấp, người hoạt động kháng chiến còn được hưởng các ưu đãi khác như bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khoẻ, phục hồi chức năng lao động, cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình , con đẻ của họ được hưởng chế độ ưu đãi trong giáo dục và đào tạo. Hơn 20 năm đổi mới đất nước cũng là hơn 20 năm Đảng từng bước đổi mới và hoàn thiện chính sách ưu đãi người có công. Nghị quyết Đại hội X của Đảng (4-2006) chỉ rõ: “Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi người có công với nước; vận động toàn xã hội tham gia các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa; nâng cao mức sống về vật chất, tinh thần của người có công ngang bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư. Trợ giúp nạn nhân chất độc da cam ”. Ngày 14-12-2006, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có Chỉ thị số 07-CT/TW, về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác thương binh, liệt sĩ, người có công và phong trào “đền ơn đáp nghĩa”. Đồng thời để tiếp tục hoàn thiện chính sách ưu đãi người có công, ngày 18-6-2007, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, sửa đổi, bổ sung lần thứ ba. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng có Thông tư số 25/2007/TT-BLĐTBXH, ngày 15-11-2007, hướng dẫn bổ sung việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, trong đó quy định: người có công giúp đỡ cách mạng trong kháng chiến được Nhà nước tặng huân chương, huy chương kháng chiến đã chết mà chưa được hưởng chế độ ưu đãi thì thân nhân của họ được hưởng trợ cấp một lần như quy định đối với thân nhân người có công với cách mạng chết trước ngày 1-1-1995 (quy định tại khoản 7 mục B Bảng số 01 kèm theo Nghị định số 32/2007/NĐ-CP ngày 2-3- 2007 của Chính phủ). 32
  33. Tiếp đó, ngày 7-4-2009, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 08/2009/TT-BLĐTBXH hướng dẫn điều kiện, tiêu chuẩn giải quyết chế độ đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học và con đẻ của họ. Theo đó điều kiện để hưởng chế độ ưu đãi người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học là: đã công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu từ tháng 8-1961 đến 30-4-1975 tại các vùng mà quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc hoá học; mắc một trong những bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm chất độc hoá học/điôxin theo Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ngày 20-2-2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm chất độc hoá học/điôxin. Phong trào “đền ơn đáp nghĩa” được khởi nguồn từ năm 1947 đến nay, nhân dân cả nước đã có nhiều hoạt động phong phú, thiết thực thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc và trở thành nét đẹp trong đời sống văn hoá của nhân dân ta. Cũng từ phong trào “đền ơn đáp nghĩa” đã có hơn 300 nghìn gia đình chính sách được tặng “nhà tình nghĩa”, hơn 600 nghìn sổ tiết kiệm được gửi đến các gia đình chính sách còn khó khăn, hàng chục nghìn “vườn cây tình nghĩa”, “ao cá tình nghĩa” được trao tặng, tổng giá trị các hoạt động tình nghĩa tới hàng nghìn tỷ đồng. “Trong điều kiện vừa chống lạm phát vừa chống suy giảm kinh tế, hằng năm, Nhà nước vẫn dành hơn 10 nghìn tỷ đồng thực hiện chế độ ưu đãi một lần hoặc thường xuyên cho 8,2 triệu người có công; thực hiện các chính sách bảo hiểm y tế, miễn giảm học phí trong giáo dục, cấp đất, làm nhà, hỗ trợ vốn sản xuất, kinh doanh và nhiều chế độ ưu đãi đặc thù khác Từ năm 2008 đến nay, tuy điều kiện kinh tế có khó khăn, nhưng phong trào "đền ơn đáp nghĩa" vẫn tiếp tục phát triển, cả nước đã trao tặng gần 10 nghìn nhà tình nghĩa, sửa chữa hơn 8.000 nhà, tặng hơn 21 nghìn sổ tiết kiệm, vận động “Quỹ đền ơn đáp nghĩa” được hàng trăm tỷ đồng; gần 10 nghìn xã, phường (đạt tỷ lệ gần 95%) được uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố công nhận làm tốt công tác 33
  34. thương binh, liệt sĩ”. Một thành tựu khá nổi bật nữa là chế độ trợ cấp ưu đãi xã hội đã có sự đổi mới căn bản. Gắn liền với lộ trình cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội, mức trợ cấp ưu đãi xã hội được điều chỉnh trên cơ sở mức tiêu dùng bình quân của toàn xã hội, phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. “Năm 2007, nguồn lực tài chính dành riêng ưu đãi xã hội là 13.000 tỷ đồng, năm 2008 là 15.000 tỷ đồng, năm 2009 là 17.000 tỷ đồng (riêng năm 2009 cùng với nguồn lực tài chính từ địa phương, nguồn huy động từ xã hội hoá, chi ưu đãi xã hội đối với người có công lên tới 20.000 tỷ đồng)”14. Chăm sóc nâng cao sức khoẻ nhân dân Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được Đảng chú trọng nên đạt kết quả tốt, góp phần hạ thấp tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi, cơ bản thanh toán một số dịch bệnh phổ biến trước đây, khống chế thành công bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS). Mạng lưới y tế được mở rộng, đặc biệt là y tế cơ sở. Tính đến hết năm 2004, cả nước có 13.149 cơ sở y tế, tăng 1.370 cơ sở so với năm 1986; có 99.300 y, bác sĩ, tăng 35.600 người so với năm 1986. Số y tá có 49.000 người; nữ hộ sinh có 17.500 người, tăng 2.400 người so với năm 1986. Bình quân 1 vạn dân có 24,4 giường bệnh; 11,8 y, bác sĩ, tăng 1,4 người so với năm 1986. Số xã, phường có bác sĩ tăng lên đáng kể, nếu năm 1997 mới có 2.413, thì năm 2000 số xã, phường có bác sĩ đã lên tới 5.366. Chế độ khám, chữa bệnh cho người nghèo, khám, chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi đang được triển khai thực hiện.Việc phòng, chống HIV/AIDS được đẩy mạnh hơn. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm từ 33,4% năm 2000 xuống dưới 25% năm 2005 Tuổi thọ bình quân của dân số nước ta từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 67,8 năm 2000, 71,5 tuổi năm 2005 và 72 tuổi năm 2007. Thực hiện chính sách an sinh xã hội Chính sách an sinh xã hội là một trong những chính sách xã hội cơ bản của quốc gia hướng vào bảo vệ, bảo đảm an toàn cho các thành viên trong xã 34
  35. hội trong các trường hợp rủi ro dẫn đến bị giảm hoặc bị mất thu nhập, hoặc phải tăng chi phí đột xuất do nhiều nguyên nhân khác nhau - gọi là “rủi ro xã hội”. An sinh xã hội dựa trên nguyên tắc chia sẻ trách nhiệm và công bằng xã hội, là một trong những chỉ báo quan trọng của một xã hội phát triển. Xã hội càng phát triển, đời sống con người càng phong phú, nhu cầu đáp ứng về an sinh xã hội càng đa dạng và tăng lên. Các nhu cầu về an sinh xã hội cơ bản bao gồm: bảo hiểm xã hội; duy trì mức thu nhập đủ sống khi gặp rủi ro; tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, nước sạch sinh hoạt ). Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm phát triển hệ thống an sinh xã hội với những chính sách cụ thể nhằm phòng ngừa và khắc phục rủi ro trong kinh tế thị trường và rủi ro xã hội khác cho mọi người, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4-2006) đề ra chủ trương: “Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân”. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu khoá X một lần nữa nhấn mạnh: “từng bước mở rộng và cải thiện hệ thống an sinh xã hội để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, nhất là của nhóm đối tượng chính sách, đối tượng nghèo”. Thực hiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với kinh tế thị trường, tạo cơ hội cho mọi người tiếp cận các chính sách an sinh xã hội, nhất là bảo hiểm xã hội (bao gồm bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp), giảm nghèo và hoà nhập xã hội nhóm yếu thế (trợ giúp xã hội ) , chính là thực hiện công bằng xã hội, hướng vào phát triển con người, tạo động lực tăng trưởng và phát triển bền vững, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đầu tư cho chính sách an sinh xã hội cũng chính là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát triển. Nhìn tổng thể, chính sách trợ giúp xã hội ở Việt Nam đã đạt được thành quả góp phần bảo đảm an sinh xã hội cho người dân. Hệ thống trợ giúp xã hội 35
  36. tuy đã hình thành nhưng chưa được hoàn thiện theo cách tiếp cận hệ thống, đồng bộ, toàn diện, bao phủ hết đối tượng, gắn kết chặt chẽ trong mối tương quan với an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, phát triển các dịch vụ xã hội cơ bản và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về phát triển trợ giúp xã hội, nhất là trong điều kiện Việt Nam là nước đang phát triển có thu nhập trung bình. 2.PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI. Ở Việt Nam, dù thuật ngữ “An sinh xã hội” mới chỉ xuất hiện từ những năm 70 trong một số cuốn sách nghiên cứu về pháp luật của một số học giả Sài gòn nhưng cứu trợ xã hội chắc chắn đã xuất hiện từ rất lâu trong truyền thống tinh thần “lá lành đùm lá rách” của dân tộc Việt. Hiện nay, cứu trợ xã hội được nhà nước Việt nam đặc biệt quan tâm và là một trong những chính sách lớn của Nhà nước, thể hiện qua Nghị định số 07/2000/NĐ-CP quy định về đối tượng được hưởng, chế độ hưởng cũng như các hình thức cứu trợ . 2.1.Về đối tượng và điều kiện hưởng cứu trợ xã hội Theo pháp luật hiện hành, đối tượng được hưởng cứu trợ xã hội được chia thành hai loại theo hai chế độ: cứu trợ xã hội thường xuyên và cứu trợ xã hội đột xuất. 2.1.1. Đối tượng và điều kiện được cứu trợ xã hội thường xuyên Chế độ cứu trợ xã hội thường xuyên là sự hỗ trợ, giúp đỡ về mặt vật chất và tinh thần mang tính lâu dài cho những người thuộc diện cứu trợ xã hội nhằm giúp đỡ họ ổn định cuộc sống, hoà nhập vào cộng đồng. Tuỳ từng đối tượng cứu trợ xã hội khác nhau mà pháp luật quy định chế độ trợ cấp cụ thể. Theo quy định của pháp luật hiện hành, đối tượng cứu trợ xã hội thường xuyên bao gồm 9 nhóm đối tượng sau: Trẻ em mồi côi và người có hoàn cảnh tương tự như trẻ em mồ côi Người cao tuổi bao gồm người cao tuổi cô đơn thuộc hộ gia đình nghèo và người cao tuổi còn vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con, cháu, người thân thích để nương tựa, thuộc hộ gia đình nghèo. 36
  37. Người từ 85 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội. Người tàn tật không có khả năng lao động hoặc không có khả năn tự phục vụ Người mắc bệnh tâm thần hoặc tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần đã được các cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng chưa thuyên giảm. Người nhiễm HIV/AIDS không có khả năng lao động và thuộc hộ gia đình nghèo. Gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi. Hộ gia đình có 2 người trở lên tàn tật nặng, không có khả năng tự phục vụ hoặc có từ 2 người mắc bệnh tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần đã được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng chưa thuyên giảm. Người đơn thân thuộc hộ gia đình nghèo, đang nuôi con nhỏ dưới 16 tuổi, trường hợp con đang đi học văn hóa, học nghề được áp dụng dưới 18 tuổi. Như vậy, so với các quy định trước đây nhóm đối tượng hưởng chế độ cứu trợ xã hội thường xuyên đã tăng lên 9 đối tượng so với 4 đối tượng đã quy định trong Nghị định số 07/2000/NĐ-CP. Sau đây, chúng ta sẽ nghiên cứu nội dung cụ thể của nhóm đối tượng đầu tiên này: Trẻ em mồ côi và người có hoàn cảnh tương tự giống trẻ em mồ côi đó là: - Trẻ em mồ côi cả cha lẫn mẹ, mất nguồn nuôi dưỡng - Trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng - Trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại là mẹ hoặc cha mất tích theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật. - Trẻ em có cha và mẹ, hoặc cha hoặc mẹ đang trong thời gian chấp hành hình phạt tù tại trại giam, không có người nuôi dưỡng. 37
  38. - Trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ gia đình nghèo. - Người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nhưng đang đi học văn hóa, học nghề có hoàn cảnh như trẻ em nêu trên . Đây là nhóm đối tượng đầu tiên được quan tâm trong nhóm đối tượng cứu trợ xã hội thường xuyên. Điều này cũng dễ hiểu bởi nhận thức của nhân loại nói chung và của Việt Nam nói riêng thì trẻ em được coi là tương lai của đất nước. Chính vì vậy, quyền trẻ em đã trở thành quyền hiến định, ghi nhận tại Điều 65 – Hiến pháp 1992 “trẻ em được gia đình, nhà trường và xã hội bảo vệ chăm sóc và giáo dục”. Tuy nhiên, một số trẻ em do hoàn cảnh nhất định cần đến sự giúp đỡ của Nhà nước, cộng đồng, xã hội. Trẻ em mồ côi sống trong điều kiện rất khó khăn, không được chăm sóc đầy đủ, phải lao động kiếm sống, ít có điều kiện đến trường, phải sống trong cảnh nghèo đói. Theo kết quả tổng hợp báo cáo của Bộ lao động-Thương binh và xã hội cho biết: “từ năm 2001 đến nay con số trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đã giảm xuống 1,7 triệu em trong giai đoạn 2005-2007 và có xu hướng ổn định, không tăng đến năm 2008. Ngoài ra còn có 1.8 triệu em trong các hộ nghèo. Đây là các đối tượng rất cần được sự quan tâm của Nhà nước và cộng đồng nhằm giúp các em sớm hòa nhập vào cuộc sống và đảm bảo phát triển đầy đủ, toàn diện. Tuy nhiên, quy định này cũng bộc lộ nhiều hạn chế nhất định. Điều kiện xác định đối tượng hưởng cứu trợ xã hội là trẻ em từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi đang đi học văn hóa, học nghề (khoản 1 điều 4 Nghị định 67/2007/NĐ-CP) là không phù hợp, bởi các lí do sau: Theo quy định tại Điều 6 bộ luật Lao động thì người đủ từ 15 tuổi trở lên có thể tham gia quan hệ lao động Hiện nay, với các điều kiện kinh tế, sức khỏe trẻ em nói chung đã tham gia quan hệ lao động dưới các hình thức khác nhau trong độ tuổi từ 12-13 trở lên và thậm chí ở một số gia đình khó khăn các em là trụ cột gia đình. Chính vì vậy, trong khi nguồn ngân sách cho cứu trợ xã hội chưa đủ mức độ bao phủ thì việc lựa chọn đúng đối tượng cứu trợ, đúng người là cần thiết nhất. 38
  39. Người cao tuổi: vấn đề người cao tuổi đã và đang trở thành vấn đề xã hội của nhiều quốc gia quan tâm. Quan tâm chăm sóc người già nói chung và người già cô đơn không người nuôi dưỡng là trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và toàn xã hội, nhất là đối với Việt Nam, một đất nước có truyền thống tôn trọng người già. Theo quy định của pháp luật hiện hành, những người cao tuổi sau thuộc diện hưởng chế độ cứu trợ xã hội: Người cao tuổi cô đơn thuộc hộ nghèo Người cao tuổi còn vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con cháu, người thân thích để nương tựa, thuộc hộ gia đình nghèo. Bằng quy định này, Nhà nước đã giúp không ít các đối tượng người già duy trì ổn định cuộc sống lúc cuối đời.Tuy nhiên, căn cứ vào quy định trên ta thấy tiêu chí quan trọng của người cao tuổi được hưởng cứu trợ xã hội là “cao tuổi” và “hộ nghèo”. Các đối tượng trên được quy định mức độ trợ cấp của chế độ trợ cấp thường xuyên trong Nghị định 67/2007/NĐ-CP với các điều khoản sau: Điều 7. - Quy định mức chuẩn để xác định mức trợ cấp xã hội hàng tháng là 120.000 đồng (hệ số 1); khi mức sống tối thiểu của dân cư thay đổi thì mức chuẩn trợ cấp xã hội cũng được điều chỉnh theo cho phù hợp. - Các mức trợ cấp xã hội hàng tháng thấp nhất đối với từng nhóm đối tượng bảo trợ xã hội quy định tại Nghị định này như sau: 39
  40. Bảng 1.(21) Mức trợ cấp xã hội hàng tháng thấp nhất cho các đối tượng bảo trợ xã hội sống tại cộng đồng do xã, phường, quản lý. (Đơn vị tính: nghìn đồng) Hệ Trợ TT Đối tượng số cấp 1 -Đối tượng tại khoản 1 Điều 4 từ 18 tháng tuổi trở lên . -Đối tượng quy định tại khoản 2 ,khoản 3 Điều 4 và đối tượng không có khả năng lao độn quy địn h tại khoản 4 1,0 120 Điều 4. 2 -Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 dưới 18 tháng tuổi ;từ 18 tháng tuổi trở lên bị tàn tật ;bị nhiễm HIV/AIDS. -Đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 4 tàn tật nặng. -Đối tượng quy định tại khoản 5 ,khoản 6 Điều 4. -Đối tượng quy định tại khoản 9 Điều 4 đang nuôi con 1,5 180 dưới 18 tháng tuổi ,từ 18 tháng tuổi trở lên bị tàn tật hoặc bị nhiễm HIV/AIDS. 3 -Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 dưới 18 tháng tuổi bị tàn tật nặng,bị nhiễm HIV/AIDS. -Đối tượng không có khả năng tự phục vụ quy định tại khoản 4 Điều 4 -Đối tượng quy định tại khoản 8 Điều 4 có 2 người tàn tật nặng. 2.0 240 -Đối tượng quy định tại khoản 9 Điều 4 đang nuôi con dưới 18 tháng tuổi hoặc bị tàn tật hoặc bị nhiễm HIV/AIDS. 4 Đối tượng quy định tại khoản 7 Điều 4 nhận nuôi trẻ em dưới 18 tháng tuổi trên 18 tháng tuổi bị tàn tật hoặc bị 2,5 300 nhiễm HIV/AIDS. 40
  41. 5 -Đối tượng quy định tại khoản 7 Điều 4 nhận nuôi trẻ em dưới 18 tháng tuổi bị tàn tật hoặc bị nhiễm HIV/AIDS. -Đối tượng quy định tại khoản 8 Điều 4 có 3 người bi tàn 3,0 360 tật nặng 6 Đối tượng quy định tại khoản 8 Điều 4 có 4 người bị tàn 4,0 480 tật nặng 41
  42. Bảng 2(22) Mức trợ cấp xã hội hàng tháng thấp nhất cho các đối tượng bảo trợ xã hội sống trong các nhà xã hội tại cộng đồng do xã, phường quản lý. (Đơn vị tính: nghìn/đồng) Hệ Trợ TT Đối tượng số cấp 1 Đối tượng quy định tại khoản 1 ,khoản 2,khoản 6 Điều 4 2,0 240 Bảng 3(23) Mức trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng thấp nhất cho các đối tượng bảo trợ xã hội sống tại các cơ sở bảo trợ xã hội. (Đơn vị tính: nghìn đồng) Hệ Trợ TT Đối tượng số cấp 1 -Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 từ 18 tháng tuổi trở lên 2,0 240 -Đối tượng quy định tại khoản 2,khoản 4 Điều 4 2 -Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 dưới 18 tháng tuổi -Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 từ 18 tháng tuổi trở lên tàn tật;bị nhiễm HIV/AIDS 2,5 300 -Đối tượng quy định tại khoản 5,khoản 6 Điều 4 Điều 8. Các đối tượng nêu trên tại khoản 1,2,3,4,5,6; trẻ em mồ côi; trẻ em bị bỏ rơi được gia đình, cá nhân nêu tại khoản 7 nuôi dưỡng; người tàn tật trong hộ gia đình nêu tại khoản 8; trẻ em là con của người đơn thân nêu tại khoản 9 Điều 4 Nghị định này được cấp thẻ bảo hiểm y tế theo quy định tại Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2005 của Chính phủ ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế hoặc được khám, chữa bệnh không phải trả tiền 42
  43. tại các cơ sở công lập theo quy định tại Điều 18 Nghị định số 36/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Điều 9. - Trẻ em từ 13 tuổi trở lên sống tại các cơ cở bảo trợ xã hội, nhà xã hội tại cộng đồng, không còn học văn hóa thì được giới thiệu đến các cơ sở dạy nghề để học nghề theo quy định hiện hành của Nhà nước. - Trẻ em mồ côi đã đến tuổi trưởng thành nhưng không tiếp tục học văn hóa, học nghề; người tàn tật đã phục hồi chức năng; người tâm thần đã ổn định đang ở cơ sở bảo trợ xã hội được đưa trở về địa phương (nơi đối tượng sinh sống trước khi được đưa vào cơ sở bảo trợ xã hội). Ủy ban nhân dân cấp xã và gia đình có trách nhiệm tiếp nhận và tạo điều kiện cho họ có việc làm, ổn định cuộc sống. - Trẻ em bị bỏ rơi sống tại cơ sở bảo trợ xã hội đã đến tuổi trưởng thành nhưng không tiếp tục học văn hóa ,học nghề thì cơ sở bảo trợ xã hội và địa phương nơi cơ sở bảo trợ xã hội đặt trụ sở có trách nhiệm hỗ trợ tạo việc làm và nơi ở và tiếp tục cho hưởng trợ cấp cho đến khi ổn định được cuộc sống ,nhưng không quá 24 tháng. Điều 10. Ngoài được hưởng khoản trợ cấp hàng tháng theo quy định tại Điều 7 Nghị định này, các đối tượng được nêu tại các khoản 1,2,3,4,5,6; trẻ em mồ côi; trẻ em bị bỏ rơi được gia đình, cá nhân nêu tại khoản 7 nuôi dưỡng; người tàn tật không có khả năng tự phục vụ trong hộ gia đình nêu tại khoản 8; trẻ em là con của người đơn thân nêu tại khoản 9 Điều 4 Nghị định này còn được hưởng thêm các khoản trợ giúp sau: - Các đối tượng đang học văn hóa, học nghề được miễn giảm học phí; được cấp sách vở, đồ dùng học tập theo quy định của pháp luật. - Khi chết được hỗ trợ kinh phí mai tang 2.000.000/ người. - Các đối tượng ở cơ sở bảo trợ xã hội thuộc Nhà nước quản lý ngoài các khoản trợ giúp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này còn được: 43
  44. Trợ cấp để mua sắm tư trang, vật dụng phục vụ cho sinh hoạt đời sống thường ngày. Trợ cấp mua thuốc chữa bệnh thông thường;riêng người nhiễm HIV/AIDS được hỗ trợ điều trị nhiễm trùng cơ hội mức 150.000/người/năm. Trợ cấp vệ sinh cá nhân hàng tháng đối với đối tượng nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Điều 11. Căn cứ điều kiện cụ thể của địa phương, đơn vị, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Bộ trưởng các bộ, Thủ trưởng các ngành, đoàn thể ở Trung ương (có cơ sở bảo trợ xã hội) quyết định mức trợ cấp, trợ giúp cho các đối tượng bảo trợ xã hội thuộc quyền quản lý cho phù hợp, nhưng không thấp hơn các mức quy định trên. 2.1.2.Đối tượng và điều kiện được cứu trợ xã hội đột xuất: Cứu trợ xã hội đột xuất là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về điều kiện sinh sống cho các thành viên trong cộng đồng khi gặp các rủi ro khó khăn bất ngờ khiến cho cuộc sống của họ tạm thời bị đe dọa, nhằm giúp họ vượt qua sự hụt hẫng, ổn định cuộc sống và sớm trở lại hòa nhập với cộng đồng. Theo Nghị định số 67/2007/NĐ-CP quy định đối tượng được cứu trợ như sau: - Đối tượng được trợ giúp cứu trợ đột xuất (một lần) là những người, hộ gia đình gặp khó khăn do hậu quả thiên tai hoặc những lý do bất khả kháng khác gây ra, bao gồm: Hộ gia đình có người chết, mất tích; Hộ gia đình có người bị thương nặng; Hộ gia đình có nhà bị đổ, sập, trôi, cháy, hỏng nặng; Hộ gia đình bị mất phương tiện sản xuất-lâm vào cảnh thiếu đói Hộ gia đình phải di dời khẩn cấp do nguy cơ sạt lở đất, lũ quyét; Người gặp rủi ro ngoài vùng cư trú dẫn đến bị thương nặng, gia đình không biết để chăm sóc. Người lang thang xin ăn trong thời gian tập trung chờ đưa về nơi cư trú. 44
  45. Uỷ ban nhân dân cấp xã, bệnh viện, cơ quan, đơn vị đứng ra tổ chức mai táng cho người gặp rủi ro ngoài vùng dân cư bị chết, gia đình không biết để mai táng. Chế độ trợ cấp cho các đối tượng thuộc diện cứu trợ thường xuyên được quy định trong Nghị định số 67/2007/NĐ-CP như sau: Theo điều 12 mức độ cứu trợ cấp cứu đột xuất thấp nhất đối với các đối tượng quy định tại Điều 6 của Nghị định này như sau: Đối với hộ gia đình: Có người chết, mất tích: 3.000.000/người. Có người bị thương nặng:1.000.000/người. Có nhà bị đổ, sập, trôi, cháy hỏng nặng: 5.000.000/hộ Hộ gia đình phải di dời khẩn cấp do nguy cơ sạt lở đất, lũ quét: 5.000.000/hộ Đối với cá nhân: Trợ giúp cứu đói: 15kg/người/tháng; trong thời gian từ 1 đến 3 tháng. Người gặp rủi ro ngoài vùng cư trú bị thương nặng, gia đình không biết chăm sóc: 1.000.000/người. Người lang thanh xin ăn trong thời gian tập trung để đưa về nơi cư trú: 10.000/người /ngày nhưng không quá 30 ngày. Trường hợp đặc biệt cần phải kéo dài thì thời gian đươc hưởng trợ cấp tối đa không quá 3 tháng và mức trợ cấp bằng mức trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng tại cơ sở bảo trợ xã hội. Đối với người gặp rủi ro ngoài vùng cư trú bị giết, gia đình không biết mai táng đươc Ủy ban nhân dân cấp xã, bệnh viện, cơ quan, đơn vị tổ chức mai táng thì các cơ quan, đơn vị đứng ra mai táng được hỗ trợ kinh phí mai táng thấp nhất là 2.000.000 đồng. Điều 13. Hộ gia đình có người lao động chính bị chết, mất tích; hộ gia đình bị mất phương tiện sản xuất; hộ gia đình có nhà bị đổ sập, trôi, cháy, hỏng nặng, lâm vào cảnh bị đói do thiếu lương thực, ngoài khoản trợ cấp nêu 45
  46. trên tại Điều 12 Nghị định này, được xem xét trợ giúp thêm các khoản sau cho đến khi hộ thoát khỏi hộ nghèo: Miễn giảm học phí cho người đang học văn hóa, học nghề. Được cấp thẻ bảo hiểm y tế hoặc khám chữa bệnh miễn phí tại các cơ sở chữa bệnh Nhà nước. Được vay vốn ưu đãi để phát triển sản xuất. Điều 14.Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định mức trợ giúp cụ thể đối với trường hợp nêu tại mục d khoản 1 Điều 6 cho phù hợp với tình hình thực tế và khả năng huy động nguồn lực của địa phương. Nhà nước khuyến khích các địa phương nâng mức trợ cấp, trợ giúp cao hơn mức thấp nhất quy định tại Điều 12 Nghị định này. Cứu trợ xã hội và Bảo hiểm xã hội đều là các nhánh của An sinh xã hội. Chúng đều là những chính sách xã hội quan trọng của mỗi quốc gia. Chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau và góp phần ổn định cuộc sống cho mọi thành viên trong cộng đồng xã hội, từ đó góp phần ổn định và an toàn cho xã hội. Qua đây, chúng ta sẽ tìm hiểu và so sánh qua đối tượng của Cứu trợ xã hội và Bảo hiểm xã hội. Chúng ta có thể so sánh qua đối tượng cứu trợ xã hội và đối tượng của bảo hiểm xã hội.Cùng là những mảng chính trong hệ thống chính sách của an sinh xã hội,cứu trợ xã hội và bảo hiểm xã hội đều thực hiện mục tiêu tạo ra mạng lưới bảo vệ an toàn cho các thành viên trong xã hội khi gặp điều kiện rủi ro,yếu thế trong cuộc sống;cả hai hoạt động trên đều dựa vào nguồn quỹ tập trung hoặc quỹ thành phần và đều nằm dưới sự quản lý của Nhà nước.CTXH và BHXH đều mang hình thức thực hiện phân phối lại thu nhập trong xã hội;nội dung và phạm vi điều chỉnh của chính sách phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.Bên cạnh điểm giống nhau thì BHXH và CTXH còn có những điểm khác nhau đó là:về đối tượng của BHXH thì thu nhập bị giảm hoặc mất của người lao động 46
  47. khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động,mất việc làm.;còn CTXH-thành viên gặp khó khăn,bất hạnh,ruit ro trong cuộc sống như thiên tai,hỏa hoạn,bị tàn tật,già yếu dẫn đến cuộc sống túng quẫn không đảm bảo điều kiện sống tối thiểu.Đối tượng hưởng của BHXH mang phạm vi hẹp gồm người tham gia bảo hiểm xã hội và người thứ ba;còn CTXH lại có phạm vi rộng gồm những người gặp rủi ro,bất hạnh trong cuộc sống.BHXH có tính pháp lý cao được các nước luật hóa tương đối thống nhất trên cơ sở các khuyến cáo của Tổ chức lao động quốc tế (ILO);còn CTXH tính pháp lý luô bị hạn chế do đối tượng rộng nên phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế-xã hội của mỗi nước.Về đặc điểm:người muốn được hưởng BHXH thig phải có hai yếu tố một là phải đóng góp phí bảo hiểm,hai là rủi ro khi xảy ra;CTXH-người được trợ cấp không nhất thiết phải tham gia hình thành nên quỹ.BHXH mang tính chất bắt buộc đối với người lao động và người sử dụng lao động;còn CTXH ít mang tính chất bắt buộc thiên về mảng nhân đạo,đạo đức. 2.2. Các hình thức cứu trợ xã hội 2.2.1. Cứu trợ bằng tiền Cứu trợ xã hội bằng tiền là việc thực hiện giúp đỡ dưới hình thức tiền mặt cho người được cứu trợ. Hình thức cứu trợ này có nhiều ưu điểm những có các hạn chế. Các khoản viện trợ bằng tiền tạo cơ hội cho người nhận có nhiều lựa chọn hơn và mang lại cho người nhận mức thỏa mãn cao hơn với bất kỳ một mức thu nhập nào so với cứu trợ bằng hiện vật. Song mức cứu trợ bằng tiền được xác định như thế nào cho hợp lý không phải điều dễ dàng. Ví dụ: Với các cá nhân, hộ gia đình gặp nạn do thiên tai hoặc những lí do bất khả kháng , thành phố Đà Nẵng sẽ hộ trợ 2 triệu đồng/người cho gia đình có người chết hoặc mất tích. 3-5 triệu đồng/hộ bị cháy, sập trôi nhà và hộ phải di dời khẩn cấp. Nhà bị hư hỏng nặng ,Tp hỗ trợ 1,5 -2 triệu đồng. Việc xác định mức tiền cứu trợ quả thật là không dễ dàng đối với Nhà nước và các cơ quan chức năng tham gia hoạt động cứu trợ.Ví dụ như cùng chung một hoàn cảnh bị thiên tai,bão lũ nhưng có hộ gia đình bị thiệt hại ít và 47
  48. có hộ gia đình bị thiệt hại nhiều mất cả người lẫn của.Tuy nhiên các ban nghành,cơ quan chức năng không thể nào đi sâu hết chi tiết hoàn cảnh của từng gia đình một để xem xét và quyết định mức tiền trợ cấp.Mức tiền trợ cấp thì luôn có một mức chung cho từng hoàn cảnh,từng gia đình.Ngoài ra,còn tồn tại rất nhiều trường hợp vô lý của từng địa phương khi dân nhận tiền trợ cấp ủng hộ nhưng lại bị cơ quan ban ngành địa phương thu lại :tiêu biểu như vụ việc trưởng thôn đến thu lại tiền hàng trợ cấp của dân tại thị xã Ba Đồn- Quảng Bình 2.2.2. Cứu trợ bằng hiện vật Bên cạnh các khoản cứu trợ bằng tiền mặt, người được cứu trợ có thể nhận cứu trợ bằng hiện vật. Đó là các vật phẩm, hàng hóa được cấp phát và các dịch vụ mà Nhà nước và cộng đồng xã hội trợ giúp. Ví dụ: - Các chương trình cứu trợ đồng bào miền Trung bị lũ lụt bằng quần áo ,thức ăn, thuốc men và các nhu yếu sản phẩm. - Với các gia đình bị mất phương tiện sản xuất, lâm vào hoàn cảnh thiếu đói, TP Đà nẵng hỗ trợ 10kg/khẩu/tháng (hộ chính sách được 12kg/khẩu/tháng) trong thời gian tối đa 3 tháng. TP cũng sẽ hỗ trợ những người thiếu đói giáp hạt 8kg gạo/tháng/khẩu (hộ chính sách 10kg/khẩu/tháng) trong thời gian tối đa 2 tháng. Có thể thấy so với BHXH thì hính thức của CTXH có điểm giống nhau:Nhà nước là chủ thể chính thực hiện chính sách.Điểm khác nhau:BHXH là hệ thống mang tính chất chia sẻ rủi ro,việc tri trả bảo hiểm xã hội chủ yếu căn cứ vào mức đóng góp các bên tham gia bảo hiểm xã hội,quỹ bảo hiểm xã hội hình thành với cơ chế đóng góp ba bên là chủ yếu,chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội chỉ yếu được thực hiện định kì với phương thức thành toàn chủ yếu bằng tiền.CTXH có đặc điểm riêng đó là.mọi thành viên trong xã hội đều được cứu trợ xã hội khi cần thiết,đó là các biến cố bất ngờ khiến cho các cá nhân gia đình có thể rơi vào tình trạng không thể lo liệu được cuộc sống bản 48
  49. thân và những người phụ thuộc hoặc rơi vào hoàn cảnh cực kì vất vả khó khăn,cứu trợ xã hội có cả hình thức cứu trợ bằng tiền và vật. 2.3.Các chế độ cứu trợ xã hội Chế độ cứu trợ xã hội là những lợi ích mà cá nhân thuộc diện cứu trợ xã hội được hưởng từ Nhà nước và cộng đồng mà nghĩa vụ phải đóng góp không đặt ra. Tuy nhiên, mức độ hưởng chế độ cứu trợ xã hội không phải là cào bằng, áp dụng cho mọi người hưởng như nhau mà phải đáp ứng những điều kiện nhất định theo quy định pháp luật hiện hành. Xuất phát từ đối tượng hưởng cứu trợ xã hội khác nhau, pháp luật hiện hành thực hiện hai nội dung chính là chế độ cứu trợ xã hội thường xuyên và chế độ cứu trợ xã hội đột xuất. 2.3.1.Cứu trợ xã hội thường xuyên. Như đã nêu ở phần trước, cứu trợ xã hội thường xuyên là sự hỗ trợ, giúp đỡ về mặt vật chất và tinh thần mang tính lâu dài cho những người thuộc diện cứu trợ xã hội nhằm giúp đỡ họ ổn định cuộc sống, hoà nhập vào cộng đồng. *Về bản chất Bản chất chính sách cứu trợ xã hội thường xuyên là giải pháp cụ thể, hợp phần chính của cứu trợ xã hội và do Nhà nước là chủ thể chính thực hiện. Như vậy, có thể hiểu: “Chính sách cứu trợ xã hội thường xuyên là hợp phần của chính sách cứu trợ xã hội được cụ thể các biện pháp, giải pháp bảo đảm của Nhà nước để giúp đối tượng bảo trợ xã hội có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khắc phục khó khăn trước mắt và lâu dài. Việc đảm bảo này thông qua việc cung cấp nguồn tài chính hàng tháng, dịch vụ hỗ trợ chăm sóc sức khỏe, giáo dục và các dịch vụ cứu trợ xã hội thường xuyên khác. *Mục tiêu Mục tiêu tổng thể của chính sách cứu trợ xã hội thường xuyên là hướng tới giải quyết vấn đề công bằng, ổn định và phát triển bền vững về chính trị, kinh tế và xã hội của quốc gia. Mục tiêu cụ thể nhằm giúp đối tượng bảo trợ 49
  50. xã hội bảo đảm các điều kiện sống ổn định, an toàn, hòa nhập, tham gia đóng góp vào quá trình phát triển xã hội. *Nguyên tắc thực hiện Nguyên tắc chính sách cứu trợ xã hội thường xuyên gồm: Tuân thủ hệ thống chính trị. Bảo đảm tính khoa học Bảo đảm tính hiệu lực Bảo đảm tính hiệu quả Bảo đảm tính công bằng Bảo đảm tính công khai, minh bạch Bảo đảm sự ổn định bền vững Bảo đảm sự chia sẻ trách nhiệm. *Nhân tố ảnh hưởng Những nhân tố ảnh hưởng chính sách bao gồm: Các nhân tố từ đối tượng hưởng lợi (quy mô, phân bố đối tượng, nhu cầu trợ giúp của các đối tượng; và năng lực cá nhân của đối tượng thụ hưởng) Các nhân tố từ cơ chế, công cụ chính sách (hệ thống hóa các văn bản pháp luật, năng lực hoạch định chính sách và tổ chức thực thi chính sách của các cơ quan và hệ thống các công cụ chính sách) Nhân tố thuộc về chính trị, kinh tế văn hóa và xã hội. *Nội dung Chính sách cứu trợ xã hội thường xuyên được hình thành từ nhu cầu thực tế của đối tượng. Các chính sách bộ phận bao gồm: Chính sách trợ cấp xã hội Chính sách trợ giúp y tế. Chính sách trợ giúp giáo dục, đào tạo. Một số chính sách khác như dậy nghề, tạo việc làm, vay vốn, hỗ trợ cải thiện hoặc làm mới nhà ở, nước sạch vệ sinh môi trường. 50
  51. *Công cụ thực hiện Chính sách cứu trợ xã hội thường xuyên được thực hiện thông qua các công cụ cơ bản: Công cụ hành chính và tổ chức (văn bản chính sách, kế hoạch chính sách, tổ chức bộ máy và cán bộ); công cụ tài chính; công cụ giáo dục và tâm lý; công cụ kỹ thuật nghiệp vụ của chính sách. Quyền lợi cơ bản của đối tượng CTXH thường xuyên là được trợ cấp hàng tháng. Mức trợ cấp được xác định dựa trên nhu cầu tối thiểu của đối tượng và khả năng đáp ứng của Nhà nước và điều kiện cụ thể của từng địa phương. Các địa phương có thể tự quyết định mức trợ giúp cho đối tượng hưởng CTXH nhưng không được thấp hơn mức tối thiểu do Nhà nước quy định hiện nay. Quy định này của pháp luật nhằm đảm bảo cuộc sống tối thiểu nhất cho đối tượng được hưởng CTXH, đồng thời tránh sự tùy tiện của các địa phương trong công tác thực hiện chế độ cứu trợ. Mức trợ cấp hàng tháng hiện nay theo quy định của Nghi định số 13/NĐ- CP ngày 27/2/2010 là 180.000 đồng/tháng/đối tượng (hệ số 1), tùy từng đối tượng cụ thể và điều kiện sinh hoạt mà quy định hệ số khác nhau. Như vậy, mức trợ cấp hiện tại đã được tăng lên 50% so với mức quy định trước đây (Nghị định 67/2007/NĐ-CP đối tượng trợ cấp được hưởng 120.000 đồng/tháng). Các đối tượng khác nhau, nhu cầu khác nhau thì được hưởng mức trợ cấp khác nhau. Quy định này tránh được hiện tượng cào bằng, bình quân áp dụng cho mọi đối tượng được hưởng trợ cấp. Ngoài ra, đối tượng CTXH thường xuyên còn được cấp thẻ bảo hiểm y tế hoặc khám chữa bệnh không phải trả tiền ở các cơ sở y tế công lập; hỗ trợ học văn hóa, học nghề; hỗ trợ kinh phí mai táng khi chết; riêng các đối tượng thuộc diện đặc biệt khó khăn không thể tự lo được cho cuộc sống thì được xem xét tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội hoặc nhà xã hội tại cộng đồng. Các đối tượng sống tại cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước, ngoài các chế độ trên còn được hưởng: 51
  52. Trợ cấp để mua sắm tư trang, vật dụng sinh hoạt đời sống hàng ngày. Trợ cấp để mua thuốc chữa bệnh thông thường, riêng người nhiễm HIV/AIDS được hỗ trợ điều trị nhiễm trùng cơ hội mức 250.000 đồng/năm/người. Trợ cấp vệ sinh cá nhân hàng tháng đối với đối tượng nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Như vậy, chế độ CTXH thường xuyên ngày được nâng lên đảm bảo đáp ứng nhu cầu tối thiều hàng ngày của đối tượng hưởng. Bên cạnh đó, Nhà nước không chỉ giúp đỡ các đối tượng hưởng đơn thuần về mặt kinh tế mà còn góp phần tạo điều kiện giúp các đối tượng có điều kiện vươn lên, hòa nhập cuộc sống. 2.3.2. Cứu trợ xã hội đột xuất: Cứu trợ xã hội đột xuất là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về điều kiện sinh sống cho các thành viên trong cộng đồng khi gặp các rủi ro khó khăn bất ngờ khiến cho cuộc sống của họ tạm thời bị đe dọa, nhằm giúp họ vượt qua sự hụt hẫng, ổn định cuộc sống và sớm trở lại hòa nhập với cộng đồng. Công tác cứu trợ đột xuất bao gồm tổng hợp tất cả các hoạt động liên quan đến CTĐX cho các đối tượng, từ khâu xây dựng chính sách, huy động nguồn lực đế khâu tổ chức thực hiện và đánh giá chính sách. Trong công tác CTĐX thì khâu huy động nguồn lực và tổ chức thực hiện cứu trợ được coi là khâu có ý nghĩa quan trọng nhất, kết quả của nó có ý nghĩa quyết định đến thành công hay thất bại của CTĐX. *Nội dung của CTĐX: Với cách hiểu về CTĐX như trên, có thể thấy CTĐX sẽ bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây: Cứu trợ về đời sống nhân dân (ăn, ở, mặc ) sau thiên tai. Công việc cứu trợ về đời sống cho nhân dân sau thiên tai là một trong những công việc khá quan trọng của CTĐX. Nó giữ vai trò giúp cho đời sống của nhân dân 52
  53. vùng thiên tai (về cả vật chất và tinh thần), tạo điều kiện ban đầu để người dân có thể nhanh chóng ổn định lại cuộc sống, tiếp tục lao động sản xuất. Cứu giúp nhân dân bị tai nạn ở những vùng xảy ra chiến tranh. Mặc dù chiến tranh đã lùi xa chúng ta hơn 30 năm nhưng công việc CTĐX cho nhân dân ở những vùng xảy ra chiến tranh vẫn luôn luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, sẵn sàng mỗi khi có tình huống xảy ra. Đây là một hoạt động vô cùng quan trọng mà vai trò của nó chắc không ai có thể phủ nhận được, nó không những có ý nghĩa về mặt kinh tế-xã hội mà còn có ý nghĩa về cả chính trị -an ninh-quốc phòng. Hỗ trợ khi có đói giáp hạt (phần lớn là do hậu quả thiên tai ) Trước đây trong thời kì chiến tranh, đói giáp hạt là một hiện tượng phổ biến, là hậu quả của nhiều biến cố (cả chiến tranh, cả thiên tai) chiếm đến phần lớn công việc của CTĐX. Từ khi chiến tranh kết thúc, đói giáp hạt vẫn là một hiện tượng tuy không còn phổ biến nhưng vẫn thường xuyên xảy ra một cách cục bộ ở nơi này hay nới khác trên đất nước ta mà phần lớn là đói giáp hạt do hậu quả của thiên tai. Chính vì vậy, hỗ trợ khi có đói giáp hạt vẫn là một nội dung công việc của CTĐX. *Nguyên tắc của cứu trợ đột xuất: CTĐX cần phải coi trọng những nguyên tắc: Nắm chắc tình hình, luôn có kế hoạch dự phòng sát với từng vùng, từng địa phương. Việc cứu trợ phải nhanh chóng, kịp thời, đúng đối tượng, đúng chính sách đến tận tay người cần cứu trợ. Cứu trợ tập trung vào những vùng tổn thất nặng, cứu trợ cho những người không có khả năng tự cứu mình, không bình quân dàn đều, cứu trợ để nâng đỡ vượt khó khăn, không cứu trợ để ỷ lại. Là trách nhiệm của cả 3 phía: Nhà nước, cộng đồng xã hội và người cần cứu trợ, trong đó chú ý phát huy sức mạnh cộng đồng, cứu trợ kịp thời tại chỗ ngay sau khi có thiên tai 53
  54. Nhân tố ảnh hưởng đến CTXHĐ Điều kiện tự nhiên:đối với nước ta,điều kiện tự nhiên là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đối với công tác CTXH.Bao gồm:điều kiện về thời tiết và điều kiện về địa hình. Đặc điểm về thời tiết,khí hậu:Việt nam là một quốc gia nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa,khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt:mùa mưa và mùa khô.Đặc biệt tỏng những năm gần đây thời tiết diễn biến có xu hướng khó lường một mặt do thay đổi khí hậu toàn cầu,mặt khác do rừng bị tàn phá nặng nề,môi trường sinh thái chuyển biến theo hướng xấu nên thiên tai xảy ra càng nhiều hơn,với cường độ và mức tàn phá ngày càng lớn gây mất mác lớn về người và tài sản cũng như các công tình công cộng .Đối tượng phải CTĐX hàng năm rất lớn và đa dạng .Công tác CTĐX mặc dù luôn coi trọng khâu nắm tình hình để tổ chức thực hiện nhưng trước những diễn biến đó công tác CTĐX cũng gặp nhiều khó khăn và thường ở trong tình trạng bị động. Đặc điểm về địa hình:nước ta với diện tích không lớn nhưng trải dài từ Bắc xuống Nam .Địa hình hẹp và tương đối phức tạp hàng năm đều có thiên tai xảy ra ở nhiều địa phương,đặc biệt là ở khu vực miền núi phía bắc,miền trung,tây nguyên và ĐBSCL gây thiệt hại về người và tài sản ,mùa màng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân dân và sự phát triển kinh tế của đất nước.Với điều kiện địa hình như vậy,công tác triển khai cứu trợ thường gặp rất nhiều khó khăn ,không chủ động đáp ứng không kịp thời yêu cầu của nhân dân.Như vậy,có thể nói đối với nước ta ,điều kiện tự nhiên là nhân tố có tác động rất lớn đối với CTĐX –chủ yếu là tác động tiêu cực.Những tác động này đã và sẽ làm cho công tác CTĐX gặp nhiều khó khăn.Do đó mà trong thời gian tới Bộ LĐTBXH cũng như các cơ quan chức năng khác cần phối hợp chặt chẽ với chính quyền các địa phương để chủ động nắm tình hình và khuyến nghị với Chính phủ các chính sách về đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng ,khắc phục những khó khăn về điều kiện địa hình,phát triển kinh tế cho các 54
  55. vùng có địa hình hiểm trở và phức tạp ,tạo điều kiện tốt cho các hoạt động cứu trợ và tăng khả năng tự phòng chống thiên tai cho các địa phương. Các điều kiện kinh tế-xã hội:Nếu như điều kiện tự nhiên là những nhân tố tác động khách quan thì điều kiện kinh tế-xã hội lại là những nhân tố có ảnh hưởng chủ quan tới công tác CTĐX mà chúng ta hoàn toàn có thể điều tiết được.Các điều kiện kinh tế-xã hội chủ yếu là:điều kiện về cơ sở hạ tầng;quá trình đô thị hóa;phong tục tập quán;cơ chế-chính sách đầu tư ;chính sách hỗ trợ sản xuất Cơ sở hạ tầng:Trong những năm qua mặc dù Đảng và Nhà nước đã chú trọng rất nhiều tới vấn đề phát triển hạ tầng ,đặc biệt là cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo ,vùng đồng bào dân tộc thiểu số,vùng sâu,vùng xa;vùng biên giới hải đảo.Nhiều chương trình,dự án đã được xây dựng và thực hiện bước đầu về cơ bản đã thu được những thành quả đáng kể nhưng do nguồn vốn còn hạn chế ,quá trình tổ chức thực hiện ,quản lý còn chưa tốt cho nên tới nay cơ sở hạ tầng phần lớn vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế xã hội .Do cơ sở hạ tầng chưa phát triển theo yêu cầu nên kinh tế nhiều vùng vẫn còn nghèo,khả năng tự ứng phó với các điều kiện tự nhiên không có.Do đó,khi thiên tai ,dịch họa xảy ra thì để lại những tổn thất rất nặng nề và công tác tổ chức di dời và cứu trợ gặp rất nhiều khó khăn,ảnh hưởng đến kết quả của công tác cứu trợ. Quá trình đô thị hóa:Do yêu cầu phát triển của CNH-HĐH và đô thị hóa là quá trình tất yếu diễn ra ở các quốc gia muốn tăng trưởng và phát triển.Trong quá trình phát triển CNH-HĐH ở nước ta hiện nay,vấn đề đô thị hóa đã trở thành một hiện tượng kinh tế-xã hội bức xúc.Rõ ràng không ai có thể phủ nhận được lợi ích của quá trình CNH-HĐH.Nhờ có quá trình CNH- HĐH mà bộ mặt của nhiều vùng đã đổi thay từng giờ ,đời sống của nhân dân được cải thiện đáng kể.Bên cạnh đó,nó còn tồn tại một số mặt trái đó là:quá trình CNH-HĐH tất yếu kéo theo quá trình đô thị hóa ,đô thị hóa càng tăng thì 55
  56. đất đai cho sản xuất nông càng bị thu hẹp.Việc mất đất canh tác là một hụt hẫng lớn đối với người nông dân,nhất là đối với những gia đình trong nhiều đời nay đã gắn bó với ruộng đồng ,với nghề nông.Đất đai bị thu hẹp làm cho những người nông dân nghèo chỉ còn được trông chờ một diện tích nhỏ để sản xuất cho nên khi có thiên tai xảy ra thì những bộ phận gia đình của bộ phận dân cư này có nguy cơ mất trắng toàn bộ diện tích sản xuất càng cao dẫn đến nguy cơ thiếu đói Như vậy,có thể thấy quá trình đô thị hóa tuy phần lớn có tác động tích cực đến công tác CTĐX.CNH-HĐH và đô thị hóa làm cho kinh tế phát triển,cơ sở hạ tầng được đầu tư ,cải tạo và nâng cấp;tăng khả năng tạo nguồn và tự phòng chống rủi ro cho nhân dân làm cho công tác CTĐX được dễ dàng và thuận lợi hơn nhưng mặt khác chúng ta cũng phải có biện pháp để dè chừng quá trình này không để nó diễn ra một cách tự phát Phong tục tập quán:Nước ta đất trât,người đông;sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn GDP.Người dân Việt Nam đã quen với thói quen sản xuất nhỏ ,tự cung tự cấp,đặc biệt là ở khu vực nông thôn,vùng dồng bào dân tộc thiểu số.Với phong tục,thói quen sản xuất như vậy lại trong điều kiện khắc nghiệt ,bất thường cơ sở hạ tầng yếu kém nên khi xảy ra thiên tai thì người dân rất dễ có khả năng mất hết ,mất trắng mùa màng và hoàn toàn có thể rơi vào tình trạng thiếu đói chứ chưa kể bình thường đã có nhiều người ở nhiều vùng,địa phương thường xuyên bị thiếu đói giáp hạt do nhiều nguyên nhân khác nhau.Chính vì vậy,phong tục tập quán lạc hậu đang là yếu tố cản trở sự phát triển kinh tế-xã hội nói chung ,đồng thời làm tăng gánh nặng cho công tác cứu trợ. Chính sách hỗ trợ sản xuất:trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt,cộng thêm điều kiện tự nhiên ngày càng khắc nghiệt,trong khi ở các nước phát triển Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ nông dân trong sản xuất nông nghiệp ,thậm chí bảo hộ sản xuất nông nghiệp.Vì vậy mà người nông dân của họ ít phải đối mặt với những khó khăn và có khả năng chịu đựng cao mỗi khi khó khăn xảy ra,công tác cứu trợ ít phải thực hiện.Còn ở 56
  57. nước ta,một quốc gia dang phát triển,gần 80% dân số phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp ,nền kinh tế còn nghèo nàn lạc hậu,đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn thì Chính phủ lại chưa có những chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp thích đáng thêm vào đó là những diễn biến phức tạp của điều kiện tự nhiên cho nên đời sống của nhân dân rất khó khăn ,hàng năm số người bị thiếu đói giáp hạt còn rất cao.Mỗi năm ngân sách Nhà nước phải chi đến hàng ngàn tỷ đồng cho việc cứu trợ cho những đối tượng này,làm tăng nguồn ngân sách cứu trợ,ảnh hưởng đến chất lượng cứu trợ. Kinh tế thị trường đang trong giai đoạn chuyển đổi và những mặt trái của nó.Từ khi nước ta chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan lieu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì tình hình kinh tế ,xã hội đã có nhiều những chuyển biến sâu rộng.Kinh tế càng phát triển,sự phân hóa và cách biệt mức sống giữa thành thị và nông thôn,giữa các vùng,các địa phương giữa các khu vực và ngành kinh tế ,cũng như giữa các tầng lớp dân cư xã hội ngày một sâu sắc.Tình trạng”kẻ ăn không hết,người lần không ra”không phải không phổ biến trong bức tranh đời sống xã hội nước ta hiện nay.Phân hóa giàu nghèo có xu hướng làm tăng đối tượng yếu thế ,dễ bị tổn thương,dễ gặp rủi ro khi có những biến cố đột xuất như thiên tai;dịch họa và cuối cùng làm tăng số đối tượng CTĐX.Cùng với sự phân hóa và cách biệt mức sống giữa các tầng lớp dân cư ,kinh tế thị trường cũng làm cho phong tục tập quán ,lối sống của người dân có nhiều thay đối.Với những biểu hiện mặt trái hết sức tiêu biểu của kinh tế thị trường như vậy nên mỗi khi trong cộng đồng có một hoặc một số cá nhân không may rơi vào tình trạng khó khăn ,bần cùng,cần giúp đỡ thì kết quả là họ không nhận được sự giúp đỡ gì hoặc nhận được nhưng sự giúp đỡ qua loa-hình thức.Đây cũng chính là những cản trở đối với công tác CTĐX.Khi xảy ra những hiện tượng trên hoạt động cứu trợ sẽ không nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ phía cộng đồng,xã hội.CTĐX sẽ bị thiếu thốn cả về nhận lực và vật lực ,hiệu quả CTDXD sẽ bị hạn chế. 57