Khóa luận Pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam

pdf 70 trang thiennha21 16/04/2022 6321
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_phap_luat_ve_lai_suat_trong_hoat_dong_kinh_doanh_c.pdf

Nội dung text: Khóa luận Pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THỊ NGOAN PHÁP LUẬT VỀ LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo: Chính quy Khóa: QH-2013-L Hà Nội, 2017
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THỊ NGOAN PHÁP LUẬT VỀ LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo: Chính quy Khóa: QH-2013-L NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. Nguyễn Thị Lan Hương Hà Nội, 2017
  3. Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là khóa luận tốt nghiệp của chính bản thân tôi, khóa luận được TS. Nguyễn Thị Lan Hương hướng dẫn khoa học. Các số liệu nêu trong khóa luận này là trung thực. Các thông tin tham khảo đều được dẫn nguồn cụ thể. TÁC GIẢ KHÓA LUẬN Phạm Thị Ngoan
  4. Mục Lục Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LÃI SUẤT VÀ KHÁI QUÁT NỘI DUNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 5 1.1 Những vấn đề lý luận về lãi suất 5 1.1.1 Khái niệm về lãi suất 5 1.1.2 Phân loại lãi suất 6 1.1.3 Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ương 9 1.2 Khái quát pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 11 1.2.1 Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 11 1.2.2 Nội dung pháp luật điều chỉnh về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 15 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 19 2.1 Quy định pháp luật về lãi suất đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 19 2.1.1 Quy định về lãi suất trong hoạt động huy động vốn và hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 19 2.1.2 Quy định về lãi suất trong hoạt động điều hành chính sách tiền tệ 30 2.2 Ưu điểm và hạn chế trong các quy định hiện hành về lãi suất đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 35 2.3.1 Hoạt động cho vay của các NHTM 35 2.3.2 Hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại 38
  5. 2.3 Một số hành vi vi phạm quy định về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại và chế tài xử lý 40 2.3.1 Một số hành vi vi phạm quy định về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 40 2.3.2 Chế tài xử lý 44 CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 49 3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại ở Việt Nam 49 3.2 Các kiến nghị cụ thể 50 3.2.1 Quy định nguyên tắc xác định lãi suất trong Luật NHNN và Luật các tổ chức tín dụng 50 3.2.2 Quy định về giới hạn lãi suất tiền gửi 52 3.2.3 Đảm bảo tính hợp lý trong mối quan hệ giữa các mức lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước 53 3.2.4 Tăng cường kiểm tra, giám sát thực hiện quy định về lãi suất 55 KẾT LUẬN 57
  6. Danh mục các chữ viết tắt Ngân hàng thương mại NHTM Ngân hàng Trung ương NHTW Ngân hàng Nhà nước NHNN Tổ chức tín dụng TCTD Bộ luật Dân sự BLDS
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lãi suất không chỉ là công cụ thiết yếu và nhạy cảm trong việc điều hành chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia, mà lãi suất còn thể hiện là giá cả của việc sử dụng vốn của hoạt động tín dụng. Sự biến động của lãi suất sẽ tác động đến quá trình sản xuất, đầu tư, tiêu dùng và tiết kiệm của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Trong giai đoạn hiện nay, khi hầu hết các nền kinh tế trên thế giới đều hướng về mô hình kinh tế thị trường thì vai trò của lãi suất ngày càng nổi bật, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của nền kinh tế. Chính vì những ảnh hưởng của lãi suất trong đời sống hàng ngày của mỗi quốc gia mà đa số các nước đều tìm cách sử dụng pháp luật để tác động vào lãi suất bằng những cách khác nhau để đạt được mục tiêu quản lý của mình. Điều này cho thấy việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với lãi suất nói chung và lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM) nói riêng là điều cần thiết và không thể phủ nhận. Ở Việt Nam, vấn đề lãi suất đã được Nhà nước quy định trong các văn bản pháp luật. Trải qua thời gian, các quy định về lãi suất đã được điều chỉnh để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đáp ứng được những nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế trong từng thời kỳ. Do tầm quan trọng cũng như ảnh hưởng của lãi suất đến nền kinh tế, đặc biệt lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của NHTM, việc điều hành lãi suất thông qua các quy định của pháp luật cũng không tránh khỏi những hạn chế trong thực tiễn áp dụng do vậy nghiên cứu đề tài liên quan đến lãi suất là cần thiết. Xuất phát từ những vấn đề mang tính thời sự của lãi suất, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Quy định pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại ở Việt Nam” để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu 1
  8. Trên cơ sở hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản và thông qua việc phân tích đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM ở Việt Nam, thực tiễn áp dụng các quy định đó trong hoạt động kinh doanh của NHTM để chỉ ra những ưu điểm cũng như những tồn tại, hạn chế cần phải khắc phục việc áp dụng các quy định về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM; từ đó đưa ra một số định hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM ở Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khóa luận tập trung nghiên cứu và đánh giá các quy định hiện hành về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM ở Việt Nam. NHTM được thực hiện rất nhiều các hoạt động ngân hàng khác nhau nhưng chủ yếu và đặc trưng nhất vẫn là hoạt động huy động vốn và cho vay, trong hoạt động đó vai trò của lãi suất huy động và lãi suất cho vay là rất quan trọng. Khóa luận văn đi sâu vào phân tích các quy định liên quan đến lãi suất huy động và lãi suất cho vay của NHTM, quy định về các lãi suất mà Ngân hàng Trung ương (NHTW) sử dụng để thực thi chính sách tiền tệ có ảnh hưởng gián tiếp đến lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của NHTM, các quy định liên quan đến thanh tra, giám sát tuân thủ quy định về lãi suất. Thực tiễn áp dụng các quy định về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM những điểm tích cực và hạn chế từ thực tiễn áp dụng pháp luật, trên cơ sở đó nêu ra hướng hoàn thiện pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM tại Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp khoa học được sử dụng trong toàn bộ khóa luận là phương pháp luận, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để đánh giá khách quan, toàn diện thực trạng các quy định của pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Ngoài ra, để hoàn thành mục 2
  9. đích nghiên cứu, khóa luận cũng sử dụng nhiều phương pháp cụ thể như: phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp luật học so sánh, phương pháp lịch sử để làm rõ các luận điểm nghiên cứu trong đề tài. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Khóa luận đã cập đến các vấn đề lý luận, thực tiễn của pháp luật về lãi suất trong hoạt động của các tổ chức tín dụng mà chủ yếu là của NHTM, mà đặc trưng là lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay. NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh đặc thù, không chỉ thực hiện hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ của NHTW. Vì vậy, cần thiết ban hành cơ sở pháp lý an toàn để điều chỉnh lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Khóa luận được nghiên cứu trong bối cảnh đã có nhiều văn bản luật về ngân hàng được ban hành. Cụ thể là Luật NHNN năm 2010, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và cùng với các chính sách tiền tệ được thay đổi liên tục. Khóa luận đã đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM, cũng như điều hành lãi suất thay đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Cụ thể: Thứ nhất, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về lãi suất, khái niệm, phân loại lãi suất cũng như cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ương (NHTW); nguyên tắc điều chỉnh, nội dung pháp luật về lãi suất. Thứ hai là phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM, quá trình áp dụng các quy định này trong thực tiễn có phù hợp hay không. Những ưu điểm đã đạt được khi áp dụng các quy định của pháp luật, cũng như các quy định này có bất cập gì khi thực hiện trên thực tế không đem lại hiệu quả như mong muốn. 3
  10. Thứ ba là sau khi đã nghiên cứu về lý luận cũng như thực trạng pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM kết hợp với thực tế các NHTM đã áp dụng lãi suất trong hoạt động kinh doanh của mình như thế nào, để có thể tìm ra cơ sở định hướng cho việc khắc phục những bất cập của các quy định này đồng thời tiếp tục xây dựng pháp luật về lãi suất cho phù hợp với thời kỳ phát triển của đất nước. 6. Bố cục của khóa luận Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Khóa luận gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về lãi suất và khái quát nội dung điều chỉnh pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại ở Việt Nam Chương 2: Thực trạng pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại ở Việt Nam Chương 3: Định hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại ở Việt Nam 4
  11. CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LÃI SUẤT VÀ KHÁI QUÁT NỘI DUNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 1.1 Những vấn đề lý luận về lãi suất 1.1.1 Khái niệm về lãi suất Một trong những đặc trưng của hoạt động tín dụng là sau một thời gian nhất định người đi vay vốn phải hoàn trả cho người cho vay một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Lãi suất phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể sử dụng vốn (người vay vốn) với chủ thể sở hữu vốn (người cho vay) theo nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn kèm theo lãi ở thị trường vốn ở một thời điểm nhất định. Nhà kinh tế học Marshall (1890) trong tác phẩm “Principles of Economis” (Những nguyên lý kinh tế học) đã viết: “Lãi suất chỉ giá phải trả cho việc sử dụng vốn trên một thị trường bất kỳ1”. Khi nhìn nhận ở các khía cạnh khác nhau, nhìn chung khái niệm lãi suất tương đối thống nhất và không có quá nhiều khác biệt. Dưới góc độ kinh tế, lãi suất tín dụng là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức thu được và tổng số tiền cho vay trong một khoảng thời gian nhất định (ngày, tuần, tháng, quý, năm )2; hay là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định mà người sử dụng phải trả cho người sở hữu nó. Theo Từ điển Luật học: Lãi suất là tỷ lệ phần trăm tính trên vốn đầu tư để xác định lãi của người đầu tư3. Như vậy, có thể hiểu một cách chung nhất lãi suất là giá cả của khoản vay được tính trên tỷ lệ phần trăm (%) giữa số tiền phải trả so với khoản 1 GS.TS Lê Văn Tư (2004), Tiền tệ, ngân hàng, thị trường tài chính, NXB Tài chính, Hà Nội, tr.407 2 Học viện tài chính (2014), Giáo trình tài chính - tiền tệ, NXB Tài chính, Hà Nội, tr 121 3 Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách Khoa và NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.452-453 5
  12. tiền vay và được xác định trong một khoảng thời gian nhất định (thường được tính theo ngày, tháng, quý, năm). 1.1.2 Phân loại lãi suất Hiện nay, có nhiều tiêu chí để phân loại lãi suất. Dưới góc độ luật học, lãi suất tín dụng ngân hàng được phân loại dựa trên các căn cứ chủ yếu sau: - Căn cứ vào loại hình tín dụng - Căn cứ vào thời hạn tín dụng - Căn cứ vào mức độ ổn định của lãi suất - Căn cứ vào thời hạn áp dụng 1.1.2.1 Phân loại theo loại hình tín dụng ngân hàng (phân loại theo chủ thể tham gia quan hệ tín dụng ngân hàng) Quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm: quan hệ giữa NHTM với công chúng và doanh nghiệp trong việc cho vay và huy động vốn, trong hoạt động tái cấp vốn của NHTW cho các NHTM và trong quan hệ giữa các NHTM với nhau trong thị trường liên ngân hàng. Đối với mỗi quan hệ khác nhau thì có các loại lãi suất khác nhau mang tính đặc thù riêng: - Lãi suất huy động: là lãi suất mà các ngân hàng và các tổ chức tín dụng (TCTD) khác đưa ra khi huy động tiền gửi và là loại lãi suất quy định tỉ lệ lãi phải trả cho các hình thức nhận tiền gửi của khách hàng. - Lãi suất cho vay: là lãi suất người đi vay phải trả cho ngân hàng do việc sử dụng vốn vay của ngân hàng; được áp dụng để tính lãi mà khách hàng phải trả cho ngân hàng. - Lãi suất chiết khấu: là lãi suất áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán và thỏa mãn các điều kiện chiết khấu theo quy định. 6
  13. - Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất cho vay ngắn hạn của NHTW đối với NHTM và các TCTD khác dưới hình thức chiết khấu lại các giấy tờ có giá chưa đến thời hạn thanh toán. - Lãi suất tái cấp vốn: là lãi suất cho vay ngắn hạn của NHTW áp dụng với NHTM và các TCTD khác dưới hình thức cho vay lại theo hồ sơ tín dụng giữa khách hàng và TCTD. - Lãi suất bình quân liên ngân hàng: là lãi suất được tính bằng trung bình lãi suất các khoản cho vay trong thời gian ngắn giữa các ngân hàng với nhau. Về bản chất đây là lãi suất cho vay giữa các ngân hàng với nhau và hầu như chỉ dựa trên tín chấp, nó phản ánh khá rõ thanh khoản trong ngắn hạn của hệ thống ngân hàng. - Lãi suất cơ bản: Tại mỗi quốc gia sẽ có những quy ước cụ thể khác nhau về lãi suất cơ bản và với những tên gọi khác nhau nhưng đều chung một bản chất đó là định hướng lãi suất thị trường. Tại Việt Nam, lãi suất cơ bản là lãi suất chỉ áp dụng đối với đồng Việt Nam, do NHNN công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. 1.1.2.2 Phân loại thời hạn áp dụng lãi suất trong hợp đồng tín dụng Dù cho vay ở hình thức nào thì ngân hàng đều đưa ra mức lãi suất trong hạn và lãi suất quá hạn để xác định nghĩa vụ trả lãi của khách hàng vay, - Lãi suất trong hạn: không được quy định cụ thể về khái niệm trong văn bản pháp luật nhưng có thể hiểu là tỷ lệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay tính trên số tiền đã vay tương ứng với thời hạn mà các bên đã thỏa thuận. - Lãi suất quá hạn: chỉ phát sinh khi tồn tại khoản nợ quá hạn, là tỷ lệ phần trăm tính trên nợ gốc mà bên vay phải trả cho bên cho vay tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất quá hạn thường cao hơn lãi suất 7
  14. đúng hạn do được áp dụng đối với người vay vi phạm nghĩa vụ về thời hạn. Sau thời hạn mà bên vay không trả hoặc trả không đủ số tiền vay thì bên cho vay có quyền tính lãi dựa trên lãi suất quá hạn theo đúng như thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. 1.1.2.3 Phân loại theo mức độ ổn định của lãi suất Khi thỏa thuận lãi suất trong hạn, các bên có thể thỏa thuận lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi để áp dụng trong hợp đồng tín dụng - Lãi suất cố định: là lãi suất cho vay được ấn định một mức cụ thể trong hợp đồng vay vốn tín dụng. Theo đó, lãi suất cho vay sẽ không thay đổi trong suốt thời gian vay vốn tại ngân hàng, bất chấp những biến động lãi suất trên thị trường. Thông thường lãi suất cố định được áp dụng trong trường hợp lãi suất thị trường tương đối ổn định - Lãi suất thả nổi (lãi suất điều chỉnh) là lãi suất cho vay được điều chỉnh theo định kỳ, do vậy nó thay đổi theo thời gian. Mức điều chỉnh và kỳ điều chỉnh lãi suất sẽ theo thỏa thuận giữa khách vay và ngân hàng (không được trái với quy định của pháp luật) và được ghi rõ trên hợp đồng vay vốn. Lãi suất thả nổi được điều chỉnh theo lãi suất tham chiếu hoặc theo chỉ số lạm phát nên nó không cố định trong suốt thời hạn vay. Thông thường, kỳ điều chỉnh lãi suất là 3 hoặc 6 tháng/lần, một số ngân hàng điều chỉnh 1 năm/lần. Lãi suất thả nổi thường được áp dụng trong các thời kỳ lãi suất thị trường biến động nhiều, khó dự đoán chính xác chiều hướng cũng như mức độ biến động lãi suất. 1.1.2.4 Phân loại theo thời hạn tín dụng Căn cứ vào thời hạn tín dụng, lãi suất được chia thành lãi suất ngắn hạn, lãi suất trung hạn và lãi suất dài hạn - Lãi suất ngắn hạn: là lãi suất áp dụng với khoản tín dụng ngắn hạn có thời gian không quá 1 năm. 8
  15. - Lãi suất trung hạn: là lãi suất áp dụng với khoản tín dụng trung hạn có thời gian từ 1 năm đến 5 năm. - Lãi suất dài hạn: là lãi suất áp dụng với khoản tín dụng dài hạn có thời gian từ 5 năm trở lên. 1.1.3 Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ương 1.1.5.1 Khái niệm và nội dung cơ chế điều hành lãi suất Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW là tổng thể những chủ trương, chính sách và giải pháp cụ thể của NHTW nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định4. Điều hành lãi suất của NHTW có thể được thực hiện theo ba hướng: điều hành lãi suất trực tiếp, điều hành lãi suất gián tiếp và điều hành lãi suất kết hợp giữa trực tiếp và gián tiếp.5 Cơ chế can thiệp trực tiếp là việc NHTW quản lý thống nhất lãi suất đối với nền kinh tế, thông qua các hình thức quản lý lãi suất của các NHTM đối với nền kinh tế, quy định mức lãi suất cho vay tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong phạm vi lãi suất được phép, các NHTM được quyền ấn định mức lãi suất kinh doanh phù hợp. Khi có các thay đổi về kinh tế vĩ mô, NHTW có thể xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa ở mức hợp lý. Theo cách thức điều hành lãi suất, cơ chế điều hành trực tiếp gồm: cơ chế ấn định lãi suất (NHTW công bố tất cả các loại lãi suất, các NHTM đều phải thực hiện một cách tuyệt đối) và cơ chế khống chế lãi suất (NHTW quy định mức lãi suất tối đa và mức lãi suất tối thiểu tạo nên khung lãi suất giới hạn trần lãi suất và sàn lãi suất để các NHTM ấn định lãi suất kinh doanh). 4 Vũ Văn Long (2003), Hoàn thiện cơ chế lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện tài chính, tr.6-8, Hà Nội 5 PGS.TS Nguyễn Đắc Hưng (2015), “Thành công điều hành chính sách tiền tệ nhìn từ góc độ công cụ lãi suất”, Tạp chí Ngân hàng, Số 1-2015, Tr.16-21, Hà Nội. 9
  16. Cơ chế can thiệp gián tiếp (cơ chế tự do hóa lãi suất): Thông qua cơ chế tái cấp vốn (chiết khấu, tái chiết khấu, ) NHTW vẫn thực hiện quản lý gián tiếp lãi suất kinh doanh của NHTM đối với nền kinh tế. Cơ chế này được thực hiện theo hai nguyên tắc: NHTW chỉ công bố các mức lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay cầm cố các chứng từ có giá của mình đối với các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của các NHTM đối với nền kinh tế sẽ do tổ chức tín dụng tự ấn định, dựa trên cơ sở cung - cầu về vốn và sự cạnh tranh trên thị trường, từ đó hình thành nên các mức lãi suất phản ánh đúng yêu cầu của thị trường. Khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của NHTM đối với nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng giai đoạn, NHTW sẽ thực hiện thông qua việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay cầm cố chứng từ có giá của mình đối với các NHTM, từ đó tác động đến lãi suất kinh doanh của NHTM đối với các chủ thể trong nền kinh tế. 1.1.5.2 Kinh nghiệm điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ương của một số nước Nghiên cứu kinh nghiệm điều hành lãi suất của NHTW châu Âu (ECB), Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED), NHTW Trung Quốc, NHTW Nhật Bản, có thể rút ra một số bài học: Một là, việc điều hành lãi suất được thực hiện theo hai cơ chế: điều hành trực tiếp và điều hành gián tiếp, khi hệ thống tài chính càng phát triển thì cơ chế điều hành lãi suất trực tiếp sẽ được thay thế bằng cơ chế điều hành gián tiếp. Hai là, NHTW các nước vẫn công bố lãi suất chủ đạo của mình, làm định hướng cho thị trường tiền tệ6 . 6Ths. Nguyễn Cao Hoàng (2014), “Bàn thêm về điều hành lãi suất đối với thị trường tiền tệ”, Tạp chí Ngân hàng, số 4-2014, Hà Nội 10
  17. Đối với các hoạt động liên quan đến vai trò của NHTW, các mức lãi suất phổ biến được công bố và nền kinh tế quan tâm là lãi suất chiết khấu (như ở Mỹ, Nhật ), lãi suất Repo (như ở Anh, ) hoặc lãi suất can thiệp (Pháp – thời kỳ trước năm 2001). Các mức lãi suất của NHTM áp dụng đối với nền kinh tế mang tính quản lý trực tiếp của NHTW như khung lãi suất, trần lãi suất, lãi suất tiền gửi tối thiểu, đã từng được thực hiện ở các nước Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Việt Nam. Các mức lãi suất thị trường mang tính tham khảo (lãi suất cơ bản): lãi suất quỹ dự trữ liên bang của Mỹ (FFR), lãi suất liên ngân hàng thị trường London (LIBOR), lãi suất liên ngân hàng thị trường Singapore (SIBOR), 1.2 Khái quát pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 1.2.1 Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại là một trong các tổ chức tài chính trung gian quan trọng nhất của nền kinh tế, là “cầu nối” giữa người dư thừa về vốn và người có nhu cầu về vốn. Ngân hàng thương mại thực hiện hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Nhưng bên cạnh đó Ngân hàng thương mại cũng thực hiện chức năng của mình trong việc điều hành chính sách tiền tệ của NHTW để đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng cũng như thực thi các mục tiêu mà NHTW hướng tới để ổn định lạm phát, tăng trưởng kinh tế. Lãi suất là một trong những yếu tố không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của NHTM, chính vì vậy mà NHTM đã thực hiện nhiều biện pháp, chính sách về lãi suất để thu hút khách hàng. Để đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng, quyền lợi của cá nhân, tổ chức kinh tế thì vai trò quản lý và điều tiết của Nhà nước về lãi suất là không thể thiếu được. Nhà nước thực hiện vai trò này thông qua công cụ là pháp luật. Pháp luật phải kịp thời phản 11
  18. ánh, ghi nhận và điều chỉnh lãi suất sao cho phù hợp với tình hình phát triển của nền kinh tế, mục tiêu của chính sách tiền tệ cũng như đảm bảo quyền lợi của các chủ thể trong nền kinh tế. Do ảnh hưởng của lãi suất và vai trò của nó đến nền kinh tế nói chung và hoạt động của các NHTM nói riêng là rất lớn nên việc điều chỉnh bằng pháp luật về lãi suất cũng dựa trên những nguyên tắc nhất định. 1.2.1.1 Nguyên tắc đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh Trong nền kinh tế thị trường, quyền tự chủ và tự do trong kinh doanh của các chủ thể được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Tự chủ kinh doanh được hiểu là việc các chủ thể hoạt động ngân hàng tự mình đưa ra các quyết định, nhân danh chính bản thân mình để thực hiện các hành vi vi phạm pháp lý trong khuôn khổ pháp luật và tự chịu trách nhiệm về những hành vi đó7. Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 đã quy định khá cụ thể về việc đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các TCTD: TCTD có quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Không một tổ chức cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ kinh doanh của TCTD, TCTD có quyền từ chối yêu cầu cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ khác nếu thấy không cần thiết, không có hiệu quả, không phù hợp với pháp luật8. Lãi suất là một trong những yếu tố chủ chốt trong việc hình thành lên giá cả của các sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung ứng cho các khách hàng. Với việc chuyển sang điều hành lãi suất theo cơ chế thị trường, pháp luật đã cho phép ngân hàng có quyền tự mình quyết định giá cả của các sản phẩm, dịch vụ do mình cung cấp cho thị trường. Điều đó thể hiện ở việc ngân hàng có quyền tự do thỏa thuận với khách hàng về lãi suất; Ngân hàng có quyền tự chủ trong việc quyết định mức lãi suất đối với từng khách hàng, áp dụng các 7 ThS. Trần Vũ Hải (2010) (Chủ biên), Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 8 Xem Điều 7 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 12
  19. mức lãi suất khác nhau đối với các khách hàng khác nhau trong các hợp đồng tín dụng. Việc áp dụng các mức lãi suất này dựa trên mức độ cung-cầu về vốn, mức độ tín nhiệm của ngân hàng đối với khách hàng. Như vậy, suy cho cùng, đảm bảo quyền tự chủ trong việc quyết định lãi suất áp dụng trong các sản phẩm, dịch vụ mà ngân hàng cung ứng cho khách hàng cũng chính là đảm bảo quyền tự do kinh doanh của ngân hàng. Quyền tự do kinh doanh được pháp luật tôn trọng và bảo vệ vì nếu không có sự đảm bảo này thì bản thân các ngân hàng khó có thể tồn tại và phát triển. 1.2.1.2 Nguyên tắc đảm bảo thực thi chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ là một công cụ chính sách quan trọng mà Chính phủ các nước cũng như Việt Nam sử dụng để điều tiết kinh tế. Với những đặc thù về cơ chế, thể chế và sự phát triển của thị trường ở các mức độ khác nhau, từng quốc gia có thể sử dụng linh hoạt các công cụ để đạt được mục tiêu đặt ra của chính sách. Luật NHNN năm 2010, đã xác định khuôn khổ chính sách tiền tệ, trong đó có đề cập đến việc quyết định sử dụng các công cụ, biện pháp để thực hiện mục tiêu mà chính sách tiền tệ đề ra. Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất và sự biến động về lãi suất đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình sản xuất, đầu tư, kinh doanh của các chủ thể của nền kinh tế. Bên cạnh đó, lãi suất còn có mối quan hệ chặt chẽ đối với lạm phát, tỷ giá hối đoái. Lãi suất có vai trò tích cực trong việc phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Tuy vậy, bên cạnh vai trò tích cực, lãi suất cũng có những mặt trái của nó. Để hạn chế những tác động không mong muốn do biến động của lãi suất trên thị trường tín dụng và thị trường liên ngân hàng đối với chỉ tiêu lạm phát và tăng trưởng kinh tế; vai trò điều tiết quản lý của Nhà nước là quyết định. Do vậy, với vai trò là một trong những công cụ đắc lực của Nhà nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất cần phải đảm bảo sự điều hành quản lý của nhà nước để thực hiện các mục tiêu của 13
  20. chính sách tiền tệ. Đây cũng chính là nguyên tắc đặc thù của khung pháp lý trong hoạt động của thị trường nói chung và thị trường tín dụng nói riêng. 1.2.1.3 Nguyên tắc đảm bảo công bằng, công khai, minh bạch Lãi suất vừa là giá của đồng tiền cho vay nhưng đồng thời nó cũng là cái giá cho rủi ro của bên cho vay. Lãi suất là một trong những yếu tố quyết định trong quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, do vậy cần phải đảm bảo được mức lãi suất hợp lý để hai bên cùng có lợi. Trong quan hệ tín dụng, khách hàng luôn ở vị thế yếu hơn so với ngân hàng; khi lãi suất huy động cao ngân hàng cho vay với lãi suất cao nhưng khi lãi suất giảm thì mức lãi suất cho vay của ngân hàng áp dụng đối với khách hàng lại giảm rất chậm thậm chí không giảm. Điều này là không công bằng đối với người đi vay. Do vậy quy định lãi suất cần đảm bảo được sự công bằng giữa khách hàng và ngân hàng, bảo vệ quyền lợi của người đi vay. Xuất phát từ những ảnh hưởng quan trọng mà lãi suất tác động đến nền kinh tế nói chung và hoạt động của ngân hàng nói riêng, do đó mà các quy định về lãi suất cần phải đảm bảo tính công khai minh bạch. Bên cạnh việc NHNN sẽ chủ động thông tin để người dân biết về tình hình lãi suất, các văn bản pháp luật, quyết định của NHNN về các mức lãi suất khác nhau, chủ trương, quyết định điều hành của Thống đốc NHNN về lãi suất; thì người dân cũng có quyền được thông tin, tiếp cận về chính sách lãi suất, quyết định lãi suất của NHTW trong từng thời kỳ, mức lãi suất mà các ngân hàng áp dụng để kinh doanh. Hiện tại các ngân hàng đều định kỳ cập nhật khung lãi suất cho vay trong nội bộ hệ thống, bao gồm các thông tin về lãi suất cho vay áp dụng theo từng sản phẩm ứng với từng loại tài sản đảm bảo và xếp hạng tín dụng của khách hàng. Tuy nhiên, những thông tin như vậy hiếm khi được truyền đạt đến khách hàng, do đó có nhiều trường hợp khi khung lãi suất đã được điều chỉnh nhưng do khách hàng không biết nên các chi nhánh vẫn không điều chỉnh lãi suất cho khách hàng. Do vậy lãi suất cần được công khai minh bạch hóa, đảm bảo quyền lợi của khách hàng, tránh được những tiêu cực 14
  21. phát sinh. Đảm bảo công khai minh bạch cũng giúp cho việc kiểm tra, giám sát được thực hiện một cách đầy đủ, chặt chẽ và thống nhất. Đảm bảo công bằng, công khai, minh bạch về lãi suất là một trong những yếu tố then chốt để hoạt động ngân hàng phát triển và cạnh tranh lành mạnh. Đây cũng là một trong những nguyên tắc cốt lõi trong khung pháp lý điều chỉnh về lãi suất. 1.2.2 Nội dung pháp luật điều chỉnh về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại Xuất phát từ tầm quan trọng của lãi suất đối với hoạt động kinh doanh của NHTM cũng như đối với nền kinh tế, vì vậy cần có những quy định của pháp luật điều chỉnh lãi suất trong hoạt động này. Thông qua các quy định của pháp luật về lãi suất, Nhà nước có thể thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với việc đưa ra quy định và sử dụng linh hoạt công cụ về lãi suất, kết hợp với các công cụ khác như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở Nhà nước sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay của NHTM bằng cách tạo ra các điều kiện thuận lợi hoặc hạn chế việc huy động vốn, cho vay của NHTM để phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế, ổn định lạm phát. Đồng thời, thông qua việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với lãi suất, Nhà nước có thể kiểm soát được tình hình hoạt động kinh doanh của NHTM, từ đó có những biện pháp xử lý kịp thời, đảm bảo an toàn của hệ thống ngân hàng. Hiện nay pháp luật có khá nhiều quy định liên quan đến lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM, nhưng các quy định này lại nằm rải rác trong nhiều văn bản khác nhau. Văn bản quy phạm có hiệu lực cao nhất hiện nay quy định vấn đề này chính là Luật các TCTD năm 2010, Luật NHNN năm 2010, Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015. Ngoài ra NHNN còn ban hành một số văn bản pháp quy có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến lãi suất 15
  22. như: Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng; Thông tư số 06/2014/TT-NHNN ngày 17/03/2014 quy định mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức cá nhân tại tổ chức tín dụng; Thông tư số 07/2014/TT-NHNN ngày 17/03/2014 quy định về lãi suất đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng; Thông tư số 08/2014/TT-NHNN ngày 17/03/2014 quy định lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế; Thông tư số 18/2015/TT-NHNN ngày 22/10/2015 quy định về tái cấp vốn trên cơ sở trái phiếu đặc biệt của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC); Quyết định số 2619/QĐ-NHNN ngày 05/11/2010 về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam; Quyết định số 2589/QĐ-NHNN ngày 17/12/2015 về mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định tại Thông tư số 06/2014/TT- NHNN ngày 17 tháng 3 năm 2014; Quyết định số 2173/QĐ-NHNN ngày 28/10/2014 về mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định tại Thông tư số 07/2014/TT-NHNN ngày 17 tháng 3 năm 2014; Quyết định số 496/QĐ-NHNN ngày 17/03/2014 về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN Việt Nam đối với các ngân hàng. Như vậy các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành quy định về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM là tương đối đầy đủ, cụ thể hóa được các nội dung cơ bản sau: - Quy định về lãi suất trong hoạt động huy động vốn và hoạt động cho vay của NHTM. Đây là quy định hết sức quan trọng để NHTM tiến hành các 16
  23. hoạt động huy động vốn và cho vay. Các NHTM đưa ra mức lãi suất kinh doanh và lãi suất điều hòa vốn nội bộ trong toàn hệ thống của mình trên cơ sở tuân thủ lãi suất chỉ đạo của NHTW. - Quy định về lãi suất trong hoạt động quản lý điều hành chính sách tiền tệ của Nhà nước. Xuất phát từ tầm quan trọng của lãi suất trong quản lý, điều hành chính sách tiền tệ của một quốc gia cần có chính sách lãi suất hợp lý, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế cũng như các mục tiêu của chính sách tiền tệ - Các quy định thanh tra, giám sát, tuân thủ quy định về lãi suất. Lãi suất không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHTM mà nó còn ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng trong quan hệ tín dụng với NHTM nói riêng và đối với hệ thống ngân hàng cũng như nền kinh tế nói chung. Do vậy Nhà nước cần có cơ chế kiểm tra giám sát tuân thủ quy định về lãi suất đồng thời cần có các chế tài, biện pháp xử lý kịp thời các hành vi vi phạm để đảm bảo sự ổn định của nền kinh tế, quyền lợi của các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng, đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng. Về cơ bản, Nhà nước đã thiết lập một hành lang pháp lý tương đối đầy đủ và thông thoáng tạo cơ sở cho các NHTM tiến hành hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Đồng thời pháp luật cũng hướng tới bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, người đi vay, đáp ứng được nhu cầu gửi tiền và vay vốn của họ. Tạo cơ sở pháp lý cho NHNN thực hiện chức năng điều hành chính sách tiền tệ, quản lý giám sát hoạt động ngân hàng nói chung và lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM nói riêng vốn là một trong những yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Kết luận chương 1 Chương 1 của Khóa luận đã tập trung nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về lãi suất và pháp luật về lãi suất trong hoạt động tín dụng của NHTM: làm rõ khái niệm lãi suất; phân loại lãi suất theo các tiêu chí khác nhau trong 17
  24. hoạt động tín dụng ngân hàng; một số yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất và vai trò của lãi suất trong hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung. Chương 1 cũng đi sâu làm rõ nguyên tắc điều chỉnh pháp luật đối với lãi suất trong hoạt động tín dụng của NHTM và nội dung pháp luật điều chỉnh đối với lãi suất trong hoạt động tín dụng của NHTM, qua đó làm tiền đề nghiên cứu những nội dung sau của Khóa luận. 18
  25. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 2.1 Quy định pháp luật về lãi suất đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 2.1.1 Quy định về lãi suất trong hoạt động huy động vốn và hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh trong đó “tiền tệ” là hàng hóa. Lãi suất với vai trò giá cả của tiền tệ luôn đóng vai trò trung tâm và là một nội dung quan trọng của hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Đối với hoạt động huy động vốn và cho vay của NHTM, vấn đề lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất luôn có tác động chi phối rất lớn, ảnh hưởng đến chính sách cho vay và huy động vốn của NHTM. Căn cứ vào từng loại chính sách của NHTW, NHTM đưa ra mức lãi suất kinh doanh và mức lãi suất điều hòa vốn nội bộ trong toàn hệ thống của mình trên cơ sở tuân thủ lãi suất chỉ đạo của NHTW. Lãi suất huy động và lãi suất cho vay là hai công cụ quan trọng mà các ngân hàng dùng để nâng cao thế mạnh tài chính của mình, góp phần vào ổn định và phát triển nền kinh tế. Thông qua việc can thiệp vào lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn của NHTM, NHTW có thể thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ, ổn định lạm phát tỷ giá. Quy định về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM phụ thuộc vào cơ chế lãi suất của NHTW. 2.1.1.1 Quy định về lãi suất trong hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại Sau khi luật NHNN và Luật Các tổ chức tín dụng có hiệu lực vào năm 1998, NHNN Việt Nam đã áp dụng cơ chế lãi suất trần để điều chỉnh lãi suất kinh doanh của các NHTM. Bước đầu, các NHTM đã có quyền tự chủ quyết định lãi suất huy động trên cơ sở cung – cầu vốn thị trường. Bên cạnh đó, 19
  26. NHNN cũng công bố mức lãi suất cơ bản để các NHTM tham khảo để ấn định lãi suất kinh doanh trên thị trường Năm 2006, thời điểm BLDS 2005 có hiệu lực với điều khoản quy định về lãi suất hợp đồng vay tài sản: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố với loại cho vay tương ứng”9. Quy định này trên thực tế đã gây ra những xáo trộn rất lớn đối với việc điều hành cơ chế lãi suất của NHNN, các NHTM hoang mang, hàng loạt các hợp đồng vay tiền liên quan đến các ngân hàng có khả năng bị xem là vô hiệu lực vì vi phạm điều khoản về lãi suất. Quy định về trần lãi suất cho vay trong BLDS không chỉ áp dụng cho các quan hệ dân sự thuần túy mà áp dụng cả cho các hợp đồng vay trong “kinh doanh, thương mại, lao động”. Điều đó có nghĩa, xét từ góc độ văn bản, lãi suất trần cho vay được áp dụng cho tất cả các hợp đồng vay; hợp đồng giữa tổ chức tín dụng và cá nhân hay doanh nghiệp cũng chịu sự chi phối của các quy định này. Không chỉ vậy, quy định về lãi suất đã gây ra những cách hiểu và cách tính toán mức lãi suất cho vay tối đa của BLDS năm 2005 khác nhau: giá trị 150% là của phần vượt quá so với lãi suất cơ bản (mức lãi suất thỏa thuận tối đa được phép = lãi suất cơ bản + lãi suất cơ bản x 150%) hay là tỷ lệ so sánh thuần túy giữa mức lãi suất thỏa thuận với lãi suất cơ bản trong giới hạn luật định là 150% (mức lãi suất thỏa thuận tối đa được phép = lãi suất cơ bản x 150%)10. Trong khi đó hợp đồng tín dụng cũng được coi là hợp đồng vay tài sản theo quy định của BLDS năm 200511. Bên cạnh đó với cách quy định như vậy, có thể hiểu rằng đây chỉ là điều cấm chứ không có chế tài: Bộ luật cấm thỏa thuận lãi vượt qua một mức nào đó chứ không nêu chế tài khi thỏa thuận vượt quá mức cho phép. Trong thực tế, hợp đồng không vô hiệu mà chỉ có điều khoản về lãi là không có giá 9 Khoản 1 Điều 476 BLDS năm 2005. 10 LS. Đỗ Hồng Thái (2006), “Hiểu như thế nào về quy định: Lãi suất cho vay do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản?”, Tạp chí Ngân hàng, số 13, tr.18-19, Hà Nội. 11 Nguyễn Phương Linh (2006), “Cần sửa đổi quy định về lãi suất vay trong Bộ luật Dân sự năm 2005”, Tạp chí Ngân hàng, số 23, tr.21-25, Hà Nội. 20
  27. trị pháp lý và cần phải tính lại lãi. Do không có chế tài dân sự cụ thể, nên việc tính lại lãi suất không thực sự thống nhất trong thực tiễn pháp lý12. Trước tình hình đó, NHNN không có câu trả lời cho hàng loạt các vướng mắc nảy sinh. Sau hàng loạt những yêu cầu và kiến nghị, hai năm sau, với ý kiến của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XII và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã xây dựng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản trình Thường trực Chính phủ xem xét, nhất trí tại văn bản số 3168/VPCP-KTTH ngày 16/5/2008 về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản của Văn phòng Chính phủ. Trên cơ sở đó, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng Đồng Việt Nam. Cụ thể, văn bản này quy định: “Các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động, lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN Việt Nam công bố để áp dụng trong từng thời kỳ. Định kỳ hàng tháng, NHNN Việt Nam công bố lãi suất cơ bản. Trong trường hợp cần thiết, NHNN Việt Nam công bố điều chỉnh kịp thời lãi suất cơ bản”13. Văn bản này về cơ bản thiết lập lại sự thống nhất về đường lối điều chỉnh lãi suất cơ bản của hệ thống pháp luật tài chính ngân hàng và BLDS năm 2005. Nhìn một cách tổng thể, sau một thời gian áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận, chúng ta lại quay về với cơ chế lãi suất trần, tuy được thể hiện bằng một phương thức hiện đại hơn. Tuy nhiên Quyết định số 16/2008 chỉ giải quyết tạm thời trước mắt những khó khăn trong giai đoạn lạm phát trong nước có dấu hiệu gia tăng. Vì thiếu tính định hướng chiến lược cho nên các quy định về lãi suất huy động và lãi suất cho vay không phù hợp với các đối tượng khách hàng và các TCTD có mức độ tín nhiệm khác nhau. Lãi suất trần 12 PGS.TS Đỗ Văn Đại (2010), “Lãi suất cho vay: Kinh nghiệm nước ngoài và hướng sửa đổi Bộ luật Dân sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 2-2010 13 Khoản 1 Điều 1 Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày16/5/2008 về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. 21
  28. không vượt quá 150% lãi suất cơ bản đã tạo ra sự bất bình đẳng khi NHNN chỉ quy định một mức lãi suất cơ bản với các thời hạn tín dụng khác nhau. Năm 2010, Luật NHNN và Luật các tổ chức tín dụng được ban hành đã có những thay đổi quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Trên cơ sở Luật các TCTD, NHNN đã có những điều chỉnh linh hoạt lãi suất huy động của NHTM bằng việc ban hành hàng loạt Thông tư cũng như Quyết định điều chỉnh mức lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam và mức lãi suất huy động vốn bằng đồng đô la Mỹ đối với các hình thức gửi tiền. Từ năm 2010 đến nay, NHNN đã ban hành cơ chế điều hành lãi suất thỏa thuận song song với cơ chế mức trần lãi suất huy động vốn. - Lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam Từ việc quy định mức lãi suất trần đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam dưới mọi hình thức, NHNN đã dần tạo sự chủ động linh hoạt cho các NHTM trên cơ sở cung- cầu vốn trên thị trường khi áp dụng mức lãi suất tối đa với các hình thức khác nhau. Hiện nay NHNN vẫn tiếp tục giảm mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng Việt Nam đối với hình thức gửi tiền không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 6 tháng. Đối với lãi suất tiền gửi bằng đồng Việt Nam có kỳ hạn lớn hơn 6 tháng, NHNN cho phép NHTM và khách hàng được thỏa thuận với nhau. Điều này chứng tỏ NHNN đã từng bước xóa bỏ cơ chế trần lãi suất huy động, hướng tới cơ chế lãi suất thỏa thuận để phù hợp với nhu cầu cung-cầu về vốn trên thị trường, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế và phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên việc gỡ bỏ cơ chế trần lãi suất vẫn được NHNN thực hiện một cách thận trọng để không gây ra những tác động xấu đến nền kinh tế. - Lãi suất đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ Để tiếp tục thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm thực hiện chủ trương chống đô la hóa của Chính phủ, chuyển từ quan hệ huy động – cho vay bằng 22
  29. ngoại tệ sang quan hệ mua – bán bằng ngoại tệ, NHNN cũng đã có những điều chỉnh về mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ theo hướng giảm dần. Hiện nay, NHNN quy định mức lãi suất tối đa bằng đô la Mỹ đối với các hình thức gửi tiền không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác của tổ chức (trừ tổ chức tín dụng) và cá nhân ở mức 0%/năm. 2.1.1.2 Quy định về lãi suất trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Lãi suất cho vay là một trong những yếu tố quan trọng trong hoạt động cho vay của NHTM. Việc quyết định lãi suất cho vay sẽ phải dựa trên các thông số về mức độ kỳ vọng sinh lời của NHTM, rủi ro tín dụng và tỷ lệ an toàn vốn. Từ cuối năm 2001, các NHTM thực hiện cho vay theo cơ chế lãi suất thỏa thuận theo Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/2/2002 và Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 30/11/2001. “1.Lãi suất cho vay được hoàn toàn thả nổi theo nguyên tắc tự do thỏa thuận giữa bên đi vay và NHTM. Mức lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 2.Mức lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc quá hạn do tổ chức tín dụng ấn định vầ thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng tín dụng nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay đã được ký kết hoặc điều chỉnh trong hợp đồng tín dụng.”14 Quy định lãi suất cho vay theo cơ chế điều hành lãi suất cơ bản Đến năm 2006, cũng giống như lãi suất huy động vốn, khi BLDS năm 2005 được ban hành, lãi suất cho vay đã bị giới hạn. Theo quy định tại Quyết 14 Điều 11 Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng (Ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) 23
  30. định số 16/2008/QĐ-NHNN thì lãi suất cho vay do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với các loại cho vay tương ứng. Tuy nhiên đối với khoản vay bằng đô la Mỹ mà doanh nghiệp đề nghị vay vốn ngân hàng để nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu để mua máy móc, thiết bị để sản xuất các mặt hàng phục vụ xuất khẩu, các ngân hàng vẫn có quyền thỏa thuận lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ đối với khách hàng dựa trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung-cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ ở trong nước do mức lãi suất cơ bản chỉ áp dụng với đồng Việt Nam. Liên quan đến lãi suất quá hạn, BLDS năm 2005 và Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định 1627 đã quy định không thống nhất. Theo quy định tại Khoản 5 Điều 474 của BLDS năm 2005 thì trường hợp không trả được hoặc trả không đầy đủ nợ đến hạn, khách hàng vay phải trả cho ngân hàng khoản tiền lãi bằng lãi trong hạn cộng với lãi quá hạn. Lãi trong hạn được tính trên dư nợ gốc thực tế và theo lãi suất cho vay trong hạn được quy định trong hợp đồng tín dụng. Lãi quá hạn được tính trên dư nợ gốc thực tế quá hạn và theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố với tương ứng với thời hạn cho vay tại thời điểm trả nợ. Trong khi đó Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627 không phân chia lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc thực tế quá hạn bao gồm lãi suất trong hạn và lãi suất quá hạn như quy định nói trên của BLDS mà cho phép khách hàng tự thỏa thuận nhưng không vượt quá lãi suất cho trong hạn. Điều này đã gây ra những cách hiểu khác nhau về cách tính lãi nợ quá hạn, dẫn đến những tranh chấp phát sinh giữa khách hàng và ngân hàng. Trên thực tế xét xử, Tòa án cũng không có được sự thống nhất về cách tính lãi nợ quá hạn này. Quy định về lãi suất cho vay theo cơ chế lãi suất thỏa thuận Thông tư số 07/2010/TT-NHNN quy định về cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận của TCTD đối với khách hàng được ban hành ngày 26/02/2010, theo đó, quy định TCTD cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận đối với khách hàng phù hợp với quy định của pháp luật 24
  31. trên cơ sở cung – cầu vốn thị trường, mức độ tín nhiệm khách hàng vay. Ngày 14/4/2010, NHNN ban hành Thông tư số 12/2010/TT-NHNN hướng dẫn TCTD cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận: “TCTD thực hiện cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận đối với khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của dự án, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển và đời sống có hiệu quả15”. Như vậy, câu hỏi đặt ra là liệu đối với các dự án, phương án “không có hiệu quả” hoặc không tính được hiệu quả thì lãi suất sẽ được tính như thế nào hay vẫn phải thực hiện chế độ trần lãi suất cho vay quy định tại Điều 476 BLDS năm 2005? Thêm vào đó, Thông tư số 12/2010/TT-NHNN cũng chưa giải thích tiêu chí cho việc đánh giá một dự án, phương án sản xuất, kinh doanh là có hiệu quả hay không có hiệu quả. Đây được coi là một trong những bất cập của pháp luật khi quy định về lãi suất cho vay theo cơ chế thỏa thuận. Luật các TCTD năm 2010 được thông qua ngày 16/6/2010 quy định TCTD và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD theo quy định của pháp luật . Tuy nhiên trong trường hợp ngân hàng có diễn biến bất thường, để đảm bảo an toàn hệ thống TCTD, NHNN có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của TCTD. Từ đó cho thấy pháp luật trao cho các TCTD và khách hàng vay vốn quyền thỏa thuận lãi suất trong hợp đồng tín dụng nhưng NHNN vẫn đóng vai trò kiểm soát hoạt động kinh doanh của NHTM. Ngày 24/11/2015, BLDS năm 2015 được ban hành trong đó có những thay đổi quan trọng trong quy định về lãi suất trong hợp đồng vay tài sản đã gây ra những tranh cãi xung quanh quy định về lãi suất trong Luật các TCTD khi quy định về lãi suất trong BLDS năm 2015 và Luật các TCTD năm 2010 có sự “vênh” nhau. 15 Điều 1 Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14 tháng 4 năm 2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận; 25
  32. Luật các tổ chức tín dụng đã đưa ra một điều khoản riêng quy định về phí và lãi suất trong hoạt động kinh doanh của tất cả các loại hình TCTD. Theo đó, TCTD và khách hàng được thỏa thuận về mức lãi suất trong hoạt động cho vay. Như vậy, trong điều kiện bình thường lãi suất trong hoạt động ngân hàng sẽ thực hiện theo cơ chế tự thỏa thuận. Tuy nhiên cụm từ “theo quy định của pháp luật” trong Khoản 2 Điều 91 Luật các TCTD đã gây ra những cách hiểu khác nhau khi so sánh với quy định mới về lãi suất tại BLDS năm 2015: “Các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác”16. Với quy định về lãi suất trong Luật các TCTD, đã đặt ra câu hỏi liệu lãi suất áp dụng trong hoạt động ngân hàng có chịu sự điều chỉnh của BLDS, trong đó có quy định về trần lãi suất cho vay? Trong khi đó, BLDS năm 2015 không quy định trực tiếp việc loại trừ áp dụng trần lãi suất cho vay đối với hoạt động ngân hàng mà chỉ loại trừ trong trường hợp “luật khác có liên quan có quy định khác” mà luật khác ở đây được hiểu là pháp luật chuyên ngành. Về mặt bản chất, hợp đồng vay tài sản cũng như hợp đồng tín dụng là một loại giao dịch dân sự. Do đó, việc điều chỉnh quan hệ này phải bảo đảm tuân thủ quy định trong BLDS, theo đó các bên trong hợp đồng vay có thỏa thuận về lãi suất nhưng không được vượt quá mức lãi suất giới hạn luật định. Việc quy định trần lãi suất giúp Nhà nước có thể điều tiết thị trường vay trong trường hợp cần có sự ổn định của kinh tế - xã hội, định hướng chuẩn mực ứng xử trong các quan hệ cho vay, thực hiện chính sách cấm hoặc hạn chế việc cho vay nặng lãi. Tuy nhiên để bảo đảm không biến lãi suất trần trở thành công cụ pháp lý để hành chính hóa quan hệ dân sự, bảo đảm tính linh hoạt phù hợp với các quan hệ vay tài sản đa dạng, có thể được sửa đổi, bổ sung kịp thời để đáp ứng 16 Khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 26
  33. yêu cầu của những biến động về kinh tế - xã hội17. Chính vì vậy, tại khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015 đã quy định mang tính linh hoạt theo hai cơ chế, đó là: i) Căn cứ vào tình hình thực tế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam điều chỉnh lãi suất theo đề nghị của Chính phủ; ii) Luật khác có liên quan quy định mức lãi suất riêng cho các quan hệ cho vay đặc thù. Như vậy, trong trường hợp luật có liên quan quy định khác về lãi suất thì sẽ áp dụng lãi suất đó cho quan hệ vay thuộc phạm vi điều chỉnh của luật khác có liên quan. Quy định này còn được hiểu không chỉ dành riêng cho quan hệ tín dụng của các NHTM mà còn có thể áp dụng cho loại vay đặc thù vay khác như vay chính sách xã hội, vay đầu tư phát triển, v.v nếu Nhà nước xét thấy cần điều chỉnh các quan hệ vay này bằng cơ chế lãi suất riêng. Điều đó có nghĩa là nếu Luật các TCTD năm 2010 có cơ chế lãi suất trần riêng cho các hợp đồng tín dụng thì các TCTD sẽ áp dụng theo quy định của Luật các TCTD năm 2010. Tuy nhiên, theo tinh thần quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật các TCTD hiện hành, thực tiễn cho thấy chưa thực sự áp dụng một cơ chế lãi suất riêng cho các hợp đồng tín dụng, mặc dù xét về mục đích chính sách pháp luật thì quy định này là mong muốn của nhà làm luật. Nhưng xét về mặt kỹ thuật lập pháp quy định này đã và đang dẫn đến những cách hiểu khác nhau, kể cả trong công tác xét xử của Tòa án và điều đó không có lợi cho các chủ thể trong hợp đồng tín dụng trước những rủi ro pháp lý có thể xảy ra trong thi hành pháp luật. Khoản 2 Điều 91 cho phép TCTD và khách hàng thỏa thuận về lãi suất trong hợp đồng tín dụng trong giới hạn “theo quy định của pháp luật”. Cụm từ này khiến các TCTD, khách hàng có quan hệ tín dụng với TCTD và các cơ quan chức năng thực thi pháp luật lúng túng không biết nên theo pháp luật tín dụng ngân hàng (không áp dụng trần lãi suất cho vay) hay 17 Phạm Thị Hồng Đào, “Lãi suất theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và kiến nghị”, Bộ Tư pháp, xem thêm tại 27
  34. theo pháp luật dân sự (áp dụng trần lãi suất cho vay). Vì “theo quy định của pháp luật” tức là vẫn có thể hiểu phải theo quy định của BLDS, trường hợp NHNN ban hành thông tư, quyết định có quy định riêng về lãi suất khác với quy định của BLDS thì đâu là quy định ưu tiên áp dụng? Hiện nay, các ngân hàng đều cho rằng, việc doanh nghiệp vay tiền ngân hàng là các khoản vay thương mại, chứ không phải là khoản vay dân sự. Thực tế, việc tính lãi suất cho vay thương mại này không do BLDS điều chỉnh mà do hướng dẫn ngành dọc của ngân hàng điều chỉnh18. Vì không có sự thống nhất và rõ ràng về nguồn luật điều chỉnh nên chưa có căn cứ để khẳng định, quy định trên có ảnh hưởng tới việc điều chỉnh lãi suất vay ngân hàng. Từ đó, rất nhiều tranh chấp liên quan đến vấn đề này, khi xét xử Tòa án đã căn cứ vào lãi suất quy định trong BLDS để giải quyết. Ngày 30/12/2016, NHNN Việt Nam đã ban hành Thông tư số 39/2016/TT-NHNN (Thông tư 39) quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng. Thông tư này có hiệu lực từ ngày 15/3/2017 đã giải quyết được những mâu thuẫn, tranh cãi xung quanh vấn đề lãi suất cho vay được quy định BLDS năm 2015 và quy định tại Điều 91 Luật các TCTD năm 2010 cũng như các bất cập nảy sinh trong quá trình áp dụng các Thông tư, Quyết định về lãi suất của NHNN trước đó như sau: Một là, TCTD và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay theo cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng, trừ trường hợp cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam thì lãi suất thỏa thuận không vượt quá mức lãi suất cho vay tối đa do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định trong từng thời kỳ nhằm đáp ứng một số nhu cầu vốn. Như vậy, quy định về trần lãi suất chỉ áp dụng đối với trường hợp cho 18 Đầu tư Chứng khoán (2016), “Luật Dân sự mới bỏ ngỏ lãi suất ngân hàng”, xem thêm tại 28
  35. vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam thuộc các lĩnh vực ưu tiên quy định tại Thông tư 39. Hai là, Thông tư 39 bổ sung quy định về nghĩa vụ trả lãi cho tiền lãi chậm trả, cụ thể: Trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi, thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do TCTD và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Ba là, Thông tư 39 cũng quy định trường hợp khoản nợ vay bị chuyển nợ quá hạn, thì khách hàng phải trả lãi trên phần dư nợ gốc bị quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả; lãi suất áp dụng do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn. Bốn là, thỏa thuận cho vay giữa TCTD và khách hàng phải có nội dung thỏa thuận về mức lãi suất cho vay và phương pháp tính lãi đối với khoản vay. Trường hợp mức lãi suất cho vay không quy đổi theo tỷ lệ %/năm và/hoặc không áp dụng phương pháp tính lãi theo số dư nợ cho vay thực tế, thời gian duy trì số dư nợ gốc thực tế đó, thì trong thỏa thuận cho vay phải có nội dung về mức lãi suất quy đổi theo tỷ lệ %/năm (1 năm là 365 ngày) tính theo số dư nợ cho vay thực tế và thời gian duy trì số dư nợ cho vay thực tế đó. Năm là, trường hợp áp dụng lãi suất cho vay điều chỉnh, tổ chức tín dụng và khách hàng phải thỏa thuận nguyên tắc và các yếu tố để xác định lãi suất điều chỉnh, thời điểm điều chỉnh lãi suất cho vay. Trường hợp căn cứ các yếu tố để xác định lãi suất điều chỉnh dẫn đến có nhiều mức lãi suất cho vay khác, thì tổ chức tín dụng áp dụng mức lãi suất cho vay thấp nhất. Như vậy hiện tại, lãi suất cho vay trong hoạt động kinh doanh của NHTM sẽ không chịu sự điều chỉnh của BLDS 2015 về trần lãi suất cho vay. Do đó các NHTM được cho vay theo lãi suất thỏa thuận không có trần lãi suất 29
  36. trừ quy định về trần lãi suất áp dụng với trường hợp cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam thuộc các lĩnh vực ưu tiên. 2.1.2 Quy định về lãi suất trong hoạt động điều hành chính sách tiền tệ NHNN không chỉ thực hiện quản lý lãi suất thông qua thị trường 1 mà còn thực hiện quản lý lãi suất thông qua thị trường 2 để điều hành chính sách tiền tệ. Lãi suất được NHTW dùng như là một công cụ thực thi chính sách tiền tệ, do đó NHTW áp dụng đối với các NHTM với tư cách là người cho vay cuối cùng thông qua các nghiệp vụ tái chiết khấu các giấy tờ có giá; nghiệp vụ tái cấp vốn. NHNN sử dụng lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu để điều tiết tiền tệ và tác động gián tiếp tới lãi suất kinh doanh của các NHTM. Do đó các loại lãi suất này là cơ sở để các NHTM áp dụng hình thành nên lãi suất giao dịch với các doanh nghiệp, khách hàng. Điều 12 Luật NHNN năm 2010 quy định: “1. NHNN công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi. 2. Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, NHNN quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác.” Đối với nước ta, cơ chế điều hành lãi suất có sự thay đổi qua nhiều giai đoạn. Trong giai đoạn từ năm 2008 trở lại đây, NHNN đã có những điều chỉnh về lãi suất trong quan hệ giữa NHNN và NHTM (lãi suất trên thị trường 2) cụ thể: Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, ngày 1/2/2009, thực hiện chủ trương của Chính phủ và căn cứ vào tình hình thực tế, NHNN đã từng bước cho phép các NHTM thực hiện lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay tiêu dùng và khoản vay trung hạn, dài hạn phục vụ sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đầu tư phát triển. Theo đó, NHNN đã ban hành Thông tư số 12/2010/TT-NHNN cho phép các TCTD thực hiện cho 30
  37. vay bằng đồng Việt Nam theo cơ chế lãi suất thỏa thuận. Đồng thời để hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ và giảm sức hấp dẫn của việc nắm giữ USD, NHNN cũng ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN quy định mức lãi suất tối đa tiền gửi bằng ngoại tệ đối với khách hàng là tổ chức kinh tế, mức lãi suất tiền gửi theo cơ chế thỏa thuận đối với khách hàng là cá nhân. Trong giai đoạn này, NHNN cũng công bố lãi suất cơ bản hàng tháng nhằm điều tiết lãi suất thị trường. Năm 2010, tình hình lãi suất trong nước diễn ra khá ổn định và các loại lãi suất chạy sát với mục tiêu của NHNN. Nhưng đến tháng 11/2010 thì tình hình bắt đầu nóng lên, thanh khoản các ngân hàng bắt đầu thiếu hụt khi lượng vốn huy động từ dân cư bị hạn chế do lãi suất huy động thấp hơn lạm phát kỳ vọng. Lãi suất liên ngân hàng không những vượt lên những đỉnh cao mới mà còn bung ra khỏi mô mục tiêu của NHNN. Thời gian này, lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam không còn phát huy tác dụng đối với chính sách tiền tệ vì lãi suất cơ bản do NHNN công bố có tính chất hành chính vì nó được làm cơ sở để xác định trần lãi suất cho vay nhưng NHNN không có cơ chế “bảo vệ hữu hiệu” cho mức lãi suất này nên trong thực tế khi thị trường khan hiếm vốn, các NHTM tìm cách lách trần lãi suất. Hơn nữa, lãi suất cơ bản dường như tách rời không có liên hệ với hai công cụ còn lại của NHNN là lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu khi NHNN sử dụng lãi suất tái cấp vốn làm lãi suất trần còn lãi suất tái chiết khấu làm lãi suất sàn để điều tiết lãi suất liên ngân hàng nằm trong biên độ trần sàn, từ đó gián tiếp tác động đến lãi suất cho vay của NHTM trong khi đó lãi suất cơ bản lại tác động trực tiếp tới dân chúng và doanh nghiệp. Tuy nhiên trên thực tế do việc xác định quy mô tổng hạn mức chiết khấu, tổng hạn mức tái cấp vốn chưa thật sự linh hoạt để một mặt bám sát với nhu cầu thị trường nhưng mặt khác vẫn đảm bảo được mục tiêu của mức cung tiền, nên lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu 31
  38. không hiếm lần trở nên lạc lõng, mất vai trò trần/sàn của mình khi nhiều lần lãi suất liên ngân hàng liên tục vượt trần, thậm chí gấp 2-3 lần lãi suất trần19. Trong năm 2011, khi lạm phát tăng cao, NHNN đã tăng dần các mức lãi suất chủ chốt. Theo đó, NHNN đã 5 lần tăng lãi suất tái cấp vốn (từ mức 9%/năm lên mức 15%/năm) và lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng (từ mức 9%/năm lên mức 16%/năm); lãi suất tái chiết khấu cũng 3 lần tăng (từ mức 7%/năm lên mức 13%/năm) để ngăn chặn lạm phát và ổn định tỷ giá. Bên cạnh đó, NHNN đã thực hiện cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp (quy định trần lãi suất huy động và lãi suất cho vay đối với đồng Việt Nam và ngoại tệ). Việc NHNN tăng mạnh các lãi suất chủ chốt trên thị trường liên ngân hàng cũng khiến nguồn cung tiền từ NHTW bị thắt lại mạnh mẽ, buộc các ngân hàng phải áp dụng biện pháp truyền thống tăng lãi suất huy động để hút vốn. Tuy nhiên, trần lãi suất huy động đã bị khống chế ở mức 14%/năm cũng khiến các NHTM quy mô nhỏ gặp bất lợi so với các ngân hàng lớn trong việc hút vốn. Trong khi các ngân hàng nhỏ đang phải chịu áp lực về tăng trưởng. Điều này đã buộc các ngân hàng này thường xuyên phải lách luật, châm ngòi cho các cuộc đua lãi suất. Cạnh tranh hút vốn của các ngân hàng tái diễn không chỉ khiến mặt bằng lãi suất huy động đang vượt “trần”, mà còn tạo áp lực lạm phát do chi phí đẩy đang mạnh lên cùng với việc hàng loạt các mặt hàng thiết yếu tăng giá. Khi lãi suất đầu vào bị đẩy lên cao, lãi suất đầu ra cũng bắt buộc tăng để ngân hàng đảm bảo lợi nhuận, do đó cản trở quá trình giảm lãi suất theo chủ trương của Chính phủ. Bởi lãi suất đầu ra sẽ bằng lãi suất danh nghĩa gồm chi phí thu hút vốn, cộng với phần lợi nhuận dự kiến của ngân hàng. Hơn nữa, áp lực tăng lãi suất này đang tăng gánh nặng chi phí lên nền kinh tế. Không ít doanh nghiệp sẽ không thể “kham” được mức lãi suất vay quá cao, khi đó dòng vốn sẽ không thể hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh, điều đó sẽ kìm hãm tăng trưởng. Hoặc nếu 19 TS. Hoàng Công Gia Khánh (2010), “Cơ chế điều hành lãi suất tại một số nước và Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, số 2-2010, Tr.41-42, Hà Nội. 32
  39. phải vay lãi suất cao, doanh nghiệp sẽ khó khăn trong việc cân đối lợi nhuận, thậm chí đứng trước nguy cơ thua lỗ, phá sản20. Như vậy vô tình rủi ro đẩy về phía ngân hàng khi nợ xấu tăng, nền kinh tế bị đe dọa về tăng trưởng bền vững. Trong bối cảnh các dòng tiền trong lưu thông đang bị siết lại để ngăn chặn lạm phát, nếu không quản lý được lãi suất đầu ra, áp lực lạm phát do chi phí đẩy lên nền kinh tế sẽ càng gia tăng. Từ năm 2012 trở lại đây với mục tiêu giảm và ổn định lãi suất thị trường để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, các mức lãi suất này đã được NHNN điều chỉnh giảm dần. NHNN từng bước cho phép các TCTD được chủ động quyết định mức lãi suất huy động đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên và sau đó là kỳ hạn từ 6 tháng trở lên. Đến thời điểm hiện tại, mức lãi suất này được áp dụng theo Quyết định số 496/QĐ – NHNN ngày 17/03/2014: - Lãi suất tái cấp vốn: 6,5%/năm. - Lãi suất tái chiết khấu: 4,5%/năm. - Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN Việt Nam đối với các ngân hàng: 7,5%/năm. Bên cạnh đó, ngày 9/9/2013, NHNN đã ban hành Thông tư số 20/2013/TT-NHNN quy định về tái cấp vốn trên cơ sở trái phiếu đặc biệt của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC). Hiện Thông tư này đã được thay thế bởi Thông tư số 18/2015/TT-NHNN ngày 22/10/2015. Trong đó, trái phiếu đặc biệt được phát hành dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử với mệnh giá có giá trị bằng giá mua của khoản nợ xấu. Trái phiếu đặc biệt được phát hành bằng đồng Việt Nam có thời hạn tối đa 5 năm và lãi suất bằng 0%; được sử dụng để vay tái cấp vốn 20 Quỳnh Chi (2011), “Chạy đua tăng lãi suất huy động: Lợi bất cập hại”, xem thêm tại 20110404035658369.chn 33
  40. của NHNN. Về mức lãi suất tái cấp vốn trái phiếu đặc biệt sẽ do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ. Lãi suất tái cấp vốn quá hạn bằng 150% lãi suất tái cấp vốn ghi trên hợp đông tín dụng giữa NHNN và TCTD. Theo Thông tư 18/2015/TT-NHNN, thì các NHTM có thể vay tái cấp vốn NHNN trên cơ sở trái phiếu đặc biệt VAMC, với giá trị lên đến 70% tổng mệnh giá trái phiếu đặc biệt, nhưng nếu là tổ chức tín dụng đang tái cơ cấu thì có thể được vay tái cấp vốn lên tới 100% mệnh giá trái phiếu đặc biệt. Hiện nay, lãi suất tái cấp vốn trên cơ sở trái phiếu đặc biệt VAMC hiện thấp hơn 2% mức lãi suất tái cấp vốn thông thường (theo Quyết định số 2358/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 4/12/2013), tức ở mức 4,5%. Như vậy, các NHTM khi cần vốn có thể cầm trái phiếu đặc biệt đến NHNN và vay tái cấp vốn với lãi suất khá ưu đãi. Với giá trị trái phiếu đặc biệt VAMC hơn 230 nghìn tỷ đồng (cập nhật đến 22/12/2016), thì nguồn tái cấp vốn qua kênh này là rất lớn. Từ năm 2015 trở lại đây, NHNN cũng đã tăng tái cấp vốn qua trái phiếu đặc biệt VAMC để tái tạo nguồn cũng như hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín dụng, từ đó góp phần ổn định mặt bằng lãi suất. Nếu lãi suất tái cấp vốn giảm xuống từ mức 6,5% như hiện nay, thì dĩ nhiên lãi suất tái cấp vốn qua trái phiếu đặc biệt VAMC cũng sẽ giảm theo, đảm bảo chênh lệch duy trì ở mức 2%, và khi đó các NHTM có thể tiếp cận nguồn vốn qua kênh này với chi phí rẻ hơn, do đó càng tạo điều kiện để không gây áp lực lên mặt bằng lãi suất huy động từ thị trường 2.1.3 Quy định về thanh tra, giám sát, tuân thủ quy định về lãi suất Để đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật, an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng và ổn định thị trường tiền tệ, Luật NHNN năm 2010 đã quy định một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của NHNN chính là kiểm tra, thanh tra, giám sát ngân hàng; xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng theo quy định của pháp luật. Nghị định số 26/2014/NĐ-CP ngày 7/4/2014 đã 34
  41. quy định chi tiết về tổ chức và hoạt động thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng. Theo quy định tại Điều 55 và Điều 57 Luật NHNN Việt Nam năm 2010 và trong các quy định của Nghị định số 26/2014/NĐ-CP thì việc thanh tra, giám sát tuân thủ quy định về lãi suất cũng là một nội dung của thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó, quy định về thanh tra, giám sát tuân thủ quy định về lãi suất cũng được quy định trong các thông tư của NHNN, cụ thể: Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng (Cục I, Cục II) và NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố chủ động theo dõi, nắm bắt thông tin và giám sát việc chấp hành lãi suất huy động của các TCTD thuộc chức năng quản lý trên địa bàn. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định về lãi suất huy động đối với các TCTD thuộc chức năng quản lý trên địa bàn; xử lý nghiêm theo quy định đối với những trường hợp vi phạm, quy trách nhiệm cụ thể đối với cá nhân, tổ chức liên quan (nếu có). Trường hợp phát hiện và áp dụng các hình thức xử lý TCTD có vi phạm liên quan đến việc chấp hành quy định về lãi suất, đề nghị đơn vị gửi báo cáo nhanh (kèm văn bản, quyết định xử lý) về NHNN (Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, Văn phòng NHNN) để công bố trên Website của NHNN. 2.2 Ưu điểm và hạn chế trong các quy định hiện hành về lãi suất đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 2.3.1 Hoạt động cho vay của các NHTM Việc ban hành cơ chế lãi suất cho vay thỏa thuận nhằm đảm bảo sự ổn định hoạt động của thị trường tiền tệ, đáp ứng tăng vốn cho các nhu cầu hợp lý, chính đáng của nền kinh tế. Cơ chế này cũng nhằm bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng và giảm mặt bằng lãi suất. Trước đây khi áp dụng cơ chế trần lãi suất với trần lãi suất là 12%, nhưng trên thực tế nhiều ngân hàng đã tìm mọi cách để áp dụng các mức phí 35
  42. để tăng lãi suất cho vay lên cao đến 14-15%. Điều này vô hình chung đã làm méo mó thị trường, gây ra nhiều tiêu cực trong quá trình giải quyết bài toán về vốn. Các quy định về lãi suất cho vay theo thỏa thuận được áp dụng đã có những hiệu ứng tích cực với hoạt động cho vay của NHTM cũng như nền kinh tế cụ thể: Một là, Cơ chế cho vay thỏa thuận hình thành mặt bằng lãi suất cho vay minh bạch, rõ ràng và phản ánh đúng tín hiệu thị trường, chống những tiêu cực như tự do khuyến mãi, tự do cộng phí chấm dứt tình trạng “phí ngầm” mà NHNN cũng khó kiểm soát. Hai là, tạo điều kiện cho các NHTM chủ động xác định mức lãi suất cho vay dựa trên các yếu tố: chi phí vốn đầu vào của ngân hàng, mức độ rủi ro của từng khách hàng, lĩnh vực ngành nghề kinh doanh của khách hàng và một số yếu tố liên quan khác. Sự phân hóa khách hàng cũng sẽ diễn ra rõ hơn: khách hàng có uy tín cao sẽ được hưởng lãi suất thấp, còn khách hàng kém uy tín sẽ phải chịu lãi suất cao với mức độ khác nhau rõ rệt. Ba là, tăng tính cạnh tranh giữa các NHTM, đòi hỏi các ngân hàng phải có những mức lãi suất hợp lý để thu hút khách hàng qua đó làm giảm lãi suất cho vay. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi mà cơ chế lãi suất thỏa thuận mang lại thì việc áp dụng cơ chế này đã gây ra không ít khó khăn bất cập trong thực tiễn thi hành: Một là, cơ chế lãi suất thỏa thuận sẽ làm tăng tính cạnh tranh của các NHTM khi không còn kiểm soát sẽ dẫn đến tình trạng các ngân hàng nhỏ khó có khả năng cho vay với lãi suất thấp để cạnh tranh với các ngân hàng lớn. Hai là, tăng trưởng tín dụng tăng lên do các NHTM đẩy mạnh cho vay nhằm tìm kiếm lợi nhuận hoặc tiến hành các hoạt động kinh doanh mạo hiểm do sức ép phải cho vay lại với lãi cao. Điều này cũng có nghĩa là sẽ tạo ra sự 36
  43. cạnh tranh thiếu lành mạnh, làm tăng tính rủi ro và nhạy cảm, sự mất ổn định của hệ thống ngân hàng và kinh tế vĩ mô trong nước. Ba là, đối với doanh nghiệp khi lãi suất cho vay được thỏa thuận giữa các ngân hàng với khách hàng, mặt bằng lãi suất sẽ bị đẩy lên. Bởi theo quy định pháp luật hiện hành chỉ áp trần lãi suất cho khoản vay ngắn hạn thuộc một số ngành lĩnh vực ưu tiên, còn các khoản vay khác được thả nổi sẽ đẩy mặt bằng lãi suất cho vay lên cao, nhất là trong bối cảnh tín dụng phục vụ cho tăng trưởng tín dụng vẫn đến từ khối ngân hàng. Do đó, chỉ có doanh nghiệp nào có khả năng, phương án, dự án sản xuất kinh doanh, trình độ có trình độ khoa học công nghệ tốt, có khả năng xử lý đầu ra thì lúc đó mới có khả năng chịu được áp lực chi phí vốn vay cao. Còn lại các doanh nghiệp khác, chịu tác động của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu sẽ gặp khó khăn lớn khi chi phí đầu vào liên tục tăng và việc tiêu thụ đầu ra chưa có nhiều chuyển biến. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán thì kênh huy động vốn chủ yếu vẫn dựa vào việc vay ngân hàng. Xu hướng lãi suất cho vay tăng cao sẽ khiến các doanh nghiệp khó tìm được nguồn vốn phù hợp để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Điều này sẽ làm ảnh hưởng tới sự tăng trưởng chung của cả nền kinh tế. Ngoài ra theo quy định về lãi suất thỏa thuận, các TCTD và khách hàng đươc quyền thỏa thuận với nhau về mức lãi suất cũng như phí tín dụng, do đó mỗi doanh nghiệp đi vay sẽ chịu một mức lãi suất khác nhau. Những doanh nghiệp có mối quan hệ thân thiết và sử dụng các hình thức vận động không minh bạch đối với các TCTD sẽ được vay với lãi suất thấp, trong khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ phải chịu chi phí đi vay cao gây ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Theo nghiên cứu của CIEM cho biết, có đến 75% tổng số doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam phải đi vay vốn từ nguồn phi chính thức với lãi suất có thể lên tới 5%-6%/tháng để tồn tại và 37
  44. phát triển21. Do hạn chế vốn, doanh nghiệp càng khó tìm được mặt bằng sản xuất và rơi vào vòng luẩn quẩn vì thiếu vốn không thể thuê, mua tài sản để sản xuất kinh doanh và tức là không có tài sản thế chấp để vay vốn. 2.3.2 Hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại Hoạt động huy động vốn của NHTM có vai trò rất quan trọng vì nó là tiền đề để thực hiện các hoạt động kinh doanh tiếp theo của NHTM. Nhưng với tình hình hình nền kinh tế hiện nay đang khó khăn. Thị trường tiền tệ và hệ thống ngân hàng Việt Nam luôn đối mặt với những thử thách từ nhiều phía. Trong hoàn cảnh đó, kinh doanh ngân hàng hết sức phức tạp. Khi thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận, trần lãi suất huy động vốn cũng dần được tháo gỡ. Điều này vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực đối với các NHTM khi NHNN đưa ra mức lãi suất huy động từng bước giảm. Lãi suất huy động luôn có mối quan hệ tỷ lệ thuận với lãi suất cho vay. Việc tăng hay giảm lãi suất huy động cũng làm tăng hay giảm lãi suất cho vay của các NHTM. Khi lãi suất huy động giảm thì lãi suất cho vay cũng giảm theo, điều này góp phần tháo gỡ những khó khăn cùng với doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng với mức lãi suất hợp lý để thực hiện các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh việc giảm lãi suất huy động nhưng NHNN lại cho phép áp dụng lãi suất thỏa thuận, sẽ tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng mạng lưới để huy động vốn với mức lãi suất phù hợp đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu về vốn của nền kinh tế. Khi các ngân hàng chủ động hơn trong xác định lãi suất và quy mô huy động với thời hạn hợp lý rủi ro thanh khoản sẽ giảm. Tuy nhiên, lãi suất huy động giảm sẽ ảnh hưởng đến nguồn vốn huy động từ nhân dân, bởi người dân thường có xu hướng đầu tư vào những gì mang lại lợi nhuận cao hơn. Khi lãi suất huy động thấp, người gửi tiền có thể rút tiền từ các NHTM để đầu tư vào các kênh khác mang lại lợi nhuận cao 21 Thảo Dân (2010), “Thả nổi lãi suất, doanh nghiệp chết chìm”, CafeLand, xem thêm tại 38
  45. hơn như đầu tư bất động sản, đầu tư chứng khoán. Điều này đã gây áp lực lớn cho hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Hơn nữa, việc chưa gỡ bỏ trần lãi suất huy động trong khi thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thỏa thuận đã làm xuất hiện những vấn đề phát sinh. Lãi suất đầu ra không có trần trong khi lãi suất đầu vào lại có trần thì lợi ích sẽ nghiêng về các NHTM, chứ không nghiêng về người gửi tiền, cũng không nghiêng về người đi vay. Không chỉ dừng lại ở đó, với chính sách lãi suất tiền gửi Đô la Mỹ của NHNN khi đưa về mức 0%/năm đã có những mặt trái nhất định. Thứ nhất, do tâm lý găm giữ ngoại tệ của người dân đã tăng lên, sẽ càng có ít người dân muốn bán USD nắm giữ thành tiền đồng để gửi vào hệ thống ngân hàng hưởng lãi, dù lãi suất tiền gửi bằng tiền đồng cao hơn nhiều so với lãi suất tiền gửi USD (đã xuống còn 0% từ cuối năm 2015), trong khi tỷ giá tiền đồng thì được trấn an là sẽ không có biến động mạnh nữa, nhất là kể từ khi NHNN đưa ra cơ chế tỷ giá trung tâm biến động hàng ngày. Thứ hai, nếu người dân có gửi USD vào hệ thống ngân hàng thì họ chỉ gửi không kỳ hạn, có nghĩa là họ có thể rút ra bất cứ lúc nào mà không bị ràng buộc bởi bất cứ điều kiện nào có hại cho họ. Từ hai điều trên có thể thấy rằng do tác động bất lợi gây ra bởi chính sách lãi suất tiền gửi USD 0% của NHNN nên hệ thống ngân hàng Việt Nam đã không nhận được một lượng USD cần thiết từ nguồn tiền gửi của dân cư (và cả doanh nghiệp) để đáp ứng nhu cầu cho vay hoặc kinh doanh trong nước. Quan trọng không kém, lượng tiền gửi USD của dân cư và doanh nghiệp trong nước nếu có thì đã bị rút ngắn thời hạn, hầu hết thành không kỳ hạn, thay vì có kỳ hạn như trước khi NHNN ra chính sách hạ lãi suất tiền gửi USD về 0%. Do không cố định được kỳ hạn của tiền gửi ngoại tệ, trong khi các tổ chức tín dụng vẫn có nhu cầu cấp tín dụng ngoại tệ vì nhu cầu vốn ngoại tệ của doanh nghiệp luôn tồn tại. Sự không khớp nhau giữa kỳ hạn đầu vào và đầu ra, đã khiến cho nhiều ngân hàng phải tìm cách lách luật vì trả lãi 0%/năm, ngân hàng khó huy động USD trong khi lãi suất vay USD lên tới 3%- 4%/năm. 39
  46. 2.3 Một số hành vi vi phạm quy định về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại và chế tài xử lý 2.3.1 Một số hành vi vi phạm quy định về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại Với cơ chế lãi suất thỏa thuận, các NHTM được tự do ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng trong khi đó trần lãi suất huy động vẫn còn được áp dụng. Điều đó đã dẫn đến các hành vi vượt trần lãi suất huy động của NHTM bởi các ngân hàng đang đứng trước nhiều áp lực huy động vốn để tăng trưởng tín dụng, xử lý nợ xấu Các ngân hàng có rất nhiều biện pháp, kỹ thuật “lách” trần lãi suất. Một số ngân hàng chi trả phần chênh lệch bằng cách cho khách hàng tham gia các chương trình khuyến mại như tri ân khách hàng, gửi tiết kiệm giờ vàng, gửi tiền trúng thưởng, mở sổ tiết kiệm tặng tặng thẻ ATM có tài khoản sẵn Có ngân hàng lại chi trả phần cộng thêm cho khách hàng bằng tiền mặt ngay khi mở sổ tiết kiệm Kể từ khi Luật NHNN và Luật các Tổ chức tín dụng được ban hành năm 2010. Hàng loạt các thông tư quy định về lãi suất huy động vốn được ban hành và thay đổi liên tục. Mặc dù Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 đã ghi rõ các TCTD được quyền ấn định lãi suất huy động, thoả thuận với khách hàng về lãi suất, phí cấp tín dụng nhưng đầu tháng 03/2011, NHNN lại ban hành Thông tư số 02/2011/TT-NHNN luật hóa trần lãi suất huy động ở mức 14%. Các ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động vốn, và để đối phó với mức trần lãi suất huy động do NHNN đưa ra, các ngân hàng này tăng lãi suất huy động không kỳ hạn và các kỳ hạn ngắn 1-2 tuần lên gần mức trần 14%. Nhiều ngân hàng đồng loạt giở các “chiêu” mà phổ biến nhất là nâng lãi suất tới 9% - 11%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn để hút vốn mặc dù đang áp dụng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn là 2,4%/năm - 3%/năm. Trong khi việc chạy đua lãi suất đối với tiền gửi không kỳ hạn khiến nhiều ngân hàng mất vốn chưa được giải quyết thì một loại sản phẩm khác là “tiền gửi có kỳ hạn” nhưng được “rút gốc linh hoạt” và “được hưởng lãi suất theo thời gian thực 40
  47. gửi” hay “tiết kiệm lãi suất thả nổi” bung ra như nấm, đang làm thị trường méo mó và phức tạp thêm22.Trong bối cảnh đó, NHNN đã ban hành Thông tư số 04/2011/TT-NHNN về việc áp dụng lãi suất không kỳ hạn thấp nhất đối với tiền gửi rút trước hạn. Tuy nhiên, thông tư này dường như cũng bị vô hiệu hoá với các cách lách khéo của các TCTD. Trong bối cạnh lạm phát tăng cao những năm 2010-2012, ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn về thanh khoản, hàng loạt các NHTM cũng đua nhau huy động vốn vượt trần lãi suất huy động. Mặc dù các mức lãi suất huy động đã được NHNN quy định cụ thể đối với từng loại kỳ hạn, nhưng các NHTM vẫn đi “cửa sau”, lách luật để vượt trần lãi suất bằng nhiều hình thức khác nhau. Ngoài việc khách hàng gửi càng nhiều tiền thì càng được mức lãi suất cao thậm chí còn cao hơn mức mà NHNN quy định, các NHTM còn thực hiện các chiến dịch khuyến mại rầm rộ khi khách hàng gửi tiền bằng việc bốc thăm trúng thưởng, tặng chuyến du lịch trọn gói, tặng quà tặng như xe ô tô, phiếu mua hàng, tặng vàng Đây là một cách lách luật của các NHTM, vì mức chi khuyến mại với lãi suất thực tế luôn vượtquá mức lãi suất đã quy định. Tùy vào giá trị từng khoản tiền gửi khác nhau mà khách hàng có thể mặc cả với ngân hàng để có được mức lãi suất kỳ vọng. Ngược lại, các ngân hàng, nhất là những ngân hàng quy mô nhỏ cũng không thể từ chối khách hàng và ngồi nhìn khách hàng mang tiền gửi ở nơi khác, nên đã sẵn sàng trả thêm mức chênh lệch ngoài lãi suất thực ghi trên sổ tiết kiệm. Có trường hợp thực tế, khách hàng gửi tiền với số tiền lớn, yêu cầu lãi suất cao mới gửi, NHTM không thể làm trái quy định mà cũng không thế mất khách hàng, đã thực hiện biện pháp là trên giấy tờ, sổ sách ghi lãi suất theo quy định của NHNN đã ban hành nhưng thực tế chi trả lãi suất lại cao hơn gấp nhiều lần. Một số vụ việc nghiêm trọng về các NHTM ở Việt Nam “xé rào” lãi suất huy động vốn điển hình trong thời gian qua: 22Vneconomy (2011), “Báo động lãi suất tiền gửi không kỳ hạn”, Thời báo Kinh tế Việt Nam xem thêm tại 41
  48. 1. Vụ việc Oceanbank vượt trần lãi suất nghiêm trọng đã đẩy nhiều người vi phạm pháp luật. Mặc dù NHNN đã ban hành Thông tư số 02 ngày 3/3/2011 quy định về trần lãi suất 14% thế nhưng Ngân hàng Oceanbank đã vượt trần lãi suất bằng việc chủ động chi lãi ngoài cho khách hàng bởi việc huy động đúng theo trần lãi suất là một việc làm rất khó khăn khi lạm phát lên cao đến 18-19% và nếu không làm thì sẽ dẫn đến đổ vỡ hệ thống23. Điểm đáng chú ý trong vụ án này là từ chủ trương và sự chỉ đạo trái với quy định pháp luật của Hà Văn Thắm, lúc đó là Chủ tịch HĐQT OceanBank, về việc chi trả lãi ngoài huy động vốn cho khách hàng đã khiến hàng trăm cán bộ của OceanBank vi phạm theo. Hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng trong việc cho vay, huy động tiền gửi, chi lãi suất vượt trần, chi lãi suất ngoài hợp đồng cho khách hàng đã gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đối với Oceanbank và các cổ đông, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chính sách tiền tệ của Nhà nước. 2. Ngân hàng HD Bank đã vượt trần lãi suất bằng việc chủ trương thưởng thêm lãi suất cho người giới thiệu khách hàng gửi tiết kiệm nên nhân viên giao dịch đã cộng thêm 1% ngoài lãi suất niêm yết 14% một năm cho người đi cùng. Tuy nhiên, mọi thỏa thuận chỉ diễn ra bằng miệng mà không có biên nhận hay văn bản chứng nhận,việc vượt trần lãi suất đã bị cơ quan chức năng phát hiện và bị xử lý theo quy định của pháp luật24. 3. Vụ việc vi phạm lãi suất ở ngân hàng Đông Á Tây Ninh: NHNN chi nhánh Tây Ninh đã miễn nhiệm chức danh Giám đốc DongA Bank chi nhánh Tây Ninh sau khi phát hiện chi nhánh này vi phạm vượt trần lãi suất huy động khi thực hiện giao dịch tiền gửi 1,5 tỷ đồng lãi suất 15,5%/năm, cao hơn mức 23 Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (2017), “Đại án OceanBank: Trần lãi suất đã đẩy nhiều người vi phạm pháp luật”, xem thêm tại nhieu-nguoi-vi-pham-phap-luat 24 VnExpress (2011), “Nghi án đồng nghiệp 'tố' HDBank vượt trần lãi suất”, xem thêm tại 2715549.html 42
  49. trần quy định của NHNN 1,5%/năm của khách hàng là Giám đốc chi nhánh một ngân hàng khác trên địa bàn25. Bên cạnh đó, cũng từ kết quả thanh tra của cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng (NHNN), Agribank đã quyết định kỷ luật nặng hàng loạt cán bộ ở các chị nhánh Ba Đình (Thanh Hóa) và Phòng giao dịch Tôn Đức Thắng (Chi nhánh Sài Gòn) vì vi phạm Chỉ thị 02. Báo cáo Kiểm toán nhà nước năm 2014 cũng từng cho biết những “ông lớn” NHTM cổ phần Nhà nước cũng từng vượt trần lãi suất năm 2012. Ngoài ra hiện nay, NHNN đang áp dụng mức lãi suất tối đa đối với các hình thức gửi tiền bằng USD tổ chức, cá nhân khi gửi tiền vào các TCTD ở mức 0%/năm đã ảnh hưởng đến việc huy động vốn bằng USD của các NHTM. Đặc biệt, bối cảnh hiện nay là các ngân hàng phải tiến tới không cho vay bằng USD mà chỉ bán USD thì việc huy động bằng USD với lãi suất 0%/năm chưa tạo thuận lợi để các ngân hàng bổ sung thêm nguồn vốn bằng USD. Một số ngân hàng đang lách trần lãi suất huy động USD bằng cách mời chào người gửi tiền rồi tạo điều kiện để người gửi thế chấp bằng tài khoản USD, vay một số lượng tiền Việt tương đương để mua trái phiếu doanh nghiệp của ngân hàng, lãi suất được trả tuy thấp nhưng vẫn cao hơn mức huy động USD 0%/năm theo quy định. Mọi thủ tục, giấy tờ đều được nhân viên ngân hàng tư vấn và hợp lý hóa giúp người gửi tiền. Theo quy định của pháp luật hiện hành, tài khoản tiền gửi USD được xem như một tài sản có giá trị được phép cầm cố, như tài sản bằng bất sộng sản. Nên ngân hàng dựa vào đó để cho vay tiền đồng, mua trái phiếu DN và trả lãi cho người gửi bằng tiền đồng thì không hề vi phạm, chỉ là lãi suất sẽ chỉ bằng một nửa, ít hơn nhiều so với huy động thông thường. Ngân hàng chỉ vi phạm nếu lách luật mà trả lãi bằng tiền USD, còn nếu không thì hoàn toàn bình thường. 25 Tuổi trẻ Online (2011), “Xử lý 3 chi nhánh ngân hàng huy động vượt trần lãi suất”, xem thêm tại suat/455949.html 43
  50. Luật sư Trương Thanh Đức - Chủ nhiệm Câu lạc bộ Pháp chế Ngân hàng (Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam) cho rằng với “chiêu thức” này, các NHTM cũng có thể “hợp lý hóa” mục tiêu chống "đô-la hóa" khi toàn bộ số tiền bằng USD được chuyển vào ngân hàng, chỉ vài trường hợp được vay bằng ngoại tệ còn lại trở thành tài sản đảm bảo có giá chứ không phải trôi nổi trên thị trường, nhằm vào mục đích đầu cơ, tích lũy26. 2.3.2 Chế tài xử lý Chế tài xử lý đối với các vi phạm về lãi suất huy động đa phần là chế tài hành chính. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 202/2004/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Trong Nghị định này, có phần xử phạt hành chính trong hoạt động huy động, cụ thể là nhận tiền gửi nhưng chỉ quy định phạt tiền TCTD phi ngân hàng tại Điều12 “Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với tổ chức tín dụng phi ngân hàng không thực hiện đúng quy định về nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật”, còn các TCTD cụ thể là NHTM thì không có đề cập về xử phạt nếu vi phạm. Khi Luật các TCTD năm 2010 ra đời và NHNN ban hành hàng loạt các Thông tư, Quyết định thay đổi lãi suất, Chính phủ ban hành Nghị định số 95/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 202/2004/NĐ-CP nhưng cũng không đề cập đến xử phạt đối với hành vi vi phạm trong hoạt động nhận tiền gửi của NHTM. Chỉ thị 02/2011 mà Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành đã đề cập đến biện pháp xử lí nếu như các NHTM vi phạm về các quy định lãi suất: Đình chỉ hoặc miễn nhiệm chức vụ của người quản lý, người điều hành của tổ chức tín dụng; Hạn chế mở rộng phạm vi, quy mô, địa bàn hoạt động của tổ chức tín dụng trongthời hạn 01 năm, kể từ ngày bị xử lý; Hạn chế hoặc tạm đình chỉ hoạt động huy động và cho vay của đơn vị vi phạm thuộc tổ chức tín dụng đó. Cụ thể như trường hợp 26 Bình Nam (2016), “Hạn chế lách trần lãi suất USD bằng cách bỏ trần”, Báo Hải quan Online, xem thêm tại 44
  51. NHNN đã xử phạt NHTM Cổ phần Phát triển Nhà Thành phố Hồ Chí Minh (HD Bank) về việc vượt trần lãi suất huy động. NHNN giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2012 đối với HD Bank không quá 10% và ngừng mở chi nhánh, phòng giao dịch, đặt máy ATM trong phạm vi toàn quốc trong thời hạn 01 năm kể từ ngày 20/11/2011. Với vụ việc của DongA Bank chi nhánh Tây Ninh, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh Tây Ninh có Quyết định số 119/QĐ- TNI ngày 14-9-2011 về việc xử lý vi phạm huy động vốn vượt trần lãi suất 14%/năm tại NHTM cổ phần Đông Á (DongA Bank) chi nhánh Tây Ninh. Quyết định này đã miễn nhiệm chức danh Giám đốc đối với ông Nguyễn Thái Hậu- Giám đốc DongA Bank chi nhánh Tây Ninh. Trong thời hạn 1 năm kể từ ngày 14-9-2011, DongA Bank không được mở chi nhánh, phòng giao dịch, đặt máy ATM trong phạm vi toàn quốc. Ngày 17/10/2014 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 96/2014/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng đã đề cập đến biện pháp xử lí NHTM vi phạm lãi suất huy động tiền gửi. Theo đó vi phạm quy định về lãi suất huy động vốn mức xử phạt cao nhất là 100 triệu đồng. Phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 100 triệu đồng đối với hành vi áp dụng mức lãi suất cao hơn mức lãi suất theo quy định của pháp luật. Đồng thời, nếu có hành vi không niêm yết công khai lãi suất huy động vốn và niêm yết công khai nhưng không rõ ràng gây nhầm lẫn cho khách hàng sẽ bị phạt tiền từ 10 - 20 triệu đồng. Phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 40 triệu đồng đối với hành vi áp dụng lãi suất huy động vốn, cao hơn mức đã niêm yết. Ngoài ra còn áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả như: “a) Buộc nộp vào ngân sách nhà nước số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm mức phí cung ứng dịch vụ quy định tại Điều này; b) Đề nghị hoặc yêu cầu cấp có thẩm quyền xem xét, áp dụng biện pháp đình chỉ từ 01 tháng đến 03 tháng hoặc miễn nhiệm chức danh quản trị, điều hành, kiểm soát; không cho đảm nhiệm chức vụ quản trị, điều hành, kiểm soát tại các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với cá 45
  52. nhân vi phạm và/hoặc cá nhân chịu trách nhiệm đối với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 3 Điều này. Yêu cầu tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cách chức và thực hiện các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật đối với cá nhân vi phạm thuộc thẩm quyền của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.”27 Ngoài ra, trong các văn bản mà Thống đốc NHNN ban hành (Công văn số 297/NHNN-TTGSNH ngày 19/1/2016 và Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 23/2/2016; các văn bản số 3254/NHNN-TTGSNH và 3255/NHNN-TTGSNH ngày 6/5/2016) về việc chấn chỉnh việc thực hiện quy định lãi suất huy động gần đây, Thống đốc NHNN yêu cầu: Các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nghiêm túc chấp hành các quy định hiện hành cũng như chỉ đạo của Thống đốc NHNN về lãi suất huy động, đặc biệt là huy động USD; nghiêm cấm việc thực hiện các biện pháp kỹ thuật để lách, vượt trần lãi suất huy động USD; nghiêm cấm cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ, chủ động phát hiện những vi phạm về mức lãi suất huy động; chỉ đạo chấn chỉnh và xử lý nghiêm người đứng đầu các chi nhánh, đơn vị của TCTD để xảy ra vi phạm, không chấp hành các quy định và chỉ đạo của NHNN. Đối với các TCTD vi phạm, người quản lý, điều hành sẽ bị đình chỉ, miễn nhiệm chức vụ trong vòng 3 năm28. Đồng thời, các TCTD chủ động phát hiện và báo cáo về NHNN các trường hợp cạnh tranh không lành mạnh vi phạm quy định trong huy động vốn của TCTD khác. NHNN không xem xét, chấp thuận đề nghị của TCTD về việc mở mới chi nhánh, phòng giao dịch, máy ATM, văn phòng đại diện, cung cấp dịch vụ mới hoặc triển khai nghiệp vụ kinh doanh mới; hạn chế, đình chỉ, tạm đình 27 Khoản 4 Điều 14 Nghị định số 96/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 17/10/2014 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. 28 Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 7/9/2011về Chấn chỉnh việc chấn chỉnh việc thực hiện quy định lãi suất huy động bằng đồng Việt Nam và Đô la Mỹ của TCTD và chi nhánh ngân hàng nước ngoài 46
  53. chỉ một hoặc một số hoạt động ngân hàng (nếu xét thấy cần thiết) đối với các TCTD để xảy ra tình trạng vi phạm các quy định về lãi suất huy động cho đến khi chấm dứt vi phạm. Bên cạnh việc xử lý hành chính, pháp luật còn quy định xử lý hình sự với một số đối tượng theo đúng quy định của pháp luật hình sự điển hình như vụ án Oceanbank. Tóm lại, lãi suất có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Trước tình hình khó khăn của nền kinh tế, nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận của các ngân hàng, cho nên những hành vi vi phạm quy định lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM là điều không thể tránh khỏi. Xuất phát từ những mục đích tăng trưởng tín dụng trong nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, các NHTM đã chạy đua trong việc vượt trần lãi suất để thu hút nguồn vốn tìm kiếm lợi nhuận cũng như giải quyết nhu cầu thanh khoản. NHNN với chức năng quản lý hoạt động của các NHTM trong cả nước, phải điều chỉnh các hoạt động, hành vi của NHTM đi đúng đường lối, chủ trương theo quy định của pháp luật, mang lại những tín hiệu tích cực cho hệ thống ngân hàng trước những cơ hội, thách thức của giai đoạn hội nhập. Không thể phủ nhận rằng, trong bối cảnh tỷ giá biến động khó lường, lãi suất có dấu hiệu tăng lên, NHNN đã rất nỗ lực để ổn định lãi suất, ghìm cương tỷ giá. Với chủ trương mạnh tay, nghiêm túc xử lý các trường hợp vi phạm quy định về lãi suất, NHNN đã ban hành hàng loạt các văn bản điều chỉnh cũng như các chế tài xử lý hành vi vi phạm. Các biện pháp xử lý đã mang tính răn đe “cứng rắn”, “quyết liệt” hơn để điều chỉnh lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Kết luận chương 2 Trên đây là những phân tích, đánh giá thực trạng quy định pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM hiện nay từ đó chỉ ra những ưu điểm và những hạn chế bất cập trong các quy định hiện hành về lãi suất 47
  54. trong hoạt động kinh doanh của NHTM ở Việt Nam; phân tích các hành vi vi phạm pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM và các chế tài xử lý. Để điều chỉnh lĩnh vực này, pháp luật Việt Nam đã có những quy định khá rõ ràng, là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc áp dụng các quy định về lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay của NHTM. Bên cạnh những ưu điểm, pháp luật còn những hạn chế trong các quy định về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Những hạn chế này đã làm ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn cũng như hoạt động cho vay của NHTM. Do vậy cần có những giải pháp để hoàn thiện pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM. 48
  55. CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại ở Việt Nam Trước hết, hoàn thiện pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM cần đảm bảo quyền quản lý, giám sát Nhà nước về lãi suất. Hiện nay, nhà nước đang dần chuyển sang cơ chế lãi suất thỏa thuận. với việc thực thi cơ chế này, lãi suất được thiết lập là sự thể hiện xác thực động thái của thị trường, đây cũng là xu hướng được các quốc gia có nền kinh tế thị trường ủng hộ. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của phương thức này cũng chính là một khi thiếu sự can thiệp của nhà nước, các yếu điểm của thị trường dễ dàng bị bộc lộ, các phần tử của nó không tự điều chỉnh được những nguy cơ tiềm tàng này, chính vì vậy rất dễ gây ra sự biến động đối với thị trường tài chính, có thể gây sụp đổ hệ thống. Tại những nước công nghiệp hàng đầu thế giới, có hàng mấy trăm năm kinh tế thị trường, trong khi thực hiện tự do hoá lãi suất, các nhà chức trách của đất nước vẫn có những can thiệp cần thiết khi xuất hiện những dấu hiệu bất thường trong biến động của lãi suất có thể gây hại cho hoạt động kinh doanh và đời sống của dân chúng. Có lẽ vì không quán triệt tư tưởng này nên chúng ta đã thất bại trong việc điều tiết chính sách tiền tệ trong giai đoạn từ những năm 2000 đến năm 2008, hiện tượng các ngân hàng đua nhau tăng lãi suất huy động vốn, đẩy vốn cho vay lên cao ngất ngưởng, các doanh nghiệp lao đao vì lãi suất, các ngân hàng buộc phải hi sinh lợi nhuận, bù lỗ để giữ khách, và lạm phát. Để nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật đối với lãi suất trong hoạt động của các NHTM khi thực hiện lãi suất theo cơ chế thị trường, điều đầu tiên là cần phải làm đó đảm bảo được sự quản lý giám sát của nhà nước về lãi suất. Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về lãi suất cần đảm bảo quyền tự do kinh doanh. Trong quá trình tự do hóa lãi suất, sự tăng hay giảm lãi suất huy động 49
  56. vốn và cho vay đã được xây dựng trên nguyên tắc “tín hiệu thị trường”. Điều đó có nghĩa là lãi suất sẽ dựa trên mức cung cầu về vốn. Cơ chế lãi suất thỏa thuận thể hiện tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Tuy nhiên vì mục tiêu thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, NHTW có thể can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng bởi các quyết định và chính sách của NHTW. Do đó việc hoàn thiện các quy định pháp luật về lãi suất cần phù hợp với sự phát triển của kinh tế - xã hội để tạo lập được một môi trường pháp lí thông thoáng, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các ngân hàng. Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM cần được thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất giữa các văn bản pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng. Đặc biệt pháp luật cần hoàn thiện theo hướng khắc phục những bất cập phát sinh về lãi suất phù hợp với thực tiễn. 3.2 Các kiến nghị cụ thể 3.2.1 Quy định nguyên tắc xác định lãi suất trong Luật NHNN và Luật các tổ chức tín dụng Luật NHNN với phạm vi điều chỉnh tổ chức và hoạt động của NHNN, trong đó có các nhiệm vụ, quyền hạn của NHNN trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Để đảm bảo thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ như điều hòa lưu thông tiền tệ, hỗ trợ nền kinh tế, Luật NHNN cần điều chỉnh theo hướng NHNN thống nhất quản lý lãi suất một cách ổn định mang tính định hướng, còn các lãi suất cụ thể phải do thị trường quyết định và hướng tới mục tiêu mà NHNN đề ra. Trong khi đó Luật các TCTD lại quy định về hoạt động của các TCTD trong đó có những quy định điều chỉnh lãi suất giữa TCTDvà khách hàng. Theo quy định hiện hành, Luật các TCTD đã để các bên tự do thỏa thuận lãi suất, điều này đã tạo ra được những tác động tích cực cũng như tiêu cực đến hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế như đã phân tích ở chương 2. Do 50
  57. vậy, để hạn chế các tiêu cực có thể xảy ra, các quy định về lãi suất trong Luật các tổ chức tín dụng cần đảm bảo lợi ích cân đối của các chủ thể đồng thời tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên. Lãi suất không chỉ là công cụ quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, tác động và phản ánh cung cầu vốn nội tệ, ngoại tệ trong nền kinh tế mà lãi suất cũng phản ánh mối quan hệ và lợi ích giữa ba bên: người gửi tiền, người vay vốn và NHTM29. Theo ông Phạm Huy Hùng, Chủ tịch Hội đồng quản trị VietinBank: “Mặc dù hệ thống ngân hàng có nhiều cố gắng để duy trì hoạt động của nền kinh tế nhưng trong điều kiện nền kinh tế vẫn còn nhiều bất ổn, xu hướng giảm lãi suất xuống là tất yếu nhưng có thể nói ngân hàng cũng có những cái khó, bởi người gửi tiền luôn mong muốn lãi suất cao trong khi người đi vay ngân hàng thì muốn lãi suất thấp. Một chính sách lãi suất được coi là hợp lý phải coi trọng lợi ích của cả 3 phía, người gửi tiền, người vay và phải giữ được ổn định cho cả hệ thống ngân hàng”30. Như vậy, quy định về lãi suất cần phải được tính toán một cách hợp lý, đảm bảo hài hòa lợi ích của tất cả các bên khi tham gia quan hệ tín dụng ngân hàng. Bên cạnh đó, quy định về lãi suất cần phải tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên. Lãi suất và quyền tự do kinh doanh có thể tác động theo chiều hướng bất lợi cho nhau nếu chúng được quy định một cách lạm dụng và không phù hợp. Do vậy cần tránh được những quyết định mang tính cưỡng chế, hành chính, cái mà có thể gây ra những tác động ngược chiều, gây ra những hiệu ứng không tốt cho việc thực thi chính sách tiền tệ và hạn chế quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Bởi lãi suất đươc ấn định đôi khi là những con số mang nặng tính chủ quan của nhà cầm quyền mà không thể hiện được bản chất thực của nó – nhu cầu thực của thị trường, nó có khả năng gây ra những xáo trộn bất thường đối với thị trường tài chính. 29 TS. Lê Văn Hải (2017), “Những thành công trong điều hành lãi suất và tỷ giá năm 2016 – dự báo năm 2017”, Tạp chí ngân hàng, số 3, tr.10-13, Hà Nội 30 Đỗ Phú Thọ (2012), “Lãi suất ở mức nào là hợp lý”, xem thêm tại 51
  58. Không chỉ thế, lãi suất ấn định còn làm ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh của ngân hàng khi các ngân hàng hầu như không có cơ hội quyết định giá cả của các sản phẩm mà mình cung cấp ra thị trường. Như vậy, pháp luật về lãi suất cần phải gắn liền với việc quy định về quyền tự do kinh doanh. Đây là yêu cầu đề ra mang tính khách quan trong quá trình hoàn thiện pháp luật ngân hàng. Để thực hiện yêu cầu này, nhà làm luật phải đánh giá được các biện pháp can thiệp vào lãi suất có ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh hay không, nếu có thì mức độ ảnh hưởng như thế nào. Đồng thời là xem xét tác động ngược trở lại của quyền tự do kinh doanh đối với lãi suất trên thị trường. 3.2.2 Quy định về giới hạn lãi suất tiền gửi Hiện nay, lãi suất huy động được NHNN quy định theo mức giảm dần và chỉ giữ mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam với tiền gửi không có kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn dưới 6 tháng. Đối với tiền gửi có thời hạn trên 6 tháng, tiền gửi trung hạn và dài hạn NHNN để cho NHTM và khách hàng tự thỏa thuận đồng thời NHNN cũng không quy định trần về lãi suất cho vay. Điều này đã tạo ra chênh lệch rất lớn giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Khi nhìn nhận nội dung kinh tế của lãi suất. Việc gửi tiền ngân hàng được xem là quyết định đầu tư. Lãi suất huy động được coi là chi phí cơ hội của việc nắm giữ tiền mặt hoặc đầu tư khác. Người gửi tiền đánh đổi cơ hội tiêu dùng họăc cơ hội đầu tư khác của mình để đem tiền gửi ngân hàng trong kỳ hạn xác định. Đổi lại, người gửi tiền được trả lãi vay ở mức tương xứng đủ để bù đắp cho những rủi ro có thể xảy ra trong thời hạn gửi tiền và có lãi thực31. Mỗi nhà đầu tư đều có kỳ vọng riêng về lãi suất thực dương, bởi vì cơ hội đầu tư giữa họ là khác nhau. Theo các chuyên gia của Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR), việc sớm dỡ bỏ trần lãi suất huy động là cần 31 VnEconomy, “Lãi suất huy động bao nhiêu là hợp lý?”, xem thêm tại chinh/lai-suat-huy-dong-bao-nhieu-la-hop-ly-2008101310302625.htm 52